Đa đạng sinh học và nhận thức của người dân sống ở vùng đệm khu bảo tồn về đa dạng sinh học: Trường hợp nghiên cứu ở bản Khe Trăn, Việt Nam (Phần 1)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đa đạng sinh học và nhận thức của người dân sống ở vùng đệm khu bảo tồn về đa dạng sinh học: Trường hợp nghiên cứu ở bản Khe Trăn, Việt Nam (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
da_dang_sinh_hoc_va_nhan_thuc_cua_nguoi_dan_song_o_vung_dem.pdf
Nội dung text: Đa đạng sinh học và nhận thức của người dân sống ở vùng đệm khu bảo tồn về đa dạng sinh học: Trường hợp nghiên cứu ở bản Khe Trăn, Việt Nam (Phần 1)
- Các quyết định về vấn đề sử dụng đất tại Việt Nam thường chỉ dựa trên những đánh giá Trường hợp nghiên cứu ở bản Khe Trăn, Việt Nam Đa đạng sinh học và nhận thức của người dân sống ở vùng đệm khu bảo tồn về đa dạng sinh học: về kinh tế và sinh vật lý, mà ít quan tâm đến những quan điểm hoặc nhận thức của người dân địa phương. Điều này cĩ thể dẫn đến các mâu thuẫn trong quá trình quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, việc sử dụng đất khơng mang tính bền vững và các quyết định khơng cơng bằng đối với người dân địa phương. Bản Khe Trăn, một bản làng tại miền Trung Việt Nam, là nơi cư trú của một nhĩm dân cư thuộc nhĩm dân tộc thiểu số Pahy. Động lực của sự thay đổi trong vùng là những chính sách sử dụng đất khác nhau, là kết quả của phương pháp tiếp cận ‘từ trên xuống’ của chính phủ, và những thay đổi hệ quả về thực trạng rừng địa phương. Sinh kế ở địa phương đã chuyển từ hình thức du canh du cư và sự lệ thuộc lớn vào rừng tự nhiên sang hình thức định canh định cư. Bản Khe Trăn hiện đang thuộc vùng đệm của khu bảo tồn thiên nhiên vừa mới được quy hoạch, và chính phủ khuyến khích người dân ở đây trồng các loại cây kinh tế ở các đồi trống quanh bản. Sự phụ thuộc của người dân vào các nguồn tài nguyên rừng đã giảm đi đáng kể, và hầu hết kiến thức địa phương về rừng tự nhiên cĩ thể sớm bị mai một. Vùng đất chính bao phủ quanh bản hiện tại là các rừng trồng Keo và Cao su, đất trống, và đất trồng cây nơng nghiệp. Kiến thức và quan điểm của địa phương ít khi được các cơ quan nhà nước quan tâm trong quá trình triển khai các dự án giao khốn đất, quá trình ra quyết định về cơng tác quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, cũng như việc sử dụng đất ở cấp độ cảnh quan. Cần cĩ cơ hội để thơng tin được tốt hơn đến các tổ chức phát triển và liên kết các bên tham gia ở cấp địa phương để đạt được tính bền vững của việc thực hiện các chính sách. Quyển sách này ghi lại những vấn đề mà người dân bản Khe Trăn cho là quan trọng xét trên phương diện mơi trường và các nguồn tài nguyên ở địa bàn sống của họ. Phương pháp tiếp cận của chúng tơi liên kết các hoạt động đa ngành - thơng qua các ngành khoa học tự nhiên, nhân văn - và lý giải tầm quan trọng tương đối của các thành phần cảnh quan, các sản phẩm và các lồi đối với người dân địa phương. Quyển sách này cũng nhằm mục đích nối kết tốt hơn các ưu tiên của người dân địa phương trong tương lai, cũng như nối kết những kỳ vọng, các giá trị cũng như các mối quan hệ của người dân với vùng bảo tồn. Meilinda Wan Manuel Boissière Đa đạng sinh học và nhận thức của người dân • Douglas Sheil sống ở vùng đệm khu bảo tồn về đa dạng sinh học: • Imam Basuki Trường hợp nghiên cứu ở bản Khe Trăn, Việt Nam • Piia Koponen Manuel Boissière • Imam Basuki • Piia Koponen Meilinda Wan • Douglas Sheil VIETNAM
- Đa đạng sinh học và nhận thức của người dân sống ở vùng đệm khu bảo tồn về đa dạng sinh học: Trường hợp nghiên cứu ở bản Khe Trăn, Việt Nam Manuel Boissière Imam Basuki Piia Koponen Meilinda Wan Douglas Sheil Người dịch: Lê Hiền Phạm Văn Vũ
- Thư viện quốc gia Indonesia Cataloging-in-Publication Data Boissière, Manuel Đa đạng sinh học và nhận thức của người dân sống ở vùng đệm khu bảo tồn về đa dạng sinh học: Trường hợp nghiên cứu ở bản Khe Trăn, Việt Nam/sách của các tác giả Manuel Boissière, Imam Basuki, Piia Koponen, Meilinda Wan, Douglas Sheil. Xuất bản tại Bogor, Indonesia: Trung tâm nghiên cứu rừng quốc tế (CIFOR), 2006. ISBN 979-24-4663-X 119p. CABI các từ khố: 1. bảo tồn thiên nhiên 2. bảo tồn thiên nhiên 3. cảnh quan 4. đa dạng sinh học 5. đánh giá 6. sự tham gia của cộng đồng 7. Việt Nam I. Mục đề © 2006 by CIFOR All rights reserved. Published in 2006 Printed by Inti Prima Karya, Jakarta Bản quyền của CIFOR. Xuất bản năm 2006 In tại nhà in Inti Prima Karya, Jakarta Thiết kế bởi Catur Wahyu và Gideon Suharyanto Ảnh của Manuel Boissière và Imam Basuki Ảnh trang bìa, từ trái sang phải: - Một người dân địa phương đang làm đất gieo đậu lạc trên mảnh đất trước đây từng là ruộng lúa nước, Khe Trăn. - Một cơ gái trẻ đang gánh cây keo con lên đồi để trồng. - Người dân địa phương thảo luận về tương lai của khu bảo tồn Phong Điền - Các loại đất ở Khe Trăn: đồi trọc, đất thổ cư và vườn nhà, ruộng lúa nước, và khu rừng bảo tồn Sách do Center for International Forestry Research (Trung tâm nghiên cứu rừng quốc tế) xuất bản Jl. CIFOR, Situ Gede, Sindang Barang Bogor Barat 16680, Indonesia Tel.: +62 (251) 622622; Fax: +62 (251) 622100 E-mail: cifor@cgiar.org Web site:
- Mục lục Từ viết tắt và thuật ngữ vii Lời cám ơn ix 1. Bối cảnh và mục tiêu nghiên cứu 1 2. Phương pháp nghiên cứu 3 Các hoạt động tại bản 3 Các hoạt động ngồi thực địa 5 3. Kết quả nghiên cứu 8 4. Bối cảnh chung của cơng tác bảo tồn tại Khe Trăn 10 4.1. Các hoạt động liên quan đến cơng tác bảo tồn trước đây 10 4.2. Các chương trình của chính phủ cĩ ảnh hưởng đến bản Khe Trăn 12 Tĩm tắt 14 5. Thơng tin chung về địa bàn nghiên cứu 15 5.1. Địa bàn nghiên cứu 15 5.2. Người dân ở bản Khe Trăn 17 5.3. Vấn đề sử dụng đất và các nguồn tài nguyên thiên nhiên 23 Tĩm tắt 28 6. Nhận thức của người dân về các loại đất và các nguồn tài nguyên 29 6.1. Vấn đề sử dụng đất 29 6.2. Tầm quan trọng của các loại đất 31 6.3. Tầm quan trọng của rừng 32 6.4. Tầm quan trọng của rừng trong quá khứ, hiện tại, và tương lai 34 6.5. Tầm quan trọng căn cứ vào nguồn sản phẩm 36 6.6. Các loại lâm sản quan trọng nhất 37 6.7. Những mối nguy hại đối với rừng và đa dạng sinh học 41 6.8. Kỳ vọng của người dân về tương lai của rừng và cuộc sống của họ 43 Tĩm tắt 45 iii
- iv | Mục lục 7. Tính chất của các loại đất 46 7.1. Phương pháp lập ơ điều tra ở các loại đất 46 7.2. Phương pháp thu thập và nhận diện mẫu thực vật 48 7.3. Sự đa dạng của các lồi thực vật 51 7.4. Cấu trúc lâm phần 53 7.5. Các lồi đang bị đe doạ 55 Tĩm tắt 58 8. Kiến thức về dân tộc thực vật học 59 8.1. Vấn đề sử dụng các lồi thực vật 59 8.2. Các lồi đa dụng 61 8.3. Vấn đề sử dụng các lồi cây gỗ 62 8.4. Vấn đề sử dụng các lồi cây phi gỗ 62 8.5. Rừng là nguồn cung cấp các lồi thực vật hữu ích 64 8.6. Các lồi cĩ cơng dụng khơng thể thay thế được 65 8.7. Lưu ý về tiềm năng sử dụng của một số lồi 66 Tĩm tắt 66 9. Nhận thức của người dân về cơng tác bảo tồn 67 Tĩm tắt 70 10. Kết luận và khuyến nghị 71 10.1. Kết luận 71 10.2. Khuyến nghị 75 Tài liệu tham khảo 77 Phụ lục 79 1. LUVI (giá trị trung bình) của các lồi thực vật quan trọng dựa trên các hạng mục sử dụng khác nhau (kết quả dựa vào hoạt động đánh giá bằng phương pháp cho điểm của bốn nhĩm) 79 2. LUVI (giá trị trung bình) của các lồi động vật quan trọng dựa trên các hạng mục sử dụng khác nhau, kết quả dựa vào hoạt động đánh giá bằng phương pháp cho điểm của bốn nhĩm 83 3. Tên thực vật, họ, và tên địa phương của các mẫu thu thập được trong và ngồi các ơ điều tra, dựa trên hạng mục sử dụng 84
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | Bảng biểu, hình ảnh và biểu đồ Bảng biểu 1. Danh sách các thành viên nhĩm nghiên cứu MLA ở bản Khe Trăn 3 2. Các sự kiện quan trọng ảnh hưởng đến sinh kế của địa phương 21 3. Độ biến động của thu nhập dựa vào loại sản phẩm và khu vực định cư 22 4. Nhận diện các loại đất ở bản Khe Trăn 24 5. Phân nhĩm các loại đất tại bản Khe Trăn 25 6. Những cây rừng quan trọng và giá trị sử dụng tại địa phương 30 7. Các hạng mục sử dụng chính của các nguồn động thực vật 30 8. Tầm quan trọng của các loại đất tại địa phương dựa trên hạng mục sử dụng (tất cả các nhĩm) 33 9. Tầm quan trọng của rừng dựa trên hạng mục sử dụng (tất cả các nhĩm) 33 10. Tầm quan trọng của rừng theo thời gian dựa trên các hạng mục sử dụng khác nhau (tất cả các nhĩm) 35 11. Tầm quan trọng (%) của nguồn sản phẩm phân theo giới 37 12. Các loại cây và động vật rừng quan trọng ở Khe Trăn (tất cả các nhĩm) 39 13. Những lồi cây rừng quan trọng nhất, xếp hạng theo hạng mục sử dụng (tất cả các nhĩm) 40 14. Những lồi động vật rừng quan trọng nhất, xếp hạng theo hạng mục sử dụng (tất cả các nhĩm) 40 15. Tầm quan trọng của các lồi cây rừng, xếp hạng dựa trên hạng mục sử dụng, danh mục các lồi cây đang bị đe doạ của IUCN 41 16. Nhận thức của người dân về các mối nguy hại đến rừng và đa dạng sinh học (19 người được hỏi) 42 17. Nhận thức của người dân về việc mất diện tích rừng (19 người được hỏi) 43 18. Nhận thức của người dân về các mối nguy hại đến đời sống con người (19 người được hỏi) 43 19. Tĩm lược kết quả thu thập và xác định mẫu từ 11 ơ điều tra 50 20. Sự phong phú của hệ thực vật ở Khe Trăn 53 21. Các lồi cây gỗ, tiết diện ngang, cơng dụng và mật độ của chúng ở Khe Trăn 54 22. Độ phong phú (tổng số các lồi thu được trong một ơ điều tra) của các lồi phi gỗ ở các loại đất ở Khe Trăn 55 23. Các lồi đang bị đe doạ ở Khe Trăn dựa trên kết quả điều tra thực vật và hoạt động cho điểm 57 24. Tĩm tắt mẫu thực vật thu thập và việc nhận diện lồi từ 11 ơ điều tra 59 25. Trung bình của các lồi và các lồi hữu ích thu thập được từ mỗi một loại đất 60 26. Phân bố của các lồi thực vật hữu ích trên một ơ điều tra và trên các hạng mục sử dụng 61 27. Các lồi cĩ ít nhất 4 cơng dụng 62 28. Phân bố của các lồi cây gỗ hữu ích trên một ơ điều tra và trên một hạng mục sử dụng 63
- vi | Mục lục 29. Phân bố theo ơ và hạng mục sử dụng của các lồi cây phi gỗ hữu ích 64 30. Nhận thức của người dân về bảo tồn và khu bảo tồn Phong Điền 69 Các biểu đồ và hình ảnh 1. Hoạt động đánh giá bằng phương pháp cho điểm (PDM) của nhĩm nam bản Khe Trăn 5 2. Hoạt động Khảo sát ở ơ điều tra 6 3. Vị trí của bản Khe Trăn tại vùng đệm của khu bảo tồn Phong Điền 16 4. Địa thế bản Khe Trăn 18 5. Chăn nuơi và trồng Keo đĩng vai trị quan trọng tại bản Khe Trăn 20 6. Một phụ nữ ở phần thấp của bản đang thu hoạch mủ cao su ở đồn điền của mình 22 7. Diện tích đáng kể đất trống ở bản Khe Trăn được sử dụng để trồng rừng Keo 25 8. Đa dạng sinh học và bản đồ phân bố tài nguyên ở bản Khe Trăn 27 9. Phân loại đất theo mức độ quan trọng (tất cả các nhĩm) 31 10. Tầm quan trọng của các loại rừng (tất cả các nhĩm) 32 11. Tầm quan trọng của rừng theo thời gian (tất cả các nhĩm) 35 12. Nguồn của các loại sản phẩm quan trọng (tất cả các nhĩm) 37 13. Tầm quan trọng của các nguồn lợi từ rừng, phân loại dựa trên hạng mục sử dụng (kết quả chung của tất cả các nhĩm) 38 14. Cơn lũ gần đây làm ngập cầu nối Phong Mỹ với Khe Trăn 44 15. Tỷ lệ các ơ điều tra trên các loại đất ở Khe Trăn (tổng số ơ điều tra là 11 ơ) 47 16. Phân bố của các ơ điều tra ở vùng nghiên cứu 49 17. Số lượng tích luỹ của các lồi phi gỗ với sự gia tăng về số lượng các các ơ điều tra ngẫu nhiên (diện tích mỗi ơ là 20 m2) cho các loại đất khác nhau ở Khe Trăn 50 18. Độ vượt trội tương đối dựa trên tiết diện ngang ở các ơ điều tra thuộc rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh ở Khe Trăn 52 19. Đặc điểm cấu trúc lâm phần ở Khe Trăn. Phần bên trái: tiết diện ngang và mật độ; phần bên phải: chiều cao cây, đường kính thân và chỉ số phân nhánh 56 20. Hạng mục sử dụng của các lồi thực vật hữu ích đối với người dân ở Khe Trăn 63 21. Tổng số các lồi hữu ích cho một hạng mục sử dụng ở rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh, và rừng trồng 65
- Từ viết tắt và thuật ngữ asl above sea level (Độ cao so với mực nước biển) CBEE Community-Based Environmental Education (Giáo dục mơi trường dựa vào cộng đồng) CIFOR Center for International Forestry Research (Trung tâm nghiên cứu rừng quốc tế) CIRAD Centre de coopération Internationale en Recherche Agronomique pour le Développement (Trung tâm hợp tác quốc tế và nghiên cứu phát triển nơng nghiệp) dbh diameter at breast height (Tiết diện ngang ngực) DPC District Peoples Committee (Hội đồng nhân dân huyện) ETHZ Eidgenưssische Technische Hochschule Zürich (Liên đồn các viện kỹ thuật ở Zürich) ETSP Extension and Training Support Project (Dự án phổ cập đào tạo lâm nghiệp) FIPI Forestry Inventory and Planning Institute (Viện điều tra và qui hoạch rừng) FPD Forest Protection Department (Chi cục kiểm lâm) GoV Government of Vietnam (Chính phủ Việt Nam) HUAF Hue University of Agriculture and Forestry (Trường Đại học Nơng Lâm Huế) IUCN International Union for Conservation of Nature and Natural Resources (Hội bảo vệ thiên nhiên và các nguồn tài nguyên quốc tế) vii
- viii | Từ viết tắt và thuật ngữ Loại đất Tập hợp các loại đất được che phủ bởi rừng tự nhiên hoặc được con người sử dụng cho các hoạt động khác nhau Sử dụng đất Tập hợp các loại đất được con người sử dụng cho các mục đích khác nhau Cảnh quan Là khái niệm mang tính phổ quát chứ khơng đơn thuần là tổng hợp của các hợp phần ví dụ như địa hình, đất, và việc sử dụng đất Khu vực dưới Khu vực của thơn thuộc phần dưới của ngọn Ơ Lâu LUVI Local User Value Index (Chỉ số sử dụng của địa phương) MLA Multidisciplinary Landscape Assessment (Đánh giá cảnh quan đa ngành) NTFP Non-Timber Forest Product (Sản phẩm phi gỗ) PDM Pebble Distribution Method (Đánh giá bằng phương pháp bỏ hạt) PDNR Phong Dien Nature Reserve (Khu bảo tồn Phong Điền) PPC Province Peoples Committee (Hội đồng nhân dân tỉnh) SDC Swiss Development Cooperation (Hiệp hội phát triển Thuỵ Sĩ) SFE State Forest Enterprises (Lâm trường nhà nước) TBI-V Tropenbos International-Vietnam (Tropenbos quốc tế tại Việt Nam) Khu vực trên Khu vực của thơn thuộc phần trên của ngọn Ơ Lâu USD US Dollar (Đơ La Mỹ) Village Là một nhĩm hộ thuộc xã nhưng khơng được nhìn nhận là đơn vị quản lý cĩ tư cách pháp nhân ở Việt Nam VND Vietnamese Dong (Đồng tiền Việt Nam (1 USD ước khoảng 15.700 VND)) WWF World Wildlife Fund (Quỹ bảo tồn đời sống hoang dã thế giới)
- Lời cám ơn Chúng tơi xin chân thành cám ơn các cá nhân và cơ quan đã giúp đỡ chúng tơi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu này. Đặc biệt, chúng tơi xin cám ơn cơ quan, cá nhân đại diện của chính phủ Việt Nam, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ ban Nhân dân huyện Phong Điền, và Uỷ ban Nhân dân xã Phong Mỹ vì đã quan tâm và tạo điều kiện cho chúng tơi hồn thành các hoạt động nghiên cứu. Chúng tơi đánh giá cao và trân trọng sự hợp tác, giúp đở của ơng Trần Hữu Nghị, cơ Jinke van Dam, cơ Tú Anh, và cơ Nguyễn Thị Quỳnh Thư ở tổ chức Tropenbos quốc tế tại Việt Nam trong việc tổ chức và điều phối hoạt động điều tra. Chúng tơi may mắn được cộng tác với các thành viên trong nhĩm nghiên cứu MLA, những người đã rất quan tâm và làm việc hết sức tận tuỵ cho nghiên cứu: Lê Hiền (Đại học Nơng Lâm Huế), Hà Thị Mừng (Đại học Tây Nguyên), Vũ Văn Cần, Nguyễn Văn Lực (FIPI), Nguyễn Quý Hạnh và Trần Thị Anh Anh (Sở Ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên Huế), và Hồ Thị Bích Hạnh (Đại học Kinh Tế Huế). Chúng tơi cũng khơng quên cám ơn Patrick Rossier (ETSP-Helvetas), Eero Helenius (Chương trình phát triển nơng thơn Thừa Thiên Huế), và Chris Dickinson (Dự án hành lang xanh-WWF) đã cho chúng tơi nhiều gĩp ý hữu ích. Chúng tơi cũng mong muốn được cám ơn Ueli Mauderli (SDC), Jean Pierre Sorg (ETHZ) đã cho chúng tơi những đánh giá và gĩp ý thiết thực trong thời gian điều tra ở Khe Trăn, cám ơn Jean-Laurent Pfund và Allison Ford (CIFOR) đã đưa ra những gĩp ý sửa đổi trong quá trình hình thành báo cáo nghiên cứu, cám ơn sự giúp đỡ quí giá của Henning Pape-Santos, phụ trách in ấn và hiệu đính, và Wil de Jong, điều phối viên của dự án. Cuối cùng nhưng khơng phải là kém quan trọng nhất, chúng tơi chân thành cám ơn người dân ở bản Khe Trăn, Sơn Qua và Thanh Tân đã hợp tác chặt chẽ, cung cấp thơng tin, và cả sự kiên nhẫn trong suốt quá trình điều tra, thu thập thơng tin của chúng tơi. ix
- 1. Bối cảnh và mục tiêu nghiên cứu Việt Nam đã và đang trong quá trình đổi mới cơng tác quản lý rừng dưới sự đồng thuận của các hộ gia đình và các tổ chức địa phương (Barney 2005). Chính phủ ngày càng trao cho người dân địa phương nhiều quyền hơn trong cơng tác quản lý rừng. Tuy nhiên trong mơi trường biến động hiện nay, việc nhận thức về quyền của người dân địa phương vẫn cịn hạn chế, các cơ quan nhà nước cịn ít quan tâm đến kiến thức và quan điểm của địa phương trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như việc phân cấp quản lý. Thách thức được đặt ra là làm thế nào để các bên tham gia hiểu rõ hơn về quan điểm của các cộng đồng dân cư sống trơng hoặc gần khu bảo tồn. Bên cạnh đĩ, việc xác định rõ năng lực của địa phương trong cơng tác quản lý rừng nhằm đảm bảo việc ra quyết định đạt hiệu quả cao là hết sức cần thiết. Các bên tham gia và đa dạng sinh học ở cấp địa phương là kết quả hợp tác kéo dài 3 năm giữa Trung tâm Nghiên cứu rừng Quốc tế (CIFOR) và Tổ chức Hợp tác Phát triển Thụy Sỹ (SDC). Tropenbos Quốc tế tại Việt Nam (TBI-V) giữ vai trị là cộng tác đắc lực trong việc điều phối việc thực thi các hoạt động của dự án. Mục tiêu của dự án là nhằm gĩp phần nâng cao sinh kế của các cộng đồng dân cư sống phụ thuộc vào rừng, đồng thời đẩy mạnh cơng tác quản lý rừng bền vững. Việc nâng cao năng lực của địa phương trong việc lập kế hoạch và triển khai cơng tác quản lý rừng được xem là chiến lược để đạt được các mục tiêu trên. Dự án tập trung nghiên cứu những cộng đồng, nơi người dân và chính quyền địa phương đã được giao nhiều quyền và trách nhiệm hơn trong việc quản lý rừng, đồng thời cổ xuý cho cơ chế quản lý rừng dựa vào cộng đồng, cơ chế mà nhu cầu cũng như ý kiến của người dân, đặc biệt là người nghèo, được các nhà lập chính sách ở cấp địa phương cân nhắc kỹ trong quá trình ra quyết định. Đánh giá cảnh quan đa ngành, gọi tắt là MLA, là tập hợp các phương pháp do nhĩm các nhà nghiên cứa khoa học thuộc tổ chức CIFOR phát triển, hướng đến việc xác định “những yếu tố quan trọng đối với các cộng đồng địa phương xét trên phương diện cảnh quan, các chức năng của mơi trường, và nguồn tài nguyên”. Phương pháp này dựa trên nền tảng tiếp cận của các ngành khoa học xã hội (nhân chủng học, thực
- | Bối cảnh và mục tiêu nghiên cứu vật dân tộc học và kinh tế xã hội), khoa học tự nhiên (thực vật học, sinh thái học, địa lý học và thổ nhưỡng học), và đã được thử nghiệm, áp dụng ở nhiều quốc gia khác nhau (Bolivia, Cameroon, Gabon, Indonesia, Mozambique và Philippines). Phương pháp này đã được dịch sang 4 thứ tiếng: Anh, Pháp, Indonesia, Tây Ban Nha, và được đăng tải chi tiết tại địa chỉ (Sheil et al. 2003). MLA hỗ trợ dự án thơng qua việc cung cấp các thơng tin về cách thức người dân địa phương tích luỹ và tư liệu hố kiến thức của mình về vấn đề sử dụng đất và các tài nguyên thiên nhiên. Kiến thức của người dân, vì vậy, được xem là thơng tin quyết định trong cơng tác quản lý rừng. Và cuối cùng, qua bản báo cáo này, chúng tơi muốn mang lại nguồn thơng tin về cách thức người dân ở bản Khe Trăn (Xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) nhận thức và quản lý mơi trường, đồng thời bàn về các lựa chọn trong tương lai một khi Khe Trăn tham gia vào cơng tác quản lý khu bảo tồn thiên nhiên.
- 2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp tiếp cận đa ngành của MLA thu thập các thơng tin về vấn đề sử dụng đất tại thơn bản và ở các khu đất, rừng lân cận, nghiên cứu nhận thức của người dân địa phương về cảnh quan và các nguồn tài nguyên rừng cũng như những ưu tiên của địa phương trong cơng tác quản lý rừng, đồng thời xếp hạng tầm quan trọng của các loại đất, các nguồn tài nguyên, và các hoạt động sản xuất trên quan điểm của người dân địa phương. Nhĩm nghiên cứu MLA gồm các nhà nghiên cứu khoa học đến từ nhiều ngành khác nhau, được chia làm hai nhĩm: nhĩm điều tra tại bản và nhĩm điều tra thực địa (Bảng 1). Bảng 1. Danh sách các thành viên nhĩm nghiên cứu MLA tại bản Khe Trăn Tên thành viên Trách nhiệm/Lĩnh vực nghiên cứu Địa chỉ liên hệ Điều phối viên của nhĩm/thực vật Manuel Boissière m.boissiere@cgiar.org dân tộc học Hà Thị Mừng Kinh tế xã hội mungbmt@yahoo.com Imam Basuki Kinh tế xã hội i.basuki@cgiar.org Lê Hiền Kinh tế xã hội Hienle2001@yahoo.com Meilinda Wan Kinh tế xã hội m.wan@cgiar.org Douglas Sheil Sinh thái học d.sheil@cgiar.org Piia Koponen Sinh thái học p.koponen@cgiar.org Nguyễn Văn Lực Thực vật học vanluc_qh@yahoo.com.vn Vũ Văn Cần Thực vật học Tel. 04-861-6946 Hồ Thị Bích Hạnh Phiên dịch viên hanhdhkt@gmail.com Nguyễn Quý Hạnh Phiên dịch viên Quyhanh2000@yahoo.com Trần Thị Anh Anh Phiên dịch viên hianhanh@yahoo.com Các hoạt động tại bản Nhĩm nghiên cứu tại địa phận bản làng, gồm 1 đến 2 nhà nghiên cứu cùng sự trợ giúp của một phiên dịch viên, đảm trách phần thu thập số liệu về kinh tế xã hội. Nhĩm này
- | Phương pháp nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi và các bảng ghi dữ liệu để phục vụ cho quá trình phỏng vấn hầu hết các hộ gia đình, các cá nhân am hiểu vấn đề, để ghi chép kết quả của các buổi họp thơn, và thảo luận nhĩm. Thơng tin được thu thập từ các hộ gia đình tập trung vào các vấn đề kinh tế xã hội (nhân khẩu học, các nguồn thu nhập và sinh kế), và các vấn đề về văn hĩa (lịch sử của bản, tổ chức xã hội, những câu chuyện kể và chuyện thần thoại, tơn giáo). Bảng câu hỏi và các bảng ghi dữ liệu cũng thể hiện những thơng tin cơ bản về quan điểm của người dân địa phương về các vấn đề như giới, các mối đe dọa đối với sự đa dạng sinh học và rừng, cơng tác bảo tồn và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như quyền sở hữu đất đai. Hoạt động lập sơ đồ thơn cĩ sự tham gia được tiến hành trong những ngày đầu tiên của nghiên cứu, dựa trên hai bản đồ nền và sự hỗ trợ của hai nghiên cứu viên trong việc giải thích mục tiêu và các yêu cầu cần đạt của hoạt động. Các tham dự viên được chia làm hai nhĩm là nam và nữ để tiến hành lập hai sơ đồ thơn riêng biệt. Các nghiên cứu viên thúc đẩy hoạt động lập sơ đồ thơng qua việc thảo luận với người dân về những loại đất và tài nguyên cần được bổ sung vào sơ đồ. Hai sơ đồ này sau đĩ được người dân so sánh với nhau để lập nên một sơ đồ mới chứa đựng đầy đủ các thơng tin mà cả hai nhĩm đã đưa ra, và được xem như là nhận thức chung của tồn cộng đồng. Trong tất cả các hoạt động diễn ra trên thực địa, sơ đồ này luơn được mang theo để người dân cĩ thể thêm những thơng tin mới hay cĩ thể chỉnh sửa một số điểm. Riêng tại bản Khe Trăn, chúng tơi đã tiến hành làm việc lần thứ 2 với một nhĩm các cá nhân am hiểu tình hình nhằm nâng cao tính chính xác của sơ đồ. Sau đĩ sơ đồ đã được hai thanh niên trong bản vẽ lại bằng các kí hiệu riêng của họ. Các hoạt động tại bản gồm: (a) tổ chức một số buổi họp thơn nhằm giới thiệu về nhĩm nghiên cứu và các hoạt động nghiên cứu mà nhĩm sắp triển khai để cho người dân thơn bản được rõ, đồng thời bước đầu thu thập các thơng tin cơ bản về các loại đất và rừng cũng như vị trí của các loại đất này (thơng qua hoạt động lập sơ đồ tài nguyên cĩ sự tham gia). Ngồi ra, hoạt động này cịn giúp xác định các hạng mục sử dụng của mỗi loại cảnh quan và nguồn tài nguyên; (b) phỏng vấn cá nhân và thảo luận nhĩm nhỏ đã được tiến hành nhằm hiểu rõ hơn về lịch sử của bản làng và sử dụng đất, cơng tác quản lý nguồn tài nguyên, trình độ học vấn, các nguồn thu nhập chính, sinh kế và hệ thống sử dụng đất; (c) các cuộc thảo luận nhĩm được tiến hành với các nhĩm dân cư khác nhau xoay quanh các chủ đề về vị trí các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phân loại đất dựa trên hạng mục sử dụng, nhận thức của người dân về rừng, các nguồn sản phẩm được tiêu thụ tại hộ gia đình và các lồi quan trọng khác bằng phương pháp cho điểm, thường gọi là ‘phương pháp bỏ hạt’ (PDM). Phương pháp PDM được áp dụng nhằm giúp người dân địa phương cĩ thể định lượng tầm quan trọng tương đối của các loại đất, lâm sản và các lồi bằng cách thức phân bố 100 hạt nút trên các tấm giấy cĩ ghi tên các loại đất, các hạng mục sử dụng hoặc lồi (Biểu đồ/Hình 1). Đối với nguồn thơng tin thu được bằng phương pháp PDM xuất hiện trong các bảng biểu và con số về sau trong cuốn sách này, giá trị 100% sẽ được hiểu như là tổng số hạt nút. Các thành viên của nhĩm phân bố số lượng những hạt nút trên các tấm giấy tùy thuộc vào tầm quan trọng của những yếu tố được thể hiện trên các tấm giấy đĩ.
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | Biểu đồ (hình) 1. Hoạt động đánh giá bằng phương pháp cho điểm (PDM) của nhĩm nam bản Khe Trăn Các hoạt động ngồi thực địa Nhĩm nghiên cứu thực địa gồm 4 nhà nghiên cứu khoa học với sự trợ giúp về ngơn ngữ của một phiên dịch viên cùng hai người dân am hiểu về thực vật và một phụ tá cơng tác thực địa. Nhĩm đảm trách cơng việc thu thập thơng tin về thực vật học, thực vật dân tộc học và lịch sử các vùng đất nơi hoạt động thực địa được tiến hành. Việc thu thập thơng tin được tiến hành dựa vào phương pháp quan sát trực tiếp, đo đạc, và phỏng vấn trực tiếp tại mỗi ơ điều tra dựa vào bảng ghi dữ liệu. Các hoạt động tại thực địa được quyết định và thiết kế phù hợp với nguồn thơng tin đã thu thập được tại bản làng. Nhĩm nghiên cứu thực địa đã tiến hành thu thập thơng tin từ các ơ điều tra (Biểu đồ/Hình 2). Nhĩm chọn vị trí của các ơ điều tra sau khi đã được người dân xác định các loại đất. Việc lấy mẫu các loại đất được căn cứ trên hạng mục các loại đất chính và các vị trí mà tại đĩ cĩ sự tồn tại của các nguồn tài nguyên quan trọng. Những người am hiểu vấn đề nghiên cứu của bản làng đi cùng với nhĩm nghiên cứu thực địa cũng đã giới thiệu rất chi tiết về lịch sử và quá trình sử dụng của các vùng đất tại vị trí lập ơ điều tra. Họ cũng cho biết cơng dụng và tên của các loại lâm sản chính mà trước đây người dân thường khai thác. Dù nỗ lực lập ơ điều tra được thực hiện mang tính đại diện trên tất cả các loại đất, nhưng đất rừng được chú trọng lập nhiều ơ điều tra hơn do chúng cĩ diện tích bao phủ lớn nhất, và so sánh với các loại đất khác thì nĩ cĩ số lượng lồi trên một ơ điều tra lớn nhất. Đa số các loại đất đều được thiết lập một (ruộng lúa, rừng nguyên sinh) hoặc hai ơ điều tra. Trong tổng số 11 ơ điều tra chính, cĩ 110 tiểu ơ được tiến hành khảo sát. Đối với các ơ điều tra các thơng tin cơ bản như số liệu về cây gỗ và cây phi gỗ, số liệu chi tiết về dân tộc sinh
- | Phương pháp nghiên cứu Biểu đồ (hình) 2. Hoạt động Khảo sát ở ơ điều tra thái học đã được thu thập. Vị trí địa lý của các ơ điều tra này cũng đã được xác định bằng hệ thống định vị tồn cầu GPS. Tại các ơ điều tra với mặt cắt ngang rộng 40 m, được chia nhỏ thành 10 tiểu ơ liên tiếp nhau với chiều rộng 5 m. Ở các ơ này số liệu về các lồi thảo mộc, lồi cây leo tại bất kì vị trí nào trên khắp 1,5 m chiều rộng, và các lồi cây nhỏ hơn khác đã được thu thập. Việc khảo sát cũng đã được tiến hành trên các lồi cây gỗ cĩ đường kính 10 cm hoặc lớn hơn ở độ cao ngang ngực (dbh). Việc đo đạc bán kính của các lồi cây này cũng được tiến hành dựa trên phương pháp trên nhưng với số lượng tiểu ơ biến động hơn (Sheil và cộng sự. 2003). Sự hợp tác giữa nhĩm điều tra tại bản và nhĩm điều tra thực địa đĩng vai trị quyết định trong quá trình thu thập các thơng tin liên quan, tuy nhiên, sự hợp tác giữa người dân địa phương và nhĩm nghiên cứu cũng khơng kém phần quan trọng trong việc liên kết nguồn dữ liệu thu thập được bằng những phương pháp đo đạc trực tiếp với nguồn dữ liệu cĩ được bằng phương pháp thảo luận nhĩm, phỏng vấn sâu, và phỏng vấn bằng bảng câu hỏi định sẵn. Việc chuẩn bị bản cuối cùng của danh sách tham khảo về các lồi thực vật với tên địa phương tương ứng mất khá nhiều thời gian, do người dân địa phương cĩ xu hướng pha trộn tiếng Việt và tiếng Pahy trong việc gọi tên một số lồi thực vật. Một số mẫu được xác định là thuộc một lồi nhưng lại cĩ nhiều tên địa phương khác nhau (ví dụ Ageratum conyzoides) trong khi đĩ nhiều mẫu khác cĩ cùng một tên địa phương lại thuộc về nhiều lồi khác nhau (ví dụ Fibraurea tinctoria và Bowringia sp.). Lồi A.conyzoides cĩ đến hai tên địa phương (Cá hỡi và Sắc par abon) được các cá nhân am hiểu thực vật khác nhau ở địa phương gọi những
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | tên khác nhau tại những vị trí thực địa khác nhau với những giá trị sử dụng khác nhau (được đánh giá là khơng tốt cho đất, Cá hỡi, vì vậy, cĩ ít tác dụng trong khi Sắc par abon lại được xem là loại phân bĩn tốt cho khoai lang, tuy nhiên, một cá nhân khác lại cho rằng lồi này quả thật khơng được người dân sử dụng). Tương tự, lồi Catimbium brevigulatum, được tìm thấy ở 7 ơ điều tra, lại cĩ đến 4 tên địa phương khác nhau (A kai, A xây cỡ, Betre, và Papan). Mặc dù các cá nhân được hỏi rất tự tin và logic trong việc cung cấp thơng tin, sự khơng thống nhất về tên lồi vẫn tồn tại, cĩ lẽ do bị tác động bởi các yếu tố như: giới, sự trải nghiệm cuộc sống khác nhau của các cá nhân, cùng với sự pha trộn của ngơn ngữ (chủ yếu là tiếng Pahy và tiếng Việt). Sự khơng thống nhất này đã gây nhiều khĩ khăn cho các nhà nghiên cứu. Việc khảo sát thực vật dân tộc học đã được tiến hành đồng thời trên thực địa với sự tham gia của 12 người dân am hiểu vấn đề nghiên cứu, thường chỉ cĩ hai hoặc hơn hai người, cả nam lẫn nữ, tại cùng một thời điểm. Sự gĩp mặt của những cá nhân này rất quan trọng trong việc bảo đảm việc thu thập kiến thức của người dân về các giá trị sử dụng của các lồi thực vật và vị trí thực địa mang tính chính xác. Ví dụ, cĩ năm người dân cho rằng chi Bowringia, cĩ mặt trong hai loại đất, (rừng thứ sinh và rừng nguyên sinh) được tìm thấy tại bốn ơ điều tra, khơng cĩ giá trị sử dụng nào. Trong khi đĩ, hai người khác lại cho rằng lồi này được dùng làm củi, đồng thời, rễ của chúng cĩ thể đem bán lấy tiền mặt. Ở mỗi ơ điều tra, một số mẫu thực vật đã được thu thập thêm nhằm phục vụ cho cơng tác nhận diện ở phịng phân lập mẫu về sau. Tồn bộ tập hợp mẫu này đã được chuyển lại cho nhà thực vật học Vũ Văn Cần tại Hà Nội. Các mẫu được bảo quản trong dung dịch cồn trước khi phơi khơ và đem nhận diện. Một số lồi được nhận diện ngay tại thực địa, số cịn lại được chuyển ra Hà Nội để tiếp tục nhận diện. Tên khoa học của các chi và các lồi được nhận diện dựa vào các tài liệu như Iconographia Cormophytorum Sinicorum (Viện hàn lâm Khoa học Trung Quốc, Viện nghiên cứu Thực vật 1972-1976), Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hồng Hồ 1993), Cây rừng Việt Nam (Viện Điều tra và Quy hoạch Rừng 1996), Yunnan Kexue Chubanshe (Yunnan Shumu Tuzhi 1990), và cơ sở dữ liệu về Phụ lục Tên các lồi Thực vật Quốc tế ( ipni. org/); tên các họ trong Cẩm nang thực vật: Từ điển về các lồi thực vật cĩ mạch (theo Mabberley 1997) và cơ sở dữ liệu về Phụ lục Tên các lồi Thực vật Quốc tế duy chỉ cĩ họ Leguminosae sensu lato được tiến hành đặt tên theo cách phân họ của các họ Mimosaceae, Fabaceae sensu stricto và Caesalpiniaceae. Quá trình nghiên cứu tại bản Khe Trăn diễn ra trong hai giai đoạn, từ ngày 15 tháng 5 đến ngày 9 tháng 6 năm 2005, và từ ngày 2 đến ngày 15 tháng 10 năm 2005. Giai đoạn đầu chủ yếu dành cho việc thu thập số liệu về tầm quan trọng của các loại đất tại địa phương, trong khi đĩ ở giai đoạn hai, chúng tơi lại chú trọng hơn vào cơng việc rà sốt chất lượng, đa dạng sinh học và các khiá cạnh liên quan đến cơng tác bảo tồn trên quan điểm của người dân địa phương. Trong suốt hai giai đoạn này, các cán bộ thơn đã tham gia cùng nhĩm nghiên cứu nhằm bảo đảm an tồn trong cơng việc nghiên cứu của nhĩm. Tuy sự gĩp mặt của họ khơng liên quan trực tiếp đến việc nghiên cứu của chúng tơi, nhĩm các nhà nghiên cứu vẫn xem đây là một cơ hội để tiến đến xã hội hĩa với các cấp cĩ thẩm quyền tại địa phương và để cùng thảo luận về quan điểm của người dân về đa dạng sinh học và về phân loại đất.
- 3. Kết quả nghiên cứu Trong suốt quá trình thực hiện dự án, chúng tơi đã vạch ra những mục tiêu cụ thể như sau: (a) thử nghiệm và ứng dụng phương pháp MLA như là một cơ chế phù hợp để lồng ghép nhận thức và quan điểm của người dân vào quá trình lập kế hoạch và ra quyết định. Phương pháp này đã được thử nghiệm thành cơng trong bối cảnh của một vùng nơng thơn, đĩ là bản Khe Trăn. Mặc dù, nguyên thủy, MLA được thiết kế nhằm phục vụ cho việc đánh giá nhận thức và ưu tiên của người dân ở các cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng nhiệt đới, chúng tơi cũng đã chỉ ra được rằng phương pháp này vẫn cĩ thể được áp dụng cho các cộng đồng mà hiện nay khơng cịn sống lệ thuộc nhiều vào rừng như trước đây; (b) cung cấp hệ thống dữ liệu nền để sử dụng cho cơng tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Khu quy hoạch bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền. Chúng tơi đã cĩ một cơ sở dữ liệu đáng kể được xây dựng từ nhiều cuộc khảo sát khác nhau tại bản Khe Trăn. Cơ sở dữ liệu này cung cấp một lượng thơng tin quan trọng về sự ưu tiên và nhận thức của người dân địa phương, về sự phong phú của thảm thực vật vùng phụ cận của bản làng, về việc sử dụng các loại lâm sản và phi lâm sản của người dân địa phương, cũng như số liệu về kinh tế, xã hội, nhân khẩu học của thơn bản. Chúng tơi thu thập được 754 mẫu thực vật, thuộc 439 lồi đến từ 108 họ, và cũng đã xác định 824 hình thức sử dụng cho tất cả các mẫu này. Tất cả các dữ liệu, bao gồm cả dữ liệu kinh tế, xã hội sẽ rất cĩ giá trị cho người dân địa phương trong cơng tác quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, khu quy hoạch bảo tồn thiên nhiên, cũng như bổ sung nguồn thơng tin về đa dạng sinh học tại các vùng đệm và vùng lõi của khu bảo tồn, về các hình thức sử dụng, và đánh giá về các lồi, các nguồn tài nguyên thiên nhiên của người dân địa phương;
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | (c) mang lại một tầm nhìn khái quát về tầm quan trọng của cảnh quan và các lồi động, thực vật tại địa phương đối với người dân Khe Trăn, đồng thời thu thập thơng tin về sinh kế cũng như quan điểm của người dân về Khu bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền. Chúng tơi đã tiến hành tìm hiểu về cảnh quan tại khu vực nghiên cứu thơng qua các hoạt động họp thơn, lập sơ đồ thơn cĩ sự tham gia, và đánh giá bằng phương pháp cho điểm. Kết quả thu được đã phản ánh quan điểm của người dân địa phương và tầm quan trọng tương đối của các hạng mục sử dụng. Số liệu thu thập được bằng phương pháp quan sát trực tiếp ngồi thực địa, sử dụng phương pháp lấy mẫu hệ thống, đã gĩp phần hỗ trợ cho các số liệu đã thu thập về tầm quan trọng của các lồi, các loại đất khác nhau, cũng như cấu trúc khơng gian của cảnh quan; (d) thảo luận về những cơ hội và thách thức, trên phương diện giao đất và phục hồi rừng, mà các cơ quan phụ trách cơng tác bảo tồn tại khu bảo tồn thiên nhiên phải đối mặt. Hình thức đối thoại với những cá nhân am hiểu vấn đề nghiên cứu đã được tiến hành xuyên suốt cuộc khảo sát thơng qua các hoạt động thảo luận nhĩm, phỏng vấn người am hiểu vấn đề, và nĩi chuyện thân mật nhằm hiểu rõ hơn những ưu tiên và quan điểm của người dân địa phương trước viễn cảnh của một khu bảo tồn thiên nhiên trong tương lai. Ở giai đoạn cuối của cuộc khảo sát chúng tơi đã tổ chức một hội thảo để tìm hiểu quan điểm của người dân địa phương về những tác động cĩ thể của khu bảo tồn, về những lựa chọn cĩ thể dành cho người dân địa phương trong khuơn khổ của khu bảo tồn, và về vai trị mà họ mong muốn đảm trách, cũng như những mối đe dọa đối với sự đa dạng sinh học mà họ nhận biết được (e) tạo điều kiện thuận lợi để người dân địa phương và các bên liên quan tham gia nhiều hơn nữa trong việc ra quyết định và lập kế hoạch ở cấp địa phương. Dựa trên kết quả khảo sát, các hội thảo cấp tỉnh, cấp xã, cấp bản làng đã được tổ chức nhằm chia sẻ thơng tin và kinh nghiệm với tất cả các đối tác quan tâm, các bên tham gia và các nhà hoạch định chính sách. Đồng thời, các buổi thảo luận cũng được tiến hành để tìm ra các lựa chọn nhằm giúp địa phương tham gia nhiều hơn vào cơng tác quản lý khu bảo tồn. Trước khi các hội thảo diễn ra, một hợp phần khác của dự án với tên gọi Viễn cảnh Tương lai đã được thực hiện, và đây được xem là một hoạt động tiếp nối các hoạt động của chúng tơi tại bản Khe Trăn (Evans 2006). Viễn cảnh Tương lai giúp các cộng đồng địa phương tại bản Khe Trăn xây dựng các chiến lược phát triển trong tương lai dựa trên nền tảng kiến thức của địa phương và kết quả sơ bộ của phương pháp MLA. Chúng tơi cũng đã giới thiệu đến các cấp cĩ thẩm quyền tại địa phương (các cán bộ thơn) về viễn cảnh tương lai của người dân. Trước khi phân tích kết quả khảo sát, chúng tơi muốn được trình bày cho bạn đọc hiểu sâu hơn về bối cảnh chung của cơng tác bảo tồn tại khu vực Phong Điền và về người dân ở bản Khe Trăn.
- 4. Bối cảnh chung của cơng tác bảo tồn tại Khe Trăn 4.1. Các hoạt động liên quan đến cơng tác bảo tồn trước đây Các chính sách của chính phủ Việt Nam (GoV) đã cĩ tác động đến các hoạt động liên quan đến rừng tại bản Khe Trăn. Trước năm 1992, rừng vùng cao - một trong những mảnh đất nhỏ cuối cùng cịn sĩt lại của rừng xanh thuộc vùng đất thấp bao gồm cả bản Khe Trăn và vùng liền kề - được xem là “rừng sản xuất” và được đặt dưới sự quản lý của các cơng ty khai thác gỗ thuộc Chi cục Lâm nghiệp tỉnh. Vào năm 1992, vị trí này ‘chịu sự chi phối của một dãy núi thấp trải dài theo hướng Đơng Nam, tính từ dãy núi miền Trung, và tạo thành biên giới giữa các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế’ đã được cơng nhận là đĩng ‘vai trị quan trọng trong việc duy trì nguồn nước thượng nguồn và hạn chế nguy cơ lũ lụt cho các vùng đồng bằng thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế’. Vì lẽ đĩ, nĩ được đánh giá là cĩ chức năng của ‘rừng phịng hộ đầu nguồn’, và chức năng đĩ vẫn cịn giữ được cho đến nay (Lê Trọng Trai và cộng sự. 2001). Vào năm 1998, các nhĩm bảo tồn chim quốc tế đã đặc biệt quan tâm đến địa bàn này sau sự kiện lồi gà lơi Edward (Lophura edwardsi), từng được cho là đã bị tuyệt chủng, được phát hiện tại các vùng núi ở đây. Ngày nay vùng đất này được xem là một phần trong chiến lược phát triển rừng của chính phủ trong việc xây dựng hệ thống 2 triệu ha rừng đặc dụng (bao gồm các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên và các di tích lịch sử) trên khắp cả nước. Ngồi ra, đây là một trong những vùng rừng được đưa vào danh sách những khu vực cần được đưa vào diện bảo tồn thiên nhiên (41.548 ha) vào năm 2010 (Barney 2005). Các cánh rừng quanh bản Khe Trăn là một trong những vùng đa dạng sinh học trọng yếu của tỉnh vì ở đĩ cịn tồn tại nhiều lồi động, thực vật quý hiếm và đang bị đe dọa. Theo Lê Trọng Trai và cộng sự (2001), một số lượng đáng kể các lồi đặc hữu và khơng đặc hữu như thực vật, động vật cĩ vú, chim, bị sát, động vật lưỡng cư, bướm hiện diện tại các khu rừng của Phong Điền, bao gồm cả bản Khe Trăn. Lồi hổ đang bị đe dọa, cĩ tên gọi là Panthera tigris, cũng được khẳng định là cĩ mặt tại khu vực này. Anh Muốc, một người dân Pahy ở bản Khe Trăn cho biết anh đã tận mắt thấy một 10
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | 11 con hổ nặng khoảng 100 kg cách bản 200m vào tháng 3, 1998. Anh cũng cho biết vào tháng 5, 1998 anh đã phát hiện một con hổ đã bắt con trâu của anh làm mồi tại làng Mới (ở tọa độ 16°27’N 107°15’E). Anh cịn cho biết thêm rằng khi lần theo dấu chân của nĩ, anh đã phát hiện thêm hai con trưởng thành và một con con. Trong suốt cuộc khảo sát của chúng tơi, mặc dù chưa được xác minh, một số thơng tin do người dân cung cấp đề cập đến sự xuất hiện thường xuyên của một số lồi chim cơng xanh, lồi đang bị đe dọa trên tồn cầu. Một số lồi đa dạng sinh học trọng yếu này cĩ quan hệ rất mật thiết với sinh kế của người dân địa phương. Và vấn đề này cũng đã được chúng tơi phân tích trong quá trình nghiên cứu. Yếu tố nguy hại nhất đến đa dạng sinh học rừng được Tổ chức bảo tồn chim Quốc tế (BirdLife International) và Viện Điều tra và Quy hoạch Rừng (FIPI) xác định là săn bắn, do hoạt động này mang lại lợi nhuận cao cũng như do sự quí hiếm của các lồi bị săn bắn. Những mối đe dọa tiếp theo là hoạt động thu nhặt củi và các lâm sản ngồi gỗ khác, khai thác gỗ, cháy rừng, phát rừng lấy đất sản xuất nơng nghiệp (Lê Trọng Trai và cộng sự. 2001). Kết quả nghiên cứu tại bản Khe Trăn của chúng tơi cho thấy tại mỗi vùng khác nhau cĩ các mối đe dọa khác nhau, và, do đĩ, các nguồn thơng tin chi tiết tại mỗi vị trí này là rất cần thiết. Vào tháng 6 và 7, 2001 nhĩm dự án về khu bảo tồn thiên nhiên, bao gồm chủ dự án và hai người dân địa phương, cùng phối hợp với Chi cục Kiểm lâm huyện Phong Điền (FPD) đã tiến hành một số cuộc khảo sát về hoạt động săn bắn tại bản Khe Trăn và các khu vực khác thuộc Khu bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền tương lai (PDNR). Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế đã triển khai quá trình điều tra trong khuơn khổ của dự án mang tên ‘Tìm hiểu các ảnh hưởng của việc săn bắn lồi gà lơi Edwards - Lophura edwardsi tại PDNR, Việt Nam: Hướng đến một Chiến lược Quản lý Các hoạt động Săn bắn’. Các cuộc phỏng vấn đã được thực hiện với người dân, trưởng bản, thợ săn/người đặt bẫy (sau đây gọi chung là thợ săn) và các người chuyên mua bán động vật rừng. Người dân cũng đã giúp kiểm tra chéo các thơng tin thu được tại thực địa. Trong suốt các buổi họp mặt đầu tiên với các thợ săn tại vùng trung tâm bảo tồn tương lai, nhĩm nghiên cứu đã giới thiệu về cuộc khảo sát và nhấn mạnh về bản chất khoa học của nĩ. Việc làm này đã tạo điều kiện cho việc xã hội hĩa các hoạt động của nhĩm và đạt được sự hỗ trợ và sự tin tưởng của địa phương (xem báo cáo tại địa chỉ Một cơng trình nghiên cứu thực địa khác do Tạp chí Vùng bảo tồn và Phát triển (Protection Area and Development), Quỹ Bảo tồn Động vật hoang dã thế giới (WWF), Tổ chức Bảo tồn chim Quốc tế và FPD phối hợp tiến hành tại bản Khe Trăn và một số vị trí đặc thù khác thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế vào cuối năm 2001 và đầu năm 2002. Nghiên cứu nhằm mục đích xem xét sự đĩng gĩp thực sự về mặt kinh tế của các khu vực bảo tồn đối với các thành phần kinh tế khác nhau trong tỉnh, đồng thời xác định một số vấn đề quan trọng về chính sách và lập kế hoạch liên quan đến việc duy trì và nâng cao các lợi ích phát triển do các khu vực bảo tồn mang lại. Thơng tin này sẽ giúp cho những người làm chính sách và quy hoạch hiểu rõ được những việc làm của họ đã tác động như thế nào đến cơng tác quản lý khu vực bảo tồn, đến sinh kế địa phương và đến quá trình phát triển kinh tế kết hợp tại các khu vực. Nhiều cơng trình nghiên cứu trường hợp (casestudy) cũng đã khảo sát các mối tương quan cụ thể giữa những vùng phịng hộ và các ngành kinh tế (tham khảo mekong-protected-areas. org/vietnam/docs/vietnam-field.pdf).
- 12 | Bối cảnh chung của cơng tác bảo tồn tại Khe Trăn Dự án về Sự tham gia của cộng đồng đối với sự thành cơng của cơng tác bảo tồn do WWF, Đại học Lâm nghiệp Xuân Mai và FPD xây dựng, đã lấy bản Khe Trăn làm địa điểm tập huấn tại các khu vực thuộc vùng đệm. Dự án được xây dựng nhằm nâng cao hiệu quả của các chương trình bảo tồn ở Việt Nam bằng cách tăng cường sự tham gia của cộng đồng, thơng qua chương trình giáo dục về mơi trường dựa vào cộng đồng (CBEE). Dự án được triển khai vào năm 2003 với mục tiêu nâng cao năng lực ngắn hạn và dài hạn của chính phủ nhằm tiến đến gắn kết chương trình đào tạo CBEE với các đơn vị đào tạo chủ lực. Dự án cũng đã cĩ những đĩng gĩp trực tiếp đến các hoạt động bảo tồn tại hai khu vực ưu tiên ở miền Trung bằng cách kết hợp các hoạt động thuộc chương trình CBEE vào quá trình thực thi các dự án bảo tồn vùng phịng hộ (Matarasso và Đỗ Thị Thanh Huyền. 2005). 4.2. Các chương trình của chính phủ cĩ ảnh hưởng đến bản Khe Trăn Du canh là hoạt động sản xuất chính trong khung sinh kế của người dân địa phương cho đến năm 1992-1993, thời điểm mà hầu hết các hộ gia đình được hỗ trợ để thực hiện lối sống định cư theo chương trình định canh định cư của chính phủ. Với tên gọi ‘Chương trình 327’ (1992-1997), cùng với tiến trình ‘Đổi mới’ đường lối kinh tế (bao gồm 6 thay đổi lớn về mặt kinh tế đã đưa Việt Nam thốt khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế vào năm 1986), dự án là nỗ lực đầu tiên của chính phủ Việt Nam nhằm mục đích phát triển trồng cây cơng nghiệp và phân quyền quản lý, quyền phân chia các nguồn tài nguyên rừng tại Việt Nam (Barney 2005). Bắt đầu từ thời điểm đĩ, hầu hết người dân Khe Trăn tập trung vào các hoạt động sản xuất nơng nghiệp, trồng rừng, đồng thời giảm các hoạt động khai thác rừng tự nhiên. Bản Khe Trăn cĩ ít đất thích hợp cho canh tác lúa nước, do đĩ, người dân canh tác các cây trồng như ngơ, lạc và đa dạng hĩa sản xuất cây trồng với các rừng trồng Cao su và Keo dưới sự hỗ trợ của Chương trình 327. Theo Artemiev (2003), vào năm 2003 một lộ trình mới cho việc phát triển các Lâm trường Quốc doanh (SFE) đã được nhiều cơ quan chính phủ phát triển (xem Quyết định số 187/1999/QD-TTg ngày 16 tháng 6 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2003 của Bộ Chính trị về sắp xếp, đổi mới và phát triển nơng, lâm trường quốc doanh), hướng đến việc chuyển đổi cơ cấu thành 1. Doanh nghiệp lâm trường nhà nước (kinh doanh cĩ liên quan đến lâm nghiệp), xem lợi nhuận là mục đích chính và khơng được nhà nước bao cấp 2. Lâm trường (các hoạt động bảo vệ rừng), kết hợp lợi nhuận thu được và trợ cấp của nhà nước để chi trả cho chi phí hoạt động; 3. Các hình thức kinh doanh khác (vận chuyển, xây dựng, chế biến gỗ, các dịch vụ khuyến lâm, v.v.), tương tự với mục đích của doanh nghiệp lâm trường nhà nước; và 4. các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ cơng. Hơn một thập kỷ, các hoạt động lâm nghiệp đã được triển khai thơng qua nhiều chương trình phát triển rừng quốc gia, gần đây nhất là ‘Chương trình 661’ theo sau
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | 13 Chương trình 327. Tại huyện Phong Điền, Chương trình 661 được quản lý bởi Lâm trường Phong Điền và Ban quản lý của Dự án Rừng phịng hộ đầu nguồn sơng Bồ (Lê Trọng Trai và cộng sự. 2001). Các hoạt động lâm nghiệp chính tập trung vào ‘trồng cây gây rừng’ trên các vùng đất trống, các vùng đất bị thối hĩa, và thiết lập cơng tác trồng rừng. Tại bản Khe Trăn, các hộ gia đình được trả từ 700.000 đồng đến 1 triệu đồng trên mỗi ha dành cho việc trồng cây trên các vùng đất được giao khốn (Acacia spp.). Sau đĩ, họ sẽ được trả thêm 450.000 đồng trong năm đầu tiên và 250.000 đồng cho mỗi khoảng thời gian hai năm tiếp theo, dựa trên các điều khoản trong hợp đồng bảo vệ rừng (để dễ so sánh, thu nhập bình quân đầu người hàng năm tại bản Khe Trăn là 1.944.000 đồng). Họ sẽ khơng được phép đốn cây, trừ những nơi cĩ các cây lớn tuổi hơn thì được phép nhặt các cành cây gãy để làm củi. Ví dụ tại huyện A Lưới, các hộ gia đình được trả 400 đồng cho việc trồng mỗi cây quế, tương đương với 4 triệu đồng Việt Nam trên mỗi ha (mật độ trồng cây Quế - Cinnamomum cassia rất cao, với 10.000 cây/ha; Lê Thành Chiến 1996). Bên cạnh đĩ, Lê Trọng Trai và cộng sự (2001) mơ tả rằng việc chi trả từ các chương trình trồng rừng quốc gia này đã mang lại lợi ích cho dân làng trong thời gian ngắn, việc trồng keo - Acacia spp. và thơng thuộc các chương trình này phát triển tốt. Tuy nhiên, người dân đưa ra nhiều vấn đề mà họ phải đối mặt trong nỗ lực đáp ứng những yêu cầu của các chương trình trồng rừng quốc gia. Ví dụ, người dân bản Khe Trăn và bản Hạ Long đã chỉ ra những khĩ khăn mà họ gặp phải sau khi sự thỏa thuận mang tính cá nhân (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời) về trồng rừng với Lâm trường hết hiệu lực. Sau thời điểm đĩ, họ khơng cịn nhận một hình thức khuyến khích nào nữa. Thỏa thuận theo hình thức này khơng mang lại một sự cơng nhận chính thức nào về quyền sử dụng đất của người dân địa phương. Họ chỉ cĩ quyền sử dụng đất tạm thời trong thời gian hợp đồng. Những người dân này đã bảy tỏ sự mong muốn cĩ được một hình thức quản lý rừng tự nhiên cĩ thể mang lại cho họ những lợi ích lâu dài, bền vững, đồng thời tạo điều kiện cho họ quản lý đất rừng hiện cĩ (gồm đất ‘trống’ và đất rừng tái tạo) theo hướng bền vững hơn. Ở huyện Phong Điền, các lồi chính được các nhà quản lý dự án thuộc các chương trình trồng rừng quốc gia chọn để trồng là Keo lá tràm - Acacia auriculiformis, Keo tai tượng - Acacia mangium và Thơng ba lá - Pinus kesiya. Tổng diện tích trồng rừng rất lớn: theo thơng tin từ Lâm trường Phong Điền, dưới sự hỗ trợ của chương trình 327 và chương trình 661, đã cĩ 30.366 ha rừng trồng được triển khai tại ba xã nằm gần vùng đệm thuộc huyện Phong Điền. Hầu hết cơng việc trồng rừng đều được thực hiện trên đất bằng và dốc thấp do các điều kiện về tài chính và khả năng tiếp cận. Việc trồng cây cao su vẫn được thực hiện trong Chương trình 327 tại bản Khe Trăn. Thế nhưng, theo Lê Trọng Trai và cộng sự (2001), việc trồng loại cây này đã được thực hiện ở các khu đất sát bờ sơng, những vùng đất tốt nhất hiện cĩ của bản, được xem là phù hợp cho việc canh tác các cây nơng nghiệp. Vì lồi cây này đã đến thời điểm cho phép khai thác mủ nên người dân khơng cịn cĩ nhiều lựa chọn cho các hoạt động sản xuất nơng nghiệp khác. Trong cuộc khảo sát, chúng tơi nhận thấy được rằng ngoại trừ các rừng cao su và vùng bằng phẳng ở phần dưới của bản, tính chất đất của bản được cấu thành từ những lớp đất đỏ màu, nhiều đá và cứng. Lê Trọng Trai và cộng sự (2001) cho rằng với một lượng lớn đất thối hĩa nặng hiện cĩ cho cơng việc phục hồi, quản lý rừng và các hoạt động sử dụng đất khác, vẫn cịn cĩ những tiềm năng đáng kể cho các hoạt động tăng thu nhập khác tại vùng đệm
- 14 | Bối cảnh chung của cơng tác bảo tồn tại Khe Trăn (ví dụ, thơng qua việc trồng các lồi cây mang lại giá trị kinh tế). Hoạt động này sẽ gĩp phần giảm áp lực lên các nguồn tài nguyên rừng trong khu bảo tồn thiên nhiên. Các tác giả cũng cho rằng cơng tác trồng và quản lý rừng tại những vùng đất trống đồi trọc là rất tốn kém, tạo nên căng thẳng xã hội và khơng mang tính bền vững lâu dài. Mặt khác, một số rừng keo đã được trồng tại một số khu vực khơng mang tính tối ưu trên phương diện mơi trường và hiệu quả kinh tế. Việc làm này, vì vậy, cĩ thể làm tăng các mâu thuẫn, đặc biệt là áp lực về nhu cầu đất đai cho việc trồng cây nơng nghiệp tiếp tục gia tăng. Vì vậy, cĩ thể cần phải cân nhắc việc chuyển giao một số lượng lớn hơn các vùng đất trồng rừng hiện tại cho cộng đồng tự quản lý và sử dụng. Tĩm tắt Bản Khe Trăn đã phải thực thi nhiều chính sách về sử dụng đất khác nhau. Rừng tại bản trước hết được xem là rừng sản xuất, tiếp theo đĩ là rừng phịng hộ đầu nguồn. Vì tầm quan trọng về đa dạng sinh học cũng như sự cĩ mặt của các lồi quý hiếm đang cĩ nguy cơ bị đe dọa, rừng ở đây được quy hoạch để trở thành một phần của Khu bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền vào năm 2010. Tuy nhiên, rừng ở những khu vực xung quanh bản đã bị tàn phá trầm trọng do chiến tranh, do hoạt động khai thác gỗ và các hoạt động nơng nghiệp khác. Nhiều dự án được tiến hành cĩ sự liên quan đến việc hình thành khu bảo tồn thiên nhiên tại bản Khe Trăn. Chính phủ đã cấm người dân địa phương tiến hành các hoạt động khai thác tại khu bảo tồn, đồng thời hỗ trợ họ xúc tiến các hoạt động khác nhằm tạo thu nhập cho tất cả các hộ gia đình. Trong bối cảnh này, các chương trình trồng cây cao su và keo đã được triển khai dưới sự hỗ trợ của chính phủ. Cho dù các chương trình này sẽ mang lại nguồn thu nhập bằng tiền mặt cho người dân địa phương, một số người dân vẫn lo ngại về các quyền lợi trong tương lai của họ trong việc trồng rừng, họ mong cĩ được quyền quản lý rừng tự nhiên và các vùng đất trống theo hướng bền vững. Việc thiếu đất cho hoạt động nơng nghiệp đã trở thành một vấn đề liên quan đến quá trình bảo đảm an ninh lương thực, và sự thiếu hụt này đã khiến cho nhiều người dân ít cĩ các hoạt động thay thế khác cho việc khai thác rừng tự nhiên.
- 5. Thơng tin chung về địa bàn nghiên cứu 5.1. Địa bàn nghiên cứu Bản Khe Trăn (thuộc xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) nằm gần ranh giới của Khu bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền (PDNR) (Biểu đồ/Hình 3), cĩ tổng diện tích khoảng 200 ha, độ cao trung bình so với mặt nước biển là 160 m. Bản nằm về hướng Tây-Bắc của thành phố Huế, thời gian tính từ thành phố trung tâm của tỉnh đến bản Khe Trăn, đi bằng ơtơ, mất khoảng 1 tiếng rưỡi đồng hồ. Vào mùa mưa, lũ lụt thường xuyên xảy ra, cơ lập bản với bên ngồi trong nhiều ngày. Bản Khe Trăn tiếp giáp Khu bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền về hướng tây và hướng nam, cĩ ranh giới với bản Hịa Bắc về hướng đơng. Bản Khe Trăn nằm trong vùng đệm của PDNR, địa hình gồm cả rừng và đất chuyển đổi. Diện tích của khu bảo tồn và của bản chủ yếu là đồi thấp, trải dài theo hướng Đơng-Nam từ dãy núi miền Trung và tạo thành biên giới giữa hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Những vị trí cao nhất trong khu bảo tồn bao gồm Coc Ton Bhai (1.408 m), Ca Cut (1.405 m), Ko Va La Dut (1.409 m), Coc Muen (1.298 m) và Co Pung (1.615 m). Diện tích rừng tự nhiên cịn lại ở những vùng lân cận bản rất hạn chế, diện tích rừng trồng ngày càng gia tăng trên các vùng đất trống, đồi trọc. Nhà ở nằm rải rác hai bên một con đường nhỏ, cách đường chính từ trung tâm xã Phong Mỹ đến thơn Hịa Bắc khoảng 1 km. Điểm nổi bật của bản Khe Trăn là sự biệt lập giữa các ngơi nhà với nhau. Mặc dù bản chỉ cĩ 20 hộ, nhưng phải mất khoảng 30 phút để đi từ nhà đầu bản đến nhà cuối bản. Các vườn nhà hầu như chỉ được trồng tiêu và mít. Chúng tơi chọn nơi này làm điểm nghiên cứu cho MLA vì các lý do sau: 1. Đa số dân cư ở đây thuộc dân tộc thiểu số - người Pahy, sống chung với một số người Kinh (dân tộc đa số ở Việt Nam), người Khơme (tên thay thế cho một trong các nhĩm ngơn ngữ Khmer tại Việt Nam; Gordon 2005). Cĩ 53 dân tộc thiểu số tại Việt Nam (chiếm 12.7% dân số, theo thống kê năm 1979), một vài trong số các dân tộc thiểu số đĩ cĩ mối quan hệ khơng được suơn sẻ lắm với nhĩm dân tộc đa số (Yukio 2001). Nĩi chung các mâu thuẫn chính xảy ra ở vùng cao nguyên (các mâu thuẫn về giao đất cho người Kinh, các vấn đề về quản lý đất truyền thống và những vấn đề về du canh), và người Kinh thường khơng am hiểu các nhĩm dân tộc thiểu số một cách cặn kẽ. Tuy nhiên chính phủ Việt Nam, gần đây, đã cĩ 15
- 16 | Thơng tinchungvề địabànnghiêncứu Chú giải Khu bảo tồn Thiên nhiên Biên giới Quốc gia Biên giới Tỉnh Biên giới Huyện Khu vực Quản lý Tiểu vùng Phịng hộ Nghiêm ngặt I Tiểu vùng Phịng hộ Nghiêm ngặt II Tiểu vùng Phục hồi rừng I Tiểu vùng Phục hồi rừng II Vùng đệm - Lê Trọng Trai và cộng sự. 2001 - Dữ liệu Độ cao Số hĩa SRTM 90m, Nhiệm vụ Quan sát Địa hình bằng Ra-đa, NASA - Cơ quan giám sát địa giới quốc tế, Trung tâm Giám sát Bảo tồn Thế giới UNEP, 1994 Biểu đồ (Hình) 3. Vị trí của bản Khe Trăn tại vùng đệm của khu bảo tồn Phong Điền
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | 17 nhiều nỗ lực trong việc đánh giá điều kiện sống và nguy cơ dễ bị tổn thương của các nhĩm dân tộc thiểu số. Chính phủ đã thực thi các chính sách hỗ trợ cộng đồng các đồng bào các dân tộc thiểu số hồ nhập hơn với nền kinh tế tồn cầu thơng qua các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng và chương trình phát triển (ADB 2005). Chúng tơi nhận thấy việc chọn cộng đồng dân tộc thiểu số đã cĩ sự hồ nhập với nhĩm dân tộc Kinh đa số là phù hợp. Cộng đồng này đã bị ngăn cấm tiến hành các hoạt động du canh truyền thống, và được khuyến khích áp dụng mơ hình sản xuất nơng nghiệp định canh, đây là một lý do nữa khiến chúng tơi tiến hành nghiên cứu về nhận thức và sự ưu tiên dành cho cơng tác quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, cũng như việc tìm hiểu quan hệ của cộng đồng với các bản khác, cũng như với các cấp chính quyền xã, huyện, và tỉnh. 2. Lý do quan trọng thứ hai là sự cĩ mặt của khu bảo tồn thiên nhiên tương lai tại vùng lân cận của bản. Khu bảo tồn này được quyết định thành lập sau sự kiện lồi gà lơi Edward được phát hiện ở một số vùng núi thuộc huyện Phong Điền, và được tiến hành quy hoạch đến năm 2010 (Tổ chức bảo tồn chim quốc tế và cộng sự 2001). Đồng thời, đây là vùng cĩ tiềm năng cho sự tham gia của cộng đồng, mặc dù tại thời điểm này, người dân Khe Trăn và các bản khác ở vùng đệm của khu bảo tồn khơng được phép tiến hành bất kỳ một hoạt động khai thác nào ở trong khu bảo tồn. Cuộc khảo sát của chúng tơi cũng cung cấp thêm các thơng tin cĩ giá trị về những cách thức người dân địa phương nhìn nhận khả năng tham gia của mình trong cơng tác quản lý khu bảo tồn và trong quá trình thương lượng với các bên liên quan đến khu bảo tồn. 3. Lý do cuối cùng là, hầu hết các dự án tại huyện Phong Điền đều tập trung vào việc rà phá bom mìn và xây dựng cơ sở hạ tầng, trong khi đĩ rất ít dự án tập trung vào việc đúc kết kinh nghiệm trong cơng tác quy hoạch sử dụng đất (một số dự án đã xúc tiến các hoạt động về lâm nghiệp cộng đồng nhưng chủ yếu là rừng trồng). Kết quả thu được từ những hoạt động của chúng tơi cĩ thể được sử dụng để so sánh với các dự án tương tự đang được triển khai tại các huyện khác nhau thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, hay ở các tỉnh khác của Việt Nam. 5.2. Người dân ở bản Khe Trăn 5.2.1. Lược sử cuộc sống của người dân tại bản Khe Trăn Trước năm 1967, bản Khe Trăn nằm ở thượng nguồn của hai con sơng Ơ Lâu và Mỹ Chánh (Biểu đồ/Hình 4). Phương thức sống của người dân chủ yếu là hoạt động du canh, du cư ở các đồi núi thuộc khu vực này. Do chiến tranh, họ buộc phải di dời đến huyện A Lưới và sang Lào. Vào năm 1971, chính phủ Việt Nam thơng báo hồ bình đã được lập lại trên quê hương của họ, và rằng họ cĩ thể trở về để tái định cư. Trưởng thơn và một số người dân khác đã trở lại Tam Gianh, nơi này cách nơi định cư gốc của họ 2 km về phía thượng nguồn của sơng Ơ Lâu. Khơng lâu sau đĩ, số dân cịn lại cũng đã trở về đây để hội tụ. Họ sống ở đĩ được 5 năm trước khi tiếp tục chuyển về sống tại bản Khe Cát, và sống ở đĩ cho đến năm 1978. Cuối cùng họ cũng được chuyển về quê hương trước đây tại khu vực thượng nguồn sơng Ơ Lâu. Vào năm 1992, được sự khuyến khích của chính phủ thơng qua chương trình định canh, định cư ở những khu vực gần đường chính, một số người dân đã di chuyển về sống ở phần dưới của bản
- 18 | Thơng tinchungvề địabànnghiêncứu Chú giải Bản Bản Bản bị bỏ hoang Đường chính Đường phụ Đường mịn Sơng ngịi Đập chứa nước Nguồn: - Sở Kế hoạch và Đầu tư, tỉnh Thừa Thiên Huế, 2005 - Bản đồ chụp từ Vệ tinh Landsat đường dẫn125 hàng 049, GLCF, 2001 - Dữ liệu Độ cao Số hĩa SRTM 90m, Nhiệm vụ Quan sát Địa hình bằng Ra-đa, NASA - Cơ quan giám sát địa giới quốc tế, Trung tâm Giám sát Bảo tồn Thế giới UNEP, 1994 Biểu đồ (Hình) 4. Địa thế bản Khe Trăn
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | 19 Khe Trăn (phần dưới của thượng nguồn sơng Ơ Lâu). Vì lẽ đĩ, họ đi khỏi vùng đất cư ngụ truyền thống của người Pahy. Hầu hết người dân cĩ nguồn gốc từ sự pha trộn của nhiều dân tộc khác nhau. Điều này lý giải việc bản làng được tách ra làm hai phần, như đã được đề cập ở trên, là phần trên và phần dưới của thượng nguồn sơng Ơ Lâu; với sự hỗ trợ của chính phủ những người dân đang sinh sống tại phần đất phía dưới đã tiến hành phát triển cây trồng nơng nghiệp (gồm cĩ cả lúa) và trồng cây Cao su. 5.2.2. Dân số và thành phần dân tộc Bản Khe Trăn gồm 20 hộ gia đình với 124 nhân khẩu. Người dân cĩ độ tuổi từ 15 đến 60 chiếm 71% dân số, số cịn lại bao gồm trẻ em (21%) và người già (8%). Hầu hết người dân đều làm nghề nơng, chỉ cĩ một số ít cĩ các nghề khác như cơng an, giáo viên, hoặc thợ may. Như đã đề cập ở trên, hầu hết người dân đều là người dân tộc Pahy, là một trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam; 23 người Kinh, dân tộc đa số ở tỉnh Thừa Thiên Huế nĩi riêng và ở Việt Nam nĩi chung (Vũ Hồi Minh và Warfvinge 2002); và chỉ cĩ một đại diện duy nhất của dân tộc Khơme. Ban đầu chỉ cĩ người dân Pahy sinh sống tại bản Khe Trăn và các vùng phụ cận, theo thời gian các nhĩm dân tộc khác đã đến đây thơng qua con đường hơn nhân ngồi dân tộc. Người Pahy và người Kinh sống với nhau ở cả phần trên và phần dưới của bản. Sự tương tác giữa chính phủ và các dân tộc thiểu số như người Pahy đơi lúc cịn hạn chế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến quyền sử dụng đất và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc cùng hợp tác với người dân Pahy tại bản Khe Trăn đã giúp chúng tơi nghiên cứu được tiến trình hịa nhập và biến đổi của một nhĩm dân tộc thiểu số. Những quan sát của chúng tơi cũng cĩ giá trị trong việc làm nền tảng cho sự so sánh với các nhĩm dân tộc khác tại Việt Nam. 5.2.3. Giáo dục Chỉ cĩ 8 người dân chưa từng được đi học. Những người cĩ thời gian đi học dài nhất chủ yếu là những người trẻ tuổi (dưới 30 tuổi). Hầu hết những người này đều đã hồn thành xong cấp học phổ thơng cơ sở, một số rất ít học tiếp lên cấp trung học phổ thơng. Chỉ cĩ một trường cấp I duy nhất nằm ở bản bên cạnh, trên đường dẫn vào xã Phong Mỹ. Trường cấp II nằm ở xã, cách bản 5 km, các trường cấp III nằm ở huyện Phong Điền. Trước đây cĩ một trường cấp II tại bản nhưng nay đã đĩng cửa vì thiếu học sinh. Phần lớn người dân đều hy vọng cĩ được một nền giáo dục tốt hơn, kèm theo cơ sở hạ tầng hồn chỉnh hơn, và các cơ quan hành chính hoạt động cĩ hiệu quả hơn. Theo họ, giáo dục cĩ thể tạo điều kiện cho người dân nâng cao chất lượng cuộc sống thơng qua việc nâng cao kiến thức và kỹ năng bổ ích cho con cái họ. 5.2.4. Sinh kế Người dân Khe Trăn dành hầu hết thời gian vào việc canh tác ruộng lúa, vườn nhà (đa phần trồng tiêu và mít), và cao su, keo từ chương trình tái định cư của chính phủ.
- 20 | Thơng tin chung về địa bàn nghiên cứu Mặc dù đã cĩ các nguồn thu nhập mới này, người dân vẫn thường thu nhặt lâm sản (như mật ong, cây mây) và phế liệu chiến tranh cịn sĩt lại trong khu bảo tồn thiên nhiên. Một vài người dân vẫn cịn sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên rừng thuộc khu bảo tồn thiên nhiên. Tuy nhiên, số lượng người dân sống phụ thuộc vào các hoạt động sản xuất nơng nghiệp, và xem đây là nguồn sinh kế cũng như nguồn tạo thu nhập bằng tiền chính ngày càng tăng. Người dân sống ở phần thấp của bản chủ yếu sống phụ thuộc vào các lồi cây trồng theo mùa, hoạt động chăn nuơi và cải tạo vườn nhà, trong khi đĩ số dân ở phần cao lại chủ yếu dựa vào trồng trọt và chăn nuơi. (Biểu đồ/Hình 5). Biểu đồ (Hình) 5. Chăn nuơi và trồng cây keo đĩng vai trị quan trọng tại bản Khe Trăn Một số sự kiện quan trọng đã ảnh hưởng đến sinh kế của người dân. Cho đến gần đây, người dân sống tại huyện Phong Điền, gồm cả bản Khe Trăn, đã phải đối mặt với các vấn nạn như lũ lụt, hạn hán và cháy rừng. Ví dụ, các cơn lũ đã gây thiệt hại trên diện rộng đến vụ mùa và cơ sở hạ tầng vào năm 1983 và 1999. Trong các cơn lũ xảy ra vào năm 1999, người dân ở bản Khe Trăn đã bị tổn thất nặng nề về nhà cửa, mùa màng, và thậm chí cả tính mạng con người. Các đợt cháy rừng và hạn hán xảy ra trên diện rộng tại huyện vào năm 1985 và một đợt hạn hán khác cũng đã xảy ra vào năm 1990 là những trận hỏa hoạn lớn xảy ra trong cộng đồng. Chúng tơi thống kê các sự kiện xảy ra từ năm 1992, thời điểm một số người dân bắt đầu định cư tại khu vực dưới của bản (Bảng 2). 5.2.5. Nguồn thu nhập Cĩ một sự khác biệt lớn giữa hai khu vực của bản về vấn đề thu nhập hộ gia đình (Bảng 3). Theo kết quả khảo sát hộ gia đình, những người dân sống ở khu vực dưới
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | 21 Bảng 2. Các sự kiện quan trọng ảnh hưởng đến sinh kế tại địa phương Năm Thiên tai/Các sự kiện quan trọng Nguyên nhân 1992 Định cư tại bản Khe Trăn Theo các kế hoạch của chính phủ 1993 Rừng được khốn cho người dân Vì cơng tác quản lý rừng trước đây do chính phủ hồn tồn đảm trách nên đã khơng ngăn được sự suy thối rừng, rừng vì vậy được giao khốn cho người dân địa phương (chương trình tái trồng rừng). Điều này tạo điều kiện cho người dân địa phương trong việc sử dụng đất trống vẫn thuộc đất rừng 1999 Lũ lụt Thiên tai đã làm hư hại/phá hủy một số nhà cửa 2003 Cĩ điện Chương trình chính phủ 2004 Cĩ nước phục vụ thủy lợi (hệ Chương trình chính phủ về giảm nghèo thống nước tự chảy) của bản cĩ thu nhập hằng năm cao hơn (trung bình khoảng 13,7 triệu đồng Việt Nam) những người sống ở khu vực cao (9,6 triệu đồng Việt Nam). Trung bình mỗi hộ gia đình cĩ 6 thành viên với thu nhập khoảng từ 1,6 triệu đến 2,3 triệu đồng Việt Nam trên mỗi đầu người. Những con số này thấp hơn nhiều so với tổng thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam với 553 USD, tương đương với 8,7 triệu đồng Việt Nam vào năm 2004 ( Chúng tơi nhận thấy rằng thu nhập của một số hộ gia đình nằm dưới mức sống tối thiểu với 1,04 triệu đồng trên mỗi đầu người (Tổng cục Thống kê Việt Nam tại địa chỉ povstat/pov7_vnm.pdf#search=’poverty%20line%20in%20vietnam’). Rừng cao su (Biểu đồ/Hình 6) và rừng keo trồng, chăn nuơi, vườn nhà và các khoản trợ cấp hưu trí là nguồn thu nhập chính đối với các hộ thuộc phần dưới của bản, trong khi đĩ rừng keo trồng và các khoản trợ cấp chiến tranh được xem là nguồn thu nhập chính của các hộ gia đình thuộc phần trên của bản. Người dân ở phần trên của bản cĩ ít thu nhập bằng tiền mặt từ chăn nuơi, cây mây, vườn nhà, và từ hoạt động thu nhặt phế liệu chiến tranh. Đối với một số người dân từng tham gia quân đội trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, họ vẫn cịn được nhận trợ cấp từ chính phủ. Hai hộ gia đình đã mở quán nhỏ bán thức ăn và nước uống. Họ mua hàng từ chợ Phong Mỹ rồi bán lại. Một số người dân khác làm việc tại Phong Điền với những nghề khác nhau như giáo viên, cơng an, một người khác đang là thợ may tại thành phố Hồ Chí Minh. Người dân ở phần trên của bản sống gần rừng tự nhiên, và xem rừng tự nhiên như là nguồn cung cấp lương thực mỗi khi họ thiếu cái ăn. An ninh lương thực là vấn đề nghiêm trọng đối với các hộ gia đình ở phần trên của bản vì họ khơng canh tác lúa nước, trong khi đĩ, nguồn thu nhập bằng tiền mặt lại phụ thuộc vào rừng keo trồng. Nỗ lực nâng cao hoạt động chăn nuơi và cải tạo vườn nhà cĩ thể nâng cao thu nhập và đảm bảo an ninh lương thực cho người dân. Theo Maltsoglou và Rapsomanikis (2005), chăn nuơi đĩng một vai trị quan trọng trong thu nhập cho các hộ gia đình ở nơng thơn ở Việt Nam. Hiện nay rừng keo trồng đang là nguồn thu ổn định cĩ tiềm năng đối với các hộ gia đình, và thậm chí sẽ trở nên quan trọng hơn trong tương lai. Nhu cầu đối với cây keo tại địa phương rất đáng kể và cĩ khả năng tiêu thụ tất cả khối lượng keo tại bản
- 22 | Thơng tin chung về địa bàn nghiên cứu Bảng 3. Độ biến động của thu nhập dựa vào loại sản phẩm và khu vực định cư Thu nhập hộ gia đình (triệu đồng Việt Nam) Nguồn thu nhập Phần dưới của bản Phần trên của bản Hằng tháng Hằng năm Hằng tháng Hằng năm Cao su 0,27–0,67 3,20–8,00 0,00 0,00 Keo 0,58 7,00 0,10–0,25 1,20–3,00 Chăn nuơi 0,25 3,00 0,10–0,29 1,20–3,50 Vườn nhà 0,58 7,00 0,25 3,00 Lương hưu 0,61 7,30 0,60 7,20 Nơng nghiệp n.a. n.a. 0,10 1,20 Khai thác mây 0,05 0,60 n.a. n.a. Phế liệu chiến tranh 0,00 0,00 0,02 0,20 Quán hàng 0,00 0,00 0,05–0,58 0,60–7,00 Khác 0,17 2,00 0,03–0,15 0,30–1,80 Trung bình 1,14 13,70 0,80 9,63 Độ biến động 0,35–2,08 4,2–25 0,33–1,67 4–20 n.a. là số người tham gia phỏng vấn khơng cung cấp thơng tin về mức thu nhập thấp từ những nguồn thu nhập được đặt ra Biểu đồ (Hình) 6. Một phụ nữ ở phần thấp của bản đang thu hoạch mủ cao su ở đồn điền của mình Khe Trăn. Nhu cầu từ các nhà máy sản xuất bột giấy và ván dăm nằm gần tỉnh Thừa Thiên Huế và từ chương trình của chính phủ Việt Nam trong việc mở rộng diện tích rừng trồng đã làm cho việc trồng rừng trở thành một phương thức nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Việc trồng rừng cũng cĩ thể mang lại nguồn thức ăn cho gia súc.
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | 23 Một cơ hội đa dạng hĩa và tăng thu nhập khác là việc tận dụng con sơng để nuơi cá. Sơng Ơ Lâu nằm gần bản cĩ chiều rộng khoảng 20m, ở một số khúc sơng cĩ các hồ nước tự nhiên rất cĩ tiềm năng cho việc phát triển nuơi cá. Hoạt động nuơi trồng thuỷ sản được triển khai và đã trở nên rất phổ biến ở một số địa phương thuộc huyện Phong Điền và huyện A Lưới (Lê Trọng Trai và cộng sự. 2001). Hoạt động này cĩ thể cĩ thể mang lại hiệu quả ở bản Khe Trăn, cho dù cĩ một số lo ngại về lũ lụt và sự ơ nhiễm chất điơxin. 5.2.6. Tiếp xúc và quan hệ với người ngồi cộng đồng Với một con đường rộng 4 m nối bản với trục đường chính của xã đã tạo điều kiện khá tốt cho người dân trong bản tiếp cận với trung tâm xã. Người dân sử dụng xe đạp và xe máy để đi đến xã. Trong suốt mùa mưa, một số đoạn của con đường này, đặc biệt ở phần dưới của bản, thường bị hư hỏng do lũ. Đường trong bản thường lầy lội và trơn. Một chiếc cầu đã được xây dựng để nối hai phần của bản lại với nhau, và một chiếc cầu khác lớn hơn đang được xây dựng dưới sự tài trợ của Dự án Phát triển Nơng thơn Thừa Thiên Huế (Appraisal Mission 2004). Người ngồi địa phương cĩ quan hệ chủ yếu với người dân là các thương nhân thu mua sản phẩm nơng nghiệp (lạc, tiêu, cao su, sắn), hoặc chỉ để bán thịt và quần áo. Thỉnh thoảng người dân cũng gặp những người ngồi địa phương đến thu mua gỗ eaglewood, các phế liệu chiến tranh và mây, tuy nhiên, các mối quan hệ này khơng nhiều. Các quán bán cà phê ở khu vực trên của bản là những nơi mà người dân thường gặp và thảo luận với những người ngồi địa phương này. Người dân cũng cho hay, từ khi cĩ chương trình giao đất và trồng rừng vào đầu những năm 1990, nhiều cán bộ khuyến nơng của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ đã tổ chức nhiều khĩa huấn luyện tại bản. Họ cho hay những nỗ lực cĩ liên quan đến cơng tác khuyến nơng này thật sự rất hữu ích, và họ mong rằng cĩ nhiều hơn nữa các lớp tập huấn về quản lý và kỹ thuật chăn nuơi, trồng rừng và nơng nghiệp được tổ chức. 5.3. Vấn đề sử dụng đất và các nguồn tài nguyên thiên nhiên Tại vùng phụ cận của bản, khu bảo tồn thiên nhiên và vùng đệm của nĩ bao phủ các khoản đất nhỏ của rừng thối hĩa, đất trống đồi trọc, rừng cao su, keo, và một số khu vực dành cho sản xuất nơng nghiệp. Hai con sơng chính cũng nằm gần bản gồm sơng Ơ Lâu và sơng Mỹ Chánh. Qua việc quan sát, những lần họp thơn đầu tiên, chúng tơi đã xác định được các loại đất chính, ví dụ như đất bằng phù sa được sử dụng làm đất thổ cư, trồng tiêu, trồng cao su, trồng lúa nước và trồng các loại cây màu. Đất đồi núi cĩ rừng thứ sinh, rừng keo trồng, đất thổ cư, và đất trống đồi trọc. Chúng tơi cũng đã ghi nhận khoảng 20 loại đất khác nhau nhờ sự phân loại của người dân Khe Trăn (Bảng 4). Việc xác định các loại đất thể hiện nhận thức và sự phân loại chính thống về quyền sở hữu đất (ví dụ, đất dành cho định cư, đất trồng lạc), cùng với một số loại đất khác ít liên quan đến nghiên cứu của chúng tơi (ví dụ, thác nước, đường mịn, cầu).
- 24 | Thơng tin chung về địa bàn nghiên cứu Bảng 4. Nhận diện các loại đất ở bản Khe Trăn Loại đất (tiếng Pahy) Mơ tả Cutect vườn Đất làm vườn Cutect màu Đất nơng nghiệp Cutect a tong Đất trồng lạc Cutect along Đất trồng rừng Cutect vá Đất nghĩa địa Cutect cho tro Đất trồng lúa Cutect tiêu Đất trồng tiêu Cutect cao su Đất trồng cao su Cutect âm bút Đất rừng tự nhiên Cutect cỏ Đất trồng cỏ/đất trống Đa pưh Pahy Sơng Pahy/Ơ Lâu Đá so tù moi Nhánh sơng Tu moi Cutect ta xu Đất ở Ân yên cooh 935 Đỉnh núi 935 A chuh Rana Thác Rana Chooh Rana Vùng cát dọc bờ sơng Rana Mỏ zeeng Khai thác vàng Along papứt Rừng cây lớn Along cacet Rừng cây nhỏ Câm foong fứt Cầu giao thơng Vì vậy, chúng tơi đã dựa vào quan điểm của địa phương về đất hơn là theo cách phân loại chính thống, các loại đất được nhĩm lại thành 6 nhĩm chính gồm đồi trọc, đất trồng màu, rừng, vườn nhà, ruộng lúa và sơng ngịi. Rừng được chia ra thành rừng trồng, rừng cây nhỏ (rừng thứ sinh) và rừng cây lớn (rừng nguyên sinh) (Bảng 5). Sơng Ơ Lâu là một phần quan trọng của tổng hồ cảnh quan vùng lân cận bản. Sơng chảy ngang qua tồn bộ phần đất của bản, gần sát với các khu dân cư. Con sơng lớn thứ hai, sơng Mỹ Chánh, nằm ở phía bắc của bản Khe Trăn khơng được người dân địa phương sử dụng đáng kể. Rừng bên trong và quanh bản được phân làm 3 loại như đã đề cập ở trên. Rừng trồng bao gồm rừng keo và cao su. Rừng cao su lâu năm nhất (8 năm) của bản nằm gần đường chính, cĩ tổng diện tích là 10 ha, bao gồm một số nhỏ diện tích trồng mới. Rừng keo trồng được tiến hành bắt đầu từ giữa bản đến gần phần trên của bản, cĩ tổng diện tích khoảng 160 ha. Rừng cây nhỏ biểu thị cho các loại rừng chiếm ưu thế quanh bản, chủ yếu bên trong Khu bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền. Loại rừng này gồm cĩ các rừng sim - Myrtaceae và cà phê –Rubiaceae. Rừng cây lớn (rừng nguyên sinh) rất xa bản, thuộc khu bảo tồn, và nằm cách bản khoảng một ngày đi bộ. Đất trống (Biểu đồ/Hình 7) hình thành nên bởi chiến tranh, cháy rừng, hoạt động chăn thả súc vật và du canh (Lê Trọng Trai và cộng sự. 2001). Loại đất này, chủ yếu là cây bụi và cỏ, là đối tượng của nỗ lực trồng rừng của chính phủ. Rừng keo trồng được phát triển trên những đồi trọc này. Phần cịn lại của quang cảnh bản làng được phân ra thành đất thổ cư, vườn nhà (trồng tiêu và cây trái), đồi trọc, sơng ngịi và đường bộ. Nếu đất rừng trồng cĩ tính chất đặc biệt về mặt địa lý (keo tại phần cao và cao su tại phần thấp của bản), thì vườn nhà sẽ rất dễ tìm thấy gần các ngơi nhà tại cả hai khu vực của bản.
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | 25 Bảng 5. Phân nhĩm các loại đất tại bản Khe Trăn Các loại đất (tiếng Việt/tiếng Pahy) Mơ tả Vườn nhà/Cutect vườn Chủ yếu trồng tiêu, mít, thơm; xung quanh nhà Đất màu /Cutect màu Lạc và sắn; vùng thấp của bản Khe Trăn Ruộng lúa/Cutect cho tro Ruộng lúa khơ Đất trống/Cutect cỏ Phía Bắc của bản; cây bụi và cỏ trên các ngọn đồi và bờ sơng Sơng/Đa pưh Phía nam và phía bắc của bản (sơng Ơ Lâu và sơng Mỹ Chánh) Rừng trồng/Cutect along Cao su và keo Rừng cây nhỏ/Along ca cut Rừng tái sinh quanh bản Rừng cây lớn/Along papứt Phía tây của bản (cách rất xa bản) Biểu đồ (Hình) 7. Diện tích đáng kể đất trống ở bản Khe Trăn được sử dụng để trồng rừng keo Cảnh quan bản Khe Trăn chủ yếu thể hiện các nỗ lực của chính phủ cấp trung ương trong việc quản lý cơng tác tái định cư của người dân địa phương và việc áp dụng các chương trình nơng lâm nghiệp thơng qua các đề án giao đất khốn rừng. Loại cảnh quan thực bì này chiếm ưu thế ở những diện tích gần khu định cư, chủ yếu nằm ở các khu đất bằng phù sa, là chỉ thị của loại đất tốt. Chính sách sử dụng đất của Chính phủ Việt Nam đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của bản Khe Trăn. Với mục tiêu tạo nên một khu bảo tồn thiên nhiên tại Phong Điền, chính phủ đã khuyến khích người dân từ bỏ hình thức sản xuất nơng nghiệp truyền thống và các hoạt động khác ở các vùng đất thấp màu mỡ thuộc các con núi,
- 26 | Thơng tin chung về địa bàn nghiên cứu đang tạm thời được sử dụng cho hoạt động sản xuất nơng nghiệp. Chính phủ cũng luơn theo sát các hoạt động của người dân thơng qua Hội đồng Nhân dân Tỉnh, cấp quản lý thường xuyên tác động đến các hoạt động của cấp xã. Hội đồng Nhân dân xã Phong Mỹ trực tiếp ra quyết định về các hoạt động quản lý thường nhật của bản làng, đồng thời bổ nhiệm trưởng bản và quản lý các dự án phát triển do chính phủ tài trợ. Các cá nhân cĩ hiểu biết sâu rộng trong thơn cho biết họ khơng cịn săn bắn trong rừng nữa vì cĩ ít thứ để săn bắn, và hơn nữa chính phủ đã cấm hoạt động này. Khi chúng tơi đưa ra một bản đồ, họ cĩ thể chỉ ra những nơi cĩ các lồi động vật hoang dã khác nhau; điều này nĩi lên một điều rằng họ chỉ mới vừa từ bỏ hoạt động săn bắn gần đây, hoặc vẫn tiến hành các hoạt động săn bắn lén lút (hầu như bằng bẫy vì sử dụng súng là phạm pháp). Một nghĩa trang lâu năm tọa lạc giữa một rừng keo trồng, và những dấu tích của các bản làng cũ vẫn cĩ thể tìm thấy quanh rừng cây nhỏ thuộc địa phận của bản. Những đặc điểm về các loại đất này tượng trưng cho các địa điểm văn hĩa và lịch sử quan trọng đối với người dân. 5.3.1. Phân bố nguồn tài nguyên và các loại đất (lập bản đồ tài nguyên cĩ sự tham gia) Như đã được trình bày ở phần trước (xem phần phương pháp nghiên cứu, Chương 2), các buổi họp thơn được tiến hành để phục vụ cho việc lập sơ đồ thơn (bao gồm cả sơ đồ tài nguyên) và các loại đất chính dựa trên sự xác định của người dân. Hoạt động lập sơ đồ cĩ sự tham gia này là điều kiện ban đầu cho sự hiểu biết chung về nhận thức của người dân về các loại đất và những hoạt động khác nhau ở vùng nghiên cứu. Trong quá trình tiến hành lập sơ đồ thơn cĩ sự tham gia, chúng tơi đã cung cấp cho người dân một bản đồ nền, trong đĩ chỉ rõ các các con sơng và các nhánh sơng chính, vị trí của bản và các trục đường chính. Những người am hiểu ở địa phương cũng đã thêm vào sự phân bổ về khơng gian của nhiều loại đất và nguồn tài nguyên, ví dụ như rừng, rừng keo trồng và cao su, đất nơng nghiệp, đất thổ cư, và vườn nhà, vị trí cũ của bản, các vị trí đặc thù dành cho săn bắn và những nguồn tài nguyên đặc thù khác như phế liệu chiến tranh, cây mây, gấu, gà lơi, v.v. Sơ đồ hồn chỉnh được thể hiện tại Biểu đồ/Hình 8. Người dân cũng thể hiện cĩ kiến thức phong phú về các nguồn tài nguyên gần khu định cư của mình, bao gồm các nguồn tài nguyên từ vườn nhà, đất nơng nghiệp, rừng trồng, rừng cây nhỏ, đồi trọc và sơng ngịi. Hầu hết người dân cĩ ít kiến thức về các nguồn tài nguyên nằm cách xa khu vực bản, ví dụ như rừng cây lớn. Dù sơ đồ khơng phải được xây dựng nhằm phục vụ cho các mục đích chính thống hay hợp pháp nào đĩ, người dân vẫn xem đây là một cơng cụ hữu ích phục vụ cho việc thảo luận với người ngồi địa phương về các loại đất và các nguồn tài nguyên tại địa phương. Sơ đồ được sử dụng trong suốt hội thảo cùng với người dân về các vấn đề cĩ liên quan đến cơng tác bảo tồn đa dạng sinh học tại bản Khe Trăn vào những ngày cuối cùng trong chuyến khảo sát của chúng tơi (xem phần các nhận thức tại địa phương ở Chương 6). Nhĩm nghiên cứu thực địa cũng đã sử dụng sơ đồ trong quá trình chọn lựa các vị trí của các ơ điều tra trên các loại đất đã được người dân phân loại. Sơ đồ cũng đồng thời được phục vụ cho cơng việc thu thập thơng tin về kiến thức của người dân về lâm sản và lịch sử các khu đất nơi các ơ điều tra được thiết lập.
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | 27 Đa dạng sinh học và bản đồ phân bố tài nguyên ở bản Khe Trăn Đa dạng sinh học và bản đồ phân bố tài nguyên ở Khe Biểu đồ (Hình) 8.
- 28 | Thơng tin chung về địa bàn nghiên cứu Quá trình thực hiện sơ đồ đã giúp chúng tơi nhận ra rằng, mặc dù bị xáo trộn, cảnh quan xung quanh bản Khe Trăn chủ yếu được cấu thành bởi rừng thứ sinh, rừng trồng, các bãi cỏ, và đất trống, người dân vẫn nhận ra được một số lượng lớn các nguồn tài nguyên hoang dã cách bản khơng xa, bao gồm một số lồi động vật cực kỳ hiếm (hổ, gấu). Theo những người am hiểu trong thơn, người ta thỉnh thoảng vẫn trong thấy các lồi này trong vịng 5-6 năm trở lại đây. Vì vậy, dù kiến thức về các nguồn tài nguyên hay về vị trí của những loại đất của người dân là quan trọng, nĩ cũng chỉ thể hiện chủ yếu cho các loại tài nguyên, loại đất lân cận của bản. Chúng tơi sẽ quay trở lại vấn đề này khi thảo luận về kiến thức bản địa ở chương tiếp theo. Tĩm tắt Đặc trưng của bản Khe Trăn là sự hiện diện của nhĩm dân tộc thiểu số Pahy, sống cùng với người Khơme thiểu số khác, và dân tộc Kinh đa số. Người dân ở đây di cư trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, một số đến huyện A Lưới gần biên giới Lào, một số thì sang Lào. Khi chiến tranh kết thúc, chính phủ đã đưa họ trở lại tái định cư ở bản. Vào năm 1992, chính phủ đã khuyến khích người dân chuyển đến sống gần khu vực đường chính, và tạo điều kiện cho họ phát triển canh tác lúa nước, phát triển trồng cây keo và cao su. Chỉ cĩ một ít cá nhân trong số 20 hộ gia đình chưa từng đi học. Đa số người dân trong bản dùng phần lớn thời gian cho các hoạt động sản xuất ở vườn nhà, ruộng lúa, và rừng trồng. Địa bàn của bản được chia làm hai phần, phần trên của bản là nơi người dân cĩ thu nhập thấp, sống phụ thuộc vào vườn nhà, trồng cây keo. Phần dưới của bản là nơi người dân cĩ thu nhập cao hơn, sống phụ thuộc vào các hoạt động canh tác đa dạng hơn, gồm rừng trồng keo và cao su, vườn nhà và trồng lạc, sắn và ruộng lúa. 20 hộ gia đình được phân bố rải rác và mất khoảng 30 phút để đi bộ từ đầu bản đến cuối bản. Người dân đã phân loại được một lượng lớn các loại đất, một số loại đĩ tương ứng với thuật ngữ khoa học chính thống. Trong số 8 loại đất chính, rừng chiếm tới 3 loại. Bên cạnh các rừng cây nhỏ và rừng cây lớn, người dân cũng gộp các rừng trồng vào cảnh quan rừng. Sự phân loại này cũng cĩ liên quan đến ‘nguồn gốc rừng’ của đất trống đã được sử dụng để trồng rừng. Rừng trồng là một phần của dự án giao đất và phục hồi rừng, được chính quyền địa phương khởi xướng nhằm mang lại nhiều thu nhập hơn từ các hoạt động tại chỗ và mang tính ‘ổn định’, nhằm đưa người dân thốt khỏi cảnh quá phụ thuộc vào rừng (du canh, khai thác gỗ và các lâm sản ngồi gỗ), đặc biệt là tại Khu bảo tồn Thiên nhiên Phong Điền. Tuy nhiên, cho dù kho tàng kiến thức này về các vùng phụ cận của bản cĩ xu hướng bị mai một, việc lập sơ đồ cĩ sự tham gia về các nguồn tài nguyên thiên nhiên của bản cho thấy rằng kiến thức về lâm sản, động vật hoang dã và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác vẫn đĩng vai trị quan trọng đối với người dân. Chúng tơi đã khơng thu thập nhiều thơng tin về các khu vực cách xa bản, cụ thể là trong vùng lõi của Khu bảo tồn Thiên nhiên. Người dân cũng cĩ sự am hiểu cao về quyền sở hữu khi thảo luận về quyền sử dụng đất tại bản, sự phân chia lại quyền hạn về rừng trồng và những mong đợi của họ trong tương lai.
- 6. Nhận thức của người dân địa phương về các loại đất và các nguồn tài nguyên Cĩ sự khác biệt trong việc nhận thức về nguồn tài nguyên thiên nhiên giữa người dân địa phương, người Pahy, và những người ngồi địa phương như Chính phủ, thương nhân, nhà nghiên cứu hoặc các cơ quan phát triển. Những người ra quyết định cần những thơng tin liên quan đến viễn cảnh của địa phương để hoạch định và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững hơn. Điều chúng tơi muốn trình bày ở đây là nhận thức của người dân về mơi trường thiên nhiên quanh họ như (rừng, sơng, v.v), những loại đất khác (đất trồng rừng, đất vườn nhà, v.v) và đa dạng sinh học của bản làng. Chúng tơi khám phá được nhận thức của người dân địa phương về cảnh quan và đa dạng sinh học quanh mơi trường sống của họ nhờ vào việc áp dụng phương pháp cho điểm (PDM), thảo luận nhĩm, và phỏng vấn bằng bảng câu hỏi (đã được mơ tả ở trong phần phương pháp nghiên cứu, Chương 2). Một số kết quả nghiên cứu về việc mơ tả nhận thức mang tính định tính, các kết quả khác mang tính định lượng khi tiến hành so sánh nhận thức của nhiều nhĩm người dân khác nhau, tuy phải luơn kèm những lời giải thích về những giá trị do người cung cấp thơng tin đưa ra. Người dân sử dụng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên trong sinh hoạt thường nhật của họ. Các nguồn tài nguyên (thực vật và động vật) này cĩ thể được tìm thấy trong rất nhiều loại hình cảnh quan khác nhau, được người dân địa phuơng xác định. Tài nguyên thiên nhiên được dùng làm thức ăn (lương thực), thuốc men, xây dựng, đan lát, củi, bán để thu tiền mặt, v.v. Những kết quả dưới đây sẽ lý giải bằng cách nào và tại sao những nguồn tài nguyên này lại rất cĩ ý nghĩa với người dân địa phương ở bản Khe Trăn. 6.1. Vấn đề sử dụng đất Như đã đề cập ở phần trước, hiện cĩ 6 loại đất chính ở bản Khe Trăn (Bảng 5). Đất trống, sơng, rừng cây lớn và rừng cây nhỏ là đại diện cho các loại đất tự nhiên, trong khi vườn, rừng trồng, ruộng lúa và vùng đất khơ để phát triển trồng màu là kết quả trực tiếp từ các hoạt động của người dân, đơi lúc cĩ sự hỗ trợ của chính quyền địa phương. Trong những buổi họp thơn, người dân đã liệt kê theo thuật ngữ chính thức 29
- 30 | Nhận thức của người dân địa phương về các loại đất và các nguồn tài nguyên một số vùng đất được chính phủ giao khốn cho hoạt động nơng nghiệp và trồng trọt, ví dụ như ‘đất được giao khốn cho việc trồng cây cao su’, thường được sử dụng bằng tiếng Pahy, ‘cutect cao su’, trái với loại đất chiếm diện tích lớn hơn, như ‘rừng cây nhỏ’ (along papút). Theo người dân thì đa dạng sinh học là rất quan trọng đối với sinh kế của họ. Bảng 6 cho thấy một số các sản phẩm quan trọng mà người dân địa phương vẫn cịn khai thác được ở rừng tự nhiên. Hàng trăm sản phẩm khác (thực vật và động vật) vẫn được thu gom ở những cảnh quan quanh bản trong các hoạt động thường nhật của họ. Trong Phần 6.6, chúng tơi sẽ đề cập chi tiết hơn về các loại lâm sản quan trọng nhất. Để cĩ cái nhìn hồn chỉnh hơn, mặc dù chưa khai thác hết các khía cạnh, các danh sách ở Phụ lục 1 và 2 sẽ nĩi lên được kiến thức trọng yếu của người dân địa phương Bảng 6. Những cây rừng quan trọng và giá trị sử dụng tại địa phương Tên sản phẩm (Tiếng Pahy hoặc tiếng Việt/tên khoa học) Giá trị sử dụng A ro/Licuala spinosa Làm nĩn lá Ấp lăng/— Lợp mái nhà Cây re/Calamus walkeri Đồ nội thất Chùn quét/— Chổi Long huện/Tarrietia javanica Chuồng gia súc Tu vien/Melocalamus compactiflorus Dây thừng Tân ning/— Mật ong Ùi a dúm/— Củi Bảng 7. Các hạng mục sử dụng chính của các nguồn động, thực vật Hạng mục sử dụng Mơ tả Đan lát Dây thừng được làm từ lá, mây hoặc vỏ cây dùng để đan dệt hoặc để buộc Củi đốt Làm củi đốt Thức ăn gia súc Được sử dụng làm thức ăn cho gia súc, như: lợn Thức ăn (cho người) Thực phẩm chính yếu và thứ yếu, thực phẩm khan hiếm Vật liệu xây dựng nặng Vật liệu xây dựng mang tính lâu dài (nhà cửa, cầu cống) Chức năng săn bắn Thuốc độc, mồi, chất gơm, súng cao su được làm từ các bộ phận khác nhau của động vật/thực vật để săn bắn Nơi săn bắn Sử dụng thực vật trực tiếp làm nơi săn bắn, thường thì kết quả săn bắn được đánh giá thơng qua loại thú săn Vật liệu xây dựng nhẹ Các cây sào và cành giâm dùng làm chuồng nuơi gia súc, hàng rào và vật dụng nội thất Bán lấy tiền mặt Các bộ phận của thực vật/động vật và các sản phẩm đã qua chế biến được đem bán để thu về tiền mặt Thuốc men Cĩ liên quan đến y học và sức khỏe Trang trí/truyền thống/lễ nghi Các bộ phận của thực vật/động vật được sử dụng trong các nghi lễ, trang trí trên y phục, các đồ vật trang trí nhà cửa Giải trí Khu vực hoặc các lâm sản được sử dụng cho nhu cầu giải trí Tương lai Thực vật/động vật được đầu tư và cĩ tầm quan trọng trong tương lai Dụng cụ Các bộ phận của thực vật/động vật được sử dụng làm các cơng cụ trong hoạt động nơng nghiệp, xây dựng nhà cửa; bao gồm các cơng cụ như: chày giã gạo, cày ruộng, v.v.
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | 31 về đa dạng sinh học và phạm vi sử dụng rộng lớn của nhiều loại lâm sản khác nhau. Trong quá trình thảo luận, các cá nhân am hiểu vấn đề nghiên cứu đã nhất trí phân các giá trị sử dụng chính của những loại lâm sản này thành 14 loại (Bảng 7) thích ứng với phương pháp MLA trong bối cảnh của địa phương. 6.2. Tầm quan trọng của các loại đất Kết quả của hoạt động đánh giá bằng phương pháp cho điểm của nhĩm nam và nữ cho thấy người dân đánh giá rừng là loại đất quan trọng nhất (40% và 35%; Biểu đồ/Hình 9). Cả rừng tự nhiên cũng như rừng trồng đều quan trọng đối với người dân do chúng mang lại rất nhiều sản phẩm phục vụ sinh kế của người dân như: nhựa mủ, gỗ, mây, củi, mật ong, thuốc men, tre, thức ăn, v.v. Rừng tự nhiên cũng cĩ vai trị bảo vệ bản làng khỏi lũ lụt và xĩi mịn. Người dân đánh giá vườn là loại đất quan trọng thứ hai, đặc biệt đối với những người sống ở phần trên của bản vì vườn cung cấp thức ăn cho súc vật, tre làm hàng rào để chăn thả gia súc và cây trái dùng để bán lấy tiền nhằm tăng thu nhập. Họ cho rằng ruộng lúa là loại đất ít quan trọng nhất bởi vì chúng chỉ thuộc về những người dân ở phần dưới của bản, và cũng bởi vì tại nơi này lúa là cây trồng chỉ mới được canh tác gần đây và cĩ thể được thay thế bởi sắn hoặc lạc. Những người khơng cĩ ruộng lúa thì cĩ thể mua gạo ở chợ Phong Mỹ, cách bản khơng xa. Tầm quan trọng mà người dân gắn cho rừng được lý giải bởi các sản phẩm bán ra, và bởi sự đĩng gĩp mà nĩ mang lại đối với sinh kế của địa phương. Rừng trong tương lai cũng sẽ hỗ trợ cho sinh kế của người dân (Bảng 8. trang 33). Ruộng lúa mang lại ít giá trị sử dụng, chỉ được xem là một trong những nguồn lương thực cho người và 40 30 Nam giới 20 Nữ giới 10 Giá trị tính theo mức độ quan trọng (%) 0 u Rừng Sơng Đồi trọc Vườn nhà Ruộng lúa Đất trồng cây mà Các loại đất Biểu đồ (hình) 9. Phân loại đất theo mức độ quan trọng (tất cả các nhĩm)
- 32 | Nhận thức của người dân địa phương về các loại đất và các nguồn tài nguyên gia súc. Gia súc thường được thả rơng trên đồng ruộng khi hoạt động thu hoạch đã kết thúc. Vườn và rừng đều quan trọng cho tương lai bởi vì chúng cĩ thể mang lại nguồn thu nhập tất yếu. Đất trống được xếp ở vị trí thứ 3 cho giá trị sử dụng trong tương lai, hơn nữa nĩ là quĩ đất của hoạt động trồng rừng. Rừng chiếm ưu thế hơn cả ngoại trừ 4 hạng mục sử dụng (được liệt kê ở bảng 8). Đất trống là loại đất quan trọng trong việc cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc, trong khi đĩ, đất vườn là quan trọng nhất trong việc cung cấp thực phẩm. Vườn và khu vực ven sơng đều cĩ tầm quan trọng ngang nhau trong vai trị là địa điểm săn bắn, và là nơi người dân thường đầu tư nhiều thời gian ở đĩ. Đối tượng được săn bắn chủ yếu là những lồi chim nhỏ ở vùng lân cận của bản làng. Sơng ngịi cũng quan trọng cho hoạt động tiêu khiển do người dân thường đến bơi và giặt giũ ở con sơng gần đĩ, trẻ con thì đến đĩ để vui đùa. 6.3. Tầm quan trọng của rừng Căn cứ vào mục đích sử dụng, người dân chia đất rừng ra thành 3 loại: rừng cây lớn (rừng nguyên sinh), rừng cây nhỏ (tái sinh trẻ, thứ sinh), và rừng trồng. Nam giới và nữ giới cĩ quan điểm khác nhau về tầm quan trọng của những loại đất rừng này. Nam giới xem rừng trồng là loại rừng quan trọng nhất (49%, Biểu đồ/Hình 10) vì họ cho rằng trong tương lai, việc trồng rừng sẽ mang lại nguồn thu tiền mặt ổn định hơn. Rừng cây lớn xếp thứ 2 (43%), vì theo người dân đây là nơi mà họ thu được nhiều sản phẩm hơn ở những loại rừng khác. Một lý do nữa lý giải vì sao nĩ cĩ ít tầm quan trọng hơn là khả năng tiếp cận rừng cây lớn rất khĩ. ) 50 40 Nam giới 30 Nữ giới 20 10 0 Giá trị tính theo mức độ quan trọng (% Rừng trồng Rừng cây lớn Rừng cây nhỏ Các loại rừng Biểu đồ (hình) 10. Tầm quan trọng của các loại rừng (tất cả các nhĩm) Nữ giới cho rằng rừng cây lớn là loại rừng quan trọng nhất (50%). Họ giải thích rằng rừng cây lớn cung cấp nhiều sản phẩm cĩ giá trị. Cơng dụng của những sản phẩm này bao gồm lương thực, thuốc men, xây dựng nặng, đan lát, làm đồ trang trí, và những thứ cĩ thể đem bán (Bảng 9). Nữ giới cũng thường vào rừng hái lá nĩn để phục vụ cho việc làm nĩn lá.
- Bảng 8. Tầm quan trọng của các loại đất tại địa phương dựa trên hạng mục sử dụng (tất cả các nhĩm) Củi đốt Thức ăn gia súc Thức ăn (cho người) Vật liệu xây dựng nặng Chức năng săn bắn Nơi săn bắn Vật liệu xây dựng nhẹ Bán lấy tiền mặt Thuốc men trí Trang Giải trí Tương lai Dụng cụ Loại đất Tổng thể Đan lát Đất trống 9.00 0.00 28.25 40.25 5.00 0.00 0.00 6.00 19.25 3.25 12.75 3.00 0.00 14.75 6.75 Đa dạngsinhhọcvà nhậnthứccủangườidânđịaphương Đất trồng cây màu 14.00 0.00 0.00 25.00 21.25 0.00 0.00 3.00 0.00 16.00 3.75 0.00 0.00 9.00 3.75 Rừng 37.50 70.00 50.25 7.00 19.50 68.75 50.67 12.67 54.50 48.75 52.75 74.50 8.50 37.00 67.25 Vườn 23.00 28.75 18.50 11.50 24.00 31.25 49.33 39.33 22.50 26.25 14.75 15.00 30.00 22.75 21.00 Ruộng lúa 5.25 0.00 0.00 1.50 8.25 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 0.00 4.50 0.00 Sơng 11.25 1.25 8.00 14.75 22.00 0.00 0.00 39.00 3.75 5.75 16.00 7.50 61.50 12.00 1.25 Tổng số 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 Bảng 9. Tầm quan trọng của rừng dựa trên hạng mục sử dụng (tất cả các nhĩm) mặt Thuốc men trí Trang Giải trí Tương lai Dụng cụ Loại rừng Tổng thể Đan lát Củi đốt Thức ăn gia súc Thức ăn (cho người) Vật liệu xây dựng nặng Chức năng săn bắn Nơi săn bắn Vật liệu xây dựng nhẹ Bán lấy tiền Rừng cây lớn 46.25 63.25 11.25 23.00 64.50 59.50 46.50 20.00 38.25 45.50 53.50 79.00 0.00 41.25 52.00 Rừng cây nhỏ 19.25 21.75 40.00 62.50 20.25 13.50 33.50 45.00 41.00 27.00 26.25 21.00 0.00 13.50 36.50 Rừng trồng 34.50 15.00 48.75 14.50 15.25 27.00 20.00 35.00 20.75 27.50 20.25 0.00 100.00 45.25 11.50 | Tổng số 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 33
- 34 | Nhận thức của người dân địa phương về các loại đất và các nguồn tài nguyên Nam giới khơng cho rằng rừng cây nhỏ là quan trọng. Chúng chủ yếu chỉ được dùng cho việc lấy thức ăn cho gia súc và phục vụ săn bắn. Chúng ta sẽ xem trong phần kiến thức dân tộc thực vật học ở Chương 8, về một số lượng lớn thảo dược được cơng nhận cĩ giá trị sử dụng tương tự như thức ăn cho gia súc. Thơng thường, người dân tìm thức ăn cho gia súc ở những đồng cỏ gần bản chứ khơng phải ở rừng, tuy nhiên kết quả này cho thấy rằng hiểu biết của họ chỉ xốy vào hoạt động này, và nhận thức của họ phụ thuộc vào tiến trình định cư của họ. Ở những vùng rừng này, người dân cũng khai thác những cây gỗ nhỏ dùng để làm dụng cụ lao động và hàng rào chuồng gia súc. Trái lại, nữ giới xem loại rừng này là quan trọng thứ hai. Theo họ, rừng cây nhỏ gần với bản hơn, vì vậy họ dễ dàng kiếm cỏ làm thức ăn cho gia súc, các vật liệu chế tạo dụng cụ và củi đốt. Kết quả điều tra cho thấy khã năng tiếp cận các nguồn tài nguyên và những hoạt động đặc trưng về giới đĩng một vai trị quan trọng chi phối nhận thức của người dân địa phương. Kết quả thảo luận nhĩm cũng thể hiện rằng rừng trồng chưa mang lại nhiều lợi ích vì hoạt động trồng rừng vừa mới được tiến hành gần đây. Tuy nhiên, trong tương lai khơng xa chúng sẽ trở thành nguồn thu nhập chính yếu. Yếu tố này cĩ liên quan đến thực tế rằng trồng rừng là yếu tố then chốt trong chính sách của chính phủ dành cho quá trình định cư. Các viên chức chính phủ nhấn mạnh rằng việc trồng rừng sẽ tăng thu nhập và ổn định sinh kế cho người dân địa phương hơn hình thức sống du canh, du cư. Vì lẽ đĩ, người dân nên sống gần các con đường chính và giảm bớt áp lực lên rừng. Tuy nhiên nhận thức của người dân địa phương lại cho thấy một triển vọng khác về tầm quan trọng của rừng tự nhiên và rừng trồng đối với sinh kế của họ. Trong bối cảnh quản lý khu bảo tồn thiên nhiên, thơn Khe Trăn cần những nguồn thu nhập khác nhằm thay thế cho sự thiếu hụt những sản phẩm mà rừng đã mang lại cho họ trước đây (những thứ cĩ thể đem bán, vật liệu xây dựng, dụng cụ, v.v.). Nên cĩ một sự đồng thuận về khả năng tiếp cận rừng trong suốt các thời điểm khắc nghiệt (như hạn hán và lũ lụt). Nhận thức về rừng nên được xem xét ở diện rộng và cĩ chiều sâu, tuy nhiên tầm quan trọng của rừng đối với người dân địa phương cĩ thể thay đổi theo thời gian. 6.4. Tầm quan trọng của rừng trong quá khứ, hiện tại và tương lai Rất khĩ để giải thích khái niệm về tầm quan trọng của rừng xuyên suốt trong nhiều mốc thời gian khác nhau trong các buổi thảo luận nhĩm. Các nhĩm đã phải so sánh tầm quan trọng của rừng (cả rừng tự nhiên và rừng trồng) trong 3 thời kỳ (hiện tại, cách đây 30 năm và 20 năm tới) dựa trên các hạng mục sử dụng khác nhau. Để tránh sự nhầm lẫn hạng mục sử dụng ‘cho tương lai’ đã khơng được dùng để so sánh. Kết quả điều tra cho thấy rừng của 30 năm trước khơng quan trọng đối với người dân như ngày nay (Biểu đồ/Hình 11). Theo những người am hiểu vấn đề nghiên cứu ở địa phương, trong quá khứ họ lệ thuộc nhiều hơn vào các loại lâm sản cho các nhu cầu như: thức ăn, vật liệu xây dựng nặng, củi đốt, đan lát, săn bắn và giải trí. Ngày nay hoạt động nơng nghiệp (vườn nhà và trồng trọt) đã thay thế nhiều hoạt động trong rừng trước đây. Người dân cho rằng rừng trong tương lai sẽ quan trọng hơn rừng hiện tại. Tất cả các nhĩm thảo luận đều cho rằng rừng sẽ mang lại nhiều nguồn thức ăn cho gia súc,
- Đa dạng sinh học và nhận thức của người dân địa phương | 35 Hiện tại 23% 30 năm trước 43% 20 năm tới 34% Biểu đồ (hình) 11. Tầm quan trọng của rừng theo thời gian (tất cả các nhĩm) Bảng 10. Tầm quan trọng của rừng theo thời gian dựa trên các hạng mục sử dụng khác nhau (tất cả các nhĩm) Hạng mục sử dụng 30 năm trước Hiện tại 20 năm tới Tổng cộng Tầm quan trọng chung 44.0 22.5 33.5 100.0 Đan lát 43.5 37.0 19.5 100.0 Củi đốt 47.8 32.0 20.3 100.0 Thức ăn cho gia súc 17.3 36.3 46.5 100.0 Thức ăn (cho người) 43.5 28.3 28.3 100.0 Vật liệu xây dựng nặng 40.0 29.0 31.0 100.0 Chức năng săn bắn 75.0 19.3 5.7 100.0 Địa điểm săn bắn 70.0 20.7 9.3 100.0 Vật liệu xây dựng nhẹ 33.0 39.5 27.5 100.0 Bán lấy tiền mặt 22.0 31.5 46.5 100.0 Thuốc men 32.5 33.0 34.5 100.0 Trang trí/truyền thống/lễ nghi 8.5 32.0 59.5 100.0 Giải trí 58.0 0.0 42.0 100.0 Dụng cụ 36.5 37.8 25.8 100.0 sản phẩm dùng làm đồ trang trí và nhiều nguồn tài nguyên cĩ thể đem bán hơn như nhựa mủ và gỗ (Bảng 10). Mỗi hộ gia đình nên cĩ một số lượng diện tích rừng trồng lớn hơn vì nĩ mang lại nguồn thu nhập quan trọng hơn. Rừng trong tương lai sẽ bảo vệ nguồn nước và giúp bản làng tránh khỏi lũ lụt và xĩi mịn. Hơn nữa, rừng sẽ là lưới bảo hiểm trong những thời điểm khĩ khăn. Nghiên cứu kết quả điều tra chi tiết hơn, chúng ta nhận thấy rằng phần lớn các hạng mục sử dụng của rừng trong quá khứ đều quan trọng nhất, ngoại trừ thức ăn cho gia súc, vật liệu xây dựng nhẹ, những thứ cĩ thể bán, thuốc men, đồ trang trí, và dụng cụ. Sự cĩ mặt của một khu bảo tồn sẽ hạn chế khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên
- 36 | Nhận thức của người dân địa phương về các loại đất và các nguồn tài nguyên rừng, và phần nào giải thích vì sao rừng hiện nay lại kém quan trọng nhất. Một nguyên nhân khác nữa là sự đa dạng của các hoạt động mưu sinh đã giúp cho người dân địa phương ít phụ thuộc vào các nguồn lâm sản như trước kia. Tầm quan trọng ngày càng tăng trong tương lai của các thứ cĩ thể bán xuất phát từ sự trơng đợi vào việc cĩ được nhiều hơn rừng keo trồng và cao su. Người dân cũng mong sẽ cĩ nhiều gia súc hơn trong tương lai và việc nuơi dưỡng chúng sẽ dựa nhiều hơn vào các nguồn tài nguyên rừng. Những biện minh cho tầm quan trọng ngày càng tăng về chức năng chữa bệnh và trang trí của rừng trong tương lai là chìa khĩa của sự hiểu biết rộng hơn về nhận thức của người dân địa phương về sự phát triển của bản. Tương lai được cho là sẽ mang lại sự giàu cĩ, giáo dục và thời gian. Giáo dục sẽ khiến cho sự hiểu biết của địa phương về các lồi thảo dược trở nên nhạy bén hơn, và sự giàu cĩ sẽ cho họ nhiều thời gian hơn trong việc kiếm tìm những loại cây từ rừng dùng để trang trí. Người dân bàn về khả năng phát triển kinh doanh các loại cây phục vụ trang trí và đã ý thức được triển vọng tăng thu nhập bằng tiền mặt, mặc dù hiện tại họ vẫn chưa hồn tồn sử dụng chúng. Những kết quả điều tra này cũng cho thấy rằng sự phụ thuộc của người dân và nhận thức của họ về tầm quan trọng của rừng tự nhiên đã chịu ảnh hưởng từ việc áp dụng các chương trình của Chính phủ như việc quản lý cơng tác bảo tồn Khu bảo tồn Thiên nhiên và phục hồi rừng ở Phong Điền. Cơng tác quản lý khu bảo tồn đã khiến người dân từ bỏ sự trơng đợi vào lâm sản. Và kết quả là rừng tự nhiên đã trở nên ít quan trọng hơn đối với người dân. Rừng trồng - một phần của chương trình phục hồi rừng và là một hoạt động tương đối mới ở bản Khe Trăn - đang cĩ tầm quan trọng tăng dần, và sẽ thay thế rừng tự nhiên theo đúng chức năng của nĩ. Người dân mong muốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài (‘sổ đỏ’) cho những khu vực rừng trồng này, cách mà theo họ là để đảm bảo quyền lợi cho mình. Nguồn gốc của các loại sản phẩm cũng đĩng vai trị quan trọng trong việc hiểu sự phụ thuộc của người dân vào các sản phẩm nuơi, trồng hoặc hoang dã. 6.5. Tầm quan trọng căn cứ vào nguồn sản phẩm Người dân sử dụng một số lượng lớn các nguồn sản phẩm động, thực vật trong cuộc sống thường nhật. Để hiểu rõ hơn tầm quan trọng của nhiều loại sản phẩm khác nhau, chúng tơi phân loại chúng thành 3 nguồn: lấy từ rừng, nuơi trồng, và mua. Người dân nhận thức các sản phẩm nuơi trồng tại gia đình, bao gồm cả động vật và thực vật (Biểu đồ/Hình 12), là nguồn quan trọng nhất. Họ trồng các loại cây (tiêu, lạc, sắn, lúa, mít, tre) cũng như chăn nuơi (gia súc, gà, heo), và chủ yếu dùng những sản phẩm này trong gia đình hoặc để tăng thu nhập bằng tiền mặt. Mặc dù dựa vào những sản phẩm từ rừng nhưng họ vẫn chú trọng nhiều vào việc duy trì các phương thức chăn nuơi và trồng trọt. Những sản phẩm từ rừng tự nhiên (chủ yếu là thực vật) vẫn được thu gom, nhưng vì khơng được phép săn bắn động vật hay chặt cây trong rừng tự nhiên thuộc khu vực bảo tồn nên họ thường phải săn bắn những lồi động vật hoang dã từ nhưng nơi gần bản nằm bên ngồi khu bảo tồn thiên nhiên, ví dụ như ở các vườn, vùng đất trống và rừng trồng. Cả 2 nhĩm nam giới và nữ giới đều đồng ý rằng thực và động vật nuơi trồng là những nguồn sản phẩm tiêu dùng quan trọng nhất (Bảng 11). Họ giải thích rằng chúng là những nguồn cĩ giá trị và dễ sử dụng nhất cho nhu cầu lương thực và thu nhập bằng