Đề cương ôn thi Tư tưởng Hồ Chí Minh
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn thi Tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
de_cuong_on_thi_tu_tuong_ho_chi_minh.doc
Nội dung text: Đề cương ôn thi Tư tưởng Hồ Chí Minh
- ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Câu 1: Chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước là cội nguồn sâu xa nhất, bền vững nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân, từ tuổi nhỏ Nguyễn Tất Thành đã chứng kiến cuộc sống nghèo khổ bị áp bức bóc lột của bà con quê nhà, chứng kiến tội ác của bọn thực dân trước sự chết chóc của nhân dân ta, chứng kiến sự ươn hèn của bọn quan lại Nam Triều đã nuôi dưỡng trong ông những tư tưởng yêu nước. Những tư tưởng yêu nước đó đã được Hồ Chí Minh cũng được bắt nguồn từ 4 truyền thống cơ bản: - Chủ nghĩa yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc, là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử Việt Nam, đứng đầu bảng giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam, là đạo lý, là niềm tự hào của cả dân tộc. - Tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết cộng đồng, tương thân, tương ái. - Tinh thần lạc quan yêu đời, có cơ sở từ niềm tin vào sức mạhh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. - Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu. Trong nguồn giá trị tinh thần truyền thống đó, chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi, là dòng chảy chính của tư tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam, xuyên suốt trường kỳ lịch sử, là chuẩn mực cao nhất đứng đầu là giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam từ văn hóa dân gian đến văn hóa bác học, từ nhân vật truyền thuyết đến tên tuổi sáng ngời trong lịch sử để đã phản ánh chân lý đó một cách hùng hồn.Có thể nói, chủ nghĩa yêu nước là động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Nó là cội nguồn sâu sa nhất, bền vững nhất cua tư tưởng Hồ Chí Minh. Như chính ông đã nói:" Lúc đầu chính chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi đến với Lenin, theo quốc tế III". Chính sức mạnh truyền thống tư tưởng văn hóa đó của dân tộc đã thúc giục Hồ Chí Minh ra đi tìm tòi, học hỏi và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho tư tưởng cách mạng và văn hóa của người. Hồ Chí Minh cũng đã biết làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng văn hóa Phương Đông và Phương Tây. Mọi học thuyết đạo đức tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được du nhập khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước. Câu 2: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định Cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ cách mạng chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn. Hồ Chí Minh vượt lên trên những hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu yêu nước, đến với học thuyết cách mạng vô sản. “Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, tức là phải theo đường lối Mác-Lênin”. Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng vô sản ở thuộc địa bao hàm nội dung sau: - Làm cách mạng giải phóng dân tộc giành chính quyền, dần dần làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. - Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản. - Lực lượng làm cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công – nông – trí.
- 2 - Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. “Ai làm cách mạng trong thế giới cũng là đồng chí của người An nam ta cả”. Cách mạng thuộc địa phải gắn chặt với cách mạng vô sản chính quốc. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và giải phóng dân tộc. Chính trong điều kiện đó, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vừa ra đi tìm đường cứu nước. Sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tìm thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng không sản. Bác Hồ khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức: "Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi trả toàn". "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc bất có con đường nào khác con đường cách mạng không sản". Tư tưởng đó vừa được Đảng ta khẳng định, được cả dân tộc hưởng ứng và đi theo. Đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Sự lựa chọn này phụ thuộc trên cơ sở: Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động. Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ chiếm có tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, là kémồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột người, xác lập chế độ công có về tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân lao động thoát khỏi đói nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, làm ra (tạo) điều kiện giải phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra một thời (gian) đại mới, thời (gian) đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Tính tất yếu của thời (gian) đại mới vừa tạo tiềm năng và điều kiện để các dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, đem lại những nhận thức mới trong quan niệm và giải pháp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc một cách triệt để. Sức mạnh và thành tựu của chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa vừa thức tỉnh nhân loại, làm ra (tạo) tiềm năng đoàn kết các dân tộc để giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh chính sách có lợi cho người lao động; làm ra (tạo) tiềm năng hiện thực cho các nước lạc sau tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa vừa đạt thành tựu quan trọng: Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất với quy mô và trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh thần của nhân dân. Từ một nước Nga cùng kiệt nàn và lạc hậu, sau một thời (gian) gian xây dựng vừa trở thành một cường quốc của thế giới, đạt được bước tiến lớn trong nghiên cứu khoa
- 3 học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và quốcphòng chốnghùng mạnh làm ra (tạo) điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Hàng trăm nước vừa giành được độc lập dân tộc lũy phần quyết định vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới và hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng vừa khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó. Câu 3: Theo Hồ Chí Minh, nguyên tắc hàng đầu trong việc xây dựng đạo đức mới là gì? Vì sao ? Theo Hồ Chí Minh,đạo đức ko phải từ trên trời rơi xuống mà phải trải qua quá tring rèn luyện ,tu dưỡng bền bỉ mới có được.Đạo dức CM là hương tới giải phóng con người ,đồng thời đây cũng là đạo đức của con người được giải phóng.quá trình rèn luyện ,tu dưỡng đạo đức là quá trình tư giác của mỗi người ,đồng thời phải gắn với môi trường quần chúng và dư luận xã hội . * Nguyên tắc:" Nói đi đối với làm, phải nêu gương về đạo đức" Là nguyên tắc hàng đầu trong việc xây dựng đạo đức mới. Vì: - Nói đi đôi với làm đối lập với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột , nói dối 1 đằng làm 1 nẻo , thậm chí không làm . cũng là biểu hiện của thói đạo đức gia 1 số cán bộ - Nói phải đi đôi với làm mới đem lại hiệu quả thiết thực cho bản thân và có tác dụng với người khác. - Nói nhiều làm ít, nói không làm, nói một đường làm một nẻo thì hiệu quả phản tác dụng. - Nêu gương đạo đức là 1 nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông ; “ Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm , và đối với họ 1 tấm gương sống còn giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền “ . - Đạo đức cách mạng phải đực biệt chú trọng đến “ đạo làm gương “ . Phải chú ý phát hiện xây dựng những điển hình người tốt việc tốt trong mọi lĩnh vực , mọi đối tượng Người nói “ Người tốt việc tốt nhiều lắm . Ở đâu cũng có . Ngành nào , giới nào , địa phương nào , lứa tuổi nào cũng có “ Nguyên tắc “ xây đi đôi với chống “ vì Trong cuộc sống hàng ngày những biểu hiện tốt xấu , đúng sai , cái đạo đức và cái vô thường đan xen nhau , đối chọi nhau thông qua hành vi của con người . Vì vậy , việc xây và chống trong mọi lĩnh vực đạo đức không rõ ràng . Xây phải đi đôi với chống , muốn xây phải chống , chống nhằm mục đích xây - Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất , những chuẩn mực đạo đức mới . Việc giáo dục phải phù hợp với từng giai đoạn , lứa tuổi , nghề nghiệp , giai cấp , môi trường . Phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người “ Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng . Ta phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi , đó là thái độ của con người cách mạng “ Xây phải đi đôi với chống , với việc loại bỏ cái sai , xấu , vô đạo đức trong đời sống hàng ngày . Phải kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc , chống những thói quen , tập quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân .
- 4 Nguyên tắc “ phải tu dưỡng đạo đức suốt đời “ Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người . Khổng Tử nói “ chính tâm , tu thân “ . HCM chỉ rõ “ Chính tâm tu thân tức là cải tạo . Cải tạo cũng phải trường kì gian khổ , vì đó là cuộc CM trong bant thân mỗi người . Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ , để trở thành con người mới không phải là một việc dễ dàng Dù khó khăn gian khổ nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công “ Đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn , trong các mối quan hệ của mình , phải nhìn thẳng vào mình , không tự lừa dối , huyễn hoặc ; phải thấy rõ cái hay , cái dở , cái xấu , cái ác của mình để khắc phục , phải kiên trì rèn luyện , tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày Câu 4: Phân tích vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại đối với sự hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được tiếp thu văn hóa phương đông. Sau này, trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã có một vốn hiểu biết văn hóa Đông - Tây kim cổ uyên bác.Người đã kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu thêm kiến thức của mình. - Về Nho giáo, Người hiểu rõ những bất cập của Nho giáo như duy tâm, lạc hậu, tư tưởng đẳng cấp, khinh thường lao động tay chân, khinh thường phụ nữ Tuy nhiên, người cũng chỉ ra những điều hay của Nho giáo như triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, lý tưởng về một xã hội bình trị, một thế giới đại đồng, triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính, tư tưởng đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học Đó chính là những yếu tố tích cực của Nho giáo đã được Hồ Chí Minh khai thác xây dựng tư tưởng của mình. - Về Phật giáo, Phật giáo là tôn giáo, mà theo Người nhận xét: Tôn giáo là duy tâm. Do đó, Phật giáo cũng có tính chất 2 mặt. Mặt tiêu cực là thủ tiêu đấu tranh, khuất phục trước kẻ thù, an bài với số phận. Những mặt tích cực cần được khai thác đó là tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thế thương thân; Phật giáo cũng dạy con người nếp sống có đạo đức, trong sạch,giản dị, chăm lo làm điều thiện, để cao lao động, chống lười biếng. Phật giáo có tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ,chất phác, chống lại mọi phân biệt đẳng cấp, chủ trương khuyến khích con người tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc. - Về chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, người tìm thấy những điều thích hợp với Việt Nam, đó là độc lập, tự do và hạnh phúc - Đối với Văn hóa Phương Tây, sau 30 năm bôn ba ở nước ngòai mà chủ yếu là ở các nước châu Âu, người đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây, đặc biệt là của Pháp.Tại quê hương của lý tưởng, tự do, bình đẳng, bác ai, người đã được tiếp xúc với các tác phẩm của những nhà tư tưởng khai sáng như Vonto, Rutxo, Mongtetxkio, Đồng thời, Người cùng tham gia các hoạt động thực tiễn như cùng công nhân Anh tham gia các cuộc biểu tình, đình công, gắn mình với phong trào công nhân Pháp.Từ đó hình thành phong cách dân chủ, cách làm việc dân chủ ở người. Cũng nhờ những hoạt động lý luận và thực tiễn, Người rút ra kết luận: Dân khí mạnh thì không một súng ống nào có thể chống lại nổi. - Người cũng đã tiếp cận với chủ nghĩa Mac- Lenin, và đó đã trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp lý luận của mình.Nhờ vậy, Người đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư tưởng văn hóa nhân loại tạo nên hệ thống tư tưởng Hồ Chí Mình. Nhờ có chủ nghĩa Mac- Lenin, Người đã tìm ra quy luật
- 5 phát triển tất yếu của nhân loại " Tất cả các dân tộc sẽ đi lên CNXH, nhưng không phải dân tộc nào cũng đi lên CNXH bằng con đường như nhau.Mỗi dân tộc đem đặc điểm của dân tộc mình vào hình thức này hoặc hình thức khác của nền dân chủ để đi lên CNXH". Cũng nhờ chủ nghĩa Mac- Lenin, Hồ Chí Minh đã đúc kết được kinh nghiệm của cách mạng thế giới và thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc, tìm được con đường cứu nước đúng đắn: đó là con đường cách mạng vô sản mà cái đích là chủ nghĩ xã hội, là ấm no, tự do, hạnh phúc.Tóm lại, tất cả đã tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng thuộc hệ thống tư tưởng của giai cấp vô sản, mang tính cách mạng khoa học, sáng tạo, sâu sắc, triệt để, không giáo điều, sao chép. Câu 5: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri. Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử. + Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc lập trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái Quốc đấu tranh để đòi các quyền cho nhân dân An Nam: Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
- 6 Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, tự do cư trú Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân An-nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng của bản thân mình. Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng 8 thành công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”. + Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Câu 6: Để phát huy động lực con người VIệt Nam trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, theo Hồ Chí Minh, chúng ta cần phải làm gì? - TRong tư tưởng HCM hệ thống động lực của CNXH rất phong phú và đa dạng được thể hiện ở các phương diện : vật chất và tinh thần , nội sinh va ngoại sinh . Nhưng các động lực muốn phát huy tác dụng đều phải thông qua con người . Do đó , bao trùm lên tất cả là động lực con người – con người trên cả hai bình diện cộng đồng và cá nhân . - HCM rất coi trọng động lực kinh tế , phát triển kinh tế , giải phóng mọi năng lực sản xuất , làm cho mọi người , mọi nhà trở lên giàu có , gắn kinh tế với kĩ thuật , kinh tế với văn hóa , kinh tế với xã hội - Văn hóa , khoa học , giáo dục cũng được HCM coi là những động lực tinh thần không thể thiếu trong xây dựng CNXH Tất cả những nhân tố động lực nêu trên là những nguồn lực tiềm tang của sự phát triển . Làm thế nào để những khả năng , nguồn lực tiềm tang đó trở thành sức mạnh và không ngừng phát triển . HCM nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của CNXH . Đây là hạt nhân trong hệ động lực của CNXH Tất cả những yếu tố đó chính là nội lực . Bên cạnh nội lực , theo HCM phải kết hợp sức mạnh thời đại , tăng cường đoàn kết quốc tế , chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân . Phải sử dụng tốt những thành quả của KH-KT thế giới .
- 7 Nét độc đáo trong phong cách tư duy biện chứng HCM là ở chỗ bên cạnh việc chỉ ra các nguồn động lực phát triển của CNXH , Người còn lưu ý , cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm , triệt tiêu nguồn lực vốn có của CNXH , làm cho CNXH trở nên trì trệ , xơ cứng , không có sức hấp dẫn , đó là thâm ô , lãng phí , quan liêu mà Người gọi đó là “ giặc nội xâm “ . Giữa nội lực và ngoại lực , HCM xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất , ngoại lực là rất quan trọng . Chính vì thế , Người hay nêu cao tinh thần độc lập , tự chủ , tự lực cánh sinh là chính , nhưng luôn chú trọng tranh thủ sự giúp đỡ , hợp tác quốc tế , kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công CNXH trên cơ sở đảm bảo các quyền dân tộc cơ bản của VN , không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau , chung sống hòa bình và phát triển . Câu 7: Vì sao HCM cho rằng để giải quyết vấn đề dân tộc cần kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế? Ngay từ khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản. 1. Về sự kết hợp của dân tộc với giai cấp : Người cho rằng phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết. Vì ở Việt Nam, vấn đề mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai thì gay gắt hơn là giữa giai cấp nông dân với địa chủ, vô sản với tư sản. Do đó, chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể thực hiện được. Tuy nhiên, xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Người đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết lập trường của giai cấp vô sản. Tinh thần yêu nước của dân tộc là to lớn nhưng cũng cần có một giai cấp đủ bản lĩnh, đủ mạnh mẽ và sáng suốt đứng ra lãnh đạo.
- 8 2. Về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội : Một nội dung cơ bản và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động. Độc lập dân tộc chỉ triệt để, hoàn thiện khi xây dựng thành quốc gia cường thịnh, khi không còn nguy cơ xâm lược. Điều đó chỉ đạt được khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta và cơ bản trên toàn thế giới. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột, chỉ có thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới bảo đảm cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát triển xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Do đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người đều được sung sướng, tự do. Sự phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội là một đảm bảo vững chắc cho nền độc lập của dân tộc. 3. Về chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế : Hồ Chí Minh ngoài bản thân là một đảng viên cộng sản tiêu biểu của nước Việt Nam mà Người còn là một thành viên tích cực của Quốc tế cộng sản. Người đưa ra quan điểm : Độc lập cho dân tộc mình, đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại và mục tiêu giải phóng dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người đã khẳng định : quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đối với Người, nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa sôvanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng, bá quyền. Tất cả những khuynh hướng lệch lạc ấy có thể dẫn đến sự đổ vỡ của một quốc gia dân tộc hay một liên bang đa quốc gia dân tộc, phá vỡ
- 9 tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung. Chính vì lẽ đó, chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy. Nêu cao tình thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những vấn đề của quá khứ, lịch sử, xóa bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc. Nói tóm lại, theo tư tường Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc cần gắn liền với giải phóng giai cấp, thông qua giai cấp, lãnh đạo, định hướng cho dân tộc trong đường lối đấu tranh và xây dựng đất nước. Độc lập dân tộc cần gắn bó mật thiết với chủ nghĩa xã hội vì độc lập dân tộc là nền tảng để xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội là vũ khí lợi hại nhất để bảo vệ nền độc lập dân tộc của nước nhà. Bên cạnh đó, chủ nghĩa yêu nước cần gắn liền với chủ nghĩa quốc tế. “Giúp bạn là tự giúp mình”, bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Câu 8: Tại sao HCM cho rằng "Cần kiệm liêm chính chí công vô tư" là phẩm chất quan trọng của con người Việt Nam trong thời đại ngày nay? Theo Hồ Chí Minh, "Cần kiệm liêm chính chí công vô tư" là phẩm chất đạo đức trung tâm, gắn liền với hoạt động hàng ngày của con người. - Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Cần còn là làm việc một cách thông minh, sáng tạo, có kế hoạch, khoa học. Theo Bác, con người có đức Cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được. Đúng như câu tục ngữ kiến tha lâu cũng đầy tổ, nước chảy mãi đá cũng mòn. Bác lưu ý, kẻ địch của chữ Cần là lười biếng. Bác cho rằng nếu có một người, một địa phương, hoặc một ngành mà lười biếng thì khác nào toàn chuyến xe đang chạy, mà có một bánh trật ra ngoài đường ray. Họ sẽ làm chậm trễ cả một chuyến xe. Vì vậy, người lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc. - Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân; phải tiết kiệm từ cái lớn đến cái nhỏ, không phô trương hình thức, không xa xỉ, hoang phí. Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của con người. Cần mà không Kiệm thì như gió vào nhà trống, như nước đổ vào cái thùng không đáy, làm chừng nào xào chừng ấy, rốt cuộc không lại hoàn không. Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm và không phát triển được. Bác giải thích, tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không đáng tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, nhưng khi có việc cần làm lợi cho dân, cho nước thì hao bao nhiêu của, tốn bao nhiêu công cũng vui lòng, như thế mới là kiệm. - Liêm nghĩa là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của dân, không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Bác đã nhắc lại một số ý kiến của các bậc hiền triết ngày trước: Khổng Tử nói:
- 10 "Người mà không Liêm thì không bằng súc vật"; Mạnh Tử cho rằng: "Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy". Do vậy, Bác yêu cầu mỗi người, nhất là cán bộ lãnh đạo phải thực hiện tốt chữ Liêm. Chữ Liêm và chữ Kiệm phải đi đôi với nhau như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm thì mới Liêm được, bởi xa xỉ ắt sinh tham lam, không giữ được Liêm. Bác cũng chỉ rõ ngược lại với chữ Liêm là tham ô, là ăn cắp của công làm của tư, đục khoét nhân dân, tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của nhà nước làm quỹ riêng cho địa phương mình. Tham ô là trộm cướp, là kẻ thù của nhân dân. Muốn Liêm thật sự thì phải chống tham ô. - Chính tức là chính trực với bản thân và với người khác.Với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, với người không nịnh hót kẻ trên, xem thường kẻ dưới, không dối trá, lừa lọc. - Chí công vô tư là đặt lợi ích công lên lợi ích cá nhân. Nó đối lập với chủ nghĩa cá nhân, mà chủ nghĩa cá nhân là một thứ giặc nội xâm rất nguy hiểm, nếu không vượt qua được thì bất cứ ai cũng không thể vượt qua được những hành vi vô đạo đức. Đối với mọi người, phẩm chất này có hay không, có nhiều hay ít đều được thể hiện qua hoạt động thực tiễn, trong đời công cũng như đời tư, trong sinh hoạt cũng như trong công việc người đó làm, những cương vị người đó đảm nhiệm. Trong cuộc sống nếu sự đôi trá vẫn còn tìm được sụ ẩn náu, thì những thói lười biếng, xa phí, bất liêm, bất chính thu vén lợi ích riêng tư, làm hại lợi ích chung sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế và cuộc sống của người dân. Do đó " cần kiệm liêm chính chí công vô tư" là rất cần thiết đối với con người Việt Nam cả khi đất nước còn phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược rất tàn bạo do chủ nghĩa thực dân đế quốc gây ra, đặc biệt là khi đất nước đang phát triển trong xây dựng hoà bình. Đây không phải chỉ là yêu cầu về đạo đức mà còn là yêu cầu của chính sự phát triển kinh tế Theo HCM "cần kiệm liêm chính chí công vô tư" có quan hệ mật thiết với nhau. "cần kiệm liêm chính chí công vô tư" là bốn đức của con người, thiếu một đức thì không thành người cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn hướng, thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một hướng thì không thành đất. Bồi dưỡng phẩm chất "cần kiệm liêm chính chí công vô tư" sẽ làm cho con người vững vàng trước mọi thử thách: " giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển bay, uy vũ không thể khuất phục", và có thể "trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ, cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng". Nhưng đây là một vấn đề rất phức tạp, nói dễ làm khó và trong cuộc sống vẫn thường hay vi phạm bởi vì nó đụng chạm tới nhiều lợi ích cá nhân, tập trung nhất là chức quyền, danh lợi, mà nếu không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân thì bất cứ ai cũng có thể xa vào những hành vi vô đạo đức. Câu 9: Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước theo HCM được thể hiện như thế nào? Nhà nước ta mang bản chất giai cấp, “à nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”.Bản chất giai cấp công nhân biểu hiện ở chỗ: - Nhà nước ta do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng những chủ trương, đường lối thông qua tổ chức của mình trong quốc hội, chính phủ, các ngành, các cấp của nhà nước; được thể chế thành pháp luật, chính sách, kế hoạch của nhà nước. - Bản chất giai cấp còn thể hiện ở định hướng đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. “Bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu
- 11 thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.” - Bản chất giai cấp của nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ bản là nguyên tắc tập trung dân chủ”hà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên .Đồng thời phải tập trung cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội.” Bên cạnh dân chủ,Bác cũng nhắc đến chuyên chính, “chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai?”.“dân chủ là của quý báu của nhân dân, chuyên chính là cái khoá, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại dân chủ cũng cần chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ.” Câu 10: Nhà nước của dân , do dân , vì dân theo quan điểm HCM A , Nhà nước của dân Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của Người được thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, "cậy thế" với dân, "quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân". Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9- 1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì Nhà nước đó là nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước B , Nhà nước do dân Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: việc nước là việc chung, mỗi người đều
- 12 phải có trách nhiệm "ghé vai gánh vác một phần".Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ. C , Nhà nước vì dân - Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành. Cả cuộc đời Người "chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân". Hồ Chí Minh viết: "khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó". Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải "làm quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân" như dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi". Câu 11: Vì sao Hồ Chí Minh cho rằng: trồng người là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam Trồng người là yêu cầu khách quan , vừa cấp bách , vừa lâu dài của cách mạng Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu , vừa là động lực của CM , HCM rất quan tâm đến sự giáo dục , đào tạo , rèn luyện con người . Người nói đến “ lợi ích trăn năm “ và mục tiêu xd CNXH là những quan điểm mang tầm vốc chiến lược , cơ bản lâu dài , nhưng cũng rất cấp bách . Nó lien quan đến nhiệm vụ “ trước hết cần có những con ng XHCN “ và “ trồng người “ . Như vậy con người phải đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển . Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nc với nghĩa rộng , vừa nằm trong chiến lược giáo dục đào tạo theo nghĩa hẹp - Muốn xây dựng CNXH , trc hết cần có những con người XHCN + Con người XHCN đương nhiên phải do CNXH tạo ra . Nhưng ở đây trên con đường tiến lên CNXH thì “ trc hết cần có những con ng XHCN “ . Công việc này là 1 quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện , nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng , nhà nc , gia đình , cá nhân mỗi người .
- 13 + Mỗi bước xd những con người như vạy là 1 nấc thang xd CNXH . Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “ xây dựng CNXH “ và “ con ng XHCN “ . + Quan niệm của HCM về con người mới của xh chủ nghĩa có mặt gắn bó chặt chẽ với nhau . Một là , kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống . Hai là , hình thành những phẩm chất mới như : có tư tưởng XHCN , có đạo đức XHCN , có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ , có tác phong XHCN , có lòng nhân ái , vị tha , độ lượng . Chiến lược trồng người là 1 trọng tâm , 1 bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển KT-XH - Để thực hiện chiến lược “ trồng người “ , cần có nhiều biện pháp , giáo dục là biện pháp quan trọng bậc nhất - Nội dung , phương pháp giáo dục phải toàn diện , cả đức , trí , thể , mỹ , phải đặt đạo đức , lý tưởng và tình cảm CM , lối sống XHCN lên hang đầu . Đức và tài thống nhất với nhau , kết hợp nhận thức và hành động , lời nói và việc làm Có như vậy mới có thể “ học làm người “ - “ trồng người “ là công việc “ trăm năm “ , không thể nóng vội “ một sớm 1 chiều “ , không phải làm 1 lúc là xong , cũng không phải tùy tiện , đến đâu hay đến đó . Nhận thức và giải quyết vấn đè này có ý nghĩa thường trực , bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người , trong suốt thời kì quá độ lên CNXH . HCM cho rằng “ việc học không bao giờ cùng , còn sống còn phải học “ . Câu12:trình bày khái niệm tư tưởng HCM,ý nghĩa của việc học tập tư tưởng HCM . 1 , Khái niệm tư tưởng và tư tưởng HCM A , Khái niệm tư tưởng Theo nghĩa phổ thông nhất , tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức , là biểu hiện mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh . Khái niệm tư tưởng trong tư tưởng HCM đc dùng với nghĩa là hống những quan điểm , quan niệm , luận điểm đc xây dựng trên nền tảng triết học nhất quán , đại biểu cho ý chí nguyện vọng của 1 giai cấp , 1 dân tộc , đc hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định . B , Khái niệm tư tưởng HCM - Đại hội IX nêu rõ : ” tư tưởng HCM là 1hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng VN , là kết quả của sự vận dụng và phát triển sang tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thê nc ta , kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc , tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại . Đó là tư tưởng giải phóng dân tộc , giải phong giai cấp , giải phóng con người , về đôc lập dân tộc gắn liền với CNXH . Tư tưởng HCM soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi , là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ” - trong khái niệm này Đảng ta bước đầu làm rõ được : + Một là , bản chat CM và KH của tư tưởng HCM : đó là hệ thống các quan điểm lý luận , phản ánh những vấn đề có tính quy luật của CMVN , tư tưởng HCM cùng với chủ nghĩa Mác-Lê nin là nền tảng tư tưởng , kim chỉ nam cho hành động của Đảng và dân tộc VN + Hai là , nguồn gốc tư tưởng lý luận của tư tưởng HCM là chủ nghĩa Mác-Leenin , giá trị văn hóa dân tộc , tinh hoa văn hóa nhân loại .
- 14 + Ba là , nội dung cơ bản nhất của tư tưởng HCM bao gồm những vấn đề liên quan trực tiếp đến CMVN B , Ý nghĩa: - Tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải: - Nắm vững nội dung cốt lõi của hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, trang bị thế giới quan cách mạng theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. - Học tập nhân sinh quan cách mạng của Hồ Chí Minh: đạo đức, nhân cách mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. -Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam xây dựng mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. -Đối với thanh niên, học sinh, sinh viên cần coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người vừa “hồng” vừa “chuyên”.Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc quan trọng và rất cần thiết. Câu 13: quan niệm của HCM về vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng. Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, chúng ta phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu, phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Đảng phải chăm lo giáo dục đạo đức cho thanh niên, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".Đạo đức được xem xét trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Vai trò của đạo đức cách mạng là to lớn, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối.Như đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. - Đạo đức liên quan đến sự thành bại của cách mạng, nếu quan tâm chăm sóc,rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên thì CM sẽ thành công. - Bác khảng định mục tiêu XHCN là ko ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho nhân dân lao động để đi len CNXH. Con người phải vươn tới chân-thiện-mĩ và phải coi trọng đạo đức CM. - Đạo đức là thước đo lòng cao thượng của con người, Bác chỉ rõ, mỗi người có công việc, tài năng và địa vị xã hội khác nhau nhưng xem con người đó có lòng cao thượng hay ko và có đạo đức thì người đó có lòng cao thượng. -Đạo đức CM là một động lực để giúp đỡ chúng ta vượt qua khó khăn trở ngại để có được những thắng lợi trong quá trình tiến hành sự nghiệp CM Câu 14: trình bày nguồn gốc hình thành tt HCM, nguồn gốc nào giữ vai trò quyết định? tại sao? 1- Nguồn gốc hình thành tthcm: a. Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nựớc.Chủ nghĩa yêu nước là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc vn. Có
- 15 tinh thần nhân nghĩa và truyền thống nhân nghĩa đoàn kết, tương thân, tương ái trong khó khăn, nguy hiểm.Có truyền thống lạc quan yêu đời, niềm tin vào chính mình, tin vào sự tất thắng của chân lý và chính nghĩa dự phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ. Truyền thống cần cự, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi, mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa bên ngoài làm giàu cho văn hóa vn. Chính nhờ tiếp thu truyền thống của dân tộc mà HCM đó tìm thấy con đường đi cho dân tộc. b. Tinh hoa văn hóa nhân loại: Người đó tiếp thu tinh hoa v/hóa nhân loại, vốn sống, vốn kinh nghiệm để làm giàu tri thức của mình và phục vụ cho cmvn. -Văn hóa phương Đông: Người đó tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo;, và tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương đông. + Nho giáo nói chung và Khổng giáo nói riêng là khoa học về đạo đức và phép ứng xử, tư tưởng triết lý hành động, lý tưởng về 1 xh bình trị.Đặc biệt nho giáo đè cao văn hóa, lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu học trong dân.Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn so với các học trong dân.Tuy nhiên HCM cũng phê phán Nho giáo có tư tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ Phong kiến, phân chia đẳng cấp-quân tử và tiểu nhân, chỉ đề cao nghề đọc sách. + Phật giáo vào vn từ sớm và có ảnh hưởng rất mạnh đối với vn.Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, phật giáo có tư tưởng bỡnh đẳng, dân chủ hơn so với nho giáo. Phật giáo cũng đề cảo nếp sống đạo đức, trong sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng lao động. Phật giáo vào vn kết hợp với chủ nghĩa yêu nước sống gắn bó với dõn, hũa vào cộng đồng chống kẻ thù chung của dân tộc là chủ nghĩa thực dân. -Văn hóa tây phương: HCM chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng ph ương tây.Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương tây, HCM quan niệm tôn giáo là văn hóa. Điểm tích cực nhất của Thiên chú giáo là lũng nhõn ỏi.Đôi lúc ta đồng nhất Thiên chúa giáo với mê tín do ấn tượng tông giáo vào vn đi kèm với tư tưởng xâm lược. Bác tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hóa Đông-Tây để phục vụ cho CMVN. c. Chủ nghĩa Mác-Lênin Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh.Hồ Chí Minh khẳng định: "Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản". d) Nhõn tố chủ quan thuộc về phẩm chất cỏ nhõn của NAQ. + Tư duy độc lập và sáng tạo, có óc phê phán tinh tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu, tỡm hiểu cuộc cỏch mạng tư sản hiện đại. + Không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức, vốn kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào gpdt. + Bác có tâm hồn của 1 người yêu nước vĩ đại, 1 chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng; một trái tim yêu thương dâ, thương người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh cao đẹp vỡ độc lập của tổ quốc, vỡ hạnh phỳc của nhõn dõn. Bỏc hồ từ 1 người tỡm đường cứu nước đó trở thành người dẫn đường cho cả dt đi theo. * Nguồn gốc giữ vai trò quyết định là:chủ nghĩa mac-lenin.vì CN mac-lenin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân,là học thuyết tiến bộ của loài người ,các hoc thuyết đó đã tổng kết qúa khứ,cải tạo hiện tại và hướng tới tương lai,hoc thuyết cung cấp cho HCM thế giới quan và phương pháp luận biện chứng.
- 16 Câu 15: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng Việt Nam muốn dành được thắng lợi phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. - HCM nhận thức CM là sự nghiệp của quần chúng nhân dân . Nhưng nhân dân phải đc giác ngộ , đc tổ chức , lãnh đạo theo 1 đường lối đúng đắn thì mới trở thành lực lượng to lớn . Vì vậy , HCM đặt vấn đề : - CM trc hết “ phải có Đảng cách mạng , để trong thì tập hợp và tổ chức dân chúng , ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi . Đảng có vững mạnh mới thành công cũng như người cầm lái có thuyền mới chạy “ - Để đảm đương vai trò lãnh đạo CMVN , theo HCM : “ Đảng phải là đội tiền phong , là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp vô sản , của nhân dân lao động và của cả dân tộc “ . Bao giờ Đảng cũng tận tâm , tận lực phụng sự tổ quốc , phục vụ nhân dân , trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công nhân , và của dân tộc . - Thực tiễn CMVN gần 80 năm qua đã chứng minh dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn , vĩ đai Trong giai đoạn hiện nay , khi chúng ta đang ra sức xây dựng đát nước ngày càng giàu mạnh theo con đường XHCN . Kẻ thù đang tìm mọi cách để chống phá CM nước ta chúng coi việc xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN là 1 khâu then chốt . Tuy nhiên mọi hành động chống phá của chúng không thể đi ngược lại lịch sử , không thẻ làm thay đổi được thực tiễn là cách mạng VN rất cần có sự lãnh đạo của ĐCSVN Câu 16: Vì sao HCM cho rằng trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức quan trọng hàng đầu của người Việt Nam trong thời đại mới? HCM cho rằng, đạo đức có vai trò to lớn đồi với hành vi của con ngưòi: Đạo đức tốt thì hành vi mới hợp quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; đạo đức không tốt thì tất yếu hành động trái quy luật. Đạo đức không phải từ trên trời rời xuống mà do con người tích cực và bền bỉ rèn luyện mà nên " cũng như ngọc càng mài càmg sáng, vàng càng luyện càng trong". Vậy trung với nước hiếu với dân là một phẩm chất cao đẹp và quan trọng hành đàu của con người Việt Nam trong thời đại mới. Về quan hệ đạo đức,mối quan hệ của mỗi người đối với đất nước mình và nhân dân mình, dân tộc mình là mối quan hệ lớn nhất trong tổng hoà các mối quan hệ của con người. Về phẩm chất đạo đức, trung với nước hiếu với dân là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất.Nó chi phối các phẩm chất đạo đức khác trong tư tưởng HCM trên cơ sở kế thừa và phát triển các phẩm chất đạo đức sẵn có của con người Việt Nam - Trung với nước là suốt đời đấu tranh cho cách mạng, ra sức làm việc, giữ vững kỷ luật thực hiện tốt đường lối chính sách của đảng.Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước giữ nước.Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước. - Hiếu với dân là hoà bình với quần chúng, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, cũng như làm cho dân tin, dân yêu, dân đoàn kết xung quanh đảng, hăng hái thực hiện đường lối của nhà nước.Vậy cần phải lấy dân làm gốc. Người lãnh đạo phải nắm vững dân tìn, hiểu rõ dân tâm,thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh,nâng cao dân trí, để người dân hiểu được quyền và trách nhiệm của mình, có như vậy mới được dân tin, dân mến, kính trọng, mới tạo ra được sức mạnh to lớn cho cách mạng. Trong thời đại mới hiện nay, khi các thế lực thù địch luôn chống phá nước ta thì phẩm chât này lại càng trở lên quan trọng hơn bao giờ hết.