Bài giảng Ngoại khoa thú ý
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngoại khoa thú ý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_ngoai_khoa_thu_y.pdf
Nội dung text: Bài giảng Ngoại khoa thú ý
- BÀI MỞ ĐẦU I. Khái niệm Ngoại khoa thú y là một môn khoa học chuyên nghiên cứu những nguyên tắc và phương pháp chung thực hiện các phẫu thuật ngoại khoa và các bệnh ngoại khoa xảy ra ở vật nuôi. Là tổng hợp những tác động cơ giới vào một tổ chức, cơ quan của động vật để thực hiện mục đích nào đấy. Ví dụ: Thực hiện các phẫu thuật trong chấn thương, nhiễm trùng, tổn thương, hoại tử, hoại thư, hecnia Theo tiếng latinh ngoại khoa được gọi là Chirurgie, được kết hợp từ 2 từ Chiros và Urgos. Chiros: có nghĩa là ngón tay và Urgos: có nghĩa là nhanh chóng, cấp tốc. Tức là phẫu thuật cần đến sự nhanh chóng và khéo léo để chữa lành vết thương. II. Vị trí môn học ngoại khoa trong phòng và chữa bênh vật nuôi Ngoại khoa thú y là môn học chuyên khoa quan trọng trong hệ thống kiến thức thú y. Cùng với các môn học chuyên khoa khác như : Bệnh học nội khoa, Truyền nhiễm, Ký sinh trùng, Sản khoa, môn học ngoại khoa khoa thú y góp phần hoàn thiện kiến thức chuyên môn cho người học nghề và hành nghề thú y - Nhiều bệnh hoặc nhiều kỹ thuật xử lý vật nuôi không thể dùng thuốc để can thiệp mà phải có phẫu thuật ngoại khoa mới giải quyết được. Ví dụ : Nối ruột, Cắt bỏ khối u, mổ áp xe, mổ đẻ, mổ Hernia, nối gân, - Thực hiện các quy trình công nghệ chăn nuôi bình thường phải nhờ các phẫu thuật ngoại khoa giải quyết. Ví dụ: Triệt sản để vỗ béo gia súc, cắt sừng hươu, nai hàng năm, lấy nhung, cắt bỏ răng nanh lợn con - Phẫu thuật ngoại khoa chỉnh hình Ví dụ: vá mũi trâu, bò bị sứt, phẫu thuật bắt chéo dương vật để làm đực thí tình Từ những ví dụ trên cho thấy môn ngoại khoa có liên quan rất nhiều đến môn học khác và người bác sỹ ngoại khoa có một vai trò quan trọng để chứng minh kết quả chẩn đoán của bác sĩ nội, sản khoa là chính xác và bằng lưỡi dao mổ họ sẽ hoàn tất việc điều trị bệnh. III. Mối quan hệ với môn học khác Môn ngoại khoa gia súc là một môn học có quan hệ với nhiều môn học khác. Do vậy, muốn nắm chắc được môn ngoại khoa và ứng dụng vào điều kiện sản xuất, chúng ta cần biết mối liên quan giữa môn học này với các môn học khác. Sự liên quan này được thể hiện chặt chẽ và logic với một số môn học sau: - Giải phẫu học: Không thể mổ tốt nếu không có kiến thức tốt về giải phẫu định khu các vùng mổ. Ví dụ: Không thể mổ đẻ tốt, nếu không có kiến thức giải phẫu về cơ, mạch máu, thần kinh, ở vùng bụng, ở cơ quan tử cung. - 1 -
- - Sinh lý, Bệnh lý, Dược lý, Vi sinh vật: sẽ không thành công với bất kỳ một ca phẫu thuật nào nếu người phẫu thuật không có kiến thức tốt về những môn học này, đặc biệt môn Dược lý và Vi sinh vật học. Kiến thức hai môn học này góp phần quyết định sự thành công của của điều trị ngoại khoa. - Chẩn đoán bệnh: giúp người thầy thuốc thú y xác định và phân biệt chính xác các bệnh ngoại khoa với các bệnh khác, để lựa chọn phương án điều trị tối ưu. - Vệ sinh gia súc: Trong lĩnh vực thú y nói chung và ngoại khoa thú y nói riêng, ta không chữa bệnh bằng mọi giá, phải có quan điểm kinh tế rõ ràng, toàn diện. Nếu sau phẫu thuật con vật không khôi phục được khả năng làm việc, không nâng cao khả năng sản xuất thì tốt nhất nên loại thải, không điều trị. Quá trình phẫu thuật điều trị ngoại khoa thú y phải luôn diễn ra trong môi trường vệ sinh sạch sẽ, ngược lại phẫu thuật điều trị sạch sẽ (tiêu độc khử trùng tốt) sẽ góp phần đảm bảo môi trường an toàn, bền vững. - Luật Chăn nuôi thú y : Moị việc làm phải xuất phát từ lợi ích xã hội, lợi ích của người chăn nuôi, của cộng đồng. Ví dụ: Các thao tác chọn lọc rò túi mật để chữa các bệnh về gan, mật là đúng, là tốt: nhưng chọc dò túi mật nhằm thu gom mật (mật gấu) một cách tàn nhẫn, tràn lan làm tổn hại đến quần thể vật nuôi quý hiếm cần được bảo vệ lại là có “tội’’, trái pháp luật. Tóm lại, môn học ngoại khoa thú y có liên quan trực tiếp đến rất nhiều các môn học khác, ngành học khác, người học nghề cần phải quán triệt đủ và thực thi cho tốt. IV. Nội dung chính của môn học ngoại khoa thú y Bao gồm hai phần chính yếu: 4.1. Ngoại khoa thú y thực hành (phẫu thuật ngoại khoa) Trong phần này đề cập đến những nguyên tắc, phương pháp chung để thực hiện những phẫu thuật ngoại khoa. Trang bị cho người học những kỹ thật cơ bản như : Phương pháp khử trùng tiêu độc trước, trong và sau phẫu thuật, kỹ thuật gây mê, gây tê, phương pháp rạch mổ, bóc tách tổ chức, phương pháp cầm màu trước, trong và sau phẫu thuật, phương pháp khâu vết mổ, kỹ thuật chăm sóc hậu phẫu Người thầy thuốc ngoại khoa phải là người rất khéo tay trong thao tác, linh hoạt chuẩn xác trong xử lý tình huống phẫu thuật, nhằm đảm bảo mỗi ca phẫu thuật phải đạt được yêu cầu: sạch, đẹp, nhanh, vô trùng chính xác và thành công 4.2. Bệnh học ngoại khoa Tại phần này cung cấp kiến thức về bệnh ngoại khoa thú y, chia làm hai nội dung cơ bản. - 2 -
- - Ngoại khoa đại cương: Phần này đề cập đến những khái niệm chung, những dạng bệnh lý chung: Chấn thương, nhiễm trùng ngoại khoa, vết thương, tổn thương vật lý, hoá học - Ngoại khoa chuyên khoa: Đề cập đến những bệnh ngoại khoa cụ thể của cơ thể như: bệnh ở xương, bệnh về khớp, bệnh tại cơ, bệnh của mắt, bệnh ở cơ quan sinh dục V. Yêu cầu khi hành nghề ngoại khoa thú y 5.1. Về kiến thức Phải có kiến thức tốt về Chẩn đoán, Giải phẫu, Vi sinh vật và kỹ thuật vô trùng, kiến thức về Dược học, Bệnh lý học, Phải hiểu được các quá trình bệnh lý, các triệu chứng lâm sàng, của các Bệnh ngoại khoa thú y. Phải biết cách Chẩn đoán, điều trị các bệnh ngoại khoa thú y thông thường nhất, phổ biến nhất trong chăn nuôi thú y ở Vệt Nam. Phải hiểu biết về kiến thức xã hội, kinh tế, luật pháp có liên quan đến ngành nghề thú y. 5.2. Về kỹ năng Biết làm và tiến tới thành thạo các phẫu thuật ngoại khoa cơ sở như: tiêm, mổ, kỹ thuật cầm máu, kỹ thuật khâu, kỹ thuật băng bó, kỹ thuật vô trùng, Biết tiến hành chẩn đoán đúng và điều trị chính xác các bệnh ngoại khoa thú y. Về yêu cầu này, tuỳ trình độ đào tạo trung cấp thú y, cao đẳng thú y hay thú y cơ sở mà xác định cho tương thích. 5.3. Về thái độ Phải thường xuyên học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực ngành nghề. Học trong sách vở, học trong thực tế. Chống mọi biểu hiện qua loa đại khái, tắc trách khi hành nghề. Phải làm việc cẩn trọng, chính xác, hiệu quả. Có ý thức bảo vệ mình đối với những rủi ro nghề nghiệp có thể xảy ra (lây nhễm bệnh từ vật nuôi mắc bệnh). Có tình thương yêu con bệnh, hạn chế tối đa đau đớn gây ra cho con vật. Phải gây mê, gây tê đúng chỉ định trong mọi phẫu thuật. Thực hiện nghiêm túc vệ sinh tiêu độc trước, trong và sau phẫu thuật. Quan tâm, phối hợp tốt với chủ bệnh súc để chăm sóc, hộ lý tốt đối với con bệnh sau phẫu thuật, để con bệnh mau lành bệnh, nâng cao uy tín chuyên môn cho bản thân mình. Đây chính là một phần y đức của người thầy thuốc thú y. - 3 -
- * Phân loại phẫu thuật .Căn cứ vào mục đích phẫu thuật: - Phẫu thuật chẩn đoán, điều trị - Phẫu thuật kinh tế - Phẫu thuật nghiên cứu, thí nghiệm - Phẫu thuật thẩm mỹ Tuy nhiên phẫu thuật ngoại khoa được tiến hành khi các phương pháp điều trị khác không đạt được mục đích. Khi tiến hành một ca phẫu thuật cần phải cân nhắc tới tính kinh tế. Ngoại trừ các trường hợp đối với thú quý hiếm hay vật nuôi yêu thích. .Căn cứ vào qui mô của phẫu thuật: - Đại phẫu thuật: cần nhiều thời gian và nhiều người tham gia - Tiểu phẫu thuật: cần vài phút đến vài chục phút và có 2-3 người tham gia. .Căn cứ vào tính chất của phẫu thuật: - Phẫu thuật vô trùng: thực hiện ở những vết thương, vết mổ vô trùng. Từ khâu chuẩn bị, phẫu thuật tới hộ lý, chăm sóc đều đảm bảo nguyên tắc vô trùng. - Phẫu thuật nhiễm trùng: là những phẫu thuật tiến hành trên vết thương, vết mổ nhiễm trùng (mổ áp xe, lỗ rò, ). Những trường hợp này sau khi phẫu thuật xong phải điều trị như vết thương nhiễm trùng. ứng dụng, yêu cầu phải có những hiểu biết sâu sắc về kỹ thuật mổ xẻ và am hiểu tận Như vậy: Phẫu thuật ngoại khoa là một khoa học về cấu tạo cơ thể gia súc nhưng đồng thời cũng đòi hỏi ở người thực hiện phẫu thuật một kỹ năng nhất định nhằm đạt được sự chính xác và nhanh chóng. Để có được điều này, người phẫu thuật cần có sự luyện tập thường xuyên. - 4 -
- Phần 1 THỰC HÀNH NGOẠI KHOA THÚ Y Chương 1. KỸ THUẬT CƠ BẢN CỦA NGOẠI KHOA THÚ Y I. PHƯƠNG PHÁP CỐ ĐỊNH GIA SÚC Khi phẫu thuật gia súc, dù phẫu thuật lớn hay nhỏ nhất thiết phải cố định gia súc chắc chắn. Cố định gia súc là việc làm cần thiết, trước tiên của một ca phẫu thuật. Cố định gia súc giúp ngăn ngừa việc chống cự, tấn công của gia súc; tránh được những tai nạn đáng tiếc cho cả người và gia súc; tạo điều kiện thuận lợi, rút ngắn được thời gian thực hiện, giảm nguy cơ nhiễm trùng vết mổ và tránh việc mất máu nhiều khi phẫu thuật. 1.1. Một số điểm cần lưu ý khi cố định gia súc Khi tiếp xúc với gia súc phải có thái độ ôn hòa, thân mật nhất là đối với loài có tính hưng phấn cao. Cần tránh có những động tác thô bạo, thái độ nóng nảy làm cho gia súc sợ hãi gây khó khăn cho việc cố định. Trước khi thực hiện cố định gia súc cần kiểm tra kỹ lưỡng dụng cụ cố định (dây thừng, rọ mõm, giá cố định ). Nơi cố định phải được dọn vệ sinh sạch sẽ, đặc biệt không có vật cứng (gạch đá, đinh thép, dây thép gai, mảnh sành, ) nhằm tránh những tổn thương cho gia súc khi cố định. Khi gia súc ăn quá no, cần tránh việc vật ngã một cách thô bạo. Đối với gia súc mang thai cần thận trọng khi cố định. Các thao tác cố định phải được tiến hành nhanh, chính xác. Các nút buộc cần đơn giản mà chắc chắn, dễ giải thoát cho vật nuôi khi có các tai biến. Trong phẫu thuật ngoại khoa khi cố định cần sử dụng các nút thắt “sống” để dễ dàng giải thoát gia súc khi có tai biến xảy ra. Tùy theo vị trí phẫu thuật, loài gia súc mà có các cách cố định cho hợp lý. Tư thế của con vật sau khi cố định phải thuận lợi cho người thực hiện phẫu thuật. 1.2. Phương pháp cố định 1.2.1. Phương pháp cố định trâu, bò * Xoắn tai Để xoắn tai người ta dùng dây xoắn tai. Dây xoắn tai là nguyên nhân gây đau đớn cho bò, làm lệch sự chú ý khi có tác nhân gây đau đớn ở những phần khác trên cơ thể. Đây là phương pháp có hiệu quả nhưng cần chú ý tránh gây hư hại cho lớp sụn của tai. - 5 -
- * Cố định một chân trước Một vòng dây được buộc vào cổ chân, đầu còn lại vòng qua u vai, đưa ra phía trước và được giữ chặt. Nó sẽ được bỏ ra khi bò bắt đầu ngã. * Cố định một chân sau Cố định một chân sau của trâu, bò khó khăn hơn nhiều so với cố định chân trước vì trâu, bò rất khỏe. Muốn thực hiện được, chúng ta phải dùng dây thừng buộc vào đốt ngón chân của chúng rồi kéo lên. Đầu dây thừng tự do vắt qua người con vật hoặc thanh dọc của gióng cố định. * Cố định đứng trong giá Gía cố định được làm với 4 cột trụ chôn chặt xuống đất hoặc có bộ giá bằng sắt hay xi măng cốt thép. Kết nối giữa bốn trụ là các gióng dọc và ngang trải đều 2 tầng trên và dưới. Có các dây thừng và chão để buộc giữ; ghìm đầu, đỡ bụng, chằng ngang lưng, khóa hai chân sau hoăc cả bốn chân. Cố định trâu, bò đứng trong giá bốn trụ dùng để thực hiện các ca phẫu thuật phức tạp có thời gian kéo dài. Hình 1. Cố định bò trong gióng 4 trụ Hình 2. Phương pháp cố định bò * Phương pháp vật trâu bò + Vật bò: - Cách thứ nhất: dùng một sợi dây thừng bền chắc, dài 5-6 m. Một đầu dây buộc cố định vào hai gốc sừng con vật. Đầu kia luồn thành hai vòng; một vòng quanh ngực, một vòng quanh bụng sao cho tạo thành hai vòng nút. Đoạn dây còn lại được kéo dọc thân con vật. Khi vật, một người vặn đầu con vật ở tư thế: một tay ghìm sừng xuống, một tay cầm mõm hất lên; một người cầm đuôi kéo về phía định cho con vật ngã; một số người khác kéo đầu dây tự do. Nếu có đủ người thì cả 2 đầu dây được thả tự do, chia số người ra làm 2 tốp kéo về 2 phía ngược chiều nhau, dọc thân con vật. Phải có sự hiệp đồng chặt chẽ giữa những người tham gia. Con vật nằm xuống, nhanh chóng ghìm sừng, đè đầu và cột 4 chân lại. Đây là động tác quan trọng nhất khi vật bò; nếu để đầu nó cất lên thì con vật lập tức đứng dậy. - 6 -
- - Cách thứ 2: dùng dây thừng có độ dài từ 4-5m. Một đầu buộc chặt vào hai gốc sừng; đầu còn lại luồn qua vòng dây buộc quanh bụng tại vị trí tiếp giáp giữa các đốt sống hông – khum. Khi vật: một người vặn đầu, kéo đuôi, những người khác kéo đầu dây tự do. Con vật ngã, nhanh chóng ghì đầu rồi chói chặt 4 chân lại. Phương pháp này thường dùng để vật những con bò gầy yếu, bò béo khỏe thường rất khó vật. Đối với bê ta có thể áp dụng phương pháp sau: người vật vòng người qua lưng bê, nắm chặt 2 chân (chân trước và chân sau ở cùng một bên) rồi nhấc lên. Bê ngã, lập tức dùng đầu gối đè lên vai và phần sau, lấy dây thừng cột 4 chân lại. Hình 3. Phương pháp vật bê Hình 4. Phương pháp vật trâu + Vật trâu Dùng dây thừng bền chắc, luồn thành các nút số 8 ở hai chân trước và hai chân sau. Buộc sao cho các nút thắt lại được khi kéo mà không bị tuột ra (đoạn dây tự do phải nằm phía dưới vòng nút). Khi vật, một người khỏe ghìm giữ đầu; một người kéo đuôi; số còn lại chia làm 2 tốp kéo cùng về 1 phía. Khi kéo, các vòng của nút số 8 thiết chặt dần; hai chân phải, hai chân trái sát lại gần nhau; con vật mất khả năng trụ và đổ vật xuống. Tương tự như vật bò, nhanh chóng ghìm đầu, dùng dây thừng buộc chặt 4 chân. 1.2.2. Phương pháp cố định ngựa * Xoắn mũi Dùng để cố định ngựa ở tư thế đứng. Phương pháp này chỉ nên áp dụng trong các trường hợp thăm khám, điều trị mang tính chất đơn giản. Nguyên tắc: lợi dụng ngựa có môi trên với gương mũi dài và mỏng, tập trung nhiều đầu mút dây thần kinh. Khi xoắn mũi, con vật đau đớn và tập trung sự chú ý vào vùng mũi mà hoàn toàn không để ý tới người khác đang ở phía sau thực hiện thao tác khám bệnh hay điều trị. Hình 5. Dụng cụ xoắn mũi - 7 -
- Cách tiến hành: một tay giữ cương, một tay nắm lấy mũi con vật xoay nửa vòng. Xoay sao cho vừa đủ sự thu hút tập trung của con vật, không nên xoay quá mạnh. Nếu tay không nắm chặt được thì dùng một vòng dây vòng vào vùng môi trên, lồng vào đó một chiếc que sau đó cầm que xoắn dây lại hoặc dùng dụng cụ xoắn mũi chuyên dụng. Chú ý những thao tác xoắn mũi khi thực hiện không gây ra sự hoảng loạn và ít đau đớn. Nếu đau đớn quá con vật sẽ hoảng loạn, giẫy giụa nhằm thoát khỏi sự cố định. * Giữ dây cương hàm thiếc Để điều khiển ngựa, người ta dùng dây cương và hàm thiếc. Hàm thiếc làm bằng kim loại, cho vào miệng ngựa để đè lưỡi xuống nhằm tránh cắn vào lưỡi khi làm việc, vận động mạnh. Dây thừng buộc vào hàm thiếc để điều khiển ngựa gọi là dây cương. Khi muốn khám bệnh, tiêm hay cho uống thuốc chỉ cần giữ dây cương tại nơi tiếp xúc với hàm thiếc, con vật tạm thời đứng yên tại chỗ (bốn chân vẫn rậm rịch) nếu việc làm của chúng ta không gây sợ hãi cho con vật. * Cố định bằng khung càng xe ngựa kéo Đối với ngựa kéo xe, khó cố định bằng xoắn mũi hay giữ dây cương hàm thiếc ta có thể cho vào trong khung càng xe kéo (như là mắc xe cho chúng đi làm). Xe ngựa kéo có hai càng khỏe, do đó khi cố định bằng phương pháp này cũng gần như đạt được sự chắc chắn như cố định trong giá bốn trụ. * Cố định một chân Vật nuôi 4 chân khi bị cố định một chân bằng cách bắt chân co lên thì sự di chuyển của nó trở nên khó khăn rất nhiều. Lợi dụng đặc điểm này, chúng ta có thể cố định vật nuôi đứng tạm thời bằng cách bắt chúng co một chân lên; việc bắt gia súc co chân trái hay phải, trước hay sau là tùy thuộc vào vị trí cần kiểm tra. * Cố định một chân trước Cố định một chân trước ở ngựa có thể dùng tay hoặc dùng dây thừng Cố định bằng tay: người cố định quay mặt về phía đuôi ngựa. Khi cố định chân trái thì dùng tay phải và ngược lại. Tay phải vuốt nhẹ từ cổ xuống vai, đến cổ chân thì nắm chặt; tay trái tỳ lên vùng gáy con vật đồng thời hơi đẩy sang bên kia rồi nhấc chân trái lên; tay phải đẩy chân trái con vật về phía sau rồi nhấc lên, dùng hai tay nắm chắc cổ chân con vật. Hình 6. Cố định một chân trước - 8 -
- Cố định bằng dây thừng: dùng một đầu dây thừng buộc thành nút sống ở cổ chân ngựa, dùng tay đẩy nhẹ vai đồng thời cầm dây kéo chân con vật lên. Sau đó, vắt đầu dây thừng còn lại qua vai, luồn qua nách con vật đồng thời quấn đầu dây thừng về phía sau, một người giữ đầu dây thừng. * Cố định một chân sau Cố định một chân sau của ngựa cũng có thể dùng tay hoặc dây thừng. Cố định bằng tay: Người cố định mặt quay về phía đuôi, dùng tay trái để giữ chân phải con vật và ngược lại. Muốn cố định chân phải của ngựa thì tay phải tỳ nhẹ lên khớp xương cánh chậu của con vật, tay trái vuốt nhẹ từ mông xuống đùi đến cổ chân thì nắm chặt rồi nhấc lên và đưa về phía sau đồng thời chân trái người cố định bước lên một bước rồi tỳ cổ chân con vật lên đầu gối mình hay kẹp chân của nó giữa 2 đùi của người cố định và dùng 2 tay giữ chặt. Cố định bằng dây thừng: sử dụng dây thừng dài 3 – 4m buộc đoạn giữa vào đuôi ngựa hai đầu dây tự do, vòng qua mặt trước ngón chân rồi kéo về 2 phía nhấc lên. Hình 7. Cố định một chân sau bằng tay Hình 8. Cố định một chân sau bằng dây thừng * Cố định 2 chân sau Phương pháp này được sử dụng để tránh trường hợp ngựa đá, ứng dụng trong các trường hợp khám bệnh hay phẫu thuật ở trực tràng hay âm đạo. Trước hết buộc một vòng dây ở cổ, hai đầu của sợi dây đưa về phía sau và nằm ở giữa 2 chân trước. Sau đó buộc một vòng ở mỗi chân sau. Hoặc có thể sử dụng một vòng đeo cổ bằng vải để thay thế cho vòng dây và 2 vòng tròn nhượng để thay thế cho mối cột ở trên 2 khớp nhượng. Hình 9. Cố định hai chân sau Hình 10. Phương pháp vật ngựa - 9 -
- * Vật ngựa Có nhiều phương pháp vật ngựa, thông thường hay sử dụng phương pháp sau: - Dùng sợi dây thừng dài khoảng 4-5m, một đầu dây buộc cố định vào cổ ngựa. Nếu muốn ngựa ngã về bên nào thì dùng đầu dây thừng còn lại kéo về phía sau bên ấy rồi vòng qua mông con vật, luồn dây thừng vào vòng dây buộc ở cổ rồi kéo xuống buộc ở cổ chân sau bên định cho ngựa ngã. Một người giữ chặt đầu ngựa, một người giữ chặt đầu dây còn lại được vắt qua vai ngựa. Đồng thời kéo mạnh làm cho 2 chân sau tiến về phía trước, một chân sau của ngựa bị nhấc lên gây mất thăng bằng, nó sẽ nằm xuống theo tư thế chó nằm. Sau khi ngựa nằm xuống cần có người ghì đầu ngựa xuống đất, đồng thời nhanh chóng trói hai chân sau và hai chân trước lại. - Dùng 4 vòng cổ chân, đeo vào chân ngựa. Các vòng này được nối với nhau bằng sợi dây thừng chừng 5m. Một người nắm đuôi nhằm đỡ con vật khi ngã. Kéo mạnh sợi dây, 4 chân ngựa gom lại gây mất thăng bằng làm ngựa ngã xuống. Tiếp theo dùng dây buộc một đầu vào trên khớp nhượng của chân sau phía trên, phần còn lại luồn qua 2 chân trước, choàng qua vai bên kia và quấn 1 vòng vào cổ chân sau để nhấc lên. Phương pháp cố định này thường dùng để thiến ngựa. Hình 11,12. Hình 11. Phương pháp vật ngựa Hình 12. Phương pháp cố định ngựa khi ngã 1.2.3. Phương pháp cố định lợn Khi thực hiện phẫu thuật ở những con nhỏ việc cố định rất đơn giản nhưng khi tiến hành ở những con vật lớn thường rất khó vì chúng béo lẳn và trơn. * Cố định lợn để thiến Đối với lợn nhỏ có thể cố định bằng cách xách ngược hai chân sau lên, mặt bụng quay ra ngoài. Người cố định dùng hai đầu gối để kẹp phần dưới của lợn lại. Đây là cách đơn giản để tiêm tiêm cho lợn. Nếu để thiến lợn đực thì phần lưng của lợn quay ra phía ngoài và phần đầu của nó nằm giữa hai chân sau của người cố định. - 10 -
- Hình 13. phương pháp giữ lợn Hình 14. Phương pháp cố định lợn nằm ngửa * Cách cố định để cho lợn uống thuốc Người cố định nắm hai chân trước của lợn và để ở tư thế tựa mông trên mặt đất. Dùng hai đầu gối kẹp vào hai bên vai để ghìm giữ lợn. * Cố định lợn ở tư thế nằm ngửa Phương pháp cố định này thường dùng trong trường hợp phẫu thuật vùng bụng. Dùng một máng ăn, bên dưới được lót bằng bao bố, đặt lợn ở tư thế nằm ngửa, dùng dây để buộc hai chân trước và hai chân sau vào máng ăn. * Phương pháp vật lợn Vật lợn bằng tay: dùng tay luồn qua bụng lợn, nắm chân trước và chân sau cùng phía rồi kéo mạnh. Vật lợn bằng dây: trước hết dùng một sợi dây buộc mõm, phần cuối sợi dây đưa ra phía sau rồi làm 1 vòng ở phía trên khớp nhượng của chân sau bên trái. Nắm phần cuối của sợi dây kéo mạnh về phía sau, con vật sẽ mất thăng bằng và ngã xuống. Dùng một sợi dây buộc mõm để tạm cố định lợn. Vật lợn bằng dụng cụ tròng chân sau: đây là phương pháp tốt nhất để quật ngã và cố định lợn to. Dụng cụ này có thể đưa vào chân sau của lợn rất đơn giản và nhanh chóng. Dùng một ống hình tròn, đường kính 3-4 cm, chiều dài 40 cm. Hai đầu ống gắn với 2 vòng kim loại đường kính khoảng 5cm. Hai vòng này được nối với hai sợi dây xích dài khoảng 50 - 60cm. Đầu cuối của hai sợi dây xích nối với một vòng kim loại thứ 3. Từ vòng thứ 3 này nối với sợi dây thừng chắc chắn. Trước hết dùng dây để khớp mõm lại. Sau đó đưa dụng cụ tròng vào hai chân sau của lợn. Nắm sợi dây thừng kéo mạnh về phía sau. Lợn ngã xuống. Hình 15. Vật lợn bằng dụng cụ tròng chân - 11 -
- Nếu thực hiện những ca tiểu phẫu mà không gây đau đớn thái quá cho lợn, người ta chỉ cần sử dụng một sợi dây cột vào mõm lợn và kéo căng dây là được. 1.2.4. Phương pháp cố định chó Rọ mõm (buộc mỗm): đối với chó việc tiếp cận để thăm khám hay thực hiện phẫu thuật luôn phải được rọ mõm (rọ mõm có nhiều kích cỡ, được làm bằng da, bằng inoc hay dùng sợi dây mềm để rọ (buộc) mõm lại. Cách buộc mõm bằng dây: đầu tiên vòng một vòng quanh mõm rồi thắt lại ở phía dưới hàm và vòng ra sau gáy rồi thắt lại, đối với giống chó mõm ngắn sau khi đã buộc mõm như trên thì dùng phần dây thừa sau gáy luồn vào vòng dây quanh mõm phía trên sống mũi rồi cột nút với phần dây thừa còn lại. Hình 16. Phương pháp rọ (buộc) mõm chó Hình 17. Một số loại rọ mõm Cố định trên bàn mổ: tùy theo vị trí mổ mà có các kiểu cố định khác nhau. Cách buộc chân: đối với chân trước, vòng đầu tiên buộc vào trên khớp cùi trỏ, đưa dây xuống phía dưới làm một vòng thứ hai ngay tại khớp cổ tay rồi cột dây vào bàn mổ. Đối với chân sau, vòng dây đầu tiên được buộc trên khớp nhượng, vòng thứ hai tại khớp cổ chân rồi mới buộc cố định vào bàn mổ. Có thể cố định chó nằm ngửa: phẫu thuật vùng bụng, thiến; nằm nghiêng: phẫu thuật vùng tai, mắt, thận, lách; nằm sấp: phẫu thuật vùng đuôi, hậu môn, đầu. - 12 -
- 1.2.5. Phương pháp cố định mèo Buộc mõm: cách buộc mõm tương tự như cách buộc mõm giống chó mõm ngắn, ngoài ra mèo có thể cào do đó cần buộc mõm kết hợp với dùng vải mềm bó chặt tứ chi. Hình 18. phương pháp giữ mèo Hình 19. Phương pháp cố định mèo Cố định mèo trên bàn mổ: cách cố định mèo trên bàn mổ cũng tương tự như cách cố định chó. Tuy nhiên đối với mèo có thể dùng giá cố định chuyên dụng. Giá này gồm hai tấm gỗ, mỗi bên cắt một lỗ thủng là một nửa vòng tròn, khi ghép lại được một lỗ thủng hình tròn. Hai tấm đó được chạy trên một thanh trượt. Đưa mèo vào giá, ép hai tấm gỗ sát nhau ở ngang nách con vật; sao cho đầu và hai chân con vật nằm ở phía trước tấm gỗ, một người cầm hai chân sau kéo lại. II. ĐỀ PHÒNG NHIỄM TRÙNG KHI PHẪU THUẬT 2.1. Khái niệm nhiễm trùng Nhiễm trùng là tổng hợp những hiện tượng xảy ra trong cơ thể vật nuôi do sự tác động lẫn nhau giữa cơ thể và vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể. Dạng đỉnh điểm của quá trình sinh học này được thể hiện bằng sự phát triển của nhiễm trùng. 2.2. Tác nhân thúc đẩy nhiễm trùng Những tác nhân gây nhiễm trùng chủ yếu là vi khuẩn, đôi khi là virus và nấm. Nó xâm nhập từ môi trường bên ngoài vào cơ thể bằng con đường khác nhau gọi là nguyên nhân ngoại sinh. Ngoài ra nguyên nhân gây nhiễm trùng có thể đến từ những ổ nhiễm trùng có sẵn trên cơ thể vật nuôi xâm nhập vào vết mổ thông qua máu, hệ bạch huyết, gọi là nguyên nhân nội sinh. Ngoài ra, công tác nuôi dưỡng chăm sóc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đề phòng nhiễm trùng vết mổ. Quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc kém; khai thác không đúng làm suy giảm đột ngột sức đề kháng của con vật là điều kiện thuận lợi để nhiễm trùng phát triển. Một yếu tố cũng góp phần quan trọng trong việc phát triển nhiễm trùng đó là khâu hộ lý chăm sóc sau khi phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật gia súc không được hộ lý - 13 -
- chăm sóc chu đáo, bị nhốt trong những chỗ bẩn thỉu là yếu tố gây ra nhiễm trùng sau phẫu thuật rất lớn. Để phòng nhiễm trùng cho gia súc thường dùng 2 biện pháp: khử trùng và vô trùng. - Khử trùng là dùng các loại hóa chất như: KMnO4, H2O2, formalin, Ca(OH)2 10%, NaOH 10%, để xử lý bãi mổ, tay người thực hiện phẫu thuật, vùng phẫu thuật trên cơ thể vật nuôi, - Vô trùng là sử dụng các yếu tố vật lý như: nhiệt độ, tia cực tím, để xử lý phòng mổ, dụng cụ phẫu thuật, Sử dụng các yếu tố vật lý cho hiệu quả tiệt trùng triệt để hơn so với sử dụng các hóa chất nhưng phương pháp vật lý không thể áp dụng trong mọi trường hợp; vì vậy trong thực tế chúng ta phải kết hợp các biện pháp sao cho phù hợp với từng đối tượng xử lý. Việc đề phòng nhiễm trùng khi phẫu thuật đôi khi còn được gọi là “yếu tố vô trùng” khi phẫu thuật. Đề phòng nhiễm trùng khi phẫu thuật là yếu tố quyết định sự thành công của phẫu thuật. Nhiễm trùng vết mổ là họa thường trực của nhà ngoại khoa, nó chính là nguyên nhân gây ra biến chứng nặng nề và dẫn đến cái chết của vật nuôi. Để đề phòng nhiễm trùng vết mổ chúng ta phải thực hiện tốt nhiều việc như: chuẩn bị và xử lý dụng cụ phẫu thuật; chuẩn bị vật nuôi với vùng phẫu thuật trên cơ thể chúng; chuẩn bị địa điểm phẫu thuật và xử lý tay của người tham gia phẫu thuật 2.3. Chuẩn bị nhân sự 2.3.1. Người thực hiện phẫu thuật Tùy thuộc vào ca phẫu thuật lớn hay nhỏ mà quyết định số người tham gia nhiều hay ít. Mỗi người sẽ được giao nhiệm vụ cụ thể. Người mổ chính: là người ra quyết định thực hiện phẫu thuật và chịu trách nhiệm về ca phẫu thuật đó; trực tiếp thực hiện phẫu thuật với sự trợ giúp của các đồng nghiệp và đưa ra các quyết định về phương pháp xử lý tình huống khi có sự cố bất thường xảy ra trong phẫu thuật. Như vậy người mổ chính phải là người hiểu rõ nhất về tình cảnh bệnh của con vật, nắm vững và thành thạo các phương pháp thực hiện phẫu thuật đó. Người phụ mổ thứ nhất: là người cùng thực hiện phẫu thuật với người mổ chính, giúp người mổ chính trong các khâu bóc tách tổ chức, cầm máu hay kết nối tổ chức và thay thế người mổ chính khi cần thiết. Như vậy người phụ mổ thứ nhất phải nắm rõ tình hình con bệnh, thành thạo kỹ năng thực hiện phẫu thuật đó. - 14 -
- Người phụ mổ chuẩn bị dụng cụ: công việc chuẩn bị dụng cụ ở đây chỉ bao hàm việc lấy dụng cụ từ các khay dụng cụ đã được xử lý đưa cho người mổ chính và người phụ mổ thứ nhất; đồng thời đưa các dụng cụ không cần thiết ra ngoài. Người chuẩn bị dụng cụ phải theo dõi tiến trình phẫu thuật, đưa dụng cụ và lấy dụng cụ ra sao cho thật chính xác; các thao tác phải nhịp nhàng ăn ý với người mổ chính và người phụ mổ thứ nhất, tránh những tác động thừa. Người phụ mổ phụ trách gây mê, hồi sức: nếu phẫu thuật có chỉ định gây mê cần cử người chuyên trách. Khi gây mê có thể xảy ra tai biến do đó cần cử người theo dõi mọi biểu hiện của con vật, nếu có biểu hiện bất thường cần thông báo và có biện pháp xử lý kịp thời. Những người kể trên, trực tiếp thực hiện phẫu thuật hợp lại thành kíp mổ. Để tránh nhiễm trùng vết mổ do chính những người thực hiện phẫu thuật gây ra tất cả những người thực hiện phẫu thuật cần phải được xử lý tay cẩn thận, mặc quần áo bảo hộ, đeo khẩu trang, đội mũ. Trong khi thực hiện phẫu thuật hạn chế nói thành tiếng, không được cười đùa, khạc nhổ bừa bãi; không để mồ hôi, nước bọt hay các chất tiết khác rơi vào vết mổ. 2.3.2. Người giúp việc Người vận hành các trang thiết bị: trong phòng mổ hiện đại có các trang thiết bị hiện đại hỗ trợ phẫu thuật như: dao mổ điện, máy gây mê, máy hút dịch, đèn mổ, bàn cố định, vì vậy cần có người vận hành và theo dõi các hoạt động của chúng. Người hỗ trợ cố định vật nuôi và dọn vệ sinh: vật nuôi phẫu thuật bao giờ cũng có phản ứng khi đau hay sợ hãi do đó cần bố trí người cố định vật nuôi khi thực hiện phẫu thuật lớn hay nhỏ. Người hộ lý và chăm sóc vật nuôi: sau phẫu thuật phải cắt cử người theo dõi, chăm sóc, nuôi dưỡng vật nuôi. Nhất là thời gian đầu đối với vật nuôi có thực hiện gây mê. 2.3.3. Xử lý tay người phẫu thuật Người thực hiện phẫu thuật là những người đầu tiên có khả năng gây ra nguy cơ nhiễm trùng vào vết mổ vì vậy mỗi người phải chuẩn bị tay cẩn thận. Trên da tay luôn luôn tồn tại một hệ vi khuẩn bao gồm các vi khuẩn hiện diện thường xuyên và các vi khuẩn không thường xuyên. Các vi khuẩn khu trú ở khe da, các nếp nhăn, ở lỗ chân lông nên việc tẩy rửa là tương đối khó. Khi sửa soạn tay, các móng tay phải được cắt ngắn và giũa bằng, tháo bỏ đồ trang sức trên tay. Tay phải được chà rửa bằng bàn chải mềm với xà phòng, chà xát tất cả các phần từ đầu ngón tay cho đến cùi trỏ sao cho các phần được chà ít nhất 30 lần với bàn chải. Năm ngón tay chụm lại khi chà trên các đầu ngón tay. Bọt xà phòng luôn được duy trì trong suốt thời gian chà. Nếu tiến hành chà trong vòng 7 phút thì tất cả - 15 -
- các chất bẩn đại thể, vi khuẩn không thường xuyên và phần nửa vi khuẩn thường xuyên sẽ bị rửa trôi. Cuối cùng rửa sạch bọt xà phòng dưới vòi nước mạnh. Lau khô tay bằng vải mềm đã tiệt trùng. Tiếp tục sử dụng cồn ethyl 70% ngâm tay để tiêu diệt số vi khuẩn còn lại. Có thể sử dụng các chất sát trùng sau để xử lý tay: Cồn iod 5% Hỗn hợp: Ethyl alcohol 70% : 675 ml N – propyl alcohol 70% : 259 ml Nước cất : 250 ml Hỗn hợp: KMnO4 nóng, bão hòa và acide oxalic để tẩy màu tím. Ngâm tay trong hỗn hợp này từ 2,5 – 5 phút. Tóm lại dù có dùng những dung dịch sát trùng tốt nhất để xử lý tay thì tay cũng chưa hoàn toàn vô trùng. Vì vậy cần phải mang thêm găng tay để đảm bảo vô trùng khi tham gia phẫu thuật. Hai tay sau khi được xử lý xong không được sờ vào những vật chưa vô trùng. Trong thời gian phẫu thuật, nếu tay bị nhiễm bẩn thì tùy mức độ mà xử lý từ đầu hay chỉ cần sát trùng bằng cồn 70%. 2.4. Chuẩn bị địa điểm phẫu thuật 2.4.1. Phòng mổ Phòng mổ là phòng chỉ dùng để thực hiện các cuộc phẫu thuật mà không sử dụng vào việc khác, như vậy nguy cơ nhiễm trùng đã bị hạn chế rất nhiều. Một phòng mổ cần phải được trang bị tối thiểu các thiết bị sau: bàn mổ, bàn để dụng cụ, bàn để thuốc và hóa chất, hệ thống đèn chiếu sáng, hệ thống thông gió và điều hòa nhiệt độ, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống tiệt trùng, Đối với bàn mổ phải có kích thước phù hợp cho vật nuôi. Bàn mổ vật nuôi lớn thường được thiết kế phù hợp với việc cố định và vật gia súc. Mặt bàn có các mấu chốt, móc để buộc dây cố định gia súc; có đệm lót nên có thể thực hiện được những ca phẫu thuật trong thời gian dài mà không cản trở tuần hoàn da của gia súc khi nằm. Cách thức hoạt động của các loại bàn mổ này rất thuận tiện cho việc cố định gia súc: trước tiên để mặt bàn ở tư thế đứng như một giá cố định, đưa vật nuôi vào, buộc ép sát con vật vào mặt bàn, sau đó xoay mặt bàn nằm ngang ra, lúc này vật nuôi đã nằm nghiêng trên mặt bàn. Bàn mổ của gia súc nhỏ được thiết kế đơn giản hơn nhưng trên bàn mổ cũng được thiết kế đầy đủ các móc, chốt và các lỗ để thuận tiện cho việc cố định, thu hồi dịch tiết và vệ sinh bàn mổ. - 16 -
- Đèn mổ được thiết kế 3 hay 6 bóng. Loại đèn pha tập trung ánh sáng lại một chỗ giúp tăng cường độ ánh sáng lên rất nhiều, có thể điều chỉnh ánh sáng chiếu vào vùng phẫu thuật giúp người phẫu thuật nhìn rõ được mô bào hơn. Đối với các phòng mổ hiện đại còn được trang bị các thiết bị hiện đại hơn như: dao mổ điện, máy gây mê, máy hút dịch, Để tiệt trùng phòng mổ, người ta trang bị trong phòng hệ thống đèn tử ngoại. Mỗi loại đèn tử ngoại có khả năng tiệt trùng hiệu quả ở một dung tích nhất định do đó cần tính toán số lượng đèn phù hợp với với thể tích phòng mổ. Trước khi thực hiện phẫu thuật cần bật đèn và duy trì trong vòng 30 phút, sau khi tắt đèn 10-15 phút mới vào làm việc được do sau khi tắt đèn trong phòng có mùi hắc rất khó chịu. Chú ý trong khi bật đèn người và vật nuôi không được vào phòng vì dưới tác động của tia tử ngoại có thể gây loét giác mạc, khi cần thiết vào phòng thì nên đeo kính màu đen. Khi phòng mổ bị ô nhiễm cần tổng vệ sinh phòng mổ. Thông thường người ta sử dụng formalin xông hơi phòng mổ do chất này có khả năng tiêu diệt được những vi khuẩn tồn tại trong các khe, kẽ, hang hốc của phòng mổ mà tia tử ngoại không làm được. Tùy theo mức độ ô nhiễm mà đưa ra thời gian xông hơi dài ngắn khác nhau. 2.4.2. Bãi mổ Trong lĩnh vực thú y không phải lúc nào cũng có phòng mổ để tiến hành phẫu thuật. Mặt khác thực tiễn đặt ra là đa phần người chăn nuôi không thể vận chuyển gia súc đến các phòng mạch do nhiều nguyên nhân khác nhau do đó việc phẫu thuật phải thực hiện tại địa điểm nuôi gia súc. Trong điều kiện không có phòng mổ chúng ta cần chuẩn bị một khu vực bằng phẳng, sạch sẽ, đủ rộng để tiến hành phẫu thuật gọi là bãi mổ. Bãi mổ cần đáp ứng được các yêu cầu sau: - Tuyệt đối không được sử dụng nơi nghi nhiễm vi khuẩn có nha bào làm nơi phẫu thuật do những vi khuẩn sinh nha bào là nguyên nhân gây nên những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như nhiệt thán, uốn ván, nha bào của các loại vi khuẩn này có thể tồn tại rất lâu trong đất. - Những nơi nghi nhiễm nha bào của các loại vi khuẩn này: nền chuồng trại trước đây có vật nuôi chết; nơi xử lý các ổ nhiễm trùng, mổ xác chết hay nơi chôn xác, chất thải của các động vật đã chết vì bệnh đó. - Bãi mổ phải là nơi bằng phẳng, có diện tích đủ rộng để thực hiện phẫu thuật. - Bãi mổ phải có đầy đủ ánh sáng nhưng tránh được ánh nắng trực tiếp, mưa, gió. - Trước khi phẫu thuật cần dọn sạch gạch đá, mảnh sành, đinh gai, các vật cứng, nhọn để tránh gây thương tích cho vật khi thực hiện cố định và phẫu thuật. - Trong trường hợp bãi mổ có cỏ qúa tốt cần cắt ngắn trước khi thực hiện phẫu thuật. Cỏ quá dài làm tăng nguy cơ nhiễm trùng vết mổ. - Dọn sạch phân, rác, nước tiểu trên mặt nền. Mặt nền có nhiều chất bẩn có thể rơi vào vết mổ khi con vật giẫy đạp nhiều. Vi sinh vật có nhiều trong các hạt bụi, cát - 17 -
- trong không khí được bay lên mỗi khi vật giẫy đạp. - Để khử trùng và hạn chế cát bay lên, có thể phun lên mặt nền một số dung dịch sát trùng như: formalin 4%, chloramin T 0,5%, thuốc tím 0,1%, NaOH 10%, Ca(OH)210%, phun một lớp mỏng lên bề mặt nền bãi mổ. - Sau khi thực hiện phẫu thuật xong phải dọn sạch và xử lý các chất thải, máu, mủ, mảnh vụn mô bào, nhất là khi xử lý các trường hợp nhiễm các loại vi khuẩn hình thành nha bào, phải tuân thủ các quy định về vệ sinh thú y, không được phát tán mầm bệnh. 2.5. Chuẩn bị động vật phẫu thuật 2.5.1. Kiểm tra chung Việc kiểm tra động vật trước khi thực hiện phẫu thuật đóng vai trò quan trọng, góp phần giúp nhà phẫu thuật tiên lượng, hạn chế được những tai biến xảy ra trong suốt quá trình phẫu thuật, đồng thời giúp người phẫu thuật quyết định có tiến hành phẫu thuật không hoặc nếu có thì cần lưu ý những gì. Trước khi thực hiện phẫu thuật phải kiểm tra toàn diện các cơ quan, hệ thống trong cơ thể vật nuôi, chẩn đoán xác định, tiên lượng, đi đến kết luận: có thực hiện phẫu thuật hay không? Nội dung kiểm tra: Kiểm tra hoạt động của các cơ quan quan trọng: tim, gan, phổi, thận; đồng thời xác định sự rối loạn chức năng của chúng. Kiểm tra các bệnh truyền nhiễm: khi có nghi ngờ có sự tồn tại của bệnh truyền nhiễm cần nhanh chóng xác định bằng các phương pháp chẩn đoán đặc hiệu. Kiểm tra trực tràng, bàng quang: vật nuôi lớn kiển tra qua trực tràng, vật nuôi nhỏ sờ nắn qua thành bụng. Nếu trực tràng, bàng quang tích nhiều phân và nước tiểu thì phải giải thoát. - Trâu, bò, ngựa trưởng thành móc phân trực tiếp qua trực tràng. Chó, mèo dùng ống thông để thụt trực tràng bằng nước muối ấm pha loãng hay nước xà phòng loãng (không sử dụng thuốc nhuận tràng). - Giải thoát nước tiểu bằng cách dùng ống thông niệu đạo. Đối với chó, mèo khi thông niệu đạo phải chỉ định gây mê. Các con đực của loài nhai lại không thông bàng quang được vì niệu đạo của nó có đoạn hình chữ “s”. Những trường hợp này giải thoát nước tiểu bằng cách xoa bóp kích thích cổ bàng quang thông qua trực tràng đối với cá thể trưởng thành; những cá thể bé thì xoa bóp nhẹ nhàng ngoài da vùng bụng dưới. Làm như thế cơ vòng bàng quang có thể mở ra, con vật sẽ đi tiểu. Nếu kích thích để con vật đi tiểu không có kết quả thì dùng cách chọc bàng quang hút nước tiểu ra. Đối với cá thể lớn chọc hút qua trực tràng nhưng cách này rất nguy hiểm, nguy cơ lọt phân và nước tiểu vào xoang bụng gây viêm phúc mạc; với những các thể nhỏ nguy cơ viêm phúc mạc ít hơn. Để tránh tình trạng trên, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung khi thực hiện thủ thuật ngoại khoa nên chọn kim chọc dò cỡ nhỏ. Sau khi hút hết nước tiểu cần bơm vào trong bàng quang một lượng vừa phải hỗn hợp Novocain 0,25% + kháng sinh. - 18 -
- Phát hiện và xử lý các ổ nhiễm trùng trên cơ thể vật nuôi: trên cơ thể vật nuôi có các ổ nhiễm trùng từ trước (mụn nhọt, áp-xe, lỗ rò bệnh lý, ) mầm bệnh có thể từ đó lan sang vết mổ khi nó ở gần nhau hoặc có thể theo máu, mạch lâm ba xâm nhập vào vết mổ khi ở cách xa nhau. Kiểm tra tình trạng vệ sinh chung: xem xét cần thiết phải tắm rửa toàn thân hay cục bộ cho vật nuôi phẫu thuật. Chú ý những cơ quan có nhiều nếp nhăn, nếp gấp, khe, kẽ như: cổ, yếm, nách, bẹn, bàn chân, ngón chân, phải được kỳ cọ bằng bàn chải và rửa sạch bằng xà phòng và nước sạch. Xác định tính cấp thiết của phẫu thuật: tính cấp thiết của phẫu thuật chia ra làm 2 loại: phẫu thuật không trì hoãn và phẫu thuật có thể trì hoãn. * Phẫu thuật không trì hoãn: - Là những phẫu thuật nếu không được tiến hành ngay thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng sức khỏe của vật nuôi. - Gặp các trường hợp phẫu thuật không trì hoãn chúng ta phải tiến hành ngay trong bất kỳ thời gian nào, ngay cả khi các điều kiện phẫu thuật chưa được như mong muốn. * Phẫu thuật có thể trì hoãn: - Là phẫu thuật chưa phải tiến hành ngay tức thời, dù có thực hiện muộn nhưng không hoặc ít ảnh hưởng tới sức khỏe vật nuôi. - Nếu phẫu thuật có thể trì hoãn được, trước khi phẫu thuật cần bắt vật nuôi ăn ít hoặc nhịn ăn hoàn toàn từ 12-24h nhưng phải cho uống đủ nước. - Khi phẫu thuật có chỉ định gây mê, thời gian cho vật nuôi nhịn ăn từ 12-24h. Vật nuôi ăn no gây khó khăn cho việc gây mê bằng đường dạ dày. Hay gây cản trở hô hấp do chất chứa dạ dày rơi vào khí quản khi nôn. Ở ngựa có thể gây vỡ dạy dày do cho ăn quá no khi gây mê. Đối với vật nuôi quá yếu: cần có các biện pháp tăng cường sức khỏe trước khi thực hiện phẫu thuật bằng các biện pháp: cho ăn các thức dễ tiêu, giàu dinh dưỡng và vitamin. Sử dụng các kích thích phi đặc hiệu (huyết liệu pháp, mô bào liệu pháp, ). Sau khoảng thời gian 2 -3 tháng con vật đỡ suy kiệt, có khả năng chịu đựng được phẫu thuật khi đó mới tiến hành phẫu thuật. Đối với vật nuôi cái: cần xác định có thai hay không, giai đoạn mang thai. Khi phẫu thuật vật nuôi mang thai có thể gây sảy thai do việc cố định và gây mê, đặc biệt đối với những cá thể mang thai ở giai đoạn đầu và giai đoạn cuối. Trong trường hợp này nếu là phẫu thuật không thể trì hoãn thì cần tiến hành phẫu thuật trong tình trạng không gây mê mà sử dụng các biện pháp gây tê dẫn truyền, gây tê thấm kết hợp với việc cố định chắc chắn. Cần chú ý các thao tác khi cố định vật nuôi mang thai cần nhẹ nhàng, tránh việc gây hoảng sợ cho gia súc. - 19 -
- 2.5.2. Xử lý da vùng phẫu thuật Trên bề mặt lông, da của cơ thể vật nuôi có chứa nhiều vi sinh vật; các vật lạ từ đó có thể vấy nhiễm vào vết mổ. Bề mặt che phủ của vật nuôi rất rộng vì vậy không thể xử lý toàn bộ cơ thể của chúng được mà chỉ có thể xử lý tại cục bộ vùng phẫu thuật. Xử lý vùng phẫu thuật tốt cũng góp phần đảm bảo cho sự thành công của phẫu thuật, xử lý không đạt yêu cầu nguy cơ nhiễm trùng xảy ra là tất yếu. Cắt, cạo lông thật sạch rộng gấp 2 – 3 lần vùng phẫu thuật. Thực hiện cạo lông khi vùng phẫu thuật ít lông. Nếu vùng phẫu thuật nhiều lông phải cắt sơ bộ, sau đó dùng dao cạo sạch. Trâu, lợn có ít lông do đó khi thực hiện phẫu thuật chỉ cần cắt lông là được. Vật nuôi ăn thịt nói chung, chó mèo nói riêng có hệ thần kinh linh hoạt do đó rất dễ bị kích thích. Nếu xung quanh mép vết mổ có nhiều lông sẽ làm chậm đáng kể thời gian liền của vết mổ, vì thế khi thực hiện phẫu thuật ở chó mèo hay vật nuôi ăn thịt nhất thiết phải cạo sạch lông. Dùng xà phòng và nước rửa sạch da vùng phẫu thuật. Chú ý nếu vùng phẫu thuật có nhiều nếp nhăn cần kỳ cọ kĩ lưỡng. Sau khi rửa bằng xà phòng thì dùng nước rửa sạch xà phòng, lau khô bằng vải gạc vô trùng. Sau đó sát trùng kĩ 2 lần bằng cồn iod 5% hay povidone iodine 5%. Lần thứ nhất ngay sau khi rửa sạch và lau khô vùng phẫu thuật, lần thứ 2 sau khi gây tê xong và chuẩn bị nhát cắt đầu tiên. Ngoài ra có thể sử dụng một số chất sau để sát trùng da vùng phẫu thuật như: tanin 5%, KMnO4 1%, cồn xanh methylen 1%. Phương pháp sát trùng trên cơ quan, mô bào lành mạnh hoàn toàn khác với trên cơ quan, mô bào bị bệnh. - Đối với việc phẫu thuật trên mô bào lành mạnh thì cách sát trùng theo hướng từ trung tâm vùng phẫu thuật đi ra tạo thành những vòng tròn đồng tâm. Với cách sát trùng này mật độ thuốc sát trùng tại vùng trung tâm (vị trí vết mổ) là cao nhất do đó sẽ ngăn cản được sự xâm nhập của vi sinh vật từ vùng bên ngoài vào vết mổ. - Đối với việc phẫu thuật trên vùng mô bào bệnh lý (đã có sự khu trú của vi sinh vật tại đó) thì việc sát trùng sao cho không phát tán nguồn bệnh ra vùng có mô bào lành mạnh. Cần sát trùng theo hướng từ ngoài vào trong (từ ngoài vào trung tâm vùng phẫu thuật). Bằng cách này sẽ tạo được mật độ thuốc sát trùng ở vòng ngoài cao hơn vòng trong do đó sẽ ngăn chặn được sự phát tán của mầm bệnh ra xung quanh. Sau khi xử lý vùng phẫu thuật xong: sử dụng tấm choàng vô trùng phủ lên vùng phẫu thuật. Thông thường người ta dùng hai tấm choàng chồng lên nhau. Tấm trên nhỏ hơn tấm dưới một chút, ở giữa các tấm choàng được đục lỗ hình bầu dục có độ lớn - 20 -
- tương đương với vùng phẫu thuật. Dùng panh kẹp cố định tấm choàng chắc chắn vào da nhằm tránh bị xê dịch trong khi phẫu thuật. Phần còn lại của tấm choàng phủ kín lên cơ thể vật nuôi nhằm tránh lông bay vào vết mổ. 2.5.3. Xử lý niêm mạc vùng phẫu thuật Trên bề mặt niêm mạc có rất nhiều vi sinh vật cư trú do đó cần thiết phải xử lý nhằm hạn chế sự xâm nhập của chúng vào vết mổ. Niêm mạc mỏng và dễ bị kích ứng hơn da vì vậy khi phẫu thuật ở các niêm mạc thì phương pháp tiệt trùng có khác so với tiệt trùng vùng da. Niêm mạc mắt, mũi, miệng rửa bằng dung dịch rivanol 0,1%, cresol 2%, da vùng xung quanh sử dụng cồn iod 3% để sát trùng. Đối với niêm mạc âm đạo sát trùng bằng dung dịch acid lactic 1%, rivanol 0,1%, thuốc tím 0,1%, cresol 2%, còn đối với da vùng âm hộ sử dụng cồn iod 3% để sát trùng. Đối với niêm mạc trực tràng thụt rửa bằng dung dịch thuốc tím 0,1% hay cresol 2%, da vùng xung quanh hậu môn sát trùng bằng cồn iod 3%. 2.6. Chuẩn bị dụng cụ 2.6.1. Các loại dụng cụ thường dùng Những dụng cụ cần dùng sẽ tùy thuộc vào mục đích và quy mô của cuộc giải phẫu. Các dụng cụ sau đây thường được dùng trong các ca phẫu thuật thông thường. Hình 20. Dao mổ: lưỡi số Hình 21. Một số loại giao mổ 11, cán số 3 Dao mổ: có hai loại cán rời và cán liền. Nên sử dụng loại cán rời, có hai cỡ: cán dao số 3 và cán dao số 4. Các lưỡi dao thường dùng là 20, 21,22, 23 cho cán dao số 4; và lưỡi 10, 11, 15 dùng cho cán số 3. Kéo mổ: kéo giải phẫu có nhiều kiểu có loại đầu nhọn, tù, kéo cong, kéo thẳng, Tùy vào mục đích của ca phẫu thuật mà chọn dụng cụ cho phù hợp. Trong - 21 -
- một ca phẫu thuật cần nhiều loại kéo cho nhiều mục đích khác nhau (kéo cắt chỉ, kéo cắt lông, kéo cắt mô) chúng ta phải làm dấu để tránh lầm lẫn giữa các loại Panh kẹp kim: dùng để kẹp kim khi khâu. Hình 22. Một số loại dụng cụ chuẩn bị phẫu thuật Panh kẹp máu: có chức năng cầm máu (kẹp các mạch máu đứt hay thực hiện các động tác xoắn vặn mạch máu). Panh có 2 loại: thẳng và cong Kẹp cố định tấm choàng phẫu thuật: giúp cố định tấm choàng lên da thú. Dụng cụ banh vết mổ: giúp việc mở rộng vết mổ để thuận tiện cho người phẫu thuật dễ thao tác, nhìn rõ mô bào phía sâu của vết mổ. Dụng cụ banh vết mổ có 2 loại: loại kéo bằng tay và loại điều chỉnh bằng ốc vặn. Nhíp: có 2 loại, loại có mấu và không có mấu. Loại có mẫu dùng để giữ bờ vết thương khi khâu. Loại không mấu giúp gắp và quan sát các mô bên trong. Cây hướng dẫn (xông): sử dụng cây này cho vào dưới phúc mạc và dùng kéo để mở rộng phúc mạc về hai phía của đường mổ, giúp ngăn ngừa không cho mũi kéo chạm vào các cơ quan bên trong xoang bụng. Dụng cụ tách mô bào như: dao, cưa, kéo, đục, khoan, móc mở rộng vết thương, Dao, kéo để cắt các mô mềm. Cưa, đục, khoan để cắt các mô cứng. Các dụng cụ tách mô bào cần sáng bóng và thật sắc sao cho các vết cắt được thực hiện một cách nhanh gọn. Dụng cụ cầm máu như: vải gạc thấm máu, panh kẹp mạch máu hay gọi là panh kẹp máu, thanh kim loại nung nóng, dụng cụ để đặt ga-rô, Dụng cụ kết nối tổ chức như: kim, chỉ, đinh, vít, móc, Dụng cụ băng bó như: bông, băng, vải gạc, băng chun, băng bột, Dụng cụ vệ sinh: bàn chải, xà phòng, xô, chậu, chổi, cuốc, xẻng, rất cần thiết nhất là nơi phẫu thuật xa khu dân cư. Dụng cụ cố định: gióng, giá, cũi, thừng, chão, dây xích, rọ mõm, cần được chuẩn bị trước, đủ độ bền chắc tương thích với vật nôi cần cố định. - 22 -
- Mỗi loại dụng cụ cần dùng phải được chuẩn bị đủ về số lượng, ít nhất mỗi loại phải có 2 chiếc, có loại cần nhiều hơn, các loại dụng cụ phẫu thuật cần sáng bóng, sắc bén, bền chắc theo yêu cầu. Mỗi loại dụng cụ cần lựa chọn phương pháp tiệt trùng thích hợp. 2.6.2. Tiệt trùng dụng cụ phẫu thuật Trong quá trình phẫu thuật, dụng cụ phẫu thuật là yếu tố trực tiếp tiếp xúc với các mô bào tại vùng phẫu thuật do đó nó một trong các yếu tố chính gây ra nhiễm trùng vết mổ vì vậy việc tiệt trùng dụng cụ phẫu thuật trở nên vô cùng quan trọng. Có rất nhiều chủng loại dụng cụ sử dụng trong phẫu thuật do đó cũng có nhiều phương pháp xử lý khác nhau tương ứng với từng loại dụng cụ. * Phương pháp luộc Luộc là phương pháp tiệt trùng dụng cụ phổ biến, tiện lợi và có hiệu quả cao. Dùng để xử lý những dụng cụ bằng kim loại, cao su, vải gạc, thủy tinh. Để tiệt trùng dụng cụ bằng phương pháp luộc cần chuẩn bị nồi luộc và nước luộc. Nồi luộc: nồi chuyên dụng dùng để tiệt trùng dụng cụ bằng phương pháp luộc được gọi là “nồi hấp dụng cụ”. Nếu không có nồi hấp chuyên dụng ta có thể sử dụng xoong, nồi có nắp đậy kín. Nước luộc: tốt nhất là sử dụng nước cất 2 lần. Thông thường nước để luộc dụng cụ có thể là nước mưa, nước giếng sạch, nước máy. Đối với dụng cụ dùng để pha chế thuốc gây mê nên luộc bằng nước cất. Chú ý không dùng nước quá cứng để luộc dụng cụ do trong nước cứng có các muối hòa tan gây lắng đọng và bám vào dụng cụ bằng sắt gây han gỉ, giảm độ sắc bén. Chỉ cho dụng cụ vào luộc khi nước đã sôi được tối thiểu 3 phút (trừ những dụng cụ bằng thủy tinh). Với khoảng thời gian này phần lớn lượng muối hòa tan đã lắng đọng nên ít gây ăn mòn và bám vào dụng cụ. Thêm vào nước luộc một số muối kiềm như: Na2CO3 1%, NaOH 2%, để làm tăng hiệu quả tiệt trùng cũng như làm kết tủa các muối có sẵn trong nước từ đó tránh được hiện tượng ăn mòn và han gỉ dụng cụ kim loại. Đối với các dụng cụ còn mới, trước khi luộc cần được tẩy mỡ sạch sẽ. Các dụng cụ to, kết cấu phức tạp cần tháo rời. Thời gian luộc phải đạt tối thiểu 30 phút, nếu có bổ sung thêm muối kiềm thì thời gian phải đạt từ 10 - 15 phút. Đối với các dụng cụ đã sử dụng để mổ các ổ áp xe, xác chết thì thời gian sôi khi luộc không dưới 30 phút. Với dụng cụ nghi nhiễm vi khuẩn sinh nha bào phải dùng phương pháp hấp cao áp. Dụng cụ sau khi luộc xong được vớt ra để theo từng loại vào trong khay đã tiệt trùng, rồi dùng vải gạc vô trùng phủ lên tránh bụi, côn trùng rơi vào và đem sử dụng ngay. - 23 -
- * Phương pháp hấp ướt thông thường Có thể dùng phương pháp hấp hơi ở áp suất thường để xử lý dụng cụ. Dùng xoong nhôm hay tráng men có thành đứng, cao và nắp đậy kín. Đổ nước vào xoong đạt 1/3 dung tích, phía trên đặt khay đục lỗ đựng dụng cụ, đậy vung, đun sôi nước để tận dụng hơi nóng của nước khi bay lên. Phương pháp này áp dụng cho những nơi không có nguồn nước sạch. Thời gian hấp kể từ khi nước sôi phải từ 30 phút trở lên. * Phương pháp hấp ướt cao áp Phương pháp này dùng nồi hấp chuyên dụng (nồi hấp cao áp – autochlave) nén hơi nước sôi lên áp suất cao hơn áp suất khí quyển. Áp suất trong nồi càng cao thì nhiệt độ trong nồi càng tăng lên cao. Nếu áp suất ở 1,5 atm thì nhiệt độ đạt được tương ứng 126,80C. Nếu áp suất ở 2,0 atm thì nhiệt độ đạt được tương ứng là 132,90C. Nồi hấp cao áp có đặc điểm chung là có thành dày có khả năng chịu được áp suất cao; có các đồng hồ cho biết áp suất, thời gian hấp. Dùng nồi hấp cao áp cho phép tiệt trùng các dụng cụ bằng vải bông tự nhiên (băng, gạc, chỉ khâu, tấm choàng, ), các loại chai lọ bằng thủy tinh, sành sứ, các loại dung dịch tiêm truyền. Đây là phương pháp tiệt trùng dụng cụ tốt nhất. Nó tiêu diệt được mọi loại mầm bệnh, kể cả vi khuẩn có nha bào. Thời gian hấp: nếu tiệt trùng ở 1,5 atm cần duy trì thời gian hấp là 30 phút; ở 2,0 atm thời gian hấp là 20 phút. * Phương pháp sấy khô Phương pháp này dùng tủ sấy để xử lý dụng cụ, nhiệt độ trong tủ sấy có thể đạt được 1500C. Dùng để tiệt trùng dụng cụ bằng thủy tinh, sành sứ, các dụng cụ có nguồn gốc khác nhau trừ những dụng cụ bằng nhựa mềm, vải và các dụng cụ bằng cao su. Không nên sấy dụng cụ bằng kim loại ở nhiệt độ cao vì làm non dụng cụ. Để tiệt trùng dụng cụ cần duy trì nhiệt độ ở 1200C trong thời gian 30 phút. Chú ý chỉ đưa dụng cụ vào sấy khi đã được rửa sạch, phơi khô. * Phương pháp là Phương pháp này sử dụng sức nóng tỏa ra từ mặt bàn là để tiệt trùng các dụng cụ có nguồn gốc từ sợi bông tự nhiên (quần áo bảo hộ, tấm choàng, mũ, khẩu trang, ). Bàn là có loại sử dụng điện hay bàn là sử dụng than, nhiệt độ tỏa ra từ bàn là có thể đạt 1500C. Các vi sinh vật nằm dưới mặt bàn là đều bị đốt cháy. - 24 -
- Khi sử dụng bàn là để tiệt trùng chú ý cần di chuyển bàn là trên toàn bộ bề mặt của đồ vật để đảm bảo tất cả các vị trí của đồ vật đều được là qua một số lần. Thời gian là trên đồ vật cũng cần đảm bảo đủ thời gian để giết chết vi sinh vật. * Phương pháp hơ lửa Một số dụng cụ to lớn kềnh càng như: mặt bàn, khay, chậu không thể tiệt trùng bằng các phương pháp trên thì có thể dùng phương pháp hơ lửa. Chuẩn bị những cục bông (bông thấm nước) hay sợi vải có nguồn gốc là các sợi bông tự nhiên tẩm đẫm cồn 700 đốt rồi hơ toàn bộ bề mặt dụng cụ cần tiệt trùng. Cần hơ đều toàn bộ bề mặt dụng cụ một số lần với một thời gian nhất định để đảm bảo đã giết chết vi sinh vật. Phương pháp hơ lửa được dùng để xử lý que cấy vi khuẩn. Những que cấy này được đốt trên ngọn lửa đèn cồn. * Phương pháp dùng hóa chất Biện pháp dùng hóa chất để tiệt trùng dụng cụ và vật liệu thường không đạt hiệu quả cao vì các lí do sau: - Thông thường hóa chất chỉ làm vi khuẩn ngừng phát triển chứ không diệt được vi khuẩn, nhất là với các vi khuẩn sinh bào tử. - Hóa chất có tính lựa chọn của nó: diệt khuẩn đối với nhóm vi khuẩn này nhưng có thể là kìm khuẩn với nhóm vi khuẩn khác. - Máu, mủ, dầu mỡ, mô bào hay các chất bẩn dính trên dụng cụ sẽ làm giảm hiệu lực của hóa chất. Do đó người ta sử dụng hóa chất để tiệt trùng đối với các dụng cụ không chịu được nhiệt độ. Người ta thường sử dụng các loại hóa chất sau để tiệt trùng dụng cụ: Công thức 1: Sodium tetraborate : 50g Formalin 10% : 1000ml Công thức 2: Formalin 38% : 130ml Potassium nitrate : 0,15g Sodium hydroxide : 0,012g Ethyl alcohol 95% :100ml Công thức 3: Formalin 38% :135ml Sodium hydroxide : 10g Nước cất vừa đủ : 1000ml Công thức 4: Phenol : 10-15g Acide boric : 15g Formalin : 3g Nước cất vừa đủ : 1000ml - 25 -
- Các dụng cụ được ngâm trong 24h trước khi sử dụng. Những vật bằng cao su thường sử dụng công thức 3 để ngâm trong 2h. Phương pháp ngâm trong dung dịch sát trùng thường dùng để xử lý các loại chỉ khâu tự tiêu. Người ta có thể sử dụng các một số phương pháp sau để ngâm: - Phương pháp Pokotilo: là phương pháp đơn giản và nhanh nhất, chỉ được ngâm trong dung dịch formalin 4% trong 72h. Phương pháp Gubarev: ngâm chỉ catgut trong xăng trong 12h để khử mỡ, sấy khô rồi ngâm trong dung dịch cồn iod 1% và kali iod với tỷ lệ 1:2. Phương pháp Xadovxki – katulev: ngâm chỉ catgut trong cồn amoniac 0,5%, sau đó ngâm trong dung dịch formalin 2% pha trong cồn 65% với thời gian 30 phút. Như vậy có rất nhiều phương pháp và hóa chất để xử lý dụng cụ tùy thuộc vào nguồn gốc nguyên liệu của từng loại dụng cụ và điều kiện, hoàn cảnh thực hiện phẫu thuật mà chúng ta áp dụng phương pháp tiệt trùng cho phù hợp. Đối với các dụng cụ có nguồn gốc kim loại: cách tốt nhất là sử dụng phương pháp luộc hay hấp thường. Đối với các dụng cụ có nguồn gốc bông vải sợi: nên sử dụng phương pháp sấy khô hay phương pháp là. Đối với các dụng cụ làm bằng thủy tinh, sành, sứ: sử dụng phương pháp sấy khô hoặc cũng có thể sử dụng phương pháp luộc hay hấp ướt thường. Dụng cụ có nguồn gốc bằng cao su, chất dẻo, nhựa: dùng phương pháp luộc hay hấp ướt thông thường, trừ những dụng cụ bằng nhựa mềm không thực hiện được vì dưới tác động của nhiệt độ cao chúng sẽ bị biến dạng. Các dụng cụ truyền máu, các loại thuốc tiêm, dụng cụ nghi nhiễm vi khuẩn sinh nha bào phải dùng phương pháp hấp ướt cao áp. Các dụng cụ có kích thước to lớn, kềnh càng phải sử dụng phương pháp hơ lửa. 2.7. Chuẩn bị y phục Y phục phục vụ cho một ca phẫu thuật bao gồm: áo, mũ, khẩu trang, găng tay phẫu thuật. Các trang phục này trước hết phải được giặt sạch sẽ, phơi khô và đã được tiệt trùng. Áo mổ được xếp làm đôi và theo chiều dài, mặt trái ra ngoài (tay áo không lộn trái), sau đó gấp lại theo kiểu lồng đèn (kiểu đàn Accordeon). Dùng khăn băng vải gói lại theo hình bao thư. Găng tay: chọn găng tay vừa vặn với tay người phẫu thuật, tẩm bột phấn cho khỏi dính, lộn phần lai ra ngoài và gói lại bằng vải sạch. Tuy nhiên trên thị trường hiện nay đã có loại găng tay vô trùng sẵn và chỉ sử dụng một lần. - 26 -
- Cách mặc y phục giải phẫu: dùng tay nắm một góc nhỏ của mũ đội lên đầu. Nắm dây đeo khẩu trang để che mũi miệng. Nắm vào mặt trái của cổ áo để xổ áo ra và mặc vào (chú ý không để áo chạm vào bất kỳ vật gì chưa được vô trùng hoặc không được dùng tay trần chạm vào bề mặt của áo). Người phụ tá giúp cột áo ở sau lưng. Mở gói đựng găng tay ra, trước hết dùng tay trái đưa vào mặt trong của bao tay để kéo bao tay ra và mang vào cho tay phải, tuyệt đối không để tay trần chạm vào bề mặt ngoài của bao tay, dùng tay phải đã được mang bao tay luồn vào dưới mặt ngoài lai bao tay để mang vào tay trái sau đó kéo lai bao tay lên trùm lên tay áo giải phẫu. Bắt đầu từ lúc này người phẫu thuật có thể cầm vào những dụng cụ và những vật dụng đã được tiệt trùng và ngược lại không được chạm vào những vật gì chưa được khử trùng. Nếu lỡ cầm vào vật chưa tiệt trùng thì phải đổi găng tay khác. 2.8. Chuẩn bị thuốc và hóa chất Có rất nhiều loại thuốc cần chuẩn bị cho phẫu thuật. Thuốc sát trùng: cồn iod 5%, povidone iodine 5%, thuốc tím 0,1%, rivanol 0,1%. Thuốc gây mê: ketamin, zoletil, natrithiopentan, chloralhydrat, Thuốc gây tê: novocain, lidocain, cocain, Thuốc kìm khuẩn: kháng sinh, sulfamid, iodoform, Thuốc cầm máu: vitamin K, calci chlorua, Các dung dịch truyền máu: glucoza 5%, natri chloride 0,9%, lactat ringer. 2.9. Sắp xếp thời gian Phẫu thuật không trì hoãn phải tiến hành ngay vào bất kỳ thời gian nào. Phẫu thuật có thể trì hoãn được sắp xếp vào khoảng thời gian thích hợp nhất. Phẫu thuật lớn phức tạp có thời gian kéo dài nên tiến hành vào buổi sáng. 2.10. Hộ lý, chăm sóc vật nuôi Vật nuôi sau phẫu thuật được nuôi nhốt riêng. Nơi nuôi nhốt phải đảm bảo vệ sinh tối thiểu và điều kiện sống thuận lợi. Mùa hè thoáng mát, mùa đông phải ấm áp, có chất độn chuồng hay lót ổ, tránh gió lùa. Sau phẫu thuật vật nuôi phải được để ở nơi hoàn toàn yên tĩnh tránh những tiếng động mạnh, những hành động thô bạo làm vật nuôi sợ hãi. Khi vật nuôi giẫy đạp nhiều sẽ tăng nguy cơ chảy máu thứ phát, nhiễm trùng vết mổ. Phẫu thuật có chỉ định gây mê phải có người theo dõi giúp đỡ con vật đến khi tỉnh hoàn toàn. Vật nuôi lớn nên cố định trong giá bốn trụ, có dụng cụ nâng đỡ; vật nuôi nhỏ nên để trong cũi, lồng. Trợ tim bằng các loại thuốc camphoral 10%, cafein 20%, adrenalin 0,1%. Kích thích hô hấp bằng cách cho thở dưỡng khí hay ngửi amoniac (tẩm amoniac vào bông rồi để cách mũi vật nuôi 5-10 cm). - 27 -
- Chống chảy máu trong: dùng vitamin K tiêm bắp, calci chlorua hay calci gluconat. Để tăng cường hồi phục sức khỏe, dùng các dung dịch truyền máu: glucoza 5%, nước muối sinh lý, lactat ringer, sử dụng các loại vitamin B1, B12, A, Cho ăn thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, dễ tiêu, chín. Nếu phẫu thuật có gây mê chỉ cho vật nuôi ăn khi tỉnh hẳn, chúng tự lấy và nuốt được thức ăn. Khi thực hiện phẫu thuật ở vùng bụng nên cho vật nuôi ăn từ từ, chia khẩu phần ăn ra từng phần. Theo dõi vết mổ: nếu vết mổ khô ráo, sạch sẽ, hai mép khô kín là vết mổ có tiến triển tốt, sau 7-10 ngày thì cắt chỉ. Nếu vết mổ ướt, bẩn thỉu, hai mép không kín; ấn tay vào từ đó có dịch tiết, máu, mủ, mùi hôi hám, ruồi nhặng bu lại, là vết mổ bị nhiễm trùng phải cắt chỉ sớm và xử lý như một vết thương nhiễm trùng. Phương pháp cắt chỉ: sau khi đã cố định vật nuôi một cách chắc chắn. Tháo bỏ các tấm gạc che phủ trên đường khâu nếu có. Sát trùng toàn bộ vết thương bằng cồn iod 5%; chú ý mép các đường khâu và chân các lỗ chỉ. Dùng kéo nhọn cắt chỉ ở một phía vết mổ, càng sát bề mặt da càng tốt; sao cho khi rút phần chỉ từ ngoài đi vào bên trong da càng ít càng tốt; rồi kéo sợi chỉ ra khỏi cơ thể. Lần lượt cắt hết mọi nút chỉ, không để sót nút nào. Sát trùng lại lần cuối bằng cồn iod 5%, chú ý lỗ kim đâm và mép vết mổ. III. GÂY MÊ, GÂY TÊ Trong quá trình phẫu thuật, luôn luôn gây cho con vật những cảm giác đau đớn. Những cảm giác đau mà vật nuôi cảm nhận được gây ra cho cơ thể chúng hàng loạt những biến đổi khác nhau. Khi đau, trương lực cơ tăng lên đột ngột, nhịp thở nhanh đôi khi rối loạn. Sự bài tiết của các tuyến trong đường tiêu hóa giảm. Tất cả các dạng trao đổi chất được tăng cường với sự biến đổi đáng kể về mặt dị hóa gây ra hiện tượng trúng độc toan. Trong máu xuất hiện một lượng lớn adrenalin. Khi kích thích đau quá dài làm giảm đột ngột sức sản xuất của con vật (giảm lượng sữa, giảm tăng trọng). Triệu chứng lâm sàng kịch liệt của những rối loạn gây ra bởi sự đau đớn gọi là “sốc chấn thương”. Không có phẫu thuật nào là không đau chỉ có phẫu thuật ít đau hay đau nhiều mà thôi. Nhiệm vụ của nhà phẫu thuật là: thực hiện phẫu thuật sao cho ít đau nhất. Hiện nay người ta dùng hai biện pháp cơ bản để cắt các cơn đau của vật nuôi khi phẫu thuật hay chấn thương là gây mê và gây tê. 3.1. Gây mê 3.1.1. Khái niệm Gây mê (anesthesia) có nguồn gốc từ tiếng hi lạp là anaisthaesia có nghĩa là “sự không cảm giác”. Ngày nay anesthesia được dùng để chỉ sự mất cảm giác đối với toàn cơ thể hay từng phần cơ thể được gây ra bởi các thuốc vô hiệu hóa hoạt động của các mô thần kinh một cách cục bộ hay toàn diện. - 28 -
- Tóm lại gây mê là trạng thái của vật nuôi được ức chế sâu những chức năng của hệ thần kinh trung ương do sử dụng các thuốc gây mê. Khi mê vật nuôi mất cảm giác, mất trương lực cơ vân nhưng hoạt động của những trung tâm quan trọng ở hành tủy: trung tâm điều khiển hô hấp, tuần hoàn, cơ trơn vẫn được bảo tồn. Quá liều thuốc mê làm rối loạn đột ngột và ngừng hẳn hoạt động của các trung tâm nêu trên dẫn tới những cái chết của vật nuôi gọi là trúng độc thuốc mê. 3.1.2. Phân loại 3.1.2.1. Căn cứ mức độ mê Căn cứ vào mức độ mê người ta chia ra làm hai loại: mê nông và mê sâu. Mê nông: thời gian mê diễn ra ngắn (khoảng 30-45 phút) do lượng thuốc mê đưa vào cơ thể vật nuôi ít. Đối với loại mê này cho phép người phẫu thuật thực hiện các ca tiểu phẫu . Mê sâu: thời gian mê kéo dài từ 90-120 phút và lâu hơn nữa do lượng thuốc mê được dùng nhiều hơn. Gây mê sâu dùng để thực hiện các ca phẫu thuật phức tạp mất nhiều thời gian. 3.1.2.2. Căn cứ vào đường cho thuốc Người ta chia ra gây mê khí dung và gây mê không phải khí dung. Gây mê khí dung là dùng thuốc mê dạng nước hay bay hơi như cloroform, ether ethylic, halothan, Chất khí: oxit nitơ, xiclopropan, có một số phương pháp gây mê bằng khí dung như sau: Lối mở hoặc nhỏ giọt: chỉ dùng với thuốc mê dạng nước hay bay hơi. Dùng vải gạc gấp thành phễu, nhỏ từng giọt thuốc mê vào phễu từ đó vật nuôi sẽ hít thở không khí bên ngoài cùng với thuốc mê. Lối nửa mở: dùng mặt nạ có soupape để vật nuôi hít vào có hơi thuốc mê. Có thể điều chỉnh được lượng khí gây mê và khí gây mê lọt ra bên ngoài một cách tự do trong động tác thở ra của con vật. Hình 23. Gây mê lối mở Lối nửa kín: gần giống lối nửa mở nhưng nhờ có một van điều chỉnh nên chỉ có một phần khí thở ra và thuốc mê thải ra ngoài không khí. Lối kín: cho con vật hít hơi chúng thở ra trộn với oxy và hơi thuốc mê. Với phương pháp này thuốc mê không thoát ra ngoài không khí, con vật không bị mất hơi nước và mất nhiệt. - 29 -
- Gây mê không phải khí dung là dùng các loại thuốc mê như: ethylic ancol, chloralhydrat, natrithiopentan, ketamin, zoletil, đưa vào cơ thể vật nuôi bằng mọi đường, trừ đường hô hấp. Phổ biến hơn là đường tiêm vào tĩnh mạch. Ngoài ra, người ta còn đưa thuốc mê vào cơ thể bằng đường cho uống, tiêm dưới da, tiêm bắp thịt, tiêm phúc mạc, tiêm vào dịch hoàn, thụt trực tràng. Tương ứng với đường cho thuốc, người ta gọi tên gây mê tương ứng. Ví dụ: gây mê tĩnh mạch, gây mê dạ dày, gây mê trực tràng. 3.1.2.3. Căn cứ vào số lượng thuốc mê Người ta chia ra gây mê đơn và gây mê hỗn hợp - Gây mê đơn là sử dụng một loại thuốc gây mê. - Gây mê hỗn hợp là sử dụng hai loại thuốc gây mê trở lên. 3.1.3. Yêu cầu của thuốc gây mê Thuốc gây mê lý tưởng phải đạt các yêu cầu sau: - Thuốc có tác động ngay ở nồng độ thấp - Liều gây mê cách xa liều trúng độc - Không có giai đoạn hưng phấn - Không ảnh hưởng có hại đến hệ thống hô hấp tuần hoàn, trao đổi chất và các cơ quan có cấu trúc nhu mô. - Không tác động kích ứng đến mô bào - Sử dụng đơn giản, dễ khống chế liều lượng - Nhanh chóng thoát mê - Tính kinh tế - Bền vững khi bảo quản và không bắt cháy Tuy nhiên đến nay chưa có loại thuốc nào thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu trên 3.1.4. Một số loại thuốc mê thường dùng Có rất nhiều loại thuốc thường dùng để gây mê cho gia súc, người ta căn cứ vào trạng thái vật chất của chúng để chia làm 2 loại. Thuốc mê bay hơi Thuốc mê không bay hơi 3.1.4.1. Thuốc mê bay hơi Là chất lỏng, dễ bay hơi ở nhiệt độ phòng phẫu thuật, thuốc được dẫn nhập qua đường hô hấp, chúng ta chỉ xem xét một số chất thông dụng như chloroform, diethyl ether, ethyl chloride. * Chloroform Là chất lỏng không màu, vị ngọt, có mùi như mùi nhãn, không cháy, không phát nổ, ít tan trong nước, tan trong dầu mỡ và rượu. Hơi bay ra không làm xót mắt hay xót đường hô hấp. Ở dạng chất lỏng chloroform có thể làm cháy da hay niêm mạc, đây là loại - 30 -
- thuốc mê rất mạnh. Để gây mê cho gia súc, người ta cần một hỗn hợp thuốc trong không khí từ 1,5- 2% là đủ làm vật nuôi mê sau 10 -15 phút. Sau khi vật nuôi đã mê thì giảm nồng độ chloroform xuống còn 1/2. Thuốc có ảnh hưởng trên hệ tuần hoàn và trung tâm hành tủy, khởi đầu thuốc làm tim đập chậm lại. Trung tâm thần kinh, hành tủy bị suy nhược do đó mạch máu giãn ra làm huyết áp hạ thấp. Trung tâm hô hấp của hành tủy cũng bị ảnh hưởng: lúc đầu hô hấp nhanh, vật thở mạnh và sâu. Sau khi mê trung tâm hô hấp bị ảnh hưởng làm cho nhịp thở chậm và nông. Thân nhiệt hạ vì mạch máu giãn. Chloroform còn có ảnh hưởng độc hại cho gan thận. Thuốc thông qua màng nhau thai được nên có thể dùng trong trường hợp mổ lấy thai. Trong những thuốc mê bay hơi, chlorofrom thường được sử dụng cho gia súc lớn. Với ngựa gây mê bằng chloroform thường tốt hơn vì sự hồi phục hoàn toàn nhanh chóng. * Diethyl ether Là chất lỏng không màu, thơm đặc biệt, dễ bay hơi, dễ cháy nổ. Ether gây sót niêm mạc miệng, yết hầu, thanh quản. Hơi ether làm cho các nơi này tiết nhiều chất nhờn vì vậy người ta thường dùng thuốc tiền mê như atropin để làm vật nuôi giảm tiết chất nhờn. Đối với mèo, cáo thì ether rất độc. Nhược điểm của ether là: làm tiết nhiều chất nhờn, cơn mê không êm ái, làm vật nuôi bỏ ăn sau khi gây mê. Nhưng ether có ưu điểm là thuốc mê an toàn nhất. * Ethyl chloride Là chất lỏng không màu, giống ether dễ cháy nổ. Không làm sót màng niêm, dẫn nhập thuốc lúc đầu rất nhanh và êm ái vì vậy thường hay bị quá liều dễ đưa đưa đến cái chết. Khi vật nuôi mê và hô hấp điều hòa ngay lập tức ngừng cấp thuốc và thay thế bằng một loại thuốc mê khác. 3.1.4.2.Thuốc mê không bay hơi * Chloralhydrat Tính chất: chất kết tinh, trong suốt, mùi đặc biệt, vị đắng. Thuốc ở nồng độ cao gây dung huyết, đông máu; gây kích ứng niêm mạc (dạ dày, trực tràng, miệng-thực quản. Tác dụng tổng quát: thuốc có tác dụng làm suy giảm hệ thần kinh trung ương và làm tê liệt thần kinh vận động, song đối với các đường cảm giác thì tác dụng của thuốc không đủ để tạo ra sự mê. Vì có sự tê liệt vận động trước sự mê nên con vật trở nên sợ hãi và tìm cách chống đối nhưng đến giai đoạn mê thuốc có thể gây ra sự suy giảm hô hấp và làm vật thở chậm, ngoài ra nó còn làm giãn mạch ngoại biên nên huyết áp giảm và phải đề phòng có sự chảy máu nhiều nếu đứt mạch Chloralhydrat được dùng rộng rãi trong phẫu thuật gia súc đặc biệt là đối với đại gia súc. Thuốc phải thật tinh khiết, được pha với nước cất 2 lần hoặc với nước - 31 -
- muối sinh lý trong điều kiện vô trùng và chỉ pha khi đã khi sắp dùng. Thuốc dùng để tiêm phúc mạc, tĩnh mạch, cho uống hay thụt trực tràng. * Barbiturates Barbiturates được dùng như một chất gây ngủ và chất gây mê toàn diện. Tác động chính của barbiturates là ức chế hệ thần kinh trung ương bằng cách can thiệp sự dẫn truyền xung động đến vỏ não. Ở liều gây mê hệ hô hấp bị ức chế (quá liều gây liệt hô hấp), ức chế tuần hoàn cả ở trung tâm và ngoại vi, kèm theo hạ huyết áp, giảm thân nhiệt. Barbiturates phân tán khắp cơ thể, thâm nhập qua thành tế bào và đi qua nhau thai. Barbiturates có tác động ngắn như pentobarbital, amobarbital, secobarbital bị phá hủy chủ yếu bởi gan, chúng bị phá hủy nhanh chóng trong cơ thể nên có tác dụng ngắn. Ngoài tác động gây ngủ và gây mê ra, barbiturates còn được sử dụng điều trị co giật liên quan đến ngộ độc, đặc biệt là ngộ độc strychnine và quá liều thuốc tê. * Natri thiopental Thiopental là barbiturates có tác động ngắn, có dạng bột kết tinh nhỏ, màu trắng hay vàng nhạt, mùi lưu huỳnh, dễ tan trong nước cất hay trong nước muối sinh lý. Là loại thuốc gây mê nông, tác dụng gây mê rất nhanh. Người ta còn dùng để chống co giật và động kinh. Có thể dùng trong trường hợp lợn nái cắn con sau khi đẻ và không cho con bú. 3.1.5. Thuốc tiền mê Trước khi gây mê, người ta đưa vào cơ thể vật nuôi một loại thuốc nhằm: - Đơn giản hóa kỹ thuật gây mê và tiến trình mê - Làm mất tác dụng phụ của thuốc gây mê, giảm hay cắt bỏ các phản xạ có hại. Những thuốc trên gọi là thuốc tiền mê hay thuốc chuẩn mê. Thuốc tiền mê không phải là thuốc mê nhưng nó giúp quá trình mê tốt hơn và sâu hơn. Sau khi sử dụng thuốc tiền mê cho phép sử dụng những liều không lớn của thuốc gây mê. Có các loại thuốc mê dưới đây được sử dụng. Nhóm an thần: Chủ yếu là chế phẩm của dãy phenolthiazin: aminazin, combelen, megaphen, dexentan. Những chất này có thể làm giảm huyết áp, gây ra sự thiếu máu não, vật nuôi có thể bị ngã bất ngờ khi gây mê ở trạng thái đứng. Trong nhóm này, rompun (Xylazine) là một trong những chất được dùng phổ biến để tiêm bắp hay tiêm tĩnh mạch cho vật nuôi. Tác dụng kéo dài từ 1-2h. Rompun có tác dụng tốt nhất đối những vật nuôi có sừng. Nó gây ra trạng thái an thần với các hiện tượng giãn cơ và giảm đột ngột phản ứng đối với những kích thíc đau đớn (vô cảm). Người ta sử dụng xylazine cho vật nuôi có sừng ở 4 liều khác nhau 0,25; 0,5; 1; 1,5 ml/100 kgTT. - 32 -
- Nhóm tác động lên dây thần kinh phế vị: đại diện của nhóm này là atropin sunfat. Nó hạn chế sự tiết dịch; làm giảm sự co thắt thanh-khí quản, cơ trơn dạ dày. Làm giảm thấp những ảnh hưởng ức chế chế của dây thần kinh phế vị lên tim, kích thích hô hấp, giảm nguy cơ trụy tim mạch. Nhóm giảm đau: thuộc nhóm này có morphin và những chất thay thế nó. Chúng tác động đến tất cả độ dài đường dẫn truyền trung tâm của cảm giác đau do đó làm giảm đau nhưng không làm mất ý thức của vật nuôi. Ở vật nuôi khi tiêm morphin phần lớn lúc đầu có những biểu hiện kích thích nhẹ hay mạnh tùy theo loài mãi sau mới có tác dụng ức chế. Quá liều có thể gây ra liệt thần kinh. Promedon là một trong những chất thay thế morphin. Nhóm gây ngủ: Thuốc hay được sử dụng là natrithiopentan. Người ta sử dụng trước khi gây mê khí dung hay gây mê bằng chloralhydrat. Nhóm kháng Histamin: trong quá trình phẫu thuật hay khi vật nuôi bị tổn thương các mô bào giải phóng ra một lượng histamin đáng kể. Sau khi vào máu, nó gây hàng loạt những rối loạn làm phức tạp quá trình gây mê và thực hiện chính phẫu thuật đó (các cơn co thắt khí quản, ruột, bàng quang, tử cung, liệt mao mạch dẫn đến tụt huyết áp, ). Một trong những chất kháng histamin tích cực là dimedron. Nó có tác dụng làm giảm các cơn co thắt cơ trơn, bình thường hóa huyết áp, ngăn cản sự phát triển phù, hiện tượng shock và kháng viêm. 3.1.6. Quá trình mê Quá trình mê hay triệu chứng của vật nuôi khi sảy ra mê được chia làm 4 giai đoạn: 3.1.6.1. Giai đoạn giảm đau Xuất hiện sau khi đưa thuốc mê vào cơ thể vật nuôi. Vật nuôi có biểu hiện bồn chồn, lo lắng, không yên tĩnh. Cảm giác đau và các cảm giác khác giảm dần. Hô hấp trở nên sâu, mạch nhanh nhưng vẫn đầy, nhãn cầu vận động tùy tiện. Đồng tử giãn ra một chút, phản xạ và trương lực cơ dần bị hạn chế. 3.1.6.2. Giai đoạn hưng phấn Các cảm giác tiếp tục giảm, tiếp tục xuất hiện tình trạng mất tri giác nhưng phản xạ tăng cường. Vật nuôi biểu hiện sợ rõ rệt, cất lên những tiếng thất thanh. Trương lực cơ tăng cường, vật nuôi giẫy đạp mạnh, đầu lắc lư, 4 chân lảo đảo siêu vẹo. Ngựa và trâu bò có biểu hiện giật nhãn cầu, đồng tử tiếp tục giãn. Tăng tiết các tuyến: tuyến nước bọt, tuyến phế quản. Xuất hiện nôn, nấc. - 33 -
- Mạch nhanh và đầy, tăng huyết áp. Hô hấp nhanh không đều. Ghi chú: giai đoạn này có nguy cơ xảy ra các tai biến, xong cũng được lợi dụng để chỉnh xương khớp. 3.1.6.3. Giai đoạn mê Con vật ngày càng mê sâu hơn, hô hấp đều hơn rồi thưa và nông dần. Tim đập chậm và yếu dần, mê càng sâu thì nhịp tim càng thưa càng yếu hơn. Mạch thưa và không đầy, mê sâu rất khó bắt được mạch. Sự tiết dịch giảm rồi ngừng hẳn. Trương lực cơ giảm dần và mất hẳn. Cơ mềm ra, nhão ra. Nếu gây mê ở ở tư thế đứng con vật mất khẳ năng trụ ngã vật xuống. Các phản xạ giảm dần và mất hẳn. Lưỡi khô và thè ra ngoài. Nhãn cầu xoay xuống dưới, đồng tử co đến giới hạn. Ghi chú: tình trạng của vật nuôi trở nên nguy hiểm hơn khi hô hấp nông và ngắt quãng, mạch chỉ hay không bắt được mạch, huyết áp tụt, niêm mạc bắt đầu xanh tím tái, đồng tử giãn ra, thân nhiệt giảm. 3.1.6.4. Giai đoạn cuối Phụ thuộc vào tác dụng của thuốc tiếp tục hay ngừng lại. Thuốc hết tác động con vật dần tỉnh lại. Biểu hiện của vật nuôi ngược lại với quá trình mê gọi là thoát mê. Trong giai đoạn cuối vật có các biểu hiện gần giống với giai đoạn hưng phấn. Khi đã mê sâu nhưng thuốc mê vẫn tiếp tục tác động thì vật bị trúng độc và có những biểu hiện sau: Thở yếu, tim đập thoi thóp rồi ngừng hẳn và vật chết. 3.1.7. Một số chú ý khi gây mê vật nuôi 3.1.7.1. Trước khi gây mê Chú ý kiểm tra vật nuôi thật cẩn thận trước khi gây mê. Không chỉ định gây mê vật nuôi mắc bệnh tim mạch. Không gây mê sâu khi: vật nuôi sốt cao; rối loạn chức năng hô hấp, chức năng gan, thận; vật nuôi quá già yếu, kiệt sức, có thai ở giai đoạn đầu và cuối. Cho vật nuôi nhịn ăn từ 12 – 24h nhưng vẫn cho uống nước đầy đủ. Gây mê cho vật nuôi có sừng thường rất khó khăn và nguy hiểm vì vậy chỉ cần gây mê khi thật cần thiết (chỉ được gây mê nông). Nếu tiên lượng phẫu thuật có kết cục không thuận lợi, có khả năng giết mổ vật nuôi thì không nên sử dụng thuốc mê gây tồn dư mùi trong thịt như: chloroform, ether, - 34 -
- Để hạn chế những tai biến do sử dụng thuốc mê cần sử dụng thuốc tiền mê 15 – 20 phút trước khi gây mê. 3.1.7.2. Trong khi gây mê Sử dụng thuốc mê đúng phương pháp Chọn liều thuốc mê thích hợp: thông thường vật nuôi béo khỏe, ăn no khó gây mê hơn so với vật nuôi gầy yếu, đói ăn, vật nuôi non, có chửa, kiệt sức. Chú ý tiến hành gây mê, phẫu thuật ở những nơi ấm áp, kín gió. Khi đưa thuốc mê vào cơ thể bằng đường tĩnh mạch phải chú ý vừa tiêm vừa quan sát; khi tiêm được 1/3 liều nên dừng lại sau 2 -3 phút nếu không có biểu hiện bất thường mới tiếp tục tiêm tiếp. Khi gây mê con vật ở tư thế đứng cần có người giúp đỡ vật nuôi nằm xuống tránh tình trạng vật nuôi khi mê có thể quỵ ngã. Trong quá trình thực hiện phẫu thuật cần có người theo dõi biểu hiện của con vật; nếu có biểu hiện bất thường, không tuân theo quy trình mê cần được xử lý kịp thời. Đang thực hiện phẫu thuật vật nuôi đã tỉnh có thể cho thêm thuốc nhưng không được quá 2/3 liều ban đầu. 3.1.7.3. Sau khi mê Phẫu thuật xong, nhanh chóng giải thoát vật nuôi khỏi sự cố định, đỡ nó đứng dậy. Cắt cử người theo dõi thường xuyên cho đến khi vật nuôi tỉnh hẳn. Để gia súc ở những nơi kín gió, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Chỉ cho vật nuôi ăn khi đã tự lấy được thức ăn, tuyệt đối không ép ăn. Bổ sung năng lượng cho vật nuôi bằng cách truyền glucoza 5%. Dùng thuốc trợ tim, kích thích hô hấp. 3.1.8. Phương pháp gây mê cho vật nuôi 3.1.8.1. Gây mê cho ngựa Ngựa là loài có thần kinh tương đối linh hoạt, khả năng chịu đau kém, có phản ứng mãnh liệt đối với những kích thích đau đớn vì vậy khi phẫu thuật ngựa nên chỉ định gây mê. Thuốc tiền mê: sử dụng atropin sulfat 1%, liều lượng: 1-2ml/100kg TT. Cách sử dụng: tiêm dưới da trước khi dùng thuốc mê 15 -20 phút. * Gây mê bằng chloralhydrat Chloralhydrat có thể dùng để gây mê bằng nhiều cách: tiêm tĩnh mạch, cho uống, thụt trực tràng. Gây mê bằng đường tiêm tĩnh mạch thường cho hiệu quả nhanh, hợp lý và ít tốn kém hơn vì tác động của thuốc đến ngay vào thời điểm kết thúc tiêm. Ngoài ra chloralhydrat còn có thể sử dụng kết hợp với gây tê cục bộ, cho khả năng thực hiện những phẫu thuật nhỏ ngay cả khi ngựa ở tư thế đứng. Liều lượng: 8 – 12 g/100kg TT - 35 -
- - Gây mê tĩnh mạch: Chloralhydrat thường gây ra dung huyết, đông máu khi tiêm tĩnh mạch. Để tránh hiện tượng này người ta pha thuốc thành dung dịch 10% trong các dung môi sau: Glucoza 10% Natri chloride 0,9% Natri xitrat 5% Thuốc pha xong dùng ngay, để lâu mất tác dụng. Khi tiêm không được để thuốc lọt ra ngoài tĩnh mạch. Thời gian mê 1,5 – 2h. - Gây mê dạ dày: Thuốc gây nên những kích ứng niêm mạc dạ dày do đó cần pha thuốc với nước ngọt, hồ tinh bột thành nồng độ 5% cho uống qua đường thông thực quản. - Gây mê trực tràng: Tương tự như cho uống, phải pha thuốc trong các dung môi bảo vệ niêm mạc trực tràng, pha thành dung dịch 5%. Thường pha sao cho dung dịch có dung tích không quá 1,5l. Thụt vào trực tràng sau khi đã giải thoát hết phân. Khi rút ống thông phải nhẹ nhàng, đồng thời kích thích cho cơ vòng hậu môn khép kín lại để tránh thải thuốc ra ngoài. Thời gian mê khoảng 1,5h. * Gây mê bằng rompum (combelen) Rompum là thuốc gây mê dạng nước do hãng Bayer của Cộng hòa Liên bang Đức sản xuất. Rompum 5ml/100kg TT, sử dụng tiêm dưới da hay tiêm bắp. Thuốc giúp gây mê nông do đó có thể thực hiện phẫu thuật khi vật nuôi ở tư thế đứng. Thời gian mê đạt 45 - 60 phút. Kết hợp: Rompum 4 ml/100kg TT tiêm dưới da hay tiêm bắp. Chloralhydrat 8 g/100kg TT, tiêm tĩnh mạch. Thời gian mê khi kết hợp hai loại thuốc này có thể đạt tới 1,5h. Kết hợp: Rompum 5 ml/100kg TT, tiêm dưới da hay tiêm bắp. Natri thiopental 0,6 – 0,8 g/100mgTT, tiêm tĩnh mạch (không để lọt ra ngoài tĩnh mạch). Thời gian mê có thể đạt 1,5h. 3.1.8.2. Gây mê cho lợn Lợn là loài động vật có thần kinh trì trệ, ít mẫn cảm với kích thích đau đớn do đó khi thực hiện phẫu thuật đối với lợn nhỏ không nhất thiết phải gây mê mà chỉ cần cố định chắc chắn là có thể thực hiện phẫu thuật được, kể cả các phẫu thuật phức tạp. Đối với việc phẫu thuật lợn lớn việc cố định rất khó khăn do đó cần thiết phải gây mê để đơn giản hóa việc cố định con vật. Thuốc tiền mê: sử dụng aminazin với liều lượng 0,5mg/1kg TT tiêm dưới da hay bắp thịt. - 36 -
- * Gây mê bằng natrithiopental Liều lượng 1,5g/100kg TT, pha thuốc trong nước mối sinh lý đạt nồng độ 5% tiêm tĩnh mạch (không để lọt thuốc ra ngoài tĩnh mạch). Thời gian mê đạt 1h. * Gây mê bằng chloralhydrat Liều lượng 10g/100kg TT, pha thuốc thành dung dịch 10% tiêm phúc mạc hay tĩnh mạch. Cách pha thuốc như dùng cho ngựa. Thời gian mê kéo dài khoảng 1,5h. * Gây mê bằng combelen Sử dụng với liều lượng 5ml/100kg P tiêm tĩnh mạch, con vật ở mức độ mê nông. 3.1.8.3. Gây mê cho loài nhai lại Hiện nay chưa có thuốc gây mê lý tưởng cho loài nhai lại. Liều gây mê sâu và liều trúng độc của các loại thuốc mê hiện dùng rất gần nhau. Mặt khác loài nhai lại có loại hình thần kinh trì trệ, khả năng chịu đau lớn tốt vì thế chỉ cần cố định chắc chắn, kết hợp với gây tê cục bộ là có thể thực hiện được các phẫu thuật lớn. Khi thật cần thiết mới chỉ định gây mê và cũng chỉ nên gây mê nông. Thuốc tiền mê dùng cho loài nhai lại là atropin sulfat 1%, liều dùng 1-2 ml/100kg TT. * Gây mê bằng cồn ethylic Sử dụng cồn ethylic 96% (loại tinh khiết), liều 30-40 ml/100kg P. Dùng glucoza 5% hay nước muối sinh lý hạ thấp độ cồn xuống 30-40%. Tiêm chậm tĩnh mạch. Gây mê bằng cồn ethylic con vật chỉ đạt được mức độ chếnh choáng. Áp dụng để thực hiện các thủ thuật chỉnh xương khớp. * Gây mê bằng chloralhydrat Sử dụng chloralhydrat tiêm tĩnh mạch với liều lượng 10g/100kg TT. Cách pha thuốc và tiêm như dùng cho ngựa. * Gây mê kết hợp bằng cồn ethylic và chloralhydrat Khi sử dụng kết hợp hai loại thuốc này cho kết quả mê tốt nhưng liều lượng mỗi thuốc phải thấp hơn so với dùng riêng lẻ từng loại. Dùng cồn ethylic 96% với liều lượng 25 ml/100kg TT, pha loãng thành nồng độ 30 - 40% tiêm chậm vào tĩnh mạch. Sau đó dùng chloralhydrat 8g/100kg TT tiêm tĩnh mạch, con vật sẽ mê kéo dài 1 -1,5h. * Gây mê bằng natrithiopental Natrithiopental là thuốc mê dạng bột, sử dụng với liều lượng 1,5g/100kg P. Khi sử dụng phải pha trong nước muối sinh lý đạt nồng độ 5%, tiêm chậm vào tĩnh mạch (không để thuốc lọt ra ngoài tĩnh mạch). Cần chú ý theo dõi sát hành vi của con vật do quá trình mê đến rất nhanh khi chưa kết thúc việc tiêm thuốc. Thời gian mê kéo dài 1h. - 37 -
- * Gây mê bằng rượu ngon Dùng rượu ngon ở nồng độ 30-40% sử dụng cho trâu, bò cái và bê nghé uống. Liều lượng 200-300ml/100kg TT. Sử dụng rượu để gây mê giúp vật nuôi đạt được mức độ chếnh choáng giúp tiến hành các thủ thuật chỉnh xương khớp. 3.1.8.4. Gây mê chó, mèo Chó, mèo là vật nuôi ăn thịt, có hệ thần kinh linh hoạt vì thế rất mẫn cảm với các kích thích đau đớn. Khi tiến hành phẫu thuật phải chỉ định gây mê bắt buộc, ngay cả khi tiến hành thiến chó, mèo đực. Thuốc tiền mê sử dụng cho chó, mèo là atropin 0,1% với liều 1ml/10kg TT, tiêm dưới da trước khi tiêm thuốc mê 10 -15 phút. Gây mê cho chó, mèo có rất nhiều phác đồ. Sau đây là một số phác đồ thông dụng: * Gây mê bằng zoletil Zoletil có 3 sản phẩm chính, tùy theo hàm lượng hoạt chất trong chế phẩm mà có: zoletil 25, zoletil 50, zoletil 100. Sản phẩm bán luôn có dung môi pha kèm theo. Khi đã pha cần phải dùng ngay, để lâu thuốc mất hoạt tính. Liều trung bình sau khi đã pha thuốc của zoletil 50 là 1ml/10kg TT. Đường cho thuốc: tĩnh mạch, dưới da, tiêm bắp. Thuốc có hiệu quả hơn khi tiêm tĩnh mạch với chó. Đối với mèo tiêm dưới da, tĩnh mạch, bắp đều cho kết quả như nhau. * Gây mê bằng natrithiopental Dùng natrithiopental với liều lượng 15 mg/1kg TT, pha thành nồng độ 5% trong nước muối sinh lý, tiêm tĩnh mạch. Thời gian mê trung bình là 1h. Nếu sử dụng với liều lượng 30 mg/1kg TT thì thời gian mê kéo dài 2h. * Gây mê bằng rompun kết hợp với ketamin Rompun 0,5 ml/1kg TT tiêm dưới da hay tiêm bắp. Ketamin 0,5 ml/10 kg TT tiêm tĩnh mạch, tiêm dưới da hay tiêm bắp. Thời gian mê kéo dài 1h. * Gây mê bằng ketamin Sử dụng ketamin với liều 1ml/10kg P tiêm tĩnh mạch. Thời giam mê khoảng 1h. 3.2. Gây tê 3.2.1. Khái niệm Gây tê là cắt đứt tạm thời cảm giác trong vùng phẫu thuật bởi tác dụng của thuốc gây tê. Khi gây tê làm mất cảm giác đau, cảm giác nhiệt, cảm giác xúc giác và cảm giác khác. Thuốc gây tê sử dụng cục bộ và có tác dụng tại nơi đưa thuốc vào vì vậy người ta thường sử dụng cụm từ “gây tê cục bộ”. - 38 -
- Những chất gây tê thường dùng là: novocain, lidocain, sovcain, dicain, ; ở nước ta thông dụng là novocain, lidocain. Novocain được pha trong nước cất hay nước muối sinh lý ở các nồng độ khác nhau 0,125-10%, nồng độ thông dụng là 0,25-3%. Để tăng thêm tác dụng của novocain có thể cho adrenalin 0,1% vào dung dịch novocain với tỉ lệ 2 ml adrenalin 0,1%/1 lit novocain ở nồng độ nào đó, cho rivanol vào dung dịch novocain đạt nồng độ 0,1% để có thêm tác dụng diệt trùng, thêm huyết thanh vào dung dịch gây tê làm kéo dài thời gian gây tê và giảm chảy máu khi phẫu thuật, pha thuốc tê trong dầu thực vật hay dầu cá làm chậm sự hấp thu của thuốc tê nên có thể kéo dài sự tê. 3.2.2. Các phương pháp gây tê 3.2.2.1. Phương pháp gây tê bề mặt Sử dụng để gây tê niêm mạc, tương mạc, màng hoạt dịch, Để gây tê kết mạc mắt, người ta nhỏ vào nó một vài giọt novocain 5 – 10%. Gây tê niêm mạc miệng, hầu, mũi, cơ quan sinh dục hay các niêm mạc khác: dùng bông tẩm dung dịch rồi thấm vào niêm mạc cần gây tê – phương pháp tampon Gây tê niêm mạc bàng quang, dùng dung dịch novocain 0,25 – 0,5%, bơm vào trong bàng quang sau khi đã giải thoát hết nước tiểu. Gây tê màng hoạt dịch, bao gân, bao khớp: sử dụng novocain 4 – 6% bơm vào sau khi đã hút hết dịch của nó. Tùy theo dung tích xoang người ta có thể bơm vào 5 – 50 ml dung dịch thuốc tê. Gây tê phúc mạc, dùng novocain 2 – 3% đưa vào bằng kim tiêm hay trực tiếp qua lỗ mở ổ bụng. Đối với vật nuôi nhỏ cho với liều lượng: 20ml. Đối với vật nuôi lớn gây tê phúc mạc không có ý nghĩa. Bề mặt da không thấm hút các dung dịch nước vì thế người ta gây tê bề mặt da bằng phương pháp giảm thể nhiệt như: chườm lạnh, dùng các thuốc gây tê thể bay hơi nhanh như ethyl chloride. 3.2.2.2. Phương pháp gây tê thấm Dùng thuốc gây tê tiêm vào từng lớp tổ chức của vùng phẫu thuật, từ ngoài vào trong: nội bì, dưới da, tổ chức liên kết dưới da và các lớp nằm sâu hơn. Thường dùng novocain 0,25-1%, lượng dùng 50-500ml hoặc hơn nữa tùy thuộc vào vùng phẫu thuật. Khi dùng novocain với nồng độ thấp, lượng lớn ngoài việc gây tê còn có tác dụng làm tách các lớp tổ chức, giúp người phẫu thuật cắt, lọc, bóc, tách dễ dàng; gây - 39 -
- ra các áp lực lớn chèn ép các mạch quản nhỏ làm hạn chế chảy máu khi phẫu thuật; lượng thuốc nhiều cho khả năng khuếch tán sâu, rộng hơn. Khi gây tê thấm phải dùng loại kim nhỏ, dài. Đầu tiên đâm kim vào trong da (gần như song song với bề mặt da), luồn hết chiều dài của kim, bơm thuốc đến khi da phồng lên thì rút kim một chút và tiếp tục bơm. Cứ làm như thế cho đến hết chiều dài vết mổ. Đối với vết mổ quá dài có thể tiêm từ hai đầu lại. Hình 24. Các kỹ thuật gây tê thấm Lần lượt tiêm hết lớp nội bì, tiếp tục tới lớp dưới da rồi đến tổ chức liên kết và các lớp tổ chức nằm sâu hơn. Khi phẫu thuật ở diện rộng, người ta dùng phương pháp gây tê thấm phong tỏa, tiêm xung quanh vùng phẫu thuật với nhiều điểm tiêm. 3.2.2.3. Phương pháp gây tê dẫn truyền Gây tê dẫn truyền là phương pháp tiêm thuốc tê sát với một hay một nhóm dây thần kinh chi phối vùng phẫu thuật tương ứng làm dây thần kinh đó mất khả năng dẫn truyền kích thích từ vùng phẫu thuật về thần kinh trung ương. Để thực hiện gây tê dẫn truyền được, người phẫu thuật cần nắm rõ vị trí đường đi và cơ quan chi phối của dây thần kinh đó. Tiêm thuốc vào các điểm nằm trên đường đi của một dây thần kinh gọi là gây tê dẫn truyền ngoại vi. Điểm tiêm nằm sát với vị trí hình thành dây thần kinh gọi là gây tê dẫn truyền trung tâm. Dây thần kinh có tổ chức liên kết thưa và lớp mỡ bao bọc vì thế thường dùng dung dịch gây tê có nồng độ cao hơn so với gây tê thấm. Thường dùng novocain 2-3%. Tại mỗi điểm tiêm, căn cứ vào độ dày của dây thần kinh và vị trí nằm sâu hay nông của nó mà người ta tiêm từ 5-20ml dung dịch thuốc gây tê. Liều lượng tăng lên khi ta có cảm giác đầu mũi kim không được sát với dây thần kinh. Khi tiêm chú ý không được tiêm vào mạch máu vì thường dây thần kinh đi kèm với mạch máu. Khi thực hiện gây tê dẫn truyền phải kết hợp với gây tê thấm hay gây tê bề mặt vì tại cục bộ có đầu mút của các dây thần kinh chi phối. 3.2.2.4. Gây tê màng cứng tủy sống Để phóng bế rễ và thân dây thần kinh hình thành từ tủy sống, người ta tiêm - 40 -
- thuốc tê vào xoang nằm giữa màng cứng và thành của các ống đốt sống (xoang ngoài màng cứng) gọi là gây tê màng cứng tủy sống. Nếu đâm thủng màng cứng vào màng nhện thì thuốc xuất hiện ở xoang dưới nhện gọi là gây tê dưới màng nhện. Trên thực tế chỉ dùng phương pháp gây tê ngoài màng cứng tủy sống, không dùng phương pháp gây tê dưới màng nhện. Gây tê ngoài màng cứng tủy sống được xem là một loại gây tê dẫn truyền trung tâm. Căn cứ vào vị trí tiêm thuốc tê mà người ta chia ra: - Gây tê thắt lưng (lumbalis): điểm giữa đốt sống hông 1 và 2. - Gây tê hông khum (lumba – sacralis): điểm giữa đốt sống hông cuối và đốt sống khum đầu tiên. - Gây tê đốt sống đuôi (sacralis): điểm giữa đốt sống đuôi thứ nhất và đốt sống đuôi thứ 2. * Phương pháp gây tê đốt sống đuôi: Gây tê sống đuôi là phương pháp gây tê ngoài màng cứng đơn giản và được dùng phổ biến nhất. Phương pháp này thực hiện tốt ở vật nuôi có sừng và ngựa. Phương pháp này chỉ định phẫu thuật ở cơ quan sinh dục ngoài, âm đạo, chân sau, đuôi, hậu môn, trực tràng. Tùy từng lượng thuốc đưa vào ít hay nhiều mà người ta chia ra gây tê sacralis thấp và gây tê sacralis cao. - Gây tê sacralis thấp: tiêm một lượng thuốc tê vừa đủ để đạt được giới hạn trước của xương khum và chỉ ảnh hưởng đến gốc của các dây thần kinh khum. Các vùng gây tê được là đuôi, hậu môn, trực tràng, cơ quan sinh dục, phần gần nhất của mông đùi. Khi gây tê theo phương pháp này có thể thực hiện phẫu thuật ở tư thế đứng. - Gây tê sacralis cao: tiêm với lượng lớn thuốc tê, thuốc đưa vào vượt giới hạn phần xương khum. Tùy thuộc vào khối lượng thuốc đưa vào nó có thể đạt tới vùng xương sống lưng và ngực, phóng bế các dây thần kinh chi phối cả phần sau của cơ thể, bao gồm cả bụng và vùng chân sau. Phương pháp này làm liệt chân tạm thời vì vậy cần thực hiện phẫu thuật ở trạng thái nằm. Thuốc tê thường dùng để gây tê ngoài màng cứng của tủy sống là novocain 2%. * Cách xác định liều lượng: Đối với vật nuôi lớn, đo khoảng cách từ mỏm hông xương cánh chậu đến ụ ngồi, đơn vị tính là cm. Lấy số đo trên chia cho 3, được bao nhiêu tương đương với số ml novocain 2% để gây tê sacralis thấp. Gây tê sacralis cao cần tiêm nhiều hơn số đó. Ví dụ: khoảng cách từ mỏm hông xương cánh chậu đến u ngồi đo được là 52 cm chia cho 3 được 17. Như vậy để gây tê sacralis thấp cần tiêm 17 ml novocain 2%, gây tê - 41 -
- sacralis cao tiêm nhiều hơn lượng đó. Đối với vật nuôi nhỏ, đo khoảng cách từ xương chẩm đến gốc xương khum, được bao nhiêu chia cho 10, thương số chính là số ml novocain 2% để gây tê sacralis thấp, gây tê sacralis cao cần tiêm lượng nhiều hơn số đó. Khi gây tê ngoài màng cứng tủy sống, thời gian tê kéo dài 1,5-2h. Gây tê sacralis cao cho vật nuôi lớn có thể tiêm tới 50-150 ml Novocain 2% nhưng trên thực tế ít dùng. Cách tiêm Một tay cầm đuôi lắc qua, lắc lại; một tay sờ phía trên gốc đuôi tìm khớp. Đâm kim chếch một góc 450, cảm giác qua khung xương sống, chạm vào thành đốt sống thì hồi kim lại một chút đồng thời bơm thuốc chậm, cảm giác nhẹ tay khi ấn tay lên pittông. Chú ý: nhiệt độ của thuốc tiêm phải tương đương với thân nhiệt cơ thể vật nuôi. Hình 25. Gây tê đốt sống đuôi IV. CHẢY MÁU VÀ CẦM MÁU Mạch máu phân bố khắp mọi nơi trên cơ thể vật nuôi. Bất kỳ một phẫu thuật nào dù là nhỏ nhất cũng làm tổn thương đến mạch máu, gây chảy máu ra ngoài mạch quản hay còn gọi là xuất huyết. Khi thực hiện phẫu thuật để máu chảy ra nhiều sẽ che lấp tổ chức, người phẫu thuật không phân biệt được các lớp tổ chức dẫn đến thực hiện các thao tác chậm hay không chính xác. Cơ thể vật nuôi mất máu nhiều sẽ làm giảm sức đề kháng nghiêm trọng. Máu chảy ra ngoài mạch quản là môi trường thuận lợi cho vi khuẩn tồn tại và phát triển. Mất máu nhiều trong thời gian ngắn sẽ làm tăng nguy cơ phát triển shock. Ngoài ra mất máu nhiều còn làm ảnh hưởng đến tâm lý người phẫu thuật. Từ những nguyên nhân trên cho thấy mất máu nhiều trong phẫu thuật sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả phẫu thuật nói riêng, cơ thể nói chung. Vì vậy nhiệm vụ của nhà phẫu thuật là thực hiện phẫu thuật sao cho chảy máu càng ít càng tốt. - 42 -
- 4.1. Các dạng chảy máu 4.1.1. Căn cứ vào đặc điểm của mạch quản bị tổn thương Người ta chia ra: chảy máu động mạch, chảy máu tĩnh mạch, chảy máu mao mạch, chảy máu nhu mô (thực thể). * Chảy máu động mạch Khi động mạch bị tổn thương, máu chảy ra ngoài động mạch gọi chảy máu động mạch. Đặc điểm của cháy máu động mạch là: máu phụt theo từng tia theo nhịp đập của tim, màu của máu chảy ra là màu đỏ tươi. Máu sẽ ngừng chảy khi ta đè ép phần đầu phía trung tâm đi ra của mạch quản. * Chảy máu tĩnh mạch Khi tĩnh mạch bị tổn thương, máu chảy ra ngoài tĩnh mạch gọi là chảy máu tĩnh mạch. Đặc điểm của chảy máu dạng này là: máu tuôn ra từng dòng, lúc nhanh lúc chậm theo nhịp hô hấp (khó nhận biết). Tốc độ dòng chảy chậm hơn nhiều so với chảy máu động mạch. Máu chảy ra có màu đỏ thẫm. Máu ngừng chảy khi ta đè ép phần ngoại vi đi về của mạch quản. * Chảy máu mao mạch Khi tổn thương mao mạch (phân bố ở da, cơ, mô liên kết, cân mạc, bao cơ, bao gân) máu chảy ra ngoài mao mạch gọi là chảy máu mao mạch. Các mao mạch nhỏ nhưng phân bố dày đặc, tốc độ dòng chảy chậm. Chúng ta quan sát thấy máu chảy rướm đều trên toàn bộ vết mổ. Mao mạch phân bố xen kẽ giữa mao động mạch và mao tĩnh mạch, khi phẫu thuật sẽ cắt đứt cả mao động mạch và mao tĩnh mạch vì thế máu chảy ra có màu pha trộn giữa màu đỏ tươi và màu đỏ thẫm. Chảy máu dạng này dễ cầm máu. Nó có thể ngừng chảy nhờ cơ chế tự đông máu. * Chảy máu nhu mô Chảy máu nhu mô xuất hiện khi tổn thương hay phẫu thuật ở những cơ quan có cấu trúc nhu mô như: dạ dày, ruột, tử cung, Trong các cơ quan nội tạng, mao mạch được phân bố nhiều hơn so với ở da, cơ, mô liên kết đồng thời tốc độ chảy máu cũng lớn hơn. Khi nó bị cắt đứt, máu chảy ra đều khắp trên toàn bộ vết thương như chảy máu mao mạch nhưng tốc độ nhanh hơn nhiều. Màu máu cũng là màu pha trộn giữa máu động mạch và máu tĩnh mạch. Máu chảy ra tích lại trong các xoang giải phẫu. Rất khó cầm máu đối với loại chảy máu này. 4.1.2. Căn cứ vào nơi máu chảy tới Người ta phân biệt ra: chảy máu ngoài, chảy máu trong, chảy máu kẽ mô. * Chảy máu ngoài Xảy ra khi bị tổn thương bề mặt che phủ (da và niêm mạc nhìn thấy) và các khí - 43 -
- quan nằm sâu hơn. Máu chảy tràn ra bề mặt da hay các niêm mạc mà có thể nhìn thấy được, dễ phát hiện, dễ xử lý. * Chảy máu trong Xuất hiện khi các cơ quan nằm sâu trong cơ thể (dưới lớp che phủ) bị tổn thương nhưng lớp che phủ bên ngoài không bị tổn thương hoặc sau khi phẫu thuật đã được khâu kín. Máu thoát ra ngoài mạch quản nhưng không tràn ra bề mặt che phủ được, nó chảy vào trong và tích lại trong các xoang kín hay các xoang của khí quan rỗng (dạ dày, bàng quang, tử cung, ). Chảy máu dạng này rất khó phát hiện và khó xử lý. * Chảy máu kẽ mô Do các trường hợp tổn thương mạch quản, máu thoát ra ngoài mạch quản nhưng tích lại giữa các lớp tổ chức (không có lối thoát ra ngoài bề mặt che phủ và cũng không có đường chảy vào xoang tự nhiên). Khi tích tụ nó tạo thành các u máu . 4.1.3. Căn cứ theo thời gian xuất hiện chảy máu Người ta phân ra: chảy máu tiên phát, chảy máu thứ phát. * Chảy máu tiên phát (nguyên phát) Xuất hiện ngay sau khi mạch máu bị tổn thương. * Chảy máu thứ phát Xuất hiện sau khi chảy máu nguyên phát đã thực hiện các biện pháp cầm máu nhưng không triệt để. Nó phát triển do sự suy yếu và tuột nút chỉ thắt mạch quản hay sự tan dã của cục máu (thrombus). Ngoài chảy máu còn có thể xảy ra do sự rách hay ăn mòm thành mạch khi tổ chức xung quanh nó bị phân hủy, tan rã gọi là chảy máu hủy thành mạch. Khi buộc dây garo quá chặt trong thời gian dài có thể làm tổn thương các yếu tố co mạch gây chảy máu phát sinh khi cởi garo gọi là chảy máu liệt mạch. 4.2. Đề phòng mất máu nhiều khi phẫu thuật Đề phòng mất máu nhiều khi phẫu thuật gọi là cầm máu dự phòng. 4.2.1. Dự phòng với toàn thân * Tiếp máu Để đề phòng mất nhiều máu trong phẫu thuật tốt nhất là tiếp máu. Tùy theo lượng máu nhiều hay ít mà tiếp lượng máu thích hợp. Vật nuôi lớn tiếp 0,5 – 2 lít máu, vật nuôi nhỏ tiếp 300ml, chó mèo Khi * Dùng thuốc và hóa chất Sử dụng các chất có tác dụng nâng cao sự đông máu hay tác động cục bộ đến mạch quản vùng phẫu thuật. Tiêm tĩnh mạch calci chlorua 10%: vật nuôi lớn 50-100ml; vật nuôi nhỏ 20- 30ml; chó, mèo 2-4 ml. Dùng huyết thanh ngựa tiêm dưới da hay tĩnh mạch cho ngựa, liều lượng 100- 150ml/con trưởng thành. - 44 -
- Vitamin K kết hợp vitamin C để đề phòng chảy máu ở cơ quan có cấu trúc nhu mô. Dùng adrenalin 0,1% tiêm bắp, tĩnh mạch hay thấm trên bề mặt đang chảy máu (trừ trường hợp chảy máu ở phổi). Tiêm dưới da dung dịch gelatin 2%: vật nuôi lớn từ 100 – 200ml, vật nuôi nhỏ 10 - 20ml. Sử dụng fibrinogen tiêm tĩnh mạch cho trâu, bò, ngựa với liều lượng 10g/con để cầm máu nhu mô và các dạng chảy máu khác. 4.2.2. Dự phòng đối với cục bộ Đặt garo là phương pháp tốt nhất để đề phòng chảy máu cục bộ khi phẫu thuật ở tứ chi và đuôi. Dùng dây cao su, băng cuộn hay vải, buộc vòng quanh cơ quan phía trên vùng phẫu thuật theo hướng dòng chảy của động mạch. Không dùng dây quá nhỏ vì nó sẽ gây tổn thương da và các tổ chức dưới da. - Nếu là dây cao su, kéo căng nhẹ rồi quấn quanh cơ quan cần garo một vài vòng. - Nếu là các dây không đàn hồi, sau khi quấn một vòng quanh cơ quan cần garo dùng một chiếc que luồn vào vòng dây đó, xoay đến khi có cảm giác chặn được dòng chảy của mạch quản là được đồng thời lấy sợi dây khác cố định đầu que lại. Không được thắt dây garo quá lỏng hay quá chặt. Về mùa hè không thắt garo quá 2 giờ, mùa đông không thắt garo quá 1 giờ. Thắt garo quá lâu phần cơ quan phía dưới garo sẽ hoại tử. Nếu phẫu thuật kéo dài sau mỗi 30 phút thì nới garo trong vòng 30-60 giây sau đó thắt lại. Phẫu thuật xong tháo dây garo. Khi tháo dây phải tiến hành từ từ, nếu thấy chảy máu phải tìm mạch máu bị đứt để thắt lại. 4.3. Phương pháp cầm máu khi phẫu thuật 4.3.1. Phương pháp cầm máu tạm thời Trong khi thực hiện phẫu thuật chưa thực hiện được các biện pháp cầm máu triệt để thì phải nhanh chóng bằng mọi cách tạm thời ngăn chặn dòng chảy của máu để tránh gây mất máu quá nhiều. Một số phương pháp cầm máu tạm thời như sau: - Dùng tay ấn vào tổ chức nơi đang có máu chảy ra. - Dùng các vật mềm có nguồn gốc bông vải sợi nhét vào vết thương (phương pháp tampon) - Đặt garo nếu chảy máu ở chân và đuôi. - Dùng panh kẹp máu kẹp ngang ở đầu mạch quản bị đứt. 4.3.2. Phương pháp cầm máu triệt để * Phương pháp thấm ép Dùng vải gạc vô trùng ép chặt vào thiết diện vết mổ từ 5-15 giây sau đó nhấc ra. Nếu máu vẫn tiếp tục chảy thì làm lại một vài lần. Phương pháp này có thể cầm máu mao mạch và tĩnh mạch nhỏ. Nếu chảy máu đầy trong các xoang, có thể nhét đầy - 45 -
- xoang bằng vải gạc đã vô trùng, tạo ra sức ép ra xung quanh sau 2-4 ngày mới lấy ra. * Phương pháp dùng panh kẹp máu Dùng panh kẹp máu kẹp chặt đầu mạch quản bị đứt rồi nhẹ nhàng xoắn 2-3 vòng theo trục dọc của nó rồi tháo panh ra. Đối với mạch máu lớn, có lượng máu chảy nhiều ta kẹp và lưu panh một thời gian (5-10 phút). Trước khi tháo panh ta cũng xoắn một vài vòng. Những mạch máu lớn ở vết thương sâu khi không thể dùng các biện pháp cầm máu khác người ta có thể lưu panh từ 12-24 giờ, đôi khi tới vài ngày. Bằng cách này có thể cầm máu khi thiến vật nuôi đực có thừng dịch hoàn bị đứt mà chưa kịp thắt bằng chỉ. Phương pháp cầm máu bằng panh là một trong số phương pháp phổ biến. * Phương pháp xoắn vặn Phương pháp này áp dụng để thiến vật nuôi còn non, kể cả con đực và con cái; tuyệt đối không áp dụng với động vật già do các mô bào, thành mạch quản đã trở nên cứng chắc nút xoắn có thể bị tháo xoắn gây chảy máu thứ phát. Đối với vật nuôi đực còn non, mạch máu ở thừng dịch hoàn không quá dai chắc như động vật trưởng thành; tương tự đối với mạch máu vùng ống dẫn trứng và buồng trứng của những con cái. Sau khi đã bộc lộ được thừng dịch hoàn của con đực hay buồng trứng của con cái, dùng panh kẹp ngang qua thừng dịch hoàn hay ống dẫn trứng. Cầm dịch hoàn hay buồng trứng xoắn vặn cho đến khi đứt. Cách làm như vậy vừa đạt được mục đích thiến vật nuôi vừa hạn chế được mất máu. * Phương pháp thắt bằng chỉ Phương pháp này dùng chỉ tiêu hay chỉ tơ thắt ngang các mạch quản bị đứt kể cả đối với động mạch, tĩnh mạch dù lớn hay nhỏ. Trước tiên dùng panh kẹp máu kẹp đầu mạch quản bị đứt, kéo ra một chút rồi dùng kim chỉ xuyên qua thành mạch (đối với mạch máu lớn), vòng sợi chỉ quanh thành mạch vài vòng rồi thắt lại. Đường đi của sợi chỉ có hình số tám nên gọi là nút số 8. Phương pháp thắt nút mạch máu theo nút số 8 nhằm tránh việc tuột chỉ khi áp lực của máu ép mạnh lên nút thắt. Đối với mạch quản nhỏ không xuyên chỉ qua thành mạch được thì người phẫu thuật có thể xuyên vào tổ chức xung quanh mạch quản nhằm mục đích cố định sợi chỉ thắt không cho tuột khỏi mạch quản. Yêu cầu khi thắt mạch quản phải thật chặt khi thắt xong phải kiểm tra lại bằng cách dùng bông tẩm cồn iod 5% thấm vào đầu mạch quản bị đứt, kiểm tra xem còn chảy máu không. Nếu máu vẫn tiếp tục chảy phải thắt nút bổ sung. Phương pháp thắt mạch máu bằng chỉ là phương pháp cầm máu triệt để nhất. * Phương pháp vật lý - Dùng nhiệt độ thấp: Tưới nước lạnh hay áp cục đá vào nơi đang chảy máu - 46 -
- mao mạch. Phương pháp này làm nhiệt độ vùng trườm đá giảm gây co mạch nên hạn chế được chảy máu. - Dùng nhiệt độ cao: Dùng các thanh kim loại được nung nóng, mỏ hàn, dao điện, áp vào nơi đang chảy máu. Nhiệt độ cao làm cháy các tổ chức trên bề mặt tạo thành lớp vảy là điều kiện cho sự đông máu. Phương pháp này có thể áp dụng để cầm máu khi chảy máu nhu mô hay chảy máu ở các tổ chức cứng như: sừng, móng non, mà bằng các phương pháp khác không thể thực hiện được. Chú ý khi nung thanh kim loại không để quá nóng. Nhiệt độ quá cao sẽ gây bỏng. Khi áp thanh kim loại vào tổ chức sẽ nghe tiếng “xèo”, lưu giữ 3 – 5 giây. Nếu thấy máu vẫn còn chảy thì làm lại 2 – 3 lần. Trên cơ sở cầm máu bằng nhiệt độ người ta đã chế tạo ra “dao mổ điện”. Lưỡi dao được nung nóng bằng năng lượng điện. Khi cắt dưới sức nóng của lưỡi dao sẽ có tác dụng cầm máu ngay. Trong y học hiện đại, kỹ thuật mổ nội soi đã triệt để lợi dụng phương pháp này. * Phương pháp hóa học Sử dụng những thuốc có tác dụng tại cục bộ. Dùng các dung dịch như: nước oxy già 3%, adrenalin 0,1% các dung dịch này được tẩm vào bông bôi vào vết thương chảy máu dạng mao mạch, có tác dụng làm co mao mạch quản. Khi thực hiện các phẫu thuật trong các xoang: miệng, mũi, người ta đưa các dung dịch trên vào bằng tampon. V. KẾT NỐI MÔ BÀO Kết nối mô bào nhằm mục đích khôi phục lại sự toàn vẹn và tạo điều kiện cho quá trình liền mô bào tại vết thương, vết mổ. Sau phẫu thuật mặc dù đã áp dụng rất tốt các phương pháp cầm máu nhưng chắc chắn vẫn còn rướm máu (chảy máu mao mạch). Nếu kết nối mô bào đúng đắn, hai bên thành vách của vết mổ sẽ được áp sát nhau, bên này ép sát bên kia làm ngừng chảy máu. Kết nối mô bào đúng phương pháp sẽ hạn chế tối đa sự tác động của các yếu tố môi trường bên ngoài, sự xâm nhập của vi sinh vật, giảm nguy cơ nhiễm trùng sau phẫu thuật. 5.1. Dụng cụ và nguyên liệu 5.1.1. Kim Kim dùng trong phẫu thuật có hai dạng chính: kim thẳng và kim cong. Kim thẳng có hai loại: thân tròn có lỗ khuyết ở chuôi kim và thân tròn có lỗ khuyết ở mũi kim. - Kim thẳng thân tròn có lỗ khuyết ở chuôi kim: dùng để khâu các mô mềm như cơ, cân mạc, phúc mạc, các cơ quan nội tạng. Tùy độ dày của mô bào mà lựa chọn cỡ - 47 -
- kim thích hợp. Kim thẳng không có dụng cụ cố định do đó người phẫu thuật phải cầm kim trực triếp trên tay khi khâu. - Kim thẳng thân tròn có lỗ khuyết ở đầu kim: dùng để khâu các mô bào dày chắc như da, gân. Loại kim này to, cứng người phẫu thuật có thể cầm bằng tay. Khi xuyên qua lớp mô bào cần khâu mới xâu chỉ, rồi rút kim lại. Kim cong có hai loại: kim cong thân tròn và kim cong thân 3 cạnh. - Kim cong thân tròn chỉ có sức xuyên của mũi nhọn, thân tròn, trơn nhẵn không cắt tổ chức trên đường đi, không gây chảy máu khi khâu. Dùng để khâu các mô mềm. - Kim cong thân 3 cạnh: vừa có sức xuyên của mũi nhọn, vừa có sức phá của 3 cạnh sắc dùng để khâu các mô dày chắc. Phần đầu của kim có 3 cạnh, phần sau hơi tròn. Nơi có 3 cạnh, nếu cắt ngang sẽ có hình tam giác vì thế còn gọi là “kim cong tam giác”. Ba cạnh sắc của kim như 3 lưỡi dao hướng về 3 phía vừa xuyên vừa cắt được các tổ chức, vì vậy dùng để khâu các mô bào dày chắc. Các loại kim cong đều có lỗ khuyết sâu chỉ ở phía đuôi. Loại có hai lỗ khuyết sâu chỉ nhanh hơn, chỉ việc để chỉ vào giữa rãnh của chuôi kim, kéo nhẹ. 5.1.2. Kìm cặp kim (Panh cặp kim) Kìm cặp kim để cố định kim. Có hai loại kìm cặp kim: loại có nhíp đẩy và loại không có nhíp đẩy. Loại kìm có nhíp đẩy dễ thao tác hơn loại không có nhíp đẩy. Nếu không có kìm cặp kim chuyên dụng có thể dùng các loại kìm khác để thay thế, xong tất nhiên dụng cụ y học bao giờ cũng được sản xuất có độ sáng bóng cao hạn chế sự đeo bám của vi sinh vật . Khi cố định kim: sao cho mặt phẳng của kim vuông góc với mặt phẳng kìm; tại vị trí 1/3 phía mũi kim và 1/3 phía mũi kìm. Tại vị trí đó cho phép cố định kim chắc chắn nhất. Nếu cảm thấy ngạnh kìm yếu, cố định kim chưa được chắc chắc thì có thể cặp lui về phía óc kìm nhưng không nên quá 1/2 ngạnh kìm; nếu sát óc kìm mà bấm mạnh có thể bị gãy ngạnh kìm. Đối với kim cong 3 cạnh, kẹp tại vị trí tiếp giáp đoạn 3 cạnh và đoạn tròn. Mỗi khi khâu xong một nút phải mở kìm, đẩy kim, sau đó nên cặp vào đúng vị trí như ban đầu. 5.1.3. Chỉ khâu Có hai nhóm chỉ khâu: chỉ tự tiêu và chỉ không tự tiêu * Chỉ tự tiêu Là loại chỉ được sản xuất từ nguyên liệu có nguồn gốc protein động vật, trong cơ thể một thời gian nó tiêu biến và lẫn với mô bào của cơ thể. Chỉ tự tiêu dùng để khâu các mô bào nằm dưới lớp da bảo vệ sau đó không cần phải cắt chỉ. Chỉ tự tiêu lần đầu được sản xuất từ ruột mèo nên gọi là chỉ catgut. Hiện nay ngoài ruột mèo nó còn được sản xuất từ ruột cừu, gân đuôi chuột cống. Có nhiều cỡ chỉ to nhỏ khác nhau. Chỉ nhỏ nhất được đánh số 7/0, lớn hơn là 6/0 lần lượt đến chỉ số 0 rồi số 1, đến số 7 là to nhất. Tùy độ dày mỏng và sức căng của mô bào mà lựa chọn cỡ chỉ cho thích hợp. Thông thường trong thú y dùng chỉ 4/0 - 48 -