Bài giảng Y học cổ truyền - Chương 4: Các bệnh về gan
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Y học cổ truyền - Chương 4: Các bệnh về gan", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_y_hoc_co_truyen_chuong_3_cac_benh_ve_gan.pdf
Nội dung text: Bài giảng Y học cổ truyền - Chương 4: Các bệnh về gan
- Biên soạn : Nguyễn Khắc Bảo Y HỌC CỔ TRUYỀN CHƯƠNG 3 CÁC BỆNH VỀ GAN Khởi biên : TP.HCM THÁNG 10-2012 1
- CHƯƠNG 3 CÁC BỆNH VỀ GAN - Phương tây có câu “người Việt Nam chết trên đống thuốc”. Nền y học cổ truyền dân tộc có nhiều bài thuốc rất huyền diệu, tuy nhiên nhưng phương thuốc hay này đang bị chìm dần vào quên lãng và dần dần mất đi niềm tin từ chúng ta. - Người nghèo ở Việt Nam có rất ích điều kiện chăm sóc bởi nền y học hiện đại, một khi họ mắc các bệnh hiểm nghèo thì chỉ có thể chờ chết, hoặc nếu có điều kiện thì đôi khi tây y cũng bó tay với nhiều trường hợp. - Với mục đích sưu tầm các bài thuốc hay dân gian để điều trị hầu hết các loại bệnh, cũng như cung cấp những bài thuốc cổ truyền hay cho những ai thật sự đang rất cần và tin tưởng vào nó, một cứu cánh cho người nghèo mắc bệnh Người dùng trước khi sự dụng các bài thuốc này cần nghiên cứu thật kỉ các thông tin trong sách này, những vấn đề còn thắc mắc thì nên hỏi thầy thuốc đông y để tránh những việc đáng tiếc. Mọi thắc mắc xin liên lạc tác giả qua. Email : nkbao80@gmail.com Lời tác giả 2
- MỤC LỤC CHƯƠNG 3 2 VẤN ĐỀ 1 : VIÊM GAN MẠN 4 1. Cây chó đẻ răng cưa 8 2. Một số bài thuốc từ lương y Trần Hoàng Bảo 10 VẤN ĐỀ 2 : XƠ GAN 13 1.Theo y hoc cổ truyền 17 2. Theo lương y Trần Hoàng Bảo 18 3.Theo bài giảng của ĐHYD Hà Nội 19 VẤN ĐỀ 3 : BỆNH CỔ TRƯỚNG 24 VẤN ĐỀ 4 : GAN NHIỄM MỞ 35 Lương y Trần Hoàng Bảo có đề cập về một bài thuốc gan nhiễm mở như sau 35 VẤN ĐỀ 5 : UNG THƯ GAN 38 1. Toa thuốc trị dứt bệnh ung thư gan . 38 2. Một số bài thuốc từ lương y Trần Hoàng Bảo. 41 3. Bạch hoa xà 43 4. Chữa viêm gan vàng da .43 VẤN ĐỀ 6 : XƠ GAN 44 VẤN ĐỀ 7 : TRỊ CÁC CHỨNG PHÙ THỦNG DO GAN MẬT 49 VẤN ĐỀ 8 : PHƯƠNG PHÁP OHSAWA LỌC GAN 54 VẤN ĐỀ 9 : BÀI THUỐC HAY TRỊ GAN HIỆU NGHIỆM 55 VẤN ĐỀ 10 : XÃ VÀ ĐU ĐỦ TRỊ HIỆU NGHIỆM UNG THƯ GAN VÀ NHIỀU LOẠI UNG THƯ KHÁC 58 Giải pháp tối ưu là đu đủ và lá xả .58 3
- CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ 1 : VIÊM GAN MẠN Viêm gan mạn là một trong những hình thái bệnh lý thường gặp ở gan do nhiều nguyên nhân gây ra với biểu hiện viêm và hoại tử ở gan kéo dài ít nhất 6 tháng. Viêm gan mạn thường là hậu quả của viêm gan cấp, tuy nhiên ở nhiều trýờng hợp bệnh tiến triển âm thầm và chỉ thể hiện ở giai đoạn mạn tính mà thôi . Tiến triển của viêm gan mạn có thể khỏi nhýng những trường hợp nặng thường dẫn tới xơ gan và ung thư tế bào gan ( đặc biệt là viêm gan mạn hoạt động do các virut viêm gan B, C ). Nguyên nhân gây ra viêm gan mạn có nhiều nhưng 3 loại chính được công nhận là : viêm gan mạn do virut, viêm gan mạn do thuốc và viêm gan mạn do tự miễn. Phân loại viêm gan mạn 1. Phân loại theo nguyên nhân: - Viêm gan mạn do virut : Một số đặc điểm lâm sàng, đặc biệt là huyết thanh học cho phép chẩn đoán viêm gan do virut B, C và B + D ( không loại trừ còn có virut khác nữa ). - Viêm gan mạn tự miễn : Dựa vào chẩn đoán huyết thanh, ngýời ta phân ra các typ 1,2,3. - Viêm gan mạn do thuốc. - Viêm gan mạn không rõ nguyên nhân hay viêm gan mạn có nguồn gốc ẩn. 2. Phân loại viêm gan mạn ứng dụng trong thực hành lâm sàng : Căn cứ vào tổn thương mô học và tiến triển của bệnh, ngýời ta chia viêm gan mạn ra các loại sau ( từ nhẹ đến nặng ) : Viêm gan mạn tồn tại, viêm gan mạn tiểu thùy và viêm gan mạn hoạt động. a. Viêm gan mạn tồn tại ( chronic persistent hepatitis ): 4
- Thâm nhiễm tế bào viêm chỉ khu trú trong khoảng cửa, không xâm lấn vào tiểu thùy gan. Không có hoại tử mối gặm hoặc hoại tử cầu nối, nhýng có thể có xõ hoá nhẹ quanh khoảng cửa. Hình ảnh tái tạo các tế bào gan là thýờng thấy. - Biểu hiện lâm sàng của viêm gan mạn tồn tại : Rất mờ nhạt, ít triệu chứng và triệu chứng thýờng nhẹ ( mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn ). Thể trạng bệnh nhân viêm gan mạn tồn tại hầu nhý bình thýờng. Khám chỉ thấy gan to mà ít thấy các triệu chứng của viêm gan mạn khác. Men transaminase tăng nhẹ. - Tiến triển của viêm gan mạn tồn tại : thýờng diễn biến chậm, giảm dần và có thể khỏi. ít khi viêm gan mạn tồn tại tiến triển nặng lên thành viêm gan mạn hoạt động hoặc xơ gan ( ngoại trừ viêm gan mạn do virut viêm gan ). b. Viêm gan mạn tiểu thùy ( chronic lobular hepatitis ) Cũng có thể nói viêm gan mạn tiểu thùy là một dạng của viêm gan mạn tồn tại. Trýớc đây các tác giả chỉ phân chia viêm gan mạn làm 2 thể ( viêm gan mạn tồn tại và viêm gan mạn tấn công ), có nghĩa là viêm gan mạn tiểu thùy xếp vào viêm gạn mạn tồn tại. - Về tổn thýõng mô học : ngoài thâm nhiễm viêm ở khoảng cửa còn thấy viêm lan cả vào trong tiểu thùy gan. Trong tiểu thùy gan, có thể thấy ổ hoại tử gần nhý viêm gan cấp mức độ nhẹ. Giới hạn các tiểu thùy còn nguyên vẹn. Có thể có xõ hoá nhẹ quanh khoảng cửa. - Về lâm sàng : viêm gạn mạn tiểu thùy biểu hiện các triệu chứng rõ hõn viêm gan mạn tồn tại, đôi khi có đợt bột phát giống nhý viêm gan cấp. Men transaminase tăng vừa. - Tiến triển của viêm gan mạn tiểu thùy : giống nhý viêm gan mạn tồn tại, tức là chuyển thành viêm gạn mạn hoạt động và xơ gan là hiếm ( trừ do nguyên nhân virut ) c. Viêm gan mạn hoạt động ( chronic active hepatitis ) Đặc điểm tổn thýõng mô học của viêm gan mạn hoạt động là sự thâm nhiễm dày đặc của các tế bào đõn nhân ở khoảng cửa và xâm lấn vào tiểu thùy gan ( ở viêm gan mạn do tự miễn có nhiều plasmocyt xâm nhập ). Hoại tử mối gặm và hoại tử cầu nối là hiện týợng tái tạo các đám tế bào tạo nên các tiểu thùy giả hoặc đảo lộn tiểu thùy khi tổ chức xõ phát triển mạnh. Về tiêu chuẩn mô học của viêm gan mạn hoạt động ít nhất phải có là hoại tử mối gặm. Hoại tử cầu nối có thể thấy ở viêm gan cấp nhýng ở viêm gan mạn hoạt động có 5
- hoại tử cầu nối là biểu hiện tiến triển đến xơ gan bởi vì những vùng hoại tử cầu nối sẽ phát triển thành cầu xõ chia cắt các tiểu thùy gan hình thành các cục tân tạo ( nodules ) và phát triển tới xơ gan. II. Viêm gan mạn do virut Hầu nhý chỉ có virut viêm gan B, C và D mới gây viêm gan mạn 1.Viêm gan mạn B Khả năng xuất hiện viêm gạn mạn B sau khi nhiễm virut viêm gan B thay đổi theo lứa tuổi. Trẻ nhiễm virut viêm gan B sau đẻ thýờng không có biểu hiện triệu chứng nhýng 90% sẽ trở thành ngýời mang virut mạn tính. Trẻ lớn và những ngýời lớn khi nhiễm virut viêm gan B lại thýờng có biểu hiện lâm sàng rõ rệt của viêm gan cấp nhýng nguy cõ thành mạn chỉ khoảng 1%. Tuy vậy, viêm gan mạn B có thể xuất hiện ở bệnh nhân chýa có viêm gan B cấp. - Mức độ của viêm gan mạn B : rât khác nhau từ nhẹ đến nặng. Đánh giá mức độ của viêm gan mạn B ngýời ta cũng căn cứ vào mô bệnh học, nhýng quan trọng hõn là dựa vào mức độ nhân lên của virut viêm gan B ( HBV ). Trong giai đoạn nhân lên mạnh của HBV ( HBeAg + , HBV – DNA +, HBcAg+ trong tế bào gan ) thì mức độ nặng hõn. Ngýợc lại trong giai đoạn không nhân lên của HBV ( HBeAg - , anti – HBe + , HBcAg – trong tế bào gan ) thì viêm gan mạn B nhẹ hoặc chỉ là mang HBV không triệu chứng. - Tiến triển : nhiễm HBV mạn, đặc biệt là mắc từ khi sinh sẽ tăng nguy cõ dẫn đến ung thý tế bào gan. Viêm gan mạn B hoạt động thì nhiều khả năng tiến triển đến xơ gan và k tế bào gan. 2. Viêm gan mạn D ( viêm gan mạn do virut Delta ) Kể cả đồng nhiễm virut viêm gan D ( HDV ) với virut viêm gan B ( HBV ) hoặc bội nhiễm HDV trên bệnh nhân HBV đều có thể dẫn tới viêm gan mạn. Nhýng khi đồng nhiễm thýờng làm nặng thêm viêm gan cấp và dể thành viêm gan ác tính, bội nhiễm HDV trên ngýời mang HBsAg mạn tính làm tăng khả năng tiến triển thành viêm gan mạn. - Biểu hiện lâm sàng của viêm gan mạn D hay viêm gan mạn B không phân biệt đýợc hay nói khác đi là viêm gan mạn D cũng có biểu hiện lâm sàng nhý viêm gan mạn B. 6
- - Đặc điểm huyết thanh học của viêm gan mạn D là có sự hiện diện của kháng thể anti – LKM ( Liver Kidney Microsomes – kháng thể kháng Microsome của gan, thận ) lýu hành trong máu. ở bệnh nhân viêm gan mạn D có anti – LKM-3, khác với anti – LKM-1 có ở bệnh nhân viêm gan mạn tự miễn và viêm gan mạn C. 3. Viêm gan mạn C Là viêm gan mạn tiến triển thầm lặng, nhiều trýờng hợp không hề có triệu chứng và ngay cả men Transaminase cũng bình thýờng. Chẩn đoán những trýờng hợp này chủ yếu dựa vào sinh thiết gan. - Biểu hiện lâm sàng : viêm gan mạn C cũng giống nhý viêm gan mạn B nhýng nói chung triệu chứng mờ nhạt hõn, hiếm gặp vàng da, tổn thýờng ngoài gan ít hõn, men Transaminase dao động và thấp hõn. Triệu chứng thýờng thấy là mệt mỏi, xét nghiệm huyết thanh học một số trýờng hợp có thể thấy sự có mặt của kháng thể anti – LKM-1 nhý ở bệnh nhân viêm gan tự miễn Typ 2. - Về tiến triển : Có 50 – 70% số ca viêm gan mạn C tiến triển sau viêm gan C cấp, tiến triển tới xơ gan sau 10 năm là 20%. Khoảng 50% bệnh nhân viêm gan mạn C sẽ thành xơ gan kể cả những bệnh nhân viêm gan mạn C không có triệu chứng và không có men Transminase tăng. Nhýng đáng chú ý là những bệnh nhân nhiễm HCV – RNA với nồng độ cao và thời gian nhiễm lâu. Viêm gan mạn C tiến triển tới xơ gan và ung thý tế bào gan nhýng thýờng là rất chậm sau vài năm. III. Viêm gan mạn tự miễn - Là viêm gan mạn tiến triển do tự miễn có đặc điểm tiến triển liên tục tới xơ gan và suy gan, tỷ lệ tử vong cao tới 40% sau 6 tháng nếu không đýợc điều trị - Về biểu hiện lâm sàng : khởi phát có thể âm thầm hoặc đột ngột ở những phụ nữ trẻ tuổi hoặc trung niên. Những triệu chứng của viêm gan týõng tự nhý viêm gan mạn do virut nhýng thýờng thấy những biểu hiện tổn thýõng ngoài gan nặng nề hõn nhý : đau khớp, cýờng lách, viêm động, tĩnh mạch, viêm cầu thận, rối loạn đông máu - Những trýờng hợp nặng thýờng dẫn tới xơ gan, suy gan và hôn mê gan. Xơ gan và ung thý gan là những triệu chứng muộn của viêm gan mạn tự miễn - Xét nghiệm máu ngoài men Transaminase và bilirubin tăng còn tháy Globulin tăng. Kháng thể kháng nhân ( ANA ) và kháng thể cõ trõn thýờng thấy nhýng ít đặc hiệu. 7
- Viêm gan mạn tự miễn đýợc chia làm 3 Typ : * Viêm gan mạn tự miễn typ 1 : Globulin máu cao, ANA ( + ) , hay gặp ở phụ nữ trẻ * Viêm gan mạn tự miễn typ 2 : ANA ( - ) nhýng anti – LKM ( + ) giống nhý viêm gan mạn C. * Typ 2a : có anti – LKM 1 cao và đáp ứng với điều trị cocticoid ( thýờng gặp ở phụ nữ trẻ Tây Âu. * Typ 2b : là viêm gan mạn tự miễn kết hợp với viêm gan mạn C có Globulin máu bình thýờng, anti – LKM 1 thấp đáp ứng või điều trị Interferon (thýờng ở ngýời lớn tuổi vùng Địa Trung Hải ) * Viêm gan mạn tự miễn typ 3 : không có ANA và anti – LKM 1 nhýng có kháng thể với kháng nguyên gan hoà tan ( đa số là nữ ). - Về tiến triển : những bệnh nhân ở mức độ vừa và nhẹ, tổn thýõng mô học ở mức hạn chế ( chỉ có hoại tử mối gặm, chýa có hoại tử cầu nối ) thì tiến triển đến xơ gan là hạn chế. Trong viêm gan mạn tự miễn nặng, men gan Aminotransferase tăng > 10 lần, Globulin máu cao, Marker cao, tổn thýõng mô học nặng ( hoại tử cầu nối hoặc tổn thýõng đa tiểu thùy), tiến triển đến suy gan và tử vong tới 40% trong vòng 6 tháng nếu không đýợc điều trị. Những trýờng hợp khác có thể có biến chứng muộn : xơ gan và ung thý gan. IV.Viêm gan mạn do thuốc và nhiễm độc ĐIỀU TRỊ 1. Cây chó đẻ răng cưa có tên khoa học là Phyllanthus urinaria L., Họ Thầu dầu – Euphorbiaceae hay nhiều người gọi cây chó đẻ răng cưa là Chó đẻ thân xanh; Diệp hạ châu trắng. Hình ảnh cây chó đẻ (Diệp hạ châu) 8
- Đặc điểm thực vật, phân bố của cây chó đẻ răng cưa: Cây chó đẻ răng cưa là cây thảo, cao 40cm, lá mỏng màu lục, mốc mặt dưới, mọc so le như một lá kép với nhiều lá chét. Hoa đơn, xanh nhạt, nhỏ. Quả nang hình cầu, đường kính khoảng 2mm, mọc thành hàng dọc cành nên có tên “Diệp hạ châu”, mọc dưới lá, mỗi quả có 3 mảnh vỏ, trong mỗi mảnh chứa 2 hạt nhỏ hình tam giác. Chó đẻ răng cưa mọc hoang dại khắp nơi trong các vùng, ven bờ ruộng, nương rẫy, chưa được gieo trồng. Bộ phận dùng, thu hái, chế biến của cây chó đẻ răng cưa: Dùng toàn cây chó đẻ răng cưa, thu hái vào mùa hè, lúc quả xanh chắc, rửa sạch, dùng tươi giã nát vắt lấy nước cốt để uống, bã đắp vết thương hoặc phơi trong râm cho khô để dùng dần. Công dụng, chủ trị cây chó đẻ răng cưa: Vị đắng, ngọt, mát, có tác dụng sát trùng, tiêu viêm mụn nhọt, vết sưng do côn trùng đốt; lợi tiểu tiện, bảo vệ gan, điều hòa kinh nguyệt, lợi sữa, chữa ỉa chảy, viêm ruột. Liều dùng cây chó đẻ răng cưa: Dạng tươi 40 – 80g/ lần, dùng nhiều ngày đến khi khỏi hẳn bệnh mà không sợ bị độc. 9
- Dùng khô 40g, sắc uống ngày 3 lần. Bài thuốc có cây chó đẻ răng cưa: Chữa viêm gan cấp hoặc mãn mức độ vừa và nhẹ, xét nghiệm HbsAg (+): cây chó đẻ răng cưa 40g, chua ngút 15g, cỏ nhọ nồi 15g, nước 3 bát (600ml) sắc lấy 1 bát (200ml), chia làm 3 lần uống trong ngày, điều trị nhiều đợt đến khi khỏi bệnh. Chữa xơ gan cổ trướng thể nặng: cây chó đẻ răng cưa đắng sao khô 100g sắc nước 3 lần. Trộn chung nước sắc, thêm 150g đường, đun sôi cho tan đường, chia nhiều lần uống trong ngày (thuốc rất đắng), liệu trình 30-40 ngày. Khẩu phần hàng ngày phải hạn chế muối, tăng đạm (thịt, cá, trứng, đậu phụ). Thị trường đang lưu hành thuốc Liv – 94 là chế phẩm từ bài thuốc trên, phù hợp với điều kiện Việt Nam, có thể nghiên cứu ứng dụng tại tuyến cơ sở. Người bệnh quan tâm có thể tìm đọc cách chữa bênh thoát vị hiệu quả từ thuốc nam lành tính. 2. Một số bài thuốc từ lương y Trần Hoàng Bảo +Phương 1 : Cam lộ tiêu độc đơn - Thành phần: Bạch khấu 9g, Thạch xương bồ 9g, Bạc hà 9g, Hoắc hương 12g, Hoàng cầm 12g, Xạ can 12g, Liên kiều 12g, Nhân trần 30g, Hoạt thạch 30g, Mộc thông 10g, Xuyên bối mẩu 10g. - Cách dùng : Sắc uống, 1 ngày 1 thang, phân 2 lần uống. - Chứng thích ứng: Viêm gan vàng da. - Hiệu quả điều trị: Phương này điều trị 182 ca, hiệu quả điều trị tốt. + Phương 2 : Kim Nhân Lục Nhất Tán - Thành phần: Kim tiền thảo 10~20g, Nhân trần 30~60g, Hoạt thạch 20~30g, Cam thảo 5 ~ 10g, Chỉ xác 3~6g. - Cách dùng: Sắc uống, 1 ngày 1 thang, phân 3 lần uống. Thấp nhiệt nặng gia Hoàng bá; Táo bón gia Đại hoàng; Thực trệ gia Sơn tra, La bặc tử. - Chứng thích ứng: Trẻ con viêm gan cấp vàng da. - Hiệu quả điều trị: Phương này điều trị 100 ca, đều điều trị khỏi. (Triệu chứng lâm sàng tiêu mất, công năng gan khôi phục bình thường).Liệu trình điều trị ngắn nhất 10 ngày, dài nhất 16 ngày. + Phương 3: 10
- - Chủ trị: Viêm gan truyền nhiễm cấp tính - Thành phần: Linh chi 10g, Nhân trần 30g. - Cách dùng: Sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang, uống liền 10 ~ 15 ngày. + Phương 4: - Chủ trị: Hòang đản. - Thành phần: Bạch hoa xà thiệt thảo 60g, Bạch mao căn 30g. - Cách dùng: Sắc nước, phân 2 lần uống, mỗi ngày 1 thang. + Phương 5 : - Thành phần: Đảng sâm 20~30g; Hoàng kỳ, Đan sâm, Ngũ vị tử, Câu kỉ tử, Phục linh mỗi vị 15g, Cam thảo 6g, Xuyên khung 10g, Đương qui 10~15g. - Gia giảm: Nếu người vùng gan đau nhức, gia thêm Huyền hồ sách, Viễn chí mỗi vị 10~15g, nếu người bị bụng nước gia Trư linh 20g, Trạch tả 15g. - Cách dùng: Mỗi ngày 1 thang, phân 2 lần uống, mỗi tuần uống liên tục 5 thang, ngừng 2 ngày. 8 tuần là 1 liệu trình. - Chứng thích ứng: Viêm gan B mạn tính. - Hiệu quả điều trị: Dùng thuốc trên điều trị bệnh nhân viêm gan B mạn tính 71 ca, trong đó cơ bản trị khỏi 41 ca, hiệu quả rõ 14 ca, hữu hiệu 10 ca, vô hiệu 6 ca. So sánh với nhóm đối chiếu Tây dược có khác biệt rõ rệt (P< 0,5). Hiệu quả trị liệu tốt hơn đối với nhóm đối chiếu Tây dược. + Phương 6: Kiện Tỳ Sơ Can Ẩm - Thành phần: Thương truật 9g, Bạch truật 9g, Quế chi 3g, Phục linh 9g, Hậu phác 6g, Uất kim 6g, Mộc qua 6g; Cốc, Mạch nha đều 12g, Bán hạ 9g, Cam thảo 3g, Thanh bì 6g,Trần bì 6g. - Công năng: Kiện Tỳ táo thấp, sơ can lý khí. - Cách dùng: Sắc uống, mỗi ngày 1 thang. - Chủ trị: Viêm gan mạn tính, xơ gan (thời kỳ đầu). - Gia giảm: *Hoàng đản gia Nhân trần 30g, Chi tử 12g. *Sườn phải chướng đau gia Khương hoàng 5g, Bạch thược 9g. *Tiểu ít gia Trư linh, Phục linh đều 15g, phòng ngừa viêm gan tái phát, mỗi tháng uống 7 thang hoặc chế viên hoàn thường uống. + Phương 7: Dùng riêng Bồ công anh phối ngũ với Ô mai, Đại hòang, Ngũ vị tử v.v sắc nước uống, điều trị 44 ca viêm gan B, 36 ca HBsAg chuyển âm tính, hiệu quả tốt. (Bắc Kinh Trung y dược đại học học báo, 1995, 5 : 43). + Phương 8: 11
- - Chủ trị: Viêm gan thể hoàng đản - Thành phần: Nhân trần 30g, Chi tử 9g, Hổ trượng 20g, Bạch mao căn 30g. - Cách dùng: Sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang. (Lương y Trần Hoàng Bảo) 12
- CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ 2 : XƠ GAN Xơ gan : 13
- Bệnh gan do rượu và xơ gan : Xơ gan sau khi nhiễm virus (xơ gan sau hoại tử) Xơ gan do tim 14
- Xơ gan do mật nguyên phát Xơ gan do wilson Hemochromatosis Porphyria cutanea tarda (PCT) 16
- 1.Theo y hoc cổ truyền 17
- 2. Theo lương y Trần Hoàng Bảo + Phương 1: - Thành phần: Hoàng kỳ, Đảng sâm, Sơn dược mỗi vị 30 ~60g; Toàn đương qui, Thục địa, Phục linh mỗi vị 20 ~ 25g; Bạch truật, Nhân trần mỗi vị 15~20g; Miết giáp, Địa miết trùng mỗi vị 10~ 15g; Hoàng tinh, Trần bì mỗi vị 8 ~ 12g. - Cách dùng: Thuốc trên sau khi sắc 3 lần, hợp các dịch thuốc lại, phân 2~3 lần uống, mỗi ngày 1 thang, 1 tháng là 1 liệu trình. - Chứng thích ứng: Xơ gan. - Hiệu quả điều trị: Dùng phương này điều trị bệnh nhân xơ gan 121 ca, sau khi uống 1~5 liệu trình, trong đó trị khỏi 89 ca, hiệu quả rõ 25 ca, hữu hiệu 3 ca, vô hiệu 4 ca. + Phương 2: - Thành phần: Tiên bạch mao căn 100~150g, Hoàng kỳ 40~50g; Trạch tả, Đại phúc bì, Phục linh, Bạch truật mỗi vị 25~30g; Sa sâm, Ích trí nhân, Kê nội kim, Lô căn, Sinh cam thảo mỗi vị 10~15g. - Cách dùng: Mỗi ngày 1 thang, phân 2 ~ 3 lần uống, 1 tháng là 1 liệu trình. - Chứng thích ứng: Xơ gan. - Hiệu quả điều trị: Dùng phương này điều trị bệnh nhân xơ gan 55 ca, sau khi uống 2~4 liệu trình, trong đó trị khỏi 34 ca, hiệu quả rõ 10 ca, hữu hiệu 6 ca, vô hiệu 5 ca. + Phương 3: - Thành phần: Đảng sâm, Hoàng kỳ, Phục linh, Ý dĩ nhân, Hoài sơn dược, Đan sâm mỗi vị 30g; Ích mẩu thảo 50g; Kim ngân hoa, Liên kiều mỗi vị 20g; Sài hồ, Thanh bì, Hoàng cầm, Bạch truật, Trạch tả, Xích thược, Xuyên hậu phác, Miết giáp mỗi vị 15g, Sinh cam thảo 10g. - Cách dùng: Mỗi ngày 1 thang, sắc phân 3 lần uống. - Chứng thích ứng: Xơ gan bụng nước (Can ngạnh hóa phúc thủy) - Hiệu quả trị liệu: Dùng phương này điều trị bệnh nhân xơ gan bụng nước 66 ca, trong đó trị khỏi 49 ca, hiệu quả rõ 10 ca, hữu hiệu 3 ca, vô hiệu 4 ca. + Phương 4: - Thành phần: Đảng sâm, Hoàng kỳ, Xa tiền tử, Đình lịch tử mỗi vị 30 ~40g; Tam lăng, Nga truật, Đan sâm, Đại phúc bì, Tiêu sơn tra mỗi vị 20 ~30g; Bạch thược, Toàn đương qui, Uất kim, Phục linh mỗi vị 15 ~20g; Hoa tiêu, Sinh cam thảo mỗi vị 6~10g; Hổ trượng, Bạch hoa xà thiệt thảo mỗi vị 25g ~35g. - Cách dùng: Thuốc trên sắc uống, mỗi ngày 1 thang, phân 2 ~3 lần uống, 1 tháng là 1 liệu trình. - Chứng thích ứng: Xơ gan bụng nước. 18
- - Hiệu quả trị liệu: Dùng phương này điều trị bệnh nhân xơ gan bụng nước 89 ca, sau khi dùng thuốc 1~3 liệu trình, trong đó trị khỏi 55 ca, hiệu quả rõ 12 ca, hữu hiệu 15 ca, vô hiệu 7 ca. + Phương 5: Thương truật Bạch truật trị xơ gan bụng nước. - Thành phần: Thương truật, Bạch truật mỗi vị 10g; Thanh bì, Trần bì mỗi vị 9g; Hậu phác 9g, Chỉ thực 9g, Hương phụ 6g, Đinh hương 6g, Sa nhân 10g, Phục linh 10g, Phúc bì 15g, Trư linh 15g, Trạch tả 15g, Đăng tâm 6g, Sanh khương 3 lát. - Cách dùng: Sắc nước uống. - Công hiệu: Chủ trị Xơ gan bụng nước (Can ngạnh hóa phúc thủy) + Phương 6: Kiện Tỳ phân tiêu thang trị xơ gan bụng nước. - Thành phần: Hoàng kỳ, Sơn dược, Đan sâm mỗi vị 20g; Ý dĩ nhân, Xa tiền tử, Đại phúc bì mỗi vị 30g; Đảng sâm, Phục linh, Bạch truật, Tiên linh tỳ, Miết cốt mỗi vị 15g; Trạch tả, Uất kim, Thanh bì, Trần bì mỗi vị 12g; Phụ tử, Cam thảo mỗi vị 6g. - Cách dùng: Sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang, 10 ngày là 1 liệu trình. - Công hiệu: Trị Xơ gan bụng nước (Can ngạnh hóa phúc thủy) (Lương y Trần Hoàng Bảo) 3.Theo bài giảng của ĐHYD Hà Nội 19
- CHƯƠNG 3 VẤN ĐỀ 3 : BỆNH CỔ TRƯỚNG Bệnh cổ trướng thuộc vào loại “TỨ CHỨNG NAN Y” (Phong – Lao – Cồ - Nại), trước đây ai đã mắc vào một trong 4 chứng bệnh này hầu như vô phương chữa chạy, chỉ còn đợi chết. Tuy ngày nay khoa học đã chặn được chứng phong cùi và ho lao , còn chứng cồ trướng hầu như các bệnh viện đều bó tay. Bệnh cổ trướng nguyên nhân do tì vị hư, không vận hóa được các vật thực, nên nó thành nước, tích chứa trong tạng phủ, làm cho bụng căng như cái trống, hay như bọng cóc. Có rút nước ra bao nhiêu, nó lại căng lên ngay. Rất may, chúng tôi đã học được cách chữa trị bệnh này rất đơn giản do L.M. Paul A.B. khi còn là các Thầy đi giúp xứ, đã chứng kiến 1 thầy bị chứng bệnh trên được chữa lành như một ơn lạ. Chúng tôi đã áp dụng cách chữa trị đó cho 2 trường hợp sau: LM Phêrô TR.Đ. bị bệnh này, được chở tới bệnh viện St. John, Joplin, MO. Từ khi vô bệnh viện thì bụng mỗi ngày mỗi căng lớn, dù đã rút nước ra nhiều lần, rồi tới mặt và chân cũng sưng phù. Bệnh viện cho về nhà đợi chết. Tất cả những bà con thân thuộc, tới thăm từ giã lần sau hết, ai cũng nghĩ rằng Ngài chỉ còn sống thêm được vài ngày là cùng. Chúng tôi tìm được 1 ký hành đỏ, giã một nắm to, nấu sôi kỹ, gạn nước cho Ngài uống, uống được một lúc Ngài đòi đi tiểu, kể từ đó Ngài đi tiểu rất nhiều lần, cả đêm cả ngày. Sau khi uống được 2,3 lần, bụng và chân xẹp xuống bình thường. Hiện nay Ngài đã 92 tuổi mà vẫn còn tỉnh táo, không lẫn. Cách đây gần 2 năm, anh Nguyễn H. cũng mắc chứng bệnh cồ trướng, được chở tới bệnh viện cấp cứu, nhưng bệnh viện cũng bó tay, không làm được gì cho anh, nhưng lại không cho về nhà; chị H., vợ anh, gọi điện thoại xin nhà Dòng cầu nguyện, chị kể cho tôi tình trạng bệnh của anh, tôi bảo chị nấu hành ta rồi rót vào chai đem vô nhà thương cho anh uống, vì là đồ ăn không sợ công thuốc Tây. Chị cấp tốc làm theo tôi chỉ, anh cũng đi tiểu cả ngày cả đêm và được khỏi, trước sự bỡ ngỡ của mọi người, nhưng chị không dám nói ra. Theo Từ Điển Tra Cứu Đông Y Dược thì bệnh này được mô tả BỆNH HỌC: Cổ Trướng 24
- ĐẠI CƯƠNG Bình thường ở màng bụng chỉ là một khoảng trống giữa lá Tạng và lá thành. Trong trường hợp bị bệnh hoặc khi có rối loạn điều hòa động và thủy tĩnh học của cơ thể, dịch thể xuất hiện trong ổ màng bụng, gọi là Cổ Trướng. Dịch đó có thể lưu thông trong khắp ổ màng bụng, gọi là Cổ trướng tự do. Cũng có trường hợp dịch đó khu trú trong một vùng của ổ màng bụng bởi các màng dính tạo thành vách ngăn, đó là Cổ trướng ngăn cách. Thiên Phúc Trung Luận (Tố Vấn 40) viết: “Có bệnh đầy vùng Tâm phúc, ăn được buổi sáng không ăn được buổi tối, đó là bệnh gì ? Trả lời: Gọi là bệnh Cổ trướng”. Chương Thủy Khí Bệnh (Kim Quỹ Yếu Lược) viết: “Chứng Thạch thủy mạch thấy Trầm, biểu hiện ra ngoài là đầy bụng mà không suyễn. Chứng Can thủy thấy to bụng không xoay chuyển người được, dưới sườn và đau bụng. Chứng Tỳ thủy thấy to bụng, tay chân nặng nề, tân dịch không sinh ra, nhưng lại thiểu khí, tiểu tiện khó. Chứng Thận thủy thấy to bụng, vùng rốn sưng và đau lưng, không tiểu tiện được”. Sách Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận – Thủy Cổ Hậu viết: “ðây là do Thủy độc khí kết tụ ở trong khiến cho bụng to dần, có tiếng nước óc ách, muốn uống nước, da đen sạm giống như bị phù, gọi là chứng Thủy cổ”. Sách Y Môn Pháp Luật viết: “Phàm có các chứng Trưng Hà, tích khối, bỉ khối, tức là có gốc rễ của bệnh Trướng, tích lũy ngày tháng, bụng to như cái chum, gọi là chứng ðơn phúc trướng”. Sách Đan Khê Tâm Pháp viết: “Trong đục lẫn lộn, toại đạo bị ủng tắc, thấp và nhiệt cùng phát sinh sẽ thành trướng đầy”. Sách Trương Thị Y Thông viết: “Người nghiện rượu bị bệnh trướng bụng như cái đấu, đó là thấp nhiệt làm hại Tỳ. Vị tuy ăn vào được nhưng Tỳ không vận hóa, cho nên thành chứng Bỉ chướng”. Cổ trướng là một trong tứ chứng nan y: Phong (chứng kinh phong, động kinh), Lao (bệnh lao), Cổ (cổ trướng), Lại (phong cùi). Người xưa, tùy thể bệnh còn gọi các tên Thủy cổ, Trùng cổ, Tri thù cổ (có mạch sao), ðơn phúc trướng Các học giả đời sau theo nguyên nhân bệnh chia làm 4 loại: Khí cổ, 25
- Huyết cổ, Thủy cổ, Trùng cổ. Nhưng khí huyết, thủy cổ có liên quan mật thiết chứ không xuất hiện riêng lẻ mà chỉ có cái nào là chính mà thôi. Chứng cổ trướng trên lâm sàng gặp trong nhiều loại bệnh như Xơ Gan Cổ Trướng, Hội Chứng Gan Lách To, Thận Hư Nhiễm Mỡ, Lao Màng Bụng, Ung Thư Ổ Bụng. Xem thêm bài Xơ Gan. NGUYÊN NHÂN Theo Y Học Hiện đại: Trong cổ trướng tự do, dịch thâm nhập vào ổ màng bụng có thể có hai nguồn gốc: • Từ màng bụng tiết ra, do màng bụng bị nhiễm khuẩn, bị kích thích: ðó là Cổ trướng xuất tiết (biểu hiện trong xét nghiệm sinh hóa qua phản ứng Rivalta dương tính và đậm độ protein cao). Gặp trong Lao màng bụng, Ung thư màng bụng tiên phát hoặc hậu phát. • Từ các tổ chức chung quanh màng bụng thẩm thấu vào ổ bụng. ðó là Cổ trướng thẩm thấu (Biểu hiện qua Rivalta âm tính có đậm độ protein thấp). Các trường hợp bệnh lý gây ứ trệ tuần hoàn hồi quy hoặc ứ trệ hệ thống tĩnh mạch cửa và các trường hợp gây phù nề nhiều do thay đổi áp lực keo trong máu, do ứ NaCl hoặc do cường aldosteron thứ phát đều có thể gây cổ trướng thẩm thấu. Thường gặp trong Xơ Gan, Ung Thư Gan, Viêm Tắc Tĩnh Mạch Cửa, Viêm Thận Mạn, Thận Hư Nhiễm Mỡ, Suy Tim Kéo Dài, Suy Dinh Dưỡng. Theo các sách đông y, qui nạp lại có mấy nguyên nhân sau: • Rối loạn tình chí (thất tình): Sự rối loạn tình chí con người sinh chứng cổ trướng, thí dụ như hay tức giận hại can, can khí uất làm tổn thương tỳ khí (can khắc tỳ), chức năng vận hóa của tỳ rối loạn gây nên bệnh. Mặt khác, ưu tư lo lắng nhiều làm hại tỳ (đây là yếu tố tinh thần ảnh hưởng xấu đến bệnh tật). • Ăn uống thiếu điều độ: Ăn quá no, nhiều chất béo, mỡ, uống nhiều rượu bia cũng hại tỳ khiến cho chức năng vận hóa của Tỳ bị rối loạn sinh bệnh. • Bệnh tật lâu ngày (nhất là bệnh gan thận) làm cho cơ thể, tạng phủ mà chủ yếu là tỳ thận hư nhược, vận hóa rối loạn sinh cổ trướng. • Lao lực, phòng dục quá độ, tinh, khí huyết suy giảm cũng gây tổn thương can, tỳ, thận. • Một số nguyên nhân khác như trùng tích (chủ yếu là hấp huyết trùng (schistospmiasis), hàn tích (do ăn nhiều chất sống lạnh), hàn nội sinh tích tụ ở trung tiêu làm tổn thương tỳ vị. 26
- Bệnh lý chủ yếu là do 3 tạng Can, Tỳ, Thận bị tổn thương: Can khí uất kết, mạch lạc không thông đạt, khí huyết tích tụ gây bỉ mãn. Tỳ vị hư yếu thủy cốc đình trệ, bệnh lâu ngày thận khí suy không chủ được thủy gây ra cổ trướng. Ở mức độ nhất định, bệnh của tâm và phế (tâm chủ huyết, phế chủ khí) cũng ảnh hưởng đến sự hình thành cổ trướng. Chuẩn đoán Biểu Hiện Của Cổ Trướng Tùy theo số lượng dịch nhiều hoặc ít trong ổ màng bụng mà cổ trướng thuộc loại nhiều, trung bình hoặc ít. Cổ trướng càng to, càng dễ chẩn đoán. • Nhìn: Bụng to, xệ xuống khi đứng và bè sang hai bên khi nằm ngửa, rốn lồi thường lồi nhiều hoặc ít. • Sờ: Bụng mềm hoặc căng nhiều hoặc ít tùy số lượng nước trong ổ màng bụng. Gõ: Là dấu hiệu quan trọng nhất. Bảo người bệnh nằm nghiêng sang bên phải rồi bên trái, thầy thuốc gõ ở vùng thấp của bụng trong mỗi tư thế đó. Bình thường các vùng đó dù ở tư thế nào cũng vẫn trong. Khi có cổ trướng, do dịch tập trung vào các vùng thấp, gõ sẽ thấy các vùng đó bị đục và giới hạn trên của vùng đục là một đường cong ngửa lên trên (một yếu tố cần chú ý để phân biệt với nang nước). Gõ đục vùng thấp không những có giá trị xác định cổ trướng mà còn xác định cổ trướng đó là loại cổ trướng tự do. Điều Trị BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ Biện chứng luận trị cổ trướng thường chia làm 2 thể bệnh chính: • Thực Trướng là bệnh mới mắc, cơ thể người bệnh còn khỏe, phép trị chủ yếu là khu tà bao gồm hành khí, tiêu tích, trục thủy, phá ứ. • Hư Trướng là bệnh đã lâu ngày, cơ thể người bệnh yếu, phép trị chủ yếu là bổ hư, tư dưỡng can, kiện tỳ, ích thận là chính. Tuy nhiên chứng cổ trướng đa số là bản hư tiêu thực, cho nên phép trị chính vẫn là phù chính công tà, tiêu bản kiêm trị. Thực Trướng • Khí Trệ Thấp Ứ: Mạng sườn đau có lúc, ấn có cục mềm, tức, bụng đầy, ăn ít, ợ hơi, tiểu ít, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Huyền. ĐIỀU TRỊ: Sơ can, lý khí, trừ thấp. Dùng bài Sài Hồ Sơ Can Tán gia giảm (Cảnh Nhạc Toàn Thư) : Sài hồ, Chỉ xác, Thược dược, Cam thảo, Hương phụ, Xuyên khung. 27
- (Sài hồ, Bạch thược, Xuyên khung, Cam thảo, Chỉ xác, Hương phụ sơ can, lý khí, kiện tỳ). Thêm Xa tiền tử, Trư linh, Trạch tả để lợi thấp). Bụng đầy thêm Mộc hương, ðại phúc bì để hành khí. Trường hợp nặng, thêm ðại hoàng, Nhân trần, Chi tử để thanh hóa thấp nhiệt. Hàn thấp bụng đầy, tiêu lỏng, thêm 'Hương Sa Lục Quân Hoàn' mỗi lần 6 – 8g, ngày 2 lần với nước gừng. • Nhiệt Uất Huyết Ứ: Bụng đầy cứng, đau, sắc mặt vàng sậm hoặc da mặt vàng, đầu cổ lưng ngực bụng có vết máu vạch, môi tím, bứt rứt, miệng khô, tiểu ít, nước tiểu vàng, táo bón, chất lưỡi đỏ, rêu vàng dày, mạch Huyền Sác. ðIỀU TRỊ: Thanh nhiệt, lợi thấp, hoạt huyết, hóa ứ. Dùng bài Nhân Trần Cao Thang (Thương Hàn Luận): Nhân trần, Sơn chi, ðại hoàng, hợp với Hóa Ứ Thang gia giảm (Nghiệm Phương): đương qui, Xích thược, ðào nhân, Hồng hoa, ðan sâm, Sơn giáp, Bạch truật (Nhân trần, Sơn chi, đại hoàng để thanh nhiệt, lợi thấp, tiêu độc; đ ương quy, Xích thược, đơn bì, đơn sâm, Thanh bì, Hương phụ để hành khí, hoạt huyết, hóa ứ. Có thể thêm Gừng, Táo để hòa trung). Bụng nước nhiều có thể dùng 'Bị Cấp Hoàn’ để trục thủy (Kim Quĩ Yếu Lược): ðại hoàng, Ba đậu, Can khương. Lượng bằng nhau. Ba đậu ép hết dầu thô, tán bột mịn, hoàn với mật ong. Mỗi lần uống 1 - 2g. Hư Trướng • Tỳ Thận Dương Hư: Bụng đầy trướng, về chiều tối nặng hơn, mệt mỏi, sợ lạnh, chân tay lạnh hoặc 2 chân phù lõm, tiểu ít, sắc mặt vàng nhợt hoặc tái nhợt, lưỡi tím nhợt, mạch Trầm Tế Huyền. ðIỀU TRỊ: Ôn bổ tỳ thận, hành khí lợi thủy. Dùng bài Chân Vũ Thang (Thương Hàn Luận): Thục Phụ tử, Sinh khương, Bạch truật, Bạch thược. Phối hợp với Ngũ Bì Ẩm gia giảm (Trung Tàng Kinh) Tang bạch bì, Sinh khương bì, ðại phúc bì, Bạch linh bì, Trần bì, lượng bằng nhau, chế thành thuốc tán. Mỗi lần uống 8 – 12g. (Thục Phụ tử ôn bổ tỳ thận, Bạch truật, Bạch linh kiện tỳ lợi thủy, ðại phúc bì, Trần bì, Tang bạch bì hành khí lợi thủy, Sinh khương ôn tán thủy khí, tăng tác dụng các thuốc lợi thủy; Bạch thược dưỡng can, chỉ thống, điều hòa tính nóng của Phụ tử). Có thể cho uống thêm Thận Khí Hoàn (Tế Sinh Phương): Thục địa. Sơn dược, Sơn thù, đan bì. Phục linh, Trạch tả, Phụ tử, Quế nhục, Ngưu tất, Xa tiền để tư âm, trợ dương, hóa khí, lợi thủy. • Can Thận Âm Hư: Bụng đầy trướng, nổi gân xanh, người gầy, da khô nóng, sắc da sạm đen, môi tím, miệng khô, bứt rứt, răng và nướu răng chảy máu hoặc chảy 28
- máu cam, tiểu ít, vàng đậm, thân lưỡi thon, đỏ thẫm, khô, mạch Huyền Tế Sác. ĐIỀU TRỊ: Tư dưỡng can thận, lương huyết, hóa ứ. Dùng bài Nhất Quán Tiễn (Liễu Châu Y Thoại): Sa sâm. Mạch môn, ðương quy, Sinh địa, Câu kỷ tử, Xuyên luyện tử. Hợp với Cách Hạ Trục Ứ Thang gia giảm (Y Lâm Cải Thác): Ngũ linh chi, ðương qui, Xuyên khung, ðào nhân, Xích thược, ðơn bì, Ô dược, Diên hồ sách, Cam thảo, Hương phụ, Hồng hoa, Chỉ xác. (Sinh địa, Bắc Sa sâm, Mạch môn, Kỷ tử tư dưỡng can thận; ðương qui dưỡng huyết hòa can; Xích thược, ðơn bì thêm Huyền sâm, ðịa cốt bì lương huyết; Mao căn lương huyết, chỉ huyết; Ô dược, Hương phụ, Xuyên khung, ðào nhân, Hồng hoa hành khí, hoạt huyết, chỉ thống). Trường hợp bệnh nhân hôn mê, sốt cao cần dùng viên An Cung Ngưu Hoàng Hoàn (Ôn Bệnh ðiều Biện): Ngưu hoàng, Uất kim, Tê giác, Hoàng liên, Chu sa, Băng phiến, Trân châu (Ngọc trai), Sơn chi, Hùng hoàng, Hoàng cầm, Xạ hương để cấp cứu, lương huyết, giải độc, thanh nhiệt, khai khiếu. Trường hợp cổ trướng nặng gây nên khó thở cần công trục cổ trướng, có thể dùng một trong những bài sau: Bị Cấp Hoàn (Ba đậu bỏ vỏ, ép hết dầu, ðại hoàng, Can khương, lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột mịn, luyện mật ong, làm viên), mỗi lần uống 1–2g với nước ấm. Ngũ Công Tán (Khiên ngưu tử 120g, Tiểu hồi hương 30g, tán bột, làm viên. Mỗi lần uống 1,5–3g, nuốt ngày 1–2 lần. Gia Vị Thập Táo Thang: Đại kích (chế dấm), Nguyên hoa, Cam toại, Hổ phách, Trầm hương, Hắc Bạch sửu, lượng bằng nhau, tán bột mịn, trộn đều) mỗi lần uống l,5-3g với nước sắc Táo tàu. Chu Xa Hoàn (Cam toại, Nguyên hoa, đại kích, đại hoàng, Hắc sửu, Mộc hương, Trần bì, Thanh bì, Khinh phấn, Binh lang). Mỗi lần uống 07,5 – 1g. Nói chung cổ trướng là một chứng bệnh nan y trong nhiều loại bệnh nan y cho nên trong điều trị cần hết sức thận trọng. Cần kết hợp với phương pháp điều trị Tây y, thí dụ như có thể vừa cho thuốc trục thủy vừa phải truyền dịch cho khỏi mất tân dịch hoặc đối với các tình huống bệnh nguy kịch cần kết hợp Tây y cấp cứu kịp thời. Những bài thuốc trục thủy có thể dùng trị chứng cổ trướng (trị tiêu): • Bột Hắc, Bạch sửu. Mỗi lần 1,5 – 3g, ngày uống 1 – 2 lần. • Ngô công tán bột, Hắc bạch sửu 120g, Tiểu hồi hương 3 – 5g. Tán bột mịn, mỗi lần uống nuốt 1,5 – 3g, ngày 1 – 2 lần. • Bột Cam toại, mỗi lần uống nuốt 0,5 – 1g. Thuốc xổ mạnh vì vậy cần lưu ý lúc dùng. Có thể dùng thang Lý Ngư Xích Tiểu đậu Thang: Cá chép 1 con 500g, đánh vảy sạch, bỏ lòng ruột. Xích tiểu đậu 60g, không cho muối, nấu chín nhừ lọc qua vải lấy nước uống, 29
- ngày uống 1 thang, uống liền trong 2–3 tuần có kết quả tốt. BỆNH ÁN BỆNH ÁN CỔ TRƯỚNG (Trích trong Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư ) Chu X, nữ, 35 tuổi. Bệnh sử: Tháng 3-1965, sau khi sinh nở, kém ăn, yếu sức. Trước đây 2 tuần, thấy đi tiểu ít, trướng bụng, chân phù. Năm 1958 sau lần sinh thứ tư, cũng phát bệnh như vậy. Xét nghiệm: Vòng bụng 103 cm, thể trọng 138 cân (cân Trung quốc). Tròng trắng mắt mầu vàng, da vàng chưa rõ rệt, chưa xuất hiện dấu mạng nhện (dấu sao). Tim phổi bình thường, Gan Lách không to, gõ có âm đục và chi dưới phù, ấn lõm (+). CHẨN ĐOÁN: Cổ trướng (xơ Gan phúc thủy). Y ÁN: Bệnh nhân sau sinh nở khí huyết đều suy, Tỳ Vị yếu, thủy thấp ứ đọng đến nỗi bụng to như cái trống, chân phù, ăn không ngon, thấp uất hóa nhiệt, nung nấu không giải được cho nên mặt và mắt vàng, tiểu ít và đỏ. Dùng các phương thuốc ích khí, thanh nhiệt, lợi thấp, bệnh không giảm. Đó là thủy tà bành rường, chính khí không thắng nổi tà khí gây nên. Giờ nên coi trọng lợi thủy, hỗ trợ thuốc ích khí. Cho dùng Mộc phòng kỷ 12g, Xuyên tiêu mục 12g, ðiều đình lịch 12g, Sinh xuyên quân 8g, Tang bạch bì 16g, đại phúc bì 12 g, Xích linh 12g, Trư linh 12g, Xa tiền tử 40g, Hoàng kỳ 20g, Trần bì 8g, Hồng hoa 6g. Sau khi uống thuốc 1 tuần, lượng tiểu tiện chưa tăng rõ rệt, nhưng trướng bụng hơi giảm, ăn cũng khá hơn, cho thấy vận hóa của Vị đã có xu thế khôi phục dần, nhưng thủy tà chưa lui, cần cho thuốc lợi thủy nặng hơn. Vì vậy tăng đình lịch lên thành 40g; Ngày hôm tăng lượng thuốc, tiểu tiện nhiều hơn, lượng nước uống vào với lượng tiểu tiện cân bằng, những ngày sau có phần còn nhiều hơn, trướng bụng đỡ nhiều, chu vi vòng bụng cũng nhỏ đi, ăn có tiến bộ rõ rệt. Uống đơn thuốc này tiếp tục 1 tháng. Kiểm tra vòng bụng còn 87cm, thể trạng còn 122 cân, trọc âm di động vùng bụng không rõ nữa. Kiểm tra chức năng Gan, chưa ổn định hoàn toàn. Bệnh nhân vào viện ngày 1 tháng 6 năm 1965, ra viện ngày 24 tháng 7, cộng 53 ngày. Tình trạng ra viện nói chung khá tốt, sau đó bệnh nhân tiếp tục đến khám 2 lần nữa. Sau đó 5 tháng, viết thư kể sức khỏe rất tốt. NHẬN XÉT: Bệnh nhân phúc thủy xơ Gan, biểu hiện chứng hậu Tỳ Vị hư nhược nhưng lại có tình huống nghiêng về thủy thấp nặng, chính khí không thắng nồi tà khí. Vì vậy trong điều kiện mới dùng thang thuốc liều cao vừa ích khí vừa khư tà. Bệnh án này trước dùng thang thuốc ích khí lợi niệu, kết quả không cao, chỉ sau khi tăng liều lượng đình lịch, lượng tiểu tiện mới nhiều rõ rệt. Qua đó thì thấy đối với điều trị phúc thủy xơ Gan, trọng dụng Hoàng kỳ để ích khí, kiện Tỳ, đình lịch tử để tả Phế trục thủy, rõ ràng có tác dụng nhất định. 30
- BỆNH ÁN CỔ TRƯỚNG (Trích trong Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư ) Bệnh nhân: Nghiêm X, nam, 40 tuổi. Khám lần 1: Huyễn Vựng Từng bị Cổ trướng năm 1958, đã điều trị khỏi. Năm nay, hồi tháng 3 đi kiểm tra phân có trứng giun móc dương tính. Trước đó 2 tuần bắt đầu thấy tiểu tiện ít, kém ăn, mỏi mệt, sắc mặt vàng bủng, mắt vàng, tính tình nóng nảy, Gan to dưới bờ sườn 2 khoát, mạch Trầm Huyền, chất lưỡi xanh nhợt, rêu lưỡi mỏng. Bệnh thuộc loại khí trệ huyết ứ, nước đục ứ đọng. điều trị hướng sơ Can lý khí, hóa ứ hành thủy. Dùng Sài hồ 6g, Xích thược 12g, Chỉ xác (sao) 8g, Uất kim 12g, Mộc hương 6g, Thanh bì 12g, Trần bì 12g, đan sâm 20g, Xích linh 12g, Trư linh 12g, Xa tiền tử 40, Xuyên tiêu mục 12g, đình lịch tử 12g. Khám lần 2: Sau khi uống 4 thang, mặt vàng hơi bớt, tiểu tiện nhiều, bụng trướng giảm dần, ăn khá hơn, tinh thần tỉnh táo, nhưng hai chân còn cảm giác yếu sức, tính tình nóng nẩy, tình trạng bệnh hơi có khởi sắc, tiếp tục theo phương pháp cũ, đơn thuốc trên tăng ðình lịch tử lên 20 gam. Khám lần 3: Bụng trướng tiếp tục giảm, tiểu tiện thông lợi vàng mặt nhạt hơn, tinh thần và ăn uống khá, chất lưỡi đỏ, khô miệng, mạch Tiểu Huyền, tà khí lui, chính khí hư, vẫn dùng nguyên phương gia giảm, đơn thuốc cũ bỏ đình lịch tử, gia Xuyên Thạch hộc 16 gam. Khám lần 4: Bụng trướng đã nhẽo, to bụng giảm rõ rệt ăn tốt, đã hết vàng mắt, đã lao động bình thường, nhưng hai chân còn cảm giác yếu, mạch Tế, chất lưỡi đỏ nhạt, điều trị tiếp bằng thuốc hoàn. Hoàng kỳ phiến, mỗi phiến trọng lượng 1 gam, mỗi lần dùng 5 phiến, ngày uống 2 lần. Sau khi uống liên tục 10 ngày, bệnh nhân đã làm nông nghiệp bình thường, tinh thần sảng khoái, theo lời kể 1 tháng trở lại, vùng bụng nhẹ nhàng, tiểu tiện bình thường, ăn uống rất tốt. NHẬN XÉT: Bệnh nhân khám lần đầu ngày 16 tháng 10 năm 1965 vòng bụng 90cm, sau khi điều trị, phúc thủy rút đi nhanh. Uống được 11 thang, vòng bụng chỉ còn 78cm; trướng bụng tiêu trừ cơ bản. Ngày 20 tháng 12 cho bệnh nhân uống thuốc chữa huyết hấp trùng. Bệnh nhân bị huyết hấp trùng giai đoạn cuối, khí trệ huyết ứ, thủy trọc ứ đọng dẫn đến phúc thủy. Ngoài các triệu chứng bụng to tiểu tiện ít, mấu chốt là ở tình tự nóng nảy, mạch Trầm Huyền, chất lưỡi xanh nhạt, đó chủ yếu là chứng hậu khí trệ huyết ứ, cho nên lập pháp sử phương, đầu tiên coi trọng sơ Can lý khí, hỗ trợ bằng hóa ứ lợi thủy mà thu được kết quả. Nếu quả là chỉ lợi thủy đơn thuần mà không chú ý tới Can lý khí, cho dù dùng liều cao thông lợi tiểu tiện thậm chí dùng thuốc trục thủy mạnh cũng khó làm cho tiểu tiện thông lợi, phúc thủy tiêu đi. Cuối cùng, dùng độc vị Hoàng kỳ phiến nhằm ích khí để hành thủy, củng cố hiệu quả, đề phòng phúc thủy tái phát. 31
- BỆNH ÁN XƠ GAN CỔ TRƯỚNG DO THẤP NHIỆT ỦNG TRỆ (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng ) Phan XX, nam 45 tuổi, nông dân, Khám lần đầu ngày 18-5-1963. Trong một tháng lại đây bụng mỗi ngày một to ra như cái trống, bệnh viện chẩn đoán là xơ gan cổ trướng kèm lách to lên. Gan lách đều to 6cm. Sắc mặt vàng, mặt có nếp nhăn, nướu răng chảy máu, ăn không được, nước tiểu ít, đỏ, mạch Huyền Sác, chất lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn. Bệnh này thuộc chứng thấp nhiệt ủng trệ, nước tụ, khí trệ, huyết ứ, cổ trướng. ĐIỀUTRỊ: Phải thanh nhiệt, hóa thấp, trục ứ, tiêu thũng. Cho dùng bài Hóa Thấp Trục Ứ Tiêu Thũng Thang (Miết giáp 30g, Cù mạch 30g, Xa tiền tử 20g, Tam lăng 6g, Nga truật 6g, Phục linh 12g, Trạch tả 18g, Xuyên giáp 6g, Xích thược 10g, đ ào nhân 9g, Tiểu kế 30g, Phúc bì 12g, Hồ lô nửa quả. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.). Sau khi uống 5 thang nữa, đồng thời pha 30g đại Tiểu kế nấu thành nước thay trà uống nhiều lần. Uống xong bụng nước rút hết, ăn uống dần tăng lên, lách co lại. Tiếp theo cho thêm một số vị kiện tì dưỡng huyết như đảng sâm, Hoàng kỳ, đương qui v.v vào bài thuốc trên, uống liền trong hơn 4 tháng. Thời gian uống kiêng muối. Lách bệnh nhân trở lại như bình thường, các chứng bệnh tiêu tan, đã có thể làm một số công việc đồng áng. Theo dõi người bệnh 15 năm, không thấy tái phát. BỆNH ÁN XƠ GAN CỔ TRƯỚNG DO CAN UẤT KHÍ TRỆ, TỲ VỊ HƯ TỔN (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng ) Khương XX, nam, 47 tuổi, nông dân. Người bệnh tiêu hóa không tốt, bụng trướng, nặng nhất là về ban đêm, đã 7-8 năm, khám ở một bệnh viện chẩn đoán là viêm gan mạn tính, xơ gan giai đoạn đầu. 3 tháng gần đây bệnh nặng lên, ăn uống giảm sút, tiêu hóa kém, bụng trướng tăng. Toàn thân yếu sức, gầy còm, bụng to dần như cái trống, nước tiểu ít, màu vàng. Mạch Trầm, Hoãn. ðã rút nước ở bụng 2 lần, mỗi lần 1000ml. ðiều trị:phải hành khí lợi thủy, thư can giải uất. Cho uống phối hợp Thanh Oa Tán với Mẫu Kê Sâm Kỳ Thang. Sau khi dùng thuốc 100 ngày, cổ trướng rút hết, các chứng dần tiến triển, đã có thể làm các công việc chân tay thông thường. BỆNH ÁN XƠ GAN CỔ TRƯỚNG DO THẤP NHIỆT ĐÌNH TRỆ (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng ) Từ X X, nam, 58 tuổi. Bệnh nhân vốn nghiện rượu, ăn ít bụng trướng. Gần đây lượng nước tiêu giảm, bụng căng như trống. Xét nghiệm chức năng gan thấy tỉ lệ albumin/globulin đảo ngược, chẩn đoán là xơ gan cổ trướng. Dùng thuốc đông y và tân dược để chữa nhưng kết quả không rõ rệt. Do người bệnh vốn nghiện rượu nên gan lách 32
- đều bị thương tổn, thể hiện sắc mặt sạm đen, mũi đỏ, không đói, tiểu tiện ít, miệng hơi đắng bụng trướng đầy, lưỡi hơi đỏ, rêu đục bẩn, mạch Huyền Sác. ðó là do thấp nhiệt giao trở, gan lách tổn thương dẫn đến tắc nghẽn đường dẫn mà thành cổ trướng. Cho uống ðan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn (Bạch truật 60g, Phục linh 30g, Trần bì 30g, Khương bán hạ 30g, Sinh cam thảo 10g, Tiêu thần khúc 30g, Sinh hương phụ 45g, Khổ sâm 15g, Hoàng liên sao 15g, Cương châm xa 45g (tẩm dấm sao đỏ, tán nhỏ). Các vị thuốc trên sau khi tán thành bột mịn, lấy dấm và nước (mỗi thứ một nửa) trộn thành hồ Thần khúc rồi làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 70–80 hoàn, uống với nước thuốc sau: Bạch truật 18g, Trần bì 3g, Sinh khương 1 lát, sắc uống. Đối với người bệnh hư nặng, thì bỏ vị Hoàng liên, thêm Hậu phác 15g), trước hết đem thuốc hoàn sắc thành thang để uống 10 thang rồi mới dùng thuốc hoàn 500g. Sau khi uống thuốc, bụng trướng giảm dần, tiểu tiện trong và dài, các chứng chuyển biến tốt rõ rệt. Lại cho uống 1000 hoàn, uống xong hết cổ trướng, ăn ngon hơn, kiểm tra chức năng gan, tỷ lệ albumin/globulin trở lại bình thường, đã có thể tham gia công tác như thường. Theo dõi vài tháng thấy sức khỏe vẫn tốt. BÀN LUẬN: Đan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn do Chu Đan Khê sáng chế. Dùng bài thuốc này chữa xơ gan, đặc biệt là với bệnh nhân có tỉ lệ albumin/globulin đảo ngược, dù là có cổ trướng hay không đều thu được hiệu quả tốt. Thông thường uống từ 180g đến 210g là có thể khiến nước tiểu trong và nhiều, bệnh nặng thì uống 500g đã được như thế. Một số bệnh nhân sau khi đã hết các triệu chứng bệnh chức năng gan bình thường thì ngừng thuốc, nhưng rồi do không điều độ, làm việc quá sức thì lại tái phát, khi đó lại dùng bài thuốc trên vẫn có hiệu quả tốt. Những bệnh nhân loại này được chữa khỏi đã 20 năm mà vẫn khỏe mạnh. Vị Cương châm sa trong bài thuốc còn có tên là Châm sa hay Cương sa. 33
- CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ 4 : GAN NHIỄM MỞ 1.Lương y Trần Hoàng Bảo có đề cập về một bài thuốc gan nhiễm mở như sau : -Thành phần: Sanh sơn tra, Trạch tả mỗi vị 20~30g; Đan sâm, Sanh Hà thủ ô, Thảo quyết minh, Huỳnh tinh, Hổ trượng mỗi vị 15 ~20g; Bạch thược, Thố Sài hồ mỗi vị 10~15g. -Gia giảm: Nếu buồn nôn gia Bán hạ 10g; Nếu bụng trướng gia Sao La bặc tử 15g; nếu nôn ra nước chua, giảm lượng Sơn tra gia Ô tặc cốt 20g. -Cách dùng: Thuốc trên sắc uống, mỗi ngày 1 thang, phân 2 ~3 lần uống, 1 tháng là 1 liệu trình. -Hiệu quả trị liệu: Dùng phương này trị bệnh nhân Gan nhiễm mỡ 40 ca, sau khi dùng thuốc 1 ~ 4 liệu trình, trong đó trị khỏi 27 ca, hiệu quả rõ 10 ca, hữu hiệu 2 ca, vô hiệu 1 ca. (Lương y Trần Hoàng Bảo) 2. Chữa bệnh Gan Nhiễm mỡ Gan nhiễm mỡ là tình trạng gan dự trữ quá nhiều chất béo, nhất là mỡ động vật với hàm lượng axít béo bão hòa cao. Khi đó, chức năng của gan bị suy giảm, cơ thể mệt mỏi, ăn chậm tiêu, chán ăn Để chữa bệnh, việc điều chỉnh ăn uống có vai trò rất quan trọng. Những người bị gan nhiễm mỡ nên ăn gì? Ngô là loại ngũ cốc rất thích hợp cho những người bị gan nhiễm mỡ Ngô: Đây là thứ ngũ cốc thích hợp với người bị gan nhiễm mỡ. Theo kết quả nghiên cứu của y học hiện đại, ngô chứa nhiều axít béo không no có khả năng thúc đẩy quá trình chuyển hóa của chất béo nói chung và cholesterol nói riêng. Theo quan niệm của dinh dưỡng học cổ truyền, ngô có vị ngọt tính bình, có công dụng điều trung kiện vị, lợi niệu, thường được dùng cho những trường hợp tỳ vị hư yếu, chán ăn, thủy thấp đình trệ, tiểu tiện bất lợi, phù thũng, rối loạn lipit máu, thiểu năng mạch vành. Ngô là món ăn rất phổ biến ở nước ta, nhất là tại những vùng miền núi. Thường dùng dưới dạng bánh hoặc cháo bột ngô. 35
- Nhộng: Vị ngọt mặn, tính bình, có công dụng ích tỳ bổ hư, trừ phiền giải khát. Theo dược lý học hiện đại, nhộng có tác dụng làm giảm cholesterol huyết thanh và cải thiện chức năng gan. Thường dùng dưới dạng các món ăn hoặc tán thành bột để uống. Kỷ tử: Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, kỷ tử có tác dụng ức chế quá trình tích tụ chất mỡ trong tế bào gan, thúc đẩy sự tăng sinh tế bào gan và cải thiện chu trình chuyển hóa chất béo. Rau cần: Chứa nhiều vitamin, có công dụng làm mát gan, hạ chelesterol máu, thúc đẩy quá trình bài tiết các chất phế thải và làm sạch huyết dịch. Ngoài ra, người bị gan nhiễm mỡ nên chú trọng bổ sung rau tươi như cải xanh, cải cúc, rau muống có công dụng giải nhiệt làm mát gan, cà chua, cà rốt, măng, bí đao, mướp, dưa gang, dưa chuột có công dụng thanh nhiệt, thông phủ, hành khí, lợi tiểu. Bên cạnh đó còn có các loại dầu thực vật như dầu lạc, dầu vừng, dầu đậu tương chứa nhiều axít béo không no có tác dụng làm giảm cholesterol máu; các loại thịt, cá ít mỡ và các thức ăn chế biến từ đậu xanh, đậu đen Nấm hương: Được xem là loại thực phẩm lý tưởng cho người bị gan nhiễm mỡ. Trong nấm hương có chứa những chất làm giảm chelesterol trong máu và tế bào gan. Trong nấm hương có chứa những chất làm giảm chelesterol trong máu và tế bào gan Thường dùng dưới dạng thực phẩm để chế biến các món ăn. Về uống Nên dùng một trong những loại trà sau: - Trà khô 3g, trạch tả 15g hai thứ hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì được. Có công dụng bảo vệ gan, tiêu mỡ, lợi niệu, giảm béo. - Trà khô 2g, uất kim 10g (có thể thay bằng nghệ vàng), cam thảo sao vàng 5g, mật ong 25g. Tất cả thái vụn, hãm với nước sôi, uống trong ngày có công dụng làm cho gan thư thái, tiêu trừ tích trệ và lợi niệu. - Trà khô 3g, cát căn (sắn dây thái phiến) 10g, lá sen 20g. Tất cả thái vụn hãm uống có công dụng giải độc, hạ mỡ máu, giảm béo. - Rễ cây trà 30g, trạch tả 60g, thảo quyết minh 12g. Tất cả thái vụn hãm uống hàng ngày. Có công dụng làm giảm mỡ máu và phòng chống béo phì. 36
- - Trà tươi 30g, sinh sơn tra 10-15g. Hãm nước sôi uống hàng ngày. Có công dụng tiêu mỡ giảm béo. 37
- CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ 5 : UNG THƯ GAN 1. TOA THUỐC TRỊ DỨT UNG THƯ GAN Xin trích lá thư của anh Huỳnh Trung Hậu Tôi tên Huỳnh Trung Hậu, sanh 1934. Quê gốc tại Long Xuyên, An Giang VIỆT-NAM. Tôi Là người bị bệnh ung thư gan. Thời kỳ thứ 3. bác sĩ mỹ chuyên khoa của bệnh viện Memorial đường Beechnut thành phố Houston, suốt 1 tuần xét nghiệm đủ cách xác định hạn kỳ 3 đến 6 tháng chết! Sau đó, tôi tìm được những toa thuốc gia truyền Đông y (thuốc bắc) trị được lành bệnh từ năm 2004 đến nay có sự theo dỏi của bác sĩ chuyên khoa nói trên. Do đó, nay xin phổ biến đến toàn thẻ dồng bào VIỆT NAM và đồng hương trong cũng như ngoài nước nhằm góp phần diều trị bệnh hiễm nghèo mà tây dược nay vẫn còn chưa có thuốc diệt được vi trùng ung thư gan này. Việc phổ biến toa thuốc ung thư gan trong tinh thần bât vụ lợi. Xin qúi đồng bào chuyèn tin nhau, ai có bệnh cần diều trị để kiệp thời cứu giải tình thế. Qua kinh nghiệm điều trị tôi sẵn sàng hồi đáp và góp ú để kết quả tốt. Trân Trọng Kính Chào Huỳnh Trung Hậu Toa số 1 Bắc Sài Hồ 3 Chỉ Hoàng Cầm 2 Chỉ Bán Hạ 5 Chỉ Sa Sâm 3 Chỉ Cam Thảo 1 Chỉ Thiên Hoa Phấn 3 Chỉ Thang thuốc số 1 này ít thuốc ch3 nấu 1 chén rưỡi nước để được mau cạn Toa Số 2 Bán Chi Liên 1 Lượng 38
- Bách Hoa Xà Nhiệt Thảo 2 Lượng Toa thuốc số 2 chỉ có 2 vị, nhưng bỗ thuốc nhièu cần 4 chén nước đễ đủ thắm khi nấu Toa Số 3 Bắc Nhân Trần 1 Lượng Bồ Công Anh 1 Lượng Hoàng Cầm 3 chỉ Bán Biên Liên 5 chỉ Đỗ Trọng 5 chỉ Sa Nhơn 3 chỉ Thổ Phục Linh 5 chỉ Bạch Phục Linh 5 chỉ Ý Vỉ (sống) 5 chỉ Huyển Sâm 3 chỉ + Nếu bị đau lưng dạng suy thận thì dùng Liên Tâm Tu không dùng Bán Biên Liên Lưu ý: Tất cả các thang thuốc đều sắc 3 chén nước còn 7 phân , ( 7/10 chén ) uống nước 1 và 2 sắc 2 lần. Xác thuốc còn lại sắc loãng làm nước uống trong ngày mổi ngày uống 1 thang theo thứ tự 1,2,3. Xoay hết vòng trở lại 1,2,3. Dùng suốt 1 tháng, nếu thấy ngán thuốc hoặc bệnh thuyên giảm, nghỉ 1 ngày uống 6 thang. Tháng thứ 3 nghỉ 1 ngày uống 3 thang. Dù bệnh đã hết cũng nên uống liên tục, có giảm 1 tuần uống 2 tuần rồi giảm 1 tuần uống 1 tuần. Nếu sơ gan cổ chướng bụng có nước thì dùng toa số 4 gồm 17 vị. Bệnh ung thư gan thời kỳ thứ 3 của tôi, Bác sĩ khẳng định 3 đến 6 tháng thì chết.Tôi đã uống 3 thang 1,2,3 được lành bệnh. Toa số 4 Phục linh 10 gr 3, chỉ 3 39
- Kim Tiền Thảo 20 gr 6, chỉ 7 Chi Tử 10 gr 3, chỉ 3 Nhơn Trần 30 gr 10, chỉ 0 Long Cốt 20 gr 6, chỉ 7 Huỳnh Bá 10 gr 3, chỉ 3 Hậu Phát 10 gr 3, chỉ 3 Uất Kim 10 gr 3, chỉ 3 Chỉ Thiệt 10 gr 3, chỉ 3 Bạch Trực 16 gr 5, chỉ 0 Biển Đậu 16 gr 5, chỉ 0 Thông Thảo 8 gr 3, chỉ 0 Hắc Hương 10 gr 3, chỉ 3 Nhục Trúc 10 gr 3, chỉ 3 Sài Hồ 10 gr 3, chỉ 3 Huỳnh Cầm 10 gr 3, chỉ 3 Kê Cốt Thảo 20 gr 6, chỉ 7 Ghi chú: Toa thuốc 17 vị, 1 chỉ bằng 3 gr, uống liên tục 5 thang trong 5 ngày để xác định. Kết quả của 3 thứ ứng nghiệm: giảm, bình, phản ứng. Giảm: Tiếp tục uống 5 thang ( có thể nghỉ 1 ngày nếu ngán thuốc ) Bình: Do tự mình theo dõi hoặc trùng hợp thuốc khác, hay bệnh khác bị phản ứng. Nếu không trở ngại gì hãy tiếp tục uống 5 thang ngưng 1 ngày, lắng nghe cho xác phảng ứng,nếu chưa suy giảm mọi mặt về cơ thể thì tiếp tục uống 5 thang. Đợt 2 vẫn theo dõi liên tục. 40
- Phản ứng: Bệnh khác phải dùng Tây Dược thì cách nhau 90 phút hãy dùng Đông Dược. Nếu phản ứng về bệnh không đúng thuốc ngưng. ( Đông Dược không kỵ Tây Dược đến độ nguy hại ) * Lượng thuốc 17 vị cần nhiều nước để nấu tan đều chất thuốc. ( 5 chén còn lại 8/10 một chén thuốc đúng bệnh là thuốc hay; Chính mình tự theo dõi bệnh dùng thuốc sẽ được kết quả tốt . 2. Một số bài thuốc từ lương y Trần Hoàng Bảo + Phương 1 : Ung thư gan, ung thư ruột dùng Mã đâu linh. Mã đâu linh Ung thư gan, ung thư ruột lấy Mã đâu linh 400g, nước 5 thăng, rượu 1 thăng, hợp lại sắc còn 3 thăng, phân nhiều lần uống, có thể làm cho độc ung thư thông qua tiểu tiện bài xuất. Còn phương lấy Mã đâu linh 40g, nghiền bột, 1 lần 4g, uống với nước nóng. Hoặc mỗi lần lấy 20~40g, sắc nước uống. Mã đâu linh có thể dùng cả cây. (Phương này theo tôi cần cẩn thận dùng, đề phòng trúng độc. Sắc uống nên 20g/ 1 ngày. Cần xem thêm Mã đâu linh - TỪ ĐIỂN THUỐC ĐÔNG Y ) + Phương 2 : Phòng ngừa ung thư gan dùng Tiểu Sài Hồ Thang Sài hồ, Hoàng cầm mỗi vị 6g, Chế bán hạ, Sinh khương mỗi vị 9g, Nhân sâm, Chích cam thảo mỗi vị 3g, Đại táo 3 trái. Sắc phân 2 lần uống. + Phương 3 : Sâm Tam Kim Phấn - Thành phần: Tây dương sâm 70g, Kê nội kim 50g, Điền thất phiến 40g, Hương phụ 25g, Sinh ý dĩ 50g. - Cách dùng: Thuốc trên sấy lửa khô tán bột, mỗi lần 10g, , mỗi ngày sáng dậy uống với mật ong hoặc cháo trắng, dùng liên tục. - Công hiệu: Phù chính chống ung thư. - Chứng thích ứng: Hổ trợ tri liệu xen lẫn sau điều trị ung thư gan. - Phụ chú: Phương này có thể đề cao sức miễn dịch, ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ phản ứng phụ của hoá liệu. Đồng thời cũng cố hiệu quả điều trị, ngăn ngừa tái phát hoặc di căn, đề cao tỉ lệ sinh tồn thời kì cuối. + Phương 4: Ung thư gan, ung thư tuyến tụy dùng Cao Hùng hoàng Bạch phàn 41
- Đây là phương thuốc trong sách cổ "Tập thận phương", sau khi qua hiện tại dùng thử thu được hiệu quả mà phát biểu. Tức Hùng hoàng 40g, Phèn chua 80g cùng nghiền bột, dùng hồ (quấy bằng bột mì) hòa thành dạng thuốc cao, đắp dày chổ da vùng bị bệnh, có hiệu quả. + Phương 5: Ung thư gan cùng với gan sưng trướng dùng dịch ngâm chiết Tỳ bà diệp Lấy Tỳ bà diệp tươi (không có thứ tươi có thể dùng thứ khô thay thế) thái nhỏ, thêm vào cồn y tế lượng gấp đôi nó ngâm 1 tuần, để ngâm chiết lấy thành phần hữu hiệu của nó, đợi lúc cồn đổi màu nâu đen, lấy khăn lông thấm vào nước nóng vắt khô, gấp 3 nếp, nhún vào dịch ngâm chiết thân cây Tỳ bà đến khi khăn lông hiện ra sắc xanh lam, sau đó trải tấm vải nhựa lớn, đặt cái khăn lông lên trên, để vùng lưng sau bộ vị gan của người bệnh sát vào khăn lông nằm lên trên nó, 1 lần nằm 20 phút, 1 ngày nằm 2 ~ 3 lần, có hiệu quả. Cùng lúc này, dùng dịch ngâm chiết thêm 2 lần nước, xoa vào bộ vị gan, hiệu quả điều trị càng tốt. + Phương 6 : - Thành phần: Xích thược 15 ~30g; Đan sâm 10~30g; Tam lăng, Nga truật, nhân, Thổ miết trùng mỗi vị 10g; Quãng uất kim 10g; Xa tiền tử, Trạch tả, Bán biên liên mỗi vị 30g; Phục linh 15g. - Gia giảm: * Khí hư gia Đảng sâm, Bạch truật, Chích hoàng kỳ v.v * Âm hư gia Sinh địa hoàng, Nữ trinh tử, Hoài sơn dược, Chích miết giáp, Tri mẫu v.v *Khí âm lưỡng hư gia Thái tử sâm, Chích hoàng kỳ, Thiên đông, Mạch đông v.v *Thấp nhiệt hỗ trở gia Nhân trần, Chi tử, Hoàng cầm v.v *Khí trệ gia Sài hồ, Bát nguyệt trát, Chỉ xác - Cách chế dùng: Mỗi ngày 1 thang sắc uống. Phụ dùng thuốc Tây lợi tiểu, chống nhiễm trùng, cầm máu, chống hôn mê v.v - Chứng thích ứng: Ung thư gan nguyên phát. - Hiệu quả điều trị: Chọn dùng phép hoạt huyết lợi thủy làm chủ để điều trị ung thư gan nguyên phát kèm bụng nước 21 ca, hiệu quả rõ ( bụng nước tiêu mất, triệu chứng cải thiện) 15 ca, có hiệu quả (bụng nước giảnm nhẹ, triệu chứng ổn định hoặc cải thiện) 4 ca, vô hiệu 2 ca. + Phương 7 : - Thành phần: Sài hồ, Hương phụ, Đương qui, Bạch thược, Sơn thù du, Tam lăng, Nga truật, Trư linh, Phục linh, Nhân trần, Kim tiền thảo, Kê nội kim, Sa nhân, Sanh sơn tra, Miết giáp. - Cách chế dùng: Phương này tùy chứng gia giảm. Mỗi ngày 1 thang, đem thuốc trên sắc nước phân 2, 3 lần uống. 42
- - Hiệu quả điều trị: Dùng thuốc trên điều trị 36 ca Ung thư gan thời kỳ cuối (phân làm 6 loại hình Khí trệ huyết ứ, khí trệ huyết ứ đàm thấp, khí trệ huyết ứ âm hư, khí trệ huyết ứ dương hư, khí trệ huyết ứ khí hư đàm thấp, khí âm lưỡng hư.), khối u ổn định hoặc không biến hóa 34 ca, tiến triển 2 ca. Nửa năm sau theo dõi, đều vẫn sinh tồn. - Chứng thích ứng: Ung thư gan thời kỳ cuối. + Phương 8 : - Thành phần: Thục địa hoàng 25g, Sài hồ 20g; Đương qui, Bạch thược, Phục linh, Sao bạch truật, Chích cam thảo mỗi vị 15g, Bạc hà 10g. - Cách chế dùng: Mỗi ngày 1 thang, sắc nước uống. - Hiệu quả điều trị: Dùng thuốc trên điều trị ung thư di căn gan 62 ca, chất lượng sinh tồn xếp loại: đề cao 7 ca, ổn định 36 ca. Thời kỳ sinh tồn 3, 6, 9, 12 tháng phân biệt là 59, 45, 38, 11 ca. + Phương 9: Vân bạch dược trị đau gan. - Phối phương: Vân nam bạch dược lượng thích hợp. - Cách dùng: Uống Vân bạch dược mỗi lần 1g, mỗi ngày 4 lần. - Công hiệu: Thời gian điều trị dài 1 chút, có thể làm cho bệnh tình ung thư gan chuyển biến tốt. + Phương 10: - Chủ trị: Ung thư ruột, ung thư gan, ung thư phổi, ung thư mũi họng. - Thành phần: Bạch hoa xà thiệt thảo 150g, Bạch mao căn 100g, đường cát đỏ 100g. - Cách dùng: Đem 2 vị trước sắc nước bỏ bã, thêm đường đỏ hòa tan, làm trà uống, uống liền vài tháng. (Lương y Trần Hoàng Bảo) 3. Bạch hoa xà là môt cây thuốc hay chữa được nhiều loại bệnh ung thư. Nay xin giới thiệu một tác dụng thành phần của cây thuốc này như sau : Chữa ung thư gan: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, chó đẻ răng cưa 30 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. 4. Chữa viêm gan vàng da : Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, chó đẻ răng cưa 30 g, nhân trần 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. 43
- CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ 6 : XƠ GAN 1.Xơ gan thường tiếp theo sau một viêm gan mạn tính. Rất khó xác định được lúc nào viêm gan mạn đã chuyển sang xơ gan nếu không quản lý bệnh nhân, theo dõi định kỳ và nhất là soi ổ bụng hoặc sinh thiết. Cổ trướng thường được coi là một biểu hiện mất bù của xơ gan, tiến triển dần dần. Khi to nhiều, bệnh nhân mới để ý đến. Nước cổ trướng màu vàng chanh, còn nước màu hồng hay đỏ là có ý nghĩa xấu: xơ gan đã ung thư hóa, hoặc có áp lực tĩnh mạch cửa tăng nhiều, lách to, cứng chắc, có khi đến tận rốn. Theo y học cổ truyền, xơ gan cổ trướng là do viêm gan, sốt rét, uống rượu, kém dinh dưỡng. Căn cứ vào triệu chứng và phương pháp chữa, các thầy thuốc Đông y chia làm 3 thể bệnh với phép điều trị như sau: Thể xơ gan do can uất, tỳ hư, can tỳ bất hòa Triệu chứng: Sắc mặt xạm tối, đầu choáng, mệt mỏi, ăn kém, đau vùng gan, tức vùng thượng vị, ợ hơi, bụng trướng, đại tiện lỏng, rêu lưỡi mỏng, mạch huyết tê. Phép chữa xơ can kiện ty: Bài 1: Rau má 12g, mướp đắng (khổ qua) 12g, thanh bì, chỉ thực, uất kim, hậu phác, mỗi vị 8g; ý dĩ, hoài sơn, biển đậu, đinh lăng mỗi vị 12g. Nước 3 bát, sắc còn 1 bát, uống lúc bụng đói, uống ấm. Bài 2: Đan sâm 16g, huỳnh kỳ 10g, bạch phục linh 10g, bạch truật 12g, bạch thược 10g, nhân trần 20g, chi tử 8g, ngũ gia bì 8g, đại phúc bì 6g, sài hồ 10g, ý dĩ 16g, cam thảo 6g, đại táo 6g, gừng khô 6g. Sắc uống như trên ngày một thang. 44
- Xơ gan do khí trệ huyết ứ: Triệu chứng: đau nhiều vùng mạng sườn, bụng trướng, người gầy, lách to, môi lưỡi tím, mạch tế. Phép chữa: hành khí hóa ứ: Bài 1: Kê huyết đằng 12g, cỏ nhọ nồi 12g, uất kim 8g, tam lăng 8g, nga truật 8g, chỉ xác 8g, sinh địa 12g, mẫu lệ 16g, quy bản 10g. Sắc uống ấm ngày một thang. Bài 2: Bạch thược 12g, đương quy 8g, xuyên khung 12g, đan sâm 12g, hồng hoa 8g, đào nhân 8g, diên hồ sách 8g. Sắc uống ngày một thang. Nếu lách to, thêm tam lăng 12g, nga truật 12g, mẫu lệ 10g, mai ba ba 20g. Bài 3: Đào nhân 12g, hồng hoa 8g, đương quy 12g, xích thược 12g, đan sâm 22g, tam lăng 8g, nga truật 8g, hương phụ chế 8g, chỉ xác 8g. Sắc uống ngày một thang. Thể xơ gan cổ trướng: Thể này có 3 loại: Âm hư thấp nhiệt: Thể này thường kèm theo chảy máu. Triệu chứng: sắc mặt vàng tối, chảy máu cam, chảy máu chân răng, chân phù, sốt hâm hấp, hoặc sốt cao, phiền táo, miệng khát, họng khô, lợm giọng, tiểu tiện đỏ, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch huyền tế sác. Phép chữa: thanh nhiệt, hóa thấp, dưỡng âm, lợi thủy: Loại I Bài 1: Nhân trần 20g, thạch hộc 20g, sa sâm 12g, sinh địa 12g, xa tiền 12g, trạch tả 12g, bạch mao căn 12g, hậu phác 6g, trần bì 6g, bán hạ chế 6g, chi tử 8g, nước 3 bát sắc còn 1 bát, uống trong ngày một thang. Bài 2: Thục địa 12g, sơn thù 8g, hoài sơn 12g, trạch tả 8g, đơn bì 8g, phục linh 8g, bạch truật 12g, đương quy 8g, địa cốt bì 12g, bạch mao căn 20g. 45
- Tỳ thận dương hư: Triệu chứng: mệt mỏi, ăn kém, bụng trướng, chân phù, tiểu tiện ít, đại tiện lỏng, sợ lạnh, sắc mặt vàng hoặc xanh nhợt, chất lưỡi nhạt hoặc bệu, rêu trắng mỏng, mạch trầm tế. Phép chữa: ôn thận tỳ dương, hành thủy. Loại II Bài 1: Phụ tử chế 12g, nhục quế 4g, chỉ xác 6g, mộc hương 6g, bạch truật 12g, ý dĩ 16g, trạch tả 12g, hoài sơn 12g, kê nội kim 4g, xa tiền tử 12g. Bài 2: Phụ tử chế 12g, quế chi 6g, gừng khô 6g, phục linh 12g, hậu phác 6g, trạch tả 12g, đại phúc bì 12g, huỳnh kỳ 12g, xuyên tiêu 6g. Thể cổ trướng nhiều, thủy khí tương kết: Triệu chứng: cổ trướng tăng nhanh, không nằm được, tiểu tiện ít, đại tiện không thông, mạch huyền sác. Phép chữa: công hạ, trục thủy. Chú ý theo dõi mạch, huyết áp tránh trụy mạch do mất nước và điện giải quá nhiều. Loại III Bài 1: Cam toại nướng 6g, thương lục 6g, đại phúc bì 12g, đại hoàng 12g, hắc sửu 8g, úc lý nhân 8g, nước vừa đủ sắc còn 1/3 uống nguội sáng chiều. Bài 2: Nguyên hoa 8g, cam toại 8g, đại kích 8g, phơi khô tán bột. Ngày uống 2g vào buổi sáng với nước đại táo. Bài 3: Cây lá trạch lan 30g, rễ muồng trâu (sao rượu) 30g, rễ bồ ngót 30g, lá tía tô 10g, hậu phác 5g, lá dâu 12g. Nước vừa đủ, sắc còn 1/2 uống ấm trong ngày. Bài 4: Hương phụ chế 12g, vỏ quýt sao 12g, vỏ cau sao 6g, hậu phác 6g, cam thảo 3g, nước vừa đủ, sắc uống như trên. Bài 5: Hoàng cầm 12g, sơn chi tử 12g, nhân trần 12g, đình lịch tử 8g, long đờm thảo 8g. Nước vừa đủ sắc còn 1/3 uống ấm trong ngày một thang. 46
- 2. Theo lương y Trần Hoàng Bảo : + Phương 1: - Thành phần: Hoàng kỳ, Đảng sâm, Sơn dược mỗi vị 30 ~60g; Toàn đương qui, Thục địa, Phục linh mỗi vị 20 ~ 25g; Bạch truật, Nhân trần mỗi vị 15~20g; Miết giáp, Địa miết trùng mỗi vị 10~ 15g; Hoàng tinh, Trần bì mỗi vị 8 ~ 12g. - Cách dùng: Thuốc trên sau khi sắc 3 lần, hợp các dịch thuốc lại, phân 2~3 lần uống, mỗi ngày 1 thang, 1 tháng là 1 liệu trình. - Chứng thích ứng: Xơ gan. - Hiệu quả điều trị: Dùng phương này điều trị bệnh nhân xơ gan 121 ca, sau khi uống 1~5 liệu trình, trong đó trị khỏi 89 ca, hiệu quả rõ 25 ca, hữu hiệu 3 ca, vô hiệu 4 ca. + Phương 2: - Thành phần: Tiên bạch mao căn 100~150g, Hoàng kỳ 40~50g; Trạch tả, Đại phúc bì, Phục linh, Bạch truật mỗi vị 25~30g; Sa sâm, Ích trí nhân, Kê nội kim, Lô căn, Sinh cam thảo mỗi vị 10~15g. - Cách dùng: Mỗi ngày 1 thang, phân 2 ~ 3 lần uống, 1 tháng là 1 liệu trình. - Chứng thích ứng: Xơ gan. - Hiệu quả điều trị: Dùng phương này điều trị bệnh nhân xơ gan 55 ca, sau khi uống 2~4 liệu trình, trong đó trị khỏi 34 ca, hiệu quả rõ 10 ca, hữu hiệu 6 ca, vô hiệu 5 ca. + Phương 3: - Thành phần: Đảng sâm, Hoàng kỳ, Phục linh, Ý dĩ nhân, Hoài sơn dược, Đan sâm mỗi vị 30g; Ích mẩu thảo 50g; Kim ngân hoa, Liên kiều mỗi vị 20g; Sài hồ, Thanh bì, Hoàng cầm, Bạch truật, Trạch tả, Xích thược, Xuyên hậu phác, Miết giáp mỗi vị 15g, Sinh cam thảo 10g. - Cách dùng: Mỗi ngày 1 thang, sắc phân 3 lần uống. - Chứng thích ứng: Xơ gan bụng nước (Can ngạnh hóa phúc thủy) - Hiệu quả trị liệu: Dùng phương này điều trị bệnh nhân xơ gan bụng nước 66 ca, trong đó trị khỏi 49 ca, hiệu quả rõ 10 ca, hữu hiệu 3 ca, vô hiệu 4 ca. + Phương 4: - Thành phần: Đảng sâm, Hoàng kỳ, Xa tiền tử, Đình lịch tử mỗi vị 30 ~40g; Tam lăng, Nga truật, Đan sâm, Đại phúc bì, Tiêu sơn tra mỗi vị 20 ~30g; Bạch thược, Toàn đương qui, Uất kim, Phục linh mỗi vị 15 ~20g; Hoa tiêu, Sinh cam thảo mỗi vị 6~10g; Hổ trượng, Bạch hoa xà thiệt thảo mỗi vị 25g ~35g. - Cách dùng: Thuốc trên sắc uống, mỗi ngày 1 thang, phân 2 ~3 lần uống, 1 tháng là 1 liệu trình. - Chứng thích ứng: Xơ gan bụng nước. - Hiệu quả trị liệu: Dùng phương này điều trị bệnh nhân xơ gan bụng nước 89 ca, sau khi dùng thuốc 1~3 liệu trình, trong đó trị khỏi 55 ca, hiệu quả rõ 12 ca, hữu hiệu 15 ca, vô hiệu 7 ca. + Phương 5: Thương truật Bạch truật trị xơ gan bụng nước. - Thành phần: Thương truật, Bạch truật mỗi vị 10g; Thanh bì, Trần bì mỗi vị 9g; Hậu phác 9g, Chỉ thực 9g, Hương phụ 6g, Đinh hương 6g, Sa nhân 10g, Phục linh 10g, Phúc bì 15g, Trư linh 15g, Trạch tả 15g, Đăng tâm 6g, Sanh khương 3 lát. - Cách dùng: Sắc nước uống. - Công hiệu: Chủ trị Xơ gan bụng nước (Can ngạnh hóa phúc thủy) 47
- + Phương 6: Kiện Tỳ phân tiêu thang trị xơ gan bụng nước. - Thành phần: Hoàng kỳ, Sơn dược, Đan sâm mỗi vị 20g; Ý dĩ nhân, Xa tiền tử, Đại phúc bì mỗi vị 30g; Đảng sâm, Phục linh, Bạch truật, Tiên linh tỳ, Miết cốt mỗi vị 15g; Trạch tả, Uất kim, Thanh bì, Trần bì mỗi vị 12g; Phụ tử, Cam thảo mỗi vị 6g. - Cách dùng: Sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang, 10 ngày là 1 liệu trình. - Công hiệu: Trị Xơ gan bụng nước (Can ngạnh hóa phúc thủy) (Lương y Trần Hoàng Bảo) 48
- CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ 7 : TRỊ CÁC CHỨNG PHÙ THỦNG DO GAN MẬT TÀI LIỆU CỦA HUỲNH MINH Bệnh xơ gan cổ trương có các triệu chứng là bụng lớn, mặt mày tay chân sưng, đi đứng khó khăn. Nên áp dụng các phương thuốc chỉ dẫn dưới đây : 1. CÔNG THỨC 1: XƠ GAN CỔ TRƯỚNG Cây và lá cây dứa gai hoặc trái , thái mỏng, phơi khô, sao khử thổ, ngày sắc uống 2 lần, 3 chén còn 1 chén. Các nước sau uống thay trà, uồn liên tục sẽ hết. 2. CÔNG THỨC 2: XƠ GAN CỔ TRƯỚNG Gạo trắng, đậu xanh , 2 thứ bằng nhau, nấu ăn hằng ngày với tỏi sống, lượng tỏi phải ít hơn phân nữa lượng gạo. 3. CÔNG THỨC 3: TRỊ BỤNG LỚN DO GAN Lức dây, mắc cở, lá muồng, dây cam thảo , bốn thứ bằng nhau, sắc 3 chén còn 1 chén, uống. 4. CÔNG THỨC 4: TRỊ XƠ GAN CỔ TRƯỚNG ( ĐỘC VỊ ) Chặt cây sung , thái mỏng, thái mỏng, phơi khô, sao khử thổ, sắc 3 chén còn 8 phân, uống từ 3 -5 thang, sẽ tiêu chứng sưng trong bụng. 5. CÔNG THỨC 5: TRỊ XƠ GAN CỔ TRƯỚNG LÂU NĂM, PHÙ THŨNG, ĐI ĐỨNG KHÔNG NỖI Đào rễ cây sứ cùi , thái mỏng, phơi khô, sao khử thổ, sắc 3 chén còn 1 chén, uống hằng ngày. Còn xác nấu ninh, uống thay trà, đừng uống gì khác. Uống như vậy sẽ hết. 49
- 6. CÔNG THỨC 6: XƠ GAN CỔ TRƯỚNG Rễ cau, rễ cây dứa gai, lá muồng trâu, cây chùm gởi, lá bưởi . Năm loại này bằng nhau, sao khử thổ, sắc 3 chén còn 1 chén, uống thường xuyên thì hết bệnh. 7. CÔNG THỨC 7: XƠ GAN CỔ TRƯỚNG Thân cây dứa gai, măng cây sậy, bông ô rô tía, rễ cây nhàu, củ cát lồi, lá quao . Các thứ bằng nhau, phơi khô, sao khử thổ, sắc 3 chén còn lại 1 chén, uống. Còn xác nấu nước uống thay trà. Bài này của Kỹ sư Nghiệp, đã trị nhiều người khỏi bệnh. 8. CÔNG THỨC 8: TRỊ XƠ GAN CỔ TRƯỚNG ( THUỐC THANG ) Cây lá cây dừa cạn, cây cỏ xước, trái dứa gai : xắt mỏng, phơi khô đem sao. Dây nhãn lồng : xắn, phơi, sao. Nhàu rễ, sâm nam. Cây vông nem, cây kim vàng. Tám vị này, mỗi vị một nhúm bằng nhau, sắc 3 chén còn 8 phân, ngày uống 2 thang, uống liên tiếp một tháng. 9. CÔNG THỨC 8: TRỊ XƠ GAN CỔ TRƯỚNG ( THUỐC BỘT ) Tỏi chừng 300 gram, lột vỏ sạch. Đậu xanh đãi vỏ, 300 gram. Nấu chung cho chín, đem phơi khô, tán thành bột, uống sẽ khỏi. 10. CÔNG THỨC 10: TRỊ SƯNG PHÙ MÌNH, TAY CHÂN NẶNG NỀ, ĐI ĐỨNG KHÓ KHĂN Cơm nếp, nấu và cho vô 100 gram tỏi sống trộn cho đều, khi chín nhắc xuống, lấy ra ăn thường xuyên sẽ xẹp hết. 11. CÔNG THỨC 11: TRỊ SƯNG PHÙ MÌNH, TAY CHÂN ( ĐỘC VỊ ) 50
- Cỏ xước , bứt cho nhiều, luôn gốc rễ, rửa sạch, phơi khô, sao khử thổ, sắc 3 chén còn 1 chén, uống ngày 2 lần và xác nấu ninh uống thay trà, uống trong 15 ngày sẽ xẹp hết. 12. CÔNG THỨC 12: TRỊ CÁC CHỨNG ĐAU GAN Rau đắng biển , nấu canh ăn hoặc ăn sống thường xuyên, sẽ hết. 13. CÔNG THỨC 13: TRỊ GAN VÀ NHỨC MỎI Cây lá lốt , phơi khô, sao khử thổ, nấu nước uống thường xuyên sẽ hết. 14. CÔNG THỨC 14: TRỊ DỊ ỨNG DO GAN, ĐI ĐỨNG KHÔNG ĐƯỢC Lá đầu lân đã phơi sương, chừng 1 nắm, đâm cho nhuyễn, vắt chừng nữa ly nước, để chút muối, uống mỗi ngày 2 lần, uống trong 5-10 ngày. 15. CÔNG THỨC 15: TRỊ ĐAU GAN LÂU NĂM Cây mai , chặt gốc rễ, rễ cây sứ cùi , hai thứ bắng nhau, phơi khô, sao khử thổ, lấy 1 nhúm, sắc 3 chén còn 1 chén. 16. CÔNG THỨC 16: TRỊ GAN SƯNG Cây lá vạn thọ , chặt phơi khô, sao, nấu nước uống thường xuyên sẽ hết bệnh. 17. CÔNG THỨC 17: TRỊ NGỨA DO GAN Ké đầu ngực, ô rô tía, dứa gai, dây khổ qua, bèo tai chuột vớt lên để héo, sao vàng. Sắc 3 chén còn 1 chén. 18. CÔNG THỨC 18: TRỊ ĐAU GAN, MẶT NÁM NỔI MỤN Mỗi ngày ăn 1 trái khớm hoặc xay lấy nước uống sẽ hết. 19. CÔNG THỨC 19: TRỊ CÁC CHỨNG ĐAU GAN 51
- Dây cườm thảo có hột đầu đen đầu đỏ, bứt luôn cả gốc rễ, chặt phơi khô, sao khử thổ, sắc 3 chén còn 1 chén, uống mỗi ngày và uống luôn nước nhì. 20. CÔNG THỨC 20: TRỊ ĐAU GAN MỚI PHÁT, VÀNG DA, VÀNG MẮT, NƯỚC TIỂU VÀNG NHƯ NGHỆ Một trái dứa gai trong mình mẹ đâm ra. Cỏ mần chầu Rễ tranh , mía lao Bốn thứ này bằng nhau. Nướng mía lao cho cháy, bỏ vô chung, nấu với 6 lít nước, còn lại 3 lít, uống liên tục, tiêu sẽ hết. Uống trong 3 ngày, nước tiểu trắng trở lại, da mặt bình thường. Nếu liên tục uống 10 ngày sẽ hết bệnh. 21. CÔNG THỨC 21: TRỊ UNG THƯ GAN, BỤNG LỚN Dây hàn the, lưỡi đồng, cây rau dừa trắng, rau mơ, lá thúi địt , bốn thứ bằng nhau, sắc uống thường xuyên thay nước trà, bệnh sẽ hết. 22. CÔNG THỨC 22: TRỊ ĐAU GAN, NỔI U NẦN TRONG CƠ THỂ, NGỨA Đọt lức , một nắm, để vô siêu, sắc uống chừng 5-7 lần sẽ hết. 23. CÔNG THỨC 23: TRỊ ĐAU BỤNG ( THUỐC ĐẮP ) Để muối hột trên rún, đốt thuốc cứu châm cho nóng, nhiều lần sẽ hết. 24. CÔNG THỨC 24: TRỊ XƠ GAN CỔ TRƯỚNG Một chén đậu xanh đãi vỏ, 1 chén tỏi lột vỏ, nấu 2 thứ cho mềm, đánh cho nhừ, đem phơi khô, tán thành bột, ăn như cơm sẽ hết. 25. CÔNG THỨC 25: TRỊ XƠ GAN CỔ TRƯỚNG ( THUỐC THANG ) Cây rau dừa cạn, cây cỏ xước, trái dứa gai, dây lá cây nhãn lồng, nhàu, rễ sâm nam, cây vông nam, cây kim vàng , săc 3 chén còn 1 chén. Uống ngày 3 lần, liên tục 10- 15 ngày sẽ hết. 52
- 26. CÔNG THỨC 26: TRỊ ĐAU GAN, NƯỚC DA VÀNG, NGỨA Cây mật nhân , tán cho nhuyễn, để bột uống hoặc làm hoàn, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 muỗng cà phê đầy. Trong chừng 1-2 tuần sẽ hết. Ngoài ra nó còn trị được bệnh suyễn, sợ nước ra gió. 27. CÔNG THỨC 8: TRỊ XƠ GAN, BỤNG LỚN, DA VÀNG Vỏ rễ cây dứa gai, cây mướp mọc theo mé sông (có gai, làm dưa ăn); cây cỏ xước , ba thứ bằng nhau. Mỗi lần hốt 1 nắm, sắc 3 chén còn 1 chén. Xác nấu uống thay trà. Uống trong 1 tuần sẽ xổ độc ra hết, đã trị nhiều người khỏi bệnh. 53
- CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ 8 : PHƯƠNG PHÁP OHSAWA LỌC GAN - Nếu bị bệnh gan siêu vi B, C, hay sơ gan: lấy 10 gram PHAN TẢ DIỆP - Nếu bị khối u gan: lấy 12 gram PHAN TẢ DIỆP Nấu lá này lần đầu với 3 chén nước, sắc còn 8 phân, uống trước 6 giờ sáng. Nấu lá này lần thứ nhì với 2 chén nước, sắc còn 6 phân, uống buổi chiều. - Đối với bệnh gan siêu vi B, C, hay sơ gan: uống liên tục lá thuốc này khoảng 10 ngày. Ngoài ra, uống thêm một xị rưỡi ( = 0,375 lít) nước lá trà 3 năm. - Đối với bệnh ung thư gan: phải uống lá thuốc này liên tục 10 ngày. Ngoài ra, uống thêm một xị rưỡi ( = 0,375 lít) nước lá trà 3 năm. Khi uống lá thuốc này, sẽ đi xổ liên tục mỗi ngày từ phân đen sang phân xanh, đến khi đi phân vàng thì không uống lá thuốc này nữa, vì gan đã được lọc sạch. Nếu thấy sức khỏe yếu thì ngưng không dùng lá thuốc này nữa. Nếu sức khỏe tốt thì uống tiếp để xổ cho đến khi đi phân vàng thì ngưng. Sau khi gan đã sạch, chưng cách thủy 2 củ nhỏ lão sơn sâm đã giã nát + 10 lá trà 3 năm + 5 gram hạt câu kỉ + nửa xị nước, chưng trong 30 phút. Sau đó, chắt nước này ra chén. Rồi chế thêm nửa xị nước vào hỗn hợp này cũng chưng trong 30 phút là được. Uống nước này ban ngày để tăng cường sức khỏe, trong 10 ngày. Ngoài ra, uống thêm 2 xị nước (= nửa ít nước) lá trà 3 năm trong ngày. Sau khi xổ xong và trước khi ăn lại theo pháp dưỡng sinh số 7 và uống 3 xị (= 0,75 lít) nước lá trà 3 năm. Ngoài ra, cần uống nước bột sắn dây khuấy với nước tương Tamari để cải thiện đường ruột do quá trình đi tiêu chảy khi lọc gan, buổi tối trước khi đi ngủ, uống nước bột sắn dây khuấy với nước tương Tamari. Lấy một muỗng canh bột sắn dây khuấy với chút nước chín cho bột khỏi bị ốc trâu, rồi đổ bột này vào son nước đang sôi có khoảng một chén nước (chén ăn cơm), khuấy đều cho chín bột, bột trong là chín. Sau đó cho vào 1 muỗng cà phê nước tương Tamari, khuấy đều lên. Ăn nóng rồi trùm mền kín cho ra mồ hôi. Sau đó, lau khô người và thay quần áo. Một tiếng đồng hồ sau mới được tiếp xúc với gió. Nếu muốn kiểm tra xem gan đã tốt chưa, sau 3 tuần kể từ ngày đi phân vàng, có thể đi xét nghiệm gan. 54
- CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ 9 : BÀI THUỐC HAY TRỊ GAN HIỆU NGHIỆM Với kinh nghiệm bản thân, tôi xin ghi lại đây toa thuốc này ngơ hầu giúp quư vị qua được cơn bạo bệnh. Thuốc này chẳng những trị được bệnh ung thư phổi của riêng tôi mà cṇ trị được ung thư gan và các bệnh hạch bướu khác với kết quả 100/100, v́ chính người thân và bạn bè đă được trị lành trong nhiều năm qua. V́ vậy hăy tin tưởng mà kiên nhẫn uống liên tục trong một thời gian dài cho đến khi nào thật lành bệnh hăy ngưng uống. Ung thư là bệnh nguy hiểm nên khi mắc bệnh là như cầm bản án tử trong tay nên lo sợ là tự nhiên. Tuy nhiên, chúng ta nên nghĩ rằng nếu có sanh th́ phải có tử, đâu ai tránh khỏi luật này, v́ vậy ta lo sợ có ích ǵ mà chỉ hại sức khoẻ thêm thôi. Hăy nghĩ là ḿnh có cái may biết được ngày ḿnh ra đi, th́ hăy cứ an nhiên chấp nhận để tâm thật an b́nh mà hưởng những ngày cṇ lại và tận dụng toàn thời gian đó cho gia đ́ nh và người thân của chúng ta. Hăy chung vui, xum họp và sắp xếp công việc để ḷng được thanh thản. Toa thuốc này tuy đơn sơ nhưng rất có hiệu quả, đă chữa lành cho nhiều người th́ quư vị cũng nên tin tưởng ḿnh cũng sẽ được chữa lành. Điều quan trọng là tinh thần phải vững, đừng lo sợ buồn phiền. V́ tinh thần sa sút sẽ ảnh hưởng đến thân xác mất ăn, mất ngủ. Sức khoẻ kém sẽ làm mất sức đề kháng. Nếu quư vị có thắc mắc, xin điện thoại về Bà Bích: (1)714-893-3427 begin_of_the_skype_highlighting (1)714-893-3427 end_of_the_skype_highlighting, tôi rất sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân tôi; người đă qua ung thư lần thứ nhất và một lần di căn sáu năm sau, tất cả đều nhờ toa thuốc này mà lành bệnh. Quư vị có bệnh xin hăy tin tưởng và uống đều. Toa thuốc rất đơn giản, chỉ có hai vị là Quy tô tử và Mạch chủ, hầu hết các tiệm thuốc Bắc đều có. Riêng Orange County th́ có hai tiệm có thuốc đă xay nhỏ sẵn cho quư vị dễ sắc. 1) Tân Sanh Thuốc Bắc 9659 Bolsa Ave. Westminter, CA 92683 Tel. 714-839-6712 2) Hồng Phát Thuốc Bắc 14338 Brookhurst St. Garden Grove, CA 92643 Tel. 714-839-2112 Ở Việt Nam, quư vị có thể đến tiệm Y Học Dân Tộc Hợp Tác Xă Hùng Vương 136 Hải Thượng Lăng Ông Phường 10, Quận 5, TPHCM Tel. 3950- 6548 Xin xem cách sắc thuốc và uống thuốc ở trang sau. Lưu ư: Thuốc uống mấy ngày đầu cảm thấy trong người nóng, sau đó không cṇ cảm giác nóng nữa. Đấy là việc tự nhiên, xin quư vị chớ lo. TOA THUỐC TRỊ BỆNH UNG THƯ VÀ CÁC LOẠI HẠCH BƯỚU 55
- (TOA THUỐC GIA TRUYỀN CỦA NGƯỜI TÀU) Mỗi thang chỉ có hai vị: 1. Quy tô tử: 1 cân Anh (1 lb). Quy tô tử giống hạt sen khô, nhưng rất cứng, búa đập khó bể nên nhớ bảo tiệm thuốc xay luôn ra cho nát th́ nấu mới ra thuốc được. 2. Mạch chủ: 1 bao (bịch) (có tẩm mật ong sẵn nên có vị ngọt). 1 bao thường có 15 trái lớn, hoặc 18 trái nhỏ. Tùy thích ngọt lạt mà gia giảm, chớ giảm quá nhiều, mất vị thuốc. * Cách nấu: Nên dùng nồi slow-cooker bằng sành sứ (không nên dùng nồi bằng kim loại) - Nước nhất: Cho 1 lb quy tô tử và 10 trái mạch chủ (lớn) vào nồi. Đun 1 gallon nước sôi riêng bên ngoài, sôi xong mới đổ vào nồi (cốt cho nước trong nồi slow-cooker được sôi liền) và vặn cho nồi ở mức độ cao (Hi). Đun trong ṿng 8 tiếng đồng hồ. Dùng khăn lược hoặc lưới nylon (tránh không dùng lưới, vợt kim khí), lược lấy nước nhất, giữ xác thuốc lại để nấu nước nh ́. (Nếu muốn uống nước nhất th́ càng tốt, mau có hiệu quả, không th́ chờ nấu nước nh́ xong, ḥa chung lại uống cũng không sao). - Nước nh ́: Cho thêm vào nồi số Mạch chủ cṇ lại trong bao và cũng nấu như nước đầu với nửa gallon nước nhưng lần này ít giờ hơn. Đun khoảng 5 tiếng đồng hồ. Dùng khăn lược như nước nhất. Ḥa hai nước nhất và nh́ lại làm một để uống. Chứa trong chai, lọ thủy tinh, để tủ lạnh. * Cách uống: Mỗi ngày uống hai lần, sáng sớm và chiều tối, khi bụng đói, để có hiệu quả tốt. Mỗi lần uống một ly (chén). Chú ư: Thuốc này không kỵ bất cứ thuốc Đông Y hay Tây Y nào hết, và cũng không kỵ bâ′t cứ thức ăn nào. Tuy nhiên, để bảo đảm công hiệu và an toàn, nên uống cách 2 tiếng khi dùng Âu dược. Khi uống vào thường không có một phản ứng nào, nhưng nếu có khạc nhổ (hoặc tiêu, tiểu) ra chút máu th́ đó là chất độc dược thải ra. Xin đừng sợ mà nên mừng. Nên uống liên tục, ít nhất là 4 tháng (nếu biết là ung thư ở vào thời kỳ nặng th́ cứ tiếp tục uống thêm vài tháng liên tục, đừng nghỉ). Nấu thuốc gối đầu sao cho có thể uống liên tục không ngưng ngày nào đến khi lành bệnh. Quan trọng nhất là phải kiên tŕ và luôn thành tâm cầu nguyện cho bệnh tật tiêu trừ. Nguồn: Bồ Đề Đạo Tràng - Ung thư GAN Toa thuoc duoi day la tri binh ung thu gan rat hieu nghiem , va nguoi nha cua toi( nguoi anh re) bi ung thu gan ,bac si chan doan la trong thoi ky cuoi , trong vong 6 thang la chet . Anh cua toi da uong loai thuoc duoi day va da binh phuc han. BS chan doan la cac buu trong gan da khong con va chi so ung thu khi thu mau da tro lai binh thuong- Co nghia la mam ung thu khong con hien dien nua - 56
- Toi post bai nay de quy vi tham khao va pho bien cho moi nguoi de lam phuoc. Than ai chao cac ban . Đây là toa thuốc trị bệnh ung thư gan: - 1 Lbs Qui tô tử ( xay nhuyển ) - 1 Lbs Mạch chủ ( táo mật) Tất cả đều có bán trong tiệm thuốc bắc Cách nấu & uống Mua về nấu đúng 1 lbs qui tô tử và 3/4 lbs mạch chủ với một galon nước . N ấu bằng nồi slow-cook loại lớn khoang 18 giờ , nấu den khi còn lai 1/2 galon lọc lấy nước bỏ vào chai để trong tủ lạnh. Xác còn lại đổ 1/2 galon nước và 1/4 mạch chủ rồi nấu tiếp, nấu den khi còn 1/4 rồi cũng lọc lấy nước . Thuốc được uống trước và sau bụng trống hai giờ mỗi ngày hai lần (sáng thức dậy và trước khi đi ngũ mỗi lần một cup (8oz) 57
- CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ10 : XÃ VÀ ĐU ĐỦ TRỊ HIỆU NGHIỆM UNG THƯ GAN VÀ NHIỀU LOẠI UNG THƯ KHÁC Cách đây hơn hai năm , anh em VHV trường Võ Bị Dalat nhận được hai tin không vui về một cựu Giáo sư , anh Phùng Văn Bộ là việt kiều Canada đang gặp phải: - một là hơn nửa triệu đô la đầu tư về VN bi. mất trắng và - hai là Anh gặp bệnh nan y : Ung thư gan giai đoạn cuối, sau xét nghiệm cuối cùng về y khoa ở bệnh viện ở Canada . Anh đã nằm viện mấy tháng, khối u gan trên 04 cm đã được xử dụng kỹ thuật cao chặn đứng sự di -căn bằng cách cắt, cô lập cách mạch máu nuôi u và đưa thuốc vào nội tạng gan để cô lập . GIẢI PHÁP TỐI ƯU: LÁ ĐU ĐỦ VÀ SẢ. Anh Bộ sinh năm 1933, nay đã trên 80 tuổi, không đủ sức chịu đựng, nên mất sức nhanh , tóc rụng và đứng đi không nổi .Bệnh viện cũng cho anh hay với tình trạng sức khoẻ của anh khó vựợt qua nổi sáu tháng.Trước 2009 anh Phùng Văn Bộ , bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoan đầu , bệnh viện đề nghị giải phẩu,anh không chịu cho mổ, cố chịu cảnh “đái rắc” vì thấy mình cũng tuổi già, không nên đụng vào dao kéo làm gì. Vừa ung thư gan và tiền liệt tuyến (cả hai đều là ung thu nguyên phát), vừa được y khoa tiến triển của Tây Y “báo tử”, là anh không đủ sức chịu nổi “xạ trị” và các ca dao kéo. 58
- Vốn là thầy thuốc châm cứu, và hiểu rõ y lý đông phương, hơn nữa cũng sẵn tâm thuận đạo sinh tử lẻ thừơng, anh trở về VN, Vĩnh Long, thử chữa theo cách của mình. Dẫu sao, ru mình những ngày cuối đời ở quê nhà vẫn là hạnh phúc! Anh Phạm Kế Viêm,một Giáo Sư toán nổi danh ,người suốt đời nghiên cứu tử vi, bạn VHV Đà Lạt,với anh Bộ , gửi thư động viên anh Phùng Văn Bộ giữa năm 2011: “cái rủi mất tiền. đầu tư sai chỗ ở VN của anh biết đâu là “của đi thay người” gánh cho anh cái nạn bệnh nan y này. Anh qua được năm này, tôi tin Anh sẽ còn thọ, sẽ tốt” Tất cả anh em VHV đều tin rằng anh Viêm chỉ an ủi, còn việc anh Bộ về quê với ung thư gan giai đọan cuối, tóc rụng, chân run , đi một bước có người dìu đỡ đưa được thân xác tàn tạ về quê hương những ngày cuối đời đã là điều quý.(!!) Vậy mà hôm qua, ngày 02/04/2013, Hay tin anh Phùng- Văn- Bộ từ Vĩnh Long lên Saigon để về Canada. Tôi và anh Diệp VHV , đến thăm anh và tôi không thể tin ở mắt mình: Một ông già 81 tuổi chắc nịch, mắt sáng, dáng đi cứng cáp bước lên xuống cầu thang gác đon tôi và anh Nguyễn -Văn -Diệp như là một "trung niên hán tử" ! - Hai năm qua anh đă chữa trị ung thư bằng cách nào, mà mới ngày nào tôi gặp anh, xin lỗi tôi nghĩ anh không qua được sáu tháng.?.Tôi hỏi. -Bệnh viện Canada nó cho mình bản án báo tử. Mình về quê-hương "còn nước còn tát " .Mình chỉ có kiên trì 1 thứ thuốc đó là:”Nước trà lá đu đủ với sả,". uống thay mọi thức uống. Chỉ có vậy. Mình muốn nói với các bạn, lấy kinh nghiệm bản thân của mình mà nói cho mọi người. Giúp được ai thì mừng nấy các bạn à. Anh Bộ, nhấn mạnh cách chữa trị ung thư của anh như sau : - Ung thư gan, nội tạng, phổi Đều xử dụng trà lá đu đủ và sả chữa trị được. Nhưng cũng tùy tạng người, có người chữa dứt, có người được giai đọan đầu biến chuyển nhanh, nhưng sau đó chậm. Ung thư gan thì tôi thấy biến chuyển rõ rệt. Tôi dùng trà lá đủ đủ và sả trong hai năm, nay đi tái khám và xét nghiệm thì đã hòan tòan hết sạch bứơu trong gan cũng như sưng phù tuyến tiền liệt.Tôi đã chỉ vẻ nhiều người dưới quê , kết quả rất tốt , nhất là các bệnh ung thư gan , phổi , bao tử , siêu vi B , siêu vi C Nó là loại trà giải độc , lọc máu số một , không bệnh uống ngừa bệnh cũng rất hay . Cách chế biến như sau: lá đu đủ xắt tươi phơi khô, sả củ xắt mỏng phơi khô, cả hai thứ trộn lẫn, nấu như nấu nước chè, bỏ vào chai để nguội uống suốt ngày. Tỉ lệ sả trong đu đủ ít thôi, khỏan 1 phần mười sả làm mùi nước thơm dễ uống và nó dẫn chất thuốc rất nhanh. Thời gian đầu, khỏan hai tuần, khi mới uống thì phân và tiểu thải ra có mùi hôi thối nồng nặc. Đó là chất độc đã được trục ra khỏi máu. Nhìn cách anh Phùng Văn Bộ trình bày, cách anh nói cười diễn đạt tôi không tin vào mắt mình rằng đây là nguòi trước đây hơn một năm , tôi bắt bàn tay lạnh giá của anh với ý nghĩ là lần vĩnh biệt. Cách đây mấy ngày tôi vừa nhận đựơc tin bạn tôi, Lê Thiệp, ở Mỹ cũng đang đi vào kiếp nạn ung thư gan giai đọan cuối. Trong phát biểu trước thân hửu tại Lễ kỉ niệm 10 năm Tủ-Sách Tiếng Quê Hương, bạn Lê Thiệp cho biết thi sĩ Uyên Thao nhờ uống trà lá đu đủ mà thóat tay tế bào ung thư. Thế thì món thuốc đơn giản này không phải là khám phá mới ,nhưng theo Anh Phùng -văn -Bộ khó nhất và cần nhất là kiên trì, kiên trì uống!! .Chỉ đơn giản có vậy!! Tôi mong bạn tôi Lê -Thiệp, Nguyễn -khắc -Nhượng cũng được như anh Phùng- Văn -Bộ, 81 tuổi, nói cười ha hả khoe với tôi và anh Diệp: “Tôi nói các bạn chia vui, khỏan ung thư thì nay đã qua khỏi rồi, mà khỏan "sức sống "thì nay mình nay hơn tám mươi mà lạ quá mình cũng còn "rạo rực" lắm lắm mấy bạn à!!" 59
- NGUYỄN QUANG TUYẾN LÁ ĐU ĐỦ CHỐNG UNG THƯ Các nhà khoa học Nhật Bản và Mỹ vừa phát hiện thêm một tác dụng mới của cây đu đủ: chất chiết xuất từ lá đu đủ có khả năng diệt tế bào ung thư. Kết quả nghiên cứu mới này được đăng tải trên “Tạp chí dược lý dân tộc” của Nhật Bản. Theo phát hiện mới của nhóm nghiên cứu gồm các nhà khoa học của Văn phòng thí nghiệm lâm sàng thuộc Trung tâm Ung thư, Đại học Florida, Mỹ và Đại học Tokyo, chất chiết xuất từ lá đu đủ có khả năng kháng ung thư và hiệu quả này tương thích với tất cả các tế bào ung thư được gây dựng trong phòng thí nghiệm, gồm ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư gan, phổi, ung thư tuyến tụy Khi cho 10 loại tế bào ung thư khác nhau tiếp xúc với chất chiết xuất này, 24 giờ sau có thể thấy tốc độ phát triển của tế bào chậm hẳn lại, và nếu nồng độ chất chiết xuất càng cao, hiệu quả kháng tế bào ung thư, thậm chí giết chết nó càng rõ rệt. Cũng trong một thí nghiệm tương tự, các nhà khoa học còn phát hiện ra chất chiết xuất từ lá đu đủ có khả năng thúc đẩy tế bào Th1 - tế bào đóng vai trò quan trọng trong hệ miễn dịch - sinh trưởng và phát triển. Mặt khác, việc sử dụng chất chiết xuất từ lá đu đủ kháng ung thư còn có ưu điểm ở chỗ nó không mang độc tính và không gây ra tác dụng phụ. Nó có thể tiêu diệt tế bào ung thư, song không ảnh hưởng xấu đến các tế bào khỏe mạnh, vì vậy sẽ tránh được các trường hợp làm tổn thương đến cơ thể người bệnh như khi dùng các loại thuốc thông thường. “Chúng ta từng biết đến đu đủ như một loại trái cây rất có ích trong việc phục hồi sức khỏe”, tiến sỹ Bharat Gawol thuộc Trung tâm Ung thư Anderson, Đại học Texas cho biết, “Đu đủ có rất nhiều thành phần có lợi, trong đó phải kể đến chất papain, một ezyme có rất nhiều trong quả và lá của chúng”. Hiện các nhà khoa học đang đẩy mạnh nghiên cứu để thử nghiệm trên động vật và người. Gia Vinh THƯ NGƯỜI DÙNG LÁ ĐU ĐỦ Anh chị Bình thân quý, Tôi thật tiếc đã không được biết sớm hơn bệnh tình của anh. Nếu biết sớm, tôi tin chắc anh đã không phải chịu đau đớn vì cái bệnh nan y đó vì người ta đã có cách chữa khỏi, vừa rẻ tiền, vừa công hiệu làm kinh ngạc nhiều người, như thể phép lạ. Đó là dùng lá Đu Đủ làm thuốc chữa ung thư mà chính tôi biết rõ. Anh Bình có biết anh Thái Quang Minh Tuấn thuộc trường Phi Hành ngoài Nha Trang ngày xưa không? Anh Tuấn bị ung thư phổi rất nặng và bác sĩ cho xuất viện về nhà đợi chết, nói anh ấy chỉ có thể sống được thêm 5 ngày tới một tuần lễ mà thôi. Cả nhà tuyệt vọng nhưng anh Tuấn có nghe biết về Lá Đu Đủ nên nấu dùng thử. Tụi tôi có đến thăm, thấy anh ấy không khác gì những người tù Do Thái trong trại tập trung Đức Quốc Xã, đợi lùa vào phòng hơi ngạt! Chị ấy kể rằng máu mủ từ phổi chảy ra qua ống nylon chảy ra ngoài, hôi thối không ai chịu nổi, kể cả con cái. Thế mà, kỳ diệu thay, mới chỉ uống nước Lá Đu Đủ được 3 ngày, anh ta thấy bớt đau và phổi không còn thải ra nước hôi thối nữa! Qua tuần lễ đó, anh vẫn sống, vẫn tiếp tục uống và khỏi luôn khiến bác sĩ và các y tá điều trị cho anh ở bệnh viện Fort-Worth phải cực cùng kinh ngạc. Anh phục hồi sức khỏe rất nhanh chóng, bây giờ không hút thuốc lá nữa, phương phi khỏe mạnh như xưa. Hôm gặp anh ấy trong một tiệc cưới, tôi ngạc nhiên không thể ngờ. Lúc đó bà cụ tôi vừa khám phá ra bệng ung thư xương. Cancer ăn tiêu mất 1/3 xương hông, nơi đó đùn lên một cái mass cancer to bằng cái chén và cụ tôi đau đớn không đi lại được, phải ngồi xe lăn. Mỗi ngày 60
- tôi phải đưa cụ vào bệnh viện chạy radiation và rồi làm chemo-therapy. Anh Tuấn cho tôi một ít lá đu đủ, nói để Me tôi dùng thử, may ra khỏi vì anh không biết nó có công hiệu cho các ung thư khác không . Tôi lấy về cho Me tôi dùng thay nước trà mỗi ngày, gửi thư về VN nói cô em tôi kiếm gửi qua nữa. Cụ tôi 81 tuổi. Khi chữa thuốc tây, tôi vẫn cho cụ uống lá đu đủ song song và bác sĩ phải lấy làm lạ lùng vì cụ không bị rụng tóc hay bất cứ một phản ứng gì khác do chất hóa học và radiation làm ra như skin rash, táo bón Sau đó còn một vài trường hợp như ung thư bao tử, trực tràng, phổi cả Việt lẫn Mỹ đều khỏi rất nhanh chóng. Một ông bạn già của tôi có ông con rể người Hoa Kỳ bị bác sĩ chê, sắp sửa ra đi, vậy mà mới uống lá đu đủ vài tuần đã đi làm lại được và tin tưởng tuyệt đối vào môn thuốc ngoại khoa này. Thật ra việc dùng lá đu đủ chữa bệnh ung thư, hồi mới qua đây được ít năm, tôi có đọc một tài liệu y khoa trên báo Mỹ nói đến thổ dân ở Úc đã lấy Lá Đu Đủ chữa khỏi bệnh cancer. Tài liệu này do một bác sĩ người Đức làm việc ở Canberra viết và phổ biến. Tôi cũng xin gửi kèm thư này cái eMail tôi gửi cho thân hữu có kèm thư anh Văn Quang từ Saigon mới gửi cho tôi cách đây hai tuần. Anh Văn Quang cho biết trường hợp một bà bị ung thư tử cung mà khỏi nhờ lá đu đủ do tôi mách bảo. Hồi đó nghe tin nhà văn Mặc Thu bị ung thư phổi, tôi bèn viết eMail nhờ Văn Quang nói với gia đình ông Mặc Thu nhưng họ không tin. Văn Quang cũng nghi ngờ nhưng bây giờ thì tin lắm. Vậy anh Bình ơi, anh hãy nghe tôi, chịu khó dùng xem sao. Nó không khó uống đâu và làm rất giản dị. Chỉ bốc một nhúm cho vào bình nước sôi như ta pha trà rồi uống thay nước mỗi ngày, càng nhiều càng tốt. Đừng pha nhạt quá mà cũng đừng pha đặc quá khó uống. Tôi gửi gói này, cũng phải mấy tháng mới dùng hết. Anh chị đừng lo. Nếu thấy đỡ và cần thêm, tôi sẽ cung cấp cho anh chị. Tụi này nhớ đến hai bác rất thường. Hôm trước có gọi thăm nhưng không được, tôi tưởng hai bác dọn nhà hay đổi số mới mà không cho biết nên định bụng năm nay gửi thiệp Giáng Sinh sẽ hỏi số điện thoại và địa chỉ eMail của anh chị hay của cháu Trang, cháu Tiến để liên lạc nhanh chóng hơn. Chúng tôi vẫn bình thường và vừa có cháu ngoại đầu lòng được hơn tháng rồi, bận với thằng nhỏ cũng vui lắm. Chúng tôi mong chúc anh chóng bình phục. Thăm cả nhà và mong có dịp sẽ gặp lại anh chị và hai cháu. Thân quý Tác giả bài viết: Hùng & Phụng 61