Bài giảng Y học cổ truyền - Chương 12: Trường thọ. Sinh con theo ý muốn

pdf 27 trang hapham 2180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Y học cổ truyền - Chương 12: Trường thọ. Sinh con theo ý muốn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_y_hoc_co_truyen_chuong_12_truong_tho_sinh_con_theo.pdf

Nội dung text: Bài giảng Y học cổ truyền - Chương 12: Trường thọ. Sinh con theo ý muốn

  1. Biên soạn : Nguyễn Khắc Bảo Y HỌC CỔ TRUYỀN CHƯƠNG 12 - TRƯỜNG THỌ - SINH CON THEO Ý MUỐN Khởi biên : TP.HCM THÁNG 10-2012 1
  2. CHƯƠNG 12 TRƯỜNG THỌ VÀ SINH CON THEO Ý MUỐN - Phương tây có câu “người Việt Nam chết trên đống thuốc”. Nền y học cổ truyền dân tộc có nhiều bài thuốc rất huyền diệu, tuy nhiên nhưng phương thuốc hay này đang bị chìm dần vào quên lãng và dần dần mất đi niềm tin từ chúng ta. - Người nghèo ở Việt Nam có rất ích điều kiện chăm sóc bởi nền y học hiện đại, một khi họ mắc các bệnh hiểm nghèo thì chỉ có thể chờ chết, hoặc nếu có điều kiện thì đôi khi tây y cũng bó tay với nhiều trường hợp. - Với mục đích sưu tầm các bài thuốc hay dân gian để điều trị hầu hết các loại bệnh, cũng như cung cấp những bài thuốc cổ truyền hay cho những ai thật sự đang rất cần và tin tưởng vào nó, một cứu cánh cho người nghèo mắc bệnh Người dùng trước khi sự dụng các bài thuốc này cần nghiên cứu thật kỉ các thông tin trong sách này, những vấn đề còn thắc mắc thì nên hỏi thầy thuốc đông y để tránh những việc đáng tiếc. Mọi thắc mắc xin liên lạc tác giả qua. Email : nkbao80@gmail.com Lời tác giả 2
  3. CHƯƠNG 12 VẤN ĐỀ 1 : SINH TRAI HAY GÁI Ban nghiên cứu Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Sưu tầm và tổng hợp Phương pháp tính sinh trai hay gái. Sinh trai hay gái là do lẽ tự nhiên của tạo hóa. Nhưng khi cuộc sống phát triển, nhu cầu sinh trai hay gái cũng xuất hiện. Nhiều gia đình sinh con một bề muốn cho “có nếp có tẻ” đối khi rất muốn sinh con theo giới tính được định sẵn. Khoa học hiện đại cũng có nhiều công trình nghiên cứu về việc này. Phương pháp thứ I Lấy tuổi vợ chồng theo tuổi Âm lịch, sau đó cộng tuổi vợ chồng trừ đi 40. Nếu số dư trên 40 tiếp tục trừ đi 40. Lấy số dư còn lại đầu tiên trừ 9, tiếp tục trừ 8, lại trừ 9, trừ 8 cho đến khi số dư nhỏ hơn hoặc bằng 9 -8 thì thôi. 1 - Hiệu số cuối cùng còn lại là số chẵn thì cấn bầu trong năm sinh trong trong năm là con trai. Ngược lại cấn bầu ngoài năm sinh trong năm là con gái. 2 - Hiệu số cuối cùng còn lại là số lẻ thì cấn bầu trong năm sinh trong trong năm là con gái. Ngược lại cấn bầu ngoài năm sinh trong năm là con trai. Thí dụ: Tuổi chồng 37. Tuổi vợ 32. Tổng số 69. 69 – 40 = 29. 29 – 9 = 20. 20 – 8 = 12. 12 – 9 = 3. 3
  4. Theo phương pháp này: Nếu hai vợ chồng này cấn bầu trong năm và sinh trong năm sẽ sinh con gái. Ngược lại, cấn bầu trong năm nay và sinh trong năm tới sẽ sinh con trai. Phương pháp thứ II Phương pháp này bắt đầu từ một bài ca quyết lưu truyền sau đây: Nguyên văn: 49 từ xưa đã định rồi. Cộng vào tháng đẻ để mà chơi. Trừ đi tuổi mẹ bao nhiêu đấy! Thêm vào 19 để chia đôi. Tính tuổi trăng tròn cho thật chuẩn. Chẵn trai, lẻ gái đúng mười mười. Như vậy, nếu chúng ta gọi tháng sinh là “n” và tuổi mẹ là “M” thì sẽ có bài toán là: (49 + n – M +19): 2 Giản lược công thức trên , ta có: (68 + n – M) :2. Thí dụ: Mẹ 32 tuổi, sinh con tháng 9 Âm lịch. Thay vào công thức trên ta có: n = 9; M = 32. (68 + 9 – 32): 2 = 22. 5. Lẻ. Theo phương pháp này thì bà mẹ 32 tuổi sinh tháng 9 sẽ là con gái. Phương pháp thứ III 4
  5. Ứng dụng bảng tổng kết theo Lịch Vạn sự về “tháng thụ thai sinh trai hay gái” như sau: Theo bảng này, chúng ta xem cột tuổi người mẹ phía trên từ 18 đến hết 40. Cột dọc bên trái ứng với tháng thụ thai. Nếu rơi vào ô có dấu "+" là sinh con trai, dấu "0" là con gái. Tương truyền đây là bảng tổng kết của các quan Thái Giám trong cung đình xưa. Cách kết hợp ba phương pháp Ba phương pháp này lưu truyền rời rạc trong dân gian. Chúng đều khó kiểm định tính hiệu quả cho từng phương pháp. Nhưng chúng tôi nhận xét thấy rằng: 1 - Phương pháp I tính năm sinh con theo ý muốn. 2 - Phương pháp II tính tháng sinh con theo ý muốn. 3 - Phương pháp III tính tháng cấn bầu để sinh con theo ý muốn. Ba phương pháp này tuy khác nhau nhưng không phủ định nhau về nguyên tắc. Bởi vậy, sự kết hợp cả ba phương pháp sẽ cho chúng ta một xác xuất cao hơn. 5
  6. 1 - Trước hết chúng ta áp dụng phương pháp thứ I để xác định một cách tổng quát nên cấn bầu và sinh trong năm hay cấn bầu năm nay sinh năm tới. 2 – Sau đó áp dụng phương pháp thứ II. Giả thiết rằng chúng ta cần một con số chẵn cho tháng sinh thì – Khi tuổi mẹ lẻ, tháng sinh phải lẻ và ngược lại thì kết quả của công thức trên sẽ cho ra một số chẵn. 3 – Sau khi xác định được tháng sinh là lẻ (Hoặc chẵn), lúc đó ta áp dụng phương pháp thứ III. Giả thiết tháng sinh lẻ, ta sẽ chọn trong bảng tháng thụ thai thích hợp với tháng lẻ hoặc chẵn cần tìm. Thí dụ: Chồng 31, vợ 27. * Giả thiết rằng vợ chồng này muốn sinh con trai. I - Ứng dụng phương pháp thứ I Cộng tuổi vợ chồng 31 + 27 = 58. 58 - 40 = 18. 18 - 9 = 9 9 - 8 = 1. Như vậy số dư là 1 là số lẻ. Sang năm vợ chồng đều cộng lên 2 tuổi sẽ có số dư 3 cũng là số lẻ. Do đó nếu có bầu và sinh con trọn năm sẽ là con gái và ngoài năm sẽ là con trai. Vậy theo điều kiện của phương pháp I thì muốn sinh con trai phải có bầu trong năm này và sinh vào năm sau. II - Ứng dụng phương pháp II Sau khi xác định phải có bấu trong năm nay và sinh năm sau, ta ứng dụng phương pháp II để chọn tháng sinh con theo công thức: (68 + n – M): 2. Ta có: Tuổi mẹ M = 27. Thay thế vào công thức trên ta có: 6
  7. (68 + n – 27): 2 = (41 +n): 2. “n” là tháng sinh. Như vậy để thỏa mãn tháng sinh chẵn con trai thì tháng sinh phải chọn tháng lẻ. III - Ứng dụng phương pháp III. Sau khi xác định phải sinh trong tháng lẻ và phải cấn bầu năm nay (27 tuổi) và sinh năm sau (28 tuổi), ta tra bảng trên để tìm một tháng lẻ trong năm 28 tuổi (Như 1 – 3 – 5 – 7 .) và tính lùi 9 tháng để rơi vào một tháng cấn bầu thích hợp có dấu +. Cụ thể là: Nhìn vào cột ngang ô người mẹ 28 tuổi (Giả thiết năm hiện tại là 27, sinh vào sang năm là 28). Nhưng tháng lẻ có khả năng sinh con trai theo phương pháp II là 1 - 3 - 5 - 7 . - Trường hợp chọn tháng Giêng năm 28 tuổi thì cấn bầu tháng 6 năm 27 tuổi. Cấn bầu tháng 6 năm 27 tuổi bảng cho biết khả năng sinh con trai (Dấu +). - Trường hợp chọn tháng Ba thì cấn bấu tháng 8 năm 27 tuổi. Cấn bầu tháng 8 năm 27 tuổi, bảng cho biết khả năng sinh con trai (Dấu +) - Trường hợp chọn tháng Năm thì cấn bấu tháng 10 năm 27 tuổi. Cấn bầu tháng 10 năm 27 tuổi, bảng cho biết sinh con gái (Dấu 0). Không thỏa mãn giả thiết trên. Như vậy, khi kết hợp cả ba phương pháp, cho người mẹ 27 tuổi chồng 31 thì điều kiện thỏa mãn cả ba phương pháp là cấn bầu tháng 6 hoặc 8 năm vợ 27 tuổi và sinh vào năm 28 tuổi. * Giả thiết rằng vợ chồng này muốn sinh con gái. I - Ứng dụng phương pháp thứ I Cộng tuổi vợ chồng 31 + 27 = 58. 58 - 40 = 18. 18 - 9 = 9 9 - 8 = 1. 7
  8. Như vậy số dư là 1 là số lẻ. Sang năm vợ chồng đều cộng lên 2 tuổi sẽ có số dư 3 cũng là số lẻ. Do đó nếu có bầu và sinh con trọn năm sẽ là con gái. Vậy theo điều kiện của phương pháp I thì muốn sinh con gái phải có bầu và sinh trọn trong năm nay, hoặc có bầu và sinh trọn trong năm sau. II - Ứng dụng phương pháp II Sau khi xác định phải có bấu và sinh trọn trong năm nay (Hoặc trọn năm sau), ta ứng dụng phương pháp II để chọn tháng sinh con theo công thức: (68 + n – M): 2. Ta có: Tuổi mẹ M = 27. Thay thế vào công thức trên ta có: (68 + n – 27): 2 = (41 +n): 2. “n” là tháng sinh. Như vậy để thỏa mãn tháng sinh lẻ con gái thì tháng sinh phải chọn tháng chẵn. III - Ứng dụng phương pháp III. Sau khi xác định phải sinh trong tháng chẵn và phải cấn bầu và sinh trọn năm nay (27 tuổi); hoặc trọn năm sau (28 tuổi), ta tra bảng trên để tìm một tháng chẵn trong năm 27 (Hoặc 28) tuổi (Như 2 – 4 – 6 – 8 .) và tính lùi 9 tháng để rơi vào một tháng cấn bầu thích hợp có dấu +. Như vậy, ta đã ứng dụng cả ba phương pháp cho giả thiết vợ chồng trong thí dụ trên sinh con gái. Nhưng dân gian ta có câu: "Người tính không bằng trời tính" Bởi vậy, cũng xin lưu ý là moị chuyện theo tự nhiên là tốt nhất. Tuy kết quả trên khá chính xác. Nhưng còn số phận người đó có thể sinh trai hay gái hay không lại là chuyện khác. Muốn thay đổi số phận, điều đầu tiên phải tạo phúc đức đã. Chúc vạn sự như ý. BẢNG DỰ TÍNH 8
  9. SINH CON TRAI HAY CON GÁI CỦA NHÀ THANH Nhà Thanh là triều đại cuối cùng của lịch sử Trung Quốc. Cũng giống như nhiều triều đại phong kiến khác. Nhà thanh cũng rất lo lắng cho hậu duệ của mình. Và việc chon lọc giớ tính cho con cháu mình là điều không tránh khỏi . Về mặc này nhà Thanh có một bí quyết riêng rất tuyệt mật. Và thời gian sau này mới được người ta biết đến. Nay Tôi xin trích dẫn một trong số những bí quyết đó. Đó là một bảng biểu chỉ ra mối quan hệ giữa tuổi của người mẹ và giới tính đứa con được sinh ra. 9
  10. MỘT TÀI LIỆU KHÁC CHÉP RẰNG 10
  11. CHƯƠNG 12 VẤN ĐỀ 2 : MINH MẠNG THANG Lâu nay, dân gian vẫn truyền tụng về toa thuốc bổ có khả năng tăng cường sinh lực với những cái tên vô cùng hấp dẫn như Nhất dạ lục giao hay Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử, cũng có nơi gọi Lục giao tam dựng và cho rằng đó là toa thuốc mà vua Minh Mạng đã dùng. Nhưng toa thuốc Minh Mạng thang thần bí này xuất phát từ đâu, trong hàng chục toa đang lưu truyền toa nào là gốc, công dụng thực của nó ra sao? Từ những toa thuốc được công bố Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, từ trước năm 1975, trên một số báo chí, sách đông y và y học dân tộc ở miền Nam đã xuất hiện các công bố về toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử. Nhật báo Sống (Sài Gòn) số ra ngày 27.4.1968 đã đăng một toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử với 25 vị thuốc bắc. Đến năm 1987, lương y Lê Văn Sơn, với sự trợ giúp của lương y Bùi Văn Nông, thuộc Tổ chẩn trị y học dân tộc - Trạm y tế Tân Đông Hiệp và Tân Bình (Thuận An - Sông Bé) đã xuất bản ấn phẩm (lưu hành nội bộ) Những phương thuốc bổ và trường xuân, trích dịch từ sách Vạn bệnh hồi xuân. Trong ấn phẩm này có giới thiệu một bài thuốc với tiêu đề Toa rượu bổ của vua Minh Mạng dùng. Theo đó, bài thuốc gồm 22 vị, có hướng dẫn cách ngâm rượu và cách dùng cũng như mô tả 6 công dụng đặc biệt: đại bổ khí huyết, tăng cường sinh lực, bồi bổ thần kinh; ngăn ngừa bệnh tật, trị khỏi đau lưng, nhức mỏi và bồi bổ cho sản phụ; người liệt dương (uống từ 1 - 2 tháng có thể có con); người khản tiếng, nói không to, uống thuốc nói được to tiếng; thận yếu lâu, bán thân bất toại, đi đứng không được, uống thuốc rượu này rất tốt; người gần chết, uống vào có thể sống lại 3 ngày nữa; già lão 60 tuổi, uống vào tăng tuổi thọ rất nhiều, đêm ngủ không mộng mị, không bị táo bón. Tuy ghi là toa rượu bổ của vua Minh Mạng, nhưng các tài liệu trên hoàn toàn không hề trích dẫn nguồn gốc bài thuốc, có liên quan đến Thái y viện triều Nguyễn hay không. Từ những bài thuốc được công bố này, nhà nghiên cứu Phan Thuận An đã đối chiếu với các tư liệu lịch sử ghi chép về vua Minh Mạng để thực hiện bài viết Toa thuốc bổ Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử của vua Minh Mạng đăng trên tạp chí Sông Hương số xuân Tân Mùi (1991). 12
  12. Nhà vua “quá khỏe” Theo tác giả Phan Thuận An, trong số 13 đời vua nhà Nguyễn thì chỉ có 2 vị vua tỏ ra quan tâm nhiều nhất đến tổ chức, hoạt động và hiệu quả của Thái y viện, đó là vua Minh Mạng (trị vì từ 1820 - 1840) và vua Tự Đức (trị vì 1847-1883). Hai vua đều có lý do khác nhau, trong đó vua Tự Đức quan tâm vì thể chất đau yếu bẩm sinh, tai biến của bệnh đậu mùa biến chứng dẫn đến “bất lực”, rất muốn có con để truyền ngôi. Còn vua Minh Mạng thì lại khác. Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả (NXB Thuận Hóa, 1995), nhà vua chính thức có 43 phi, tần. Tuy vậy, cho đến nay, chưa ai biết vua Minh Mạng có bao nhiêu cung nữ, vì sử sách không ghi rõ. Bộ Minh Mạng chính yếu của Quốc Sử quán triều Nguyễn chỉ tiết lộ, vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 6 (tháng 2.1825) trong kinh kỳ ít mưa, nhà vua thấy hạn làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo khanh là ông Hoàng Quýnh rằng: “Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ xem vì đâu mà thế, nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, có lẽ trong thâm cung, cung nữ nhiều nên âm khí uất tắc mà nên vậy ư? Nay bớt đi, cho ra một trăm người, ngõ hầu có thể trừ thiên tai vậy”. Con số bớt đi mà đã tới 100 cung nữ, vậy số còn lại trong cung chắc hẳn phải là vài trăm trở lên. Trong cuốn Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn do Nguyễn Viết Kế sưu soạn (NXB Đà Nẵng, 1996) viết: “Bình nhật, khi nghỉ ngơi, vua có 5 bà vợ hầu hạ: một bà vấn thuốc têm trầu, một bà quạt, một bà đấm bóp, một bà ru và một bà để sai vặt. Mỗi đêm, vua cho thái giám gọi 5 bà vào hầu. Mỗi bà một canh. Hết 5 canh thì danh sách các bà được chuyển giao cho Tôn Nhơn phủ giữ để tiện theo dõi việc khai hoa nở nhụy của các bà sau này”. Từ những so sánh ấy mà người ta đã suy diễn ra rằng “nhà vua cần tăng lực để thỏa mãn thú vui xác thịt với hàng trăm bà vợ trong cung”. Cũng theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, tương truyền một số lương y hiện nay ở Huế có nghe các vị ngự y tiền bối kể lại rằng vua Minh Mạng đã xài phí sức lực vào việc giới tính từ rất sớm, ngay từ thời còn là hoàng tử. Một thời gian trước khi lên ngôi (năm 1820, vua 29 tuổi), ông đã rất yếu về đường sinh dục. Cho nên sau khi đăng quang, vua đã ra lệnh cho các quan ngự y phải cố gắng giúp mình lấy lại sức khỏe. Do đó, các ngự y đã “đối chứng lập phương” làm ra thang thuốc bổ ngâm rượu để nhà vua dùng hằng ngày và thang thuốc này rất hiệu nghiệm. Và hiệu nghiệm đầu tiên rất cụ thể đó là về mặt sinh lý, nhà vua đã sinh được 78 hoàng tử và 64 hoàng nữ. Hiệu nghiệm thứ hai đó là về mặt tinh thần, trí tuệ. Lịch sử cho thấy 20 năm trị vì, vua Minh Mạng đã làm được rất nhiều việc tốt đẹp cho đất nước trên nhiều lĩnh vực hành chánh, kinh tế, văn hóa, xã hội Có thể nói thời Minh Mạng là đỉnh cao của vương triều Nguyễn. Vì công hiệu của toa thuốc mà nhà vua đã dùng ấy, các quan lớn trong triều đã “phạm thượng” bí mật sao chép mang về để dùng, rồi sau đó lan truyền trong dân gian. 13
  13. Thêm một cứ liệu nữa khiến người ta quy kết những toa thuốc có tên Nhất dạ lục giao là toa thuốc của vua Minh mạng, bởi vì tương truyền, chính vua Minh Mạng đã từng có thơ nhắc đến việc Nhất dạ lục giao tam hữu dựng (một đêm 6 lần giao hợp, 3 lần có con). Câu thơ này được tác giả Phạm Khắc Hòe, Ngự tiền văn phòng Đổng lý thời vua Bảo Đại chép trong sách Kể chuyện vua quan triều Nguyễn (NXB Thuận Hóa xuất bản năm 1990). Từ câu thơ này mà nhiều người cho rằng chính những bài thuốc lưu truyền trong dân gian với tên gọi như: Nhất dạ lục giao, Nhất dạ ngũ giao, Lục giao tam dựng, Ngũ giao tam dựng là toa thuốc của vua Minh Mạng dùng. Những bài thuốc lưu truyền trong dân gian Sau bài viết của tác giả Phan Thuận An, các lương y trong và ngoài nước liên tục phát hiện và công bố thêm nhiều dị bản Minh Mạng thang lưu truyền trong dân gian. Nhiều dị bản Theo lương y Phan Tấn Tô, sau bài viết của nhà nghiên cứu Phan Thuận An, liên tục trên các báo và tạp chí y học dân tộc, các lương y ở Huế đã công bố phát hiện thêm nhiều bài thuốc Nhất dạ lục giao, Nhất dạ ngũ giao, Lục giao tam dựng Báo Thừa Thiên-Huế số Tết năm 1993 có bài viết Nói thêm về toa thuốc bổ của vua Minh Mạng của tác giả lương y Thích Tuệ Tâm, phụ trách Tuệ Tĩnh đường Diệu Đế (trước đây ở địa chỉ 100 Bạch Đằng, nay ở chùa Liên Hoa, đường Lê Quý Đôn, TP.Huế). Bài viết nêu một số phân tích từ thực tiễn cắt thuốc cho bệnh nhân và đưa ra kết luận: thực ra đây là bài thuốc không chỉ dành cho các bậc vua chúa mà bất cứ ai có bệnh đều dùng được, cả nam lẫn nữ. Tuy vậy, theo từng thể bệnh nhân mà gia giảm cho phù hợp. Bài viết cũng phân tích công dụng của thuốc với các loại đối tượng khác nhau. Theo lương y Thích Tuệ Tâm, toa thuốc của vua Minh Mạng có hai bài là Nhất dạ ngũ giao sinh tứ tử, thích hợp cho lứa tuổi từ 30 đến 40 và bài Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử thích hợp cho người từ 40 tuổi trở lên. Kèm theo bài báo, lương y Thích Tuệ Tâm cũng đã công bố một bài thuốc Nhất dạ ngũ giao sinh tứ tử, với 20 vị. Sau đó, cuốn Nguyễn Triều cố sự huyền thoại về danh lam xứ Huế của tác giả Bửu Kế (NXB Đà Nẵng tái bản năm 1996) phần phụ lục có đăng hai bài thuốc Minh Mạng thang, ghi là của lương y Thích Tuệ Tâm, trong đó một bài là Nhất dạ ngũ giao (20 vị) và Nhất dạ lục giao (24 vị). Năm 1997, trong cuốn Sổ tay Võ thuật phần Sức khỏe cho mọi người cũng công bố một bài thuốc gọi là Minh Mạng thang với 25 vị, do Nguyễn Thị Thanh Xuân sưu tầm. Ngoài ra, các lương y còn sưu tầm thêm được 2 phái thuốc gọi là Phái thuốc bổ của vua Minh Mạng, tại nhà ông Nghi ở đường Đào Duy Từ (TP.Huế), nguyên là cán bộ Tòa án tỉnh Thừa Thiên chế độ cũ. Theo gia đình ông Nghi, hai phái thuốc này do gia đình quan Ngự y triều Nguyễn là Lê Quốc Chước cung cấp (đã dịch ra quốc ngữ). Theo đó, 2 phái 14
  14. thuốc gồm phái chính (13 vị) và phái phụ (18 vị), có ghi chú công dụng: thuốc này bổ thận, tráng dương, cường lực, sung khí huyết, đen râu tóc, do quan Ngự y Lê Quốc Chước dâng vua Minh Mạng sau ngày lễ đăng quang. Tuy nhiên, theo ông Phan Tấn Tô, trong Mục lục Châu bản triều Nguyễn chưa thấy tên của quan Ngự y Lê Quốc Chước nên chưa thể kiểm chứng chắc chắn. Toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử của gia đình quan Ngự y Phạm Đạt, ảnh chụp từ tài liệu của lương y Phan Tấn Tô 15
  15. Một trong những bài Minh Mạng thang chép tay bằng chữ Hán Trong quá trình sưu tầm, các lương y còn tìm thấy ở gia đình hậu duệ của lương y Đoàn Cảnh (làng Khuôn Phò, xã Quảng Phước, H.Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế) một bài thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử, với 19 vị. Đông y sĩ Đoàn Cảnh vừa là Chánh tổng vừa là thầy thuốc nổi tiếng tại làng Khuôn Phò. Trước năm 1940, lương y Đoàn Cảnh từng mở trường dạy nghề thuốc bắc tại địa phương và ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh của Bác Hồ, đã nhiều lần vào ở lại nhà này. Cháu nội của lương y Đoàn Cảnh là đông y sĩ Đoàn Ngọc Phách (1910-1983), một danh y tại Huế, từng làm Tổng thư ký Hội Y dược Việt Nam Trung Việt (1950-1958). Từ bài thuốc của gia đình họ Đoàn, đạo sĩ Thích Thiên Đăng cũng có bài thuốc Trường Sinh. Theo đó, bài thuốc Trường Sinh hơi khác do có thêm hai vị là Khương hoạt và Ngưu tất, đồng thời bỏ bớt Đỗ trọng của bài thuốc họ Đoàn. Trong tập thức ăn chữa bệnh của người Trung Hoa (NXB Trẻ ấn hành năm 1995), lương y Lương Tú Vân và cộng sự cũng đã công bố 2 bài Tráng dương lục giao thang (23 vị) và Yêu cốt thống dược tửu (12 vị), với ghi chú do các Ngự y triều Nguyễn chế cho vua Minh Mạng dùng. Lưu truyền trong gia đình quan lại 16
  16. Đáng chú ý nhất là bài thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử của gia đình quan Ngự y Phạm Đạt, có tới 36 vị. Cụ Phạm Đạt là quan Ngự y cuối cùng của triều Nguyễn. Bài thuốc có trong tập Dược phẩm vựng yếu của Hải Thượng Lãn Ông, được cụ Phạm Đạt cho ông Vĩnh Thiều, được ông Vĩnh Cao giao lại cho lương y Lê Quý Ngưu. Năm 1996, tiến sĩ Võ Quang Yến thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS) cũng sưu tầm được bài thuốc bổ Minh Mạng, với 25 vị, nguyên văn chữ Hán, riêng phần hướng dẫn pha chế bằng tiếng Việt và công bố trên tạp chí Tiếng Sông Hương, ở Mỹ. Ngoài ra, tại gia đình ông Phạm Kim Âu (nguyên giáo sư giảng dạy tại Đại học Khoa học Huế) cũng lưu giữ bài thuốc Ngũ giao tam dựng (25 vị). Theo gia đình ông Âu, bài thuốc này do thân sinh của ông chép lại ở một gia đình ngự y, lưu giữ để dùng trong gia đình; Gia đình cụ cử nhân Phan Ngọc Hoàng (người đỗ cử nhân cuối cùng của triều Nguyễn) ở đường Huỳnh Thúc Kháng (TP.Huế) cũng lưu giữ bài thuốc Lục giao tam dựng (23 vị); Gia đình ông Nguyễn Khoa Thông, thuộc dòng họ danh gia thế tộc nhiều đời (ở Vỹ Dạ, TP.Huế) cũng lưu giữ bài Ngũ giao tam dựng; Gia đình cụ Trần Thước (trước đây làm Đốc học, là một trong những người biên soạn lại Mục lục Châu bản triều Nguyễn) thuộc dòng dõi của Quan phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành, cũng lưu giữ bài thuốc Minh mạng dược tửu với 15 vị. Bài thuốc nằm trong tập bản thảo chưa xuất bản Hư tự huyết giải của cụ Trần Thước, được gia đình lưu giữ. Cho tới nay, theo lương y Phan Tấn Tô, đã có ít nhất là 25 dị bản Minh Mạng thang khác nhau được sưu tầm, phát hiện và công bố. Bùi Ngọc Long Theo: thanhnien Một tài liệu khác Ngự tửu Minh Mạng thang Rượu này trở thành một đặc sản của Việt Nam kể từ ngày Việt Nam mở cửa cho du lịch và kinh tế thị trường để góp nhặt ngoại tệ. Cái gì thuộc về vua chúa nhà Nguyễn trước bị chửi là phong kiến, áp bức thì nay được xưng tụng là di sản văn hóa, trong đó có toa thuốc của Vua Minh Mạng. Toa thuốc này truyền tụng từ lâu ở Huế, được đồn là do vài vị ngự y chép được. Trong sách Nguyễn triều cố sự ; Huyền thoại về Danh lam xứ Huế ( 1996), tác giả Bửu Kế chép ra hai bài thuốc vua Minh Mạng như sau theo tài liệu của Lương Y Tuệ Tâm: I - Nhất dạ ngũ giao 17
  17. Thành phần: 1- Nhục thung dung 12g 2- Táo nhân 8g 3- Xuyên Qui 20g 4- Cốt toái bổ 8g 5- Cam cúc hoa 12 g 6- Xuyên ngưu tất 8g 7- Nhị Hồng sâm 20g 8- Chích kỳ 8g 9- Sanh địa 12g 10 -Thạch hộc 12g 11- Xuyên khung 12g 12- Xuyêntục đoạn 8g 13- Xuyên Đỗ trọng 8g 14- Quảng bì 8g 15- Cam Kỷ tử 20g 16- Đảng sâm 10g 17- Thục địa 20g 18 - Đan sâm 12 g 19- Đại táo 10 quả 20- Đường phèn 300 g 18
  18. Cách ngâm: Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục. II- Nhất dạ lục giao Thành phần: 1-Thục địa 40g 2- Đào nhân 20g 3-Sa sâm 20g 4- Bạch truật 12g 5 Vân qui 12g 6- Phòng phong 12g 7- Bạch thược 12g 8- Trần bì 12g 9-Xuyên khung 12g 10- Cam thảo 12g 11- Thục linh 12g 12- Nhục thung dung 12g 13- Tần giao 8g 14-Tục đoạn 8g 15- Mộc qua 8g 16- Kỷ tử 20g 17-Thường truật 8g 19
  19. 18-Độc hoạt 8g 19- Đỗ trọng 8g 20- Đại hồi 4g 21- Nhục quế 4g 22- Cát tâm sâm 20g 23- Cúc hoa 12g 24- Đại táo 10 quả Cách ngâm: 24 vị thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150 g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa , chiều trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai với một lít rưỡi rượu ngon- một tháng sau dùng tiếp. Chủ trị: Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng khí huyết, tăng cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương sự kém, tăng tuổi thọ. (BS Lê Văn Lân E-Mail: bslevanlan@khoahoc.net) (Bắt đầu từ đoạn này do BS Nguyễn Văn Dương viết) *Hiện nay thành phần toa thuốc Minh Mạng theo chính bản đã bị thất truyền. Theo Bác sĩ Nguyễn Văn Dương, chuyên gia y học cổ truyền thì có nhiều bài Minh Mạng thang như bài “Nhất dạ ngũ giao đại bổ tạng thận” dùng lâu ngày tai mắt sáng tỏ, bài “Yếu cốt thống dược tửu” tạo xương cốt chắc khoẻ. Tuy nhiên nổi tiếng nhất vẫn là bài “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử”: bổ thận, bổ thần kinh, khí huyết lưu thông, tăng cường sinh lực, chống phong thấp, mạnh gân cốt, tăng tuổi thọ cho người cao tuổi, chống lão hóa, yếu thận, bán thân bất toại. Thành phần Thục địa 40g Đào nhân 40g Sa sâm 30g Bạch truật 24g Đương qui 24g Phòng phong 24g 20
  20. Bạch thược 24g Trần bì 24g Xuyên khung 24g Cam thảo 24g Phục linh 24g Tần giao 16g Tục đoạn 16g Mộc hoa 16g Kỳ tử 16g Thương truật 16g Độc hoạt 16g Khương hoạt 16g Bắc đỗ trọng 16g Đại hồi 12g Nhục quế 12g Đại táo 30g Đường phèn 3 lạng Sử dụng: Tất cả được ngâm trong rượu nếp ngon 450ml dùng uống mỗi ngày 4 lần, mỗi lần một ly nhỏ (30ml), tối trước khi đi ngủ uống thêm một ly nhỏ nữa. Rượu thuốc Minh Mạng có tên là Đại bổ Dược tửu dùng cho người bị liệt dương, dương sự bất động, uống liên tục đều đặn hàng tháng mới có tác dụng. có thể gia thêm thục địa 3 lạng, cam kỷ tử 1 lạng, nhân sâm 5 chỉ./. 21
  21. CHƯƠNG 12 VẤN ĐỀ 3 : BÀI THUỐC TRƯỜNG THỌ QUÝ CHÂU Tại Quý Châu, phía nam Trung quốc có một làng mười mấy hộ nông dân mấy đời trường thọ. Cô ký giả họ Bành đến Quý Châu công tác đã phỏng vấn một hộ có người cha 130 tuổi, người mẹ 120 tuổi, trưởng nam 90, thứ nam 80 tuổi. Cô Bành hỏi ông cụ có bí quyết gì mà dân làng lại có tuổi thọ cao thế. Ông cụ nói rằng : "Tôi đã già rồi, không biết còn sống bao lâu nữa. Nay tôi để lại bài thuốc là bí quyết trường thọ của tôi cho mọi người sau này cùng hưởng thọ". Cô Bành gửi bài thuốc về Hồng Kông cho mẹ. sau khi uống theo bài thuốc hai tháng, mẹ cô Bành đã hết bệnh suyễn, răng chắc lại. Cô Bành phát nguyện đem bài thuốc phổ biến cho mọi người cùng uống. Bài thuốc trị các chứng bệnh : Di tinh, mộng tinh, hoạt tinh, mất ngủ, đau lưng, đau khớp xương, kinh nguyệt không đều, điều trị sau bệnh, tóc bạc chuyển đen, biếng ăn, người có bệnh trị bệnh, người khoẻ mạnh uống tăng tuổi thọ, nam nữ già trẻ gì đều uống được (nhưng phụ nữ có thai không nên dùng) BÀI THUỐC GỒM : 1. Đỗ trọng (3 chỉ) 2. Thục địa (3 chỉ) 3. Xuyên khung (1 chỉ) 4. Tiền hồ (3 chỉ) 5. Khương hoạt (2 chỉ) 6. Phục Linh (3 chỉ) 7. Trần bì (2 chỉ) 8. Sa sâm (5 chỉ) 22
  22. 9. Đại cáo (6 viên) 10. Ngọc trúc (2 chỉ) 11. Mộc qua (2 chỉ) 12. Cam thảo (2 chỉ) 13. Ngưu tất (3 chỉ) 14. Phòng phong (2 chỉ) 15. Bạch thượt (2 chỉ) 16. Táo nhân (5 chỉ) 17. Linh tiên (5 chỉ) 18. Thục đoan (2 chỉ) 19. Nhục quế (3 chỉ) 20. Cầu kỳ tử (5 chỉ) 21. Đại hồi (3 chỉ) 22. Tân giao (2 chỉ) 23. đường phèn. Tất cả có 23 vị thuốc ngâm trong 3 lít rượu đế 60 độ trong thời gian hai tháng. Sau đó có thể đem dùng hàng ngày, mỗi ngày uống một lần, mỗi lần 5 c.c (1 chung) sau bữa ăn. 23
  23. CHƯƠNG 12 VẤN ĐỀ 4 : BÀI THUỐC BÁT TIÊN TRƯỜNG THỌ Bài thuốc tuy chỉ có 8 vị, mà các danh y xưa đã có sự chọn lựa, phối hợp hoàn thiện để tăng cường tối đa tác dụng bổ thận âm nhằm kéo dài tuổi thọ cho cơ thể. Lịch sử y học cả đông và Tây y từ ngàn xưa đều cố tìm những bài thuốc uống vào để con người được trường sinh bất tử. Tuy nhiên, chẳng có ai tìm ra được bài thuốc đó cả, và khoa học ngày nay đã chứng minh ước muốn đó là viễn tưởng. Trong quá trình tìm kiếm ấy, nền y học cổ truyền (YHCT) đã phát hiện ra một bài thuốc có tác dụng thần diệu như thuốc tiên để kéo dài tuổi thọ. Bài thuốc này được các danh y Trung Quốc tìm ra cách đây gần 1.900 năm và được đặt tên là “Bát tiên trường thọ”. Tương truyền, vua Vũ Đế thời nhà Hán (Trung Quốc) muốn bất tử nên đã sai các bậc lương y nổi tiếng thời ấy chế ra các thuốc đan sa để uống. Do uống nhiều thuốc quá, chẳng những không thành tiên để hưởng sự bất tử, mà nhà vua còn mắc thêm chứng bệnh bị sốt, khát nước, đi tiểu nhiều lần làm sức khỏe suy sụp. Trương Trọng Cảnh (tên hiệu là Tràng Sa), là một lương y nổi tiếng của Trung Quốc thời bấy giờ, đã chế ra phương thuốc “Bát vị” sắc cho nhà vua uống mà sức khỏe của vua hồi phục. Về sau qua ứng dụng trên lâm sàng, các ông như Trương Trọng Cảnh, Tiền Ất và các bậc lương y nổi tiếng khác tiếp tục gia giảm, biến hóa thành “Bát tiên trường thọ” và được lưu giữ, ứng dụng cho đến ngày nay. Đối với cuộc đời của từng con người, do lao động nặng nhọc, bệnh tật, do kinh nguyệt, thai, sản ở nữ giới, nên phần tinh, huyết bị hao tán quá mức. Hậu quả là phần âm, huyết bị giảm sút làm cho âm dương bị thiên lệch mà sinh ra bệnh tật, tuổi thọ bị giảm sút. Các bậc danh y xưa đều khẳng định muốn không bị bệnh tật, muốn kéo dài tuổi thọ thì cần phải thường xuyên bổ phần âm. Mà bổ phần âm chính là bổ dưỡng cho thận âm, bởi vì thận âm đại diện cho phần âm trong cơ thể. Cũng theo lý luận YHCT, vì lục phủ, ngũ tạng của con người có quan hệ mật thiết với nhau, nên để bổ thận âm, ngoài việc sử dụng các vị thuốc tác dụng trực tiếp vào tạng thận, còn phải tác động vào các tạng phủ khác nữa. Cụ thể là để bổ thận âm, thì cũng phải bổ phế âm (vì theo quy luật ngũ hành: phế kim sinh thận thủy), phải kiện tỳ (vì tỳ vị có chức năng vận hóa chất dinh dưỡng từ thức ăn, uống thành tinh, huyết để nuôi dưỡng cơ thể và tàng trữ về thận), phải thanh hỏa ở tạng tâm, 24
  24. tạng can (vì hỏa ở hai tạng này nếu mạnh quá sẽ thiêu đốt phần âm, làm cho âm, huyết càng giảm sút thêm), phải trừ nhiệt ở hạ tiêu vì nhiệt tích ở đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thận thủy. Vậy bài thuốc “Bát tiên trường thọ” tác dụng đến các tạng phủ của cơ thể như thế nào mà có tác dụng kéo dài tuổi thọ thần diệu như vậy? 1- Thục địa 16g, tác dụng trực tiếp vào thận để bổ thận âm, bổ tinh, sinh huyết. 2-Sơn thù 8g, tác dụng bổ liễn âm, giữ tinh, ích khí, đuổi phong tà, phối hợp để làm tăng tác dụng bổ thận âm của vị thục địa. 3-Hoài sơn 8g, tác dụng vừa bổ thận vừa kiện tỳ, phối hợp với phục linh giúp cho tỳ vị tăng cường khả năng vận hóa chất dinh dưỡng từ thức ăn, uống để nuôi cơ thể và biến thành tinh, huyết đưa về tàng trữ tại thận. 4-Phục linh 6g vừa phối hợp với hoài sơn để kiện tỳ vị, vừa thanh trừ thấp nhiệt ở hạ tiêu làm cho thận âm khỏi bị hao tán. 5-Đơn bì 6g tác dụng thanh trừ nhiệt ở tạng can, tạng tâm, vì hai tạng này là nguồn gốc phát sinh ra hỏa nhiệt làm tổn thương phần âm của tạng thận. 6-Trạch tả 6g tác dụng lợi tiểu để trừ thấp nhiệt ở hạ tiêu, nhằm đưa dương khí bốc lên làm thính tai, mắt. 7-Mạch môn 8g tác dụng bổ phế âm, tức là gián tiếp để bổ thận âm, vừa có tác dụng thanh nhiệt ở tạng tâm. 8-Ngũ vị tử 4g tác dụng bổ thận, dưỡng tâm huyết, sinh tân dịch. Cách dùng: Sắc uống dạng thuốc thang: Mỗi ngày sắc uống 1 thang. Cách sắc: Lần đầu đổ 3 chén nước sắc còn 1 chén. Lần hai đổ 2 chén nước sắc còn 8/10 chén. Bỏ bã, cô nước đầu và nước 2 thành 1 chén, để nguội, chia 2 lần uống trước khi ăn cơm khoảng 30 phút. Có thể dùng bài thuốc trên chế thành tễ hoặc hoàn (nhưng phải bảo đảm tỷ lệ giữa các vị thuốc) để sử dụng. Mỗi ngày uống từ 30-50g. Tuy nhiên, một cơ thể khi đã lão suy, đều có những triệu chứng riêng rất khác nhau. Ví dụ có người thì bị tai điếc, mờ mắt, người thì đau lưng, đi tiểu nhiều lần, người thì ăn kém, sôi bụng, phù thũng Vì vậy, tùy triệu chứng của mỗi người mà gia giảm bài “Bát tiên trường thọ” cho thích hợp, thì hiệu quả mang lại càng lớn. 25
  25. Sau đây là một số trường hợp gia giảm bài thuốc theo các chứng trạng của mỗi bệnh nhân. - Nếu người cao tuổi có da trắng, hay sợ lạnh, đại tiện lỏng, đi tiểu nhiều lần, mạch hữu xích trầm nhược (do thận âm, dương lưỡng hư) thêm phụ tử chế 2g, nhục quế 2g, phá cố chỉ 6g, ích trí nhân 6g. - Nếu người gầy đen, sốt từng cơn, sốt về chiều (do thận hư kèm cảm nhiễm ngoại tà) thêm sài hồ 6g, bạch thược 6g, sinh địa 10g, đương quy 10g. - Người già đau lưng, mỏi gối, ù tai gia đỗ trọng 12g, ngưu tất 10g, cốt toái bổ 12g. - Phụ nữ người gầy đen, trong người nóng bức, kinh ít hoặc mất kinh nguyệt, hay bị lở miệng, khô cổ gia quy thân 12g, bạch thược 10g, nhục quế 2g. - Người già tiểu tiện ít thông, chân tay phù thũng, bụng trướng, thở khó, có nhiều đàm (do thận dương, tỳ dương hư) gia phụ tử chế 3g, nhục quế 3g, sa tiền tử 12g, ngưu tất 12g, bội phục linh, hoài sơn lên 12-18g. - Người già cơ thể gầy gò, bị táo bón, mạch tả xích trầm nhược (do thận âm hư, tinh huyết ở đại trường khô kiệt) bội thục địa lên 24g, gia thêm ngưu tât 12g, nhục thung dung 12g. 26