Giáo trình Giáo dục chính trị
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Giáo dục chính trị", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_giao_duc_chinh_tri.doc
Nội dung text: Giáo trình Giáo dục chính trị
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ (Dùng trong đào tạo trình độ TCCN) Hà Nội, 2012 1
- Chương mở đầu NHẬP MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ I. KHÁI NIỆM VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1. Khái niệm a) Chính trị và môn học Giáo dục chính trị Chủ nghĩa Mác - Lênin coi chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, các lực lượng xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Giáo dục chính trị là bộ phận của công tác tư tưởng của Đảng giáo dục, thực hiện việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Giáo dục lý luận chính trị nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị, niềm tin và năng lực hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ phát triển của đất nước. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng. Nội dung chủ yếu của công tác giáo dục lý luận chính trị là giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng; xây dựng cho mọi người nhận thức đúng đắn và niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng, con đường và biện pháp thực hiện lý tưởng của Đảng. Giáo dục chính trị gồm những nội dung cơ bản của các khoa học Triết học Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. b) Mục tiêu và yêu cầu của môn học Mục tiêu chung: Giáo dục chính trị nhằm giáo dục con người giác ngộ về chính trị, có tri thức khoa học về chính trị, hình thành thế giới quan và nhân sinh quan khoa học, hiểu biết về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng để thúc đẩy hoạt động tự giác có chí hướng thực hiện các lý tưởng chủ nghĩa xã hội và mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cụ thể: Giáo dục chính trị là môn học nghiên cứu lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội nhằm làm sáng tỏ các quy luật chung nhất của cách mạng Việt Nam, việc áp dụng các quy luật đó vào thực tế hoạt động chính trị và tổ chức chính trị xã hội. Hiểu rõ về chính trị, giác ngộ về chính trị tất yếu sẽ chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trở thành người công dân tốt, người công dân có ích cho xã hội và người yêu nước chân chính. Yêu cầu của môn học: Tạo sự nhất trí cao đối với đường lối của Đảng, có ý chí nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng con người Việt Nam đủ khí phách bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức và kiến thức văn hoá tổng hợp, nhất là kiến thức về khoa học xã hội và nhân văn, về thế giới, về lịch sử đất nước và con người Việt Nam. 2
- Người học cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tính độc lập trong nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam; chống giáo điều; luôn có ý thức liên hệ, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn công tác và cuộc sống hàng ngày. Giữ vững chủ động đấu tranh làm thất bại mợi âm mưu, thủ đoạn và hành động “diễn biễn hào bình” trên lĩnh vực tư tưởng -văn hoá của các thế lực thù địch. 2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng học tập, nghiên cứu môn học Giáo dục chính trị là những quan điểm cơ bản, nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong phạm vi ba bộ phận cấu thành nó. Đó là những nguyên lý cơ bản về thế giới quan và phương pháp luận chung nhất; là nghiên cứu học thuyết giá trị, giá trị thặng dư, học thuyết về chủ nghĩa tư bản; những quy luật kinh tế cơ bản; về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng chính sách Việt Nam và đường lối cách mạng của Đảng từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; quá trình lãnh đạo đất nước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Nội dung đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam rất đa dạng và phong phú, như đường lối đối nội và đường lối đối ngoại; có đường lối chính trị xuyên suốt cả quá trình cách mạng; đường lối cho từng thời kỳ lịch sử. Ngoài ra, còn có đường lối cách mạng vạch ra cho từng lĩnh vực hoạt động như: đường lối công nghiệp hoá, đường lối phát triển kinh tế - xã hội, đường lối văn hoá văn nghệ v.v II. PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP 1. Áp dụng các phương pháp học tập tích cực Trong dạy và học, ngoài phương pháp thuyết trình truyền thống, sử dụng rộng rãi các phương pháp tích cực, hiện đại: Phỏng vấn nhanh, hỏi - đáp, nêu ý kiến ghi lên bảng, làm việc nhóm, phương pháp tình huống Các phương pháp này lấy người học làm trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, nhằm biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục; chú trọng hình thức tự học, tự nghiên cứu là chính. 2. Học tập liên hệ với nghề nghiệp tương lai và thực tiễn cuộc sống Chú trọng gắn giảng dạy lý luận với tìm hiểu các vấn đề thực tiễn đang đặt ra, giúp người học có phương pháp giải quyết vấn đề theo định hướng đúng đắn; gắn lý luận với hoàn thiện nhân cách, đạo lý sống, nhất là nhân cách nghề nghiệp trong tương lai III. Ý NGHĨA HỌC TẬP 1. Góp phần hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học a) Có thế giới quan khoa học Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó. Giáo dục chính trị góp phần mài sắc tư duy, cung cấp những tri thức khoa học cũng như những kinh nghiệm của cuộc sống con người và xã hội loài người để hình thành thế giới quan khoa học. Đó là trang bị cho người học những quan điểm triết học, đạo đức, chính trị, thẩm mỹ để hình thành một thế giới quan khoa học, cách mạng, có niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân do Đảng lãnh đạo. Thế giới quan khoa học góp phần điều chỉnh hành vi của con người với môi trường xung quanh, định hướng cho nhận thức và hành động đúng đắn, không chỉ trong nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới. b) Có phương pháp luận đúng đắn 3
- Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là một hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Thế giới phong phú và đa dạng, muốn nhận thức được thế giới, con người cần có một phương pháp luận đúng đắn, khoa học. Phải xem xét các sự vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với một tư duy linh hoạt; phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Phương pháp đó chỉ có thể là phương pháp luận biện chứng. 2. Bồi dưỡng nhận thức, năng lực hành động và rèn luyện đạo đức a) Bồi dưỡng nhận thức chính trị Thứ nhất, góp phần cung cấp cho người học hiểu được hệ thống chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ hai, có tri thức lý luận khoa học, cách mạng góp phần thẩm định tính đúng đắn các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; khắc phục mọi biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; nâng cao ý thức tự giác tu dưỡng đạo đức cách mạng, khắc phục chủ nghĩa cá nhân và xây dựng con người mới. Đồng thời, góp phần đấu tranh chống lại những luận điểm sai trái xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường cách mạng Việt Nam. b) Nâng cao năng lực hành động Thế giới quan và phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam cho công tác hàng ngày, làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội. Việc nắm vững tri thức chính trị giúp cho người học có khả năng tham gia vào các hoạt động tư tưởng của Đảng và các nhiệm vụ chính trị - xã hội của Đảng, của các đoàn thể nhân dân và của Nhà nước. c) Rèn luyện phẩm chất đạo đức và tình cảm tốt đẹp Có bản lĩnh chính trị vững vàng, yêu nước, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tích cực tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; có dũng khí đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều; chống các quan điểm sai lầm, phản động. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trung thực và thẳng thắn, khiêm tốn, giản dị, nói đi đôi với việc làm, có quan điểm quần chúng đúng đắn. Có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong công tác, có tình yêu nghề nghiệp. CÂU HỎI Trình bày những hiểu biết của em về môn Giáo dục chính trị và ý nghĩa của việc học tập môn Giáo dục chính trị ? 4
- Chương 1 CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHỦ NGHĨA MÁC 1. Khái niệm chủ nghĩa Mác – Lênin Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX trên cơ sở đấu tranh của giai cấp công nhân và đã trở thành biểu hiện về mặt lý luận những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, cương lĩnh đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của nó. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã thực hiện một kỳ công khoa học trong những lĩnh vực triết học, kinh tế chính trị học, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, v. v và đã xây dựng được một khoa học thực sự cách mạng có nhiệm vụ không chỉ giải thích thế giới một cách đúng đắn, mà còn cải tạo thế giới. Lênin đã chỉ rõ rằng học thuyết của Mác đem lại cho con người một thế giới quan hoàn chỉnh. Nó có sức mạnh toàn năng bởi vì nó đúng. Cái chính trong chủ nghĩa Mác là luận chứng về vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người xây dựng xã hội cộng sản không có giai cấp. Chủ nghĩa cộng sản khoa học - một bộ phận hợp thành quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác đã được luận chứng về kinh tế một cách sâu sắc trong kinh tế chính trị học do Mác xây dựng nên, nó đã phát hiện những quy luật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đã chứng minh rằng xã hội xã hội chủ nghĩa tất yếu sẽ thay thế cho xã hội tư bản chủ nghĩa. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa Mác phát triển với tư cách là một học thuyết sinh động và sáng tạo trái ngược với chủ nghĩa giáo điều. Nó tìm thấy sức mạnh sáng tạo của mình trong đời sống, trong thực tiễn cách mạng. Mác và Ăngghen đã không ngừng phát triển học thuyết của mình, làm nó phong phú thêm bằng những luận điểm mới, kiểm tra sự đúng đắn của chúng trên kinh nghiệm cách mạng của quần chúng, trên các thành tựu khoa học mới. V.I.Lênin đã kế tục sự nghiệp của Mác, áp dụng phép biện chứng mác-xít vào việc phân tích những hiện tượng của thời đại mới, tiếp tục sự phân tích chủ nghĩa tư bản của Mác, sáng tạo học thuyết về giai đoạn đế quốc chủ nghĩa của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phát triển lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa và đi đến kết luận về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đầu tiên ở một nước hoặc một số nước Với những đóng góp to lớn của Người vào lý luận của C. Mác đã hình thành chủ nghĩa Mác-Lênin. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác, Ph. Ăngghen sáng lập và sự phát triển của V.I.Lênin; được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa, giá trị trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, tổng kết các thành tựu của khoa học và thực tiễn thời đại, là thế giới quan, phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức bóc lột và tiến tới giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác- Lênin với tư cách là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức bóc lột và tiến tới giải phóng con người thì bao gồm ba bộ phận lý luận cơ bản, thống nhất biện chứng, ràng buộc chặt chẽ với nhau. Đó là: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học. 5
- Triết học Mác - Lênin là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng Kinh tế chính trị học Mác – Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong quá trình chuyển biến này Ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác – Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống khoa học thống nhất về con đường, biện pháp, lực lượng thực hiện sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột, giải phóng xã hội và tiến tới giải phóng con người. 2. Những điều kiện, tiền đề lịch sử của sự ra đời chủ nghĩa Mác a) Điều kiện kinh tế - xã hội Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu phát triển mạnh mẽ trên nền tảng cách mạng công nghiệp. Nhờ vậy, tính hơn hẳn của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ phong kiến được thể hiện một cách rõ rệt. “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” 1, thực hiện bước chuyển từ nền sản xuất thủ công nghiệp sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, hình thành giai cấp vô sản hiện đại con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt, đặc biệt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân chống lại chủ tư bản tiêu biểu như: khởi nghĩa của công nhân ở Liông (Pháp) năm 1831,1834; phong trào Hiến chương (Anh) 1835- 1848, khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức) năm 1844,v.v Giai cấp vô sản đã trở thành lực lượng chính trị độc lập. Sự xuất hiện giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử và cuộc đấu tranh mạnh mẽ của họ là điều kiện chính trị, xã hội quan trọng cho sự ra đời chủ nghĩa Mác. Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là phải có lý luận khoa học soi đường. Chủ nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng đòi hỏi khách quan, đồng thời thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân đã thành cơ sở thực tiễn cho lý luận cho chủ nghĩa Mác. b) Tiền đề lý luận Chủ nghĩa Mác ra đời là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó, trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Với triết học cổ điển Đức, C.Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa có phê phán phép biện chứng duy tâm, thần bí của Ph.Hêghen để xây dựng phép biện chứng duy vật – công cụ vĩ đại của nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Phê phán tính chất siêu hình, máy móc và kế thừa thế giới quan duy vật trong triết học của L.Phoiơbắc, hai ông đã xây dựng thành công thế giới quan duy vật biện chứng - thế giới quan của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kinh tế chính trị học cổ điển Anh với những đại biểu của nó là A.Xmit và Ricácđô, những người có công lao to lớn trong việc xây dựng lý luận về giá trị của lao động, về nguồn 1 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t4.tr.603. 6
- gốc của lợi nhuận, về tính chất quan trọng hàng đầu của quá trình sản xuất vật chất khắc phục các nhược điểm của nó như những biểu biện của giá trị trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, bản chất bóc lột của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, Chủ nghĩa xã hội không tưởng với các đại biểu tiêu biểu là Xanh Ximông, S.Phuriê mặc dù thể hiện đậm nét tinh thần nhân đạo, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản trên cơ sở vạch trần cảnh khốn cùng cả về vật chất lẫn tinh thần của người lao động, dự đoán về những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai, nhưng không luận chứng được một cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Mác và Ăngghen đã cải tạo có phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp đưa chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học. c) Tiền đề khoa học tự nhiên Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận, những thành tựu khoa học tự nhiên cũng là những tiền đề hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác. Trong đó có ba phát minh vĩ đại là quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tế bào, thuyết tiến hoá. Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng đã chứng minh một cách khoa học về mối quan hệ không tách rời nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau của các hình thức vận động của vật chất, bác bỏ quan niệm duy tâm về sự được sinh ra của vật chất, bác bỏ quan niệm siêu hình về vật chất. Thuyết tế bào bác bỏ quan điểm duy tâm, tôn giáo về nguồn gốc siêu tự nhiên của vật chất sống, bác bỏ quan niệm siêu hình về ranh giới tuyệt đối giữa các giống, loài, động vật thực vật. Khẳng định quan niệm biện chứng về sự chuyển hoá của thế giới vật chất sống. Thuyết tiến hoá đã chứng minh một cách khoa học sự phát sinh phát triển một cách đa dạng của thế giới vật chất. Khẳng định nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật bằng cơ sở khoa học. Các phát minh khoa học này đã làm cơ sở khoa học cho thế giới quan duy vất lịch sử và phép biện chứng duy vật ra đời. d. Vai trò nhân tố chủ quan cho sự hình thành chủ nghĩa Mác- Lênin C. Mác (1818-1883) và Ph. Ăngghen (1820-1895) đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tiền đề lý luận trên để sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng cho giai cấp vô sản, đó là chủ nghĩa Mác. V.I. Lênin (1870-1924) đã vận dụng và phát triển sáng tạo toàn diện học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Về mặt trí tuệ, các ông đều là những thiên tài trên nhiều lĩnh vực tự nhiên, chính trị, văn hoá- xã hội Về mặt thực tiễn, các ông đều là những người am hiểu và hoạt động trong phong trào cách mạng của quần chúng, nhìn thấy rõ sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân trong lịch sử. 1. Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin a) Giai đoạn Mác - Ăngghen Các Mác sinh ngày 5- 5- 1818, ở Tơriơ, tỉnh Ranh, một vùng khá phát triển cả về kinh tế và chính trị của nước Đức. Do ảnh hưởng của gia đình, nhà trường và các quan hệ xã hội khác đã hình thành và phát triển ở Mác tinh thần nhân đạo chủ nghĩa cao cả, xu hướng yêu tự do, hoà mình vào cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động đã đưa Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ tinh thần cách mạng dân chủ sang lập trường cộng sản chủ nghĩa. Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong gia đình chủ xưởng sợi ở Bácmên thuộc tỉnh Ranh, nước Đức. Ngay từ nhỏ ông đã căm ghét sự chuyên quyền và sự độc đoán của bọn quan lại, cảm thông sâu sắc với những nỗi khổ cực của quần chúng nhân dân lao động. Ông 7
- đã trực tiếp tham gia vào phong trào Hiến chương của công nhân Anh. Sự tham gia vào phong trào công nhân đã dẫn ông đến bước chuyển biến căn bản trong thế giới quan từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa. Giai đoạn từ năm 1842 đến 1848 khi tác phẩm Tuyên ngôn đảng cộng sản ra đời là giai đoạn hình thành và phát triển nền tảng của chủ nghĩa Mác với ba bộ phận của nó. Giai đoạn từ năm 1848 đến năm 1895 là giai đoạn hai ông bổ sung và phát triển học thuyết của mình trong sự gắn bó mật thiết với thực tiễn cách mạng mà hai ông vừa là những đại biểu tư tưởng vừa là lãnh tụ thiên tài của phong trào công nhân. Bằng hoạt động lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành phong trào tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ; và chính trong quá trình đó, học thuyết của các ông không ngừng phát triển. b) Giai đoạn Lênin phát triển chủ nghĩa Mác V.I.Lênin sinh ngày 22- 4 - 1870. Ông đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc bảo vệ chủ nghĩa Mác khỏi sự xuyên tạc và đấu tranh chống lại các trào lưu tư tưởng phản động như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại, làm phong phú, phát triển thêm lý luận của chủ nghĩa Mác trên cả ba lĩnh vực: triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học trong điều kiện lịch sử mới. Chủ nghĩa Mác ra đời đã ảnh hưởng lớn lao đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cuộc cách mạng Tháng Ba năm 1871 ở Pháp là sự kiểm nghiệm vĩ đại đối với tư tưởng của chủ nghĩa Mác. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một nhà kiểu mới, nhà nước chuyên chính vô sản (Công xã Pa ri) được thành lập. Tháng Tám năm 1903, chính đảng vô sản đầu tiên của giai cấp vô sản được thành lập theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Đảng Bônsêvích Nga. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản thắng lợi ở nước Nga và mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử nhân loại. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và những nước xã hội chủ nghĩa khác đã biến những tư tưởng của chủ nghĩa Mác thành hiện thực. Mặc dù từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và rơi vào giai đoạn thoái trào nhưng tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trên phạm vi quốc tế; quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vẫn được khẳng định ở nhiều quốc gia và cổ vũ nhiều nước lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, để bảo vệ thành quả của cách mạng và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá chủ nghĩa xã hội thì việc bảo vệ, kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và đổi mới công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành vấn đề quan trọng, cấp bách về phương diện lý luận và thực tiễn. Đảng cộng sản Việt Nam luôn khẳng định kiên trì và lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Những thành tựu to lớn mà dân tộc Việt Nam đã đạt được trong cuộc đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc, trong hoà bình xây dựng và trong sự nghiệp đổi mới đều có cơ sở khoa học từ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam. Do vậy chúng ta phải vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra. 8
- II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN 1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử a. Chủ nghĩa duy vật biện chứng Theo Ăngghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và tự nhiên , là vấn đề xét xem cái nào có trước, tinh thần hay tự nhiên Tuỳ theo cách trả lời câu hỏi đó, mà các nhà triết học chia thành hai trường phái. Những người nào quả quyết rằng tinh thần có trước tự nhiên và do đó, xét đến cùng, bằng cách này hay cách khác thừa nhận sự sáng tạo ra thế giới , những người ấy hợp thành phe duy tâm chủ nghĩa. Còn những người cho rằng tự nhiên là cái có trước thì thuộc về các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật” 1. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: 1) Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào? 2) Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta cơ sở khoa học để phân biệt thế giới quan (hệ thống các quan niệm về thế giới) của các nhà triết học. Những người cho vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người là các nhà duy vật. Chủ nghĩa duy vật có các môn phái khác nhau như chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại (thuyết Âm – Dương Ngũ hành: kim – mộc – thuỷ - hoả - thổ tương sinh tương khắc hình thành nên vạn vật của phương Đông, thuyết nguyên tử của Đêmôcrit ở phương Tây ), chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII (ví dụ như các nhà triết học:Xpinôda (1632-1677), Giôn Lôccơ (`632-1704) Hônbách (1729-1789), Điđơrô (1713-1784) ), chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa duy vật duy kinh tế, . Chủ nghĩa duy vật thường đại biểu cho các lực lượng tiến bộ, gắn bó với sự phát triển của khoa học tự nhiên và hoạt động thực tiễn của con người. Nó có nhiều hình thức khác nhau nhưng đều thống nhất ở chỗ coi vật chất là cái có trước và quyết định ý thức, đều xuất phát từ chính bản thân thế giới để giải thích thế giới, động viên cổ vũ con người khám phá chinh phục thế giới. Những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà duy tâm. Họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm như chủ nghĩa duy tâm chủ quan (quan niệm thế giới chỉ là phức hợp, tổng hợp cảm giác của con người; đại biểu là các nhà triết học: Gióocgiơ Beccli (1684-1753), Đavit Hium (1711-1766)), chủ nghĩa duy tâm khách quan (quan niệm thế giới là ảnh là bóng của “thế giới ý niệm”, hay là tồn tại khác của “tinh thần thế giới”, tồn tại ngoài con người như những lực lượng siêu nhiên, đại biểu là các nhà triết học như: Platôn (427-347 tr.CN), Hêghen (1770-1831)). Chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện tuyệt đối hoá một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức rất phức tạp của con người, tuyệt đối hoá năng lực sáng tạo của ý thức con người coi nó sản sinh ra thế giới vật chất, và do sự tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân tay, sự thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay, sự tuyên truyền, ủng hộ của các giai cấp thống trị để bảo vệ lợi ích ích kỷ của mình. Chủ nghĩa duy tâm thường gắn liền với các lực lượng bảo thủ, phản tiến bộ và tôn giáo. Những người cho cả vật chất và ý thức song song tồn tại không cái nào quyết định cái nào và đều là nguyên nhân, bản chất của thế giới, được gọi là những nhà nhị nguyên (đại biểu Rơnê Đêcáctơ (1596-1654)). Quan điểm này thực chất là biến tướng của chủ nghĩa duy tâm vì cho rằng ý thức không phụ thuộc vào vật chất. 1 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr.403 9
- Trả lời câu hỏi con người có khả năng nhận thức thế giới được hay không? Những người khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới được gọi là khả tri luận triết học, những người cho rằng con người không có khả năng nhận thức được thế giới được gọi là bất khả tri luận triết học. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ vật chất và ý thức. Triết học Mác – Lênin là triết học duy vật biện chứng. Kế thừa các giá trị đã đạt được trong lịch sử tư tưởng, khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Theo V.I.Lênin: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”1. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học mang tính trừu tượng, khái quát cao. Vật chất nói chung với tư cách là phạm trù triết học bộc lộ sự tồn tại của mình, thông qua sự vật cảm tính. Nói cách khác vật chất bộc lộ sự tồn tại của nó thông qua các hình thức cụ thể của nó như: đất, nước, lửa, không khí, hiểu vật chất thông qua phạm trù đối lập của nó là ý thức – những gì không phải là ý thức tồn tại khách quan là vật chất. Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Vật chất dưới hình thức cụ thể của nó là cái có thể gây ra cảm giác cho con người khi nó tác động đến giác quan của con người, ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, vật chất là cái được ý thức phản ánh; nói cách khác vật chất tồn tại nhưng không kỳ bí, thần bí mà tồn tại bằng cách tác động vào giác quan gây ra cảm giác. Phương thức tồn tại của vật chất là vận động; không gian, thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là não người. Bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người một cách năng động, sáng tạo, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là thế giới khách quan được di chuyển vào não người và cải biến ở trong đó. Theo C.Mác: “ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức”2. Không thể tách rời hoặc đồng nhất ý thức với vật chất. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan, là thực tại chủ quan, là cái thuộc phạm vi chủ quan, không có tính vật chất. Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên: não người và thế giới khách quan; và nguồn gốc xã hội: lao động và ngôn ngữ. Theo quan điểm duy vật biện chứng vật chất quyết định ý thức vì ý thức chỉ là sản phẩm dạng vật chất có tổ chức cao là não bộ người. Ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người. Do đó nó phụ thuộc vào vật chất về nội dung phản ánh, thế giới vật chất biến đổi làm ý thức cũng phải biến đổi theo) tuy nhiên ý thức sau khi đã hình thành có tác động trở lại đối với thế giới vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn ta phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm cơ sở, làm điểm xuất phát cho mọi kế hoạch, mục đích của mình. Đồng thời phải phát huy tính năng động chủ quan, phát huy vai trò tích cực, năng động, sang tạo của ý thức và phát huy vai trò của nhân tố con người trong việc vật chất hoá tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học, tích cực học tập, nghiên cứu và phổ biến nó sâu rộng trong quần chúng nhân dân,hướng dẫn quần chúng hoạt động. 1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.18, tr.151 2 C.Mác và Ph. Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.37. 10
- Chủ nghĩa duy vật của Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện. Ăngghen đã định nghĩa: “phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”1. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở của hai nguyên lý cơ bản: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Đối lập với phép biện chứng, phép siêu hình quan niệm cho rằng thế giới là một tập hợp các sự vật có sẵn, đã được hoàn tất, độc lập và tách rời nhau, không vận động, không phát triển, (tức là quan niệm siêu hình về thế giới). Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét từng sự vật, hiện tượng, xem xét chúng một cách cô lập, tĩnh tại, không vận động, không phát triển, không thừa nhận mâu thuẫn bên trong sự vật với tính cách là nguồn gốc phát triển sự vật. Phương pháp siêu hình rất cần thiết cho con người khi mới bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu sự vật, hiện tượng, phải tách đối tượng ra khỏi các sự vật hiện tượng khác, để sưu tập các tài liệu, dữ kiện của đối tượng. Vì vậy, tri thức về đối tượng là chưa đầy đủ, cần bổ sung hoàn thiện thêm khi xem xét đối tượng trong điều kiện, hoàn cảnh chịu sự tác động, ảnh hưởng của sự vật, hiện tượng khác đúng như nó đang tồn tại trong thực tế. Những sự vật, hiện tượng, những quá trình khác nhau. Giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau do chúng đều là các dạng cụ thể của thế giới vật chất. Những mối liên hệ này mang tính khách quan, không phụ thuộc mong muốn chủ quan của con người, đa dạng và phổ biến. Vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải rút ra quan điểm toàn diện. Với tư cách là phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng về sự vật phải: một là, xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó, hai là xét sự vật trong mối liên hệ qua lại với các sự vật hiện tượng khác; ba là, trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Phải biết phân biệt vị trí vai trò các mối liên hệ: mối liên hệ cơ bản, không cơ bản, mối liên hệ chủ yếu, thứ yếu, mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài để trên cơ sở đó làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng Sự liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau của các mặt đối lập trong sự vật làm cho các sự vật vận động và phát triển. Phát triển là phạm trù dùng để chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật, hiện tượng. Trong hiện thực khách quan, sự phát triển thể hiện hết sức khác nhau. Trong giới vô cơ sự phát triển biểu hiện ở việc xuất hiện các hợp chất phức tạp từ các hợp chất đơn giản, trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở việc tăng cường khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng hoàn thiện hơn. Trong xã hội, sự phát triển thể hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày càng cao của con người, trong tư duy phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng đầy đủ, đúng đắn hơn đối với hiện thực bởi con người. Vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn ta phải có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là, khi xem xét các sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, phát triển, phải phát hiện ra xu hướng biến đổi phát triển của chúng; phải biết phân chia các giai đoạn trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng; chỉ ra phương thức phát triển của nó, phải thấy được tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ 1 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.201 11
- biến. Phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định). Phát triển không chỉ là sự tiến triển dần dần, mà còn bằng những bước nhảy vọt, đột biến (sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất). Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển đó là những mâu thuẫn vốn có bên trong sự vật, hiện tượng quy định. Trong hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của chính sự vật và bằng hành động thực tiễn giải quyết mâu thuẫn. Hơn nữa, sự phát triển biện chứng của sự vật thông qua những sự tích luỹ về lượng mà tạo ra sự thay đổi về chất, thông qua sự phủ định của phủ định điều này đòi hỏi chúng ta phải phát huy nỗ lực của mình trong việc hiện thực hoá hai quá trình trên. Quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chống lại hai thái độ: Một là, tả khuynh nôn nóng, chủ quan, duy ý chí muốn thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng bất chấp quy luật khách quan; hai là hữu khuynh, bảo thủ, trì trệ, thụ động ỷ lại, không thực hiện sự phát triển khi đã hội tụ đủ điều kiện. b. Chủ nghĩa duy vật lịch sử Nghiên cứu sâu hơn và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy, không chỉ nhận thức giới tự nhiên mà nhận thức cả xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học của nhân loại. Chủ nghĩa duy vật trước Mác, là chủ nghĩa duy vật không triệt để, do nó mới chỉ chỉ duy vật trong nhận thức giới tự nhiên nhưng lại duy tâm trong nhận thức xã hội. Nó không nhận thấy và đánh giá đúng vai trò của sản xuất vật chất, của hoạt động thực tiễn con người. Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử sản xuất là một hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người, bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con người. Ba quá trình đó thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Theo Ph.Ăngghen: “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất”1 Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội; là hoạt động nền tảng làm phát sinh phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; là cơ sở của sự hình thành, biến đổi phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt đời sống xã hội, quyết định sự phát triển xã hội từ thấp đến cao. Do đó, để giải thích và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn bản là từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên (lực lượng sản xuất), giữa con người với nhau (quan hệ sản xuất), và cần phải có các nhân tố thuộc về người lao động (như sức khoẻ, thể chất, năng lực, kỹ năng, tri thức ) cùng các tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động: ruộng đất, hầm mỏ, ;công cụ lao động: máy móc, búa, cày bừa ; công cụ phụ trợ: kho tàng, cảng, ).và hình thức xã hội để gắn kết các yếu tố đó. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ của con người với tự nhiên, biểu hiện năng lực chinh phục tự nhiên của con người, bao gồm người lao động với kỹ năng, kỷ luật lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, lao động 1 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.34, tr.241 12
- của người lao động và tư liệu sản xuất kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất, trong đó “lực 1 lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất bao gồm: các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, các quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất; các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã vạch ra quy luật căn bản nhất tác động chi phối sự vận động và phát triển của toàn bộ lịch sử xã hội - quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quan điểm, tư tưởng, tình cảm, các thiết chế chính trị đều là kiến trúc thượng tầng, xây dựng trên một cơ sở kinh tế nhất định và phù hợp với cơ sở kinh tế ấy. Những chính thể chính trị mặc dù khác nhau đều được dùng để củng cố địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội. Từ đó Mác vạch rõ cấu trúc của xã hội thông qua sự trừu tượng hoá các quan hệ xã hội để tách ra những quan hệ sản xuất, chỉ rõ sự phụ thuộc của quan hệ sản xuất vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực; phân tích mối quan hệ đó với những quan hệ xã hội khác, những quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng chính trị - xã hội. Đó là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng, cấu trúc xã hội đó được gọi là hình thái kinh tế xã hội. Hình thái kinh tế xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Lịch sử xã hội loài người đã ghi nhận và chứng kiến 5 kiểu hình thái kinh tế - xã hội. Đó là: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa – cộng sản chủ nghĩa. Sự thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao là kết quả việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, của các cuộc đấu tranh giai cấp với đỉnh cao là các cuộc cách mạng xã hội do các giai cấp đại biểu cho các quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ mới của lực lượng sản xuất thực hiện trong tiến trình lịch sử. c. Ý nghĩa phương pháp luận Sự ra đời triết học Mác - Lênin đã tạo nên sự biến đổi có tính chất cách mạng trong lịch sử tư tưởng nhân loại. C. Mác và Ph. Ăng ghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triệt để, thực hiện sự thống nhất không thể chia cắt giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng, đưa chủ nghĩa duy vật trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, là công cụ vĩ đại của mọi hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. V.I.Lênin đánh giá “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”2. Sự ra đời của triết học Mác đã làm thay đổi vai trò của triết học trong đời sống xã hội, trở thành công cụ không chỉ để nhận thức thế giới mà còn để cải tạo thế giới Triết học Mác – Lênin là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng, giai cấp công nhân, quần chúng nhân dân lao động có được hệ tư tưởng riêng của mình. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào chuyển từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác. Đồng thời thông qua thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân, những nhà 1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát xcơva, 1977, t.38, tr.430. 2 V.I.Lênin: toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1980, t.23, tr.53 13
- sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng không ngừng bổ sung, hoàn thiện học thuyết của mình làm cho nó vừa mang tính cách mạng sâu sắc, vừa mang tính khoa học. Học tập, nghiên cứu triết học Mác – Lênin giúp chúng ta hình thành thế giới quan khoa học trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, tránh tự phát chịu ảnh hưởng của các loại hình thế giới quan duy tâm, phản động, lạc hậu của các giai cấp bóc lột. Triết học Mác – Lênin góp phần xây dựng và rèn luyện tư duy lý luận và phương pháp biện chứng duy vật – phương pháp luận chung nhất để tiếp thu có hiệu quả những tri thức khoa học của nhân loại nói chung, tri thức nghề nghiệp nói riêng. Triết học Mác – Lênin cũng góp phần hình thành nhân sinh quan đúng đắn, giúp chúng ta có lối sống lành mạnh, có niềm tin, lý tưởng và hoài bão đúng đắn. Trên cơ sở nắm vững tri thức triết học, chúng ta mới có thể học tập tốt các học thuyết của chủ nghĩa Mác về kinh tế và xã hội. 2. Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa a. Mục đích của học thuyết C. Mác đã viết trong lời tựa cho bộ “Tư bản”: Mục đích cuối cùng của bộ sách này là phát hiện ra quy luật kinh tế của sự vận động của xã hội hiện đại (tức là xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội tư sản). Ông đã phân tích một cách khoa học, sâu sắc chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa phát hiện nguồn gốc giá trị thặng dư, vạch rõ cơ chế, phương thức bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản, các hình thái chuyển hoá của giá trị thặng dư trên thực tế như lợi nhuận, lợi nhuận bình quân, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô tư bản chủ nghĩa, vận dụng phương pháp biện chứng duy vật vào nghiên cứu các quá trình kinh tế xã hội; chỉ ra sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để chứng minh một cách khoa học các mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản. Chứng minh một cách khoa học cơ sở của chủ nghĩa tư bản là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Vạch rõ thực chất của mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Mác đã nêu lên những mặt tiến bộ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, đồng thời cũng vạch ra các khuyết tật, căn bệnh không thể khắc phục của nó như: sản xuất vô chính phủ, khủng hoảng kinh tế chu kỳ, nạn thất nghiệp kinh niên, khẳng định sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thay thế tất yếu bởi một phương thức sản xuất mới, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ biểu hiện lập trường và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn là vũ khí tư tưởng mạnh mẽ của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm giải phóng mình khỏi ách áp bức của chủ nghĩa tư bản. b. Nội dung cơ bản của học thuyết Đó là, nghiên cứu sự phát sinh, phát triển và diệt vong của những quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định trong lịch sử và tập trung vào phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ chủ nghĩa tư bản là một hiện tượng đang phát triển, là một phương thức sản xuất có tính chất nhất thời về mặt lịch sử mà những biến đổi về lượng của nó chuẩn bị những tiền đề của những biến đổi căn bản về chất cho bước nháy sang một phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. - Học thuyết giá trị Cái đang thống trị trong xã hội tư bản chủ nghĩa đó là sản xuất hàng hoá; cho nên sự phân tích của C. Mác bắt đầu từ việc phân tích hàng hoá. Bằng việc phân tích hàng hoá, Mác vạch ra quan hệ giữa người với người thông qua quan hệ giữa vật với vật ( trao đổi hàng hoá), đó chính là lao động – cơ sở của giá trị hàng hoá. Đây là trọng tâm của học thuyết giá trị, lý luận nền tảng của học thuyết kinh tế của chủ 14
- nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở của lý luận này, Mác xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư - hòn đá tảng trong toàn bộ lý luận kinh tế của ông. Tiếp tục phát triển lý luận của Mác trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới, V.I.Lênin đã đưa ra học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. đây cũng là ba nội dung chủ yếu của học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hàng hoá là sản phẩm của lao động, dùng để thoả mãn một nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi mua bán. Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản: giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ: cơm để ăn, áo để mặc, máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu để sản xuất, Một vật phẩm có thể có nhiều công dụng khác nhau, nó được phát hiện dần trong quá trình phát triển của khoa học – công nghệ. Giá trị sử dụng là nội dung vật chất của của cải. Giá trị của hàng hoá được hiểu thông qua giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi trước hết là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó các giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ: 1m vải = 10kg thóc. Vải và thóc là những hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau, nhưng có thể trao đổi được với nhau vì chúng đều là sản phẩm của lao động, để sản xuất ra chúng, người sản xuất hàng hoá đều phải hao phí lao động. Để chúng có thể trao đổi được với nhau thì lượng lao động tạo ra 1m vải phải ngang với lượng lao động tạo ra 10 kg thóc. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hoá là cơ sở chung của việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hoá. Vậy, giá trị của hàng hoá là lượng lao động xã hội cần thiết của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Sở dĩ giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, vì một loại hàng hoá đưa ra thị trường là do nhiều người sản xuất ra nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá của họ khác nhau, do đó lượng giá trị cá biệt của hàng hoá mà từng người sản xuất ra là khác nhau. Để trao đổi hàng hoá đó với nhau, không thể căn cứ vào giá trị cá biệt của hàng hoá mà phải căn cứ vào giá trị xã hội của nó, vào lượng lao động xã hội cần thiết hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Thời gian lao động xã hội cần thiết không phải là đại lượng cố định, nó phụ thuộc vào năng suất lao động xã hội và chất lượng của lao động. Năng suất lao động xã hội là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với thời gian lao động xã hội để sản xuất ra hàng hoá hay tỷ lệ nghịch với giá trị của hàng hoá. Chất lượng của lao động hay mức độ phức tạp của lao động tỷ lệ thuận với giá trị của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động của bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được huấn luyện đào tạo thành lao động lành nghề. Ví dụ trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo ra nhiều giá trị hơn một người rửa bát. Bởi vì lao động của người rửa bát là lao động giản đơn, bất kỳ người nào có 15
- sức lao động đều thực hiện được, còn lao động của người thợ sửa chữa đồng hồ là lao động phức tạp đòi hỏi phải có sự đào tạo, thời gian huấn luyện tay nghề Việc sản xuất và trao đổi hàng hoá thể hiện sự liên hệ giữa những người sản xuất riêng lẻ với nhau, do thị trường làm trung gian. Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu sẽ dẫn đến sự xuất hiện của tiền tệ. Tiền là sản phẩm của lưu thông hàng hoá, bắt đầu từ những hành vi trao đổi riêng lẻ ngẫu nhiên (một số lượng nhất định hàng hoá này lấy một số lượng nhất định của một hàng hoá khác), đến hình thái giá trị mở rộng hay đầy đủ, đến hình thái chung của giá trị, và cuối cùng đến hình thái tiền tệ của giá trị. Sản xuất hàng hoá phát triển đến một mức độ nhất định thì tiền biến thành tư bản. Trong thế giới hàng hoá xuất hiện một loại hàng hoá đặc biệt, hàng hoá sức lao động. Khi sức lao động trở thành hàng hoá thì tiền tệ mang hình thái là tư bản và gắn liền với nó là quan hệ sản xuất mới: quan hệ giữa nhà tư bản và lao động làm thuê. Bản chất của mối quan hệ này là nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư của người công nhân làm thuê. Chiếm đoạt giá trị thặng dư là nguồn gốc làm nên sự giàu có của các chủ tư bản. - Học thuyết giá trị thặng dư Trên thị trường, tư bản được biểu hiện trước hết bằng một số tiền nhất định, mặc dù không phải lúc nào tiền cũng là tư bản. Với tính cách là tiền trong lưu thông hàng hoá giản đơn, tiền vận động theo công thức: H-T-H; còn với tư cách là tư bản, tiền vận động theo công thức T-H-T’. Mối liên hệ ấy tiếp tục phát triển hơn nữa: sức lao động của con người trở thành hàng hoá. Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất hàng hoá. Sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có hai điều kiện: một là, người có sức lao động hoàn toàn tự do về thân thể có toàn quyền bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định; hai là, người có sức lao động bị tước đoạt mọi tư liệu sản xuất để sống anh ta buộc phải bán sức lao động của mình. Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị hàng hoá sức lao động là toàn bộ những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động bao gồm: giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đủ để duy trì sức lao động của người công nhân ở trạng thái bình thường; chi phí đào tạo tuỳ theo tính chất phức tạp của lao động; giá trị tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế, tức con cái của công nhân. Tiền công hay tiền lương là sự biểu thị bằng tiền giá trị sức lao động, hoặc là giá cả của sức lao động. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động để sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Trên thực tế, giá trị của hàng hoá sức lao động biểu hiện bằng tiền công, tiền lương của người công nhân làm thuê do người chủ tư bản trả. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động biểu hiện người công nhân chỉ cần dùng một phần ngày lao động để sản xuất ra một khố lượng hàng hoá ngang bằng với chi phí nuôi bản thân và nuôi gia đình mình (tiền công), phần còn lại thì làm không công, tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản, đó là nguồn gốc lợi nhuận, nguồn gốc giàu có của chủ tư bản. Đó cũng là nội dung căn bản nhất của học thuyết giá trị thặng dư – hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác. Ví dụ: Một nhà tư bản sản xuất sợi, để sản xuất 10kg sợi cần 10kg bông và giá của 10kg bông là 10$. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6giờ và hao mòn máy móc là 2$, giá trị sức lao động trong một ngày theo đúng giá trị trên thị trường là 16
- 3$; trong 1giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5$, giả sử quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết. Nếu nhà tư bản chỉ bắt người công nhân lao động trong 6 giờ, thì nhà tư bản ứng ra 15$ và thu về 10kg sợi có giá trị cũng là 15$. Như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đủ để bù đắp lại giá trị sức lao động ( 6giờ), thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, và đó không phải là mục đích của nhà tư bản. Nhưng nhà tư bản mua sức lao động trong 1 ngày. Sau khi mua quyền sử dụng hàng hoá sức lao động đó thuộc về nhà tư bản. Vì vậy, nhà tư bản bắt công nhân làm việc 12giờ trong một ngày. Khi đó, nhà tư bản bỏ ra 20$ tiền bông, 4$ hao mòn máy móc, 3$ tiền mua sức lao động trong 1ngày, và thu về 20kg sợi có giá trị là 30$. Như vậy nhà tư bản chỉ bỏ ra tổng cộng 27$, nhưng đã thu về 30$, đem lại một giá trị thặng dư là 3$. Đây mới là quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hoá thành tư bản, nhà tư bản theo đuổi và thực hiện được mục đích đề ra của mình. Như vậy, tư bản không phải là vật, là tiền mặc dù hình thức biểu hiện ban đầu của nó là một lượng tiền nhất định, mà là một quan hệ sản xuất xã hội. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột người công nhân làm thuê. Sở dĩ tư bản có thể làm được điều này là do người công nhân không có công cụ, phương tiện để vật hoá lao động của mình. Để sống, để tồn tại, người công nhân buộc phải bán sức lao động của mình. Sau khi mua sức lao động theo đúng giá trị của nó, nhà tư bản có quyền sử dụng hàng hoá sức lao động này. Trong ví dụ trên, khi sử dụng hàng hoá sức lao động, nó tạo ra lượng giá trị mới (6$) lớn hơn giá trị của bản thân nó (3$). Bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt lao động không công, giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra. Để chiếm đoạt ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản không từ bất kỳ thủ đoạn, biện pháp như: kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, giảm tiền công, (sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối); giảm giá trị của hàng hoá sức lao động bằng cách áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động xã hội (sản xuất giá trị thặng dư tương đối). Tư bản, do lao động không công của người công nhân tạo ra, lại trở thành phương tiện bóc lột người công nhân, thông qua quá trình chuyển hoá một phần giá trị thặng dư thành tư bản hay tư bản hoá một bộ phận giá trị thặng dư. Trong công nghiệp do ưu thế của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa với trình độ khoa học - kỹ thuật ngày càng hiện đại, năng suất lao động ngày càng cao đã làm phá sản các tiểu chủ, những người sản xuất hàng hoá nhỏ; trong nông nghiệp ưu thế của nền sản xuất nông nghiệp tư bản chủ nghĩa với việc dùng máy móc, chuyên môn, chuyên canh hoá sản xuất, làm kinh tế sản xuất nhỏ của nông dân bị suy tàn, phá sản. Cùng với quá trình bị tước đoạt tư liệu sản xuất, nông dân trở thành những người vô sản hay buộc họ phải tham gia vào đội ngũ những người làm thuê. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tự do cạnh tranh đòi hỏi việc ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất phổ biến hơn làm tăng năng suất lao động, tăng quy mô giá trị thặng dư, mở rộng khả năng tích luỹ tư bản, thủ tiêu sản xuất nhỏ, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn, hình thành những công ty độc quyền của các nhà đại tư bản. Với việc hình thành các công ty tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đã làm hàng triệu công nhân gắn bó, liên hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất, nhưng sản phẩm của lao động chung thì do một số ít nhà tư bản chiếm hữu. Tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng cao mâu thuẫn gay gắt với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. 17
- Sự cạnh tranh gay gắt trong sản xuất, chạy đua tìm thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường nguyên liệu là nguyên nhân của những cuộc khủng hoảng kinh tế với quy mô ngày càng lớn ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội, đến đời sống của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Các hoạt động đấu tranh chống giai cấp tư sản, chống chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất tất yếu sẽ bùng nổ. Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết giá trị thặng dư Học thuyết giá trị thặng dư là biểu hiện mẫu mực về vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào sự phân tích các quá trình kinh tế trong xã hội tư bản. Nó làm sâu sắc hơn những tri thức về sự vận động của các quan hệ hàng hoá và quan hệ người với người người, về quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, về thực chất quan hệ kinh tế giữa các giai cấp của xã hội tư bản. Nó cung cấp tri thức về lịch sử phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa, là cơ sở khoa học để phân tích nguyên nhân và dự báo chiều hướng phát triển kinh tế và xã hội. Trên cơ sở nhận thức khoa học về quy luật sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy định mục đích, động cơ vận động và phát triển của toàn bộ xã hội tư bản, học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác đã góp phần đắc lực xây dựng thế giới quan cách mạng và niềm tin sâu sắc vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm xoá bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột, xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa Học thuyết giá trị thặng dư đã bóc trần mọi bí mật của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó không chỉ chứng minh một cách khoa học toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê, mà còn chỉ rõ cách thức bóc lột của giai cấp tư sản. Nó luận chứng một cách thuyết phục những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản và sự phát triển ngày càng sâu sắc của những mâu thuẫn này, nhất là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, chứng minh sự sụp đổ tất yếu của phương thức sản xuất này, mặc dù ngày nay nó đã có nhiều sự điều chỉnh, theo quy luật: “những kẻ đi tước đoạt, sẽ bị tước đoạt”. Học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác đã trang bị cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động công cụ nhận thức các quy luật kinh tế để thực hiện nhiệm vụ cải tạo thế giới, là cơ sở khoa học để đề ra đường lối, chính sách kinh tế tác động vào hoạt động kinh tế và cũng là cơ sở để nhận thức sâu sắc đường lối, chính sách kinh tế trong công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. - Học thuyết về chủ nghĩa độc quyền nhà nước Đầu thế kỉ XX, khoa học, kỹ thuật phát triển dẫn đến sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền với 5 đặc điểm cơ bản: Một là, sự tập trung sản xuất và tư bản hình thành các tổ chức độc quyền. Quá trình thay thế các xí nghiệp nhỏ, phân tán bằng cách xí nghiệp lớn có vốn tư bản lớn, đông công nhân và làm ra một khối lượng sản phẩm lớn. Sự tích tụ và tập trung tư bản đã dẫn tới sự tích tụ và tập trung sản xuất, đến một mức độ nhất định sẽ hình thành các tổ chức độc quyền. Liên minh giữa các nhà tư bản để nắm phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm thu lợi nhuận cao. Hai là, tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính Đồng thời với sự tích tụ và tập trung sản xuất công nghiệp, trong ngân hàng cũng có tích tụ và tập trung tư bản, hình thành nên các ngân hàng lớn cạnh tranh với nhau, ra đời các tổ chức độc quyền ngân hàng. Do nắm được lượng tư bản tiền tệ lớn, các ngân hàng có khả năng chi phối nhiều hoạt động kinh tế - xã hội. 18
- Tư bản tài chính là loại tư bản được hình thành trên cơ sở xâm nhập lẫn nhau giữa tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng. Tư bản ngân hàng đã tham gia vào các tổ chức độc quyền sản xuất công nghiệp để theo dõi việc sử dụng vốn vay. Để hạn chế sự chi phối của ngân hàng, các nhà tư bản công nghiệp cũng can thiệp vào hoạt động của tư bản ngân hàng bằng cách mua cổ phiếu hoặc thành lập ngân hàng cho riêng mình. Hai quá trình thâm nhập ấy gắn kết với nhau, làm cho tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng dần trở nên thống nhất, hình thành nên tư bản tài chính. Các nhóm tư bản tài chính có tiềm lực đủ mạnh trở thành các đầu sỏ tài chính, thực hiện thao túng đời sống kinh tê- chính trị ở các nước tư bản. Ba là, xuất khẩu tư bản là thủ đoạn để các nước tư bản tiến hành bóc lột các nước chậm phát triển thông qua trao đổi không ngang giá. Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhưng tiến hành dưới hình thức đầu tư tiền ra nước ngoài để bóc lột giá trị thặng dư và một số nguồn lợi khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Bốn là, sự phân chia thế giới về kinh tế. Khi lượng hàng hoá sản xuất tăng, nảy sinh nhu cầu thị trường và nguyên liệu ngoài nước. Mặt khác, hàng hoá bán ở nước ngoài thu được lợi nhuận lớn hơn so với hàng hoá bán trong nước nên giữa các nước đế quốc diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt để giành thị trường thế giới. Những thoả thuận có tính chất lũng đoạn giữa các tổ chức độc quyền trong việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá, tạo nên những tổ chức độc quyền quốc tế. Liên minh giữa các tổ chức độc quyền lớn của các nước để phân chia thị trường thế giới, độc chiếm nguồn nguyên liệu, quy định quy mô sản xuất, định ra giá cả độc quyền nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao. Năm là, sự phân chia thế giới về lãnh thổ là hệ quả tất yếu của sự phân chia thế giới về kinh tế, biểu hiện ở việc các nước đế quốc xâm chiếm và thuộc địa hoá những nước chậm phát triển hòng độc chiếm nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ hàng hoá và địa điểm lập căn cứ quân sự. Quá trình phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản ở các nước diễn ra không đều diễn ra sự tranh chấp để phân chia lại thị trường thế giới. Phương pháp phổ biến là chiến tranh. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí, sang tự động hoá, tin học hoá và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người. Ý nghĩa sự xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền Chủ nghĩa tư bản độc quyền thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển đạt tới mức điển hình trong lịch sử, quá trình xã hội hoá sản xuất phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập trung với quy mô hợp lý, chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác lao động, mối liên hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ Quá trình sản xuất được liên kết và phụ thuộc lẫn nhau thành hệ thống. Ngoài ra nó góp phần xây dựng tác phong công nghiệp, làm thay đổi nề nếp thói quen của người lao động sản xuất nhỏ, hoàn thiện hơn một bước nền dân chủ tư sản so với trước. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản độc quyền gắn với quá trình bóc lột chiếm lợi nhuận cao; bản chất bóc lột thể hiện rõ dưới nhiều hình thức. Các mâu thuẫn xã hội vốn có trong xã hội tư bản không những không khắc phục nổi mà càng gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển cao với chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng lớn lên về quy mô và phạm vi. Nguy cơ cạnh trạnh, xung đột và chiến tranh, mất ổn định vẫn luôn đe doạ. 19
- 3. Lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin a. Giai cấp công nhân C. Mác và Ph. Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm giai cấp công nhân như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp, Mặc dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa giai cấp công nhân có hai đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng có trình độ xã hội hoá cao. Đây là đặc trưng cơ bản để phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong công trường thủ công. Giai cấp công nhân có một quá trình phát triển từ những người thợ thủ công thời kỳ trung cổ đến những người thợ trong công trường thủ công và cuối cùng đến những người công nhân trong công nghiệp hiện đại. “Trong công trường thủ công và trong nghề nghiệp thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục vụ máy móc”.1 Trong xã hội tư bản, nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển, máy móc ngày càng nhiều, sản xuất ngày càng có năng suất cao, làm cho những người thợ thủ công bị phá sản, những người nông dân mất việc làm buộc phải gia nhập vào hàng ngũ công nhân. Mác phân tích quá trình sản xuất trong xã hội tư bản đã rút ra kết luận: “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”2; ”công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”3 Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công nhân không có tư liệu sản xuất, họ phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống, đây là đặc trưng khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp vô sản, giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen chỉ rõ: “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ có thể kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản – cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hoá, tức là một món hàng đêm bán như bất cứ món hàng nào khác, vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau”4 Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph. Ăngghen đã đưa ra định nghĩa: “Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải kiếm sống bằng lợi nhuận của bất cứ tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc 1 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.23, tr. 605. 2 Sdd, t.4, tr.610 3 Sdd, t.12, tr.11. 4 C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.4, tr.605. 20
- vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của những cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX”1. Phát triển học thuyết của Mác và Ăngghen trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xôviết, V.I.Lênin đã hoàn thiện thêm khái niệm giai cấp công nhân. Trong các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, về cơ bản giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ những tư liệu sản xuất của xã hội. Địa vị kinh tế và chính trị của họ đã có những sự thay đổi căn bản. Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ từ nửa sau thế kỷ XX, giai cấp công nhân hiện đại đã có một số thay đổi nhất định so với trước đây. Xét về phương thức lao động, nếu lao động của người công nhân trong thế kỷ XIX chủ yếu là lao động cơ khí, lao động chân tay, thì nay đã xuất hiện một bộ phận công nhân của những ngành ứng dụng công nghệ ở trình độ phát triển cao, do vậy công nhân có trình độ tri thức ngày càng cao. Về phương diện đời sống, công nhân ở các nước tư bản phát triển đã có những thay đổi quan trọng: một bộ phận công nhân đã có một số tư liệu sản xuất nhỏ để cùng với gia đình gia công các công đoạn phụ cho các xí nghiệp, một bộ phận nhỏ công nhân đã có cổ phần trong các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trên thực tế số cổ phần và tư liệu sản xuất của giai cấp công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, còn tuyệt đai bộ phận tư liệu sản xuất trong các nước tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay các nhà tư bản. Giai cấp công nhân về cơ bản vẫn phải bán sức lao động cho các nhà tư bản. Như vậy, chúng ta có thể hiểu: giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính xã hội hoá ngày càng cao, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ. b. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong tiến trình phát triển của lịch sử từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, bao giờ cũng phải có một giai cấp đóng vai trò thực hiện nhiệm vụ lịch sử đó. Ví dụ, giai cấp tư sản đóng vai trò chuyển từ hình thái kinh tế xã hội phong kiến sang hình thái kinh tế xã hội tư bản. Đó chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp. C.Mác và Ph. Ăngghen đã tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, chỉ ra con đường và những biện pháp cần thiết để giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. V.I.Lênin cho rằng: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”2. Đó là do giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương thức sản xuất tương lai. Khi sản xuất đại công nghiệp ngày càng mở rộng và phát triển làm tất cả các giai cấp khác trong xã hội suy tàn và tiêu vong, thì giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền sản xuất ấy cũng không ngừng phát triển cả về số lượng lẫn 1 C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia , Hà Nội, t.4, tr. 456. 2 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1980, t.23, tr.1. 21
- chất lượng (nhằm đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại), bởi sự bổ sung từ tất cả các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Giai cấp công nhân hoàn toàn không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, là người lao động làm thuê, phải chịu sự may rủi, lên xuống của thị trường, phải làm tăng tư bản, vì vậy trong xã hội tư bản giai cấp công nhân có lợi ích căn bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Lợi ích căn bản của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, giành lấy chính quyền vào tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, sử dụng chính quyền đó để tổ chức xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa không còn tình trạng áp bức bóc lột. Lợi ích này của giai cấp công nhân không mâu thuẫn với lợi ích của quần chúng lao động tạo khả năng cho giai cấp công nhân có thể đoàn kết với các tầng lớp các giai cấp lao động khác trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội. Nền đại sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển, quy mô sản xuất ngày càng lớn, sự phụ thuộc lẫn nhau trong qua trình sản xuất ngày càng nhiều tạo điều kiện cho giai cấp công nhân sống tập trung, dễ dàng đoàn kết chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Những đặc điểm trên đã tạo cho giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần quốc tế vô sản. Chính vì vậy, trong tác phẩm Chống Đuyrinh, khi nói về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, Ph. Ăngghen khẳng định: “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực lượng bị buộc phải hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu không thì sẽ bị diệt vong” và “thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”1. Theo quan điểm của Mác và Ph. Ăngghen việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ nhất: “Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu nhà nước” 2 Bước thứ hai: “ giai cấp vô sản cũng tự thủ tiêu với tư cách là giai cấp vô sản, chính vì thế mà nó xoá bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp” 3. Hai bước này gắn bó chặt chẽ với nhau: giai cấp công nhân không thực hiện được bước thứ nhất thì cũng không thực hiện được bước thứ hai, nhưng bước thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất định phải thực hiện liên minh được các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng xoá bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt: kinh tế, chính trị và văn hoá, tư tưởng. Đó là một quá trình lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn. Để thực hiện được những nhiệm vụ to lớn kể trên giai cấp công nhân phải thành lập được chính đảng của mình, một Đảng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhân tố giữ vai trò quyết định đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, đó chính là Đảng Cộng sản. Trong thực tế lịch sử, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản diễn ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, theo quy luật ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh. Phong trào đấu tranh của công nhân từ tự phát sẽ đạt đến trình độ tự giác, từ đấu tranh kinh tế dẫn đến đấu tranh chính trị và tư tưởng, với các hình thức từ bãi công, biểu tình đến đấu tranh nghị trường, khởi nghĩa vũ trang, từ đó hình thành các tổ chức của giai cấp công nhân như: công đoàn, các đảng chính trị xã hội Trong quá trình đấu tranh cách mạng 1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr 388-389, 393 2 C.Mác và Ph. Ăngghen: toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr. 389 3S dd 22
- tất yếu sẽ đưa giai cấp công nhân đến với lý luận khoa học - chủ nghĩa Mác - Lênin và tổ chức được chính Đảng Cộng sản của mình. Khi Đảng Cộng sản ra đời, thông qua sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân nhận thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, hiểu được con đường, biện pháp đấu tranh cách mạng, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao động, thực hiện lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp mình, giải phóng toàn xã hội. Để thực hiện được nhiệm vụ lãnh đạo của mình, Đảng Cộng sản phải luôn luôn chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ chức, vững mạnh về chính trị, không ngừng nâng cao về trí tuệ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. c. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và tiến trình ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa - Cách mạng xã hội chủ nghĩa Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa là những biến đổi mang tính bước ngoặt về chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời, lạc hậu bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản – nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, sử dụng nó để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt- xã hội xã hội chủ nghĩa. Nguyên nhân của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đó là do mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá cao với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với biểu hiện trực tiếp là các cuộc khủng hoảng kinh tế trong xã hội tư bản. Khủng hoảng kinh tế buộc các xí nghiệp phải ngừng sản xuất, sa thải công nhân. Giai cấp công nhân chỉ sống bằng việc bán được sức lao động cho nhà tư bản, do vậy khi sản xuất đình trệ, công nhân không có việc làm bị dồn đến bước đường cùng, để sống họ buộc phải đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Tuy nhiên cách mạng xã hội chủ nghĩa không tự diễn ra mà nó chỉ diễn ra khi giai cấp công nhân nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, tập hợp quần chúng nhân dân lao động đứng lên xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa khi có thời cơ cách mạng. Để thực hiện thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân phải động viên, thu hút sự tham gia đông đảo quần chúng nhân dân lao động trong suốt tiến trình cách mạng. Trong cuộc cách mạng ấy, giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo cách mạng, vừa là lực lượng động lực cơ bản của nó vừa là nhân tố quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp này trở thành một động lực to lớn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện và duy trì khối liên minh công – nông là điều kiện cơ bản để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn lịch sử, Mác, Ăngghen đã rút ra kết luận giai cấp công nhân không thể tiến lên được một bước nào và không thể đụng đến một sợi tóc nào của chế độ tư sản khi không có liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác (tiểu tư sản, tiểu chủ, trí thức). V.I.Lênin cho rằng nếu không thực hiện liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác thì giai cấp công nhân không thể giữ vững được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước của mình. Mục tiêu cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xây dựng xã hội không còn giai cấp, không còn nhà nước cũng chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở xây dựng khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. 23
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. - Trên lĩnh vực chính trị: Khi có thời cơ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân cùng quần chúng nhân dân lao động đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp bóc lột giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động; đưa người lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê lên địa vị làm chủ xã hội. Động viên thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý xã hội, xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật, cơ chế, biện pháp để quần chúng tích cực, chủ động xây dựng chính trị của xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. - Trên lĩnh vực kinh tế: Đây là nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, cải thiện đời sống nhân dân (vì cách mạng xã hội chủ nghĩa là phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội tư bản, trong đó quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đang kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất). Phải thay đổi vị trí vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất chủ yếu, thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất với những hình thức thích hợp, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động với thước đo là hiệu quả công việc và tăng năng suất lao động. - Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá: Quần chúng nhân dân là những người sáng tạo ra giá trị vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là người hưởng thụ những thành quả văn hoá, tinh thần của xã hội. Trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hoá tiên tiến của thời đại, kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần thông qua việc xây dựng thế giới quan nhân sinh quan mới cho người lao động, hình thành đội ngũ tí thức của xã hội mới. - Tiến trình ra đời và phát triển của hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa: Theo quan điểm duy vật lịch sử: quá trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa tất yếu thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là do trong chủ nghĩa tư bản, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trình độ xã hội hoá ngày càng cao thì càng mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này biểu hiện trên thực tế xã hội là các cuộc khủng hoảng kinh tế làm mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản ngày càng trở nên quyết liệt. Đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và ngày càng sâu sắc. Qua thực tiễn đấu tranh, giai cấp công nhân nhận thức được muốn giành thắng lợi, phải tiếp thu chủ nghĩa xã hội khoa học, phải tổ chức được chính đảng của giai cấp mình. Khi Đảng Cộng sản ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân cùng quần chúng nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, thiết lập Nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Việc thiết lập bộ máy Nhà nước của giai cấp vô sản và nhân dân lao động là sự mở đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là do những điều kiện khách quan và kết quả của những hoạt động tự giác của giai cấp công nhân, vì chế độ tư bản chủ nghĩa không tự sụp đổ mặc dù chủ nghĩa tư bản đã lỗi thời, nhưng giai cấp tư sản vẫn tìm mọi biện pháp bảo vệ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. 24
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp lên cao qua các giai đoạn: 1) “Những cơn đau đẻ kéo dài” (thời kỳ quá độ); 2) Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa; 3) Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa - Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội: Để chuyển biến xã hội từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ, đó chính là thời kỳ quá độ. Đó là do: Sự khác biệt về chất giữa hai xã hội: chủ nghĩa tư bản dựa trên chế độ áp bức bóc lột còn chủ nghĩa xã hội không còn áp bức bóc lột, không còn đối kháng giai cấp. Muốn có xã hội như vậy cần có thời kỳ lịch sử nhất định để cải tạo xã hội tư bản, từng bước xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội dựa trên nền sản xuất phát triển cao, cần phải có thời gian để cải tạo và tiếp tục phát triển nền sản sản xuất đã có ở chủ nghĩa tư bản. Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự nảy sinh và phát triển trong lòng xã hội tư bản, chúng là kết quả của quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và cần phải có thời gian cho các quan hệ đó trở thành các quan hệ cơ bản, đặc trưng của xã hội mới. Lãnh đạo, xây dựng xã hội mới là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp đối với giai cấp công nhân, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm quen và thực hiện tốt công việc này. Thời gian để thực hiện thời kỳ quá độ ở các nước khác nhau là khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, điều kiện và hoàn cảnh quốc tế Đặc điểm của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại đan xen những yếu tố của xã hội cũ và những nhân tố của xã hội mới vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Như về kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa đấu tranh gay gắt với nhau; về chính trị trong xã hội còn nhiều giai cấp, các giai cấp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau; về tư tưởng văn hoá cũng tồn tại nhiều loại hình như: tư tưởng của các giai cấp bóc lột (tư sản, phong kiến), tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, các yếu tố văn hoá cũ và mới, tồn tại đan xen ảnh hưởng và gây cản trở cho quá trình đưa chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành nền tảng tư tưởng của xã hội. Thực chất của thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai cấp thống trị và các lực lượng chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động - Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Trong lĩnh vực kinh tế: thực hiện sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội, tôn trọng và vận dụng các quy luật phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ thúc đẩy sự phát triển của các lực lượng sản xuất xã hội, tiến hành công nghiệp hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội với những bước đi hình thức thích hợp. Đồng thời từng bước cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cơ sở của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thực hiện mục tiêu mỗi bước phát triển kinh tế là mỗi bước nâng cao đời sống vật chất của quần chúng nhân dân lao động, thể hiện tính ưu việt của xã hội mới. Trong lĩnh vực chính trị: tiến hành đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các thế lực phản động, thù địch; xây dựng củng cố Nhà nước của giai cấp vô sản, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch vững 25
- mạnh, ngang tầm nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử; đấu tranh chống mọi biểu hiện coi thường kỷ cương, luật pháp, tự do vô chính phủ, xâm hại quyền làm chủ của nhân dân. Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hoá: tuyên truyền, phổ biến tư tưởng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm lý ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, kế thừa tinh hoa văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc giá trị văn hoá nhân loại. Trong lĩnh vực xã hội: khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội; từng bước xây dựng các quan hệ tốt đẹp giữa người và người theo mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. - Xã hội xã hội chủ nghĩa: Đây là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, là một xã hội có những đặc trưng: Cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp được xây dựng trên cơ sở nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, có trình độ cao hơn nhiều so với nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, tạo ra năng suất lao động cao hơn hẳn năng suất lao động trong xã hội tư bản. Xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Ở thời kỳ này, xã hội có hai hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, người lao động làm củ các tư liệu sản xuất, xã hội không còn tình trạng người bóc lột người. Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội tạo ra được cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới: có kế hoạch, trên tinh thần tự giác, tự nguyện. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong phân phối của xã hội xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội số sản phẩm có giá trị tương đương với số lượng, chất lượng, hiệu quả lao động mà họ đã tạo ra cho xã hội, sau khi đã trừ đi những khoản đống góp chung cho xã hội. Ngoài ra họ còn được phân phối theo phúc lợi xã hội. Nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là Nhà nước của giai cấp vô sản, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là cơ quan bảo vệ quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thực hiện trấn áp đối với các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân. Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Đó là do đến chủ nghĩa xã hội đã thực hiện được xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, xoá bỏ đối kháng giai cấp, tạo ra những điều kiện bình đẳng về kinh tế cho phát triển năng lực cá nhân, tạo ra những điều kiện thuận lợi để các cá nhân đem tài năng cá nhân của mình đống góp cho xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng nêu xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.”1 - Giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. 1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Cính trị quốc gia, Hà Nội,2011, tr.70 26
- Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội loài người, C.Mác đã dự báo về xã hội cộng sản chủ nghĩa ( giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản ) có những đặc trưng: Về kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển mạnh, của cải xã hội đã trở nên dồi dào, khoa học phát triển, lao động của con người được giảm nhẹ, ý thức con người được nâng cao, xã hội thực hiện được nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Về mặt xã hội: Trình độ xã hội ngày càng phát triển, con người có đầy đủ các điều kiện phát triển năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao, không còn sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, lao động trở thành một nhu cầu bậc nhất trong đời sống, con người rất quen tôn trọng những quy tắc cơ bản của đời sống chung trong xã hội, tự nguyện làm hết năng lực, xã hội không phải phân định khối lượng sản phẩm từng người nhận được, mọi người tự do hưởng theo nhu cầu. Tất cả những điều này chỉ được thực hiện bởi lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ rất cao. Ở giai đoạn này, những thiết chế chính trị và pháp luật sẽ hoàn toàn mất đi; những quy tắc thống nhất được mọi người thừa nhận của sinh hoạt công cộng cộng sản chủ nghĩa sẽ được thiết lập và việc tuân theo những quy tắc đó sẽ trở thành nhu cầu bên trong, thói quen của tất cả mọi người. Đến giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhà nước trở thành không cần thiết, nó tự tiêu vong. Sự tiêu vong của nhà nước là một quá trình. Theo V.I.Lênin: “Chúng ta chỉ có quyền nói rằng nhà nước tất nhiên sẽ tiêu vong, đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản”1. Như vậy, ở giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, con người sẽ được giải phóng hoàn toàn và được phát triển một cách thực sự toàn diện, con người chuyển từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Để có giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản đòi hỏi giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải nỗ lực phấn đấu, không ngừng nâng cao năng suất lao động, phát triển lực lượng sản xuất, không ngừng giáo dục nâng cao ý thức con người, kiểm soát nghiêm ngặt mức độ lao động và tiêu dùng, từng bước xây dựng kỷ luật tự giác trong xã hội, thói quen tuân thủ các quy định trong dân cư. Giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản chỉ đến khi xã hội có được những điều kiện, tiền đề phù hợp, mọi ý muốn chủ quan muốn thực hiện ngay những nguyên tắc giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản sẽ mắc sai lầm và sẽ thất bại. Sự xuất hiện của giai đoạn cao của hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp đòi hỏi sự nỗ lực của toàn xã hội, nếu không có quá trình này cũng không thể xuất hiện được giai đoạn đó. Qua trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình dài ngắn khác nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu của các dân tộc đó trên mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, tức là chưa chín muồi về kinh tế, xã hội và tinh thần, thì V.I.Lênin khẳng định: “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản”2 III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN 1. Vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin Chủ nghĩa Mác – Lênin bao gồm ba bộ phận: Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Mỗi bộ phận đóng vai trò khác nhau trong đời sống xã hội con người. Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên, cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy con người. Trong triết học Mác – Lênin, chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy 1 V.I.Lênin: toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.33, tr.118 2 V.I.Lênin: toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, t.33, tr.121 27
- vật thống nhất chặt chẽ với nhau làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học, nhờ đó triết học Mác – Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. Do đó, triết học Mác – Lênin không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là lý luận về thế giới quan, là công cụ không chỉ để giải thích thế giới, mà còn để biến đổi và cải tạo thế giới. Chính vì vậy, triết học Mác – Lênin là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là vũ khí lý luận sắc bén giúp giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột, xây dựng thành công xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Kinh tế chính trị Mác – Lênin đóng vai trò là chìa khoá để nhận thức lịch sử phát triển của sản xuất vật chất nói chung, giải thích các hiện tượng các quá trình kinh tế đang diễn ra trong thực tiễn, phân tích nguyên nhân dự báo triển vọng, chiều hướng phát triển kinh tế xã hội, là cơ sở khoa học để đề ra đường lối, chủ trương,chính sách kinh tế và để nhận thức một cách sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế đang thực hiện. Chủ nghĩa xã hội khoa học đóng vai trò phát hiện và luận giải về quá trình tất yếu dẫn đến sự hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, để thực hiện mục tiêu: giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột, giải phóng xã hội, tiến tới giải phóng con người. Theo Lênin chủ nghĩa xã hội khoa học theo nghĩa rộng là chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học thể hiện tập trung nhất hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời trang bị, rèn luyện cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động bản lĩnh chính trị vững vàng, tư tưởng và lập trường cách mạng trong đấu tranh giành chính quyền và trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh có hiệu quả các lực lượng, các hệ tư tưởng thù địch của các thế lực phản động chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. 2. Mục đích của việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin góp phần đắc lực giúp chúng ta xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học, niềm tin, lý tưởng cách mạng khoa học vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm xoá bỏ áp bức bóc lột, tiếp thu một cách hiệu quả những thành tựu khoa học – công nghệ của loài người, chống lại có hiệu quả lối sống, tư tưởng lạc hậu, phản động. Để hiểu và nắm vững mục đích, con đường, lực lượng, cách thức bước đi của sự nghiệp giải phóng con người không sa vào tình trạng mò mẫm, mất phương hướng, chủ quan, duy ý chí, thiếu nhìn xa trông rộng, thiếu chủ động sáng tạo trong công việc, hay sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc các nguyên lý của nó, nôn nóng đốt cháy giai đoạn dẫn đến kết quả dễ bị vấp váp, thất bại. CÂU HỎI 1. Những tiền đề hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác? 2. Nội dung cơ bản và ý nghĩa phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng? 3. Nội dung cơ bản và ý nghĩa phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử? 4. Nội dung cơ bản và ý nghĩa học thuyết giá trị của chủ nghĩa Mác? 5. Nội dung cơ bản và ý nghĩa học thuyết giá trị thặng dư của chủ nghĩa Mác? 6. Nội dung cơ bản và ý nghĩa học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền của chủ nghĩa Mác- Lênin? 7. Nội dung cơ bản và ý nghĩa thực tiễn của chủ nghĩa xã hội khoa học ? 28
- Chương 2 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH I. CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1. Khái niệm và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh a. Khái niệm Theo nghĩa phổ thông nhất, tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh. Khái niệm tư tưởng được hiểu là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) và ngày càng được xác định rõ hơn. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) viết: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi " (1). Định nghĩa này đã bước đầu làm rõ: Một là, bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là hệ thống các quan điểm lý luận; tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng và dân tộc Việt Nam. Hai là, nội dung khách quan được phản ánh trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm những vấn đề có tính quy luật có liên quan trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Ba là, nguồn gốc tư tưởng - lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa Mác - Lênin; giá trị văn hoá dân tộc; tinh hoa văn hoá nhân loại. Bốn là, giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh: Tài sản tinh thần vô cùng to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc; mãi mãi soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam;. b) Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh Giáo trình này tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về cách mạng Việt Nam, bao gồm: Tư tưởng về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; về Đảng Cộng sản Việt Nam; về đại đoàn kết dân tộc; về dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về văn hoá, đạo đức v.v Là một hệ thống lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh có cấu trúc lôgíc chặt chẽ và có hạt nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. 2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh a) Điều kiện lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh - Hoàn cảnh xã hội Việt Nam Nguyễn Sinh Cung - tên lúc nhỏ của Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra khi dân tộc Việt Nam đang dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 88. 29