Bài giảng Luật môi trường và chính sách kinh tế nâng cao
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Luật môi trường và chính sách kinh tế nâng cao", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
bai_giang_luat_moi_truong_va_chinh_sach_kinh_te_nang_cao.pdf
Nội dung text: Bài giảng Luật môi trường và chính sách kinh tế nâng cao
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI Khoa Kinh tế và Quản lý PGS. TS Ngô Thị Thanh Vân BÀI GIẢNG LUẬT MÔI TRƯỜNG VÀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ NÂNG CAO (Dùng cho giảng dạy Cao học) HÀ NỘI – 12/2010
- i MỤC LỤC Danh mục các hình iv Danh mục các bảng vi Danh mục các hộp vii Danh mục các chữ viết tắt ix 1. Giới thiệu và sơ lược 1 2. Nguyên tắc của chính sách môi trường 15 3. Khai thác và bảo vệ các loài bị đe doạ 32 4. Quyền sở hữu 40 5. Giá cả và thị trường 56 6. Thất bại thị trường 72 7. Vốn, đầu tư, lợi ích và rủi ro 82 8. Tăng trưởng bền vững 98 9. Vai trò của luật 111 10. Cân bằng lợi ích và chi phí 130 11. Quy định công nghiệp 149 12. Quản lý sử dụng đất 165 13. Giấy phép bán được (Cota ô nhiễm), phí và đặt cọc 181
- ii DANH MỤC HÌNH 3.1. Xe ô-tô và lợi nhuận xã hội, TPC 3.2. Tổng doanh thu từ đánh bắt cá 3.3. Vấn đề đánh bắt quá mức 3.4. Chi phí và đánh bắt cá 4.1. Liên kết trong nhóm 6 thành viên 4.2. Chia sẻ 5.1. Cầu và thay đổi về cầu 5.2. Đường cung, đường cung ngang, đường cung dọc và thay đổi về cung 5.3. Thị trường, cầu dư thừa và cung dư thừa 5.4. Thay đổi cung và cầu 5.5. Xếp loại người tiêu dùng theo WTP 5.6. Thặng dư người tiêu dùng và nhà sản xuất 5.7. Nghịch biên giá trị 5.8. Giá tối đa 6.1. Lợi nhuận của một nhà độc quyền hay cacten 6.2. Hiệu ứng thu nhập của việc tăng phí hải quan 6.3. Hiệu ứng thu nhập của việc tăng thuế 6.4. Vòng đời của một sản phẩm 6.5. Ưu tiên lựa chọn xử lý chất thải 7.1. Năng lực thu nhập vòng đời 7.2. Dòng tiền của một dự án 7.3. Xác định thị trường với tỷ lệ lãi suất không rủi ro 7.4. Tác động của rủi ro vào tỷ lệ lãi suất 7.5. Rủi ro thực tế và rủi ro nhận thức được 7.6. NPV của 100$ được tính cho các mức lãi suất và các năm khác nhau 8.1. Luật giảm lợi tức và sự gia tăng dân số 8.2. Đường, rượu và vi khuẩn 9.1. Đồ thị định lý Coase 9.2. Trường hợp không có quy định cấm 10.1. Thặng dư của người tiêu dùng cho công viên tại giá bằng 0
- iii 10.2. Số khách thăm quan tối ưu xã hội 10.3. Tác động của việc tăng thuế đối với dầu nhập khẩu 12.1. Cung co giãn và cung không co giãn 13.1. Cho phép thương mại 13.2. Phí tối ưu 13.3. Cung và cầu cota ô nhiễm
- iv DANH MỤC BẢNG 3.1. Chi phí tắc nghẽn 4.1. Phân loại hàng hoá bằng loại trừ và cạnh tranh 5.1. Chỉ số Đồng và Dầu, 1950 - 2000
- v DANH MỤC HỘP 2.1. Trường hợp Dudridge 2.2. Năng lượng nguyên tử và sự lạc quan công nghiệp 2.3. Truyền thông về nguyên tắc phòng ngừa 2.4. Định lý Coase: ví dụ về thiết bị lọc 2.5. Trường hợp Dassonville 2.6. Trường hợp Cassis de Dijon và trường hợp những cái chai Đan Mạch 2.7. Thương mại chất thải: các nhà luân lý học và các nhà duy lý học 2.8. Trường hợp Dusseldorp 2.9. Trường hợp Fredin 2.10. Trường hợp Lopez Ostra 3.1. Tác động của quyền sở hữu vào sự phát triển cấu trúc làng Sami 3.2. Chi phí tắc nghẽn giao thông 3.3. Mở rộng ranh giới đánh bắt cá để bảo vệ cá khỏi suy giảm 4.1. Làng cổ đại 4.2. Săn bắt nai sừng tấm ở Thụy Điển 4.3. Bãi nuôi sò 4.4. Bảo vệ voi 5.1. Vai trò của người môi giới 5.2. Thời trang váy và ngành sản xuất len 5.3. Sẵn lòng chi trả phí nước 6.1. Năng lượng hạt nhân 6.2. OPEC 6.3. Thuế xanh 6.4. Phân loại chất thải 7.1. Radon 7.2. Tiếp tục trường hợp Fredin 8.1. Ví dụ về nhà máy sản xuất ghim trong Sự giàu có của các quốc gia 8.2. Quyền của các thế hệ tương lai 9.1. Hàng hoá lâu bền đã được đưa vào sử dụng 10.1. Kênh Gotha 10.2. Vận động hành lang trong các hệ thống liên bang: châu Âu và Hoa Kỳ 10.3. Nghị định thư Kyoto: sử dụng các lợi thế so sánh
- vi 10.4. Shell và Greenpeace 11.1. Tiêu chuẩn và giấy phép xả thải 11.2. Sản xuất sạch hơn, tự nguyện tuân thủ và IPPC 11.3. Khái niệm BATNEEC trong Chỉ thị IPPC 11.4. Tích hợp so với dịch chuyển xả thải 12.1. Thương lượng với những người tắm trần 12.2. Boomer với Công ty cổ phần Xi măng Atlantic 13.1. Cota ô nhiễm: một ghi chú trên văn bản 13.2. Những câu chuyện về thành công mua bán 13.3. Phí: bằng chứng kinh nghiệm 13.4. Thuế, phí hay vốn vay?
- vii CHỮ VIẾT TẮT BAT kỹ thuật tốt nhất hiện có BATNEEC kỹ thuật (hoặc công nghệ) tốt nhất hiện có không dẫn đến chi phí quá mức BPM phương tiện thực tiễn tốt nhất CBA phân tích chi phí-lợi ích COM Ủy ban (Châu Âu) ECHR Công ước Châu Âu về Nhân Quyền ECJ Toà án Tư pháp Châu Âu ECR Báo cáo của Toà án Châu Âu EU Liên minh Châu Âu EV giá trị kỳ vọng FCCC Công ước Khung về Biến đổi Khí hậu GATT Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại GDP tổng thu nhập quốc nội IAEA Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế IPPC kết hợp ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm MPC lợi nhuận biên tập thể MR doanh thu biên NEA Cơ quan Năng lượng Hạt nhân NGO tổ chức phi chính phủ NNP sản phẩm ròng quốc gia NPV giá trị hiện tại ròng OPEC Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu khí PP lợi nhuận tư nhân PPP nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền TC tổng chi phí TPC tổng lợi nhuận tập thể TR tổng doanh thu TRC tổng doanh thu tập thể VPP nguyên tắc nạn nhân trả tiền WTA sự sẵn sàng chấp nhận WTO Tổ chức Thương mại Thế giới WTP sự sẵn lòng chi trả
- 1 1. GIỚI THIỆU VÀ SƠ LƯỢC 1. Kinh tế học và Môi trường Ô nhiễm toàn cầu, tăng trưởng dân số, sự tuyệt chủng của các loài và mối đe doạ lên toàn bộ hệ sinh thái là các vấn đề môi trường nghiêm trọng trong thời đại chúng ta. Do đó, việc bảo vệ nền văn minh của nhân loại và môi trường đòi hỏi phải có những thay đổi cách thức sử dụng tài nguyên, phương pháp sản xuất và mô hình tiêu thụ. Trong các cuộc tranh luận về môi trường, đã có nhiều biện pháp thích hợp được đề xuất nhưng không có giải pháp đơn giản nào có thể giải quyết được vấn đề. Trách nhiệm cũng không được quy định rõ ràng; có thể lập luận rằng trách nhiệm cuối cùng vẫn thuộc về các chính trị gia. Cộng đồng (bao gồm các hộ gia đình, các công ty và các tổ chức xã hội) đóng vai trò hình thành và thực hiện những thay đổi về thái độ chính trị. “Luật môi trường” là một phần chính cấu thành nên khuôn khổ thể chế và các cá nhân phải thực hiện các hoạt động trong khuôn khổ đó. Vì vậy, sự hiểu biết về mối tương quan và tác động của các công cụ chính sách pháp lý là rất quan trọng cho tương lai. Trong các cuộc tranh luận, người ta chú ý nhiều đến các nguyên tắc chung về môi trường như sự phát triển bền vững, nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền, nguyên tắc phòng ngừa, v.v Ngày càng nhiều các nguyên tắc như vậy được thể hiện trong văn bản có hiệu lực ràng buộc pháp lý như hiến pháp hay hiệp ước. Hơn nữa, hoạt động quản lý môi trường được thực hiện dựa trên một số lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, ví dụ: luật đất đai, quy hoạch thành phố, tiêu chuẩn sản xuất và xả thải, giấy phép, quy định về an toàn, luật dân sự, xử phạt hành chính và hình sự, thuế, ký quỹ và bảo hiểm bắt buộc. Những tác động kinh tế xuất phát từ việc ứng dụng các quy định pháp lý về môi trường, ở một giới hạn nào đó, là đối tượng nghiên cứu trong kinh tế học môi trường. Xuất phát điểm của cuốn sách này là kiểm tra chặt chẽ hơn các chi phí hoặc trợ cấp nhằm cải thiện tổn hại môi trường. Song song với chuỗi nghiên cứu này là sự tiếp nối công việc phôi thai của Hotelling (1931), kiểm tra quá trình khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo qua thời gian. Một trong những khái niệm có tầm quan trọng hàng đầu là khái niệm về phân tích chi phí-lợi ích (CBA), bắt đầu được ứng dụng cho vào các bài toán môi trường từ những năm 1960. Cùng với sự gia tăng dân số, phát triển kinh tế và mối quan tâm đối với môi trường của Thế giới thứ ba, các khía cạnh này, một cách ngắn gọn, đã giúp tạo nên cuốn giáo trình chuẩn về kinh tế học môi trường. Các phân tích kinh tế về luật, hay còn gọi là “luật và kinh tế học” đã và đang phát triển nhanh chóng tại Mỹ từ đầu thập niên 1970 và hiện nay được nhìn nhận ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Phân tích kinh tế luật đương đại đôi khi được gọi là luật và kinh tế “mới”. Phân tích luật và kinh tế “cũ” được liên kết với thuế và các quy định về thị trường hoặc luật cạnh tranh. Các luật sư đôi khi cũng cần có sự hỗ trợ của các nhà kinh tế để giúp họ giải đáp các câu hỏi về kinh tế liên quan đến luật. Trong luật và kinh tế “mới”, người ta đưa vào các vấn đề liên quan: luật trở thành chủ đề nghiên cứu chính của các nhà kinh tế. Ngày nay, phân tích kinh tế về luật bao trùm hầu hết các lĩnh vực về luật, kể cả nguồn gốc của hệ thống pháp lý. Các nghiên cứu kinh tế liên quan đến luật môi trường rất phong phú và có ảnh hưởng mạnh mẽ. Một số lượng lớn nghiên cứu kinh tế học về các quy định pháp lý đã nổi lên từ đầu những năm 1970 và bổ sung đáng kể kiến thức cho kinh tế học của luật môi trường gắn liền với việc cấp phép, các quy định về an toàn, bảo hiểm và tội phạm môi trường. Ngày nay, các vấn đề về ngoại
- 2 ứng được phân tích về mặt chi phí cho các bên liên quan để thực hiện và kiểm soát các thoả thuận cùng có lợi. Khi không loại bỏ được ngoại ứng bằng thoả thuận, một số biện pháp can thiệp nào đó có thể được đưa ra để bảo đảm. Thuế Pigou đang được coi là một trong nhiều biện pháp có thể sử dụng làm đối chứng, ví dụ, phân vùng, quy định an toàn và trách nhiệm, cũng như bảo hiểm và quỹ hỗ trợ cho các thiệt hại môi trường. Ngoài phân tích kinh tế, các lý thuyết khoa học xã hội khác có thể được dùng để giải thích nội dung của các quy định pháp lý. Điển hình là trường hợp các lý thuyết chính trị liên quan đến sự lựa chọn công cộng cố chứng minh rằng pháp lý như một sản phẩm được tạo ra bởi nhu cầu lợi ích của các nhóm và nhằm tối đa hoá lợi ích của các chính trị gia nắm quyền lực trong cộng đồng. Trong lĩnh vực môi trường, sự kết hợp kinh tế học với lý thuyết nhóm lợi ích chính trị sẽ rất hữu ích. 2. Mục đích của môn học Cho đến nay, các kết quả nghiên cứu luật và kinh tế được lồng ghép rất ít vào các văn bản kinh tế môi trường truyền thống. Ví dụ, việc xây dựng các tiêu chuẩn pháp lý, bảo hiểm tư nhân và công cộng, trách nhiệm pháp lý, quy định về an toàn và xử phạt hình sự thỉnh thoảng được đề cập đến, nhưng mối tương quan giữa nhiều công cụ pháp lý và kinh tế lại không được phân tích một cách đầy đủ. Mặc dù có nhiều cuốn sách hay về kinh tế môi trường, song phạm vi của các cuốn sách đó còn rất hạn hẹp. Theo truyền thống, tiêu điểm chính của những cuốn sách này là các loại thuế phải nộp khi vi phạm, trong khi nhiều công cụ khác quan trọng hơn trong môi trường pháp lý lại thường bị quên lãng. Tương tự như vậy, có nhiều cuốn sách hay về luật môi trường, nhưng theo truyền thống, hầu hết các cuốn sách này lại hướng theo luật môi trường trong khuôn khổ các hệ thống quốc gia cụ thể. Tuy nhiên, hiện nay, người ta ngày càng quan tâm đến luật môi trường quốc tế và cạnh tranh. Trong các nghiên cứu về luật môi trường cạnh tranh, người ta thường so sánh hệ thống pháp luật của hai hay nhiều quốc gia với nhau. Nghiên cứu về luật môi trường quốc tế thường xác định những nguyên tắc chung về luật môi trường phổ thông đối với tất cả các hệ thống pháp lý và tập trung vào các giải pháp cho tình trạng ô nhiễm môi trường xuyên biên giới. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này vẫn chủ yếu nhằm giải quyết các khía cạnh pháp lý về ô nhiễm; nghĩa là cho đến nay, những tác động kinh tế và môi trường của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau chưa được lưu tâm đến. Do vậy, mục đích của cuốn sách này là nhằm bù lấp khoảng cách giữa kinh tế môi trường và luật môi trường bằng một nghiên cứu về “luật môi trường và kinh tế”. Do đó, lĩnh vực kinh tế môi trường truyền thống được mở rộng với một phân tích kinh tế về pháp luật nhằm đạt được sự hiểu biết rộng hơn các khía cạnh chung về luật môi trường và chính sách. Ngoài ra, còn là sự nỗ lực lồng ghép luật môi trường quốc tế và cạnh tranh bằng cách trình bày về luật pháp và bối cảnh luật châu Âu, cùng với các ví dụ quốc tế khác. Như vậy, các phân tích kinh tế sẽ được kết hợp với phân tích luật môi trường cạnh tranh. Việc kết hợp này sẽ có lợi ích rất lớn vì kết hợp được các giải pháp trong các hệ thống pháp luật quốc gia khác nhau. Phân tích kinh tế có ưu điểm là các quy tắc trong các hệ thống pháp lý khác nhau có thể tìm hiểu
- 3 được theo các nguyên tắc mà không cần phải thảo luận chi tiết về luật pháp của từng quốc gia. Chúng tôi sẽ xem xét các giải pháp pháp lý, trong các hệ thống pháp lý cụ thể và sẽ đưa ra giải thích kinh tế cho một vài những khác biệt quan sát được; có nghĩa là, chúng tôi sẽ áp dụng phương pháp luật kinh tế và cạnh tranh. Cuối cùng, cần lưu ý rằng chúng tôi không cố gắng sử dụng kinh tế học như là đầu vào giá trị duy nhất trong việc tạo dựng quy tắc pháp lý. Thực tế, chúng tôi cũng sẽ trình bày về những giới hạn kinh tế và nhu cầu về tiêu chuẩn đạo đức. Khi có thể, chúng tôi cũng sẽ chỉ ra những hậu quả của các giải pháp pháp lý khác nhau.
- 4 TÓM TẮT MÔN HỌC Cuốn sách được chia làm 4 phần như sau: Chương 2 chính là mở đầu của Phần I. Ở đây, chúng tôi xem xét một số loại quyền khác nhau đối với môi trường, trong số đó có những quyền bắt nguồn từ các nguyên tắc của chính sách môi trường. Những nguyên tắc được quan tâm đặc biệt bao gồm: (i) nguyên tắc phát triển bền vững; (ii) nguyên tắc phòng chống; (iii) nguyên tắc phòng ngừa; (iv) nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền; (v) nguyên tắc “rác thải phải được xử lý ở nơi phát sinh”. Những nguyên tắc này được trình bày ngắn gọn trong Chương 2. Nối tiếp với phần trình bày, chúng tôi giới thiệu tổng quan về các vấn đề kinh tế và những tranh luận có liên quan đến những nguyên tắc này. Các nguyên tắc môi trường lúc đầu chỉ là những tuyên bố chính trị không có hiệu lực pháp luật. Sau đó, một trong số các nguyên tắc đó được đưa vào văn bản với tư cách pháp lý. Ví dụ, nhiều hiến pháp hiện đại ở các nước Tây Âu quy định rõ ràng về quyền có một môi trường trong sạch. Do đó, các nguyên tắc chính sách môi trường cũng cấu thành nên luật môi trường. Quyền được có một môi trường trong sạch ngụ ý một nhiệm vụ của Nhà nước là phải bảo vệ công dân. Nguyên tắc phát triển bền vững cũng bao gồm nhiệm vụ bảo vệ các thế hệ tương lai. Những quyền này, dưới đây có tên là “quyền xã hội”, đã được đưa vào trong các quyết định chính trị và lập pháp đã có với mục tiêu gây ảnh hưởng chính trị trong tương lai. Rõ ràng đó là một vấn đề khác hẳn, liệu các nguyên tắc hoặc quyền xã hội này có thể đồng thời được coi là những “quyền công dân” – nghĩa là có thể được công dân thi hành tại toà án. Điều đó có thể đáng nghi ngờ đối với quan niệm về sự phát triển bền vững. Hơn nữa, cũng có thể thấy quyền được có môi trường trong sạch như là quyền con người hoặc quyền tự nhiên trên cơ sở nền tảng đạo đức hay tôn giáo, tồn tại độc lập với các điều ước hay hiến pháp được quyết định mang tính chính trị. Bên cạnh các quyền đạo đức và pháp lý để có một môi trường trong sạch, còn có “quyền sở hữu cá nhân” - rất cơ bản đối với môi trường. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải tách biệt và làm rõ các vấn đề môi trường liên quan đến những tranh cãi chính trị về quyền sở hữu. Quyền sở hữu đã và đang là một vấn đề chính trị trong suốt quá trình lịch sử; trong nhiều cuộc chiến tranh, người ta đã chiến đấu vì quyền sở hữu đất đai và kể từ cuộc Cách mạng Công nghiệp, đã có nhiều cuộc chiến chính trị tập trung vào quyền sở hữu các phương tiện sản xuất. Đảng Tự do và Đảng Bảo thủ bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, trong khi những người theo Chủ nghĩa xã hội lại ủng hộ tập thể hoá. Trong cuộc tranh luận về môi trường, người ta thường cho rằng những tổ chức, cá nhân mưu cầu lợi ích đã phá huỷ môi trường, ví dụ, bằng cách chặt phá rừng, sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp, gây ô nhiễm nước và không khí. Trái lại, các nhà kinh tế thì
- 5 cho rằng quyền sở hữu tư nhân là yếu tố cơ bản đối với việc bảo vệ môi trường. Hơn nữa, quyền sở hữu tư nhân cũng là yếu tố cơ bản cho hệ thống kinh tế thị trường. Thực vậy, các nhà kinh tế cho rằng, quyền sở hữu hiệu quả trong một nền kinh tế thị trường hoạt động tốt phải có tính phổ biến, độc quyền, có thể chuyển giao và được thực thi (Tietenberg, 2000, tr. 62). Mặt khác, các luật sư có nhiệm vụ làm rõ và bảo vệ quyền sở hữu, thì hiểu rằng các yêu cầu này không bao giờ có thể được đáp ứng. Nói cách khác, “Quyền sở hữu” là một khái niệm không rõ ràng. Phân tích về quyền sở hữu và môi trường của chúng tôi được chia thành hai chương. Chương 3 trình bày phân tích kinh tế riêng về việc bảo vệ các nguồn lực khan hiếm. Điểm mấu chốt ở đây là sự thiếu kiểm soát có thể dẫn đến tuyệt chủng hoặc cạn kiệt các nguồn tài nguyên như rừng, cá, chim và động vật có vú. “Thảm kịch của dân chúng”, tức là việc khai quá mức các nguồn lực từ tiếp cận mở rộng đến khan hiếm cũng được trình bày và minh hoạ. Sự kết hợp của một số điều kiện sinh học với các điều kiện kinh tế nhất định có thể dẫn tới sự tuyệt chủng. Những vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất không thể ngăn chặn và kiểm soát được liên quan đến dân chúng toàn cầu như không khí, tầng ozone và các vùng biển. Trong Chương 4, chúng tôi liên đới phân tích kinh tế về độc quyền và kiểm soát các nguồn tài nguyên khan hiếm với quyền sở hữu hợp pháp. Việc sử dụng và kiểm soát độc quyền một tài nguyên thường được nói đến trong tài liệu kinh tế đồng nghĩa với quyền sở hữu tư nhân. Nhưng, độc quyền không nhất thiết có nghĩa là nó được luật pháp bảo vệ, vì thế trở thành một quyền hợp pháp. Nghề nghiệp có thể là nguồn gốc của độc quyền, nhưng tất nhiên, sẽ tốt hơn nếu như quyền độc quyền được Nhà nước quy định để tránh xung đột và chiến tranh - một vấn đề cấp thiết cho cả con người và môi trường. Chương này nghiên cứu chung đối với quyền sở hữu tư nhân và vai trò cơ bản của quyền sở hữu đối với hệ thống kinh tế thị trường. Điều đó không có nghĩa là một nền kinh tế thị trường tự do dựa trên quyền sở hữu tư nhân là giải pháp chính trị tốt nhất cho hầu hết các vấn đề. Trong thực tế, nền kinh tế thị trường tự do còn bao gồm nhiều hình thức sở hữu chung và tập thể mà rõ ràng có lợi thế nhất định. Quyền sở hữu được ghi nhận là một tập hợp các quyền được quy định tại các văn bản pháp lý khác nhau có thể được thay đổi bởi pháp luật. Như vậy, quyền sở hữu chỉ là một khái niệm tương đối. Mặt khác, nhân quyền và quyền của môi trường đôi khi như là các quyền tự nhiên và tồn tại độc lập với hệ thống chính trị hoặc kinh tế hiện hành. Một thế mạnh của quyền sở hữu là nó có thể được thúc đẩy trên nền tảng kinh tế thuần tuý. Phần II – Nguồn lực, giá cả và tăng trưởng bền vững Trong Phần II chúng tôi trình bày các nguyên tắc kinh tế học. Phần trình bày này được giới hạn ở mô hình lý thuyết giá tiêu chuẩn. Mô hình này dựa trên một tập hợp những thể chế có sẵn, bao gồm trật tự pháp lý, thị trường, doanh nghiệp và hộ gia đình. Lý thuyết này đủ cho một cuộc thảo luận hiệu quả về việc sử dụng nguồn tài nguyên không tái tạo như các kim loại và dầu mỏ - là những nguồn tài nguyên đang ngày càng mai một và như tài nguyên nước dù vẫn tồn tại, nhưng chất lượng suy giảm. Đồng thời, chúng tôi cũng sử dụng lý thuyết kinh tế truyền thống để trao đổi về tiến bộ kinh tế và tăng trưởng bền vững. Chương 5 phác thảo lý thuyết cơ bản về giá cả ở các thị trường cạnh tranh. Trước tiên, chúng tôi xem xét các quyền lợi trong trao đổi song phương. Sau đó, chương này đề cập đến cầu
- 6 và cung. Những ứng dụng về môi trường sau đây quan tâm đến các nguồn tài nguyên không tái sinh như khoáng sản và nhiên liệu hoá thạch. Nguồn tài nguyên khoáng sản hiện có ngày một cạn kiệt, trở thành chủ đề chính trong các cuộc tranh luận về môi trường. Điều này cũng đưa tới kết quả là sự thay đổi của chính sách môi trường và hỗ trợ pháp lý, ví dụ, năng lượng gió và tái chế, với mục đích duy trì các cơ sở tài nguyên toàn cầu. Tuy nhiên, các nhà kinh tế thường lo lắng quá mức về sự suy giảm nguồn tài nguyên sẵn có, bởi vì tình trạng khan hiếm ngày càng tăng được phản ánh trong giá cả sẽ làm thay đổi hành vi. Nếu cung giảm, giá sẽ tăng lên. Giá cả cao hơn làm tăng việc tìm kiếm các nguồn tài nguyên mới và các phương án thay thế. Trong thực tế, kể từ đầu thế kỷ XIX, giá của nhiều kim loại và nguyên vật liệu thô khác đã không tăng lên và nhiều tài nguyên, kể cả năng lượng đã trở nên rẻ hơn. Về lâu dài, nguồn dầu mỏ trong lòng đất sẽ dần cạn kiệt, nhưng vẫn luôn có nguồn dự trữ; tuy nhiên, việc phát hiện và khai thác sẽ rất tốn kém. Khi sự khan hiếm tăng lên, người ta sẽ có phương án tìm kiếm các nguồn thay thế, ví dụ tái chế, năng lượng mặt trời, gió và điện hạt nhân. Thật vậy, những đầu tư hiện tại cho các phương án thay thế “xanh” có thể được xem như một thích ứng sớm đối với việc tăng giá dầu lửa và các nguồn tài nguyên khác trong tương lai. Chúng tôi cũng trình bày các khái niệm về người tiêu dùng, thặng dư sản xuất và “nghịch lý giá trị”, đó là, sự nhầm lẫn phổ biến giữa giá trị cận biên và tổng giá trị. Nghịch lý này có ứng dụng môi trường của nó liên quan đến trợ giá cho “những nhu cầu thiết yếu” như nước và sự lạm dụng tiềm ẩn đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thất bại thị trường được trình bày trong Chương 6. Trước hết, chương này lý giải về giá trị kinh tế và thông tin hữu ích từ giá cả trong một thị trường hoạt động tốt. Sau đó, chúng tôi đưa vào các khái niệm về các ngoại ứng và phí chịu phạt (Thuế Pigou). Tác động của độc quyền được trình bày vắn tắt bằng một ví dụ về Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC). Hàng hoá công cộng và các loại thuế cũng được giới thiệu. Cần phải có vốn hiểu biết cơ bản về hàng hoá tư nhân và hàng hoá công cộng, cũng như những gánh nặng chi tiêu công cộng trong phân tích sau này. Tuy nhiên, các khái niệm được sử dụng ở đây chỉ là trong một bình luận ngắn gọn về cuộc tranh luận về “thuế xanh”. Ứng dụng chính sách môi trường là vào khái niệm “dòng chảy vòng”. Ý tưởng cho rằng “tư duy vòng” và sản xuất là một sự cải tiến có liên quan đến “tư duy đường thẳng”. Chúng tôi cho rằng, giá cả có ích đối với định hướng của cả nhà sản xuất và người tiêu dùng trong nền kinh tế, điều đó cũng đúng đối với sản xuất và xử lý chất thải. Chúng tôi nghi ngờ quan điểm cho rằng, thời đại tiền công nghiệp, việc sử dụng các nguồn tài nguyên được quản lý tốt hơn so với xã hội công nghiệp hiện đại. Một quan điểm nghi ngờ khác là việc giảm thiểu chất thải được ưa thích hơn. Một số phương pháp nhất định, như tái sử dụng và tái chế, được coi là có ưu thế hơn đối với chôn lấp. Tuy nhiên, hình thức giảm thiểu chất thải có thể tốn kém và thậm chí dẫn đến tổn thất về tài nguyên. Vì vậy, cần thiết phải có phân tích hết sức nghiêm túc. Thị trường tín dụng và đánh giá kinh tế các rủi ro và dự án rủi ro được trình bày trong Chương 7. Khái niệm cơ bản về thị trường tài chính cũng được giới thiệu trong chương này. Tất nhiên, lý do của việc đưa vào các khái niệm này là những vấn đề đó rất cần thiết để hiểu được cách đánh giá các vấn đề môi trường sau đây, những vấn đề phụ thuộc cơ bản vào các khoản tiết kiệm cho tương lai cũng như các khái niệm về rủi ro và sự không chắc chắn.
- 7 Ngoài phần giới thiệu chung về phân tích tín dụng và rủi ro, ba ứng dụng môi trường quan trọng cũng được trình bày. Thứ nhất, các khái niệm về trung tính rủi ro và ác cảm rủi ro liên quan đến các kết quả của những nghiên cứu tâm lý đối với nhận thức về rủi ro của con người. Tính hợp lý hạn chế việc gây ra thất bại hệ thống trong nhận thức về thiệt hại nghiêm trọng với xác suất rất thấp. Các cá nhân cũng không đánh giá đúng mức những rủi ro “có thể kiểm soát được”, ví dụ như ăn uống, lái xe và trượt tuyết. Những hiện tượng này và sự khai thác về chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng có thể giải thích cho những thái độ không phù hợp và hành vi không đúng đắn liên quan đến các vấn đề môi trường. Thứ hai, giá trị hiện tại ròng của một nguồn lực được sử dụng như một công cụ đo lường giá trị kinh tế của quyền sở hữu đối với một tài sản. Công thức giá trị hiện tại ròng chỉ ra rằng rủi ro làm giảm giá trị của tài sản. Nếu trong các rủi ro có rủi ro chính trị, tức là nguy cơ bị tịch thu hoặc thay đổi chính trị độc đoán, điều này sẽ làm giảm giá trị tài sản do giá trị kỳ vọng giảm và ác cảm rủi ro của chủ sở hữu tài sản. Do vậy, quan điểm chính trị đặc biệt độc đoán, thiển cận đã làm giảm giá trị. Mặt khác, quan điểm chính trị dài hạn dựa trên các nguyên tắc pháp lý cho những thay đổi trong luật pháp và thuế sẽ tạo nên giá trị. Do đó, giá trị hiện tại ròng đưa ra một biện pháp đo lường giá trị kinh tế của sự chắc chắn pháp lý và giá trị kinh tế của quy phạm pháp luật bảo hộ quyền sở hữu. Nó cũng minh hoạ các vấn đề gây tranh cãi về sung công và doanh thu đối với công tác bảo vệ môi trường. Thứ ba, chiết khấu lợi ích và chi phí tương lai trong công thức giá trị hiện tại ròng cho thấy rằng những ảnh hưởng của hơn 50 năm trước đã bị lãng quên thực sự trong các tính toán kinh tế. Do đó, không có cân nhắc kinh tế nào về các thế hệ tương lai xuất phát từ lý thuyết giá cả. Điều này rõ ràng có thể có những hậu quả nghiêm trọng đối với quan niệm về phát triển bền vững. Chương 8 xem xét nguyên tắc phát triển bền vững và liên hệ nguyên tắc đến sự tăng trưởng kinh tế. Cách lý giải về nguyên tắc bền vững mà chúng tôi sử dụng là nhằm hướng vào sự tăng trưởng kinh tế, dưới sự ràng buộc của các nguồn tài nguyên bền vững cho tương lai. Sự ràng buộc của khả năng bền vững được thúc đẩy bởi sự giả định rằng số lượng tài nguyên thiên nhiên là có trước. Ý tưởng là việc khai thác các nguồn tài nguyên dẫn đến hậu quả là các nguồn tài nguyên này ngày càng cạn kiệt và có thể là nguyên nhân gây ra nạn đói trong tương lai. Các nhà kinh tế học cổ điển như Thomas Malthus và David Ricardo đã giữ quan điểm bi quan này – chính điều này là nền tảng cơ bản của chính trị môi trường và pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, cũng có những dự báo lạc quan hơn. Trong khi quan điểm bi quan dựa vào ý tưởng rằng tài nguyên thiên nhiên hạn chế sự tăng trưởng dài hạn, những người theo chủ nghĩa lạc quan lại đưa ra một cách giải thích khác về sự tăng trưởng và điều kiện để đảm bảo tính bền vững. Tính sẵn có của tài nguyên thiên nhiên không phải là điều kiện cần hay điều kiện đủ cho khả năng bền vững. Thật vậy, các quốc gia có nguồn tài nguyên khổng lồ như Liên Xô cũ, cũng như các nước ở châu Phi và Mỹ Latinh vẫn nghèo, trong khi khu vực Đông Á và châu Âu có nhiều quốc gia giàu mạnh, mặc dù nguồn tài nguyên thiên nhiên của những nước này khá hạn chế. Những lý giải kinh tế truyền thống cho sự tăng trưởng là tăng cường vốn vật chất và cải tiến công nghệ. Đầu tư và tài nguyên thiên nhiên đã được chuyển thành máy móc, cơ sở hạ tầng và
- 8 kiến thức. Các yếu tố sản xuất này cũng có thể bù đắp cho những nguồn tài nguyên chưa khai thác đã bị suy giảm. Các nhà kinh tế đã chấp nhận rộng rãi rằng động lực đằng sau sự tăng trưởng kinh tế là “các nền kinh tế quy mô”. Đó là, tính chuyên sâu và sản xuất quy mô lớn đã làm tăng sản lượng đầu ra mà không có một sự tăng đầu vào lớn tương ứng. Tuy nhiên, sản xuất quy mô lớn, cũng giống như là giao thông vận tải, có thể gây nên những ngoại ứng tiêu cực. Tương tự, sản xuất và tiêu thụ lớn sẽ gây ô nhiễm và đe doạ đa dạng sinh học. Do đó, vốn vật lý và kiến thức kỹ thuật cũng không đủ để đảm bảo sự phát triển bền vững. Hơn nữa, kỹ thuật viên có tay nghề cao không phải là người đảm bảo cho sự giàu có hay làm cho chất lượng cuộc sống tăng lên. Những sự thật này đã làm tăng mối quan tâm vào những lý giải thể chế theo những kiểu mà chúng tôi nhấn mạnh trong cuốn sách này. Tóm lại, quan điểm cho rằng “tài nguyên sẽ đến lúc cạn kiệt và do vậy nhân loại sẽ chết đói trong tương lai” là quan điểm quá ấu trĩ và sai lệch. Những nguồn tài nguyên mới, nghĩa là, nguồn lực vật chất và nhân lực sẽ không ngừng được tạo ra bằng cách đầu tư và sẽ có một giá trị trong tương lai, mặc dù được chiết khấu. Việc lạm dụng các nguồn tài nguyên phụ thuộc một phần vào ngoại ứng tiêu cực, nghĩa là, không đủ các thể chế pháp lý bảo vệ quyền sở hữu, kiểm soát tham nhũng và thúc đẩy các chuẩn mực xã hội, giảm sự lãng phí và thiết lập các chính sách khuyến khích công việc có năng suất. Nguyên tắc tính bền vững pháp lý hướng mục tiêu vào các thế hệ tương lai. Nhưng tính về lâu dài, lợi ích và chi phí được chiết khấu về 0 trong các tính toán kinh tế. Các nhà kinh tế đã thử nhiều cách khác nhau để đưa vào những cân nhắc cho các thế hệ tương lai, ví dụ, bằng tỷ lệ chiết khấu đặc biệt cho đầu tư về môi trường, các giá trị tuỳ chọn của các loài và hợp đồng xã hội giữa các thế hệ khác nhau. Quan điểm của chúng tôi là mô hình kinh tế dựa vào sở thích của thế hệ hiện nay không thích hợp để trả lời câu hỏi “các thế hệ tương lai nên được đối xử như thế nào”. Tất nhiên, thế hệ hiện nay có thể có sở thích liên quan đến các thế hệ tương lai và môi trường của họ, nhưng tiêu chí xã hội như vậy không thể giải thích được bằng kinh tế học - chỉ tiêu và đạo đức là những vấn đề đạo đức. Trong Phần III, chúng tôi phân tích các quy định công cộng và pháp lý trong khuôn khổ một hệ thống kinh tế nơi có thị trường, công ty và hệ thống pháp lý được coi như đã được xác định. Đây là cách tiếp cận kinh tế truyền thống đến những vấn đề môi trường, rất quen thuộc trong hầu hết các sách, giáo trình về kinh tế. Cách tiếp cận này được ứng dụng rất hữu ích cho kinh tế tài nguyên, kinh tế tăng trưởng, v.v , như đã được chứng minh ở Phần II. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không đủ cho một phân tích thể chế như quyền sở hữu tài sản và pháp luật môi trường cụ thể. Trong Phần I, chúng tôi đã bắt đầu bằng việc giới thiệu một số khái niệm kinh tế học thể chế về quyền. Ở đây, trong Phần III, bắt đầu bằng chương 9, chúng tôi tiếp tục áp dụng kinh tế học thể chế vào quy định pháp lý cụ thể. Cách tiếp cận này giải thích sự sắp đặt thể chế bằng cách sử dụng khái niệm về các chi phí giao dịch. Phân tích mang tính quy phạm như vậy giả định rằng mục tiêu của pháp luật là giảm chi phí giao dịch trong thương mại. Và trong trường hợp không có thương mại, chúng tôi giả định rằng pháp luật nên giảm thiểu tổng chi phí thiệt hại xảy ra khi không có
- 9 thoả thuận cá nhân. Chỉ tiêu mang tính chủ nghĩa cá nhân và phù hợp với tiêu chuẩn Pareto. Nói cách khác, những gì mà các bên tự do chấp nhận trong thương mại là tốt cho xã hội. Trong trường hợp không có sự trao đổi như các bên có thể đã làm trong một thế giới mà không có chi phí giao dịch, các nhà làm luật phải lập pháp hoặc quy định. Cách tiếp cận này phân tích cơ cấu pháp luật. Kết quả của một hợp đồng trong một thế giới mà không có chi phí giao dịch được sử dụng như là chuẩn mực cho các luật lệ hiệu quả của pháp luật. Cách tiếp cận này cũng phù hợp với hầu hết các luật môi trường điều tiết các ngoại ứng tiêu cực và ăn bám do một số loại chi phí giao dịch. Chương này kết thúc với hai ứng dụng. Một là cho chính sách môi trường, trách nhiệm của nhà sản xuất phải mở rộng để có nguồn hàng hoá lâu dài. Liệu ai trong dây chuyền sản xuất chịu trách nhiệm về tái chế hàng hoá? Phân tích chi phí giao dịch đưa ra được phương pháp tiếp cận và câu trả lời. Ứng dụng khác là cho các mối quan hệ quốc tế, nơi có quyền của người thực tế gây tổn hại được bồi thường trái ngược với nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền. Kết quả cho ta thấy rằng, ngành công nghiệp bị ô nhiễm (thế giới phương Tây) trả tiền cho bên gây ô nhiễm (Thế giới thứ 3) để làm giảm ô nhiễm có thể là rất hiệu quả. Một nhà lập pháp tìm kiếm những quy tắc hiệu quả phải cân nhắc lợi ích và chi phí cận biên của tất cả các bên liên quan. Các phương pháp mang tính thực tiễn cho việc cân nhắc này được trình bày trong Chương 10. Đầu tiên, chúng tôi mô tả phương pháp phân tích chi phí-lợi ích xã hội (CBA). Trong CBA, các chi phí và lợi ích của các bên khác nhau được gộp vào nhau. Nếu lợi ích vượt quá chi phí thì dự án hoặc quy tắc pháp lý đó được ưa chuộng hơn. Tổng kết này được dựa trên những giả định thiết thực: (i) rằng Chính phủ nhằm vào mục tiêu phúc lợi xã hội tối đa, (ii) rằng tiền, tại biên, có tiện ích như nhau đối với tất cả mọi người; và (iii) rằng giá cả phản ánh chi phí cơ hội của các nguồn tài nguyên. Tất nhiên, đây là những giả định hết sức thuyết phục. Tuy nhiên, CBA được sử dụng rộng rãi, là một công cụ thứ nguyên và đơn giản để phán xét - tất cả đều được tính bằng tiền và chỉ nên chọn các dự án có lợi. Tất nhiên, có rất nhiều vấn đề với CBA lý tưởng. Một là đo lường lợi ích và chi phí. Ví dụ, trong các pháp luật về môi trường, chi phí có thể xác định được, trong khi các lợi ích về một môi trường sạch hơn có lẽ là không thể đo lường được. Đây là lý do tại sao trong thực tế nhiều nghiên cứu chỉ giới hạn ở phân tích chi phí - hiệu quả. Chúng tôi khảo sát các phương pháp đo lường tiêu chuẩn được sử dụng trong CBA. Sau đó, chúng tôi xem xét các khía cạnh của lý thuyết lựa chọn công cộng mà đặt câu hỏi về giả định trong CBA, nghĩa là, mục tiêu của Chính phủ (hoặc của nhà lập pháp) là tối đa hoá phúc lợi xã hội. Tất nhiên, Chính phủ có thể được thúc đẩy bởi những lợi ích đặc biệt hơn là lợi ích công cộng. Do vậy, tính toán phúc lợi xã hội tối đa có liên quan hạn chế đối với nhà lập chính sách. Tuy nhiên, một ước tính chi phí và lợi ích, hoặc các nhóm người chiến thắng và kẻ thất bại là nằm trong lợi ích chung. Phê bình nền tảng của CBA và của phân tích kinh tế nói chung cho thấy rằng, sự cân nhắc về kinh tế không nên áp dụng trong các lĩnh vực như phúc lợi của con người và môi trường. Các giá trị đạo đức phải chi phối chính trị và pháp luật hơn là tính toán kinh tế. Chúng tôi bảo vệ quan điểm rằng việc so sánh các chi phí với lợi ích là cần thiết trong một thế giới có nguồn tài nguyên
- 10 khan hiếm. Khi sự cân nhắc bị từ bỏ, sự khan hiếm bị bỏ qua, kết quả là sự không hiệu quả, tức là lãng phí nguồn tài nguyên. Trái với kinh tế học, chuẩn mực đạo đức thường được thể hiện trong điều khoản tuyệt đối - đầu tư phải an toàn, nguồn nước phải sạch, cuộc sống phải luôn luôn được bảo vệ, v.v Tuy nhiên, sự an toàn và sạch chỉ là những vấn đề có tính tương đối và lâu dài. Chúng ta xem xét lý do tại sao nhiều vấn đề môi trường được trình bày với các thuật ngữ mang tính tuyệt đối chứ không phải là các thuật ngữ tương đối thực tiễn hơn. Một lý do khác có thể là chỉ tiêu chính sách thường là kết quả của một thoả hiệp chính trị. Có lẽ người ta dễ dàng nhất trí một tuyên bố tích cực không liên quan đến chi phí. Một lý do khác có thể là chúng tôi giảng dạy bằng mệnh lệnh như: “Bạn không được phạm tội”, hay “Gây ô nhiễm là xấu”. Đây có thể là một phương pháp giảng dạy hiệu quả, mặc dù tội phạm và ô nhiễm xảy ra trong tất cả các xã hội. Một nguyên tắc cơ bản trong kinh tế quy chuẩn là tự do thương mại mang lại lợi ích cho các thương nhân và cho cả xã hội nói chung. Tuy vậy, đạo đức môi trường lại tố cáo rằng thương mại có thể là vô đạo đức. Buôn bán chất thải được coi là xấu, đặc biệt là buôn bán quốc tế. Theo nguyên tắc, chất thải phải được xử lý ở nơi phát sinh và Công ước Basel nêu rõ chất thải nên được xử lý và tái chế tại địa phương. Chúng tôi thảo luận và phân tích những ý tưởng chung này, mặc dù có những hoàn cảnh rõ ràng nơi mà thương mại tự do có thể bị hạn chế. Chương này được hoàn thành bằng phần đánh giá giá trị của cuộc sống dựa trên các tính toán kinh tế. Về phương diện đạo đức, có thể lập luận rằng không nên đánh giá cuộc sống bằng tiền. Tuy nhiên, việc đặt giá trị của cuộc sống của con người trong tính toán các dự án ám chỉ một giá trị 0 đã thất bại. Chúng tôi trình bày các phương pháp để xác định một giá trị kinh tế cho một cuộc sống hoặc cuộc sống đã bị mất. Trong Chương 11, chúng tôi xem xét các quy định của ngành công nghiệp. Chính sách môi trường về xả thải công nghiệp thường dựa trên các hướng dẫn. Công nghiệp nên sử dụng các công nghệ tốt nhất hiện có (BAT), hoặc một số tiêu chuẩn tương tự. Những tiêu chuẩn không rõ ràng và chung chung như vậy ủy quyền cho một cơ quan môi trường có trách nhiệm thi hành pháp luật. Các tiêu chuẩn khác, chẳng hạn như tiêu chuẩn xả thải hoặc chỉ tiêu, có nhiều yêu cầu hơn đối với ngành công nghiệp. Vấn đề ở đây là cơ quan môi trường lại thường thiếu thông tin về ngành công nghiệp mà nó phải kiểm soát. Vì vậy mà cơ quan đó phải thương lượng với ngành công nghiệp. Kết quả là, cơ quan này có thể ít nhiều bị ngành công nghiệp điều khiển. Có một xu hướng thuận lợi trong chính sách môi trường thiên về “phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm kết hợp” (IPPC). Một khía cạnh của IPPC là đôi khi những quy tắc đồng nhất được đề nghị cho ngành công nghiệp ở các quốc gia khác nhau, ví dụ như trong khu vực liên minh châu Âu (EU). Điều này, ở một phạm vi nào đó, có thể lý giải được bằng mong muốn “làm hài hoà các điều kiện tiếp thị” cho ngành công nghiệp ở châu Âu. Tuy nhiên, nó lại phụ thuộc vào tác động và cách đánh giá mức độ ô nhiễm khác nhau giữa các nước. Các quy tắc đồng nhất về mặt làm hài hoà các điều kiện tiếp thị vì thế có thể kết thúc với các giải pháp phù hợp với sở thích và điều kiện của địa phương.
- 11 Trong Chương 12, chúng tôi bàn luận về luật đất đai. Việc sử dụng đất được quy định nhiều hơn tài sản tư nhân không cố định. Các kế hoạch địa lý quy định những khu vực nào được sử dụng cho cư trú, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông đường xá, v.v (được gọi là quy hoạch). Chủ sở hữu có quyền lựa chọn vị trí trong khuôn khổ quy hoạch này. Các quyết định liên quan đến mùa màng, trồng cây, sơn nội thất và những vấn đề tương tự tùy thuộc vào ý muốn của chủ sở hữu, nhưng đôi khi bị chính quyền quy định. Chúng tôi đưa ra những giải thích khác nhau cho hiện tượng gia tăng sự can thiệp có quy định này vào trường hợp đất đai. Một là, giá trị của bất động sản phụ thuộc vào vị trí sự đầu tư và các hoạt động khác ở khu vực xung quanh. Vì vậy, người sở hữu tài sản thường cố gắng gây ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai thuộc về người khác bằng các hoạt động chính trị. Một cách lý giải thứ hai là, hàng xóm đang ở trong một mối quan hệ mâu thuẫn nhỏ nhặt. Vì vậy, không có giải pháp thị trường đơn giản để giải quyết xung đột của họ - các tranh chấp có thể cứ tiếp tục qua nhiều thế hệ mà không thể giải quyết được. Quy tắc pháp luật và/hoặc một thẩm phán độc lập có thể là cần thiết để giải quyết xung đột. Lý giải thứ ba, là đất đai có nhiều mục đích sử dụng. Nó có thể được sử dụng cùng một lúc cho nông nghiệp, giao thông và du lịch. Thoả thuận giữa những mục đích sử dụng đó có thể là không khả thi. Chi phí giao dịch có thể lớn, đặc biệt là nếu các bên không biết nhau. Các vấn đề môi trường mà chúng tôi bàn luận trong bối cảnh này là quy hoạch và luật gây thiệt hại. Một vấn đề quan trọng ở đây là lựa chọn thời điểm giải quyết. Liệu rằng người đến trước có được pháp luật bảo vệ khi có xung đột với người đến sau không? Với những điều kiện nào thì người đến sau có quyền định cư và làm phiền người đến trước? Quy hoạch là phương pháp phổ biến nhất để điều tiết các tranh chấp về tài nguyên không gian. Do đó, người sở hữu bị hạn chế quyền sử dụng tài sản của họ và định cư ở những nơi họ được phép kinh doanh. Chi phí giao dịch và các chi phí trong đầu tư bỏ qua trong di dời là quan trọng khi phân tích kinh tế về luật đất đai. Những người hoạt động trong lĩnh vực môi trường đôi khi lập luận rằng, tất cả các vùng đất bị ô nhiễm nên được làm sạch cho dù chi phí rất lớn. Tuy nhiên, nhu cầu làm sạch rất khác nhau ở các vùng khác nhau. Có cùng yêu cầu về mức độ trong sạch ở khắp mọi nơi là một sự lãng phí tài nguyên. Thật vậy, quy hoạch là một cách sử dụng đất ở các nền kinh tế quy mô. Nghĩa là, bằng cách chia đất thành các khu vực cho cư trú, công nghiệp, công viên quốc gia, v.v , chúng ta có thể có cả vùng hoang dã và một ngành công nghiệp gây ô nhiễm. Nếu tất cả là công nghiệp hay công viên quốc gia thì chúng ta còn tồi tệ hơn. Trong Chương 13, chúng tôi xem xét các loại thuế, phí và giấy phép thương mại về môi trường. Các biện pháp tương tự để điều chỉnh tác động tiêu cực bên ngoài theo truyền thống được các nhà kinh tế ưa thích hơn và được áp dụng rộng rãi trong các tài liệu kinh tế môi trường truyền thống. Liên quan đến tầm quan trọng thực tế, phí có vẻ đã được nghiên cứu quá mức. Cũng từ một quan điểm pháp lý, các loại phí ít được quan tâm hơi hạn chế so với kế hoạch và quy hoạch - là các công cụ pháp lý có tầm quan trọng thực tiễn rất lớn. Chúng tôi áp dụng phương pháp tiếp cận quyền sở hữu Coase trong một phần về giấy phép thương mại. Trong thực tiễn, có một số loại giấy phép thương mại được buôn bán trong một thị trường dành cho giấy phép. Hiệu quả được thiết lập bởi một thực tế là các nhà thầu bỏ thầu cao nhất để có giấy phép sẽ trả tiền mua chúng từ người bán (trung gian). Phí, có nghĩa là thuế môi
- 12 trường của Pigou, tương tự như quyền được buôn bán. Sự khác biệt để phân biệt giấy phép với phí, thuế là, trong trường hợp thuế (giấy phép buôn bán), những người sử dụng phải trả tiền cho Nhà nước (chủ sở hữu ban đầu) để có quyền gây ô nhiễm. Giấy phép buôn bán và phí có thể áp dụng được khi mục tiêu là giảm phần nào mức độ ô nhiễm và có một số đơn vị mua bán giấy phép trên thị trường. Ví dụ, lượng giao thông, sử dụng xăng dầu hoặc thuốc trừ sâu có thể giảm được một cách có hiệu quả nhờ các loại phí.
- 13 2. NGUYÊN TẮC CỦA CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG 1. Giới thiệu Trong chương này, chúng tôi trình bày nguyên tắc chung của chính sách môi trường. Chúng tôi cũng giới thiệu ngắn gọn các vấn đề kinh tế liên quan đến những nguyên tắc này. Mục đích là để tiếp cận với phần còn lại của cuốn sách. Một phân tích chi tiết hơn về luật pháp cụ thể quy định việc sử dụng tài nguyên môi trường như luật sở hữu tài sản, luật hành chính, luật vi phạm pháp luật và luật hình sự sẽ được trình bày trong phần tiếp theo. Mục 2 trình bày nguyên tắc phát triển bền vững. Nguyên tắc này khuyến khích tăng trưởng kinh tế, với điều kiện là phải đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Các nguyên tắc của công tác dự phòng và ngăn ngừa được nêu trong Mục 3. Ý tưởng chung ở đây là “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Nhìn chung, câu ngạn ngữ này là một phương châm kinh tế tốt. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế đòi hỏi có sự cân bằng giữa chi phí và lợi ích. Thật vậy, có những trường hợp mà trong đó các chi phí của công tác dự phòng và/hoặc ngăn ngừa vượt quá cả lợi ích cho xã hội và môi trường. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền được bàn luận trong Mục 4. Quan niệm cho rằng người gây ô nhiễm phải trả giá cho các thiệt hại họ gây ra là một nguyên tắc kinh tế được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, vấn đề này cũng được xem xét, ví dụ, Ronald Coase (1960) trong các định lý Coase nổi tiếng. Trong phần này, các định lý Coase đã được giới thiệu vắn tắt và là một trong những nền tảng của phần còn lại của cuốn sách. Trong Mục 5, chúng tôi trình bày về nguyên tắc xử lý chất thải tại nguồn, trong đó nêu rõ rằng hành động gây tổn hại môi trường phải được xử lý tại nguồn. Quan điểm có thể có yêu cầu chung như là một hướng dẫn trong cuộc sống - mỗi người đều phải giữ “sân sau” của mình sạch sẽ. Ý tưởng là xử lý và tái chế chất thải tốt nhất là do chủ thể phát sinh ra chất thải thực hiện. Trong Mục 6, chúng tôi xem xét quyền môi trường trong hiến pháp. Ví dụ, nhiều hiến pháp của các quốc gia hiện đại (Tây Âu) nêu rõ quyền có một môi trường trong sạch. Do đó, nguyên tắc chính sách môi trường cũng đã trở thành pháp luật về môi trường. Mục 7 bàn luận về bản chất kinh tế của các nguyên tắc môi trường. Cuối cùng, Mục 8 là phần kết luận. 2. Phát triển bền vững Khái niệm “phát triển bền vững” được đề cập trong Tuyên bố Stockholm năm 1972 và Tuyên bố Rio 1992, trong đó, Nguyên tắc 4 nêu rõ “quyền phát triển phải được thực hiện đáp ứng công bằng nhu cầu phát triển và môi trường của các thế hệ hiện tại và tương lai”. Quan trọng nữa là cam kết lồng ghép những xem xét về môi trường vào kinh tế và các khía cạnh phát triển khác. Thuật ngữ “phát triển bền vững” cũng được giới thiệu vào năm 1987, trong một báo cáo của Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển gọi là Tương lai chung của chúng ta, thường được gọi là Báo cáo Brundtland. Báo cáo định nghĩa phát triển bền vững là “sự phát triển đáp ứng các nhu
- 14 cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng các thế hệ tương lai đáp ứng nhu cầu riêng của họ”. Hơn nữa, Hiệp ước EC, được sửa đổi bởi Hiệp ước về Liên minh châu Âu (hay còn được gọi là Hiệp ước Maastricht), nêu rõ tại Điều 2 rằng: Cộng đồng có trách nhiệm thiết lập một thị trường chung, một tập đoàn kinh tế và tiền tệ bằng cách thực hiện các chính sách chung, hoặc các hoạt động nêu tại Điều 3 và 4 nhằm thúc đẩy một sự phát triển hài hoà, cân bằng và bền vững các hoạt động kinh tế, tỷ lệ có việc làm và bảo vệ xã hội, bình đẳng giới, tăng trưởng bền vững và không lạm phát, có tính cạnh tranh cao gắn với bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống, gắn kết kinh tế, xã hội và đoàn kết giữa các Quốc gia thành viên. Tài liệu này được đề cập tới trong văn bản pháp lý như một nguyên tắc phát triển bền vững. Nó đòi hỏi Liên minh châu Âu thúc đẩy một sự phát triển hài hoà, cân bằng và bền vững các hoạt động kinh tế. Có thể không xác định được khái niệm một cách chính xác.1 Tuy nhiên, rõ ràng là về cơ bản, nguyên tắc này nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong phạm vi những hạn chế của các nguồn tài nguyên bền vững (được định nghĩa rộng rãi) cho tương lai. Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế là mục tiêu và nó phải được thực hiện (ít nhất là trong Liên minh châu Âu) trong một thị trường chung tự do với tỷ lệ việc làm cao, với mức độ bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường cao. Tăng trưởng kinh tế thường được đo bằng sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) – chỉ số thể hiện tổng giá trị kinh tế của sản phẩm và dịch vụ sản xuất tại một quốc gia trong một năm. Các biện pháp đo lường GDP thường bị đặt dấu hỏi, ít nhất là trong các cuộc tranh luận về môi trường: sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên nên được giải thích như thế nào? Làm thế nào để đảm bảo rằng một xã hội văn minh và thịnh vượng sẽ được duy trì cho các thế hệ tương lai? Chúng tôi sẽ không thể trả lời tất cả những câu hỏi này, nhưng trong Phần II, chúng tôi sẽ cố gắng để làm rõ các phân tích kinh tế và xác định giá trị nguyên tắc chính sách môi trường. Các nguyên tắc kinh tế, chẳng hạn như trao đổi có lợi, sự hình thành và chức năng của giá cả, đầu tư, mạo hiểm và quy định của luật pháp trong nền kinh tế thị trường, cùng những vấn đề cơ bản để hiểu biết sự tăng trưởng kinh tế và tác động của nó đến môi trường. Điều quan trọng là hiểu được các chỉ tiêu công khai và chỉ tiêu hàm ý của kinh tế, cũng như các giới hạn của phân tích kinh tế. Trong phạm vi rộng, các câu hỏi về môi trường đòi hỏi khắt khe nhất chính là đạo đức - một vấn đề vượt ngoài tầm của kinh tế. Ý định của chúng tôi dưới đây được giới hạn trong một nghiên cứu các khả năng kinh tế trên phạm vi rộng, nhưng cũng có giới hạn. 3. Các nguyên tắc phòng ngừa Nguyên tắc phòng ngừa nêu rõ cần thực hiện các hành động trước khi ô nhiễm, gây thiệt hại hay cạn kiệt môi trường xảy ra (Điều 174 (2) của Hiệp ước EC). Có thể tìm thấy nguyên tắc tương tự trong pháp luật môi trường quốc tế, ví dụ, trong Tuyên bố Stockholm 1972 và trong Nguyên tắc 11 của Tuyên bố Rio 1992. Nguyên tắc này đòi hỏi một hoạt động phải được thực hiện để ngăn chặn, hoặc kiểm soát những hành vi có thể gây tổn hại cho môi trường ở giai đoạn sớm. Nguyên tắc này
- 15 giống như các nguyên tắc khác, không ràng buộc pháp lý, nhưng chức năng như một hướng dẫn chính sách chung. Một tổn thất có thể được ngăn chặn với chi phí thấp hơn nhiều so với sự mất mát của tổn thất đó. Do vậy, ý tưởng “Phòng bệnh hơn chữa bệnh” là một quy luật kinh tế. Các chi phí thực hiện hành động phòng ngừa, ví dụ bằng cách xử lý thận trọng các chất độc hại hoặc bằng cách đầu tư vào công nghệ xử lý chất thải, thường thấp hơn chi phí khắc phục ô nhiễm môi trường hoặc thiệt hại do ô nhiễm gây ra. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa không phải luôn luôn thích hợp hơn. Các biện pháp phòng ngừa mở rộng có thể tốn kém hơn giá trị những thiệt hại đã được ngăn ngừa. Thật vậy, nếu tất cả các biện pháp dự phòng có thể được thực hiện trong một khu vực nhất định, các chi phí về mặt vật chất, tài nguyên con người và môi trường có thể vượt quá những lợi ích mang lại. Một nguyên tắc cơ bản trong kinh tế mà chúng ta sẽ nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong cuốn sách này, đó là lợi ích và chi phí nên được so sánh và cân bằng ở cận biên. Một công ty tối đa hoá lợi nhuận sẽ thực hiện công tác phòng ngừa miễn là các chi phí cận biên nhỏ hơn những lợi ích cận biên và chính quyền thực hiện đầu tư dựa trên tính toán chi phí - lợi ích có thể thực hiện một cân bằng tương tự trên một cộng đồng hay trên một cấp độ xã hội. Tính toán chi phí - lợi ích xã hội sẽ được phân tích kỹ trong Chương 10. Cân bằng chi phí của công tác phòng ngừa là rất quan trọng, ví dụ như trong phân tích các tai nạn và thiệt hại (xem Chương 14) và trong phân tích kinh tế của pháp luật hình sự (xem Chương 16). Điều 174 (2) của Hiệp ước EC cũng nêu rõ rằng, chính sách cộng đồng về môi trường nên được dựa trên nguyên tắc phòng ngừa. Nguyên tắc này cũng có thể được tìm thấy trong các hệ thống pháp lý môi trường quốc gia và luật môi trường quốc tế. Các cơ sở pháp lý cho các nguyên tắc có thể được tìm thấy - không kể những văn bản, tài liệu khác - trong Nguyên tắc 15 của Tuyên bố Rio, cho rằng “những nơi có những mối đe doạ thiệt hại nghiêm trọng hoặc không thể thay đổi được, việc thiếu chắn chắc về khoa học sẽ không được sử dụng như là lý do để trì hoãn biện pháp chi phí - hiệu quả để ngăn chặn suy thoái môi trường”. Nguyên tắc phòng ngừa này đã được sửa đổi trong một số điều ước quốc tế về môi trường. Một ví dụ là Công ước biển Baltic 1992 ghi rõ rằng, các biện pháp phòng ngừa phải được thực hiện ngay cả khi không có lý do để cho rằng thiệt hại có thể xảy ra, hay khi không có chứng cứ kết luận về mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố đầu vào và các hiệu ứng của các đầu vào đó. Một ví dụ khác là Điều 3 (3) của Công ước Khung về Biến đổi Khí hậu (FCCC) ngày 09/5/1992, trong đó nêu rõ: Các bên cần phải có biện pháp để dự báo, ngăn ngừa và giảm thiểu những nguyên nhân gây ra sự biến đổi khí hậu và giảm thiểu tác động bất lợi của nó. Trong trường hợp có mối đe doạ thiệt hại nghiêm trọng hoặc không thể thay đổi, việc thiếu cơ sở khoa học đầy đủ chắc chắn sẽ không được sử dụng như là một lý do để trì hoãn các biện pháp như vậy. Tính đến các chính sách và các biện pháp để đối phó với biến đổi khí hậu nên tính đến chi phí - hiệu quả để đảm bảo lợi ích pháp lý tối đa với chi phí có thể thấp nhất. Ở đây cần lưu ý rằng, các khái niệm kinh tế của phân tích chi phí - lợi ích liên kết với các nguyên tắc phòng ngừa (pháp lý). Hầu hết các học giả pháp lý liên kết các nguyên tắc ngăn ngừa với các nguyên tắc dự phòng, mặc dù một số người có phân biệt giữa hai nguyên tắc này. Nguyên tắc ngăn ngừa, trong đó có nguồn gốc từ trong tiếng Đức “Vorsorge Prinzip”, cho rằng nếu có sự nghi ngờ lớn một
- 16 hoạt động nào đó có thể gây ra hậu quả độc hại cho môi trường, tốt nhất là hành động trước khi quá muộn. Với ý nghĩa đó, nguyên tắc ngăn ngừa đi một bước xa hơn nguyên tắc dự phòng, vì nguyên tắc ngăn ngừa cho rằng cần phải hành động như một sự ngăn chặn, nghĩa là không nên đợi đến khi đã có bằng chứng khoa học không thể bàn cãi về mối quan hệ nhân quả giữa một hoạt động cụ thể và thiệt hại về môi trường. Do đó, nguyên tắc này rất quan trọng trong trường hợp có một giả định, nhưng vì chưa có bằng chứng khoa học rõ ràng và thuyết phục về một số tác động không mong muốn tới môi trường. Ngay cả khi không có bằng chứng tuyệt đối theo nguyên tắc phòng ngừa có thể căn cứ vào thăm dò và dữ liệu khoa học để có biện pháp bảo vệ môi trường. Nghĩa là theo pháp luật môi trường quốc tế này, chúng ta cần là phải có hành động hợp pháp để ngăn chặn các vấn đề đe doạ môi trường như thủng tầng ôzôn và biến đổi khí hậu, ngay cả khi không có sự chắc chắn mang tính khoa học. Tuy nhiên, như định nghĩa của các nguyên tắc ngăn ngừa trong Công ước Biến đổi khí hậu cho thấy, những hành động thực hiện vẫn phải đảm bảo chi phí - hiệu quả. HỘP 2.1. TRƯỜNG HỢP DUDRIDGE Công dân không phải lúc nào cũng thành công khi họ cố gắng yêu cầu phải có các biện pháp chính sách sử dụng nguyên tắc phòng ngừa để giảm thiểu tác hại môi trường. Một vụ kiện nổi tiếng ở Vương quốc Anh đã được xử với những công dân, những người lập luận rằng bức xạ không ion hoá trong các trường điện từ sẽ hoặc có thể là nguyên nhân gây ung thư máu cho trẻ em. Vì vậy, họ yêu cầu Bộ trưởng Anh phải có biện pháp hạn chế bức xạ không ion hoá. Lý luận của họ cho rằng, Bộ trưởng có nghĩa vụ phải hành động ngăn ngừa nếu có khả năng nhỏ nhất nguy cơ tổn hại nghiêm trọng đến sức khoẻ môi trường. Các chuyên gia cho rằng có khả năng có sự liên hệ giữa điện từ trường và ung thư máu ở trẻ em, nhưng họ thấy cần phải nghiên cứu thêm. Vụ kiện đã được Toà án tối cao xử, trong đó xác định Điều 130R của Hiệp ước EC1 nêu rõ nghĩa vụ đối với Bộ trưởng là phải áp dụng các nguyên tắc phòng ngừa vào xem xét trách nhiệm của mình theo Luật về Điện ở Anh. Trên cơ sở các chính sách tại Điều 130R đã có hiệu lực, Toà án tối cao thông qua việc đưa vào các biện pháp phòng ngừa của EC. Hội đồng các Bộ trưởng EC thông qua các biện pháp cần thiết để thực thi chính sách. Do đó, Toà án phán quyết rằng các nguyên tắc tại Điều 130R không tạo ra một nghĩa vụ cho Bộ trưởng phải áp dụng nguyên tắc ngăn ngừa để có hành động phù hợp. Điều này cho thấy, Bộ trưởng có thể áp dụng nguyên tắc phòng ngừa một cách hợp pháp để thực thi quyền lực của mình theo Luật Điện lực năm 1989, nhưng không bắt buộc phải làm như vậy. Tóm lại, Toà án tối cao cho rằng các nguyên tắc phòng ngừa đã không ép buộc Bộ trưởng Vương quốc Anh phải có biện pháp. Ghi chú: 1. Là kết quả của Hiệp ước Maastricht, điều này đã trở thành Điều 174. Nguồn: Dựa theo Toà án tối cao, ngày 03/10/1994. Regina v. Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp, báo cáo ENDS, 237, tháng 10/1994, trang, 41-21. Mặt khác, nếu các ý kiến chung cho rằng một ngành công nghiệp gây ô nhiễm nên được phép tiếp tục hoạt động trong trường hợp không chắc chắn chiếm ưu thế, chúng tôi có thể trình bày về “tính lạc quan công nghiệp”. Trong tình huống như vậy, gánh nặng tìm kiếm bằng chứng đặt lên bên mong muốn cấm hoạt động. Thay vào đó, nếu các ý kiến chung là không nên cho phép hoạt động này ngay cả khi sự không chắc chắn chiếm ưu thế, chúng ta có các nguyên tắc ngăn ngừa. Ở đây, bên mong muốn cho phép một hoạt động phải chứng minh rằng hoạt động đó mang lại lợi ích xã hội. Tính lạc quan công nghiệp từng là thái độ chiếm ưu thế ở nhiều nước trong thế kỷ XX.
- 17 Niềm tin rằng lợi ích thông thường phải vượt hơn tác hại tiềm tàng của ngành công nghiệp đã được củng cố. Thực tế là một số người trong xã hội, mà sẽ bị tổn hại, đã được chấp nhận sự hoạt động của ngành công nghiệp vì niềm tin vào lợi ích đã được thổi phồng. Tăng trưởng kinh tế và sự tích luỹ vốn và kiến thức, cũng như phát triển các hệ thống phúc lợi, an sinh xã hội của Nhà nước, được coi là nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tiềm ẩn (xem Chương 8). Mặc dù ý nghĩa của các nguyên tắc ngăn ngừa không phải là khá rõ, nó có thể được xem như là một sự chuyển đổi trong cách tiếp cận với việc ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn. Tính lạc quan công nghiệp đã mất vị trí thống trị, nhưng vẫn còn quan trọng. Thật vậy, hoạt động công nghiệp liên tục diễn ra với niềm tin rằng, trên hết, lợi ích vượt chi phí. Mặt khác, sự cấm đoán và khống chế về chất độc hại, công nghệ sản xuất quá lỗi thời, v.v cũng thường xuyên xảy ra. Do đó, nguyên tắc ngăn ngừa thường được sử dụng trong luật môi trường quốc gia trong quá trình thiết lập tiêu chuẩn (xem Chương 11). Điều này thường dẫn đến áp đặt các tiêu chuẩn xả thải chặt chẽ hơn để ngăn ngừa những rủi ro môi trường nhất định, ngay cả khi tác động là không chắc chắn. HỘP 2.2. NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VÀ LẠC QUAN CÔNG NGHIỆP Ngày nay, nguyên tắc phòng ngừa có thể là chủ đề được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, lạc quan công nghiệp đã chỉ đạo các ngành, các nhà hoạch định chính sách và lập pháp kể từ Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Điều này có thể được minh hoạ bằng chính sách về năng lượng hạt nhân vào những năm đầu của thập kỷ 1960. Hầu hết các công ước ra đời trong khuôn khổ của một trong hai Cơ quan Năng lượng Hạt nhân (NEA) hoặc Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), xuất phát từ một niềm tin rằng các lợi ích to lớn của ngành công nghiệp không nên bị cản trở bởi những trở ngại như tai nạn tiềm ẩn. Ví dụ, chuẩn bị các thủ tục tố tụng đối với Công ước Paris đã làm rõ rằng các nhà lập pháp (quốc tế) muốn giới hạn trách nhiệm pháp lý của các giấy phép của nhà máy điện hạt nhân. Kết quả là, một bản ước tính tài chính đã được đưa vào, trong đó hạn chế việc phơi bày trách nhiệm của ngành công nghiệp hạt nhân. Điều này phù hợp với sự lạc quan nói chung liên quan đến lợi ích của năng lượng hạt nhân. Như vậy, vai trò tương ứng của lập pháp là tạo điều kiện phát triển công nghiệp thay vì phải cản trở nó. Tuy nhiên, chúng ta sẽ chứng minh dưới đây, các tính toán tài chính đã được giới thiệu từ kết quả của lạc quan công nghiệp này có thể được coi là có ảnh hưởng bất lợi tiềm ẩn đối với sự an toàn (xem Chương 15). Nguyên tắc phòng ngừa buộc các chính quyền và ngành công nghiệp đầu tư vào các biện pháp khi có sự không chắc chắn khoa học về nhu cầu thực hiện những biện pháp này đã khiến nhiều nhà công nghiệp và kinh tế lo lắng. Các nguyên tắc có thể dẫn đến quy định quá mức, trong đó biện pháp phòng ngừa tốn kém được thực hiện mà không có bằng chứng rằng điều này sẽ dẫn đến việc giảm tác hại môi trường, có thể mang đến một sự lãng phí nguồn lực vốn đã khan hiếm. Vấn đề chung ở đây là sự không đối xứng về thông tin theo thời gian; có nghĩa là, các chi phí của phòng chống và phòng ngừa hiện nay là có sẵn và có thể tính toán được, trong khi những lợi ích và chi phí cho môi trường trong tương lai có thể rất nhiều và khó ước tính. Việc phòng tránh rủi ro một cách có hệ thống có thể đòi hỏi chi phí cao, trong khi những lợi ích của nó đôi khi lại đáng nghi ngờ. Ví dụ, Anthony Ogus (1995) đưa ra ví dụ về chỉ thị thiết bị màn hình năm 1990,2 dùng để quản lý việc sử dụng màn hình hiển thị trong cả ngành công nghiệp và thương mại. Nó đòi hỏi người sử dụng lao động phải đáp ứng các tiêu chuẩn liên quan đến thiết kế của màn hình, bàn ghế và các yếu tố môi trường. Trong khi các vấn đề sức khoẻ bị ảnh hưởng
- 18 nghiêm trọng có thể phát sinh từ việc sử dụng màn hình hiển thị đã trở thành chủ đề quan tâm trong tranh luận lại không có bằng chứng thuyết phục. HỘP 2.3. TRUYỀN THÔNG VỀ NGUYÊN TẮC PHÒNG NGỪA Ngày 02/2/2000, Ủy ban châu Âu phát động chương trình truyền thông về nguyên tắc phòng ngừa. Mục tiêu của chương trình truyền thông này là thiết lập các hướng dẫn áp dụng và để tránh nguyên tắc phòng ngừa được sử dụng như là một hình thức trá hình của bảo hộ. Uỷ ban cho rằng việc dựa vào nguyên tắc phòng ngừa không có nghĩa là cho phép xác định rủi ro khi chưa có các đánh giá khoa học về tính chắc chắn của rủi ro ấy. Việc thực hiện một cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc phòng ngừa, vì thế, nên bắt đầu với một đánh giá khoa học, xác định mức độ không chắc chắn về khoa học. Điều này được gọi là đánh giá rủi ro. Nguyên tắc phòng ngừa đóng một vai trò trong giai đoạn thứ hai, đó là quản lý rủi ro. Với thông tin khoa học cho trước về sự không chắc chắn, các nhà ra quyết định phải nhận trách nhiệm xác định mức độ rủi ro “chấp nhận được” đối với xã hội. Uỷ ban cho rằng các biện pháp thực sự cần thiết dựa trên nguyên tắc phòng ngừa, cùng với những biện pháp khác, nên dựa trên đánh giá các lợi ích tiềm ẩn và chi phí hành động, hoặc thiệt hại khi thiếu hành động. Tuy nhiên, Ủy ban nhấn mạnh rằng đây không phải chỉ đơn giản là một phân tích chi phí - lợi ích kinh tế. Phạm vi của việc xem xét này rộng hơn rất nhiều và bao gồm cả những suy xét phi kinh tế, chẳng hạn như hiệu quả của các phương án khả thi và khả năng chấp nhận của các phương án đó đối với công chúng. Các biện pháp thực hiện trên cơ sở nguyên tắc phòng ngừa cũng cần được xem xét định kỳ dưới ánh sáng của tiến bộ khoa học và cần sửa đổi khi cần thiết. Nguồn: Nguyên tắc phòng ngừa của EU. COM (2000), 1. 4. Nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền Nguyên tắc 16 của Tuyên bố Rio quy định rằng: Chính quyền quốc gia cần nỗ lực để thúc đẩy sự chủ quan hoá chi phí môi trường và sử dụng các công cụ kinh tế, có tính đến phương pháp tiếp cận mà về nguyên tắc, người gây ô nhiễm nên chịu các chi phí ô nhiễm liên quan đến lợi ích công cộng, không làm thay đổi thương mại và đầu tư quốc tế. Tương tự, Điều 174 (2) của Hiệp ước các quốc gia EC nói rằng, chính sách cộng đồng về môi trường phải dựa trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả tiền” (PPP). Nội dung của nguyên tắc này là những người làm điều sai trái là người phải chịu trách nhiệm và chi trả chi phí làm tổn hại môi trường. Trong kinh tế học, nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền được thiết lập tốt, nhưng cũng vẫn bị nghi vấn. Kinh tế học của nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền được thể hiện trong nghiên cứu của Pigou (1920). Kiến thức phổ thông về kinh tế chỉ ra rằng các chi phí cơ hội bao gồm những nguồn lực cần thiết để sản xuất hàng hoá và dịch vụ trên thị trường được giá cả phản ánh cho cả người bán và người mua. Bằng cách đó, các thành phần trong các thị trường được chỉ dẫn và thông qua giá cả để họ phối hợp đưa ra các quyết định. Tuy nhiên, sự chính xác về thông tin giá cả phụ thuộc vào giả định rằng tất cả những gì bị ảnh hưởng đều có trong thương mại và chấp nhận các điều khoản. Nếu giá cả không bao gồm phần đền bù cho tất cả các bên có liên quan thì đó là một thiếu sót, hoặc thiếu sự nội hoá chi phí hay lợi ích, có nghĩa là, một tác động ngoại lai trong nền kinh tế. Vì vậy, tác động tiêu cực bên ngoài chiếm ưu thế khi ai đó gây tác hại mà không xem xét những hậu quả cho người khác. Thật vậy, sự thay đổi về mặt kỹ thuật, hoá học và sinh học có thể
- 19 gây hại cho các cá nhân và gây ra nhiều vấn đề môi trường. Một phần lớn của kinh tế môi trường có liên quan đến câu hỏi về tác động tiêu cực bên ngoài có thể được chủ quan hoá trong hệ thống kinh tế như thế nào. Câu trả lời truyền thống đã đưa ra các khoản phí cho các hoạt động gây độc hại đối với môi trường, đó là lời khuyên để áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền thông qua phí, ví dụ, xe hơi, đồ uống có cồn và năng lượng. Tuy nhiên, quy tắc dường như rõ ràng và vững vàng này đã được Ronal Coase phản bác trong nhiều năm. Trong Định lý Coase nổi tiếng của ông, ông đã phát biểu rằng, việc phân phối các quyền - ở đây quyền gây ô nhiễm mà không có trách nhiệm bồi thường cho nạn nhân, hoặc quyền của nạn nhân được bồi thường do ô nhiễm (PPP) - không hề có tầm quan trọng nào xét từ một quan điểm về hiệu quả kinh tế. Nói cách khác, nếu nạn nhân trả tiền cho những người làm sai trái để họ không gây ô nhiễm thì có thể lại có hiệu quả một cách công bằng. Chúng tôi gọi quy tắc này là nguyên tắc nạn nhân trả tiền (VPP). Lưu ý rằng, định lý này đề cập tới tình huống khi có hai hoặc nhiều bên có khả năng mua bán mà không có bất kỳ chi phí giao dịch nào, tức chi phí tìm kiếm, mặc cả, ký hợp đồng và thực thi thoả thuận. Quan điểm của Coase là trong tình huống này, các bên có chung mối quan tâm vào tối đa hoá giá trị chung của thương mại, tức là hiệu quả. Một khi tối đa hoá được lợi ích chung, họ sẽ có lợi ích cá nhân là lấy được tỷ lệ càng lớn càng tốt. Để minh hoạ cho định lý, chúng tôi đưa ra một ví dụ đơn giản trong Hộp 2.4 dưới đây. HỘP 2.4. ĐỊNH LÝ COARSE: THÍ DỤ VỀ THIẾT BỊ LỌC Giả định rằng một nhà máy thải ra khói và có ba người sống gần đó, mỗi người đòi được bồi thường 200$ vì khói gây tổn hại đến sức khoẻ của họ. Thêm vào đó, giả sử khói thải ra chỉ ảnh hưởng đến ba nạn nhân. Trong ví dụ này, chúng ta có thể bỏ qua thực tế rằng khói thải có thể cũng đang làm hại môi trường. Không có cách nào khả thi để các nạn nhân này có thể ngăn ngừa sự tổn hại đến sức khoẻ của họ. Mặt khác, nhà máy có thể loại bỏ tất cả các khí thải bằng cách lắp đặt một thiết bị lọc với chi phí 300$. Câu hỏi đầu tiên phải được trả lời là kết quả tối ưu xã hội đòi hỏi là gì: có lắp đặt thiết bị lọc hay không. Để có thể trả lời câu hỏi này, chúng ta phải xác định được mục tiêu kinh tế xã hội. Ở đây, chúng ta giả định rằng mục tiêu xã hội là tối đa hoá lợi ích chung, trừ đi chi phí của các chất ô nhiễm cho các nạn nhân. Vì có thể tránh được mức chi phí 600$ (3 nạn nhân, mỗi người đòi được bồi thường 200$) bằng cách đầu tư chỉ 300$, giải pháp tối ưu rõ ràng là lắp đặt thiết bị lọc. Một giải pháp khác có thể là di dời nhà máy sản xuất hoặc di dời các nạn nhân, nhưng chúng ta giả định rằng các chi phí thực chất là cao hơn chi phí lắp đặt thiết bị lọc là 300$. Định lý Coase cho rằng nếu các chi phí giao dịch là 0, sẽ luôn diễn ra một sự phân bổ tối ưu các nguồn lực, không phân biệt các nội dung của quy tắc pháp lý. Việc phân bổ tối ưu các nguồn lực trong ví dụ này là việc lắp đặt thiết bị lọc. Thật vậy, kể cả nội dung của quy tắc pháp lý có là gì thì vẫn có thể lắp đặt thiết bị lọc. Nếu luật pháp bắt chủ sở hữu nhà máy chịu trách nhiệm bồi thường cho các nạn nhân, thì việc lắp đặt thiết bị lọc rõ ràng nằm trong lợi ích của nhà máy. Bằng cách lắp đặt thiết bị lọc với chi phí chỉ là 300$, nhà máy có thể tránh được việc phải trả tiền bồi thường cho nạn nhân (là 600$). Theo cơ chế pháp lý này, bây giờ có thể gọi là cơ chế PPP, kết quả đem lại sẽ là tối ưu. Tuy nhiên, điều đó vẫn đúng nếu nhà máy không chịu trách nhiệm và nạn nhân tự chịu thiệt hại theo cơ chế “quyền gây ô nhiễm” hay nguyên tắc nạn nhân trả tiền (VPP). Cho giả thiết không có chi phí giao dịch, các nạn nhân sẽ tụ tập lại với nhau và cùng thương
- 20 lượng với nhà máy để thuyết phục nhà máy lắp đặt thiết bị lọc. Bằng cách trả tiền thiết bị lọc cho nhà máy, các nạn nhân vẫn có lợi hơn vì tổng chi phí của các thiệt hại cao hơn đáng kể so với chi phí của thiết bị lọc. Do đó, trong cả hai trường hợp, nguyên tắc PPP hay VPP, kết quả đem lại vẫn có hiệu quả. Kết quả này tương xứng với một số nhận xét. Trước tiên, cần nhấn mạnh rằng thoạt nhìn, giá mà nạn nhân trả cho nhà máy trong cơ chế VPP là không rõ ràng. Tuỳ thuộc vào sức mạnh thương lượng của nó, nhà máy cũng có thể đòi hỏi được nhiều hơn 300$ cho việc lắp đặt thiết bị lọc. Cuối cùng, các nạn nhân có thể phải trả tới (hầu như) 600$ cho thiết bị lọc nếu nhà máy là một tay mặc cả rắn. Khi đó, lợi ích của việc lắp đặt là thuộc về nhà máy. Thứ hai, hỗn hợp quy tắc PPP và VPP chiếm ưu thế nếu quyền được bồi thường chỉ được trao cho một trong ba nạn nhân. Trong trường hợp này, kết quả đem lại cũng vẫn hiệu quả. Giả định rằng chỉ có một nạn nhân A có quyền được bồi thường. Thoạt nhìn, nó có vẻ tốt hơn cho bên gây ô nhiễm chỉ phải trả 200$ thay vì lắp đặt thiết bị lọc. Tuy nhiên, nạn nhân B và C, mỗi người sẵn sàng trả 200$ cho bên gây ô nhiễm để lắp đặt bộ lọc. Phần thanh toán của họ cho người gây ô nhiễm này, cộng với tiền bồi thường đã trừ đi cho nạn nhân người A, làm cho bên gây ô nhiễm càng có lợi nhuận kinh tế khi lắp đặt thiết bị lọc. Một kết luận chung có thể được rút ra từ ví dụ này là khi có vài bên liên quan, quyền gây ô nhiễm hoặc quyền được bồi thường có thể được đặt vào bất kỳ bên nào với kết quả như nhau, với điều kiện chi phí giao dịch là không đáng kể. Lưu ý rằng kết quả có thể không đạt đến hiệu quả, nếu các bên cư xử chiến lược. Để cải thiện vị trí của mình, các bên có thể thông tin sai và đe doạ lẫn nhau, điều này có thể dẫn đến việc không có thoả thuận nào được thống nhất. Bằng các giả định chi phí giao dịch là 0, chúng tôi đã loại trừ hành vi chiến lược và các chi phí thoả ước và hợp đồng khác. Định lý chỉ giải quyết với hiệu quả, không phải với những khía cạnh phân phối. Mặc dù kết quả hiệu quả vẫn giữ nguyên trong phân phối khác nhau và vẫn có một sự khác nhau mang tính phân phối: trên nguyên tắc PPP, nhà máy trong ví dụ của chúng tôi sẽ trả tiền cho thiết bị lọc; còn trên nguyên tắc VPP, nạn nhân sẽ làm điều đó. Do đó, nội dung của quy tắc luật pháp có ý nghĩa từ viễn cảnh phân phối của cải giữa các bên. Dĩ nhiên, bên chịu trách nhiệm thường có sẵn nguồn lực để chi trả. Trong ví dụ này, không có nguy cơ phá sản. Do đó, định lý Coase phù hợp nhất khi các bên liên quan là các công ty tối đa hoá lợi nhuận có uy tín. Các nhà kinh tế học kế tiếp truyền thống Pigou (1951) biện hộ rằng, các ngoại ứng như ô nhiễm môi trường nên được chủ quan hoá bằng cách áp một loại thuế hoặc phí phạt vào hoạt động gây ô nhiễm. Một mức phí bằng với chi phí do khói từ các nhà máy trong Hộp 2.4. gây ra, $600, sẽ tạo ra một động lực để giảm thiểu ô nhiễm bằng cách lắp đặt thiết bị lọc. Lưu ý rằng phí phân phối thu nhập cho Nhà nước, chứ không phải cho nạn nhân. Vì vậy, phí là một phương án lựa chọn duy nhất. Ronald Coase (1960) phản đối phương pháp tiếp cận tập trung vào phí và cho rằng hoặc là quy tắc PPP, hoặc quy tắc VPP sẽ đem lại hiệu quả (một thiết bị lọc trong Hộp 2.4.). Coase nhấn mạnh bản chất thuận nghịch của tác hại. Trong trường hợp này, bản chất đó là một thực tế rằng ô nhiễm không chỉ bị gây ra bởi nhà máy phát thải chất gây ô nhiễm; một trong số đó có thể được xem xét tương đương như trường hợp mà sự
- 21 có mặt của các hàng xóm làm giới hạn các quyền của nhà máy. Do đó, sẽ có ích hơn khi xem đây như là một trường hợp mâu thuẫn sử dụng các quyền sở hữu. Vì các quy tắc pháp lý khác nhau có thể dẫn đến kết quả đạt hiệu quả, nguyên tắc PPP không thể được thúc đẩy một mình trên cơ sở hiệu quả. Trên thực tế, nguyên tắc PPP có thể hiểu được thông qua sự nghiên cứu phân biệt. Nói cách khác, nếu bên gây ô nhiễm giàu có (công nghiệp) và nạn nhân thì nghèo khó (công chúng), nó có thể thúc đẩy một nguyên tắc “túi sâu” hay “khả năng chi trả”, đó là nguyên tắc PPP. Khi ai đó bị quấy rầy hay bị hại, dường như hiển nhiên là các nạn nhân phải có quyền được bồi thường. Nhưng trên căn cứ hợp lý, một người gây ô nhiễm có thể khiếu nại rằng quyền gây ô nhiễm là một phần của các quyền mà chủ sở hữu có. Ví dụ, giả sử có một nhà máy sản xuất lần đầu tiên được đặt tại một khu vực dân cư thưa thớt và sau đó là đương đầu với những người hàng xóm di chuyển vào vùng lân cận với khu vực ảnh hưởng, sau đó yêu cầu nhà máy bồi thường hoặc bồi thường tái định cư. Nếu những người hàng xóm chuyển đến ý thức được thiệt hại, điều này không rõ ràng rằng người đến đầu tiên phải đền bù cho người mới đến (vấn đề này sẽ được thảo luận trong Chương 12). Tương tự như vậy, PPP là một quy tắc được quốc tế công nhận. Tuy nhiên, viện trợ quốc tế là một khu vực nơi mà VPP thường là quy tắc chứ không phải là ngoại lệ. Một ví dụ là khoản đầu tư thực hiện bởi các nước Tây Âu ngày nay trong việc giảm tác hại môi trường do ngành công nghiệp Đông Âu gây ra. Ví dụ, các đầu tư vào an toàn hạt nhân ở Bulgary cũng có thể đạt hiệu quả tốt, nhưng trong thực tế nó không phải là bên gây ô nhiễm, mà là những nạn nhân trả tiền. Hơn nữa, trong luật sai lầm cá nhân, trách nhiệm pháp lý ràng buộc tương ứng với nguyên tắc PPP trong khi các quy tắc sơ suất lại tương ứng với VPP. Có những lý luận ủng hộ trách nhiệm pháp lý ràng buộc khi ngành công nghiệp nguy hiểm làm ô nhiễm và gây ra tai nạn. Tuy nhiên, cũng có những lý luận ủng hộ sơ suất (xem Chương 14 và 15). Tóm lại, nguyên tắc PPP chắc chắn là một điểm khởi đầu hoàn toàn khả thi, tương ứng với các khái niệm kinh tế rằng có thể nội hoá được ngoại ứng bằng cách bắt người gây ô nhiễm trả đầy đủ chi phí cho hoạt động của mình. Tuy nhiên, trong thực tế ứng dụng này còn hạn chế - chúng ta sẽ quay trở lại quan điểm này trong các chương sau. 5. Nguyên tắc xử lý rác thải tại nguồn Một mục đích chung trong chính sách môi trường là giảm lượng chất thải khổng lồ tạo ra từ quá trình sản xuất, đặc biệt là ở các nước phát triển cao về công nghệ. Một ý tưởng cơ bản trong khía cạnh này là chất thải cần được xử lý và nếu có thể loại bỏ tại nguồn. Nếu không thể loại bỏ được chất thải, có thể tái chế vật liệu, hoặc đốt. Chôn lấp và nghiền rác được xem là lựa chọn tồi tệ nhất. Nguyên tắc xử lý rác thải tại nguồn này dường như là công việc quản lý nội vi, nhưng lại có những hạn chế đáng kể về kinh tế. Cũng như tất cả các loại hàng hoá khác, một biện pháp xử lý chất thải hiệu quả, yêu cầu bên có lợi thế tương đối thực hiện. Do đó, một sự thay thế hiệu quả để xử lý chất thải tại nguồn thường là mua bán chất thải với các bên khác có thể xử lý được nó. Vì thế, nguyên tắc chất thải cần được ưu tiên loại bỏ tại nguồn mâu thuẫn với quyền tự do thương mại. Có thể thấy rõ sự mâu thuẫn này trong, bối cảnh Cộng đồng châu Âu, nơi còn chưa rõ ràng rằng liệu các quyền tự do cơ bản của thị trường chung, như vận chuyển tự do hàng hoá, cũng áp dụng đối với chất thải, hàng hoá gây ô nhiễm và nguy hiểm. Nói cách khác, bản thân các nước
- 22 thành viên của Liên minh có được phép hạn chế sự vận chuyển tự do hàng hoá vì các lý do bảo vệ môi trường hay không? Theo các điều khoản của Điều 28 (và sau đó) là của Hiệp ước, một quốc gia thành viên không thể hạn chế hoặc cấm nhập khẩu một sản phẩm (gây ô nhiễm) nhất định. Điều 28 của Hiệp ước quy định rằng các hạn chế về lượng đối với nhập khẩu và tất cả các biện pháp có hiệu lực tương đương sẽ bị cấm giữa các nước thành viên. HỘP 2.5. TRƯỜNG HỢP DASSONVILLE Trong trường hợp này, Toà án Tư pháp châu Âu quyết định là “tất cả các quy tắc kinh doanh ban hành bởi các nước thành viên có khả năng gây trở ngại, trực tiếp hoặc gián tiếp, trên thực tế hoặc tiềm năng, trong nội bộ cộng đồng thương mại, sẽ được coi là những biện pháp có hiệu lực tương đương với các hạn chế mang tính định lượng. Do đó mọi trở ngại nhập khẩu tiềm năng, có hoặc không có sự phân biệt, đối với các sản phẩm trong nước hoặc nhập khẩu, rơi vào nguyên tắc ngăn cấm. Về phương diện này ta có thể nghĩ ra một lệnh cấm quốc gia về một hợp chất độc hại nhất định (như amiăng) hoặc nồng độ của một hợp chất gây ô nhiễm nhất định trong sản phẩm thuộc nội dung cấm của Điều 28. Do đó, thông dịch chặt chẽ về trường hợp Dassonville sẽ có nghĩa là mục tiêu của việc thực hiện một thị trường chung nội bộ được xem là quan trọng đến mức mà sản phẩm có hại cho môi trường cũng có thể đi qua biên giới quốc gia của các nước thành viên mà không cần có bất kỳ giới hạn nào. Nguồn: Dựa theo ECJ 11/7/1974, Procureur du Roi v. Dassonville, Trường hợp 8/74, ECR [1974], trang 837. Tuy nhiên, một điều khoản mang tính pháp lý được xây dựng với khía cạnh thoả hiệp giữa việc vận chuyển hàng hoá tự do với bảo vệ môi trường. Một ngoại lệ quan trọng có thể tìm thấy tại Điều 30 của Hiệp ước. Ngoại lệ này cho phép các nước thành viên hạn chế thương mại nội cộng đồng nếu các biện pháp đã thực hiện được bào chữa “trên cơ sở của bảo vệ sức khoẻ và đời sống của con người, động vật hoặc thực vật”. Những biện pháp này, “tuy nhiên, tạo nên một phương tiện phân biệt đối xử độc đoán hoặc hạn chế trá hình đối với thương mại giữa các nước thành viên”. Những căn cứ mà dựa vào đó các nước thành viên có thể hạn chế thương mại nội cộng đồng đã được giải thích trong một loạt các quyết định của Toà án Tư pháp châu Âu (ECJ). Kết luận là các biện pháp thực hiện phải là “cần thiết và tương xứng với mục tiêu cần đạt được”.3 Ví dụ về việc cấm amiăng, một chất nguy hiểm đến sức khoẻ và đời sống của con người, động vật và thực vật, có thể đã được bào chữa hợp lý bằng các ngoại lệ như đã đề cập. Mặt khác, Toà án cũng đã quyết định rằng theo điều này4, không thể biện minh cho một lệnh cấm nhập khẩu chung đối với các chất thải không nguy hiểm”. Kể từ trường hợp chai Đan Mạch (Hộp 2.6), bảo vệ môi trường có thể được chấp nhận là một trong “những yêu cầu bắt buộc” có thể hạn chế khả năng ứng dụng của nguyên tắc thương mại tự do trong Điều 28. Ngoại lệ này rộng hơn so với ngoại lệ đưa ra trong Điều 30. Để áp dụng Điều 30, điều kiện cần là cuộc sống hoặc sức khoẻ con người, động vật hoặc thực vật đang bị đe doạ, trong khi điều 28 là không bắt buộc theo quy tắc trong trường hợp chai. Một điều kiện để áp dụng ngoại lệ bảo vệ môi trường là các biện pháp đã áp dụng cho các sản phẩm trong nước và nhập khẩu theo cách không phân biệt đối xử. Nhưng, ngay cả nguyên tắc không phân biệt đối xử này đã bị thả lỏng. Trong trường hợp Walloon (xem Ghi chú 4), Toà án cho rằng nguyên tắc hành động phòng ngừa tại nguồn có thể biện minh cho việc hạn chế nhập khẩu mà chỉ áp dụng đối với chất thải nước ngoài. Toà án cho rằng, không có sự vi phạm nào vào nguyên tắc không phân biệt đối xử, mặc dù việc cấm trong quy định Walloon chỉ áp dụng đối với
- 23 chất thải nước ngoài. Nguyên tắc hành động phòng ngừa tại nguồn này bề ngoài được xem là có quyền ưu tiên hơn các quyền tự do thương mại và các nguyên tắc không phân biệt đối xử. HỘP 2.6. TRƯỜNG HỢP CASSIS DE DIJON VÀ TRƯỜNG HỢP NHỮNG CÁI CHAI ĐAN MẠCH Một ngoại lệ quan trọng ở Điều 28 được đưa ra bởi Toà án Tư pháp châu Âu trong trường hợp Cassis de Dijon.1 Toà án cho rằng một biện pháp hạn chế thương mại trong nước có thể bào chữa được nếu, trước tiên, nó áp dụng theo một cách không phân biệt đối xử cho cả sản phẩm trong nước và nhập khẩu; thứ hai, nếu mục tiêu của biện pháp này là một yêu cầu bắt buộc - như y tế công cộng - và thứ ba, nếu tác động của biện pháp này là tương xứng với lợi ích cần phải được bảo vệ. Ý tưởng này đã được mở rộng vào lĩnh vực môi trường, trong trường hợp những cái chai của Đan Mạch,2 nơi mà Toà án châu Âu đã quyết định rằng môi trường có thể được xem như là một yêu cầu bắt buộc. Toà án cho rằng, bảo vệ môi trường là một lợi ích có thể biện minh cho một chính sách môi trường quốc gia có các tác động hạn chế thương mại, chẳng hạn như trong trường hợp một hệ thống bắt buộc hoàn lại các thùng đựng bia và nước giải khát. Lưu ý: 1. ECJ, 20/2/1979, Rewe-Zentral AG v. Bundesmonopolverwaltung và Branntwein (Cassis de Dijon), Trường hợp 120/78, ECR [1979], trang 649. 2. ECJ, 20/9/1988, Ủy ban v. Đan Mạch (Chai Đan Mạch), Trường hợp 302/86, ECR [1988], trang 4607. Thoả hiệp giữa thương mại tự do và bảo vệ môi trường được đề cập như thế nào trong một quan điểm kinh tế? Đầu tiên cần lưu ý rằng, như đã trình bày, thương mại tự do là một nền tảng trong Hiệp ước Rome. Một lý luận cơ bản ủng hộ thương mại tự do là sự hội nhập của các quốc gia, nhờ thương mại góp phần cho sự phát triển hoà bình và để chấm dứt xung đột vũ trang. Ý tưởng về việc thiết lập hoà bình trong thương mại có lịch sử lâu dài. Ví dụ, các nhà triết học của thế kỷ XVIII như Montesquieu và Condorcet lập luận rằng, thương mại làm con người tinh tế hơn - thương nhân ra đi mà không có một thanh kiếm, là hoà bình và không lấy gì mà không có thoả thuận với các đối tác thương mại. Các khái niệm như danh dự, lòng tin và lòng trung thành rất quan trọng đối với các doanh nhân (Hirschman, 1982), mặc dù những khái niệm này vẫn còn gây tranh cãi. Tuy nhiên, ý tưởng về một mạng lưới mở rộng và các mối quan hệ lâu dài dựa trên nền tảng cùng có lợi có tầm quan trọng lớn trong cả hệ thống chính trị châu Âu và tư duy kinh tế chính. Một lý do khác cho sự ưu tiên và bảo vệ thương mại tự do là tầm quan trọng cơ bản của nó trong hệ thống kinh tế thị trường. Cũng như loại các hàng hoá và dịch vụ khác, chất thải thường có thể được giao dịch mua bán theo cách thức cùng có lợi vì có những ưu điểm tương đối và việc tận dụng các nền kinh tế quy mô. Ví dụ, người Pháp có thể đốt chất thải với chi phí thấp hơn so với Hà Lan hoặc Bỉ. Thương mại chất thải từ Bỉ hoặc Hà Lan đến Pháp trong trường hợp đó sẽ có lợi. Một số quốc gia có thể sử dụng các sản phẩm chất thải nhất định cho mục tiêu thứ cấp. Thương mại như vậy là được phép theo Công ước Basel năm 1992, quy định về vận chuyển chất thải xuyên biên giới và lệnh cấm thương mại không áp dụng nếu chất thải được tái sử dụng hoặc tái chế. Tuy nhiên, có một mối nguy hiểm khi chất thải được chuyển qua biên giới đó là việc thiếu
- 24 giám sát của các cơ quan hành chính có thể làm tăng khả năng chất thải bị mất kiểm soát và do đó xả thải bất hợp pháp. HỘP 2.7. THƯƠNG MẠI CHẤT THẢI: CÁC NHÀ LUÂN LÝ HỌC VÀ CÁC NHÀ DUY LÝ HỌC Frey (1997) mới đây cho hay rằng các nhà kinh tế học (được xem như là “các nhà duy lý học”) quan tâm thương mại chất thải hoàn toàn khác với “các nhà luân lý học”, những người nhìn vào môi trường như một vấn đề đạo đức. Những nhà luân lý học sẽ chống lại mạnh mẽ vấn đề thương mại chất thải, lập luận rằng giao dịch chất thải vẫn là trách nhiệm cơ bản của Nhà nước, không thể được ủy quyền (khái niệm về nguyên tắc xử lý chất thải tại nguồn). Mặt khác, các nhà kinh tế lại không nhìn ra lý do tại sao các luật quản lý thương mại quốc tế cơ bản có ưu điểm linh động không nên áp dụng đối với chất thải. Tất cả các bên tham gia có thể đạt được mục đích nếu các quốc gia được phép vận chuyển chất thải đến các nước được trang bị tốt nhất để xử lý. Nước xuất khẩu chất thải sẽ trả một mức giá thấp hơn chi phí xử lý trong nước và nước nhập khẩu chất thải có thể tạo lợi nhuận bằng cách cung cấp một dịch vụ với chi phí tương đối thấp. Trận chiến này, theo Frey lập luận, có vẻ chiến thắng đã nghiêng về các nhà luân lý học, vì nhiều công ước, như Công ước Basel quy định cấm xuất khẩu rác thải, trái ngược với logic kinh tế. Một vấn đề khác trong trao đổi hàng hoá và dịch vụ quốc tế là một ngành công nghiệp hay một quốc gia có thể có lợi bằng cách hạn chế đơn phương trong thương mại. Tức là, hải quan và các hình thức bảo hộ khác có thể được hưởng lợi từ một ngành công nghiệp trong nước, nhưng lại gây khó khăn cho ngành công nghiệp nước ngoài. Nếu nhiều quốc gia bảo vệ các ngành công nghiệp của mình, tất cả sẽ bị tổn hại do thương mại giảm sút. Nói cách khác, khả năng ăn bám vào thương mại tự do của các quốc gia khác làm cho việc duy trì một hệ thống thương mại tự do trở nên phức tạp. Vì vậy, phải liên tục nỗ lực để duy trì và phát triển thương mại tự do quốc tế về hàng hoá và dịch vụ. Ví dụ, vào năm 1994, đại diện của 120 quốc gia đã cùng gặp để ký Vòng Uruguay của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Nó trở thành phiên bản chỉnh sửa của Công ước GATT 1948, cố gắng giảm bớt hàng rào thương mại phi thuế quan khác đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu. Tổ chức Thương mại Thế Giới (WTO) có tư cách và quyền lực để giám sát và thi hành thoả thuận. Một vấn đề với việc thực thi các thoả thuận thương mại tự do là sự hiện diện của ít nhiều trở ngại kỹ thuật tiềm ẩn khác nhau có thể được sử dụng để bảo vệ ngành công nghiệp riêng và do đó người ăn bám sẽ lợi dụng vào quy tắc thương mại tự do. Khó có thể phân tách thái độ tiêu cực đối với thương mại có nền tảng đạo đức với chế độ bảo vệ nền công nghiệp “trong cái vỏ ngoài màu xanh”. Nghĩa là, bảo vệ môi trường được sử dụng như một lý luận để bảo vệ, đối phó với những nghi ngờ liên quan đến các yêu cầu và hạn chế về môi trường. Từ một quan điểm kinh tế, ví dụ, có thể là rất hiệu quả nếu vận chuyển chất thải tới sa mạc Sahara và lưu nó ở đó với chi phí tương đối thấp, nơi mà tiềm năng gây tổn hại môi trường là rất thấp. Tất nhiên ở đây chúng ta giả định rằng đó không phải là các chất thải nguy hiểm, độc hại hoặc buôn bán bất hợp pháp. Tuy nhiên, các loại hình thương mại này đang bị cấm bởi các công ước quốc tế một phần vì các lý do đạo đức. Nguyên tắc xử lý chất thải tại chỗ rõ ràng là một rào
- 25 cản đạo đức mạnh mẽ, với ý tưởng cơ bản rằng một cộng đồng cần phải tự xử lý vấn đề chất thải của nước mình và không được xuất khẩu sáng nước láng giềng hoặc sang các nước kém phát triển. Tuy nhiên, lưu ý rằng đạo đức và lý luận “xanh” cũng có thể được sử dụng để ủng hộ lợi ích kinh tế cụ thể, nhất là nền công nghiệp xử lý chất thải trong nước ở một nước công nghiệp phát triển như mô tả trong Hộp 2.8. HỘP 2.8. TRƯỜNG HỢP DUSSELDORP Mới đây, việc bảo vệ một ngành công nghiệp trong nước đã được thể hiện trong một trường hợp trước khi đưa ra Toà án Tư pháp châu Âu, nơi mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và nguyên tắc xử lý chất thải tại chỗ phải được quyết định. Các quy định quốc gia buộc các ngành công nghiệp địa phương mang toàn bộ chất thải công nghiệp đến một nhà máy xử lý chất thải (độc quyền) hoặc lò đốt và ngăn cấm xuất khẩu chất thải trên cơ sở nguyên tắc xử lý chất thải. Trong những trường hợp đó, câu hỏi phát sinh là liệu các nước thành viên EU có quyền buộc ngành công nghiệp quốc gia sử dụng phương pháp xử lý chất thải đắt tiền trên cơ sở nguyên tắc xử lý chất thải tại chỗ, hoặc liệu lệnh cấm xuất khẩu nên được xem là bất hợp pháp. Toà án Tư pháp châu Âu đã quyết định chống “sự lạm dụng” nguyên tắc xử lý chất thải tại chỗ để biện minh cho một lệnh cấm xuất khẩu rác thải. Lệnh cấm xuất khẩu chung như vậy (bởi Hà Lan) đã được giữ nhằm tránh can thiệp vào Luật châu Âu. Nguồn: Dựa theo ECJ, 25/6/1998, Trường hợp C 203/96, Chemische afvalstoffen Dusseldorp B.V. 6. Quyền có môi trường trong sạch Như đã đề cập trong phần giới thiệu, các nguyên tắc chính sách môi trường được thể hiện trong hiến pháp của nhiều quốc gia. Quyền có môi trường trong sạch hoặc tốt được hình thành tại đây, theo hình thức nào đó, như là quyền con người. Ví dụ, năm 1994, Điều 20a đã được thêm vào hiến pháp của Đức (Grundgesetz), đưa bảo vệ môi trường thành hiến pháp Nhà nước. Điều 20a của hiến pháp Đức nhấn mạnh nguyên tắc phòng ngừa và trách nhiệm môi trường ở các cấp Nhà nước hướng tới mục tiêu bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nó không đảm bảo quyền hành động cho công dân. Như vậy, theo luật pháp của Đức, không được coi là “quyền môi trường cơ bản”. Hiến pháp khác cũng đảm bảo việc bảo vệ môi trường, ví dụ, hiến pháp Hy Lạp, năm 1986, tại Điều 24, bảo vệ môi trường được xem như nhiệm vụ của Nhà nước. Cuối cùng, chúng ta có thể tìm đến ví dụ ở Hà Lan, Điều 21 của hiến pháp cung cấp một cơ sở pháp lý về bảo vệ môi trường. Điều này đã đưa vào văn bản sửa đổi hiến pháp năm 1983 và chỉ ra rằng nhiệm vụ của Chính phủ là nhằm bảo vệ nơi cư trú của dân, bảo vệ và cải thiện môi trường. Một lần nữa, chủ nghĩa pháp luật cho rằng các điều khoản đặt ra nghĩa vụ cho Chính phủ, nhưng thực tế không phục vụ như là một cơ sở pháp lý để người dân khiếu nại Nhà nước. HỘP 2.9. TRƯỜNG HỢP FREDIN
- 26 Nền tảng của trường hợp Fredin là Điều 1 của nghị định đầu tiên của Công ước châu Âu về Nhân quyền, bảo vệ tài sản cá nhân. Toà án chỉ ra trong trường hợp Fredin v. Thụy Điển rằng “trong xã hội ngày nay, việc bảo vệ môi trường là một vấn đề quan trọng ngày càng được quan tâm”, và thử nghiệm xem liệu sự can thiệp bằng quyền sở hữu tư nhân để đạt được mục tiêu về môi trường có tương xứng hoặc không tương xứng trong bối cảnh của Điều 1 của nghị định thư đầu tiên. Chắc rằng sự can thiệp đã không phù hợp, nghĩa là trong thực tế các biện pháp bảo vệ môi trường lấn át quyền sở hữu tư nhân. Nguồn: Dựa theo ECHR, Phiên xử 18/2/1991, Chuỗi A, Số 192, trang 14, đoạn 48. Những phát triển này trong hiến pháp hiện đại là theo hướng phù hợp với học thuyết pháp lý về môi trường để đưa nhân quyền môi trường vào pháp luật. Các “quyền bảo vệ môi trường” trong hiến pháp hoặc quy ước thường nhắc đến một nhiệm vụ của chính quyền phải bảo vệ công dân chống lại sự suy thoái môi trường. Tuy nhiên, cũng thường có lý luận rằng các quyền xã hội không trao quyền hành động chủ quan cá nhân cho công dân (xem Chương 4, Mục 9 và 10). Tuy vậy, có một số trường hợp thú vị mà người dân đã sử dụng nhân quyền truyền thống, nhất là quyền thừa nhận trong Công ước châu Âu về Nhân quyền năm 1950, để tranh luận rằng trong một số trường hợp, ô nhiễm môi trường có thể coi là một sự vi phạm các nhân quyền truyền thống này. Một số bài viết về Công ước đã được sử dụng theo khía cạnh đó. HỘP 2.10. TRƯỜNG HỢP LOPEZ OSTRA Trong trường hợp Lopez Ostra v. Tây Ban Nha tháng 12/1994, Toà án Nhân quyền châu Âu cho rằng một nhà máy xử lý chất thải đã có hành vi vi phạm Điều 8 của Công ước châu Âu do gây ô nhiễm. Các chuyên gia cho thấy việc xả thải là không thể chấp nhận do khói độc hại và làm hại cho sức khoẻ của người dân sống ngay trong vùng lân cận nhà máy xử lý chất thải đó. Các bác sĩ đã xét nghiệm thấy sức khoẻ của con gái bà Lopez Ostra đã bị tổn thương nghiêm trọng và khuyến cáo rằng cô phải di chuyển chỗ ở. Toà án cho rằng nhà máy đã có hành vi vi phạm Điều 8. Chính quyền thị trấn đã cho phép xây dựng nhà máy trên đất của mình và Nhà nước Tây Ban Nha đã trợ cấp để xây dựng nhà máy. Trong trường hợp này, Toà án cho rằng Nhà nước đã không thành công trong việc đấu tranh cho sự cân bằng giữa những lợi ích kinh tế của thị trấn - đó là có một nhà máy xử lý chất thải và sự hưởng thụ hiệu quả của người nộp đơn về quyền của cá nhân liên quan đến ngôi nhà, cuộc sống riêng và gia đình của bà Lopez. Theo đó, Toà án cho rằng đã có một sự vi phạm Điều 8. Luật có hiệu lực rằng trường hợp này có một sự liên quan hệ trọng, đặc biệt đối với các quốc gia châu Âu với luật ít phát triển hơn, đặc biệt nói về các vấn đề môi trường và nhiễm bẩn bị gây ra bởi các nhà máy có các trang thiết bị hỏng và lỗi thời. Những vấn đề về môi trường nghiêm trọng có thể dẫn đến một nghi ngờ theo điều 8. Trường hợp này chỉ ra rằng có một sự phân biệt ít hơn giữa các quyền con người truyền thống có thể được hành động và quyền xã hội không được hành động. Trường hợp này cũng dẫn đến sự hợp nhất giữa quyền con người và quyền xã hội. Nguồn: Dựa trên A.W. Heringa, “Cuộc sống tư nhân và việc bảo vệ môi trường”, Toà án châu Âu về Nhân quyền, ngày 9/12/1994; Lopez-Ostra v. Tây Ban Nha, Maastricht Journal of European and Comparative Lă, 1995, 196-204
- 27 Câu hỏi cũng đặt thêm vấn đề là liệu các trường hợp ô nhiễm môi trường nghiêm trọng có thể được coi như là một sự vi phạm Điều 8 của Công ước châu Âu về Nhân quyền (ECHR) hay không. Không kể những khía cạnh khác, nội dung của điều này là “mọi người đều có quyền được tôn trọng đối với đời tư của mình , cuộc sống và gia đình , và sẽ không có sự can thiệp bởi nhà chức trách công cộng bằng cách áp dụng quyền, trừ phi như là theo luật và là cần thiết đối với lợi ích kinh tế của đất, lợi ích kinh tế của quốc gia trong xã hội dân chủ ”. Những công dân đang sống trong khu phố bên cạnh sân bay Heathrow Luân Đôn khiếu nại rằng tiếng ồn quá mức gây ra bởi giao thông hàng không, đường bay do Chính phủ quy định đã buộc họ phải chịu đựng xáo trộn bất hợp lý, mà điều đó vi phạm Điều 8. Toà án bác bỏ khiếu nại này với lập luận rằng phải chú ý đến sự công bằng giữa các lợi ích cạnh tranh của cá nhân và cộng đồng cũng như tất cả. Toà án xét thấy rõ ràng rằng sự cân bằng này không được lật lại, không kể những yếu tố khác, các biện pháp quan trọng để làm giảm ô nhiễm tiếng ồn đã được Chính phủ thực hiện, tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế. Hơn nữa, một số cư dân ở gần đó đã được đền bù vì sự rối loạn do tiếng ồn máy bay (xem Chương 12, Mục 5). 7. Kết luận Trong chương này, chúng tôi chỉ trình bày mang tính giới thiệu về các nguyên tắc môi trường chính, phần nghiên cứu cụ thể sẽ được giới thiệu ở phần sau của cuốn sách này. Các nguyên tắc quan tâm đến phát triển bền vững, các biện pháp phòng ngừa, phòng chống, trách nhiệm của người gây ô nhiễm, xử lý chất thải tại nguồn và quyền có một môi trường trong sạch. Những nguyên tắc này có các chức năng khác nhau. Tuyên bố chung đóng vai trò như các công cụ chính trị đặt môi trường vào chương trình nghị sự chính trị. Chúng cũng tạo ra một định hướng cho dân chúng. Sau đó, các nguyên tắc cũng trở thành các văn bản pháp luật và do đó sẽ được giải thích và áp dụng trong các tình huống pháp lý cụ thể. Việc áp dụng trở nên phức tạp do các chức năng khác nhau của tuyên bố chính sách và quy tắc pháp lý. Một chức năng của pháp luật là giải quyết xung đột giữa các bên có mối quan tâm khác nhau. Các quy tắc pháp lý và diễn giải của chúng có các tác động khác nhau đối với người dân, các tác động này có thể không được hiểu một cách đầy đủ. Ở đây việc người dân chưa hiểu rõ là một vấn đề. Các nguyên tắc không chỉ là tuyên bố về mục đích chính trị, hoặc các quy định pháp lý cần phải được thực hiện và làm theo. Các nguyên tắc cũng có các thứ nguyên kinh tế quan trọng. Đó là, chi phí và lợi ích cho các bên khác nhau phải được so sánh và cân đối. Các tài nguyên hạn chế, cùng với nhu cầu không thoả mãn, hiện tại và trong tương lai, sẽ làm cho phân tích kinh tế của các nguyên tắc môi trường trở nên rất quan trọng. Kinh tế học là khoa học về sử dụng hợp lý các tài nguyên khan hiếm. Phân tích hợp lý việc sử dụng các tài nguyên khan hiếm có tầm quan trọng cơ bản hiện tại và trong tương lai, vì nó có thể giúp cải thiện phúc lợi cũng như môi trường. Tuy nhiên, trong tranh luận về môi trường thì kinh tế học được xem là xung đột với mục tiêu môi trường. Lý do có thể là “kinh tế” ở đây là đồng nghĩa với “lợi ích thiển cận về giá trị tiền tệ”. Điều này cũng có thể đúng là các nhà kinh tế quan tâm đến lợi nhuận theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên, khoa học kinh tế nghiên cứu việc sử dụng hợp lý tài nguyên, với sự ưu đãi đối với hàng hoá và
- 28 dịch vụ theo thời gian. Nghĩa là, mục tiêu, sở thích hoặc thời gian ưu tiên (sự thiển cận ngắn hạn hoặc dài hạn) của nhà phân tích, hoặc của cơ quan kinh tế được nghiên cứu (có thể là cá nhân, các công ty hoặc tiểu bang) vượt ra ngoài phân tích kinh tế. Chúng ta sẽ quay lại cơ sở của kinh tế học tại Chương 5. Nói cách khác, các nguyên tắc chính sách môi trường có những tác động kinh tế được phân tích tốt nhất bằng phương pháp kinh tế. Phát triển bền vững đòi hỏi một sự phát triển cân bằng các hoạt động kinh tế. Tương tự như vậy, nguyên tắc phòng ngừa đòi hỏi hành động phải được thực hiện trước khi thiệt hại xảy ra. Chi phí ngăn ngừa tổn thất thường thấp hơn thiệt hại của chính nó. Tuy nhiên, vẫn có tình huống mà phòng ngừa không được ưa chuộng do chi phí của nó cao. Tương tự, nguyên tắc người gây ô nhiễm trả tiền làm kinh tế có ý nghĩa, nhưng Định lý Coase cho chúng ta biết rằng có những trường hợp mà quy tắc nạn nhân trả tiền lại được ưa chuộng hơn. Để đạt được giải pháp hiệu quả nhất thì điều quan trọng là so sánh và cân bằng các lợi ích và chi phí tại biên. Một nguyên tắc kinh tế cơ bản là bên có ưu thế so sánh trong sản xuất ra một hàng hoá hoặc dịch vụ cần thực hiện nó. Điều đó đúng, ví dụ, trong trường hợp xử lý chất thải. Người xử lý chất thải tốt nhất hiển nhiên không phải luôn luôn là người sản xuất tại “nguồn”, đó có thể là bên bất kỳ nào trong dây chuyền sản xuất và tiêu thụ, hoặc một bên nào đó ở ngoài trong lĩnh vực chuyên môn này. Hơn nữa, việc chuyển giao sản xuất cho bên có lợi thế so sánh đòi hỏi thương mại và chính sách môi trường phải đi liền với nhau. Mặt khác, thương mại tự do được cho là nền tảng của sự tăng trưởng kinh tế. Rõ ràng là có thể có xung đột giữa chính sách môi trường, xử lý chất thải hiệu quả và thương mại. Để tránh việc sử dụng không hiệu quả các tài nguyên khan hiếm trên hành tinh chúng ta, mà thực tế là bảo vệ môi trường, các văn bản chính sách và việc thực hiện luật pháp cần có cơ sở và phân tích kinh tế thận trọng. Quan điểm này được thúc đẩy trong phần còn lại của cuốn sách. Chú ý: 1. Khái niệm này trong Điều 2 của Hiệp ước EC đã được sửa đổi nhiều lần. 2. Chỉ thị 90/270, Công báo, 1990, 1 156/14. 3. ECJ 20/5/1976, De Peijper, Trường hợp 104/75, ECR [1976], tr. 613. 4. ECJ 9/7/1992, Commission v. Belgium, Walloon waste, Trường hợp C-2/90, ECR [1992], tr. I-4431.
- 29 3. KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ CÁC LOÀI BỊ ĐE DOẠ 1. Giới thiệu Những vấn đề môi trường nghiêm trọng đều liên quan đến việc khai thác quá mức tài sản chung của trái đất như không khí và nước biển sâu và liên quan đến nguy cơ tuyệt chủng các loài quý hiếm. Các nhà kinh tế và các nhà khoa học như Hardin trong đoạn trích dẫn ở trên khẳng định rằng, sự thiếu thi hành “quyền sở hữu” có thể là nguyên nhân của những vấn đề cơ bản này. Nói cách khác, bằng sự kiểm soát độc quyền một nguồn tài nguyên khan hiếm của người giữ quyền sở hữu, “quyền sở hữu” là cơ sở cho việc bảo vệ môi trường. Tính hợp pháp và bảo vệ công cộng của quyền độc quyền này không phải là mối quan tâm tức thời, nhưng nó được đảm bảo. Trong chương này, chúng tôi tự giới hạn cách tiếp cận kinh tế này đối với “quyền sở hữu” độc quyền. Tính hợp pháp của quyền sẽ được thảo luận trong chương kế tiếp. Chúng tôi bắt đầu ở Mục 2, với các ví dụ mô tả tầm quan trọng của kiểm soát độc quyền các nguồn tài nguyên để tránh sự suy giảm. Trong Mục 3, chúng tôi xem xét vấn đề lãng phí nói chung. “Bi kịch của dân chúng”, dưới các điều kiện kinh tế và chính trị nhất định, kết hợp với một số hiện tượng sinh học, có thể dẫn tới sự tuyệt chủng, các vấn đề này sẽ được phân tích trong Mục 4 và 5. Kết luận được trình bày trong Mục 6. 2. Loại trừ hoặc tuyệt chủng Để có thể đưa ra những hiểu biết trực quan về tầm quan trọng của kiểm soát độc quyền nguồn tài nguyên, việc trình bày một số ví dụ có thể là rất có ích. Ví dụ đầu tiên được lấy từ một bài báo của Harold Demsetz (1967), trong đó ông có ý kiến về một cuộc điều tra nhân loại học của nền kinh tế về việc săn bắn của dân da đỏ ở Bắc Mỹ trong suốt thời kỳ đầu. Vào thời kỳ đó, sự hiện diện của người da trắng đã làm thay đổi tình hình đối với thổ dân da đỏ. Nhu cầu về thịt và da động vật tăng lên, đồng thời các phương pháp săn bắn càng trở nên cải tiến. Hậu quả là, những con trâu vốn lang thang tự do từ nhiều thế kỷ qua gần như đã trở thành tuyệt chủng. Tuy vậy, loài hải ly ở Canada vẫn sống sót mặc dù nhu cầu săn bắn gia tăng. Cho đến nay, chưa hề có một nghiên cứu nhân loại đã tiến hành nào đưa ra lý giải chi tiết về nguyên nhân của hiện tượng trên. Những đóng góp của Demsetz đã đưa ra một lời giải thích cho hiện tượng này: loài hải ly sống sót bởi vì các bộ tộc da đỏ ở Canada đã phân chia lãnh thổ săn bắn giữa chính họ. Bằng cách này, mối quan tâm của họ không phải là khai thác tài nguyên. “Quyền” của loài hải ly có thể được ủng hộ bởi vì lãnh địa của loài này tương đối cố định. Những người dân da đỏ cũng sống cuộc sống cố định và tự chu cấp cho mình trong vùng biên giới xác định và họ có thể làm thế nào đó để đảm bảo rằng “người ngoài” không bẫy được động vật của họ. Tuy nhiên, tình thế hoàn toàn khác đối với những con trâu. Chúng đi lang thang trên các khu vực rộng lớn, đã bị săn bắn bởi các bộ tộc và những người định cư khác nhau. Bởi vì không nhóm/cộng đồng nào có thể ngăn cản người khác săn bắn trâu trong vùng người đó kiểm soát để lấy thịt và da vì trâu là con mồi dễ dàng, số phận của nó đã được định đoạt.
- 30 HỘP 3.1. TÁC ĐỘNG CỦA QUYỀN SỞ HỮU VÀO PHÁT TRIỂN CẤU TRÚC LÀNG SAMI Một nghiên cứu thú vị khác về cấu trúc làng Sami của người Scandinavia từ thời Trung Cổ đến thế kỷ XVIII (Lundgren, 1987). Trong suốt thời Trung Cổ, người Sami sống cố định thành các bầy đàn trong các làng gần nơi họ đánh cá và săn bắn. Tuần lộc hoang dã có tầm quan trọng lớn, nhưng người Sami đã không theo tuần lộc đi lang thang như chúng. Tuy nhiên, trong thế kỷ XVII, điều kiện đã đổi thay theo nhiều cách: săn bắn lấy lông thú ở Bắc Mỹ tăng lên, làm giá của da thú giảm đi. Người Sami bán da thú trên thị trường quốc tế cho người Đan Mạch qua Biển Bắc, cho người Thụy Điển ở phía nam và cho người Nga ở phía đông. Thêm vào đó, khí hậu trở nên tồi tệ và các viên chức luật pháp của Thụy Điển đã bắt đầu thu thuế càng ngày càng cao. Sự khan hiếm làm cho nhu cầu truy lùng tuần lộc ngày càng tăng, các con tuần lộc được chú ý và theo dõi trong suốt thời gian lang thang của chúng. Kết quả là, các làng của người Sami dần thay đổi, họ di cư từ sườn núi xuống những vùng rừng theo con đường của tuần lộc - đó là sự xuất hiện làng Sami ở các vùng ngày nay. Lý do các đàn tuần lộc không bị chết hết, có lẽ là, theo lý thuyết của Demsetz, tức là người Sami đã thành công trong sở hữu tuần lộc trong lãnh thổ của họ, nơi chúng có thể được kiểm soát, vì vậy việc khai thác quá mức đã không xảy ra. Người da đỏ không bao giờ có khả năng đi theo những con tuần lộc “của họ” trên các vùng đồng cỏ. Một lý giải khác liên quan đến những con trâu là người da trắng cố ý giết chúng để làm cho vị trí của người da đỏ thấp hơn. Nếu điều đó đúng, nó càng củng cố thêm lý luận cho rằng việc thiếu kiểm soát tạo nên một lợi thế cho sự khai thác quá mức. 3. Kẻ ăn không Từ ví dụ trên, rõ ràng là mở cửa tiếp cận tài nguyên chung có thể gây ra sự tuyệt chủng của các loài vật và sự suy giảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do mức độ nghiêm trọng của vấn đề, nên vấn đề này đã được đặt tên là “thảm kịch của dân chúng”. Tuy nhiên, các ví dụ trên cũng cho thấy rằng có thể, trong một số trường hợp, thoát khỏi bi kịch thông qua loại trừ và kiểm soát. Sau khi nghiên cứu kỹ hơn thì dễ dàng thấy rằng bi kịch của dân chúng là do một vấn đề tổng quát hơn, thường gọi là “vấn đề ăn bám”. Tức là, nếu các cá nhân trong một nhóm lượm lặt các lợi ích từ chi phí của tập thể, họ trở thành “những kẻ ăn không”. Vấn đề với kẻ ăn không đôi khi còn được gọi là vấn đề 1/N. Tại sao lại như vậy, xem trong ví dụ sau. Một tập thể chứa N cá nhân là chủ sở hữu một nguồn tài nguyên khan hiếm mà có thể tạo ra những lợi ích do sự nỗ lực của các thành viên. Nếu lợi ích được chia trong tập thể, có nghĩa là, nếu tất cả mọi người nhận được 1/N thành quả, sẽ xảy ra sự tận dụng không hiệu quả do những nỗ lực đang được mở rộng bởi các thành viên không tỷ lệ với lợi ích được chia. Ví dụ, nếu các thành viên tạo nên một nỗ lực tương ứng với 100 và điều này tạo ra một thu nhập cho tập thể là 900, trong lợi ích của tập thể, đó là công việc của cá nhân được thực hiện. Tuy nhiên, nếu tập thể được tạo thành từ 50 cá nhân, thì chỉ 900/50 = 18 là của từng cá nhân đang làm. Do đó, đó không phải là lợi ích khiến cho một cá nhân phải nỗ lực. Hy sinh cá nhân dẫn đến kết quả là thu nhập của tập thể, nhưng chỉ một phần của thu nhập này là của cá nhân. Điều này áp dụng cho mọi người khác trong tập thể. Cái có thể mong đợi