Đặc điểm địa chất và trầm tích các thành tạo Eocen - Oligocen khu vực Bắc bể Sông Hồng
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm địa chất và trầm tích các thành tạo Eocen - Oligocen khu vực Bắc bể Sông Hồng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
dac_diem_dia_chat_va_tram_tich_cac_thanh_tao_eocen_oligocen.pdf
Nội dung text: Đặc điểm địa chất và trầm tích các thành tạo Eocen - Oligocen khu vực Bắc bể Sông Hồng
- 12 Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất Tập 58, Kỳ 3 (2017) 12-21 Đặc điểm địa chất và trầm tích các thành tạo Eocen - Oligocen khu vực Bắc bể Sông Hồng Trần Đăng Hùng 1,*, Hà Văn Tuấn 1, Lê Ngọc Ánh 2, Nguyễn Hữu Nam 1, Nguyễn Văn Thắng 1, Nguyễn Quang Trọng 1, Vũ Ngọc Diệp 3 1 Công ty Dầu khí Sông Hồng, Việt Nam 2 Khoa Dầu khí, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Việt Nam 3 Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Việt Nam THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT Quá trình: Khu vực nghiên cứu Bắc bể Sông Hồng có đặc điểm cấu trúc địa chất và môi Nhận bài 15/01/2017 trường trầm tích phức tạp, được đánh giá là vùng có triển vọng dầu khí lớn Chấp nhận 15/5/2017 với nhiều phát hiện trong các đối tượng chứa móng nứt nẻ cacbonat, cát kết Đăng online 28/6/2017 Oligocen và Miocen. Về kiến tạo, khu vực nghiên cứu chịu ảnh hưởng biến Từ khóa: dạng, chồng lấn giao thoa kiến trúc, phía Tây Bắc chịu chi phối hoạt động Bể Phú Khánh trượt tách giãn của hệ thống đứt gãy Sông Hồng và phía Đông Bắc chủ yếu chịu ảnh hưởng hoạt động đứt gãy phương Đông Bắc - Tây Nam. Vào cuối Nước sâu Oligocen, về phía Đông Bắc (khu vực Bạch Long Vĩ) bị nâng lên mạnh mẽ Mẫu đáy biển dẫn đến cắt cụt và hình thành bất chỉnh hợp khu vực vào cuối Oligocen Địa nhiệt muộn - đầu Miocen sớm. Trầm tích Miocen dưới-giữa hầu như vắng mặt tại Phân tích địa hóa khu vực này. Tuy nhiên, về phía Tây Bắc (khu vực Trung tâm) vùng chịu chế độ kiến tạo trượt bằng tách giãn, hình thành trầm tích Oligocen với chiều dày lớn, kéo dài từ rìa phía Tây và tăng chiều dày dần xuống phần Đông Nam. Các thành tạo trầm tích Oligocen có đặc trưng môi trường sông hồ ở phần thấp và chuyển tiếp chịu ảnh hưởng của môi trường biển ven bờ và biển nông, có thể đóng vai trò tầng sinh và chứa dầu khí có ý nghĩa của bể. © 2017 Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Tất cả các quyền được bảo đảm. khí ở bể Sông Hồng được tiến hành bởi các công ty 1. Mở đầu dầu khí ở trong và ngoài nước nhiều thập kỷ qua Bể trầm tích Sông Hồng là một trong những (Nguyễn Mạnh Huyền và Hồ Đắc Hoài, 2007; bể trầm tích lớn nhất trên thềm lục địa Việt Nam Nguyễn Hiệp và nnk, 2007; Hoàng Ngọc Đang và về cả diện tích và bề dầy trầm tích và được đánh nnk, 2010). Kết quả khoan thăm dò đã phát hiện giá là bể có tiềm năng dầu khí với nhiều đối tượng được nhiều tích tụ dầu khí có giá trị thương mại ở thăm dò. Các hoạt động tìm kiếm và thăm dò dầu khu vực, với các đối tượng chứa chính là các thành tạo trầm tích lục nguyên tuổi Oligocen, Miocen và móng nứt nẻ cacbonat trước Kainozoi. Cho đến ___ *Tác giả liên hệ nay, các trầm tích hạt mịn sét kết Oligocen vẫn E-mail: hungtd1@pvep.com.vn được đánh giá là tầng sinh dầu khí chính, các
- Trần Đăng Hùng và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 12-21 13 các phát hiện khí/condensate trong đối tượng cát đới cấu trúc Bạch Long Vĩ. Khu vực đới cấu trúc kết Oligocen đánh dấu ý nghĩa tìm kiếm dầu khí Bạch Long Vĩ, còn được gọi phụ bể Bạch Long Vĩ mới ở khu vực Bắc bể trầm tích Sông Hồng với đặc (Nguyễn Tú Anh và nnk, 2014), hoặc bồn Bắc Bộ tính đá chứa biến đổi phức tạp và rất khó dự báo (Trần Thanh Hải và nnk, 2010), có phần Đông Bắc trong không gian (Nguyễn Hữu Nam, 2016). Bài là một bể tách giãn kiểu rift phát sinh và phát triển báo sẽ trình bày các đặc điểm địa chất và trầm tích trên móng trước Kainozoi của phần nam khối lục của thành tạo Eocen - Oligocen nhằm làm sáng rõ địa Đông Bắc Việt Nam bị thoái hóa mạnh mẽ vào thêm điều kiện hình thành và các yếu tố ảnh Kainozoi sớm. Quá trình thoái hóa này cùng xảy ra hưởng đến tiềm năng dầu khí và góp phần định sự tách giãn tạo vỏ đại dương mới tuổi Oligocen - hướng cho công tác tìm kiếm, thăm dò và đánh giá Miocen sớm trung tâm Biển Đông (Nguyễn Mạnh triển vọng dầu khí khu vực Bắc bể trầm tích Sông Huyền và Hồ Đắc Hoài, 2007). Hồng. Phần Tây Bắc bể Sông Hồng là một bể kéo tách trong Kainozoi sớm phát sinh và phát triển ở 2. Đặc điểm địa chất khu vực nghiên cứu phần ranh giới của hai khối lục địa Việt Trung Trong thời kỳ đầu Kainozoi, vùng nghiên cứu (phần Đông Bắc Việt Nam) và khối lục địa Tây Bắc (Hình 1) có vị trí địa chất thuộc đới cấu trúc Bắc bể Việt Nam (khối lục địa Đông Dương). Ranh giới Sông Hồng về phía Tây Bắc và phía Đông bắc trên giữa hai khối lục địa này là hệ đứt gãy trượt bằng Hình 1. Vị trí khu vực nghiên cứu và các đơn vị cấu trúc địa chất chính. Hình 2. Mặt cắt địa chấn qua các đơn vị cấu trúc địa chất khu vực.
- 14 Trần Đăng Hùng và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 12-21 Hình 3. Mặt cắt địa chấn liên kết từ khu Hàm Rồng qua đới nâng Bạch Long Vĩ đến trũng Hạ Mai trái Sông Hồng hoạt động mạnh mẽ trong chuyển đổi từ dịch chuyển ngang trái sang dịch Kainozoi sớm do sự va chạm của mảng Ấn Úc và chuyển ngang phải của hệ thống đứt gãy Sông mảng Âu Á (Ngô Thường San và nnk, 2007). Phần Hồng (Ranging và nnk, 1997; Trần Thanh Hải và Đông Nam còn lại của bể Sông Hồng phát sinh và nnk, 2010; Hoàng Hữu Hiệp, 2014). Nghịch đảo phát triển trên miền vỏ lục địa của khối Trường kiến tạo đã tạo ra một loạt các cấu trúc hình hoa bị Sơn, khối Kon Tum và khối Hải Nam thuộc lục địa nâng lên, bào mòn và cắt cụt. Indochina. Khu vực nghiên cứu nằm ở phía Bắc bể Sông Hình thành bể Sông Hồng được cho là bắt đầu Hồng, đặc điểm địa chất khu vực nghiên cứu ảnh từ Eocen sớm, liên quan đến quá trình trượt bằng hưởng bởi hai hệ thống đứt gãy Sông Chảy ở phía trái kèm tách giãn của hệ thống đứt gãy Sông Hồng Tây Nam và Sông Lô ở phía Tây Bắc (Hình 1 và gây ra hoạt động kiến tạo sụt bậc và dịch chuyển Hình 2) và hệ thống đứt gãy Bạch Long Vĩ về phía địa khối Đông Dương. Chuyển động trượt bằng Đông Bắc. Các hệ thông đứt gãy chính phát triển trái này khởi đầu cho việc hình thành bể Sông theo phương Tây Bắc - Đông Nam và Đông Bắc - Hồng (Shärer và nnk, 1990; Ranging và nnk, 1995; Tây Nam, phức tạp hóa bởi hệ thống đứt gãy Nguyễn Mạnh Huyền và Hồ Đắc Hoài, 2007; Trần phương á kinh tuyến. Các đứt gãy tái hoạt động Thanh Hải và nnk, 2010). Trong suốt giai đoạn mạnh mẽ nhiều lần có vai trò khống chế cấu trúc tách giãn, các địa hào và bán địa hào được hình địa chất cũng như quá trình phát triển địa chất của thành và lấp đầy bởi trầm tích sông và đầm hồ. khu vực nghiên cứu. Quá trình sụt lún tiếp tục, mực nước tăng lên, các hồ được mở rộng, biển dần tiến vào đất liền tạo ra 3. Đặc điểm trầm tích Eocen - Oligocen khu vực các không gian lớn cho các tích tụ trầm tích. Một Bắc bể Sông Hồng số nơi ở khu vực Đông Bắc xảy ra hoạt động nén ép địa phương tạo ra một số cấu tạo nghịch đảo và 3.1. Phân bố trầm tích nâng trồi, hình thành các cấu tạo dạng vòm được Trên đất liền, các trầm tích Oligocen bắt gặp phủ lên bởi các trầm tích trẻ hơn, trong suốt thời lộ ra khu vực suối Đồng Ho, Hoành Bồ, Quảng Ninh kỳ cuối Oligocen. Giai đoạn Miocen sớm - giữa và trên đảo Bạch Long Vĩ. Giếng khoan Enreca-3 hoạt động tách giãn, sụt lún và tích tụ trầm tích của trên đảo Bạch Long Vĩ đã khoan qua 500m các bể tiếp tục xảy ra do trượt bằng trái của đứt gãy thành tạo được xếp vào tuổi Oligocen muộn (hệ Sông Hồng. tầng Đình Cao) dựa trên kết quả phân tích bào tử Vào giai đoạn cuối Miocen muộn, nghịch đảo phấn hoa (Petersen và nnk, 2001; Petersen và kiến tạo xảy ra mạnh mẽ tại khu vực trung tâm nnk, 2004; Trần Đăng Hùng và nnk, 2015). phía Bắc bể Sông Hồng bởi sự nén ép tạo ra do sự
- Trần Đăng Hùng và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 12-21 15 Khu vực ngoài khơi, giếng khoan ở khu vực 1X và YT-2X) với bề dày mỏng khoảng vài trăm phía Tây Bắc (TB-1X, CQ-1X, SP-1X) trên các cấu mét (Nguyễn Hữu Nam, 2016). trúc nghịch đảo đã khoan gặp vài trăm mét (300 - Các thành tạo Eocen - Oligocen khu vực 500m) trầm tích thuộc phần trên của địa tầng nghiên cứu có sự thay đổi lớn về phạm vi phân bố Oligocen, đá cát kết bị nén ép chặt xít, hạn chế về và bề dày trầm tích, phụ thuộc vào ảnh hưởng hoạt tính chất chứa (Nguyễn Hữu Nam, 2016). Về khu động của hai hệ thống đứt gãy Sông Hồng và đứt vực Đông Nam, các giếng khoan khu vực Hàm gãy Bạch Long Vĩ. Chiều dày trầm tích lớn nhất Rồng (HR-1X, -2X; HRN-1X HRD-1X, -2X) đã gặp phân bố ở khu vực trũng trung tâm kéo dài theo thành tạo thuộc hệ tầng Đình Cao (trầm tích phương Tây Bắc - Đông Nam, nằm ở độ sâu từ Oligocen) với bề dày lớn (900m - 1300m), gặp 3000m đến hơn 7000m (Hình 4). Chiều dày trầm tầng sét kết giầu vật chất hữu cơ có tiềm năng sinh tích lớn được hình thành do ảnh hưởng của hoạt tốt, cát kết còn bảo tồn được độ rỗng thấm, có khả động đứt gãy Sông Lô và Sông Chảy tạo sụt lún năng trở thành đá chứa tốt. Khu vực Yên tử, các diện rộng (Hình 2). Các đứt gãy chính đóng vai trò giếng khoan gặp trầm tích hệ tầng Đình Cao (YT- phân chia ranh giới đới cấu trúc, được hình thành trong pha tách giãn tạo bể vào đầu Eocen, vùng có Hình 4. Sơ đồ đẳng dầy trầm tích Eocen - Oligocen khu vực nghiên cứu. Hình 5. Nghịch đảo kiến tạo và bóc mòn trầm tích cuối Oligocen trên lát cắt địa chấn.
- 16 Trần Đăng Hùng và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 12-21 tích hệ tầng Đình Cao tại đới này. Đới rìa dọc theo đứt gãy Bắc Bạch Long Vĩ là trũng Phả Lại- Hạ Mai có bề dày trầm tích Eocen - Oligocen từ 2000m đến 2500m, về hướng trũng trung tâm Hạ Mai, bề dày trầm tích này có thể lên 5000m. 3.3. Đặc điểm thạch học, tướng và môi trường trầm tích Trầm tích tuổi Eocen (hệ tầng Phù Cừ) được xác định ở giếng khoan 104 thuộc Miền Võng Hà Nội gồm các tập cát kết hạt thô màu đỏ xen kẽ với cuội kết và cát kết dạng khối, môi trường thành Hình 5.1. Các thành tạo Oligocen gặp lộ ở khu tạo chủ yếu là lục địa. Ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, trầm vực Đồng Ho (Trần, 2003). tích Eocen đã được phát hiện ở giếng PA-1X (dày khoảng 485m), gồm cuội sạn có kích thước nhỏ, thành phần chủ yếu là các mảnh đá granit và đá biến chất xen kẽ là cát kết, sét kết màu xám, màu nâu có các mặt trượt hoặc bị phân phiến mạnh (Đỗ Bạt và nnk, 2007). Dự báo trầm tích Eocen chủ yếu dựa vào liên kết tài liệu địa chấn, chúng nằm phân bố sát móng trong các địa hào/bán địa hào, chiều dày có thể thay đổi vài trăm mét ở phần rìa đến vài nghìn mét ở các trũng sâu. Môi trường thành tạo chủ yếu là lục địa, xen lẫn đầm hồ (Đỗ Bạt và nnk, 2007; Nguyễn Mạnh Huyền và Hồ Đắc Hoài, 2007). Trên đất liền các thành tạo Oligocen được Hình 5.2. Phân loại cát kết Oligocen (mẫu mùn quan sát trực tiếp tại vết lộ suối Đồng Ho và gặp khoan HRD-1X), chủ yếu thuộc loại cát kết Á nhiều hơn ở khu vực đảo Bạch Long Vĩ. Các đá lộ Ackos đến Á Lithic. ra có thành phần thạch học chủ yếu cát kết hạt chế độ kiến tạo tách giãn do hoạt động trượt bằng mịn, bề dầy từ trung bình đến mỏng, cấu tạo phân của các đứt gãy tạo trũng kiểu pull-apart sâu và lớp song song, đôi chỗ thể hiện cấu tạo xiên chéo sau đó tái hoạt động trượt bằng bằng nén ép, dòng chảy, xen các lớp bột kết và sét kết màu xám nghịch đảo kiến tạo trong các pha cuối Oligocen và đen, phân lớp trung bình đến mỏng (Hình 5.1), Miocen. chúng được lắng đọng trong môi trường sông - hồ Về phía Đông Bắc vùng nghiên cứu, trầm tích là chủ yếu (Trần Đăng Hùng, 2003; Trần Đăng Oligocen có chiều dày khá lớn với phương phát Hùng và nnk, 2015). triển Đông Bắc - Tây Nam, lắng đọng trong môi Các giếng khoan khu vực Tây Bắc (HD-1X, CQ- trường từ sông, đồng bằng ngập lụt, hồ đến đầm 1X) gặp các thành tạo Oligocen trên gồm các lớp lầy ở phần lớn diện tích. Do bị nâng lên và bóc mòn trầm tích có thành phần cát - bột kết xen hạt mịn với khối lượng lớn vào cuối Oligocen và trong mà chủ yếu là sét. Kết hợp với kết quả phân tích Miocen (khu vực Bạch Long Vĩ) mà trong bình đồ thạch học giếng khoan cho thấy cát kết Oligocen hiện tại trầm tích Oligocen ở đới này có chiều dày chủ yếu là á acko, á lithic (Hình 5.2), vật liệu được rất khác nhau (Hình 5). Tại trũng Hàm Rồng, trầm vận chuyển không xa nguồn cung cấp. Điều này chỉ tích Eocen - Oligocen phát triển ổn định với bề dày ra rằng trầm tích khu vực này được thành tạo khá lớn (~3000m). trong môi trường lục địa sông-hồ chiếm ưu thế, Khu vực Yên Tử thuộc đới Tây Bạch Long Vĩ, lấp đầy các trũng và các địa hào hình thành trong trầm tích thuộc hệ tầng Phù Tiên - Đình Cao bị bóc giai đoạn tạo tách giãn Eocen - đầu Oligocen.Về mòn mạnh do hoạt động nén ép, khu vực bị nâng phía Nam, trầm tích môi trường hồ, đồng bằng hồ lên bóc mòn làm mất hoặc mỏng đi đáng kể trầm chiếm ưu thế hơn trầm tích sông, lấp đầy trũng
- Trần Đăng Hùng và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 12-21 17 Hình 6. Đặc trưng hình thái đường cong gamma ray tập trầm tích Oligocen trong khu vực Hình 7. Đặc trưng phản xạ địa chấn tập trầm Hình 8. Phân bố môi trường trầm tích tích Oligocen. Oligocen. trung tâm khu vực nghiên cứu (Hình 8). vực này chịu khống chế bởi quá trình tách giãn Phân tích đường cong địa vật lý của giếng biển Đông trong Oligocen (Hoàng Hữu Hiệp, 2014; khoan qua địa tầng Oligocen cho thấy đường Nguyễn Tú Anh và nnk, 2014). Vị trí kiến tạo giao gamma được đặc trưng bởi các dạng đường cong thoa, chồng lấn của hai đới cấu trúc lớn của khu hình trụ, hình chuông và răng cưa, phản ánh rõ nét vực đã có ảnh hưởng mạnh đến tốc độ, phân bố môi trường trầm tích lòng sông, đồng bằng ngập trầm tích, đặc điểm tướng và môi trường trầm tích lụt (Hình 6). Khi liên kết với tài liệu địa chấn cho của các thành tạo Eocen - Oligocen, từ đó dẫn đến thấy rằng khoảng địa tầng này tương ứng với tập vai trò đóng góp cũng như ảnh hưởng của chúng địa chấn có cường độ phản xạ mạnh, biên độ cao đến triển vọng dầu khí của khu vực. và liên tục, phản xạ song song phản ánh môi Hoạt động tách giãn trong giai đoạn Eocen - trường có chế độ năng lượng thấp, bình ổn, đặc Oligocen dẫn đến phá vỡ móng cố kết trước Đệ trưng cho thành tạo trầm tích trong môi trường hồ tam và hình thành các địa hào, địa lũy được lấp đầy (Hình 8). bởi các trầm tích lục nguyên cùng thời. Giai đoạn đầu của quá trình tách giãn được bắt đầu vào 3.4. Phát triển địa chất - trầm tích các thành tạo Eocen (Tapponnier và nnk, 1986; Tapponnier và Eocen - Oligocen nnk, 1990; Trần Thanh Hải và nnk, 2010) phần Khu vực Đông Bắc bể Sông Hồng nằm ở vị trí lớn diện tích lộ trên bề mặt chịu ảnh hưởng của giao thoa giữa hai đới cấu trúc đới trượt Sông hoạt động bóc mòn, các trũng trầm tích nhỏ kề đứt Hồng phương Tây Bắc - Đông Nam và đới tách gãy phân bố biệt lập bắt đầu được hình thành và giãn cấu trúc Bạch Long Vĩ (được xem là phần kéo lấp đầy chủ yếu các trầm tích lục nguyên hạt thô dài về phía Tây Nam của bể Tây Lôi Châu). Khu tướng quạt bồi tích, sông, lắng đọng trong điều
- 18 Trần Đăng Hùng và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 12-21 Hình 9. Mặt cắt khôi phục phát triển địa chất khu vực nghiên cứu. kiện năng lượng dòng chảy mạnh. Sự mở rộng của nghịch đảo khu vực cũng diễn ra khác nhau đối với bể về phía Nam tạo điều kiện thuận lợi hình thành các đới cấu trúc, giới hạn ở cánh Đông Bắc của đứt môi trường hồ, phát triển trầm tích hạt mịn chiếm gãy Vĩnh Ninh, về phía Tây Nam ít thấy dấu hiệu ưu thế, có thể trở thành tầng sinh dầu khí có ý của nghịch đảo Oligocen (Hoàng Hữu Hiệp, 2014). nghĩa trong khu vực. Những vùng chịu ảnh hưởng của nghịch đảo kiến Hoạt động tách giãn chính của bể được cho là tạo với chiều dầy trầm tích Oligocen còn được bảo vào Oligocen liên quan đến quá trình trượt bằng tồn tốt, thuận lợi đối với việc hình thành tầng chắn thuận trái của đới xiết trượt Sông Hồng, phần kéo nóc cho các cấu trúc khối nhô trong móng nứt nẻ dài của đới biến dạng Ailao Shan - Calimantan về như có thể gặp ở khu vực Hàm Rồng. Khu vực phía Đông Nam và mở rộng ở khu vực Miền Võng Đông Bắc Vịnh Bắc Bộ bị nâng cao, bóc mòn, cắt Hà Nội, khống chế hình thành bể trầm tích Sông cụt mạnh mẽ, bề dầy Oligocen bị cắt cụt có nơi lên Hồng và đồng thời ở phía Đông xảy ra quá trình tới 2500m (đới nâng Bạch Long Vĩ), trầm tích tách giãn đáy biển Đông với phương của trục tách Miocen sớm - giữa hầu như vắng mặt hoặc phân giãn phương Đông Bắc - Tây Nam (Phan Văn bố rất mỏng trong khu vực này (Phạm Khoa Chiết Quýnh và Hoàng Hữu Hiệp, 2004; Hoàng Hữu và nnk, 2016). Trầm tích Oligocen còn được bảo Hiệp, 2014). Bể trầm tích được mở rộng, phân bố tồn với bề dầy lên tới 3000m, thuận lợi trở thành trầm tích Oligocen phát triển rộng rãi hơn, môi tầng sinh, tầng chắn dầu/khí quan trọng đối với trường trầm tích thay đổi nhanh trong thời kỳ này, khu vực. Các thành tạo cát kết ở đây còn duy trì môi trường trầm tích sông - hồ mở rộng, phát triển được chất lượng đá chứa khá tốt để trở thành tầng và chuyển tiếp sang môi trường châu thổ, biển ven chứa. bờ và biển nông, tạo điều kiện để phát triển tầng Khu vực xảy ra chế độ kiến tạo sụt lún sau chứa, tầng sinh có ý nghĩa trong khu vực. tách giãn vào Miocen, trung tâm trầm tích chuyển Khu vực trải qua pha nghịch đảo kiến tạo vào về rìa Tây Bắc (trũng trung tâm Sông Hồng) hình cuối Oligocen. Phạm vi ảnh hưởng và cường độ thành trầm tích Miocen với chiều dầy trầm tích
- Trần Đăng Hùng và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 12-21 19 lớn. Các thành tạo Oligocen nằm bên dưới bị chôn Ngô Thường San, Lê Văn Trương, Cù Minh Hoàng, vùi ở độ sâu lớn (> 5km), dẫn đến giảm tính chất Trần Văn Trị, 2007. Kiến tạo Việt Nam trong chứa của các tập đá chứa Oligocen. Đá mẹ khung cấu trúc Đông Nam Á. Địa chất và tài Oligocen ở khu vực này đã trải qua giai đoạn quá nguyên dầu khí Việt Nam (Nguyễn Hiệp chủ trưởng thành. biên). Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 71- 110. 4. Kết luận Nguyễn Hữu Nam (chủ biên), 2016. Báo cáo đánh Các thành tạo trầm tích Eocen - Oligocen có giá tiềm năng lô 102-106. Lưu trữ Công ty Dầu diện phân bố tương đối rộng, chịu ảnh hưởng và khí Sông Hồng, 151. khống chế của hệ thống đứt gãy, tập trung chủ yếu Nguyễn Tú Anh, Phan Thanh Tùng, Trần Thị Dung, trong các trũng/địa hào được hình thành trong 2014. Đặc điểm và vai trò của các hệ thống đứt giai đoạn đầu tạo bể trầm tích. Đặc điểm phân bố gãy khu vực Đông Bắc bể trầm tích Kainozoi và bề dày trầm tích thay đổi nhanh, phụ thuộc Sông Hồng. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia nhiều vào chế độ kiến tạo khu vực. Bề dày trầm Hà Nội: Khoa học Tự nhiên và Công nghệ tích lớn dần về khu vực trung tâm, bị nâng cao và 30(2S), 42-50. bóc mòn mạnh mẽ ở đới cấu trúc nâng về phía Đông Bắc. Nguyễn Mạnh Huyền, Hồ Đắc Hoài, 2007. Bể trầm Các tập trầm tích hạt mịn sét kết, sét than tích Sông Hồng và tài nguyên dầu khí. Trong Oligocen phân bố khá rộng trong khu vực Đông Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam Bắc, ở độ sâu chôn vùi thích hợp, có thể sẽ là tầng (Nguyễn Hiệp chủ biên). Nhà xuất bản Khoa sinh và chắn tốt cho khu vực. Các tập cát kết do học và Kỹ thuật, 187-240. được hình thành và chôn vùi ở độ sâu lớn, ảnh Nguyễn Hiệp, Trần Văn Trị, Vũ Văn Minh, 2007, hưởng lớn đến chất lượng đá chứa ở khu vực Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai trung tâm. Về phía Đông Bắc, trầm tích Oligocen có thác dầu khí. Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt độ sâu chôn vùi vừa phải nên khả năng bảo tồn Nam (Nguyễn Hiệp chủ biên). Nhà xuất bản chất lượng đá chứa tốt hơn, khả năng đóng vai trò Khoa học và Kỹ thuật, 15-40. là tầng chứa dầu khí. Petersen H.I, Andersen C, Anh P.H, Bojesen- Tài liệu tham khảo Koefoed J.A, Nielsen L.H, Nytoft H.P, Rosenberg P., and Thanh L., 2001. Petroleum potential of Đỗ Bạt, Nguyễn Địch Dỹ, Phan Huy Quynh, Phạm Oligocene mudstones and coals at Dong Ho, Hồng Quế, Nguyễn Quý Hùng, Đỗ Việt Hiếu, Vietnam - an outcrop analogue to terrestrial 2007. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi Việt source rocks in the greater Song Hong basin. Nam. Trong Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Journal of Asian Earth Sciences 19, 135-154. Nam (Nguyễn Hiệp chủ biên). Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 141-182. Petersen H.I., Nytoft H.P., and Nielsen L.H., 2004. Characterisation of oil and potential source Hoàng Hữu Hiệp, 2014. Một vài nhận định về tiềm rocks in the northeastern Song Hong basin, năng dầu khí khu vực Bắc bồn Sông Hồng trên Vietnam: indications of a lacustrine-coal quan điểm kiến tạo - địa động lực. Tạp chí Khoa sourced petroleum system. Organic học Đại học Quốc gia Hà Nội: Khoa học Tự nhiên Geochemistry 35, 493-515. và Công nghệ 30(2S), 111 -121. Phan Văn Quýnh, Hoàng Hữu Hiệp, 2004. Hiệu Hoàng Ngọc Đang, Phan Tiến Viễn, Trần Mạnh ứng biến dạng trượt bằng - cơ chế hình thành Cường, Nguyễn Thanh Tùng, Đỗ Văn Hinh, các bồn trầm tích Kainozoi chứa dầu khí thềm Trịnh Việt Thắng, Vũ Ngọc Diệp, Phạm Thanh lục địa Đông Dương. Tuyển tập báo cáo Hội Liêm, 2010. Đánh giá kết quả công tác tìm kiếm nghị Khoa học trường Đại học Mỏ Địa chất 5,64- thăm dò giai đoạn 2005 - 2010 (trong Tuyển 70. tập Hội Nghị khoa học và Công nghệ: Dầu khí Việt Nam 2010 tăng tốc và Phát triển). Nhà Phạm Khoa Chiết, Nguyễn Thế Hùng, Trần Đăng xuất bản Khoa học & Kỹ Thuật, Hà Nội, 44-46. Hùng, 2016. Đặc điểm tướng và môi trường
- 20 Trần Đăng Hùng và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 12-21 trầm tích Miocen sớm - giữa khu vực lô 102 - Shan/Red River metamorphic belt: Tertiary 106, bắc bể Sông Hồng. Tạp chí Khoa học Đại left-laterial shear between Indochina and học Quốc gia Hà Nội: Các Khoa học Trái đất và South China. Nature 343, 431-437. Môi trường 32(2S), 155-166. Trần Đăng Hùng, Trần Đăng Tuyết, Walter Ranging C., Klein M., Rogues D., Lepichon X., and Vortisch, 2015. Đặc điểm thạch học-địa hóa Trong L.V. 1995. The Red River fault system in hữu cơ và tiềm năng sinh dầu khí của đá sét Tinkin Gulf, Vietnam. Tectonophysics 243, 209- Đồng Ho, rìa Đông Bắc bể trầm tích Sông Hồng. 222. Địa chất và Tài Nguyên Việt Nam: Tuyển tập báo cáo Khoa học - Hội nghị Khoa học Toàn quốc Shärer U., Tapponnier P., Lacassin R., Leloup P.H., - Kỷ niệm 70 năm phát triển. Nhà xuất bản Khoa Dalai Z., and Shaosheng, J. 1990. Intra plate học Tự nhiên và Công nghệ Hà Nội,121-127. tectonics in Asia: a precise age for a large scale Miocene movement along the Ailao Shan-Red Tran Dang Hung, 2003. Geology and raw River shear zone, chine. Earth and Planetary materials of Northern Vietnamese Tertiary Science Letters 7, 65-77. basins. Ph.D. thesis, university of Leoben, Leoben, Austria, 105. Tapponnier P., Peltzer G., and Armijo R. 1986. On the mechamics of the collision between India Trần Thanh Hải, Lê Anh Tuấn, Ngọ Văn Hưng, and Asia. In Colission tectonics (Eds. Coward, 2010. Nghiên cứu biến dạng của đới đứt gãy M.P. & Ries, A.C. Geological Society, London, Sông Chảy trong Kainozoi và vai trò của nó Special Publication 19, 115-157. trong tiến hóa bồn Sông Hồng. Miền Bắc Việt Nam. Tuyển tập Hội Nghị khoa học và Công Tapponnie P., Lacassi R., Lelou P.H., Schärre U., nghệ: Dầu khí Việt Nam 2010 tăng tốc và Phát Dalai Z., Haiwei W., Xiaohan L., Shaocheng JI., triển). Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Lianshang Z., and Jiayou Z., 1990. The Ailao Nội, 199-210. ABSTRACT Geology and sedimentary charateristics of Eocene - Oligocene formations in Northern Song Hong basin Hung Dang Tran 1, Tuan Van Ha 1, Anh Ngoc Le 2, Nam Huu Nguyen 1, Thang Van Nguyen 1, Trong Quang Nguyen 1, Diep Ngoc Vu 3 1 PVEP Song Hong Company Limited, Vietnam 2 Faculty of Oil and Gas, Hanoi University of Mining and Geology, Vietnam 3 Vietnam National Oil and Gas Group, Vietnam The study area is located in the northern part of Song Hong basin, having complicated geological structure and depositional environment. The area has been proved to have high hydrocarbon potential by many discoveries in the fractured carbonate basement and Oligocene - Miocene sandstones. Tectonically, the area was experienced deformation and was subjected of structure interfering and overlapping between Song Hong strike-slip fault system in the northwest and northeast-southwest fault system in the northeast. In late Oligocene, the northeast part of the basin (Bach Long Vi zone) had been strongly uplifted and truncated. This formed a regional unconformity at the end of late Oligocene – early Miocene, resulting in the absence of almost early to middle Miocene sediments. However, the northwest of study area (central zone) was experienced transtensional tectonics and related to opening of the East Sea, resulting in thickening of Oligocene sediments, extending from the northwest and gradually increasing thickness to the southeast. In the
- Trần Đăng Hùng và nnk/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(3), 12-21 21 early stage of rifting, the Oligocene sequence was deposited in a quite widespread lacustrine setting that provides the main potential source rock in the area. In the late Oligocene, deposition of sediments was controlled by marginal to shallow marine environment with the main sediment supply from the Red River system in the northwest that possibly creates a good reservoir potential for the study area. Keywords: Geology, sedimentary characteristic, Eocene-Oligocene, northern Song Hong basin.



