Bai giảng Kiểm toán căn bản (Phần 2)

pdf 50 trang hapham 1620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bai giảng Kiểm toán căn bản (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_kiem_toan_can_ban_phan_2.pdf

Nội dung text: Bai giảng Kiểm toán căn bản (Phần 2)

  1. b> Lập kế hoạch chi tiết Là dự kiến chi tiết, tỉ mỉ những công việc để tiến hành kiểm toán từng bộ phận, từng khoản mục hoặc từng phần hành công việc của cuộc kiểm toán. Nội dung kế hoạch chi tiết gồm: + Những công việc cụ thể phải làm, các phương pháp kiểm toán phải thực hiện . + Trình tự thực hiện từng công việc, tổng quĩ thời gian cần thiết và thời hạn hoàn thành từng công việc. + Dự trù kinh phí cho kiểm toán. 51
  2. Trình tự hoạch định kế hoạch chi tiết: Xem xét các vấn đề có liên quan đến xây dựng kế hoach chi tiết Thu thập thêm thông tin cho kiểm toán Tham khảo ý Không kiến của chủ Xem xét các quyết định về kế hoạch có thích doanh nghiệp và đáng không người phụ trách kiểm toán Lựa chọn trình tự kiểm toán Không Đánh giá xem sự lựa chọn có thích đáng không Chủ DN và người phụ trách kiểm toán thông qua Soạn thảo chương trình kiểm toán cho từng khoản mục b> Soạn thảo chương trình kiểm toán Là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán sẽ tiến hành, gồm: các thủ tục kiểm toán sẽ thực hiệncho từng khoản mục trên báo cáo TC , thời gian ước tính phải hoàn thành cho mỗi thủ tục, phân công cụ thể từng Kiểm toán viên thực hiện từng thủ tục, dự kiến tài liệu, hồ sơ liên quan cần sử dụng. Tác dụng: giúp Kiểm toán viên thực hiện tốt công việc của mình, không bỏ sót thủ tục nào. Kiểm toán viên có thể phối hợp công việc hiệu quả, nhịp nhàng. 52
  3. VD: chương trình kiểm toán khoản phải trả: Công việc Kiểm Ngày tháng Hồ sơ kiểm Thời gian toán hoàn thành toánliên hoàn viên quan thành 1. Đánh giá kiểm soát nội bộ và sự chấp hành các thủ tục kiểm soát nội bộ 2. Đánh giá phạm vi kiểm toán dưạ vào 1 3. Phân tích số dư các khoản phải trả bằng cách so sánh với kỳ trước, bình quân ngành 4. Yêu cầu cung cấp bảng chi tiết số dư các khoản phải trả 5. Xem xét thủ tục xác nhận các khoản phải trả > 50 tr. 6. Tìm kiếm các khoản nợ phải trả không được ghi chép 9. Kết luận về sự đầy đủ, chính xác, hợp lý của sự trình bày số dư các khoản phải trả vào ngày 31/12 4.2 Thực hiện kiểm toán 4.2.1. Yêu cầu và nguyên tắc khi thực hiện kiểm toán - Kiểm toán viên phải tuân thủ chương trình kiểm toán đã xác định, không được tự ý thay đổi. - Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải thường xuyên ghi chép những phát giác, các nhận định về nghiệp vụ, về con số, sự kiện để nhằm tích lũy những bằng chứng, các nhận định cho đến kết luận cuối cùng của công việc kiểm toán. Kiểm toán viên cũng phải loại trừ những ấn tượng ban đầu, các nhận xét không chính xác về đối tượng kiểm toán. - Định kỳ kiểm toán viên phải tổng hợp kết quả kiểm toán để đánh giá mức độ thực hiện với so với kế hoạch kiểm toán. Thông thường người ta thường dùng bảng kê chênh lệch hoặc bảng kê xác minh. - Mọi sự điều chỉnh về trình tự, nội dung, phạm vi kiểm toán phải được sự thống nhất của người tổ trưởng công tác kiểm toán, người thư ký mới, người chủ hợp đồng kiểm toán (khách hàng). Mức độ pháp lý của việc điều chỉnh phải tương xứng với lệnh kiểm toán, hợp đồng kiểm toán. 53
  4. Bảng kê chênh lệch Chứng từ Số tiền Diễn giải Ghi chú S N Sổ sách Thực tế C. lệch Bảng kê xác minh Chứng từ Số tiền Đối tượng xác minh Xác minh Diễn giải S N Trực tiếp Gián tiếp ghi rõ Lưu ý: - Chế độ kế toán mà doanh nghiệp đang áp dụng và những thay đổi trong chế độ đó. - ảnh hưởng của các qui định mới về kế toán, kiểm toán. - Các vấn đề trọng tâm cần kiểm tra. - Các dữ liệu cần đặc biệt chú ý. - Độ tin cậy của Kiểm toán viên đối với hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. - Các tư liệu của Kiểm toán viên nội bộ, ý kiến của các chuyên gia có liên quan. 4.2.2. Nội dung thực hiện kiểm toán 4.2.2.1. Kiểm tra hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. a. Kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ: KTV phải hiểu biết về các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan. KTV cũng phải nghiên cứu, đánh giá sự hoạt động của những quy chế kiểm soát nội bộ mà KTV định dựa vào để xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các phương pháp kiểm toán khác. Nơi nào KTV xác định rằng có thể dựa vào các quy chế kiểm soát nội bộ nào đó thì thường ít phải thực hiện phương pháp kiểm toán cơ bản hơn nơi khác và vì vậy mà việc xác định nội dung, thời gian kiểm toán cũng có sự khác biệt. b. Kiểm tra hệ thống kế toán Để thu thập các bằng chứng về các cơ sở dẫn liệu của BCTC, làm cơ sở đưa ra các ý kiến nhận xét đối với từng thông tin tài chính (số liệu kế toán) nói riêng hay đối với BCTC nói chung, KTV phải thực hiện các khảo sát cơ bản đối với quá trình kế toán và số liệu kế toán có liên quan. Khảo sát cơ bản gồm 2 kỹ thuật là: - Phân tích, đánh giá tổng quát, - Kiểm tra chi tết về nghiệp vụ và về số dư tài khoản. Đánh giá hệ thống kế toán, KTV phải tập trung vào các nội dung sau: - Kiểm tra việc tổ chức công tác kế toán và tổ chức bộ máy kế toán; - Kiểm tra việc chấp hành chế độ chứng từ kế toán; - Kiểm tra việc tỏ chức hệ thống sổ kế toán và PP ghi sổ kế toán; - Kiểm tra việc tổ chức hệ thống TKKT; - Kiểm tra việc tổ chức và chấp hành BCTC. Tóm lại: Khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV mới chỉ đánh giá sơ bộ về hệ thống KSNB của đơn vị. Mặt khác, trong kỳ kế toán, tại đơn vị được kiểm toán cũng có thể có những thay 54
  5. đổi, biến động về kế toán (VD: sự thay đổi, bổ sung chính sách kế toán, ) và các quy chế KSNB. Vì vậy khi triển khai thực hiện kế hoạch kiểm toán, KTV phải tiến hành nghên cứu, đánh giá lại đối với hệ thống kế toán và các quy chế KSNB của đơn vị được kiểm toán để ngăn chặn, phát hiện và sửa chữa các gian lận, sai sót. VD: VACO Kiểm tra kế toán : doanh nghiệp có thực hiện đầy đủ chế độ kế toán không, việc bố trí nhân sự kế toán có phù hợp không, nhiệm vụ được giao có rõ ràng không, hệ thống kế toán của doanh nghiệp có đủ để kiểm toán không, kiểm tra việc lập, luân chuyển và sử dụng chứng từ, ghi chép, sử dụng, bảo quản sổ kế toán, việc lập và gửi báo cáo TC Kiểm tra HTKSNB: các văn bản qui định trong nội bộ doanh nghiệp như điều lệ, nội qui, qui chế, tổ chức bộ máy quản lý, trình độ, năng lực của người lao động, báo cáo, đơn, kết quả thanh tra, 4.2.2.2. Phân tích nội dung thông tin phục vụ việc lập báo cáo kiểm toán KTV phải phân tích, đánh giá các thông tin tài chính đã thu được, so sánh với các thông tin có thể so sánh được: thông tin của kỳ trước, thông tin kế hoạch .để đánh giá và rút ra kết luận phục vụ cho việc lập báo cáo kiểm toán. 4.3. Hoàn thành kiểm toán - Lập và phát hành báo cáo kiểm toán trong đó trình bày ý kiến của Kiểm toán viên về các báo cáo TC đã được kiểm toán. - Tổ chức lưu trữ hồ sơ kiểm toán. 4.3.1 Báo cáo kiểm toán Báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng của một cuộc kiểm toán, là văn bản do KTV phát hành để trình bày ý kiến của mình về thông tin tài chính được kiểm toán. 4.3.1.1.Các yếu tố cơ bản của một báo cáo kiểm toán Tùy theo mỗi quốc gia, mỗi hang kiểm toán có những quy định khác nhau về BCKT, song theo thông lệ kiểm toán quốc tế và đoạn chuẩn mực kiểm toán Việt nam (VSA 700) quy định: Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính gồm các yếu tố cơ bản và được trình bày theo thứ tự sau: a) Tên và địa chỉ công ty kiểm toán; b) Số hiệu báo cáo kiểm toán; c) Tiêu đề báo cáo kiểm toán; d) Người nhận báo cáo kiểm toán; e) Mở đầu của báo cáo kiểm toán: . Nêu đối tượng của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính; . Nêu trách nhiệm của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán và trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán; f) Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán: . Nêu chuẩn mực kiểm toán đ• áp dụng để thực hiện cuộc kiểm toán; . Nêu những công việc và thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên đ• thực hiện; g) ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về báo cáo tài chính đ• được kiểm toán. h) Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán; i) Chữ ký và đóng dấu. Báo cáo kiểm toán phải được trình bày nhất quán về hình thức và kết cấu để người đọc hiểu thống nhất và dễ nhận biết khi có tình huống bất thường xẩy ra. 55
  6. Tên và địa chỉ công ty kiểm toán: Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ tên, biểu tượng, địa chỉ giao dịch, số điện thoại, số fax và số hiệu liên lạc khác của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán phát hành báo cáo kiểm toán. Trường hợp có từ hai (02) công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một (01) cuộc kiểm toán thì phải ghi đủ các thông tin nêu trên của các công ty cùng ký báo cáo kiểm toán. Số hiệu báo cáo kiểm toán: Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ số hiệu phát hành báo cáo kiểm toán của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán theo từng năm (số đăng ký chính thức trong hệ thống văn bản của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán). Tiêu đề báo cáo kiểm toán: Báo cáo kiểm toán phải có tiêu đề rõ ràng và thích hợp để phân biệt với báo cáo do người khác lập. Báo cáo kiểm toán được phép sử dụng tiêu đề “Báo cáo kiểm toán”, hoặc “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính”, hoặc “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm của Công ty ”. Người nhận báo cáo kiểm toán: Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ người được nhận báo cáo kiểm toán phù hợp với Hợp đồng kiểm toán. Người nhận có thể là Hội đồng quản trị, Giám đốc, hoặc các cổ đông đơn vị được kiểm toán. Ví dụ: “Kính gửi: Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc Tổng công ty ”. Báo cáo kiểm toán phải được đính kèm với báo cáo tài chính được kiểm toán. Mở đầu của báo cáo kiểm toán Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ các báo cáo tài chính là đối tượng của cuộc kiểm toán cũng như ghi rõ ngày lập và phạm vi niên độ tài chính mà báo cáo tài chính đó phản ánh. Báo cáo kiểm toán phải khẳng định rõ ràng việc lập báo cáo tài chính là thuộc trách nhiệm của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán. Trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính dựa trên kết quả kiểm toán của mình. Báo cáo tài chính phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Việc lập báo cáo tài chính đòi hỏi Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị phải tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận; Phải lựa chọn các nguyên tắc và phương pháp kế toán cũng như phải đưa ra các ước tính kế toán và các xét đoán thích hợp. Ngược lại trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là kiểm tra các thông tin trên báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến về báo cáo này. Ví dụ đoạn mở đầu, như sau: “Chúng tôi (*) đã kiểm toán BCTC gồm: Bảng cân đối kế toán tại ngày 31/12/X, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính năm tài chính kết thúc ngày 31/12/X được lập ngày của Công ty ABC từ trang đến trang kèm theo. Việc lập và trình bày báo cáo tài chính này thuộc trách nhiệm của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) công ty. Trách nhiệm của chúng tôi là đưa ra ý kiến về các báo cáo này căn cứ trên kết quả kiểm toán của chúng tôi”. (*) Trường hợp có từ hai (02) công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một (01) cuộc kiểm toán thì phải ghi rõ: “Chúng tôi (Công ty kiểm toán A và Công ty kiểm toán B) đã kiểm toán ”. Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán 56
  7. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán bằng cách khẳng định rằng công việc kiểm toán đ• được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận. Điều đó chỉ khả năng của kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm toán xét thấy cần thiết tuỳ theo từng tình huống cụ thể. Thủ tục này là cần thiết để đảm bảo cho người đọc báo cáo kiểm toán hiểu rằng cuộc kiểm toán đ• được thực hiện theo các chuẩn mực và thông lệ được thừa nhận. Trong trường hợp riêng biệt, kiểm toán viên đ• thực hiện các thủ tục kiểm toán khác thì cần phải ghi rõ trong báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ là công việc kiểm toán đã được lập kế hoạch và thực hiện để có được sự đảm bảo hợp lý là các báo cáo tài chính không còn chứa đựng những sai sót trọng yếu. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ các công việc đã thực hiện, gồm: a- Các phương pháp kiểm toán (chọn mẫu, thử nghiệm cơ bản, ) những bằng chứng kiểm toán đủ để xác minh được thông tin trong báo cáo tài chính; b- Đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận); Các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng để lập báo cáo tài chính; c- Đánh giá các ước tính kế toán và xét đoán quan trọng đã được Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán thực hiện khi lập báo cáo tài chính; d- Đánh giá việc trình bày toàn bộ tình hình tài chính trên các báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ là cuộc kiểm toán đã cung cấp những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên. Ví dụ đoạn nêu phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán, như sau: “Chúng tôi đã thực hiện công việc kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (hoặc Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế được chấp nhận). Các chuẩn mực này yêu cầu công việc kiểm toán lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo hợp lý là các báo cáo tài chính không còn chứa đựng các sai sót trọng yếu. Chúng tôi đã thực hiện việc kiểm tra theo phương pháp chọn mẫu và áp dụng các thử nghiệm cần thiết, các bằng chứng xác minh những thông tin trong báo cáo tài chính; đánh giá việc tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, (hoặc được chấp nhận), các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng, các ước tính và xét đoán quan trọng của Giám đốc cũng như cách trình bày tổng quát các báo cáo tài chính. Chúng tôi cho rằng công việc kiểm toán của chúng tôi đ• đưa ra những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của chúng tôi.” Ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về các báo cáo tài chính trên phương diện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan. Khi đánh giá sự tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành để lập báo cáo tài chính, cần đánh giá trên phương diện tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc chuẩn mực kế toán quốc tế, hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán thông dụng khác được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận) bằng mẫu câu, như: "Báo cáo tài chính được lập phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc chuẩn mực kế toán Quốc tế, hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán thông dụng khác được Bộ Tài chính chấp nhận tại văn bản số ngày ) và phù hợp với các quy định pháp lý có liên quan". Ngoài ý kiến đã được nêu ra về tính trung thực và hợp lý mà báo cáo tài chính phản ánh và sự tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán, báo cáo kiểm toán còn phải đưa ra ý kiến về tính tuân thủ của báo cáo tài chính đối với các quy định pháp lý có liên quan khác. 57
  8. Ví dụ, đoạn nêu ý kiến được đưa ra như sau: “Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan”. Trường hợp không xác định được chuẩn mực kế toán được sử dụng để lập báo cáo tài chính là của quốc gia nào thì tên của nước - nơi doanh nghiệp khách hàng hoạt động phải được nêu ra trong báo cáo kiểm toán. Khi báo cáo tài chính được gửi ra ngoài Việt Nam thì trong báo cáo kiểm toán của mình, kiểm toán viên phải nhắc đến các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán Việt Nam đ• áp dụng, ví dụ bằng một đoạn như: “Phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành”; hoặc: “Phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán phổ biến được Việt Nam chấp nhận ”. Thông tin cụ thể này cho phép người sử dụng báo cáo tài chính biết chính xác các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán đ• được áp dụng để lập báo cáo tài chính. Trong trường hợp báo cáo tài chính được lập ra để sử dụng ở ngoài Việt Nam (Ví dụ: Báo cáo tài chính được dịch ra ngôn ngữ, hoặc chuyển đổi ra đơn vị tiền tệ khác bản báo cáo tài chính gốc) kiểm toán viên cần xác định xem có cần ghi rõ chuẩn mực kế toán quốc tế hoặc chuẩn mực và chế độ kế toán khác được chấp nhận đ• sử dụng để lập báo cáo tài chính trong phần thuyết minh báo cáo tài chính hay không? Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ ngày, tháng, năm kết thúc toàn bộ công việc kiểm toán. Điều này cho phép người sử dụng báo cáo tài chính biết rằng kiểm toán viên đ• xem xét đến các sự kiện (nếu có) ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, hoặc báo cáo kiểm toán cho đến tận ngày ký báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ địa điểm (Tỉnh, Thành phố) của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Ngày ký báo cáo kiểm toán không được ghi trước ngày Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị ký báo cáo tài chính. Trường hợp báo cáo tài chính được điều chỉnh và lập lại trong quá trình kiểm toán thì ngày ký báo cáo kiểm toán được phép ghi cùng ngày với ngày ký BCTC. Chữ ký và đóng dấu BCKT phải ký rõ tên của kiểm toán viên đã đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam - Người chịu trách nhiệm kiểm toán, và ký rõ tên của Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) của công ty (hoặc chi nhánh công ty) kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Dưới mỗi chữ ký nói trên phải ghi rõ họ và tên, số hiệu giấy đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam. Trên chữ ký của Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) phải đóng dấu của công ty (hoặc chi nhánh) chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Giữa các trang của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính đ• được kiểm toán phải đóng dấu giáp lai. Phù hợp với thông lệ chung của Quốc tế, Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) được phép ký bằng tên của Công ty kiểm toán thay cho chữ ký tên của mình, nhưng vẫn phải ghi rõ họ và tên, số hiệu giấy phép hành nghề kiểm toán ở Việt Nam của chính mình, và đóng dấu công ty kiểm toán. Trường hợp có từ hai (02) công ty kiểm toán cùng thực hiện một (01) cuộc kiểm toán thì báo cáo kiểm toán phải được ký bởi Giám đốc (hoặc người được uỷ quyền) của đủ các công ty kiểm toán theo đúng thủ tục. Trường hợp này kiểm toán viên chịu trách nhiệm kiểm toán không phải ký tên trên báo cáo kiểm toán. 58
  9. “Người được uỷ quyền” ký báo cáo kiểm toán có thể là Phó Giám đốc công ty, Giám đốc hoặc Phó Giám đốc chi nhánh và phải là người có giấy phép hành nghề kiểm toán ở Việt Nam và phải được Giám đốc công ty uỷ quyền bằng văn bản. Ngôn ngữ trình bày trên báo cáo kiểm toán là tiếng Việt Nam hoặc tiếng Việt Nam và một thứ tiếng nước ngoài khác đ• thoả thuận trên hợp đồng kiểm toán. Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính hợp nhất BCKT phải lập riêng cho từng cuộc kiểm toán báo cáo tài chính của từng đơn vị khách hàng (Công ty, đơn vị có tư cách pháp nhân độc lập) theo thoả thuận ghi trên hợp đồng kiểm toán. Trường hợp kiểm toán báo cáo tài chính hợp nhất của Tổng công ty, theo thoả thuận trên hợp đồng kiểm toán, nếu kiểm toán báo cáo tài chính cho từng công ty độc lập của Tổng công ty thì phải lập báo cáo kiểm toán cho từng công ty độc lập. Nếu kiểm toán báo cáo tài chính cho từng đơn vị phụ thuộc trong Tổng công ty, thì được phép lập báo cáo kiểm toán hoặc “Biên bản kiểm toán”. Biên bản kiểm toán này phải bao gồm các nội dung cơ bản của báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính hợp nhất của Tổng công ty phải được lập dựa trên kết quả kiểm toán được thực hiện đối với các đơn vị thành viên, và kết quả kiểm tra báo cáo tài chính hợp nhất. 4.3.1.2 Các loại báo cáo kiểm toán Trong báo cáo trình bày kết luận về các khía cạnh: - Các báo cáo TC lập ra có phù hợp với các thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực kế toán không. - Các thông tin TC có phù hợp với các qui định hiện hành và yêu cầu của luật pháp không. - Toàn cảnh các thông tin TC của doanh nghiệp có phù hợp với hiểu biết của Kiểm toán viên về hoạt động của doanh nghiệp không. - Các thông tin TC có thể hiện thoả đáng mọi vấn đề trọng yếu và có đảm bảo trung thực, hợp lý không. Có 4 loại báo cáo kiểm toán: a. Ý kiến chấp nhận toàn phần Báo cáo kiểm toán đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng BCTC phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp nhận). ý kiến chấp nhận toàn phần cũng có hàm ý rằng tất cả các thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá một cách đầy đủ và đã được đơn vị nêu rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Ví dụ: “Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đ• phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan”. Ý kiến chấp nhận toàn phần được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo tài chính được kiểm toán có những sai sót nhưng đã được kiểm toán viên phát hiện và đơn vị đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên; Báo cáo tài chính sau khi điều chỉnh đ• được kiểm toán viên chấp nhận. Trường hợp này thường dùng mẫu câu: “Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính sau khi đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên, đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu ”. Ý kiến chấp nhận toàn phần còn được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo kiểm toán có một đoạn nhận xét để làm sáng tỏ một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến báo cáo tài chính, 59
  10. nhưng không có ảnh hưởng đến báo cáo kiểm toán. Đoạn nhận xét này thường đặt sau đoạn đưa ra ý kiến nhằm giúp người đọc đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Ví dụ: “Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đ• phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan. Ở đây chúng tôi không phủ nhận ý kiến chấp nhận toàn phần như trên, mà chỉ muốn lưu ý người đọc báo cáo tài chính đến điểm X trong phần thuyết minh báo cáo tài chính: Công ty ABC đã đưa vào sử dụng công trình xây dựng có giá trị XX VNĐ, 3 tháng trước ngày kết thúc niên độ tài chính, nhưng chưa ghi tăng tài sản cố định, chưa tính khấu hao và cũng chưa lập dự phòng. Điều này cần được thuyết minh rõ ràng trong báo cáo tài chính ”. Ý kiến chấp nhận toàn phần không có nghĩa là báo cáo tài chính được kiểm toán là hoàn toàn đúng, mà có thể có sai sót nhưng sai sót đó là không trọng yếu b. Ý kiến chấp nhận từng phần Báo cáo kiểm toán đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị, nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuỳ thuộc (hoặc ngoại trừ) mà kiểm toán viên đã nêu ra trong báo cáo kiểm toán. Điều này cũng có nghĩa là nếu các yếu tố do kiểm toán viên nêu ra trong báo cáo kiểm toán có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính thì báo cáo tài chính đó đã không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu. Yếu tố tuỳ thuộc là yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn, như các vấn đề liên quan đến tính liên tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hoặc một khoản doanh thu có thể không được công nhận làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Yếu tố tuỳ thuộc do kiểm toán viên nêu ra thường liên quan đến các sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và kiểm toán viên. Việc đưa ra yếu tố tuỳ thuộc cho phép kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người đọc báo cáo tài chính phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện có thể xảy ra. Ý kiến chấp nhận từng phần có 2 dạng: • Ý kiến “Ngoại trừ” Khi KTV còn có những bất đồng với các nhà quản lý doanh nghiệp về từng bộ phận của báo cáo TC. Trong báo cáo kiểm toán phải nêu rõ những bất đồng. Gía trị của báo cáo kiểm toán không bị hạn chế vì người đọc sẽ tự đánh giá bất đồng có ảnh hưởng như thế nào đến BCTC của đơn vị VD: Chi nhánh của Công ty tại không kiểm kê tài sản ngày 31/12 với lý do mới đi vào hoạt động. Vì vậy chúng tôi không xác nhận được số tài sản hiện có tại chi nhánh. Theo ý kiến chúng tôi, ngoại trừ ảnh hưởng của vấn đề đã nêu, BCTC đã trình bày hợp lý hoạt động của Công ty • Ý kiến “Tùy thuộc vào” Khi KTV không thể chấp nhận toàn bộ được vì phạm vi kiểm toán bị hạn chế, số liệu mập mờ nhưng không đến mức ghi ý kiến ''từ bỏ''. Đây là BC chấp nhận có loại trừ. Số liệu mập mờ nẩy sinh trong tình trạng không chắc chắn như: vụ kiện chưa được toà án phán quyết, khả năng tiếp tục hoạt động không chắc chắn Ví dụ về báo cáo kiểm toán có yếu tố tuỳ thuộc: 60
  11. “Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan, tuỳ thuộc vào: - Khoản doanh thu XX VNĐ được chấp nhận; - Khoản chi XY VNĐ được Hội đồng quản trị thông qua”. Ý kiến chấp nhận từng phần được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, và những phần không chấp nhận do không đồng ý với Giám đốc hay do công việc kiểm toán bị giới hạn, là quan trọng nhưng không liên quan tới một số lượng lớn các khoản mục tới mức có thể dẫn đến “ý kiến từ chối, hoặc ý kiến không chấp nhận”. ý kiến chấp nhận từng phần còn được thể hiện bởi thuật ngữ “ngoại trừ” ảnh hưởng của các vấn đề không được chấp nhận, bằng mẫu câu: “ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) của những vấn đề nêu trên, báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu ” . c. Ý kiến từ chối (hoặc không thể đưa ra ý kiến) Ý kiến từ chối (hoặc không thể đưa ra ý kiến) được đưa ra trong trường hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về báo cáo tài chính, bằng mẫu câu: “Theo ý kiến của chúng tôi, vì các lý do nêu trên, chúng tôi không thể đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính ”. d. Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược) Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược) được đưa ra trong trường hợp các vấn đề không thống nhất với Giám đốc là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà kiểm toán viên cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của báo cáo tài chính, bằng mẫu câu: "Theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của những vấn đề nêu trên, báo cáo tài chính phản ánh không trung thực và không hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu ". Mỗi khi kiểm toán viên đưa ra ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần (ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến từ chối, hoặc ý kiến không chấp nhận) thì phải mô tả rõ ràng trong báo cáo kiểm toán tất cả những lý do chủ yếu dẫn đến ý kiến đó và định lượng, nếu được, những ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Thông thường, các thông tin này được ghi trong một đoạn riêng nằm trước đoạn đưa ra ý kiến của kiểm toán viên, và có thể tham chiếu đến một đoạn thuyết minh chi tiết hơn trong báo cáo tài chính (nếu có). Những tình huống dẫn đến ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần. Kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong trường hợp xảy ra một trong các tình huống có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, như : a- Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn; b- Không nhất trí với Giám đốc đơn vị được kiểm toán về việc lựa chọn và áp dụng chuẩn mực và chế độ kế toán, hoặc sự không phù hợp của các thông tin ghi trong báo cáo tài chính hoặc phần thuyết minh báo cáo tài chính. Các tình huống nêu trên có thể dẫn đến ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến từ chối, hoặc ý kiến không chấp nhận. Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn: 61
  12. Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn đôi khi là do khách hàng áp đặt (Ví dụ: Trường hợp các điều khoản của hợp đồng kiểm toán thoả thuận rằng kiểm toán viên không được thực hiện một số thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên cho là cần thiết). Tuy nhiên, nếu kiểm toán viên cho rằng giới hạn này lớn đến mức có thể dẫn đến ý kiến từ chối, thì hợp đồng bị giới hạn này sẽ không được coi là hợp đồng kiểm toán, trừ khi kiểm toán viên bị bắt buộc về mặt pháp luật. Trường hợp hợp đồng kiểm toán trái với nghĩa vụ pháp lý của mình thì kiểm toán viên nên từ chối. Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn có thể do hoàn cảnh thực tế (Ví dụ: Kế hoạch kiểm toán không cho phép kiểm toán viên tham gia kiểm kê hàng tồn kho). Giới hạn cũng có thể do các tài liệu kế toán không đầy đủ, hoặc là do kiểm toán viên không thể thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết. Trong trường hợp này, kiểm toán viên phải cố gắng thực hiện các thủ tục kiểm toán thay thế để có thể thu thập được đầy đủ bằng chứng thích hợp để làm cơ sở cho ý kiến chấp nhận toàn phần. Trường hợp do giới hạn phạm vi công việc kiểm toán dẫn đến ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến từ chối, thì báo cáo kiểm toán phải mô tả các giới hạn này và những điều chỉnh liên quan đến báo cáo tài chính, nếu không có sự giới hạn này. Ví dụ về phạm vi kiểm toán bị giới hạn: “ Chúng tôi đã không thể tham gia kiểm kê hàng tồn kho vào ngày 31/12/X, vì tại thời điểm đó chúng tôi chưa được bổ nhiệm làm kiểm toán. Với những tài liệu hiện có ở đơn vị, chúng tôi cũng không thể kiểm tra được tính đúng đắn của số lượng hàng tồn kho tại thời điểm trên bằng các thủ tục kiểm toán khác. Theo ý kiến chúng tôi, ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) đến báo cáo tài chính vì lý do nêu trên, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu ” Hoặc: “ Do những hạn chế từ phía đơn vị mà chúng tôi đ• không kiểm tra được toàn bộ doanh thu, cũng không nhận được đủ các bản xác nhận nợ phải thu từ khách hàng, và vì tính trọng yếu của các sự kiện này, chúng tôi từ chối đưa ra ý kiến của mình về báo cáo tài chính của đơn vị”. Không nhất trí với Giám đốc đơn vị được kiểm toán: Trường hợp kiểm toán viên không nhất trí với Giám đốc một số vấn đề, như việc lựa chọn và áp dụng chuẩn mực và chế độ kế toán, hay sự không phù hợp của các thông tin ghi trong báo cáo tài chính hoặc phần thuyết minh báo cáo tài chính. Nếu những điểm không nhất trí với Giám đốc là trọng yếu đối với báo cáo tài chính, thì kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến không chấp nhận. Ví dụ về không nhất trí với Giám đốc: “ Như đã nêu trong phần thuyết minh X của báo cáo tài chính, đơn vị đã không tính khấu hao TSCĐ, trong khi TSCĐ này đã thực sự được sử dụng trên 6 tháng, với mức khấu hao đáng lẽ phải tính là XXX VNĐ. Do vậy, chi phí kinh doanh đã bị thiếu và giá trị thuần của TSCĐ đã cao hơn thực tế với giá trị tương đương XXX VNĐ, làm cho lãi tăng giả tạo XXX VNĐ. Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ ảnh hưởng (nếu có) đến báo cáo tài chính của sự kiện trên, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu ” Hoặc: “ Ngày 25/3/X, Công ty đã cho vay một khoản tiền lớn là XXX VNĐ, đến ngày 31/12/X vẫn chưa làm xong thủ tục xác nhận nợ. Điều đó cần thiết phải ghi rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ ảnh hưởng (nếu có) của việc bỏ sót phần thuyết minh nói trên, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu ” Hoặc: 62
  13. “ Trong báo cáo tài chính, giá trị TSCĐ là XXX VNĐ; khoản vay công ty B là XY VNĐ đã không phản ánh trong sổ kế toán và không có chứng từ kế toán xác minh Theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của những vấn đề nói trên, báo cáo tài chính đã phản ánh không trung thực và không hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu ” Phụ lục Báo cáo kiểm toán: Trong một số trường hợp thấy cần thiết phải bổ sung thêm thông tin về kết quả của cuộc kiểm toán đ• được trình bày trên báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên được phép lập thêm phần Phụ lục đính kèm báo cáo kiểm toán, như: Phần trình bày rõ thêm các thông tin về yếu tố ngoại trừ, bảng tính số liệu chi tiết, các kiến nghị của kiểm toán viên, Thư quản lý: Để giúp đơn vị chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, kế toán, xây dựng và hoàn thiện hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên và công ty kiểm toán được phép lưu hành Thư quản lý. Thư quản lý mô tả về từng sự kiện cụ thể, gồm: Hiện trạng thực tế, khả năng rủi ro, kiến nghị của kiểm toán viên và ý kiến của người quản lý liên quan đến sự kiện đó. Thư quản lý được trình bày về một hay nhiều sự kiện do kiểm toán viên quyết định. Thư quản lý là một phần kết quả của cuộc kiểm toán, nhưng không nhất thiết phải đính kèm báo cáo kiểm toán. 4.3.2 Các sự kiện phát sinh sau ngày ký báo cáo kiểm toán Các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính: Là những sự kiện có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính đã phát sinh trong khoảng thời gian từ sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính để kiểm toán đến ngày ký báo báo cáo kiểm toán; và những sự kiện được phát hiện sau ngày ký báo cáo kiểm toán. Có 2 loại sự kiện xẩy ra sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính: a) Những sự kiện cung cấp thêm bằng chứng về các sự việc đã tồn tại vào ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính; b) Những sự kiện cung cấp dấu hiệu về các sự việc đã phát sinh tiếp sau ngày khoá sổ kế toán lập Báo cáo tài chính. Các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán gồm 3 giai đoạn: - Các sự kiện phát sinh đến ngày ký báo cáo kiểm toán; - Các sự kiện được phát hiện sau ngày ký báo cáo kiểm toán nhưng trước ngày công bố báo cáo tài chính; - Các sự kiện được phát hiện sau ngày công bố báo cáo tài chính. 4.3.2.1 Các sự kiện phát sinh đến ngày ký báo cáo kiểm toán Kiểm toán viên phải xây dựng và thực hiện các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để xác định tất cả những sự kiện đ• phát sinh đến ngày ký báo cáo kiểm toán xét thấy có thể ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, và phải yêu cầu đơn vị điều chỉnh hoặc thuyết minh trong báo cáo tài chính. Các thủ tục này bổ sung cho các thủ tục thông thường được áp dụng cho các sự kiện đặc biệt xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính nhằm thu thập thêm bằng chứng kiểm toán về số dư của các tài khoản vào thời điểm lập báo cáo tài chính. Tuy nhiên, kiểm toán viên không bắt buộc phải xem xét tất cả các vấn đề mà những thủ tục kiểm toán trong năm đ• đưa ra kết luận thoả đáng. Ví dụ: Kiểm tra nghiệp vụ bán hàng tồn kho và thanh toán công nợ sau ngày khoá sổ kế toán cung cấp bằng chứng về giá trị hàng tồn kho trong báo cáo tài chính. 63
  14. Thủ tục nhằm xác nhận sự kiện có thể dẫn đến yêu cầu đơn vị được kiểm toán phải điều chỉnh hoặc phải thuyết minh trong báo cáo tài chính cần phải được tiến hành vào thời điểm gần ngày ký báo cáo kiểm toán nhất và thường gồm những bước sau: • Xem xét lại các thủ tục do đơn vị quy định áp dụng nhằm bảo đảm mọi sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính đều được xác định. • Xem xét các biên bản Đại hội cổ đông, họp Hội đồng quản trị, họp Ban kiểm soát, họp Ban Giám đốc sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính, kể cả những vấn đề đã được thảo luận trong các cuộc họp này nhưng chưa được ghi trong biên bản. • Xem xét báo cáo tài chính kỳ gần nhất của đơn vị và kế hoạch tài chính cũng như các báo cáo quản lý khác của Giám đốc. • Yêu cầu đơn vị hoặc luật sư của đơn vị cung cấp thêm thông tin về các vụ kiện tụng, tranh chấp đã cung cấp trước đó, hoặc về các vụ kiện tụng, tranh chấp khác (nếu có). • Trao đổi với Giám đốc đơn vị để xác định những sự kiện đã xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính nhưng có khả năng ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, như: - Những số liệu tạm tính hoặc chưa được xác nhận; - Những cam kết, khoản vay hay bảo lãnh mới được ký kết; - Bán hay dự kiến bán tài sản; - Những cổ phiếu hay trái phiếu mới phát hành; - Thoả thuận sáp nhập hay giải thể đã được ký kết hay dự kiến; - Những tài sản bị trưng dụng hay bị phá huỷ do hoả hoạn hay lụt bão, - Những rủi ro hay sự kiện có thể xảy ra; - Những điều chỉnh kế toán bất thường đã thực hiện hay dự định thực hiện; - Những sự kiện đã xảy ra hoặc có khả năng xảy ra làm cho các chính sách kế toán đã được sử dụng để lập báo cáo tài chính không còn phù hợp. Ví dụ: Phát sinh sự kiện nợ phải thu khó đòi làm cho giả thiết về tính liên tục hoạt động kinh doanh không còn hiệu lực. Trường hợp một đơn vị cấp dưới (chi nhánh trong công ty, công ty trong tổng công ty) được công ty kiểm toán độc lập khác thực hiện kiểm toán thì kiểm toán viên kiểm toán đơn vị cấp trên phải xem xét các thủ tục mà kiểm toán viên của công ty kiểm toán kia đã áp dụng liên quan đến những sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính và xem có cần phải thông báo cho công ty kiểm toán kia về ngày dự kiến ký báo cáo kiểm toán của mình không. Khi nhận thấy các sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính thì kiểm toán viên phải xác định xem các sự kiện này có được tính toán đúng đắn và trình bày thích hợp trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán hay không. 4.3.2.2 Các sự kiện được phát hiện sau ngày ký báo cáo kiểm toán nhưng trước ngày công bố báo cáo tài chính Kiểm toán viên không bắt buộc phải áp dụng các thủ tục hoặc phải xem xét những vấn đề có liên quan đến báo cáo tài chính sau ngày ký báo cáo kiểm toán. Tuy nhiên, Giám đốc của đơn vị được kiểm toán có trách nhiệm thông báo cho kiểm toán viên hoặc công ty kiểm toán biết về các sự kiện đã xảy ra trong khoảng thời gian từ ngày ký báo cáo kiểm toán đến ngày công bố báo cáo tài chính có thể ảnh hưởng đến báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Trường hợp kiểm toán viên biết được có sự kiện có khả năng ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính phát sinh sau ngày ký báo cáo kiểm toán nhưng trước ngày công bố báo cáo tài chính, thì kiểm toán viên phải cân nhắc xem có nên sửa lại báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán hay không và phải thảo luận vấn đề này với Giám đốc của đơn vị được kiểm toán để có những biện pháp phù hợp trong từng trường hợp cụ thể. Trường hợp Kiểm toán viên yêu cầu và Giám đốc đơn vị được kiểm toán chấp nhận sửa đổi báo cáo tài chính thì kiểm toán viên sẽ thực hiện những thủ tục cần thiết, phù hợp với tình hình thực tế và sẽ cung cấp cho đơn vị được kiểm toán một báo cáo kiểm toán mới dựa trên báo cáo tài 64
  15. chính đã được sửa đổi. Báo cáo kiểm toán mới này phải được ký cùng ngày, tháng hoặc ngay sau ngày, tháng ký báo cáo tài chính đã sửa đổi. Trường hợp này kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục kiểm toán quy định cho đến ngày ký báo cáo kiểm toán đã sửa đổi. Trường hợp Kiểm toán viên yêu cầu nhưng Giám đốc đơn vị được kiểm toán không chấp nhận sửa đổi báo cáo tài chính, và báo cáo kiểm toán chưa được gửi đến đơn vị được kiểm toán thì kiểm toán viên và công ty kiểm toán sẽ lập lại báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến không chấp nhận. Trường hợp báo cáo kiểm toán đã được gửi đến đơn vị được kiểm toán mới phát hiện có sự kiện ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, thì kiểm toán viên phải yêu cầu người đứng đầu đơn vị được kiểm toán không công bố báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán cho bên thứ ba. Nếu đơn vị vẫn quyết định công bố các báo cáo này, thì kiểm toán viên phải áp dụng những biện pháp thích hợp để ngăn chặn các bên thứ ba sử dụng báo cáo kiểm toán của mình. Các biện pháp ngăn chặn được thực hiện tùy thuộc vào quyền hạn và nghĩa vụ pháp lý của kiểm toán viên cũng như những khuyến nghị của luật sư của kiểm toán viên. 4.3.2.3.Các sự kiện được phát hiện sau ngày công bố báo cáo tài chính Sau ngày công bố báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên không bắt buộc phải xem xét, kiểm tra bất cứ số liệu hay sự kiện nào có liên quan đến báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Sau ngày công bố báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán nếu kiểm toán viên nhận thấy vẫn còn sự kiện xẩy ra đến ngày ký báo cáo kiểm toán cần phải sửa đổi báo cáo kiểm toán, thì kiểm toán viên phải cân nhắc xem có nên sửa lại báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán hay không; phải thảo luận vấn đề này với Giám đốc đơn vị được kiểm toán và có những biện pháp thích hợp tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. Trường hợp Giám đốc đơn vị được kiểm toán chấp nhận sửa đổi báo cáo tài chính thì kiểm toán viên phải thực hiện những thủ tục cần thiết, phù hợp và phải kiểm tra các biện pháp mà đơn vị được kiểm toán áp dụng nhằm bảo đảm vấn đề này đã được thông báo đến các bên nhận báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán đã công bố, đồng thời kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải công bố một báo cáo kiểm toán mới căn cứ trên báo cáo tài chính đã sửa đổi. Trong báo cáo kiểm toán mới phải có đoạn giải thích nguyên nhân phải sửa đổi báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán đã được công bố. Báo cáo kiểm toán mới này được ký cùng ngày, tháng hoặc ngay sau ngày, tháng ký báo cáo tài chính đã sửa đổi. Trường hợp này kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục kiểm toán cho đến ngày ký báo cáo kiểm toán đã sửa đổi. Trường hợp Giám đốc đơn vị được kiểm toán không thông báo đến các bên đã nhận được báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán đã công bố trước đó và cũng không sửa đổi báo cáo tài chính theo yêu cầu của kiểm toán viên thì kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải thông báo cho Giám đốc đơn vị được kiểm toán biết về những biện pháp mà kiểm toán viên sẽ áp dụng để ngăn chặn việc các bên thứ ba sử dụng báo cáo kiểm toán. Các biện pháp ngăn chặn được thực hiện tùy thuộc vào quyền hạn và nghĩa vụ pháp lý của kiểm toán viên cũng như khuyến nghị của luật sư của kiểm toán viên. Trường hợp báo cáo tài chính của năm tài chính tiếp theo đang được công ty kiểm toán tiếp tục kiểm toán và sắp được công bố thì có thể không cần phải sửa đổi báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán cho năm tài chính trước với điều kiện là phải trình bày rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính của năm tài chính tiếp theo. Trường hợp đơn vị được kiểm toán phát hành chứng khoán Trường hợp đơn vị được kiểm toán phát hành chứng khoán trên thị trường thì kiểm toán viên phải xem xét đến các quy định pháp lý liên quan đến việc phát hành chứng khoán. Ví dụ: Kiểm toán viên có thể phải thực hiện những thủ tục kiểm toán bổ sung khác cho đến thời điểm đơn vị được kiểm toán niêm yết thông tin về phát hành chứng khoán. Những thủ tục này thường gồm 65
  16. các biện pháp được quy định đến thời điểm niêm yết thông tin và xem xét tài liệu về các thông tin niêm yết để đảm bảo các thông tin niêm yết nhất quán với các thông tin tài chính mà kiểm toán viên đã xác nhận./. 4.3.3. Hồ sơ kiểm toán Là những dẫn chứng bằng tài liệu về quá trình làm việc của Kiểm toán viên, về các bằng chứng thu thập được để hỗ trợ cho quá trình kiểm toán và làm cơ sở cho ý kiến của Kiểm toán viên trong báo cáo kiểm toán. Mục đích: chứng minh công việc kiểm toánđã được tiến hành phù hợp với các nguyên tắc cơ bản, các chuẩn mực kiểm toán. 4.3.3.1. Ghi chép kiểm toán Kiểm toán viên phải ghi chép những vấn đề quan trọng cần nghiên cứu, xét đoán, kết luận để lưu giữ trong hồ sơ kiểm toán. Tác dụng: Trợ giúp lập kế hoạch và thực hiện hợp đồng kiểm toán. Giúp giám sát, kiểm tra công việc kiểm toán. Cung cấp bằng chứng cho quá trình kiểm toán, chứng minh ý kiến của Kiểm toán viên. Là tài liệu nghiên cứu cho các Kiểm toán viên khác, là căn cứ xem xét bản chất kinh doanh của khách hàng, HTKSNB thay đổi qua các năm. 4.3.3.2 .Các loại hồ sơ kiểm toán Hồ sơ kiểm toán: Là các tài liệu do kiểm toán viên lập, thu thập, phân loại, sử dụng và lưu trữ. Tài liệu trong hồ sơ kiểm toán được thể hiện trên giấy, trên phim, ảnh, trên phương tiện tin học hay bất kỳ phương tiện lưu trữ nào khác theo qui định của pháp luật hiện hành. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải lập hồ sơ kiểm toán đầy đủ và chi tiết sao cho kiểm toán viên khác hoặc người có trách nhiệm kiểm tra (soát xét) đọc sẽ hiểu được toàn bộ về cuộc kiểm toán. Kiểm toán viên phải ghi chép và lưu giữ trong hồ sơ kiểm toán của mình tất cả các tài liệu và thông tin liên quan đến: a- Kế hoạch kiểm toán; b- Việc thực hiện cuộc kiểm toán: Nội dung, chương trình và phạm vi của các thủ tục đ• được thực hiện; c- Kết quả của các thủ tục đã thực hiện; d- Những kết luận mà kiểm toán viên rút ra từ những bằng chứng kiểm toán thu thập được. Hồ sơ kiểm toán phải ghi lại tất cả những suy luận của kiểm toán viên về những vấn đề cần xét đoán chuyên môn và các kết luận liên quan. Đối với những vấn đề khó xử lý về nguyên tắc hay khó xét đoán chuyên môn, ngoài việc đưa ra kết luận, kiểm toán viên còn phải lưu giữ những thông tin có thực, cần thiết đ• thu thập được. Hồ sơ kiểm toán phải lưu giữ kết quả kiểm tra, soát xét chất lượng kiểm toán của từng cấp có thẩm quyền theo qui định của công ty kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán không thể và không phải thu thập tất cả mọi tài liệu, thông tin liên quan đến cuộc kiểm toán. Phạm vi và nội dung mỗi hồ sơ kiểm toán được lập tuỳ thuộc vào sự đánh giá của kiểm toán viên. Hồ sơ kiểm toán phải đảm bảo đầy đủ cơ sở cho kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét của mình và đảm bảo cho kiểm toán viên khác không tham gia vào cuộc kiểm toán và người kiểm tra, soát xét hiểu được công việc kiểm toán và cơ sở ý kiến của kiểm toán viên. Kiểm toán viên khác chỉ thấu hiểu chi tiết cuộc kiểm toán sau khi trao đổi với kiểm toán viên lập hồ sơ kiểm toán đó. 66
  17. Hồ sơ kiểm toán được lập theo mẫu biểu và qui trình kiểm toán do công ty kiểm toán quy định. Kiểm toán viên được phép sử dụng các mẫu biểu, giấy tờ làm việc, các bảng phân tích và các tài liệu khác của khách hàng, nhưng phải bảo đảm rằng các tài liệu đã được lập một cách đúng đắn. Hồ sơ kiểm toán được lập và sắp xếp phù hợp với từng khách hàng và cho từng hợp đồng kiểm toán tuỳ theo điều kiện và yêu cầu của kiểm toán viên và công ty kiểm toán. Việc sử dụng các tài liệu theo mẫu quy định (bản câu hỏi, mẫu thư, cấu trúc hồ sơ mẫu, ) giúp kiểm toán viên nâng cao hiệu quả trong việc lập và kiểm tra hồ sơ, tạo điều kiện cho việc phân công công việc và kiểm tra chất lượng kiểm toán. Mỗi hồ sơ kiểm toán được lập và lưu trữ thành hai (2) loại: . Hồ sơ kiểm toán chung; . Hồ sơ kiểm toán năm. a. Hồ sơ kiểm toán chung Hồ sơ kiểm toán chung: Là hồ sơ kiểm toán chứa đựng các thông tin chung về khách hàng liên quan tới hai hay nhiều cuộc kiểm toán trong nhiều năm tài chính của một khách hàng. Hồ sơ kiểm toán chung thường gồm: + Tên và số hiệu hồ sơ; ngày, tháng lập và ngày, tháng lưu trữ; + Các thông tin chung về khách hàng: Các ghi chép hoặc bản sao các tài liệu pháp lý, thoả thuận và biên bản quan trọng: Quyết định thành lập, Điều lệ công ty, Giấy phép thành lập (Giấy phép đầu tư; Hợp đồng liên doanh), đăng ký kinh doanh, bố cáo, biên bản họp Hội đồng quản trị, họp Ban Giám đốc (Tên, địa chỉ, chức năng và phạm vi hoạt động, cơ cấu tổ chức ); Các thông tin liên quan đến môi trường kinh doanh, môi trường pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng; quá trình phát triển của khách hàng; + Các tài liệu về thuế: Các văn bản, chế độ thuế riêng trong lĩnh vực hoạt động của khách hàng được cơ quan thuế cho phép, các tài liệu về thực hiện nghĩa vụ thuế hàng năm; + Các tài liệu về nhân sự: Các thoả ước lao động, các qui định riêng của khách hàng về nhân sự; Qui định về quản lý và sử dụng qũi lương; + Các tài liệu về kế toán: . Văn bản chấp thuận chế độ kế toán được áp dụng (nếu có); . Các nguyên tắc kế toán áp dụng: Phương pháp xác định giá trị hàng tồn kho, phương pháp tính dự phòng, ; + Các hợp đồng hoặc thoả thuận với bên thứ ba (3) có hiệu lực trong thời gian dài (ít nhất cho hai (2) năm tài chính): Hợp đồng kiểm toán, hợp đồng cho thuê, hợp đồng bảo hiểm, thoả thuận vay ; + Các tài liệu khác. Hồ sơ kiểm toán chung được cập nhật hàng năm khi có sự thay đổi liên quan đến các tài liệu đề cập trên đây. b. Hồ sơ kiểm toán năm Hồ sơ kiểm toán năm: Là hồ sơ kiểm toán chứa đựng các thông tin về khách hàng chỉ liên quan tới cuộc kiểm toán một năm tài chính. Hồ sơ kiểm toán năm, thường gồm: + Các thông tin về người lập, người kiểm tra (soát xét) hồ sơ kiểm toán: . Họ tên kiểm toán viên, trợ lý kiểm toán viên thực hiện kiểm toán và lập hồ sơ kiểm toán; . Họ tên người kiểm tra (soát xét), ngày tháng kiểm tra; . Họ tên người xét duyệt, ngày tháng xét duyệt. + Các văn bản về tài chính, kế toán, thuế, của cơ quan Nhà nước và cấp trên liên quan đến năm tài chính; 67
  18. + Báo cáo kiểm toán, thư quản lý, báo cáo tài chính và các báo cáo khác, (bản dự thảo và bản chính thức); + Hợp đồng kiểm toán, thư hẹn kiểm toán, phụ lục hợp đồng (nếu có) và bản thanh lý hợp đồng; + Những bằng chứng về kế hoạch chiến lược, kế hoạch kiểm toán chi tiết, chương trình làm việc và những thay đổi của kế hoạch đó; + Những bằng chứng về thay đổi hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng; + Những bằng chứng và kết luận trong việc đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và những đánh giá khác; + Những bằng chứng đánh giá của kiểm toán viên về những công việc và kết luận của kiểm toán viên nội bộ; + Các sự kiện phát sinh sau khi kết thúc niên độ; + Những ghi chép về nội dung, chương trình và phạm vi của những thủ tục kiểm toán được thực hiện và kết quả thu được; + Những phân tích của kiểm toán viên về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và số dư các tài khoản; + Những phân tích về các tỷ lệ, xu hướng quan trọng đối với tình hình hoạt động của khách hàng; + Những bằng chứng về việc kiểm tra và soát xét của kiểm toán viên và người có thẩm quyền đối với những công việc do kiểm toán viên, trợ lý kiểm toán viên hoặc chuyên gia khác thực hiện; + Các chi tiết về những thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên khác thực hiện khi kiểm toán báo cáo tài chính của đơn vị cấp dưới; + Các thư từ liên lạc với các kiểm toán viên khác, các chuyên gia khác và các bên hữu quan; + Các văn bản hoặc những chú giải về những vấn đề đ• trao đổi với khách hàng, kể cả các điều khoản của hợp đồng kiểm toán; + Bản giải trình của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán + Bản xác nhận do khách hàng hoặc người thứ ba gửi tới; + Các kết luận của kiểm toán viên về những vấn đề trọng yếu của cuộc kiểm toán, bao gồm cả những vấn đề bất thường (nếu có) cùng với các thủ tục mà kiểm toán viên đ• thực hiện để giải quyết các vấn đề đó; + Các tài liệu liên quan khác. Trường hợp có từ hai (2) công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một cuộc kiểm toán thì hồ sơ kiểm toán được lập theo sự phân công công việc của từng bên. Để tạo thành các bộ hồ sơ hoàn chỉnh làm cơ sở soát xét, phát hành báo cáo kiểm toán và lưu trữ hồ sơ, khi chuẩn bị kết thúc cuộc kiểm toán, mỗi bên phải copy cho nhau các hồ sơ thuộc phần công việc của công ty mình. 4 .3.3.3 Tính bí mật, an toàn, lưu giữ và sở hữu hồ sơ kiểm toán Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải giữ bí mật và bảo đảm an toàn hồ sơ kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán phải lưu trữ trong một khoảng thời gian đủ để đáp ứng yêu cầu hành nghề và phù hợp với qui định chung của pháp luật về bảo quản, lưu trữ hồ sơ tài liệu do Nhà nước quy định và quy định riêng của tổ chức nghề nghiệp và của từng công ty kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán được sắp xếp, lưu giữ một cách thuận lợi, khoa học theo một trật tự dễ tìm, dễ lấy, dễ tra cứu và được lưu giữ, quản lý tập trung tại nơi lưu giữ hồ sơ của công ty. Trường hợp công ty có các chi nhánh, hồ sơ kiểm toán được lưu tại nơi đóng dấu báo cáo kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán thuộc quyền sở hữu và là tài sản của công ty kiểm toán. Khách hàng hay bên thứ ba có quyền xem xét, sử dụng một phần hoặc toàn bộ tài liệu này khi được sự đồng ý của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) công ty kiểm toán hoặc theo quy định của Nhà nước và tổ chức nghề nghiệp. Kiểm toán viên được phép cung cấp một phần hoặc toàn bộ tài liệu làm việc trong hồ sơ kiểm toán của mình cho khách hàng tuỳ theo từng trường hợp cụ thể do công ty kiểm toán quyết định. Trong mọi trường hợp, tài liệu làm việc của kiểm toán viên không thể thay thế chứng từ kế toán, báo cáo tài chính của khách hàng./. 68
  19. Chương 5: Tổ chức công tác kiểm toán 5.1. Kiểm toán viên 5.1.1. Tiêu chuẩn kiểm toán viên Theo Nghị định Số 105/2004/NĐ-CP 1.1. Người Việt Nam và người nước ngoài được phép cư trú tại Việt Nam có đủ các tiêu chuẩn sau đây thỡ được công nhận là kiểm toán viên: a) Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành phỏp luật; khụng thuộc đối tượng quy định tại khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 15 của Nghị định số 105/2004/NĐ-CP; b) Cú bằng cử nhân chuyên ngành Kinh tế - Tài chính - Ngân hàng hoặc chuyên ngành Kế toán - Kiểm toán của Việt Nam hoặc nước ngoài được Bộ Tài chính thừa nhận và thời gian công tác thực tế về tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên hoặc thời gian thực tế làm trợ lý kiểm toỏn ở doanh nghiệp kiểm toán từ 4 năm trở lên. Trường hợp có bằng cử nhân các chuyên ngành khác với chuyên ngành Kinh tế - Tài chính - Ngân hàng hoặc chuyên ngành Kế toán - Kiểm toán thỡ phải cú bằng cử nhõn thứ hai về cỏc chuyờn ngành trờn sau 3 năm hoặc sau 2 năm đối với trợ lý kiểm toán viên và tổng thời gian công tác thực tế về tài chính, kế toán phải đủ 5 năm hoặc làm trợ lý kiểm toán ở các doanh nghiệp kiểm toán đủ 4 năm trở lờn. c) Có khả năng sử dụng một trong năm thứ tiếng thông dụng: Anh, Nga, Pháp, Trung và Đức và sử dụng thành thạo máy vi tính; d) Đạt kỳ thi tuyển kiểm toán viên do Bộ Tài chính tổ chức và được Bộ trưởng Bộ Tài chính cấp Chứng chỉ kiểm toán viên. 1.2. Người Việt Nam và người nước ngoài được phép cư trú tại Việt Nam có chứng chỉ chuyên gia kế toán, chứng chỉ kế toán, kiểm toán do tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế về kế toán, kiểm toán cấp, được Bộ Tài chính thừa nhận thỡ phải đạt kỳ thi sát hạch về pháp luật kinh tế, tài chính, kế toán, kiểm toán Việt Nam do Bộ Tài chính tổ chức thỡ được Bộ trưởng Bộ Tài chính cấp Chứng chỉ kiểm toán viên. 5.1.2. Quyền hạn và trách nhiệm của kiểm toán viên 5.1.2.1. Quyền của kiểm toán viên: Theo Nghị định Số 105/2004/NĐ-CP Điều 16. Quyền của kiểm toán viên hành nghề 1. Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ. 2. Được thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và cácdịch vụ của doanh nghiệp kiểm toán quy định tại Điều 22 của Nghị định này. 3. Yêu cầu đơn vị được kế toán cung cấp đầy đủ,kịp thời tài liệu kế toán và các tài liệu, thông tin khác có liên quan đếnhợp đồng dịch vụ. 69
  20. 4. Kiểm tra, xác nhận các thông tin kinh tế, tài chính cóliên quan đến đơn vị được kiểm toán ở trong và ngoài đơn vị. Đề nghịcác đơn vị, cá nhân có thẩm quyền giám định về mặt chuyên môn hoặc làm tư vấn khi cần thiết. 5.1.2.2. Trách nhiệm của kiểm toán viên Theo Nghị định Số 105/2004/NĐ-CP Điều 17. Trách nhiệm của kiểm tóan viên hành nghề 1. Chấp hành các nguyên tắc hoạt động kiểm toán độclập quy định tại Điều 4 của Nghị định này. 2. Trong quỏ trỡnh thực hiện dịch vụ, kiểm toỏn viờnkhụng được can thiệp vào công việc của đơn vị đang được kiểm toán. 3. Ký báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm về hoạt động nghề nghiệp của mình 4. Từ chối làm kiểm toán cho khách hàng nếu xét thấykhông đủ năng lực chuyên môn, không đủ điều kiện hoặc khách hàng vi phạmquy định của Nghị định này. 5. Thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn và kinhnghiệm nghề nghiệp. Thực hiện chương trỡnh cập nhật kiến thức hàng năm theoquy định của Bộ Tài chính. 6. Kiểm toán viên hành nghề vi phạm Điều 15, 17, 18, 19của doanh nghiệp này, thỡ tuỳ theo tớnh chất và mức độ vi phạm sẽ bị tạmđỡnh chỉnh, cấm vĩnh viễn đăng ký hành nghề kiểm toán hoặc phải chịutrách nhiệm theo quy định của pháp luật. 7. Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. 5.2. Nguyên tắc tổ chức công tác kiểm toán 1. Phải xây dựng đội ngũ kiểm toán viên đủ về số lợng và bảo đảm yêu cầu chất lợng phù hợp với từng bộ máy kiểm toán. Rõ ràng, kiểm toán viên là yếu tố cơ bản cấu thành bộ máy kiểm toán. Sự tồn tại cũng nh chất lợng hoạt động của bộ máy kiểm toán đợc quyết định trớc hết bởi số lợng và chất lợng đội ngũ kiểm toán viên. Đó cũng là nguyên lý chung cho việc tổ chức mọi hệ thống bộ máy. Hơn nữa, hoạt động kiểm toán lại có chức năng đặc biệt nên càng đòi hỏi cao với kiểm toán viên cả về chuyên môn lẫn phẩm hạnh đạo đức. Vì vậy, bất cứ ở đâu, cho dù trong phạm vi quốc gia hay quốc tế, và bất cứ lúc nào - cho dù khi mới xây dựng hay trong bớc đờng phát triển - các tổ chức kiểm toán đều coi trọng việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên. Mặt khác, kiểm toán lại bao gồm nhiều loại hình với những bộ máy tổ chức cụ thể cũng có những điểm khác nhau về nội dung và phơng pháp kiểm toán cụ thể và từ đó cả về tổ chức kiểm toán. Vì vậy, xây dựng đội ngũ kiểm toán viên cũng đòi hỏi những yêu cầu cụ thể riêng biệt thích ứng với từng loại hình, từng bộ máy kiểm toán. Tất nhiên, gắn với đội ngũ kiểm toán viên là trang thiết bị cụ thể cho kiểm toán: đó là những máy móc, thiết bị, phơng tiện thích ứng với kỹ thuật kiểm toán (cả phần cứng và phần mềm nếu có) và hình thành cơ chế hoạt động thống nhất đang thực hiện chức năng kiểm toán. 2. Hệ thông bộ láy kiểm toán phải bao gồm các phân hệ chứa đựng các mối liên hệ trong - ngoài khác nhau phù hợp với nguyên tắc chung của lý thuyết tổ chức là phù hợp với quy luật của phép biện chứng về liên hệ. Thật vậy mục tiêu của tổ chức là tạo ra mối liên hệ theo một trật tự xác định. Trong kiểm toán trật tự này đợc xác định khác nhau do quan hệ giữa các mục tiêu kiểm toán khác nhau với các khách thể kiểm toán khác nhau. Mỗi khách thể, mỗi chủ thể này lại có nhiều mối liên hệ khác 70
  21. ngoài kiểm toán. Trong việc xử lý hàng loạt mối liên hệ phức tạp này cần phải có phơng pháp luận biện chứng giữa các sự vật, hiện tợng, giữa cái chung và cái riêng, giữa cái mới và cái cũ. 3. Tổ chức bộ máy kiểm toán phải quán triệt nguyên tắc chung của mọi hệ thống tổ chức bộ máy: tập trung dân chủ thích ứng với từng bộ phận kiểm toán. Nguyên tắc tập trung - dân chủ do Lê nin đề xớng trong việc xây dựng Đảng Cộng sản và đ- ợc phát triển ứng dụng trong mối quan hệ giữa khách thể - chủ thể - môi trờng kiểm toán. ở từng phân hệ kiểm toán trong từng thời kỳ phát triển mối liên hệ chủ thể - khách thể có những điểm khác nhau song đều đợc tổ chức và hoạt động trong mỗi Nhà nớc cụ thể với một nguyên tắc tổ chức cụ thể: Nhà nớc của dân, do dân và vì dân. 5.3. Nội dung tổ chức công tác kiểm toán 5.3.1. Tổ chức kiểm toán độc lập 5.3.1.1. Kiểm toán viên Kiểm toán viên độc lập là những ngời hành nghề kiểm toán. Để hành nghề, họ phải có đủ các điều kiện để hành nghề nh: + Về nghiệp vụ chuyên môn: Phải có bằng (chứng chỉ) kế toán viên công chứng (CPA). + Về phẩm hạnh: Phải là ngời không có tiền án tiền sự. + Về pháp lý: phải đăng ký hành nghề (tại Bộ t pháp - riêng ở Việt Nam tại Bộ Tài chính). + Về xã hội: Không có chung lợi ích, không có quan hệ ruột thịt (thờng là 3 đời) với khách thể kiểm toán. Kiểm toán viên độc lập thường có hai chức danh: 1. Kiểm toán viên: thờng là đã tốt nghiệp đại học và sau hai năm làm th ký (hoặc trợ lý) kiểm toán và tốt nghiệp kỳ thi tuyển kiểm toán viên (quốc gia hoặc quốc tê) để lấy bằng (chứng chỉ) kiểm toán viên (CPA). Trên thực tế, phải có khả năng độc lập thực hiện công việc kiểm toán cụ thể 2. Kiểm toán viên chính: là ngời đã từng qua kiểm toán viên (thường từ 3-5 năm) và qua kỳ thi nâng bậc. Về chuyên môn họ phải có khả năng tổ chức một nhóm kiểm toán viên tiến hành những công việc kiểm toán có qui mô lớn. Những kiểm toán viên độc lập được hành nghề trong một tổ chức (công ty) hoặc với văn phòng tùy điều kiện cụ thể do pháp luật qui định. Kiểm toán toán viên nhà nước (là những công chức (viên chức nhà nớc) làm nghề kiểm toán. Do đó, họ được tuyển chọn và hoạt động do tổ chức kiểm toán nhà nớc phân công. Đồng thời, họ được xếp vào các ngành bậc chung của công chức (theo tiêu chuẩn cụ thể của từng nớc trong từng thời kỳ): - Kiểm toán viên . - Kiểm toán viên chính. - Kiểm toán viên cao cấp. Chức năng và quyền hạn cụ thể của từng ngành bậc cũng đợc quy định cụ thể tuỳ theo từng nớc song nói chung cũng có sự gần gũi giữa các quốc gia và có các mối quan hệ tơng ứng với các chức danh của kiểm toán viên độc lập. Riêng kiểm toán viên cao cấp thờng giữ cơng vị lãnh đạo cơ quan kiểm toán nhà nớc hoặc là những chuyên gia cao cấp có chức năng và quyền hạn trong 71
  22. kiểm toán, trong tư vấn (kể cả soạn thảo luật pháp) thậm chí trong phán xử (như một quan toà) tuỳ quy định cụ thể của từng nước. 5.3.1.2. Hiệp hội kiểm toán viên Hiệp hội kiểm toán viên độc lập (CPA) là hình thức phát triển không chỉ trong phạm vì quốc gia mà cả quốc tế. Có những hiệp hội đã có lịch sử hàng thế kỷ nh Hiệp hội kế toán viên công chứng của Anh và xứ Wales (The Institute of Chactered Accountants in England and Wales) thành lập từ ngày 1 1/5/1880 song phần lớn các hiệp hội kiểm toán viên hoặc hiệp hội kiểm toán viên nói chung ở các nớc đợc thành lập vào thế kỷ XX này. Từ năm 1977, cùng với sự ra đời của IFAC, Uỷ ban thực hành kiểm toán quốc tế (lnternational Auditing Practices Commitees - IAPC) đã ra đời và công bố các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế (102) làm cơ sở cho việc soạn thảo chuẩn mực và thực hành kiểm toán. 5.3.1.3. Tổ chức bộ máy kiểm toán độc lập Bộ máy kiểm toán độc lập là tổ chức của các kiểm toán viên chuyên nghiệp kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Là tổ chức kinh doanh, một đơn vị kiểm toán độc lập phải thực hiện các nghĩa vụ và có quyền lợi nh các tổ chức kinh doanh khác Hơn nữa, kinh doanh dịch vụ kiểm toán là kinh doanh một nghề chuyên sâu nên phải có kiểm toán viên đủ điều kiện hành nghề (5.2). Do đó chỉ có những ngời có chứng chỉ kiểm toán viên và đủ điều kiện hành nghề khác nhau mới đợc phép tổ chức các đơn vị kinh doanh dịch vụ này. Thông thờng cùng với dịch vụ kiểm toán, bộ máy này có thể thực hiện các dịch vụ khác có liên quan nh kế toán, thuế, tư vấn, tài chính, tin học Để thực hiện các loại dịch vụ này, các tổ chức kiểm toán độc lập có quan hệ với khách hàng tự nguyện hoặc bắt buộc theo qui định của pháp luật (4. 1 ) . Bộ máy kiểm toán độc lập có hai mô hình cơ bản là văn phòng kiềm toán tư và công ty kiểm toán. Văn phòng kiểm toán t đợc hình thành bởi một hoặc vài kiểm toán viên độc lập (kế toán viên công chứng - CPA) để kinh doanh dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác liên quan. Tất nhiên, các văn phòng t này đợc thành lập theo các qui định chung cho các vãn phòng ta'. Đồng thời, ngời lập văn phòng phải có bằng (chứng chỉ) kiểm toán viên độc lập và có đủ các điều kiện hành nghề khác. Mô hình này đợc phát triển rất phổ biến ở Cộng hoà Pháp (2500 văn phòng) và ở các nớc Tây âu. Ngay ở Mỹ cũng có tới 95% công ty nhỏ từ 1-25 ngời, ở Trung Quốc có tới 600 văn phòng kiểm toán nhỏ (3-5 ngời). Các văn phòng t (kể cả công ty nhỏ) đợc tổ chức theo phơng thức trực tuyến và loại hình tập trung. Ư việt cơ bản của loại hình này là phát huy tính năng động cao của bộ máy kiểm toán, rất thích ứng với nhu cầu kiểm toán và t vấn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng nh nhu cầu đại lý thuế (thu nhập) cho nhà nớc. Tuy nhiên, ở mô hình này, các văn phòng chỉ thực hiện giới hạn các dịch vụ và sức cạnh tranh của mỗi tổ chức kiểm toán cũng hạn chế. Bên cạnh đó, sự hợp tác, tự bồi dỡng kinh nghiệm nghiệp vụ giữa các kiểm toán viên cũng hạn chế. Do đó, khi thành lập văn phòng, kiểm toán viên độc lập phải có năng lực khá toàn diện và có trình độ chuyên môn vững. Đến khi số lợng các văn phòng và công ty nhỏ nhiều đòi hỏi phải tăng cờng hoạt động của Hiệp hội kiểm toán viên độc lập. Công ty kiểm toán (qui mô lớn) là bộ máy tổ chức kiểm toán độc lập với số lợng lớn các kiểm toán viên độc lập ( hàng chục ngàn kiểm toán viên trong một công ty). Đây là những công ty quốc gia hoặc quốc tế (xem 3.2.2). Các công ty kiểm toán này thực hiện nhiều loại dịch vụ trên địa bàn rộng lớn (có thể hàng trăm dịch vụ cụ thể). Do đó chúng đợc tổ chức theo loại hình phân tán và điều hành theo phơng thức chức năng hoặc kết hợp. Cụ thể mỗi công ty thờng có nhiều văn phòng bố trí ở nhiều vùng 72
  23. trong nớc (công ty quốc gia) hoặc nhiều văn phòng ở nhiều nớc khác nhau (công ty quốc tế). Trong các công ty này (đặc biệt là các công ty kiểm toán quốc tê) từng văn phòng cụ thể hoặc văn phòng khu vực có thể có quyền tự chủ nh một công ty con và có thể đợc hạch toán độc lập. Mỗi văn phòng riêng hoặc văn phòng khu vực cũng kinh doanh nhiều loại dịch vụ và có thể đợc tổ chức thành các bộ phận chức năng riêng biệt. Do qui mô lớn phân tán và cơ cấu tổ chức phức tạp nên các công ty lớn đòi hỏi trình độ tổ chức phối hợp cao của các nhà quản lý, đòi hỏi khả năng chuyên môn cao và toàn diện của kiểm toán viên và lãnh đạo công ty, đòi hỏi đầu t lớn cả về chuyên gia, kinh nghiệm và tiền vốn Tuy nhiên cũng do vậy mà mỗi công ty này khi đã hình thành và tồn tại. luôn luôn có tiềm năng lớn, đặng hoàn tất nhiều loại dịch vụ có qui mô lớn trong khoảng thời gian ngán và có sức cạnh tranh lớn trên thị trờng. ở Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều công ty kiểm toán đợc thành lập với khoảng 35 trụ sở văn phòng hoạt động trên toàn quốc: 5 công ty đầu t 100% vốn nớc ngoài (Ernst & Young, KPMG Peat Marwick, Price Waterhouse and Coopers, Arthur Andersen, Grand Thornton; 2 công ty liên doanh: Công ty VACO - DTTI (Deloitte Touche Tomatsu International) và công ty Coopers & Lybrand - AISC và các công ty của Việt Nam: - Công ty kiểm toán Việt Nam (VACO) - Công ty kiểm toán và l vấn tài chính kế toán (AASC) - Công ty t vấn và kiểm toán (A&C) - Công ty kiểm toán và t vấn tài chính kế toán Sài Gòn (AFC) - Công ty kiểm toán Đà Nẵng (DAC) - Công ty kiểm toán Hà Nội (CPA Hà Nội) - Công ty kiểm toán Hạ Long (HAACO) - Công ty kiểm toán Sài Gòn (Sai gon Audit) - Công ty kiểm toán Hoàng Gia (SC~T) - Công ty kiểm toán BHP - Công ty kiểm toán và t vấn tài chính kế loàn Thủy Chung Hiện tại chúng ta cha cho thành lập văn phòng kiểm toán t. Các công ty kiểm toán của ta còn .ít, qui mô nhỏ . Mặc dù mới ra đời khoảng chục năm trở lại đây song các công ty đã có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp đổi mới nói chung và cho sự phát triển kiểm toán độc lập nói riêng. Tuy nhiên, để đáp ứng đầy đủ yêu cầu đổi mới và hội nhập với khu vực và quốc tế, kiểm toán độc lập của ta phải phấn đấu phát triển và củng cố về nhiều mặt kể cả số lợng và cơ cấu tổ chức, số lợng nhân viên, kể cả về qui mô, cơ c.ấu và chất lợng dịch ~ ụ. 5.3.2. Tổ chức kiểm toán Nhà nƣớc 5.3.2.1. Các hiệp hội kiểm toán viên Để tăng cờng quan hệ hợp tác, hớng dẫn và bồi dỡng nghiệp vụ kể cả về nhận thức cũng nh kinh nghiệm thực tế, những ngời làm công tác kế toán và kiểm toán đã lự nguyện tập hợp vào các hiệp hội kiểm toán viên khác nhau: Hiệp hội kế toán viên công chứng, hiệp hội kiểm toán viên nội bộ và Hiệp hội của các tổ chức kiểm toán nhà nớc. Hiệp hội (học viện) của các tổ chức kiểm toán viên nhà mrớc : là tổ chức quốc tế (hoặc khu vực) của tất cả các tổ chức kiểm toán nhà nớc khác nhau. Tổ chức quốc tế của các cơ quan kiểm toán nhà nớc (INTOSAI - International Organization of Supreme Audit Institutions) với sự tham gia của 175 nớc cứ 3 năm họp một lần thảo luận những vấn đề chuyên môn hiện đang quan tâm và xuất bản tạp chí định kỳ. Các hiệp hội khu vực cũng đang đợc thành lập. Một trong các tổ chức này là Hiệp hội (Viện) kiểm toán nhà nớc Châu á (ASOSAI - Asian Organization of Supreme Audit Institutions). Kiểm toán nhà nớc Việt Nam cũng đã tham gia vào các tổ chức này. 5.3.2.2. Tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nƣớc 73
  24. Bộ máy kiểm toán nhà nớc là hệ thống tập hợp những viên chức nhà nớc để thực hiện chức năng kiểm toán ngân sách và tài sản công. Nh vậy, trong quan hệ với hệ thống bộ máy nhà nớc, kiểm toán nhà nớc là một phân hệ thực hiện chức năng kiểm toán. Xét trong hệ thống kiểm toán nói chung, kiểm toán nhà nớc lại là phân hệ thực hiện chức năng này với một đối tợng cụ thể là tài sản nhà nớc trong đó có ngân sách Nhà nớc. Xét trong quan hệ với kiểm toán viên nhà nớc, kiểm toán nhà nớc là một hệ thống tập hợp các kiểm toán viên này theo một trật tự xác định Trong hàng loạt mối liên hệ phức tạp đó đã hình thành những mô hình tổ chức khác nhau tùy theo phạm vi các mối liên hệ. Trước hết trong quan hệ với bộ máy nhà nớc, kiểm toán nhà nớc có thể độc lập với hệ thống lập pháp và hệ thống hành pháp hoặc trực thuộc một phía hành pháp hoặc lập pháp (trực thuộc một phía). Mô hình tổ chức độc lập giữa cơ quan kiểm toán nhà nớc với các cơ quan lập pháp và hành pháp (sơ đồ 9.1) đợc ứng dụng ở hầu hết các nớc có nền kiểm toán phát triển, có nhà nớc pháp quyền đợc xây dựng có nền nếp (Ví dụ Kiểm toán nhà nt~rớc CHLB Đức, Toà Thẩm kế của Cộng hoà Pháp). Nhờ đó kiểm toán phát huy đợc đầy đủ tính độc lập trong việc thực hiện các chức năng của mình. Sơ Đồ: KIỀM TOÁN NHÀ NƯỚC TỔ CHỨC ĐỘC LẬP VỚI QUỐC HỘI VÀ CHÍNH PHỦ Mô hình tổ chức cơ quan kiểm toán toán thuộc cơ quan hành pháp: cũng không hoàn toàn giống nhau giữa các nớc, chẳng hạn: ở Trung Quốc, kiểm toán nhà nớc đợc tổ chức thành cơ quan hành chính nh một bộ song có quyền kiểm toán các bộ khác của Chính phủ (kể cả Bộ Tài chính); ở Việt Nam và Nhật Bản, kiểm toán nhà nớc đợc tổ chức nh một cơ quan chuyên môn bên cạnh nội các (Nhật Bản, Inđônêxia) hoặc Thủ tớng Chính phủ (Việt Nam). Mô hình này giúp chính phủ điều hành nhanh nhạy quá trình thực hiện ngân sách và các hoạt động khác. Trong trờng hợp khác, cơ quan kiểm toán nhà nớc lại trực thuộc cơ quan lập pháp (Quốc hội) nh Mỹ, Nga, Thụy Điển, Anh , chẳng hạn mô hình tổ chức kiểm toán nhà nớc Canađa được mô tả qua sơ đồ 74
  25. TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC CANADA Với mô hình này, kiểm toán nhà nớc trợ giúp đắc lực cho Nhà nớc không chỉ ở kiểm tra thực hiện pháp luật mà cả trong việc soạn thảo và xây dựng các sắc luật cụ thể. Ngoài ra ở một số nớc trên thế giới kiểm toán nhà nớc đợc xây dựng theo mô hình trực thuộc ngời đứng đầu Nhà nớc (Tổng thống) nh Hàn Quốc xét về l;ên hệ nội bộ, cơ quan kiểm toán nhà nớc lại có thể liên hệ theo chiều dọc (liên hệ dọc) và theo chiều ngang (liên hệ ngang). Liên hệ ngang là mối liên hệ nội bộ trong cơ quan kiểm toán cùng cấp (trung ơng hay khu vực hoặc địa phơng). Liên hệ này có thể trực tuyến hoặc chức năng. Trong liên hệ trực tuyến tống kiểm toán trởng (hoặc phó tổng kiểm toán đợc uỷ nhiệm) trực tiếp chỉ huy các hoạt động của kiểm toán nhà nớc. Chẳng hạn, Điều lệ tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nớc (Việt Nam) qui định: cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng kiểm toán nhà nớc thực hiện nhiệm vụ đợc giao gồm: 1. Kiểm toán Ngân sách Nhà nước. 2. Kiểm toán Đầu t xây dựng cơ bản và các chơng trình dự án vay nợ viện trợ Chính phủ. 3. Kiểm toán Doanh nghiệp Nhà nớc. 4. Kiểm toán Chương trình đặc biệt (an ninh, quốc phòng, dự trữ quốc gia ). 75
  26. 5. Văn phòng kiểm toán nhà nước". Tơng tự nh vậy là mô hình tổ chức của Hội đồng kiểm toán Nhật Bản, Singapore Liên hệ trực tuyến có u việt bảo đảm lệnh của Tổng kiểm toán trởng đợc chuyển trực tiếp đến các kiểm toán viên, bảo đảm điều hành nhanh, nhạy và thông tin ngợc xuôi kịp thời. Tuy nhiên, mô hình này chỉ thích hợp trong điều kiện qui mô kiểm toán và số lợng nhân viên kiểm toán không quá lòn. Trong liên hệ chức năng quyền điều hành công việc đợc phân thành nhiều khối, mỗi khối lại chia thành nhiều cấp khác nhau. Lấy mô hình tổ chức kiểm toán Australia làm ví dụ (sơ đồ 9.3). Mô hình này thích hợp với bộ máy kiểm toán có qui mô lớn. Sơ đồ: Các Mối quan hệ trong cơ quan kiểm toán quốc gia AUSTRALIA Liên hệ dọc của tổ chức kiểm toán nhà nớc có thể khái quát trong hai mô hình chủ yếu. - Mô hình 1: Cơ quan kiểm toán nhà nớc trung ơng (Quốc gia) có mạng lới ở tất cả các địa phơng. Mô hình này thích hợp với các nớc có quy mô lớn, các địa phơng phân bố rộng và phân tán, khối lợng tài sản công ở mỗi địa phơng lớn và quan hệ phức tạp. Đồng thời mỗi địa phơng cũng có khối lợng công sản, tài sản tơng đối đồng đều. Tình hình đó đòi hỏi phải có tổ chức kiểm toán nhà nớc ngay tại địa phơng. - Mô hình II: Cơ quan kiểm toán nhà nớc trung ơng (Quốc gia) có mạng lới kiểm toán ở từng khu vực. Những khu vực này trớc hết có khối lợng công sản đủ lớn và thờng ở xa trung tâm nên đòi hỏi có tổ chức kiểm toán nhà nớc tại thực địa để thực hiện chức năng của kiểm toán nhà n- ớc. Mô hình này thích ứng với những nớc có qui mô nhỏ song địa bàn tơng đối phân tán. ở một số nớc nhỏ và tơng đối tập trung có thể không có liên hệ dọc; cũng có trờng hợp, liên hệ dọc này lại thực hiện ngay trong liên hệ ngang bằng cách bố trí kiểm toán một vài khu vực nào đó thành một bộ phận trong các bộ phận chuyên môn. Mô hình tổ chức kiểm toán của Nhật bản là một ví dụ cho trờng hợp này: Trong 5 bộ phận của Hội đồng kiểm toán quốc gia, bộ phận thứ III vừa phụ trách kiểm toán các lĩnh vực giao thông, vận tải và xây dựng, vừa phụ trách các vùng Hokkaido, vừa phụ trách đất công. Kiểm toán nhà nớc Việt Nam cũng đã triển khai và thiết lập đợc mạng lới kiểm toán nhà nớc khu vực rộng khắp toàn quốc, phù hợp với địa bàn tơng đối phân tán và đặc điểm quản lý của Việt Nam, bao gồm: Kiểm toán nhà nớc khu vực phía Bắc, Kiểm toán nhà nớc khu vực Bắc Trung bộ, Kiểm toán nhà nớc khu vực miền Trung, Kiểm toán nhà nớc khu vực phía Nam, Kiểm toán nhà n- ớc khu vực Tây Nam bộ và Đông Nam bộ Ngoài mối liên hệ trong bộ máy, liên hệ giữa việc thực hiện các chức năng kiểm toán với bộ máy kiểm toán cũng hình thành những mô hình tổ chức kiểm toán nhà nớc khác nhau. Trong việc thực hiện chức năng xác minh, thông thờng kiểm toán nhà nớc chỉ thực hiện xác minh báo cáo tài chính và nghiệp vụ của các thuộc khu vực công cộng. Công việc xác minh các vụ việc cụ thể do khiếu tố hoặc phát giác bất thờng, thông thờng do các tổ chức thanh tra đảm nhận. Tuy nhiên, ở một số nớc cả những công việc thanh tra này cũng đợc thống nhất trong lổ chức kiểm toán nhà n- ớc. Xu hớng hoà nhập hai hoạt động này không chỉ ở Tây âu mà cả ở Đông Nam á nh Hàn quốc chẳng hạn. Trong việc bày tỏ ý kiến, thông lệ phổ biến là các cơ quan kiểm toán nhà nớc chỉ thực hiện chức năng t vấn kể cả kiến nghị giải quyết thực trạng tài chính, pháp lý, thậm chí cả khởi thảo và tham gia xây dựng luật pháp (Bắc Mỹ và một số nớc khác ở khu vực Châu á). Tuy nhiên, ở mô hình Toà thẩm kế (thẩm kế viện) ở các nớc Tây âu, kiểm toán nhà nớc còn thực hiện cả chức năng phán xử của toà kinh tế nhằm gắn xác minh với xử ly các vi phạm phát hiện qua kiểm toán. Ở việt Nam, Kiểm toán nhà nớc ra đời và hoạt động trên cơ sở Nghị định số 70/CP ngày 1 1 tháng 7 năm 1 994, Luật Ngân sách nhà nớc đợc Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 3 năm 1996 có đề cập về Kiểm toán nhà nớc. Tuy nhiên ở thời điểm hiện tại địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà 76
  27. nớc còn cha cao do Kiểm toán nhà nớc cha có vị trí trong luật gốc (Hiến pháp) và cha có luật hay pháp lệnh về Kiểm toán nhà nớc. Điều này đã gây trở ngại không nhỏ cho tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nớc hiện nay: một mặt, tổ chức bộ máy của Kiểm toán nhà nớc không đảm đơng đợc hết chức năng kiểm tra nền tài chính công, mặt khác lại có sự chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan nhà nớc trong việc thanh tra, kiểm tra các đơn vị kinh tế cơ sở. Việc sửa đổi và bổ sung Hiến pháp năm 1992 cũng nh việc ban hành Luật Kiểm toán nhà n- ớc về lâu dài sẽ tạo điều kiện pháp lý để kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nớc Việt Nam. Như vậy, cơ quan kiểm toán nhà nớc chứa đựng rất nhiều mối liên hệ về tổ chức thuộc vào đặc điểm của đối tợng, của phạm vi, của khách thể kiểm toán, tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức bộ máy nhà nớc và hàng loạt quan hệ khác bên trong và bên ngoài hệ thống kiểm toán. 5.3.3. Tổ chức kiểm toán nội bộ 5.3.3.1. Kiểm toán viên Kiểm toán viên nội bộ thờng là những ngời làm nghề kiểm toán không chuyên nghiệp, họ có thể là những kế toán viên giỏi, những nhà quản lý có kinh nghiệm,'những kỹ thuật viên có hiểu biết về những lĩnh vực có liên quan đến kiểm toán đặc biệt là các loại hình công nghệ, các quy trình kỹ thuật, các định mức Tuy nhiên những ngời này cũng cần có trình độ nghiệp vụ tơng xứng, có thể đợc đào tạo qua trờng (nh đào tạo kiểm toán viên nội bộ của Mỹ IIA chẳng hạn). Hơn nữa, trong nhiều trờng hợp, kiểm toán viên nội bộ cũng có thể là kiểm toán viên chuyên nghiệp nh những giám định viên trong hệ thống kiểm toán ở Tây âu, các kiểm soát viên chuyên nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nớc và các đơn vị công cộng (có qui mô lớn) hoặc các chuyên gia đợc các hội đồng quản trị sử dụng trong uỷ bản kiểm toán (9.3). 5.3.3.2. Các hiệp hội kiểm toán viên Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ lần đầu tiên đợc lập ra ở Pháp từ 1965 và sau đó trở thành Viện nghiên cứu của kiểm toán viên và kiểm toán viên nội bộ của Pháp (LFAC) vào năm 1973. Phổ biến ở các nớc, việc trao đổi kinh nghiệm và bồi dỡng nghiệp vụ kiểm toán nội bộ đã đợc thực hiện ở các hiệp hội kế toán viên. Tuy nhiên, trong điều kiện kiểm toán nội bộ phát triển sang các lĩnh vực mới: kiểm toán qui tắc, hiệu năng, hiệu quả và đội ngũ kiểm toán viên nội bộ cũng phát triển đến cả những nhà quản lý, các nhà kỹ thuật thì yêu cầu bồi dỡng này cần đợc tăng cờng và làm phong phú, đa dạng cho phù hợp với yêu cầu và điều kiện cụ thể. 5.3.3.3. Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ Bộ máy kiểm toán nội bộ là hệ thống tổ chức của các kiểm toán viên do đơn vị tự lập ra theo yêu cầu quản trị nội bộ và thực hiện nền nếp, kỷ cơng quản lý. Để tổ chức và quản lý hoạt động kiểm toán nội bộ trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của đơn vị phải cử ra những ngời phụ trách công việc này. Theo yêu cầu đó, thông thờng một uỷ ban kiểm toán đợc lập ra do một tập thể thờng bao gồm 3 thành viên hội đồng quản trị phụ trách. Trong tr- ờng hợp cần thiết, hội đồng quản trị có thể quyết định thuê các chuyên gia kiểm toán tham gia hoặc t vấn cho uỷ ban. Uỷ ban kiểm toán, vừa có trách nhiệm trong tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ (nội kiểm), vừa có trách nhiệm tạo lập mối quan hệ với chủ thể kiểm toán tài chính từ bên ngoài (ngoại kiểm). Trong trờng hợp không có hội đồng quản trị, chủ đầu t hoặc ngời đợc uỷ quyền phụ trách sẽ chỉ đạo công tác kiểm toán. Tất nhiên, uỷ ban kiểm toán hoặc ngời phụ trách chỉ có chức năng tổ chức, chỉ đạo công việc kiểm toán. Ngời thực hiện kiểm toán nội bộ là những kiểm toán viên trong 77
  28. đơn vị hoặc chuyên gia (giám định viên kế toán) từ bên ngoài . Từ đó có thể có hai mô hình cơ bản là hội đồng hay bộ phận kiểm toán nội bộ và giám định viên kế toán (hoặc giám sát viên nhà nớc). Hội đồng hay bộ phận kiểm toán nội bộ (Internal Auditing Department) là mô hình phổ biến đặc biệt ở các nớc Bắc Mỹ. Thành viên của bộ phận này là các kiểm toán viên nội bộ (9.2). Số l- ợng và cơ cấu các thành viên tuỳ thuộc vào qui mô của đơn vị, vào nhiệm vụ kiểm toán nội bộ cụ thể trong từng thời kỳ. Hội đồng có nhiệm vụ thực hiện tất cả các công việc do uỷ bản kiểm toán giao cho kể cả việc xây dựng hoặc hoàn thiện qui chế kiểm toán nội bộ (nếu có), tổ chức thực hiện đều đặn và có hiệu lực qui chế đã ban hành và cả công việc đột xuất khác. Mô hình này có nhiều uư điểm và rất thích hợp với các doanh nghiệp có qui mô lớn. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để phát huy u việt này là chất lợng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ. Giám định viên kế toán (hoặc giám sát viên nhà nớc) là mô hình ứng dụng phổ biến ở các xí nghiệp nhà nớc và các doanh nghiệp có qui mô nhỏ. Trong trờng hợp này, ngời thực hiện công việc kiểm toán có thể là kiểm toán viên chuyên nghiệp (hành nghề) thậm chí ở một số nớc trong các xí nghiệp công và doanh nghiệp nhà nước đợc biên chế trong bộ máy kiểm toán nhà nớc. Mô hình này rất thích hợp với các xí nghiệp công, các doanh nghiệp có qui mô nhỏ không cần biên chế kiểm toán viên nội bộ. Nó phát huy đợc thế mạnh nghề nghiệp của các chuyên gia giỏi. Tuy nhiên trong trờng hợp này chi phí kiểm toán thờng cao do phải thuê nhân viên. Mặt khác, do công việc kiểm toán nội bộ cũng do số ít chuyên gia có trình độ cao đảm nhiệm nên cần chú trọng đảm bảo tính khách quan trung thực của kiểm toán viên bằng các phơng pháp bổ sung nh kiểm tra chéo, định kỳ thay đổi nơi làm việc của các kiểm toán viên tăng cờng trách nhiệm của kiểm tra bên ngoài ở Việt Nam, theo Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nớc, ban hành kèm theo Nghị định 59/CP ngày3/1O/1996 của Chính phủ (đợc sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định 27/CP-1999) báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp nhà n- ớc phải đợc kiểm tra, xác nhận của kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nội bộ. Nh vậy qui định này đã bớc đầu tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ. Đến ngày 28/10/1997 Bộ trởng Bộ Tài chính ký Quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ và tiếp đó là Thông t số 52/1998/TT-BTC ngày 16/4/1998 Hớng dẫn tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nớc. Do một số qui định trong Thông t số 52/1998/TT-BTC tơng đối cứng nhắc, gây khó khăn lúng túng cho các doanh nghiệp trong tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ và thực hiện Qui chế kiểm toán nội bộ, ngày 22- 12- 1998 Bộ Tài chính ban hành Thông t số 171/1998/TC-BTC hớng dẫn thực hiện kiếm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nớc. Nh vậy, theo các qui định hiện hành " 1.1 Phòng kiểm toán nội bộ Tổng công ty phải đợc tổ chức độc lập với các phòng ban chức năng khác của Tổng công ty và chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Tổng giám đốc. Biên chế của phòng từ 3-5 ngời" (Thông t số 52/1998/TT-BTC). Ngoài ra, tiết 3 điều 1 của Thông t 171/1998/TC-BTC qui định: "Tùy thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động tập trung hay phân tán, điều kiện cụ thể và trình độ năng lực của đội ngũ kế toán Doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ cho phù hợp và có hiệu quả thiết thực. Việc tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ không bắt buộc đối với các doanh nghiệp". Tóm lại, ở Việt Nam hiện nay, vấn đề kiểm toán nội bộ còn khá mới mẻ nên cần quan tâm trớc hết đến việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ, đặc biệt trong quá trình đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nớc và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc. Ngay ở các đơn vị quốc doanh cũng phải tách biệt chức năng kiểm toán ra khỏi chức năng tổ chức công việc lài chính, kế toán của kế toán trưởng. 78
  29. BÀI THI ĐẠT ĐIỂM CAO NĂM 2006  ĐỀ THI SỐ 01 Câu hỏi 1: Tính độc lập là một nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Tính độc lập có thể bị ảnh hưởng do các nguy cơ do tư lợi, tự kiểm tra, sự bào chữa, quan hệ ruột thịt, quan hệ khác và sự đe doạ. Yêu cầu: Giải thích khái niệm nguy cơ do tư lợi. Nêu bốn trường hợp cụ thể nguy cơ do tư lợi có thể ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên và cho thí dụ. Bài làm:Tính độc lập là một nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Tính độc lập có thể bị ảnh hưởng bởi các nguy cơ tư lợi. Nguy cơ do tư lợi là nguy cơ tính độc lập của kiểm toán không được đảm bảo do quyền lợi cá nhân.“Nguy cơ do tư lợi” diễn ra khi công ty kiểm toán hoặc một thành viên nhóm kiểm toán có thể thu được lợi ích tài chính hoặc các xung đột lợi ích cá nhân khác với khách hàng sử dụng dịch vụ bảo đảm. 4 trường hợp có thể dẫn đến "Nguy cơ do tư lợi": a) Lợi ích tài chính trực tiếp hoặc lợi ích tài chính gián tiếp có tính chất trọng yếu tại khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo, ví dụ: KTV có tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị được kiểm toán hoặc KTV là chủ sở hữu, đồng chủ sở hữu, thành viên của Hội đồng quản trị, có cổ phần trong đơn vị được kiểm toán b) Một khoản nợ, khoản bảo lãnh hoặc quà tặng nhận từ khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo hoặc từ giám đốc hay nhân viên của họ. c) Quá phụ thuộc vào phí dịch vụ của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo. d) Có khả năng trở thành nhân viên của khách hàng sử dụng dịch vụ bảo đảm trong tương lai; Trong các trường hợp trên, KTV có thể vì lợi ích cá nhân mà không thực hiện tốt đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm của KTV cũng như không thực hiện tốt các thủ tục trong quá trình kiểm toán của mình. Ví dụ: (i) Khi KTV đồng thời là thành viên trong Ban giám đốc của đơn vị được kiểm toán, KTV này sẽ có thể che dấu cho đơn vị được kiểm toán các gian lận, sai sót mà Ban giám đốc phải chịu trách nhiệm, hay đồng ý cho ghi khống doanh thu để đạt lợi nhuận cao (ii) KTV là cổ đông của công ty: có thể sẽ đồng ý với các bút toán sai lệch để nhằm tăng lợi nhuận và tăng cổ tức được chia cho cổ đông. (iii) KTV là chủ nợ của doanh nghiệp được kiểm toán: KTV có thể sẽ đồng ý cấu kết với doanh nghiệp để che dấu tình trạng nợ của doanh nghiệp, nhằm mục đích xử lý nợ của mình trước khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Câu hỏi 2: Trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính của công ty Ngọc Khánh cho năm tài chính kết thúc ngày 31.12.2005, kiểm toán viên đề nghị gửi thư xác nhận nhưng Giám đốc doanh nghiệp từ chối không đồng ý gửi thư đến 5 khách hàng trong số 60 khách hàng đề nghị xác nhận. Yêu cầu: Theo Anh/Chị, kiểm toán viên cần làm gì trong trường hợp này. 79
  30. Bài làm: Nếu đơn vị được kiểm toán từ chối gửi thư xác nhận đến 5 khách hàng trong số 60 khách hàng đề nghị xác nhận, KTV cần thực hiện các thủ tục sau: + Trường hợp ban giám đốc đơn vị được kiểm toán yêu cầu KTV không gửi thư yêu cầu xác nhận đến một số khách nợ thì KTV phải xem xét yêu cầu này có chính đáng hay không. + Trước khi chấp thuận yêu cầu này, KTV phải xem xét những bằng chứng chứng minh cho giải thích của ban giám đốc. + Trường hợp chấp nhận quyết định của Ban giám đốc, KTV phải xác định nếu các khoản phải thu của 5 khách hàng trên là trọng yếu trong báo cáo tài chính thì cần áp dụng các thủ tục thay thế đối với số dư của những khoản phải thu không được gửi thư xác nhận, như: - Kiểm tra các các chứng từ, bằng chứng chứng tỏ tính đã xảy ra, giá trị hợp lý, quyền của doanh nghiệp đối với giao dịch bán hàng và khoản phải thu đối với các khách hàng này. - Kiểm tra các khoản thanh toán của khách hàng sau ngày lập bảng cân đối kế toán. - Qua các thông tin bên ngoài, tham khảo sự tồn tại hiện hữu và tình trạng tài chính của các khách hàng này. + Nếu KTV không chấp nhận quyết định của Ban giám đốc đơn vị được kiểm toán và bị cản trở trong việc gửi thư xác nhận làm phát sinh các hạn chế về phạm vi kiểm toán, khi đó cần xem xét ảnh hưởng của các hạn chế đó đến báo cáo kiểm toán. KTV cần đánh giá mức độ trọng yếu của các khoản phải thu liên quan đến các khách hàng này so với toàn bộ số dư tài khoản phải thu khách hàng để quyết định liệu có phải đưa ra ý kiến kiểm toán chấp nhận từng phần hay không. Câu hỏi 3: Toàn là một trợ lý kiểm toán viên của Anh/Chị trong hợp đồng soát xét báo cáo tài chính của công ty An Thái cho năm tài chính kết thúc ngày 31.12.2005. Mặc dù đã có kinh nghiệm một năm nhưng đây là lần đầu Toàn tham gia thực hiện một hợp đồng soát xét. Yêu cầu: Anh/Chị hãy giải thích cho Toàn về sự khác biệt của mức độ đảm bảo của công tác soát xét báo cáo tài chính với mức độ đảm bảo của một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Đồng thời nêu những đặc điểm của báo cáo soát xét và các loại ý kiến của kiểm toán viên. Bài làm: Công tác soát xét Báo cáo tài chính (BCTC) không đưa ra sự đảm bảo hợp lý như một cuộc kiểm toán BCTC. Công tác soát xét BCTC chỉ cung cấp mức độ đảm bảo vừa phải rằng các thông tin đã soát xét không chứa đựng những sai sót trọng yếu trong các BCTC đã được lập mà thôi. Vì vậy mức độ đảm bảo của công tác soát xét BCTC thấp hơn một cuộc kiểm toán BCTC. Để có được ý kiến về sự đảm bảo vừa phải trong báo cáo kết quả công việc soát xét Báo cáo tài chính, KTV phải thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp bằng cách điều tra, thu thập thông tin và thực hiện các thủ tục phân tích, nhằm có được căn cứ cho ý kiến của mình. Ví dụ: Khi thực hiện kiểm toán khoản mục tiền, KTV nhất định phải gửi thư xác 80
  31. định tới ngân hàng để kiểm tra số dư các tài khoản là các thông tin có liên quan như tài sản thế chấp, tài khoản bị giới hạn, số dư vay Ngân hàng Khi thực hiện soát xét BCTC đối với khoản mục tiền, KTV có thể không phải gửi thư xác nhận tới ngân hàng. Thay vào đó, để kiển tra các số dư tài khoản, có thể đối chiếu vào các Thông báo số dư của Ngân hàng. Để kiểm tra các tài khoản bị giới hạn hay các thông tin của tài sản thế chấp, có thể dựa vào giải trình của Ban giám đốc và kiểm tra chéo với nghiệp vụ kế toán ở các tài khoản khác. Để kiểm tra số dư các khoản vay, có thể chỉ kiểm tra vào hợp đồng vay vốn và ghi chép của đơn vị. Những đặc điểm của Báo cáo soát xét: Báo cáo soát xét phải ghi rõ tiêu đề là báo cáo kết quả công tác soát xét Báo cáo tài chính, tham chiếu đến chuẩn mực về soát xét và nêu rõ rằng công tác soát xét chỉ giới hạn ở việc điều tra và áp dụng thủ tục phân tích, công tác soát xét không phải là kiểm toán nên các thủ tục thực hiện chỉ cung cấp một mức độ đảm bảo vừa phải thấp hơn so với một cuộc kiểm toán và không đưa ra bất kỳ ý kiến kiểm toán nào. Các loại ý kiến của KTV trên báo cáo soát xét: Báo cáo kết quả công tác soát xét phải: - Đưa ra sự đảm bảo vừa phải trong đó nêu rõ rằng khi thực hiện công tác soát xét BCTC, KTV đã không phát hiện ra những sự kiện nào khiến cho KTV cho rằng báo cáo tài chính không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu phù hợp với chuẩn mực kế toán Việt Nam hoặc được Việt Nam chấp nhận; hoặc - Nếu đã phát hiện ra những sự kiện làm cho KTV cho rằng BCTC không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu phù hợp với chuẩn mực kế toán Việt Nam hoặc được Việt Nam chấp nhận thì KTV cần mô tả các sự kiện này và nếu có thể, định lượng các ảnh hưởng tới BCTC, và: + Đưa ra ý kiến ngoại trừ cho sự đảm bảo vừa phải; hoặc + Trong trường hợp các sự kiện trên là trọng yếu đối với báo cáo tài chính và liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức mà KTV kết luận rằng ý kiến ngoại trừ là chưa đủ để thể hiện tính không đầy đủ và sai lệch của báo cáo tài chính, thì KTV đưa ra kết luận không chấp nhận, trong đó nêu rõ rằng báo cáo tài chính không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu phù hợp với chuẩn mực kế toán Việt Nam hoặc được Việt Nam chấp nhận; - Nếu có tồn tại giới hạn trọng yếu trong phạm vi công tác soát xét, thì KTV cần mô tả giới hạn này và: + Đưa ra ý kiến ngoại trừ cho sự đảm bảo vừa phải đối với những khoản điều chỉnh có thể có nếu không bị giới hạn trong công việc soát xét; hoặc + Nếu ảnh hưởng có thể của các giới hạn trong công việc soát xét là trọng yếu và liên quan đến nhiều khoản mục đến mức mà KTV kết luận rằng không thể đưa ra bất kỳ sự đảm bảo nào, thì đưa ra ý kiến không chấp nhận. 81
  32. Câu hỏi 4: Trong quá trình kiểm tra về hàng tồn kho và các khoản mục liên quan của Công ty điện tử Tân Phú, một nhà sản xuất và phân phối các sản phẩm điện tử dân dụng, kiểm toán viên ghi nhận những tình huống sau: (a) Trong lúc chứng kiến kiểm kê, KTV ghi nhận có ba xe tải chứa đầy sản phẩm đã được bốc xếp xong chuẩn bị chở đi giao hàng, KTV tìm hiểu và biết số hàng này không được tính vào hàng tồn kho của công ty. (b) Cũng trong quá trình kiểm kê, KTV ghi nhận một số khá lớn sản phẩm mà bao bì đã cũ và phủ đầy bụi bặm. Khi được phỏng vấn, giám đốc nhà máy cho biết các sản phẩm này chắc chắn bán được, chỉ cần giảm giá một ít mà thôi. (c) Qua trao đổi với Giám đốc nhà máy, KTV được biết đây là lần đầu tiên từ khi thành lập, sản lượng sản xuất thấp hơn đáng kể so với mức công suất bình thường. Điều này được giải thích do tình hình cạnh tranh và bằng chứng là dù đã giảm sản lượng, số sản phẩm sản xuất trong kỳ cũng chỉ tiêu thụ được khoảng 50%. (d) Số liệu kiểm kê thực tế và số liệu trên sổ chi tiết hàng tồn kho có chênh lệch đáng kể. Được biết trong năm, đơn vị đã cài đặt một phần mềm theo dõi kế toán hàng tồn kho mới. Yêu cầu: Anh/Chị hãy trình bày các thủ tục kiểm toán bổ sung mà kiểm toán viên cần thực hiện để thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp cho mỗi trường hợp trên. Bài làm: Các thủ tục kiểm toán nên cần bổ sung để thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp trong từng trường hợp như sau: (a) Trong lúc chứng kiến kiểm kê, KTV ghi nhận ba xe tải chứa đầy sản phẩm đã được bốc xếp xong, chuẩn bị chở đi giao hàng, KTV còn hiểu và biết được số hàng này không được tính vào hàng tồn kho của công ty. - Trường hợp này, KTV cần kiểm tra việc khoá sổ đối với nghiệp vụ bán hàng, việc ghi nhận doanh thu và nợ phải thu, KTV cần quan sát cách thức sắp xếp hàng tồn kho trong quá trình kiểm kê xem hàng trong kho và hàng chuẩn bị chở đi giao cho khách hàng có được tách biệt hay không, có để xảy ra tình trạng nhập, xuất từ kho ra xe chở hàng trong quá trình kiểm kê không. Thực tế nếu không có sự tách biệt này thì KTV cần xem xét đó là do chưa được thiết kế trong hệ thống kiểm soát nội bộ hoặc dược thiết kế nhưng không thực hiện để đánh giá rủi ro kiểm toán. - KTV cần thu thập hợp đồng, hoá đơn và phiếu xuất kho cho lô hàng trên. Các thông tin trên hợp đồng, hoá đơn phải phù hợp với thực tế lô hàng xuất bán, phải có nội dung hợp pháp và hợp lý. Phiếu xuất kho ghi đúng thời điểm xuất hàng và số lượng hàng thực tế, đồng thời KTV phải kiểm tra phương thức bán hàng ghi trong hợp đồng và thực tế thực hiện để xem xét đã có sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích kinh tế từ người bán sang người mua, có sự chuyển giao quyền quản lý gắn với quyền kiểm soát và quyền sở hữu từ người bán sang người mua. - KTV cần thu thập biên bản kiểm kê được công ty hoàn thiện ngay sau khi kiểm kê xong, KTV phải đảm bảo đã kiểm tra mẫu trên kết quả kiểm kê này và lô hàng nói trên không được bao gồm trong kết quả kiểm kê này. - KTV cần kiểm tra bảng đối chiếu giữa số liệu sổ sách và kết quả kiểm kê đã thu thập và bảo đảm là bảng đối chiếu này đã được điều chỉnh, xử lý hợp lý. 82
  33. Nếu các điều kiện ghi nhận doanh thu đã thoã mãn, KTV cần kiểm tra sổ chi tiết doanh thu bán hàng (TK511)và phải thu khách hàng để đảm bảo giao dịch bán lô hàng trên được phản ánh phù hợp trên các tài khoản liên quan. Nếu cần thiết, KTV gửi thư xác nhận đến khách hàng. Nếu điều kiện ghi nhận doanh thu chưa thoả mãn, đơn vị phải tính số hàng hoá này vào hàng tồn kho của doanh nghiệp đồng thời không chấp nhận việc ghi nhận doanh thu và nợ phải thu. (b) Trong quá trình kiểm kê, KTV ghi nhận một số khá lớn sản phẩm mà bao bì đã cũ và phủ đầy bụi bặm. Khi được phỏng vấn, giám đốc nhà máy cho biết “các sản phẩm này chắc chắn bán được, chỉ cần giảm giá một ít mà thôi”. Đối với các sản phẩm này KTV cần kiểm tra xem có cần phải lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho không.KTV cần yêu cầu xem Sổ (hoặc thẻ) kho theo dõi nhập, xuất tồn của thủ kho và kiểm tra bao bì của số hàng trên để xem xét ngày nhập kho nhằm xác định thời gian tồn kho. So sánh thời gian lưu kho của lô hàng này với thời gian lưu kho trung bình của các sản phẩm tương tự của công ty cũng như so sánh với sản phẩm tương tự trên thị trường xem số ngày tồn kho đó có quá dài hay không. Nếu là các sản phẩm có thời hạn sử dụng thì so sánh ngay với thời hạn sử dụng quy định để xem lô hàng này có còn thời hạn và giá trị sử dụng không.Đồng thời KTV cần xem xét tình trạng và phẩm chất hàng tồn kho thông qua kiểm tra vật chất. KTV phải xem xét catolôg về giá bán, xem xét việc tiêu thụ các sản phẩm này sau ngày kết thúc niên độ. Nếu thực tế kiểm tra thấy hàng đã bị hỏng hoặc bị rách, đổ vỡ, v.v thì cần trao đổi ngay với cán bộ kỹ thuật và cán bộ có liên quan để đánh giá mức độ hỏng hóc, khả năng thanh lý và giá bán ước tính có thể thu hồi được của sản phẩm nếu thanh lý. KTV cần trao đổi các bằng chứng mà mình thu thập được với ban giám đốc nhà máy. Đồng thời KTV phải xác định được giá trị thuần có thể thực hiện được của lô hàng nói trên, bao gồm giá bán ước tính và chi phí ước tính tiêu thụ chúng để làm căn cứ trích lập dự phòng. (c) Qua trao đổi với giám đốc nhà máy, KTV được biết đây là lần đầu tiên từ khi thành lập, sản lượng sản xuất thấp hơn đáng kể so với mức công suất bình thường. Điều này được giải thích do tình hình cạnh tranh và bằng chứng là dù đã giảm sản lượng, số sản phẩm sản xuất trong kỳ cũng chỉ tiêu thụ được khoảng 50%. KTV cần so sánh sản lượng sản xuất trong năm với các năm trước cũng như so sánh sản lượng sản xuất trong năm với công suất bình thường của nhà máy. Nếu đúng là sản lượng thực tế sản xuất thấp hơn mức công suất bình thường, KTV cần thực hiện các thủ tục sau: + Xem xét phương pháp đánh giá hàng tồn kho của công ty,do sản lượng thực tế sản xuất thấp hơn mức công suất bình thường nên KTV cần lưu ý là phần chi phí sản xuất chung cố định chưa được phân bổ phải được ghi nhận vào giá vốn hàng bán trong kỳ. (i) Nếu đánh giá dựa trên phương pháp giá thành tiêu chuẩn (giá thành dựa trên công suất bình thường), KTV cần kiểm tra tài khoản, Sổ kế toán ghi chép toàn bộ chênh lệch giữa giá thành tiêu chuẩn và chi phí sản xuất thực tế của sản phẩm sản xuất trong kỳ . Nếu nhà máy có sản lượng sản xuất thực tế thấp hơn mức công suất bình thường thì số 83
  34. chênh lệch này phải ghi nhận vào giá vốn hàng bán trong kỳ để phản ánh vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. (ii) Nếu đánh giá dựa trên phương pháp giá thành thực tế thì KTV cần đề nghị đơn vị tính toán gía thành sản phẩm dựa trên công suất bình thường và phản ánh số chênh lệch giữa giá thành tiêu chuẩn và giá thành thực tế của sản phẩm sản xuất trong kỳ vào giá vốn hàng bán để phản ánh vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. + KTV cũng cần lưu ý về khả năng tiêu thụ số sản phẩm này để lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. KTV phải thu thập, xem xét giá ước tính có thể bán được và chi phí tiêu thụ ước tính của các sản phẩm này, nếu giá trị ghi sổ của các sản phẩm này nhỏ hơn giá trị thuần có thể thực hiện được mà đơn vị chưa lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho thì KTV yêu cầu đơn vị lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. (d) Số liệu kiểm kê thực tế và số liệu trên sổ chi tiết hàng tồn kho có chênh lệch đáng kể. Được biết trong năm, đơn vị đã cài đặt một phần mềm theo dõi kế toán hàng tồn kho mới. Trong tình huống này, sai sót có thể tồn tại trong số liệu kế toán chi tiết do áp dụng phần mền mới hoặc do chính công tác kiểm kê gây ra hoặc do cả hai gây ra. Các thủ tục kiểm toán bổ sung mà KTV cần thực hiện là: - KTV cần nắm được hướng giải quyết của đơn vị cũng như những nguyên nhân giải thích do chênh lệch hàng tồn kho này. KTV cần thu thập bằng chứng để đánh giá tính hợp lý các giải trình của đơn vị. - KTV phải tham gia quan sát đầy đủ quá trình kiểm kê và thu thập đầy đủ các tài liệu về kết quả kiểm kê, đảm bảo kết quả kiểm tra thu thập được đã được kiểm tra hợp lý bởi KTV. - Rà soát bảng theo dõi nhập, xuất, tồn của hàng tồn kho mà phần mềm kế toán thực hiện với Sổ (thẻ) kho do thủ kho lưu trữ, xem và phát hiện các chênh lệch đáng kể (nếu có) về số dư đầu kỳ, tổng số lượng nhập và xuất trong kỳ. - Kiểm tra xem trong năm đơn vị đó thực hiện kiểm kê đều đặn không (hàng tháng hoặc hàng quý) và xem các chênh lệch lớn tương tự có xảy ra không. Cách xử lý của các kết quả kiểm kê đó như thế nào. Các chênh lệch có được giải thích thoả đáng không. - Nếu tất cả các nguyên nhân đều được giải thích là do lỗi của phần mềm máy tính, KTV cần đối chiếu với kết quả rà soát hệ thống thông tin quản lý của doanh nghiệp (mà có thể nhóm kiểm toán đã thực hiện ở phần việc kiểm tra hệ thống và thủ tục kiểm tra, kiểm soát ở đợt kiểm toán giữa kỳ) để xác nhận các lỗi nghiêm trọng mà phần mềm kế toán đang có so với các phát hiện của KTV. Ngoài ra cần lưu ý về yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ có ảnh hưởng đến các bằng chứng kiểm toán khác cũng như nội dung cần được đưa vào thư quản lý. Câu hỏi 5: Anh/Chị đang thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính của công ty Sao Sáng, một doanh nghiệp dịch vụ công nghệ cao vừa niêm yết trên thị trường chứng khoán TP.HCM. Trong quá trình tìm hiểu tình hình kinh doanh của công ty và áp dụng quy trình phân tích, các kiểm toán viên ghi nhận những thông tin sau: 84