Dạy làm văn theo mẫu, nhìn từ tiểu học

pdf 8 trang hapham 1920
Bạn đang xem tài liệu "Dạy làm văn theo mẫu, nhìn từ tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfday_lam_van_theo_mau_nhin_tu_tieu_hoc.pdf

Nội dung text: Dạy làm văn theo mẫu, nhìn từ tiểu học

  1. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Ngọc Tường Khanh ___ DẠY LÀM VĂN THEO MẪU, NHÌN TỪ TIỂU HỌC LÊ NGỌC TƯỜNG KHANH* TÓM TẮT Thực trạng học sinh (HS) cấp tiểu học làm văn theo mẫu là vấn đề mà những người làm giáo dục và phụ huynh rất quan tâm và luôn tìm biện pháp để khắc phục. Bài viết mô tả thực tế sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu trong dạy Tập làm văn hiện nay nhằm giúp HS thoát khỏi tình trạng lạm dụng văn mẫu khi làm văn và đề xuất một số cách thức cải tiến việc sử dụng phương pháp này. Từ khóa: dạy văn theo mẫu, dạy làm văn ở tiểu học. ABSTRACT Teaching composition lessons by model essays from a Primary Education perspective The reality of primary students manipulating model essays for their writing works in composition lessons is an issue that educators and parents are paying a lot of attention to and attempting to find a solution to. This article presents the reality of applying the method of practicing using model essays in teaching composition lessons to help primary students avoid overusing model essays in their writing works and suggests some improvements for the application of this methods. Keywords: teaching composition lessons by model essays, teaching composing lessons in primary school. 1. Đặt vấn đề làm công tác giáo dục lưu tâm và cố gắng Dạy văn là dạy người, quan niệm hoàn thiện hơn nữa. này chưa bao giờ cũ và đã trở thành Dạy Tập làm văn (ở tiểu học) sử nguyên lí trong giáo dục học. Có chăng, dụng bài văn mẫu: Nên hay không nên? cần hiểu rõ hơn rằng: trong “dạy chữ để Đúng hay không đúng? Điều này còn tùy dạy người”, các môn học khác trang bị thuộc rất nhiều vào việc dạy HS ở giai kiến thức, kĩ năng để HS có tri thức và đoạn nào trong quá trình lĩnh hội tri thức làm việc với vốn tri thức cơ bản ấy. Dạy của một nội dung môn Tiếng Việt. Nếu văn, không chỉ dừng ở kiến thức, kĩ năng chúng ta biết rằng “Phương pháp Luyện mà còn “đặt nền tảng, xây dựng, vun tập theo mẫu” là một trong những đắp ” nhân cách, tâm hồn của mỗi HS, phương pháp dạy học ngôn ngữ cơ bản sao cho mỗi đứa trẻ khi đã được đến (ngôn ngữ với tư cách là tiếng mẹ đẻ lẫn trường sẽ đều là những người con ngoan, ngoại ngữ) thì việc dạy làm văn theo mẫu bạn tốt với đầy đủ năng lực và phẩm chất sẽ có được cái nhìn tích cực hơn. Tuy mà gia đình và xã hội mong muốn. Vì nhiên, thế nào là “luyện tập theo mẫu?” vậy, vấn đề “dạy và học Văn” được nhiều và “luyện thế nào để việc dạy và học người quan tâm và góp ý để những người không rập khuôn từ “mẫu?” là vấn đề mà * ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM 129
  2. Ý kiến trao đổi Số 62 năm 2014 ___ bài viết đề cập. mạnh riêng như sau: 2. Giải quyết vấn đề - HS dễ dàng tạo lời nói của riêng 2.1. Phương pháp Luyện tập theo mẫu mình thông qua việc mô phỏng theo mẫu; là gì? - HS có nhiều cơ hội luyện tập ngôn Phương pháp Luyện tập theo mẫu ngữ; được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học - HS được hình thành thói quen dùng Tâm lí ngôn ngữ học. Theo đó, HS lĩnh ngôn ngữ đúng ngay từ đầu; hội tiếng mẹ đẻ thông qua những hình - HS có điều kiện củng cố niềm tin mẫu sử dụng ngôn ngữ của người lớn về tri thức, kĩ năng tiếng Việt mà các em trong thực tiễn giao tiếp bằng cách cảm vừa lĩnh hội. nhận, hiểu rồi dùng chúng. Nếu phương Những thế mạnh này còn là cơ sở pháp Phân tích ngôn ngữ giúp HS hình để GV giúp HS cảm thấy giờ học ngôn thành tri thức thì Luyện theo mẫu là giai ngữ thú vị, vì: đoạn kế tiếp tổ chức các hoạt động nhằm - HS được sử dụng vốn kinh nghiệm giúp các em vận dụng tri thức tiếng Việt ngôn ngữ, vốn sống của mình; vào hoạt động giao tiếp [2, tr.264]. - HS cảm giác giờ học của mình Vận dụng vào thực tiễn giảng dạy thành công vì bản thân tạo ra sản phẩm; tiếng Việt ở tiểu học, phương pháp Luyện - HS tự tin trong việc tạo lời. tập theo mẫu thường được sử dụng sau Tuy nhiên, việc tạo lời - mang sắc phương pháp Phân tích ngôn ngữ, khi HS thái cá nhân - lại phải theo mẫu thì đôi đã nắm được các khái niệm, các quy tắc khi làm giảm sự hứng thú sử dụng ngôn ngôn ngữ. Dựa theo kết quả đã phân tích ngữ của HS vì các bài tập luyện theo mẫu mẫu ngôn ngữ, HS tự tạo lời nói cho thường gò bó, mang nhiều tính chất giả mình theo một tình huống giao tiếp giả tạo (vì là tình huống giao tiếp giả định). định. Để phương pháp này đạt hiệu quả thì các Mẫu ngôn ngữ trong dạy học tiếng bài tập cần đa dạng, được sắp xếp từ dễ Việt rất đa dạng: câu văn, đoạn thơ, biên đến khó, tạo điều kiện cho HS sử dụng bản hành chính được GV sử dụng như ngôn ngữ một cách tự do và chủ động. những ngữ liệu trong các giờ Luyện từ và Bên cạnh đó, GV cũng cần lưu tâm và Câu, Tập làm văn. Mẫu cũng có thể là không xem nhẹ quá trình HS tạo lời nói cách phát âm, cách đọc, một cử chỉ khi bằng cách chú ý đến việc hình thành cho giao tiếp của chính GV. Dù đa dạng HS các thao tác tư duy, thao tác ngôn ngữ nhưng mẫu phải luôn gắn với tình huống và quy trình thực hiện từng kiểu bài tập/ giao tiếp cụ thể, có tác dụng giúp HS hiểu từng kĩ năng. ý nghĩa, cấu trúc hình thức và sử dụng 2.2. Việc vận dụng phương pháp chúng dễ dàng. Luyện tập theo mẫu trong phân môn Phương pháp Luyện tập theo mẫu Tập làm văn được sử dụng rất nhiều trong dạy học 2.2.1. Vận dụng phương pháp Luyện tập môn Tiếng Việt ở tiểu học vì những thế theo mẫu trong hình thành kiến thức mới 130
  3. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Ngọc Tường Khanh ___ Tập làm văn là phân môn mang tính sắp xếp ý theo từng nội dung, lập dàn ý, tổng hợp cao trong môn Tiếng Việt ở tiểu viết đoạn học, đòi hỏi người học biết tổng hợp Trong phân môn Tập làm văn, những kiến thức, kĩ năng ngôn ngữ của phương pháp Luyện tập theo mẫu đóng tất cả các phân môn để tạo nên lời nói vai trò quan trọng, được sử dụng trong của mỗi cá nhân. Ngoài ra, tiểu học là hầu hết các bài hình thành kiến thức mới bậc học kĩ năng, HS chưa thể tự mình và dĩ nhiên là sau phương pháp Phân tích biết cách tổng hợp mà cần có sự hướng ngôn ngữ. Để hiểu rõ, có thể xem ví dụ dẫn của GV. Vì vậy, để cho HS không bài hình thành kiến thức Tả ngoại hình làm văn theo mẫu, trước tiên là cần rèn của nhân vật trong bài văn kể chuyện cho HS các kĩ năng làm văn như: tìm ý, (lớp 4) trong bảng dưới đây: Gọi tên phương Các bước tiến hành pháp đặc trưng Ví dụ minh họa trong dạy học tiếng 1. Đưa mẫu và phân (Theo trình tự cùa SGK TV4, tập 1, tích mẫu (rút ra nguyên tr.24) tắc, nếu có) - Mẫu là đoạn văn tả chị Nhà Trò GV sử dụng các phương trong Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô pháp dạy học như thuyết Hoài Phân tích ngôn ngữ trình, đàm thoại, nêu vấn - Để khắc sâu thêm kiến thức, HS đề, mạng ngữ nghĩa để tiếp tục phân tích đoạn văn tả ngoại cùng HS phân tích, rút ra hình của một chú bé liên lạc cho bộ nguyên tắc đội trong kháng chiến - trích từ một tác phẩm của Vũ Cao 2. Dựa theo mẫu, HS Kể lại chuyện “Nàng Tiên Ốc”, kết tạo ra sản phẩm lời nói hợp tả ngoại hình các nhân vật giống hoặc gần giống với (SGK TV4, tập 1, tr.24) mẫu (HS đã đọc và tìm hiểu nội dung văn GV tổ chức cho HS chia Luyện tập theo bản truyện từ trước thông qua phân sẻ bài của mình với các mẫu môn Tập đọc) bạn GV sửa bài cho HS và có thể chọn bài hay để phân tích, đọc trước lớp 3. Ứng dụng điều được HS ứng dụng kiến thức vào các đề học vào tình huống giao bài Tập làm văn kể chuyện: tiếp cụ thể Hướng vào hoạt - Kể một câu chuyện em đã được Ở bước này, HS vận dụng động giao tiếp nghe hoặc được đọc về một người có những hiểu biết của mình tấm lòng nhân hậu về vấn đề để tạo lời nói - Kể lại câu chuyên Nỗi dằn vặt 131
  4. Ý kiến trao đổi Số 62 năm 2014 ___ (đọc, viết) cho phù hợp của An-đrây-ca bằng lời của cậu bé với từng hoàn cảnh giao An-đrây-ca tiếp cụ thể (SGK, TV4, tập 1, tr.124) Trong khi kể, HS tự mình biết kết hợp tả ngoại hình của các nhân vật GV thường thực hiện rất cẩn thận, đưa các bài văn mẫu cho HS tham khảo kĩ càng bước 1. Tuy nhiên, sang bước 2, vì e ngại các em sẽ bắt chước và làm rập GV có khuynh hướng ít quan tâm đến khuôn theo mẫu; không tích cực cảm việc chia sẻ sản phẩm lời nói của HS với nhận, suy nghĩ, tìm tòi, suy luận Và nhau. Tại bước này, nếu HS được phân khi không tham khảo bài văn mẫu thì HS tích rõ ràng cái hay lẫn hạn chế sản phẩm sẽ biết làm văn theo ý riêng của mình. lời nói của mình và của bạn thì mỗi HS Theo cách này, trong quá trình dạy Tiếng sẽ rút kinh nghiệm và nhận được giá trị Việt, người dạy phải thường xuyên tạo đúng về kết quả của việc học. Bước 2 các tình huống giao tiếp để HS tích cực được làm vững, làm tốt sẽ là “cầu nối” và liên tục tạo lời nói. Khi gặp một vấn giúp bước 3 có hiệu quả. Tại bước 3, HS đề cần giải quyết, GV cần phải kích thích tự vận dụng hiểu biết của mình để thực HS động não suy nghĩ ngay lập tức; HS hiện yêu cầu của đề bài. tự giác tìm cách giải quyết vấn đề một Tuy nhiên, theo quan sát của chúng cách nhanh nhất có thể. Lâu dần, HS sẽ tôi, tại bước 3, nhiều giáo viên (GV) e tạo thành thói quen - phản xạ có điều ngại HS không làm bài được hoặc làm kiện. Như vậy, HS sẽ luôn có tâm thế bài không tốt nên họ thường sử dụng các “luyện tập bài vừa học theo từng tình bài văn mẫu. Các bài văn mẫu này được huống giao tiếp cụ thể” và luôn sẵn sàng viết đúng với đề bài mà HS cần thực tham gia vào các hoạt động tạo lời. Đây hiện. Bài văn mẫu được xem như là mẫu là một cách thức dạy học dựa vào cơ sở ngôn ngữ để HS làm theo và làm gần như khoa học của Lí thuyết hành vi chủ giống hệt. Điều này đã tạo nên phản ứng nghĩa. Các nhà hành vi chủ nghĩa truyền không tốt từ xã hội [3]. Vì vậy, các thống tin rằng học ngôn ngữ đơn giản chỉ phòng giáo dục, trường tiểu học đã tổ là vấn đề bắt chước và hình thành thói chức chuyên đề để bàn luận vấn đề: Làm quen. Thông qua quá trình củng cố thế nào để HS không làm văn theo mẫu? thường xuyên và không thường xuyên, 2.2.2. Vận dụng phương pháp luyện tập người học hình thành mối liên hệ giữa theo mẫu trong hướng dẫn học sinh thực kích thích và phản ứng trả lời, và luyện hiện bài (đề) tập làm văn tập làm cho các mối liên hệ được mạnh Hiện nay, tồn tại hai quan điểm lên, vững chắc hơn [2, tr.39]. Cụ thể, vừa giúp HS không làm theo mẫu. Cụ thể: đọc đề bài Tập làm văn, HS nghĩ ngay (i) Trước khi HS thực hiện bước 3, trong đầu, viết ra giấy: những từ ngữ, ý, bước Ứng dụng những điều được học vào những suy nghĩ, những cảm xúc liên tình huống giao tiếp cụ thể, không nên quan đến đối tượng, sự vật hiện tượng đề 132
  5. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Ngọc Tường Khanh ___ bài yêu cầu. Từ đó, HS sắp xếp chúng mình. Cách thức dạy văn này được đề vào một trật tự logic và phát triển thành xuất trên cơ sở khoa học của Lí thuyết bài văn. kiến tạo, cụ thể là quan điểm kiến tạo tri (ii) Trước khi HS làm một bài văn nên thức của Piaget: “Hiểu và khám phá hoặc cho các em tham khảo văn mẫu có cùng là tái tạo bằng cách tái khám phá, và đề bài. Tuy nhiên cần cho HS nhận ra những điều kiện như thế phải được tạo ra được nét riêng biệt của từng bài: sự quan trong những cá nhân có khả năng tạo lập sát, cảm nhận về đối tượng; nhận xét và sáng tạo chứ không phải là tái hiện khác nhau của cùng một sự việc và văn đơn giản” [2, tr.46]. Như vậy, việc HS là sản phẩm riêng của mỗi người, không được tìm hiểu và khám phá một bài văn ai giống ai. Từ đó, HS học được cách hay, một câu văn độc đáo sẽ được các em nghĩ, cách làm của nhiều đối tượng khác tái tạo lại một cách sáng tạo, chứ không nhau: nhà văn, bạn bè và chính mình; biết phải dừng lại ở việc tái tạo đơn giản. Ví tôn trọng ý kiến người khác và “chịu dụ: khó” tìm tòi nét riêng cho bài văn của GV cùng HS phân tích Văn bản gốc Đoạn văn được chọn làm mẫu để nhận ra những ý hay, lạ Ví dụ 1: Kể lại câu chuyện Người tìm đường lên các vì sao (SGK TV4, tập 1, tr.125) Từ nhỏ, Xi-ôn-cốp-xki đã Từ hồi còn nhỏ, tôi đã từng mơ - Kể lại câu chuyện mơ ước được bay lên bầu ước bay lên được các vì sao. Một bằng lời của nhân vật trời. Có lần, ông dại dột lần, nhìn đàn chim bay lượn trên - Lồng vào bài kể, nhảy qua cửa sổ để bay bầu trời, tôi thấy chúng thật hạnh diễn tả hành động của theo những cánh chim. phúc vì được bay và ngắm cảnh ở nhân vật phù hợp với tình Kết quả, ông bị ngã gãy nhiều nơi. Tôi nghĩ: “chim bay huống chân. Nhưng rủi ro lại được thì người cũng bay được”. - Đưa vào bài những làm nảy ra trong đầu óc Thế là, mở vội cửa sổ, tôi dang suy nghĩ, cảm giác của non nớt của ông lúc bấy tay, nhắm mắt, nhảy ra ngoài. Kết nhân vật giờ một câu hỏi: “Vì sao quả, tôi ngã một cú thật đau và quả bóng không có cánh phải nằm viện. Nhưng chính lúc mà vẫn bay được?” bị ngã đau đó, trong đầu tôi xuất Theo Lê Quang Long - hiện một câu hỏi: “Vì sao quả Phạm Ngọc Toàn bóng không có cánh mà vẫn bay được?” (Thành Nhân, HS lớp 4, Trường Tiểu học Nguyễn Thái Bình, Quận 1) Ví dụ 2: Kể lại câu chuyện Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca (SGK TV4, tập 1, tr.55) Nhưng An-đrây-ca Với tuổi lên 9, An-đrây-ca đã - So sánh “tuổi lên 9”, không nghĩ như vậy. Cả phạm một lỗi lầm thật lớn. Mặc hãy còn nhỏ, với lỗi lầm 133
  6. Ý kiến trao đổi Số 62 năm 2014 ___ đêm đó, em ngồi nức nở dù đã được mẹ an ủi nhưng bạn để nhấn mạnh thêm việc dưới gốc cây táo do tay ấy đã thức suốt đêm dưới gốc cây làm của An-đrây-ca ông vun trồng. Mãi sau táo do ông vun trồng khóc nức dường như khó tha thứ, này, khi đã lớn, em vẫn nở. Không chỉ như vậy, nỗi dằn khó quên được và tác giả luôn tự dằn vặt: “Giá vặt, ân hận còn theo bạn mãi về cũng như đang nói đến mình mua thuốc về kịp sau: “Giá mình mua thuốc về kịp tuổi lên 9 của bản thân thì ông còn sống thêm thì ông còn sống thêm được ít mình được ít năm nữa” năm nữa” - Cụm từ “không chỉ Theo Xu-Khôm-Lin-Xki. Phương Nhi, HS lớp 4, Trường như vậy” có tác dụng nhấn Trần Mạnh Hưởng dịch tiểu học Nguyễn Thái Bình, Quận mạnh về nỗi dằn vặt, ân 1 hận của An-đrây-ca Câu hỏi đặt ra: Làm thế nào để HS Theo chúng tôi, cần kết hợp cả hai tái tạo sáng tạo thì việc dạy học Tập làm quan điểm đã đề cập để đạt được hiệu văn mới thật sự đạt hiệu quả? Có hai gợi quả trong Tập làm văn. Tuy nhiên cần ý sau: theo trình tự sau: - GV hướng dẫn HS dùng những hiểu - Đưa đề bài tập làm văn. biết và kinh nghiệm về ngôn ngữ, về - Thực hiện ý kiến thứ nhất, vận cuộc sống để phân tích và nhận ra những dụng Lí thuyết hành vi chủ nghĩa để tạo điều cần học từ văn mẫu. Từ đó, khuyến cho HS tâm thế sẵn sàng tham gia giải khích HS suy nghĩ để ứng dụng linh hoạt, quyết một vấn đề. Điều này tạo cho HS có thể bắt chước cách nghĩ, cách thức lập một sự nhạy bén trong suy nghĩ, giúp các luận, cách quan sát, cách dùng từ, đặt em luôn vận động trí não để huy động câu của tác giả văn mẫu nhưng ý vốn hiểu biết, kinh nghiệm của mình liên tưởng, diễn đạt, quan điểm là phải của quan đến nội dung đề bài và tìm cách giải chính mình, mang sắc thái của cá nhân quyết chúng. mình. - HS thực hiện đề bài. - GV cũng cần dựa vào Tâm lí học để - GV sửa và chấm từng bài. có nghệ thuật khơi gợi “cái tôi muốn thể - Thực hiện ý kiến thứ hai, GV lựa hiện, muốn tạo sự khác biệt (dĩ nhiên là chọn, đọc và cùng HS phân các bài văn khác biệt tích cực), muốn hay, độc, lạ” hay, câu văn hay, từ ngữ hay của chính của HS để tạo cho HS sự hứng thú và say HS trong lớp để các HS khác có thể học mê trong làm văn. từ bạn. Các em cũng có điều kiện để so Tóm lại, chọn cách nào trong hai ý sánh và rút kinh nghiệm làm văn cho kiến trên là tùy thuộc vào người dạy - chính mình. Đây cũng được xem là một người có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả cách thức vận dụng phương pháp Luyện giáo dục. tập theo mẫu trong dạy học tiếng, dù 2.3. Một số đề xuất nhằm giúp HS làm không phải là bước hình thành bài mới. văn hiệu quả Vì lúc này, HS đang học từ mẫu và sau 2.3.1. Kết hợp hai quan điểm đó sẽ vận dụng điều được học vào các bài 134
  7. Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Ngọc Tường Khanh ___ làm văn khác. huynh sẽ băn khoăn, lo lắng con mình Tiến trình này vừa đảm bảo tận suy nghĩ lệch lạc. Tuy nhiên, nếu bình dụng kinh nghiệm người học, khơi gợi sự tĩnh và hỏi “Vì sao con nói thế?”. Biết tìm tòi, sáng tạo của HS vửa đảm bảo đâu, trẻ đã quan sát và nhận xét từ một mỗi bài văn đều có sắc thái riêng và HS tiệm bán xôi tấp nập trên một con đường có cơ hội học hỏi từ các bài văn khác. ở Quận 1 (nổi tiếng, đắt hàng và dĩ nhiên, 2.3.2. Xây dựng sự hợp tác của phụ chắc là giàu). Nếu đúng thế, phụ huynh huynh trong việc giúp HS làm văn không nên vui vì con mình biết quan sát và nhận theo mẫu xét sự việc từ cuộc sống: Đó là sự thành Nhà sư phạm cũng rất cần sự giúp đạt, biết làm việc của mình sao cho tốt đỡ từ phía phụ huynh. Vì vậy, phụ huynh nhất (nấu xôi ngon, nhiều người ăn, thu có thể hỗ trợ một số công việc như sau: nhập nhiều, gia đình no ấm ). - Cùng với con quan sát thế giới 4. Kết luận chung quanh và cuộc sống: Con đường “Luyện tập theo mẫu” là một trong đến trường có những gì? Các hoạt động những phương pháp quan trọng của việc diễn ra thế nào? Nhớ ngày đi học nào dạy ngôn ngữ. Tuy nhiên, nếu biết vận nhất, vì sao? Cùng trẻ quan sát cảnh dụng đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ đem lại người mua, người bán hai bên đường, hiệu quả tích cực. Còn ngược lại, lạm người công nhân quét rác làm sạch đường dụng để sao chép thì hiệu quả là tiêu cực. phố Phụ huynh trò chuyện với con về HS mất đi cảm xúc hồn nhiên, chân thật những hình ảnh cùng thấy được, cùng cũng là mầm cho hạt giống xấu nảy sinh chia sẻ và nêu ý tưởng nhẹ nhàng để các như sự dối trá, đối phó, lấy sự giả tạo làm em ghi nhận (đôi khi là những cảm xúc điểm số cho kết quả học Tiếng Việt và đẹp sẽ mang theo suốt cuộc đời của các các bài tập làm văn. Để làm được điều em). này, trước tiên, người dạy cần ý thức quá - Cố gắng cùng với con nhìn cuộc trình dạy học của mình, luôn ý thức, nhắc sống một cách lạc quan: Đường đến nhở chính bản thân mình và HS rằng: bài trường có thể đông đúc, bụi bặm, nắng văn mẫu là phương tiện cần thiết như nôi, ngập nước nhưng vẫn tìm thấy đâu người qua sông cần con đò. Sau đó, phải đó nụ cười, vượt khó khăn để đến trường tiếp bước bằng chính khả năng của mình với tâm trạng vui và như vậy sẽ học tốt . để tạo nên những sản phẩm tốt đẹp cho - Tìm hiểu và tôn trọng suy nghĩ, ngày mai. Nhà quản lí giáo dục, GV hãy nhận xét của con: “Con thích lớn lên sẽ cùng “thắp ngọn lửa” trong trái tim, trong bán xôi vì bán xôi sẽ rất giàu”, mọi người quá trình dạy và học Tiếng Việt mến yêu. sẽ cười ồ lên khi nghe, đọc điều này. Phụ Học văn, học đầy cảm xúc và sáng tạo. 135
  8. Ý kiến trao đổi Số 62 năm 2014 ___ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án Phát triển giáo viên tiểu học (2006), Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, Nxb Giáo dục, Nxb Đại học Sư phạm. 2. Hoàng Thị Tuyết (2012), Lí luận dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, Nxb Thời đại. 3. 4. 5. 6. doi-20140329084922807.htm 7. post128772.info (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 22-01-2014; ngày phản biện đánh giá: 18-3-2014; ngày chấp nhận đăng: 18-9-2014) 136