Giáo trình Giáo dục học mầm non (Dùng cho hệ đào tạo từ xa – ngành GD Mầm non) (Phần 1)

pdf 67 trang hapham 2010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Giáo dục học mầm non (Dùng cho hệ đào tạo từ xa – ngành GD Mầm non) (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_giao_duc_hoc_mam_non_dung_cho_he_dao_tao_tu_xa_ng.pdf

Nội dung text: Giáo trình Giáo dục học mầm non (Dùng cho hệ đào tạo từ xa – ngành GD Mầm non) (Phần 1)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH ThS Nguyễn Thị Quỳnh Anh GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC MẦM NON (Dùng cho hệ đào tạo từ xa – ngành GD Mầm non) Vinh 2011 1
  2. Chương 1 Những vấn đề chung về giáo dục Mầm non 1.1. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của Giáo dục học mầm non 1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của GDH Mầm non Giáo dục học Mầm non là một chuyên ngành của Giáo dục học với tư cách là khoa học giáo dục con người trước tuổi đến trường phổ thông. Đối tượng của giáo dục học mầm non là quá trình giáo dục trẻ em từ 0 – 6 tuổi, được tổ chức và thực hiện một cách có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, nhằm hình thành ở trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách. Quá trình giáo dục trẻ từ 0 – 6 tuổi là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể (quá trình hình thành con người). Cấu trúc của quá trình này bao gồm các yếu tố hợp thành như: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, nhà giáo dục, đối tượng giáo dục, điều kiện giáo dục, kết quả giáo dục. 1.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của GDH Mầm non Giáo dục học Mầm non có nhiệm vụ nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau: - Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục trẻ em từ 0 – 6 tuổi. - Xây dựng hệ thống các nguyên tắc giáo dục Mầm non - Tổ chức các hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục mầm non - Tìm ra phương hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình GD trẻ em. Ngày nay, đường lối đổi mới giáo dục trong thời kì CNH – HĐH đất nước đã vạch ra cho khoa học giáo dục nói chung và GDH nói riêng những nhiệm vụ và nội dung nghiên cưú phù hợp, đáp ứng các yêu cầu xây dựng và phát triển giáo dục trong giai đoạn mới. Theo xu thế phát triển chung, GDH MN cần nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh các vấn đề lí luận cũng như thực tiễn GD mầm non, đảm bảo vừa có giá trị định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển của hoạt động GD mầm non theo hướng đa dạng hoá, xã hội hoá, tạo điều kiện để hoạt động GD mầm non đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội và có cơ sở, có điều kiện hội nhập, tham gia vào hoạt động GD mầm non trên thế giới và khu vực. 1.2. Mục tiêu và nguyên tắc của việc chăm sóc- giáo dục trẻ Mầm non 1.2.1. Mục tiêu chung Kết quả nghiên cứu của ngành Giáo dục mầm non trong những năm vừa qua đã xác định được mục tiêu giáo dục mầm non. Tinh thần cơ bản của mục tiêu giáo dục mầm non được trình bày trong “Quyết định 55 của Bộ Giáo dục quy định mục tiêu, kế hoạch đào tạo của nhà trẻ - mẫu giáo”. Theo quyết định này thì mục tiêu giáo dục mầm non là: “ Hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới XHCN ở Việt Nam: - Khỏe mạnh, nhanh nhẹn, cơ thể phát triển hài hòa cân đối 3
  3. - Giàu lòng thương, biết quan tâm, nhường nhịn giúp đỡ những người gần gũi (bố mẹ, bạn bè, cô giáo), thật thà, lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên - Thông minh, ham hiểu biết, thích khám phá tìm tòi, có một số kỹ năng sơ đẳng (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, suy luận ) cần thiết để vào trường phổ thông, thích đi học”. Rõ ràng mục tiêu giáo dục mầm non đã đón trước mô hình nhân cách phát triển mà trẻ em Việt Nam hiện nay trước 6 tuổi cần đạt được. Thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non là chuẩn bị tiền đề quan trọng và sự phát triển cần thiết để cho trẻ bước vào trường phổ thông, tạo đà quan trọng đảm bảo những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các mục tiêu sau. Trên đây là mục tiêu chung – mục tiêu khái quát đến 6 tuổi trẻ cần đạt được. Điều này lại được cụ thể hóa ra thành mục tiêu theo từng độ tuổi với từng mức độ và yêu cầu khác nhau. 1.2.1.1. Mục tiêu CS - GD trẻ dưới 3 tuổi " Trẻ khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, hồn nhiên, có thiện cảm và bước đầu biết giao tiếp với người lớn gần gũi với bạn bè, có một số thói quen vệ sinh, ăn uống". Cụ thể, cuối 3 tuổi trẻ phải đạt được các mục tiêu sau: * Phát triển thể chất - Trẻ khỏe mạnh, cơ thể phát triển cân đối. Cân nặng và chiều cao nằm trong kênh A - Thực hiện được các vận động cơ bản - Thích nghi được với môi trường sinh hoạt ở trường mầm non - Cú một số thói quen tự phục vụ trong ăn uống, vệ sinh cá nhân * Phát triển nhận thức - Thích tìm hiểu thế giới xung quanh - Có sự nhạy cảm của các giác quan: vị giác, khứu giác, xúc giác, thính giác, thị giác - Nhận biết được về bản thân, một số sự vật, hiện tượng gần gũi, quen thuộc - Có khả năng quan sát, chú ý, ghi nhớ, phát triển tư duy trực quan - hành động và tư duy trực quan - hình ảnh * Phát triển ngôn ngữ - Nghe, hiểu được các yêu cầu đơn giản bằng lời nói của người khác - Diễn đạt được các nhu cầu đơn giản bằng lời nói - Có khả năng hỏi và trả lời một số câu hỏi đơn giản * Phát triển tình cảm – xã hội - Mạnh dạn giao tiếp với những người gần gũi - Biết được một số việc được phép làm và không được phép làm - Biết thể hiện cảm xúc trước cái đẹp. Thích múa, hát, đọc thơ, nghe kể chuyện, vẽ nặn, lắp ghép, xếp hình - Thích tự làm một số công việc đơn giản. 1.2.1.2. Mục tiêu cuả việc chăm sóc- giáo dục trẻ mẫu giáo 4
  4. Mục tiêu cần đạt đối với trẻ ở cuối tuổi mẫu giáo được thể hiện trong chương trình chăm sóc- giáo dục trẻ (Dự thảo chương trình chăm sóc – giáo dục mầm non 2006) như sau: 1.2.1.2.1. Phát triển thể chất: - Cơ thể khoẻ mạnh, phát triển cân đối. Cân nặng và chiều cao nằm trong kênh A. -Trẻ thực hiện được các vận động cơ bản một cách vững vàng, đúng tư thế. - Trẻ có khả năng phối hợp giữa các giác quan và vận động, kết hợp vận động nhịp nhàng có định hướng trong không gian. - Trẻ thực hiện được các vận động tinh tế, khéo léo. - Trẻ có thói quen và một số kĩ năng tốt trong trong việc chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh thân thể, vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi trường và an toàn. 1.2.1.2.2. Phát triển nhận thức - Trẻ thể hiện được sự ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi một cách tích cực những sự vật, hiện tượng mới lạ trong thiên nhiên và trong cuộc sống. - Trẻ có khả năng quan sát, so sánh, phân loại, phán đoán các sự vật và hiện tượng xung quanh. Bước đầu trẻ biết phân tích các đặc tính của sự vật, các mối quan hệ nhân quả đơn giản về các sự vật, hiện tượng đó. - Trẻ hiểu biết một cách đơn giản về bản thân, con người, môi trường tự nhiên và xã hội. 1.2.1.2.3.Phát triển ngôn ngữ - Trẻ nghe và hiểu lời nói trong giao tiếp - Trẻ có khả năng diễn đạt bằng lời nói để biểu hiện ý muốn, cảm xúc, tính cảm, ý nghĩ của mình và của người khác. - Trẻ nói rõ ràng, mạch lạc trong giao tiếp. - Trẻ có một số kĩ năng chuẩn bị đọc và viết để vào học lớp 1. 1.2.1.2.4. Phát triển tình cảm- xã hội - Trẻ mạnh dạn, hồn nhiên, tự tin, lễ phép trong giao tiếp. - Trẻ nhận ra và biết thể hiện tình cảm phù hợp. - Trẻ thực hiện được một số qui tắc đơn giản trong gia đình, trường lớp và nơi công cộng. Có khả năng tự phục vụ và tự thực hiện công việc được giao. - Trẻ biết yêu quí, quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ, hợp tác với những người thân trong gia đình, bạn bè và cô giáo. - Trẻ biết kính yêu Bác Hồ và những người có công với quê hương, đất nước. - Trẻ biết yêu quê hương, đất nước. Quan tâm, chăm sóc vật nuôi, cây trồng và bảo vệ môi trường. 1.2.1.2.5. Phát triển thẩm mĩ - Trẻ cảm nhận được vẻ đẹp trong thiên nhiên, trong cuộc sống và trong tác phẩm nghệ thuật. 5
  5. - Trẻ có nhu cầu, hứng thú tham gia các hoạt động tạo hình, hát, múa, vận động theo nhạc, đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch và biết thể hiện cảm xúc sáng tạo thông qua các hoạt động đó. 1.2.2. Nguyên tắc CS – GD trẻ Mầm non 1.2.2.1. Nguyên tắc CS - GD trẻ dưới 3 tuổi Để thực hiện tốt mục tiêu trên, công tác CS - GD trẻ dưới 3 tuổi phải đảm bảo tốt các nguyên tắc sau: - Trong quá trình CS - GD phải lấy trẻ làm trung tâm - Đáp ứng các nhu cầu về ăn, ngủ, nghỉ ngơi và vệ sinh phòng bệnh, đảm bảo sự an toàn của từng lứa tuổi. Kết hợp việc chăm sóc sức khoẻ và chăm lo GD giúp trẻ có sự phát triển hài hoà. - Tổ chức cuộc sống và hoạt động cho trẻ phù hợp với đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ. Lấy hoạt động giao lưu trực tiếp và hoạt động với đồ vật, đồ chơi là con đường cơ bản hình thành và phát triển nhân cách trẻ trong 3 năm đầu của cuộc sống. - Tôn trọng từng cá nhân trẻ, coi trọng việc CS - GD cho các cháu nói chung và từng cháu nói riêng. - Có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và trường Mầm non trong công tác CS - GD trẻ. - Người lớn (đặc biệt là bố mẹ và cô giáo) phải nhạy cảm, biết đón nhận và thoả mãn những nhu cầu phát triển của trẻ, tạo ra những kích thích làm nảy sinh những nhu cầu mới. Từ đó luyện tập và GD trẻ vươn lên những bước phát triển mới. 1.2.2 2. Các nguyên tắc chăm sóc- giáo dục trẻ mẫu giáo Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ trên, công tác chăm sóc- giáo dục trẻ mẫu giáo cần đảm bảo các nguyên tắc sau đây: - Đáp ứng nhu cầu về ăn, ngủ, nghỉ ngơi, vệ sinh phòng bệnh, tạo ra môi trường an toàn, ấm cúng, ngăn nắp cần thiết cho cuộc sống của trẻ. - Kết hợp chặt chẽ giữa nuôi dưỡng, bảo vệ an toàn, chăm sóc sức khoẻ và giáo dục; tạo điều kiện cho trẻ phát triển một cách liên tục và hài hoà về thể chất, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ. - Tổ chức cuộc sống và hoạt động phù hợp với sự tăng trưởng và phát triển của trẻ. Lấy hoạt động vui chơi là con đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ mẫu giáo. - Tạo điều kiện cho trẻ học qua chơi, qua trải nghiệm, tìm tòi khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ. - Kết hợp hài hoà giáo dục trẻ mọi lúc, mọi nơi, kết hợp giáo dục trong nhóm bạn bè với giáo dục từng trẻ. Chú ý đến đặc điểm riêng của từng trẻ để có phương pháp giáo dục phù hợp. Khuyến khích trẻ giao tiếp, hợp tác, chia sẻ cùng nhau. - Tôn trọng nhân cách kết hợp với việc đề ra các yêu cầu hợp lí đối với trẻ để đảm bảo sự phát triển toàn diện. 6
  6. - Đảm bảo tính thống nhất trong chăm sóc- giáo dục trẻ thông qua cơ sở giáo dục mầm non, gia đình và cộng đồng, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển toàn diện của trẻ. 1.3. Một số quan niệm về nuôi và dạy trẻ em dưới 3 tuổi Từ trước đến nay, trên thế giới nói chung và ở nước ta tồn tại nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về vấn đề nuôi và dạy trẻ dưới 3 tuổi. - Thế kỷ XVIII, J.Rutxô đã dưa ra quan điểm GD tự nhiên, tự do: trẻ sơ sinh không cần quấn tã, khi đi học trẻ ngã tự đứng dậy, trẻ biết nói không cần người lớn can thiệp - Đầu thế kỷ XX, ở phương Tây thịnh hành thuyết "GD tự do". Những người theo thuyết này đề cao yếu tố bẩm sinh, di truyền. Họ cho di truyền là yếu tố quyết định sự phát triển của trẻ nên cứ để cho trẻ tự lớn lên như trẻ vốn có. Người lớn không cần can thiệp vào quá trình tăng trưởng và phát triển của trẻ. Quan điểm này sai lầm, quá coi trọng, tuyệt đối hoá yếu tố di truyền, phủ nhận vai trò của GD, phủ nhận ảnh hưởng của người lớn đến sự phát triển của trẻ. - Ngược lại với "thuyết tự do" có ý kiến lại cho "GD là vạn năng". Họ cho rằng GD có thể làm được tất cả, còn đứa trẻ như "tờ giấy trắng" người lớn muốn vẽ gì lên đó cũng được. Từ đó họ phủ nhận vai trò của yếu tố bẩm sinh, di truyền, bỏ qua các quy luật phát triển của trẻ theo từng lứa tuổi, bỏ qua yếu tố chủ thể tích cực của trẻ. Đánh giá: Trẻ em có quy luật phát triển riêng của nó, không thể muốn nhào nặn thế nào cũng được, yếu tố hoạt động cá nhân mới là quyết định. - Quan niệm duy tâm cho rằng: con người do Thượng đế sinh ra, là do ý muốn của Thượng đế, chính Thượng đế sắp sẵn mọi thứ trong đứa trẻ. Trẻ lớn lên là do các yếu tố thần linh huyền bí quy định. Ngay cả việc đứa trẻ bị chết cũng là do ý muốn của Thượng đế (cho linh hồn siêu thoát lên thiên đàng) chứ không phải do chăm sóc, nuôi dưỡng không đúng cách để trẻ sinh bệnh nguy hiểm. Quan niệm này vẫn còn tồn tại trong thời đại ngày nay, đặc biệt những nước kém phát triển, trình độ dân trí còn thấp. - Ở nước ta hiện nay vẫn tồn tại không ít quan niệm lạc hậu: "Trời sinh voi, trời sinh cỏ", "Trời sinh trời dưỡng", "Cha mẹ sinh con trời sinh tính" Từ đó dẫn tới hiện tượng "Hữu sinh, vô dưỡng", thả nổi trẻ cho tự nhiên định đoạt. - Bên cạnh đó lại có quan niệm cho trẻ dưới 3 tuổi còn quá nhỏ, chúng không thể tiếp thu và lĩnh hội được những lời dạy dỗ của người lớn, mà chỉ cần cho trẻ ăn no mặc ấm là đủ, còn dạy dỗ thì sau này khi trẻ lớn lên dạy cũng chưa muộn. Tất cả những quan điểm trên đều sai lầm, mang tính phiến diện, lệch lạc trong vấn đề nuôi dạy trẻ hoặc nếu có chú ý thì cũng chỉ dừng ở việc nuôi dạy mà thôi. - Quan điểm GD hiện đại cho rằng: đối với trẻ càng nhỏ bao nhiêu càng phải đảm bảo sự cân đối giữa nuôi và dạy bấy nhiêu. Hai yếu tố này ảnh hưởng 7
  7. và tác động qua lại với nhau mật thiết. Nếu thiếu hụt một trong 2 yếu tố trên đều có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng và phát triển luôn mang tính tổng thể của trẻ. + Xét về mặt sinh học: Khác với con người, ở động vật khi sinh ra vỏ não của chúng đã chứa đầy hoạt động của giống loài theo quy luật di truyền sinh học giúp chúng sống đúng như giống loài của nó (vỏ não của động vật non đã chứa đầy chương trình hoạt động của giống loài từ khi sinh ra, về cơ bản đã kết thúc quá trình phát triển, chứa đầy hành vi của giống loài để sống đúng như giống loài của nó). Con người khi mới sinh ra chỉ có một số phản xạ bẩm sinh không đảm bảo cho sự phát triển hành vi của con người và vỏ não của trẻ chưa chứa đầy hoạt động của giống loài. Muốn tồn tại thành người trẻ phải được bảo vệ, nuôi dưỡng, GD trong một thời gian tương đối dài (học lẫy, học bò, học đi, học sử dụng hai bàn tay, học nói, học cách ứng xử trong quan hệ xã hội ). + Mặt tâm lý - xã hội: Trẻ lớn lên và thành người được thì phải trải qua quá trình sống, hoạt động, chịu sự tác động từ môi trường, xã hội, điều kiện GD. Dưới sự hướng dẫn của người lớn, trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động: hoạt động giao lưu trực tiếp với người lớn, hoạt động với đồ vật- đây chính là con đường hình thành nhân cách cho trẻ dưới 3 tuổi. Trẻ không chỉ là đối tượng mà còn là chủ thể của công tác CS - GD. Mặc dù có sự tổ chức, hướng dẫn của người lớn song trẻ chỉ có thể phát triển tốt khi tự mình hoạt động, tự mình tích cực tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh, thiết lập các mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng. Quan điểm GD hiện đại và tiến bộ cho rằng: Cùng với việc chăm lo, nuôi dưỡng, bảo vệ sức khoẻ cho trẻ người lớn cần phải nhạy cảm, biết đón nhận và thoả mãn nhu cầu phát triển của trẻ. Tổ chức tốt các hoạt động giao lưu phù hợp với độ tuổi của trẻ, giúp trẻ vươn lên những tiến bộ, những bước phát triển mới, từng bước hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Đồng thời phải chăm lo thường xuyên tác động vào môi trường sống của trẻ làm cho môi trường đó ngày càng giàu tính GD tốt đối với trẻ. 1.4. Ý nghĩa của việc CS - GD trẻ mầm non Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai. Trẻ em sinh ra có quyền được chăm sóc và bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. CS -GD trẻ em ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc sống là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó vừa mang ý nghĩa nhân văn, vừa mang ý nghĩa KT - XH và thực tiễn sâu sắc. 1.4.1. Ý nghĩa nhân văn Hồ chủ tịch đã giành nhiều tâm huyết cho công tác GD, đặc biệt giành cho trẻ em những tình cảm vô bờ, Bác thường nhắc nhở: "Phải giữ gìn vệ sinh cho các cháu, các cô phải học hành ttốt, nuôi dạy các cháu ngoan và khoẻ". Bác đã nhấn mạnh: "Dạy trẻ cũng như trồng cây non, trồng cây non tốt, chăm sóc dạy các cháu tốt thì sau này các cháu trở thành người tốt". 8
  8. Ngày nay con người được coi là mục tiêu, là động lực của sự phát triển, giá trị của con người được nhìn nhận một cách sâu sắc và toàn diện thì công tác CS - GD trẻ càng mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc và trở ttành đạo lý của thế giới văn minh. " Hãy giành cho trẻ những gì tốt đẹp nhất" không chỉ là khẩu hiệu mà còn là hành động thực tiễn. 1.4.2. Ý nghĩa KT - XH Để đảm bảo cho sự tăng trưởng của xã hội mai sau, GD con người phải tiến hành từ sớm ngay từ khi trẻ mới chào đời, thậm chí từ lúc còn trong bụng mẹ. Đó là ý nghĩa xã hội cơ bản của việc CS - GD trẻ dưới 3 tuổi. Công tác CS - GD trẻ góp phần nâng cao văn hoá gia đình (xây dựng gia đình văn hoá mới văn minh, hạnh phúc, cải thiện môi trường sống ), đảm bảo sự công bằng, tiến bộ xã hội (chăm sóc trẻ tật nguyền, mồ côi, những trẻ ở vùng văn hoá kém phát triển, chịu thiệt thòi nhất ). CS - GD trẻ ngay từ khi còn bé chính là sự đầu tư lâu dài và ngay từ ban đầu, tạo điều kiện cho sự phát triển KT - XH tương lai. Mặt khác, việc CS - GD trẻ đặc biệt là các chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phòng chống bệnh tật, tai nạn có thể tiết kiệm đáng kể cho ngân sách gia đình và xã hội như giảm chi phí rất nhiều trong việc chữa bệnh và phục hồi chức năng cho trẻ. 1.4.3. Ý nghĩa thực tiễn Trẻ em dưới 3 tuổi như "cây non", còn hết sức yếu ớt, dễ bị mắc các loại bệnh tật, tai nạn, nhưng tốc độ tăng trưởng và phát triển rất nhanh. Nếu được chăm sóc đầy đủ, hợp lý, khoa học, được dạy dỗ chu đáo thì trẻ sẽ phát triển tốt về mặt thể lực, nhanh nhẹn hoạt bát, hồn nhiên mạnh dạn, dễ dàng thiết lập mối quan hệ với người xung quanh. Ngược lại, nếu việc CS - GD ban đầu cho trẻ không tốt sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển lành mạnh của trẻ. Chính vì vậy, trẻ càng nhỏ bao nhiêu thì càng phải có sự chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ chu đáo bấy nhiêu. - Việc CS - GD trẻ ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc sống là một việc làm hết sức quan trọng, có ý nghĩa lớn lao nhưng lại vô cùng vất vả đòi hỏi ở người lớn sự kiên trì, nhẫn nại và đặc biệt là tình thương yêu vô bờ đối với trẻ. Đối với trẻ dưới 3 tuổi người mẹ có vai trò đặc biệt quan trọng. Người mẹ là chỗ dựa, chỗ níu đầu tiên của trẻ, đứa trẻ gắn bó với người mẹ hơn bất cứ người nào khác trong gia đình và là nhà GD đầu tiên của trẻ. Sau người mẹ, trẻ đến trường Mầm non thì cô giáo có vai trò cực kỳ quan trọng - Cô được xem là người mẹ thứ 2 của trẻ. Vì vậy, trong công tác CS - GD trẻ cần có sự phối hợp giữa gia đình - nhà trẻ, giữa bố mẹ và cô giáo. - Nếu không có sự CS - GD của người lớn, đứa trẻ không thể lớn lên, không thể thành người được. Đứa trẻ càng bé bỏng bao nhiêu càng cần có sự chăm sóc của người lớn bấy nhiêu. Người mẹ và cô giáo chính là chiếc cầu nối giữa trẻ với hiện thực bên ngoài, là trung tâm của mọi tình huống mà đứa trẻ ở trong đó. 9
  9. VD: người lớn truyền đạt cho trẻ những kinh nghiệm của nền văn hoá xã hội. Nếu trẻ lớn không kịp thời hoặc bỏ qua việc CS - GD trẻ ngay từ năm tháng đầu tiên của cuộc sống thì khó tránh khỏi những ảnh hưởng xấu đến sự phát triển lành mạnh của trẻ. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Chứng minh Giáo dục học mầm non là một khoa học chuyên nghiên cứu về vấn đề giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non. 2. Trình bày các phương pháp nghiên cứu của Giáo dục học mầm non. 3. Chứng minh rằng bậc học mầm non là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. 4. Phân tích khái niệm mục đích, mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục mầm non. 5. Phân biệt một số khái niệm cơ bản trong Giáo dục học mầm non: Giáo dục mầm non, Giáo dục học mầm non, quá trình giáo dục mầm non. 6. Xu hướng đổi mới giáo dục mầm non ở nước ta hiện nay? Chương 2 Các nội dung CS – GD trẻ Mầm non 2.1. Giáo dục thể chất cho trẻ mầm non Giáo dục thể chất cho trẻ Mầm non là một bộ phận của quá trình giáo dục toàn diện. Đó là quá trình tác động chủ yếu vào cơ thể trẻ, tổ chức cho trẻ vận động và rèn luyện cơ thể, giữ gìn vệ sinh, tổ chức tốt chế độ sinh hoạt nhằm bảo vệ và làm cho cơ thể của trẻ phát triển cân đối, sức khoẻ tăng cường, làm cơ sở cho sự phát triển toàn diện nhân cách. 2.1.1. Ý nghĩa của giáo dục thể chất Giáo dục thể chất là một trong những nội dung giáo dục toàn diện nhân cách con người. Ngay trong các nền giáo dục cổ xưa, giáo dục thể chất được chú trọng. Ví dụ trong nền giáo dục Hy lạp cổ đại, giáo dục thể chất được xem là nội dung quan trọng nhất, sau đó mới đến giáo dục trí tuệ và các nội dung giáo dục khác. - Nhà triết học, giáo dục người Anh Giôn Lôcơ (1632- 1704)đã đánh giá rất cao vai trò của giáo dục thể chất. Ông cho rằng: “Tinh thần lành mạnh trong một cơ thể khoẻ mạnh - đó là cái định nghĩa ngắn gọn mà đầy đủ về hạnh phúc trên đời này Người mà có được hai thứ đó thì không còn phải mong mỏi gì nữa”. - Trong học thuyết về giáo dục của mình, C. Mác đã đánh giá rất cao ý nghĩa của giáo dục thể chất trong sự phát triển toàn diện con người. Theo ông “việc kết hợp lao động sản xuất với với trí dục và thể dục không những chỉ là một trong những phương tiện tăng thêm sản xuất xã hội mà còn là phương tiện duy nhất để đào tạo con người phát triển toàn diện”. - Ngay từ khi mới thành lập nước Việt nam Dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên kêu gọi việc giáo dục thể chất, tăng cường sức khoẻ. Bác cho rằng: “giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới 10
  10. việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công. Mỗi người yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi người dân khoẻ mạnh là cả nước khoẻ mạnh” . - Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng và nhà nước ta rất coi trọng việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân và giáo dục thể chất trong nhà trường. Điều này được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng, mà gần đây nhất là nghị quyết Trung ương 4 đã nhấn mạnh: “Sức khoẻ là vốn quí nhất của mỗi người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy chúng ta phải phấn đấu để mọi người đều được quan tâm, chăm sóc sức khoẻ”. 2.1.1.1. Ý nghĩa của GD thể chất cho trẻ dưới 3 tuổi - GD thể chất cho trẻ ở lứa tuổi này là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của gia đình và nhà trẻ. Bởi lẽ sức khoẻ là vốn quý giá nhất có ý nghĩa sống còn đối với con người, đặc biệt là đối với trẻ dưới 3 tuổi. Ở lứa tuổi này quá trình tăng trưởng của trẻ diễn ra nhanh chóng, nhưng cơ thể của trẻ lại quá non nớt, trẻ dễ chịu những ảnh hưởng của những tác động bên ngoài, sức đề kháng của trẻ kém, trẻ dễ mắc các bệnh nguy hiểm đến tính mạng. Do vậy, trẻ chỉ có thể phát triển thể lực tốt nếu như người lớn chú ý đến việc chăm sóc, giữ gìn sức khoẻ, bảo vệ thần kinh khoẻ mạnh cho trẻ. - GD thể chất càng có ý nghĩa hơn, là khâu then chốt trong công tác CS - GD trẻ dưới 3 tuổi. Vì chính những năm tháng đầu tiên của cuộc sống, sức khoẻ tốt sẽ giúp trẻ có nhiều cơ may cho cuộc sống sau này như sức khoẻ, năng lực vận động, những kỹ năng cũng như thói quen văn hoá vệ sinh. - GD thể chất liên quan mật thiết với GD trí tuệ, bởi lẽ việc giữ gìn hệ thần kinh thăng bằng, việc bảo vệ các giác quan được tinh tường sẽ giúp trẻ tích cực hoạt động với thế giới đồ vật, tích cực khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh, làm cho hoạt động nhận thức của trẻ thêm tích cực, phong phú. 2.1.1.2. Giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo - Ở lứa tuổi mẫu giáo tuy tốc độ tăng trưởng và phát triển của trẻ chậm hơn so với lứa tuổi nhà trẻ nhưng vẫn nhanh hơn so với các giai đoạn tiếp theo. Các hệ cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là hệ cơ, hệ xương phát triển nhanh cùng với sự hoàn thiện của các chức năng. Cơ thể của trẻ còn non yếu, dễ bị phát triển lệch lạc, mất cân đối.Vì vậy cơ thể của trẻ chỉ được phát triển tốt nếu được chăm sóc – nuôi dưỡng và giáo dục thể chất đúng đắn và ngược lại, nếu không được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thể chất một cách khoa học thì sẽ gây nên những thiếu sót trong sự phát triển cơ thể của trẻ mà về sau khó có thể khắc phục được. - Sự phát triển thể chất của trẻ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm lý và các mặt giáo dục toàn diện nhân cách của trẻ. Cụ thể: + Sự phát triển thể chất có ảnh hưởng đến toàn bộ sự phát triển các quá trình, các trạng thái, các thuộc tính tâm lí tích cực của trẻ. Cơ thể khoẻ mạnh làm cơ sở cho những tình cảm lành mạnh, lạc quan, vui tươi ở trẻ phát triển. Thể dục góp phần rèn luyện, củng cố những nét tính cách cho trẻ như thức tổ chức, tính kỉ luật, hoạt động tập thể, lòng dũng cảm, tính kiên trì 11
  11. + Giáo dục thể chất có mối quan hệ chặt chẽ với giáo dục trí tuệ. Cơ thể khoẻ mạnh giúp trẻ hoạt động tích cực, thích tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh, làm cho vốn kinh nghiệm của trẻ phong phú hơn. Mặt khác, việc bảo vệ và luyện tập các giác quan, giữ cho các giác quan đó được tinh tường, làm cho cảm giác, tri giác của trẻ chính xác hơn, tạo điều kiện cho trẻ nhận thức thế giới xung quanh mình đầy đủ và sâu sắc hơn. + Giáo dục thể chất có mối quan hệ mật thiết với giáo dục thẩm mĩ. Cơ thể khoẻ mạnh làm cho trẻ có những cảm xúc tích cực và trẻ sẽ tri giác cái đẹp được sâu sắc hơn, tinh tế hơn, trẻ tự tạo ra cái đẹp trong lao động, trong trò chơi và trong học tập. Chính bản thân cuộc sống ngăn nắp, vệ sinh sạch sẽ là một cơ sở của giáo dục thẩm mĩ. Cơ thể phát triển cân đối, hài hoà là một biểu hiện cao của thẩm mĩ. + Sức khoẻ của trẻ tốt cũng là điều kiện quan trọng để tiến hành GD lao động. 2.1.2. Nhiệm vụ GD thể chất cho trẻ Mầm non 2.1.2.1. Nhiệm vụ GD thể chất cho trẻ dưới 3 tuổi - Bảo vệ tính mạng và giữ gìn, phát triển sức khoẻ cho trẻ: rèn cơ thể, nâng cao khả năng miễn dịch đối với một số loại bệnh mà trẻ thường mắc phải và đảm bảo sự tăng trưởng, phát triển đúng lúc và hoàn chỉnh của trẻ. Giúp trẻ có trạng thái hoạt động cân bằng, có trạng thái tâm lý vui tươi, ngăn ngừa sự mệt mỏi cho hệ thần kinh. - Phát triển và hoàn thiện dần vận động: lẫy, bò, ngồi, đứng, đi, chạy, vận động của bàn tay, ngón tay. - GD và tập cho trẻ một số kỹ năng, thói quen văn hoá - vệ sinh đầu tiên. 2.1.2.2. Nhiệm vụ của giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo: - Bảo vệ cuộc sống, tăng cường sức khoẻ, rèn luyện một cách hợp lý cơ thể của trẻ: + Bảo đảm chế độ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt hợp lý, phòng bệnh, phòng tai nạn, làm tốt công tác vệ sinh môi trường, không để trẻ mệt mỏi vì hoạt động quá sức hoặc thần kinh căng thẳng. + Rèn luyện một cách hợp lý cơ thể của trẻ (tập thể dục và trò chơi vận động) nhằm tăng cường sức khoẻ và các chức năng của cơ thể, tăng cường khả năng thích ứng của trẻ với những thay đổi của thời tiết và môi trường xung quanh. - Rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản và các phẩm chất vận động. + Hình thành và phát triển các kĩ năng, kỹ xảo vận động cơ bản cho trẻ : đi, chạy, nhảy, leo, trèo, rèn luyện năng lực phối hợp cảm giác (thị giác, thính giác) với vận động, phối hợp các vận động của các bộ phận cơ thể với nhau, phát triển năng lực định hướng trong vận động (phải trái, trước, sau, trình tự các vận động). +Từng bước rèn luyện những phẩm chất của vận động, giúp trẻ vận động ngày càng nhanh nhẹn, linh hoạt, dẻo dai, gọn gàng, chính các và khéo léo hơn. 12
  12. - Giáo dục thói quen và các kỹ năng, kỷ xảo văn hoá- vệ sinh + Việc giáo dục các kĩ năng, kĩ xảo, các thói quen văn hoá- vệ sinh có ý nghĩa lớn lao trong việc bảo vệ sức khoẻ, tăng cường thể lực và giáo dục đạo đức cho trẻ. + Dưới sự hướng dẫn của người lớn, trẻ được luyện tập để có một số thói quen văn hoá- vệ sinh. Đồng thời hình thành ở trẻ tính độc lập, tính cẩn thận, ưa sạch sẽ, thái độ lịch thiệp, tôn trọng người lớn, thân ái với các bạn cùng lứa tuổi 2.1.3. Nội dung và phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mầm non 2.1.3.1. Nội dung, phương pháp GD thể chất cho trẻ dưới 3 tuổi 2.1.3.1.1. Tổ chức và thực hiện chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ * Chế độ sinh hoạt hàng ngày và ý nghĩa của nó Chế độ sinh hoạt của trẻ là một quy trình khoa học nhằm phân phối thời gian và trình tự các hoạt động trong ngày cũng như việc ăn uống, nghỉ ngơi của trẻ một cách hợp lý, đúng đắn nhằm đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển của trẻ. Chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ được xây dựng dựa trên đặc điểm sinh lí và tâm lí của trẻ. Do vậy, nếu xây dựng được chế độ sinh hoạt hàng ngày hợp lí và thực hiện nó một cách nghiêm túc thì nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc giáo dục thể chất cho trẻ. - Về mặt sinh lý: chế độ sinh hoạt hợp lý đáp ứng được những nhu cầu của cơ thể. + Chế độ sinh hoạt đảm bảo tính hợp lý của các chức năng sống, đảm bảo sự phục hồi những năng lượng đã hao phí trong ngày và đẩy mạnh sự tăng trưởng và phát triển của trẻ, giữ gìn và bảo vệ sức khoẻ cho trẻ. + Chế độ sinh hoạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với trẻ dưới 3 tuổi Nhờ có chế độ sinh hoạt hợp lý, cơ thể trẻ tăng trưởng và phát triển đúng đắn, tạo cho trẻ một nếp sống có nhịp điệu, phù hợp với nhịp điệu sinh học của cơ thể sống. - Về mặt GD: Chế độ sinh hoạt thể hiện tính hợp lý, thường xuyên, rõ ràng, vừa sức đối với trẻ, có nội dung phong phú. Đây chính là một trong những nhân tố GD góp phần quan trọng hình thành ở trẻ nề nếp,thói quen tốt, hình thành phẩm chất cá nhân như tính tổ chức, tính chính xác, tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm Thông qua việc tổ chức chế độ sinh hoạt cho trẻ, người lớn thực hiện nhiệm vụ CS - GD một cách dễ dàng hơn và thu được kết quả khả quan hơn. * Một số yêu cầu khi sắp xếp chế độ sinh hoạt cho trẻ dưới 3 tuổi - Chế độ sinh hoạt được áp dụng thường xuyên, đều đặn, tránh xáo trộn nhằm hình thành nề nếp thói quen cho trẻ (nếu vi phạm những yêu cầu của chế độ sinh hoạt của trẻ thì sẽ làm tổn hại đến sức khoẻ và việc GD trẻ). - Chế độ sinh hoạt phải được xác định rõ ràng, duy trì bằng những quy tắc nhất định, đồng thời những quy tắc ấy phải vừa sức đối với trẻ. - Thoả mãn đầy đủ nhu cầu của trẻ và phù hợp với từng độ tuổi cụ thể. 13
  13. - Đảm bảo yêu cầu an toàn về cơ thể của trẻ cũng như các yêu cầu vệ sinh. - Không áp đặt theo ý muốn chủ quan của người lớn, tạo điều kiện tối đa cho trẻ được phát triển tự nhiên những khả năng vốn có của trẻ. - Đảm bảo cho trẻ được hoạt động tích cực, nghỉ ngơi thoải mái, tránh hoạt động quá sức. - Có sự linh hoạt, mềm dẻo nhất định ở các độ tuổi. - Phù hợp thời tiết từng mùa, từng vùng và hoàn cảnh gia đình. * Những nội dung thường có trong chế độ sinh hoạt của trẻ dưới 3 tuổi - Tổ chức ăn uống cho trẻ Việc tổ chức ăn uống hợp lý, khoa học là một yêu cầu cực kỳ quan trọng vì khả năng hoạt động của dạ dày, ruột của trẻ còn kém. Nếu thức ăn không khoa học trẻ nhiễm bệnh ngay. + Tốc độ tăng trưởng, phát triển nhanh, nhu cầu dinh dưỡng chia theo trọng lượng với nhu cầu thức ăn rất lớn, giúp trẻ phục hồi sức lực và những năng lượng bị tiêu hao. Vì vậy, cần cung cấp đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho trẻ trong bữa ăn. + Ngoài ra cần chú ý vệ sinh an toàn tuyệt đối : ăn sữa bột, cháo 36 - 370 C, chế biến thức ăn phù hợp (từ thức ăn lỏng đến đặc dần, từ mềm đến rắn ), đủ chất và lượng, đảm bảo vệ sinh. Cần cho trẻ ăn nhiều thức ăn hoa quả tươi, rau tươi, sữa và các loại thức ăn bằng sữa, uống đủ nước + Cần cho trẻ ăn uống hợp lý, ăn đúng giờ, tạo cho trẻ cảm giác muốn ăn và cảm giác ăn ngon miệng. Nếu trẻ không muốn ăn, người lớn cần tìm hiểu nguyên nhân và có những biện pháp xử lý kịp thời. Tránh quát mắng, doạ nạt trẻ khi ăn, không bịt mũi trẻ để cho ăn bột, ăn cháo. + Trước khi ăn không nên cho trẻ ăn nhiều bánh kẹo, cần tập cho trẻ văn hoá vệ sinh khi ăn uống - Tổ chức cho trẻ ngủ Khả năng hoạt động của hệ thần kinh của trẻ yếu, quá trình hưng phấn cao hơn ức chế, nếu không ngủ thì mệt mỏi, thần kinh căng thẳng, quá trình hưng phấn sẽ cao hơn. Mặt khác, giấc ngủ được ví như liều thuốc bổ não, sau giấc ngủ tốt não sẽ được phục hồi khả năng hoạt động của mình. Do vậy, cần tổ chức tốt giấc ngủ, đảm bảo đủ giấc và sâu. + Trẻ sơ sinh ngủ hầu như suốt ngày đêm + 2 – 5 tháng cần ngủ 16 –18 h/ ngày + 6 –12 tháng cần ngủ 14 –16 h/ ngày + 1 –2 tuổi cần ngủ 12 – 14 h/ ngày + 2 – 3 tuổi cần ngủ 10 – 12 h/ ngày Lưu ý đối với trẻ dưới 3 tuổi: + Đảm bảo thời gian ngủ quy chuẩn + Không nên cho trẻ thức quá 8h tối 14
  14. + Tập cho trẻ ngủ đúng giờ, tạo tâm trạng nhẹ nhàng, thoải mái, vui vẻ trước khi đi ngủ. Đặc biệt không để trẻ nô đùa quá mức trước lúc ngủ hoặc người lớn không được dọa nạt trẻ khiến trẻ giật mình. + Đối với trẻ nhỏ cần vỗ về ru ngủ bằng những khúc hát ru, những bài thơ giàu âm điệu. + Tạo cho trẻ cảm giác được an tâm, được âu yếm, được an toàn trong giấc ngủ. - Tổ chức vệ sinh cho trẻ + Tập cho trẻ dưới 3 tuổi biết giữ gìn vệ sinh cá nhân là một việc làm hết sức khó khăn, phức tạp đối với người lớn nhưng nó có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với trẻ, giúp trẻ quen dần với nếp sống vệ sinh, sạch sẽ. Việc tập giữ vệ sinh cho trẻ dưới 3 tuổi có một vai trò quan trọng trong việc hình thành tính cách của trẻ. + Người lớn cần chú ý giữ gìn vệ sinh thân thể cho trẻ, vệ sinh răng miệng, mắt mũi, tai, vệ sinh quần áo cho trẻ, luyện tập cho trẻ có thói quen đi đại tiểu tiện đúng giờ, đúng nơi quy định. + Vệ sinh thân thể: da trẻ rất mỏng, dễ bị xây xát và nhiễm trùng gây mụn nhọt, lở ngứa Do đó cần tắm rửa sạch sẽ hàng ngày cho trẻ, nhất là mùa hè. Tập cho trẻ 2 – 3 tuổi có thói quen rửa tay, rửa mặt trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. + Vệ sinh răng miệng: Hàng ngày cho trẻ súc miệng bằng nước muối và khi trẻ có 4 răng hàm nên tập cho trẻ đánh răng buổi sáng và buổi tối. Để răng trẻ phát triển bình thường, cần cho trẻ ăn thức ăn đủ chất, nhất là thức ăn có nhiều can xi, ăn rau quả nhiều sinh tố C Không nên cho trẻ ăn thức ăn quá nóng hoặc quá lạnh, quá cứng + Vệ sinh tai – mũi – họng: cần giữ ấm cổ ngực và đôi chân cho trẻ về mùa đông. Không dùng vật cứng để ngoáy tai, mũi cho trẻ. Cần thường xuyên tiêm chủng, phòng bệnh cho trẻ. + Vệ sinh mắt: Rửa mặt, lau mắt bằng khăn, nước sạch. Cho trẻ ăn rau xanh, cà rốt, lòng đỏ trứng gà , uống vitamin A đúng liều để phòng bệnh quáng gà, khô mắt. Phòng và chữa dứt điểm bệnh đau mắt đỏ, mắt hột , nên cho trẻ chơi dưới ánh sáng tự nhiên. + Vệ sinh quần áo: quần áo trẻ mặc phải phù hợp theo mùa, sạch sẽ, thay giặt hàng ngày, phơi nắng khô ráo. Không được cho trẻ mặc quần áo, tã lót ẩm ướt. Chất liệu vải phải phù hợp với khí hậu trong năm, không nên cho trẻ mặc vải khó thoát mồ hôi. Kiểu may đơn giản dễ mặc, dễ cởi Ngoài ra cần chú ý đến thói quen đi giày, dép. Giày, dép phải vừa chân, thoải mái + Luyện tập cho trẻ thói quen đi đại tiện, tiểu tiện đúng giờ, đúng nơi quy định. 2.1.3.1.2. Tổ chức luyện tập, phát triển vận động cho trẻ dưới 3 tuổi 15
  15. Vận động giữ vai trò to lớn trong đời sống của con người nói chung và của trẻ dưới 3 tuổi núi riêng. Bởi vì vận động là cơ sở cho mọi hoạt động. Một đứa trẻ hiếu động thường thông minh và khỏe mạnh hơn những trẻ chậm chạp lười vận động Việc phát triển và hoàn thiện vận động có ý nghĩa to lớn không những đối với sự phát triển thể lực mà còn đối với cả phát triển tâm lý chung của trẻ. Dạy trẻ dưới 3 tuổi các vận động cơ bản là nhiệm vụ cơ bản và cần thiết của người lớn. Đối với trẻ dưới 3 tuổi, khi luyện tập phát triển vận động thường sử dụng các phương tiện chính sau: - Các bài tập luyện phát triển cơ thể nói chung và phát triển vận động nói riêng. - Các hình thức chơi – tập: là những trò chơi vận động hứng thú đối với trẻ. Tùy theo từng độ tuổi của trẻ, thậm chí đến đặc điểm riêng của trẻ mà tiến hành những bài tập luyện, những hình thức chơi- tập theo các yêu cầu và mức độ khác nhau. - Đối với trẻ dưới 1 tuổi, tiến hành những bài tập xoa bóp, những giờ tập luyện để trẻ tập lẫy, tập trườn, tập đứng lên, tập đi men và bước đầu tập đi. - Đối với trẻ 2-3 tuổi: Tổ chức những buổi tập luyện có mục đích, những trò chơi vận động đơn giản mà hứng thú nhằm phát triển các vận động cơ bản: đi, chạy, nhảy, bò, tập thể dục buổi sáng Người lớn cần hướng dẫn trẻ tập từ đơn giản đến phức tạp, cần khuyến khích tất cả trẻ đều hoạt động, kích thích trẻ vận động tích cực song không để trẻ vận động quá sức, không để trẻ mệt mỏi vì các bài tập quá phức tạp đối với trẻ. 2.1.3.1.3. Rèn luyện cho trẻ dưới 3 tuổi Rèn luyện là một hệ thống các biện pháp được áp dụng nhằm nâng cao sức đề kháng của cơ thể trẻ, tạo khả năng thích nghi nhanh chóng với những điều kiện sống khác nhau, giúp cho đứa trẻ có khả năng chịu đựng dẻo dai. Nhờ có sự rèn luyện cộng với các biện pháp thể dục khác góp phần tạo ra những đứa trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, vững vàng. Muốn trẻ có sức khỏe tốt, chịu đựng dẻo dai trước sự thay đổi của khí hậu, người lớn cần tích cực cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên VD: Cho trẻ tắm nắng, tắm gió, tắm bằng nước, cho trẻ ngủ những nơi thoáng mát, có gió và nắng sớm có các tia cực tím có tác dụng tốt đối với trẻ nhỏ 2.1.3.1.4. Điều kiện cần thiết để tổ chức giáo dục thể chất cho trẻ dưới 3 tuổi - Phải có những điều kiện cơ sở vật chất phù hợp với yêu cầu vệ sinh sư phạm - Chế độ sinh hoạt hợp lý phù hợp với từng độ tuổi - Có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trẻ và y tế trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho trẻ. + Theo dõi thể lực sức khỏe của trẻ bằng biểu đồ phát triển 16
  16. + Tiêm phòng cho trẻ đầy đủ và đúng lịch + Phòng và xử lý một số bệnh trẻ dưới 3 tuổi thường gặp + Phòng và xử lý một số tai nạn có thể xảy ra với trẻ - Chế độ dinh dưỡng + Đảm bảo chế độ ăn phù hợp với từng lứa tuổi + Đảm bảo đủ chất dinh dưỡng: đạm, bột, đường, muối khoáng, các loại sinh tố + Đủ nước uống, nhất là về mùa hè + Đảm bảo ăn uống vệ sinh sạch sẽ + Chế biến thức ăn phù hợp và thay đổi thực phẩm để trẻ ăn ngon miệng. - Các bài tập luyện, các hình thức chơi tập phát triển vận động giành cho trẻ dưới 3 tuổi phải được tiến hành dưới sự hướng dẫn của người lớn. 2.1.3.2. Nội dung và phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 2.1.3.2.1. Giáo dục các kỹ xảo và thói quen văn hoá- vệ sinh: * Ý nghĩa của việc giáo dục các kĩ xảo và thói quen văn hoá- vệ sinh Giáo dục các kỹ xảo và thói quen văn hoá- vệ sinh là khâu rất quan trọng không chỉ trong hệ thống giáo dục thể chất mà cả trong hệ thống chung của việc hình thành nhân cách. Kỹ xảo và thói quen văn hoá- vệ sinh là một cơ sở của hành vi văn minh chung, phản ánh yêu cầu của xã hội phù hợp với những tiêu chuẩn hành vi văn hoá - đạo đức. Có thể nói phần nhiều những kỹ xảo, thúi quen văn hoá - vệ sinh được hình thành ở lứa tuổi mẫu giáo. * Nội dung giáo dục các kĩ xảo và thói quen văn hoá - vệ sinh cần giáo dục cho trẻ mẫu giáo: Có thể chia các nhóm kỹ xảo và thói quen văn hoá - vệ sinh ở trường mẫu giáo như sau: - Kĩ xảo và thói quen vệ sinh thân thể và quần áo: Rửa tay, rửa mặt, đánh răng, súc miệng, lau mũi, biết dùng khăn mặt, chải đầu, giữ gìn quần áo sạch sẽ, không quỳ, ngồi nơi sàn đất bẩn . - Kỹ xảo và thói quen ăn uống có văn hoá: Rửa tay trước khi ăn, ngồi ăn trật tự, không dùng tay bốc thức ăn, không đánh rơi thức ăn, không cản trở bạn, không hờn dỗi, biết cảm ơn cô - Kĩ xảo và thói quen sử dụng, giữ gìn và sắp xếp đồ dùng: Biết xếp, cất đồ dựng, đồ chơi, sách vở, quần áo, dày dép ngăn nắp, đúng vị trí - Vệ sinh môi trường: Không vứt rác bừa bãi, không nhổ bậy, không làm bẩn trường lớp, biết sử dụng nhà vệ sinh hợp lý, sạch sẽ Các nội dung này ở các độ tuổi khác nhau có mức độ yêu cầu khác nhau. Việc hình thành các kỹ xảo và thói quen văn hoá - vệ sinh cho trẻ là một quá trình dài, đòi hỏi phải kiên trì, tôn trọng khả năng và sức lực của trẻ, không nên vội vàng, áp đặt. * Các phương pháp, biện pháp giáo dục các kĩ xảo và thói quen văn hoá - vệ sinh Để hình thành kỹ xảo và thói quen văn hóa- vệ sinh, cần phải vận dụng các phương pháp, biện pháp khác nhau: 17
  17. -Trước hết cô phải nắm vững yêu cầu của chương trình về giáo dục kỹ năng , thói quen vệ sinh, nhất là ở mẫu giáo bé, vì cơ sở giáo dục kỹ xảo được đặt chính ở lứa tuổi này, còn trong những năm tiếp theo kỹ xảo được hoàn thiện dần. - Trong quá trình giáo dục kỹ xảo văn hoá - vệ sinh cho trẻ, đặc biệt ở giai đoạn đầu (mẫu giáo bé) việc vừa làm mẫu, vừa giảng giải có ý nghĩa quan trọng. - Tổ chức cho trẻ luyện tập thường xuyên: Luyện tập có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục kỹ xảo văn hoá - vệ sinh. Bản chất của luyện tập là cùng một hành động được lặp đi lặp lại nhiều lần trong những điều kiện khác nhau, qua đó, các kĩ xảo và thói quen văn hoá - vệ sinh của trẻ được hình thành, củng cố. Có thể sử dụng trò chơi để luyện tập cho trẻ. - Việc đề ra cho trẻ những yêu cầu giữ vai trò to lớn trong việc giáo dục các kỹ xảo văn hoá - vệ sinh. Trước hết, cô giáo phải giúp trẻ ý thức được ý nghĩa và sự hợp lý của các thao tác, các hành động văn hoá - vệ sinh, từ đó hình thành ở trẻ các hành vi, thói quen phù hợp. Tuy nhiên, yêu cầu phải hợp lý, vừa sức đối với trẻ. - Động viên khuyến khích trẻ - Phối hợp chặt chẽ với gia đình để tạo điều kiện cho trẻ được vận dụng, củng cố những kỹ năng đó ở gia đình. 2.1.3.2.2. Chế độ sinh hoạt của trẻ mẫu giáo Chế độ sinh hoạt là nội dung quan trọng của giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo. Chế độ sinh hoạt là sự phân bố thời gian và các hoạt động hợp lí trong ngày ở trường mần non nhằm đáp ứng nhu cầu về tâm lí và sinh lí của trẻ, qua đó giúp trẻ hình thành thái độ sống, nề nếp, thói quen và những kĩ năng sống tích cực. * Ý nghĩa: Chế độ sinh hoạt là điều kiện quan trọng để thực hiện có hiệu quả giáo dục thể chất. Do lặp đi lặp lại mọi yếu tố trong chế độ sinh hoạt mà trẻ tạo ra được những định hình hoạt động vững chắc, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc hình thành những phản xạ có điều kiện, giúp trẻ dễ dàng di chuyển từ hình thức này sang hình thức hoạt động khác. - Chế độ sinh hoạt có ý nghĩa giáo dục đối với trẻ: Do sự thường xuyên lặp lại các thao tác trong một thời gian nhất định và theo một trình tự nhất định làm cho trẻ dễ nắm được những sinh hoạt hợp lý, những kỹ năng văn hoá - vệ sinh. Chế độ sinh hoạt có tác dụng giáo dục cho trẻ ý thức kỷ luật và những thói quen đạo đức, sinh hoạt có nề nếp theo trật tự thời gian. * Yêu cầu đối với chế độ sinh hoạt: - Phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi: Đây là yêu cầu cơ bản của việc xây dựng chế độ sinh hoạt cho trẻ - Chế độ sinh hoạt phải được cố định: Khi chế độ sinh hoạt đó được xác lập một cách khoa học trên cơ sở các yêu cầu về tâm lí, sinh lí, giáo dục và thực tiễn ở mỗi địa phương thì cần phải được cố định. Các hoạt động học tập, vui chơi. lao động, dạo chơi, ăn ngủ, nghỉ ngơi cần phải đúng giờ. Việc thực 18
  18. hiện chế độ sinh hoạt ổn định góp phần hình thành các kĩ xảo và thói quen văn hoá - vệ sinh, giáo dục cho trẻ tính tổ chức, tính kỉ luật trong tập thể, ý thức của trẻ về thời gian. * Phân phối thời gian trong chế độ sinh hoạt của trẻ mẫu giáo (Theo “Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non” các giai đoạn độ tuổi -NXB GD Việt Nam 2011) Thời gian Hoạt động Mùa hè Mùa đông 6h45 – 8h00 7h00 – 8h20 Đón trẻ, chơi, thể dục sáng 8h00 – 8h 40 8h20 – 9h00 Học 8h40 – 9h20 9h00 – 9h40 Chơi, hoạt động ở các góc 9h20 – 10h00 9h40 – 10h20 Chơi ngoài trời 10h00 – 11h10 10h20 – 11h40 Ăn bữa chính 11h10 – 14h00 11h40 – 14h00 Ngủ 14h00 – 14h40 11h40 – 14h00 Ăn bữa phụ 14h40 – 15h40 14h40 – 15h40 Chơi, hoạt động theo ý thích 15h40 – 17h00 15h40 – 17h00 Trẻ chuẩn bị ra về và trả trẻ Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ sinh hoạt này không cứng nhắc, cần có sự linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế, theo mùa, thời tiết, nhưng cơ bản vẫn phải tuân theo các trình tự hoạt động trên đây. Riêng đối với các cơ sở học 2 buổi trong ngày trẻ ăn, ngủ ở gia đình. 2.1.3.2.3. Tổ chức ăn uống cho trẻ Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày, việc tổ chức chế độ ăn uống hợp lý có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển bình thường của trẻ, nó đảm bảo sự sống, sự phát triển chung của cơ thể. Trẻ mẫu giáo đang ở lứa tuổi phát triển nhanh về thể lực nên đòi hỏi khẩu phần ăn phải đầy đủ về chất và lượng. Vì vậy, cần phải cho trẻ ăn thức ăn có thành phần phù hợp với yêu cầu của cơ thể. * Chế độ ăn của trẻ Chế độ ăn Nhu cầu năng lượng trong Tại trường (dảm bảo 50- một ngày của trẻ 3-6 tuổi 60% nhu cầu cả ngày Cơm 1500-1600 Kcal 750- 960 Kcal thường Năng lượng phân phối cho các bữa ăn tại trường như sau: Bữa chính buổi trưa chiếm 35- 45% năng lượng cả ngày Bữa phụ chiếm khoảng 10- 15% năng lượng cả ngày. * Một số yêu cầu đối với việc tổ chức ăn uống cho trẻ mẫu giáo tại trường - Tổ chức cho trẻ ăn tối thiểu một bữa chính, một bữa phụ/ngày. Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện tổ chức bữa ăn. 19
  19. - Xây dựng thực đơn hàng ngày, theo tuần, theo mùa phù hợp với thực tế ở địa phương. - Đảm bảo cho trẻ ăn uống đầy đủ theo nhu cầu lứa tuổi. Cơ cấu khẩu phần cân đối, hợp lý. Tỉ lệ các chất cung cấp năng lượng theo cơ cấu sau: + Chất đạm (Protit): cung cấp khoảng 12-15% năng lượng khẩu phần + Chất béo (lipit): cung cấp khoảng 15- 20% năng lượng khẩu phần + Chất bột đường (Gluxit): cung cấp khoảng 65- 73% năng lượng khẩu phần - Cung cấp đủ nước uống khoảng 1,0- 1,5 lớt/trẻ/ngày (kể cả nước trong thức ăn). - Thay đổi cách chế biến phù hợp với từng độ tuổi. Tập cho trẻ ăn các loại thức ăn khác nhau, động viên trẻ ăn hết suất. - Trẻ phải rửa tay, lau mặt sạch sẽ trước và sau khi ăn. Ăn xong cho trẻ súc miệng, uống nước. - Rèn nề nếp, thói quen tốt, hành vi văn minh trong ăn uống và giữ gìn vệ sinh. - Xử lí kịp thời các tình huống bất thường có thể xảy ra trong bữa ăn. - Phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên, người chăm sóc trẻ và gia đình để chăm lo bữa ăn của trẻ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng đầy đủ, hợp lí. 2.1.3.2.4. Tổ chức cho trẻ ngủ * Ýnghĩa: Giấc ngủ có ý nghĩa rất to lớn trong việc phát triển thể chất cho trẻ, cụ thể là phục hồi chức năng làm việc của các tế bào thần kinh. Nếu trẻ ngủ không đủ giấc, không say thì sẽ làm cho hệ thần kinh và cơ thể mệt mỏi, dẫn đến sự rối loạn chức năng của hệ thần kinh, quá trình hưng phấn cao, làm xuất hiện xúc cảm tiêu cực ở trẻ như cáu kỉnh, trái tính trái nết, cơ thể suy nhược. Vì vậy cần tổ chức đúng đắn giấc ngủ cho trẻ. * Tổ chức cho trẻ ngủ: - Trước hết cần cho trẻ quen dần với chế độ từ thức sang ngủ phù hợp với độ tuổi, tập cho trẻ có nhu cầu ngủ đúng thời gian qui định (ở trẻ mẫu giáo do sự phát triển của quá trình nhận thức, do nhu cầu về các loại hoạt động và trò chơi ngày càng phức tạp cho nên thời gian thức, ngủ có khác so với tuổi nhà trẻ, nhiều khi trẻ quỏ ham chơi mà quên cả nhu cầu ngủ). - Cần tạo ra một chế độ ngày đêm thích hợp với lứa tuổi và những đặc điểm cá nhân của trẻ. Đây là phương tiện quan trọng để tạo ra nhu cầu ngủ của trẻ một cách đúng đắn. - Cần tạo ra trạng thái yên tĩnh cần thiết trước giờ ngủ (không có những kích thích mạnh, không làm ồn, không để ánh sáng chiếu vào phòng), phòng ngủ phải thoáng mát, đảm bảo ấm về mùa đông và mát về mùa hè. - Cần cho trẻ ngủ đúng giờ để tạo ra những phản xạ có điều kiện ở trẻ, giúp cho trẻ có thói quen ngủ nhanh và ngủ ngon giấc. - Giúp trẻ ngủ với thái độ ân cần, nằm đúng tư thế (không nằm sấp, không co đầu gối ), giúp đỡ riêng cho các trẻ yếu. 20
  20. - Giúp trẻ phát triển tính độc lập qua công việc chuẩn bị ngủ (chuẩn bị nơi ngủ). - Cho trẻ ngủ và thức theo nhóm mà không nên làm đồng loạt vì do có sự khác biệt cá nhân ở mỗi trẻ. - Phối hợp với gia đình để tổ chức giấc ngủ cho trẻ ở nhà. 2.1.3.2.5. Phát triển vận động cho trẻ. Bên cạnh việc giáo dục thể chất cho trẻ thông qua chế độ hàng ngày, việc phát triển các vận động cho trẻ mẫu giáo giữ vai trò hết sức quan trọng. * Ý nghĩa của vận động: - Vận động giữ vai trò to lớn trong đời sống con người, chúng không những làm cho cơ bắp mà cả cơ thể đều vận động: tăng cường hô hấp, tuần hoàn, trao đổi chất và tăng cường sức khoẻ nói chung. Vận động là cơ sở cho mọi hoạt động và thành công của con người, kết quả của công việc phụ thuộc vào ý nghĩa, cường độ, sự khéo léo, nhịp nhàng và vẻ đẹp của vận động. Làm cho vận động được hoàn thiện hơn có ý nghĩa to lớn không những đối với phát triển thể lực, mà cả đối với sự phát triển tâm lý. Các công trình nghiên cứu về sinh lý người của I.P. Paplốp, I.M. Xêsênốp đã khẳng định vai trò của vận động các cơ và bộ máy phân tích đến sự phát triển của não, trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh và trong quá trình lao động. - Các vận động của trẻ không những có hiệu quả sinh lý rất to lớn như phát triển cơ bắp, tăng cường trao đổi chất trong cơ thể, đẩy mạnh hoạt động chức năng của các cơ quan nội tạng mà còn có hiệu quả giáo dục.Trong các trò chơi vận động, trong các giờ thể dục, trong lao động trẻ được giáo dục những phẩm chất quý như sự định hướng trong không gian, nhanh nhẹn, chính xác, khéo léo, dẻo dai, kiên trì Vì vậy, dạy trẻ các vận động cơ bản như đi, chạy, nhảy, ném, leo trèo là nhiệm vụ quan trọng của giáo dục thể chất trong trường mẫu giáo. * Cơ sở để xây dựng chương trình giáo dục thể chất nhằm phát triển vận động cho trẻ mẫu giáo: Sự phát triển vận động không thể tách rời sự phát triển toàn bộ cơ thể và tâm lý trẻ. Vì vậy, khi xây dựng chương trình hoạt động để phát triển vận động cho trẻ cần dựa trên các cơ sở sau đây: - Khi chọn các bài tập, trò chơi cần ưu tiên chọn các bài tập, trò chơi có tác động chung đến cơ thể, đòi hỏi trẻ thực hiện một cách có ý thức và huy động nhiều cơ bắp tham gia hoạt động. - Chọn các bài tập, trò chơi vừa đảm bảo gây hứng thú, đồng thời phải đặt ra cho trẻ một nhiệm vụ vừa sức. - Lựa chọn các bài tập và trò chơi phát triển các vận động cơ bản (đi, chạy, giữ thăng bằng, bật nhảy, tung, ném, bắt, bò trườn, leo trèo), hình thành phát triển các kĩ năng về các vận động đó. - Tăng cường các nhóm cơ bắp còn yếu về mặt sinh lí và giáo dục tư thế đúng. - Giáo dục kĩ năng hành động và vận động trong tập thể. 21
  21. * Nội dung phát triển vận động cho trẻ mẫu giáo Từ các cơ sở trên, nội dung phát triển vận động cho trẻ mẫu giáo bao gồm: - Tập vận động các nhóm cơ và hô hấp - Tập các vận động cơ bản và biết ích lợi của việc luyện tập đối với sức khoẻ. - Tập các cử động bàn tay, ngón tay và tập làm một số việc đơn giản tự phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày. * Các hình thức phát triển vận động cho trẻ: Việc phát triển vận động cho trẻ cần được thực hiện thông qua các hình thức phong phú và đa dạng như: + Các trò chơi vận động, trò chơi thể thao: Đây là các hình thức hoạt động hấp dẫn có tác dụng phát triển nhiều vận động cơ bản. Trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo, các trò chơi được lựa chọn cho phù hợp với trẻ ở từng độ tuổi. + Thể dục buổi sáng và tiết học thể dục: Là những hình thức giáo dục thể chất có mục đích, có định hướng trong sự phát triển vận động cho trẻ mẫu giáo. Bao gồm bài tập vận động các nhóm cơ và hệ hô hấp, tập các vận động cơ bản. + Đi dạo ngoài trời: là phương tiện rèn luyện thích hợp nhất đối với cơ thể trẻ. Đi dạo giúp trẻ thích nghi với thời tiết, giúp trẻ vận động nhiều làm tăng cường quá trình trao đổi chất, rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo và các phẩm chất vận động. Đồng thời, đi dạo còn góp phần phát triển trí tuệ cho trẻ (óc quan sát, kích thích tư duy, tưởng tượng), giáo dục cho trẻ lòng yêu thiên nhiên, đất nước, gây cho trẻ những cảm xúc tích cực. 2.1.4. Phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ mầm non Phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ mầm non rất đa dạng và phong phú giúp cho người lớn thực hiện mục tiêu giáo dục một cách có hiệu quả. Trong những phương tiện giáo dục sức khỏe cho trẻ phải kể đến: - Chế độ sinh hoạt hợp lý, phù hợp với từng độ tuổi, đáp ứng và thoả mãn đầy đủ, kịp thời những nhu cầu về ăn, uống, vệ sinh của trẻ - Môi trường thiên nhiên xung quanh trẻ: ánh sáng, không khí và nước là những yếu tố thiên nhiên rất cần thiết cho cơ thể con người. Tận dụng được những yếu tố này trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ sẽ góp phần nâng cao sức khỏe và khả năng thích ứng của cơ thể đối với môi trường thiên nhiên, nâng cao sức đề kháng và phòng ngừa bệnh tật cho trẻ - Các bài tập luyện, các hình thức chơi, tập nhằm giúp trẻ được vận động nhiều và phát triển các vận động chủ yếu như lẫy, bò, ngồi, đứng, đi, chạy, cử động của đôi bàn tay - Tiêm chủng, phòng bệnh, đề phòng tai nạn 2.2. Giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non Giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non là quá trình sư phạm được tổ chức một cách có mục đích có kế hoạch nhằm cung cấp cho trẻ những tri thức 22
  22. sơ đẳng về thế giới xung quanh, hình thành những kĩ năng và phương thức hoạt động trí tuệ sơ đẳng, phát triển năng lực và nhu cầu hoạt động trí tuệ ở trẻ em. 2.2.1. Ý nghĩa của giáo dục trí tuệ cho trẻ Mầm non 2.2.1.1. Ý nghĩa của việc GD trí tuệ cho trẻ dưới 3 tuổi GD trí tuệ, đặc biệt là GD và phát triển hoạt động nhận cảm cho trẻ dưới 3 tuổi là vấn đề hết sức quan trọng vì đây là “cơ hội vàng” để luyện giác quan cho trẻ. Nếu bỏ lỡ cơ hội quý giá này sẽ gây ra hậu quả xấu cho việc phát triển năng lực nhận cảm của trẻ ở những lứa tuổi tiếp theo. Trẻ dưới 3 tuổi là giai đoạn có tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh, trong đó có sự phát triển các giác quan – yếu tố quan trọng để trẻ nhận thức thế giới xung quanh. Tuy nhiên vốn tri thức, nhận thức thế giới xung quanh còn hết sức mơ hồ, nếu không được dạy dỗ một cách chu đáo thì những tri thức mà trẻ có được chỉ mang tính rời rạc, không có tính hệ thống. Do vậy những biểu tượng về thế giới xung quanh của trẻ thường sai lệch. K.D.Usinxki đã chỉ ra rằng: “Sự thông minh của trẻ chẳng qua là hệ thống tri thức có tổ chức tốt, được người lớn hướng dẫn một cách có định hướng và có mục đích”. Như vậy, trí tuệ trẻ chỉ có thể phát triển đúng đắn nếu có tổ chức, hướng dẫn khoa học từ phía người lớn. - Thông qua các hình thức chơi - tập, chơi tự do, đặc biệt là những trò chơi thao tác với đồ vật, đồ chơi mà trẻ nắm được cách thao tác với đồ vật, đồ chơi, hiểu được ý nghĩa sử dụng, nắm được tính chất của đồ vật. Từ đó trẻ có khả năng mở rộng định hướng của mình trong môi trường xung quanh, tích cực khám phá những điều mới lạ, hấp dẫn trong thế giới đồ vật. - Trong quá trình giao tiếp với người lớn, nhờ sự giúp đỡ của người lớn, trẻ đã lĩnh hội được kinh nghiệm lịch sử xã hội đơn giản ban đầu về các sự vật xung quanh, về các mối quan hệ giữa con người với nhau, giữa con người với thế giới tự nhiên Do đó một số phẩm chất trí tuệ sơ đẳng của trẻ dưới 3 tuổi được hình thành như óc quan sát, năng lực phân biệt, khái quát đồ vật, chú ý, ghi nhớ - GD trí tuệ tạo điều kiện cho các giác quan phát triển tinh tường, cung cấp cho trẻ một số biểu tượng sơ đẳng về thế giới xung quanh, đồng thời đẩy mạnh sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 3 tuổi. - GD trí tuệ có liên quan mật thiết với GD đạo đức, thẩm mĩ cho trẻ, là yếu tố thúc đẩy phát triển các mặt khác. 2.2.1.2. Ý nghĩa của giáo dục trí tuệ cho trẻ mẫu giáo * Đặc điểm phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo: - Nhiều công trình tâm lí học đã xác định nhịp độ phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo rất cao so với những lứa tuổi tiếp theo. ở lứa tuổi mẫu giáo, sự tích luỹ tri thức diễn ra nhanh chóng, ngôn ngữ được hình thành, các quá trình nhận thức được hoàn thiện, trẻ nắm được các phương thức đơn giản của hoạt động trí tuệ. - Những thành tựu của nhiều công trình tâm lí học chứng tỏ rằng trẻ mẫu giáo có thể nhận thức một cách thành công không chỉ những thuộc tính bên 23
  23. ngoài của các sự vật, hiện tượng mà cả những mối quan hệ bên trong của chúng. Năng lực trừu tượng hoá, khái quát hoá, khả năng suy luận cũng đã hình thành ở lứa tuổi mẫu giáo với những hình thức ban đầu. Chẳng hạn, trẻ mẫu giáo có thể hiểu được mối quan hệ phụ thuộc giữa cấu trúc bên ngoài của động vật với những điều kiện tồn tại của chúng, có thể tạo ra ở trẻ những ý niệm về các điều kiện cơ bản của sự phát triển thực vật. Tuy nhiên, những nhận thức ấy không phải dưới hình thức khái niệm trừu tượng mà cơ bản là dưới hình thức những biểu tượng trực quan. - Sự phát triển trí tuệ của trẻ được thực hiện dưới tác động của môi trường xã hội. Trong quá trình đó, trẻ nắm ngôn ngữ đồng thời với việc nắm hệ thống khái niệm. Sự phát triển trí tuệ của trẻ diễn ra trong quá trình trẻ tham gia vào các loại hình hoạt động: trò chơi, học tập, lao động, giao tiếp, hoạt động tạo ra sản phẩm Tuy nhiên, sự phát triển trí tuệ của trẻ chỉ có thể đạt hiệu quả tốt nhất trong điều kiện dạy học và giáo dục. * Ý nghĩa của giáo dục trí tuệ cho trẻ mẫu giáo - Giáo dục trí tuệ thực hiện việc cung cấp cho trẻ những tri thức sơ đẳng về thế giới xung quanh, hệ thống hoá những tri thức đó, hình thành kĩ năng, kĩ xảo hoạt động trí tuệ, phát triển năng lực nhận thức, hoạt động tư duy tích cực của trẻ, bồi dưỡng hứng thú nhận thức cho trẻ. Vì vậy, giáo dục trí tuệ có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị những điều kiện cần thiết để trẻ học tập có kết quả ở trường phổ thông. - Giáo dục trí tuệ cho trẻ mẫu giáo là cơ sở cho việc hình thành những biểu tượng, khái niệm đạo đức, niềm tin đạo đức. Trong hoạt động trí tuệ có thể giáo dục trẻ nhiều nét tính cách cá nhân như tính mục đích, tính trung thực, cẩn thận, kiên trì, kiên định, sáng tạo - Giáo dục trí tuệ nói chung, cho trẻ mẫu giáo nói riêng được coi là cơ sở để phát triển toàn diện nhân cách con người. Nó có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác, nhất là với giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ. Cụ thể: + Đối với giáo dục đạo đức: Giáo dục trí tuệ là cơ sở cho việc hình thành những biểu tượng, khái niệm đạo đức, niềm tin đạo đức. Thông qua việc cung cấp cho trẻ những tri thức sơ đẳng về thế giới xung quanh mà hình thành cho trẻ tình cảm, thái độ đúng đắn đối với tự nhiên, xã hội, con người, hình thành cho trẻ nhiều nét tính cách tốt đẹp. + Đối với giáo dục thẩm mĩ: Giáo dục trí tuệ có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển thẩm mĩ của trẻ. Hệ thống biểu tượng, khái niệm về thế giới xung quanh đặt cơ sở cho giáo dục thẩm mĩ. Nhận thức những giá trị thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ đều dựa trên vốn tri thức mà trẻ có được. Mặt khác, sự phát triển năng lực nhận thức, cảm giác, tri giác là điều kiện cho hoạt động thẩm mĩ của trẻ. + Giáo dục trí tuệ cũng là cơ sở để thực hiện có hiệu quả giáo dục thể chất và giáo dục lao động. 2.2.2. Các nhiệm vụ giáo dục trí tuệ cho trẻ Mầm non 2.2.2.1. Nhiệm vụ của GD trí tuệ cho trẻ dưới 3 tuổi 24
  24. 2.2.2.1.1. Hình thành và phát triển hoạt động nhận cảm cho trẻ: nghĩa là phát triển cảm giác, tri giác dưới hình thức tập luyện các giác quan cho trẻ. Thông qua việc tổ chức các vận động, các hoạt động chơi - tập nhằm hình thành cho trẻ các chuẩn cảm giác: màu sắc, mùi, vị , đặc biệt là chuẩn cảm giác màu sắc. Trên cơ sở đó hình thành và phát triển khả năng định hướng trong không gian cho trẻ bằng thị giác và thính giác (trên – dưới, trước – sau, cao – thấp ). 2.2.2.1.2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc cung cấp vốn từ ngày càng phong phú cho trẻ. Giúp trẻ thông hiểu ngôn ngữ một cách đơn giản và tập diễn đạt bằng ngôn ngữ về nhu cầu, nguyện vọng của mình cho người khác hiểu. 2.2.2.1.3. Mở rộng định hướng với MTXQ, phát triển các loại hoạt động, hình thành các biểu tượng đơn giản về đồ vật, phát triển trí nhớ, sự chú ý, tư duy trực quan hành động, trí tưởng tượng, tình cảm để nhận biết thực tế xung quanh của trẻ. 2.2.2.2. Các nhiệm vụ giáo dục trí tuệ cho trẻ mẫu giáo 2.2.2.2.1. Hình thành cho trẻ các biểu tượng, khái niệm về cuộc sống xung quanh và bản thân. - Nhiệm vụ đầu tiên của giáo dục trí tuệ là giúp trẻ làm quen, tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh để hình thành những biểu tượng, khái niệm sơ đẳng về chúng, trên cơ sở đó hình thành cho trẻ thái độ đúng đắn đối với tự nhiên, xã hội, con người. Sự phát triển trí tuệ của trẻ chỉ diễn ra khi trẻ lĩnh hội những tri thức đầu tiên về các hiện tượng xung quanh. Giúp trẻ tìm hiểu thế giới xung quanh qua tri giác trực tiếp các sự vật và hiện tượng, dùng từ để chỉ những cái tri giác được, làm cho tri giác sâu sắc và thể hiện mối liên hệ qua lại giữa hệ thống tín hiệu thứ nhất và hệ thống tín hiệu thứ hai. Tìm hiểu xung quanh bao gồm tìm hiểu về các bộ phận của cơ thể người, các đồ vật và chất liệu, các loại động, thực vật gần gũi, các hiện tượng tự nhiên, các nghề nghiệp trong xã hội, các ngày lễ, ngày hội Nhiệm vụ của giáo viên là thường xuyên tăng cường vốn tri thức cho trẻ, sắp xếp, giải thích và hệ thống hóa các tri thức đó. Giúp trẻ có khái niệm dưới dạng những biểu tượng sơ đẳng về sự vật xung quanh, chức năng và một số phẩm chất của chúng Trẻ cũng cần tiếp thu tri thức về một số hiện tượng tự nhiên, nắm được mối liên hệ và quan hệ giữa các sự vật hiện tượng mang tính quy luật và những nguyên nhân gần gũi. - Bên cạnh việc giúp trẻ làm quen, tìm hiểu thế giới xung quanh, cần giúp trẻ làm quen với một số biểu tượng, khái niệm sơ đẳng về toán (tập hợp, số lượng, số thứ tự, số đếm). 2.2.2.2.2. Phát triển các quá trình tâm lí nhận thức cho trẻ Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục trí tuệ là phát triển các quá trình tâm lí nhận thức như cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng, trí nhớ, ngôn ngữ. - Phát triển cảm giác và tri giác: nhận thức thế giới xung quanh được bắt đầu từ cảm giác và tri giác. Ở lứa tuổi mẫu giáo, cảm giác, tri giác có ý nghĩa quan trọng giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh. Để phát triển cảm giác, tri 25
  25. giác cho trẻ, cần thường xuyên tổ chức cho trẻ quan sát các sự vật hiện tượng một cách có mục đích, có kế hoạch, nhận biết những đặc điểm nổi bật của chúng. - Phát triển ở trẻ tư duy trực quan - hành động, tư duy trực quan- hình tượng và tiến tới phát triển tư duy lôgic, tư duy khái niệm ở tuổi mẫu giáo. - Phát triển trí tưởng tượng: Thời kì đầu ở trẻ mẫu giáo chỉ có tưởng tượng tái tạo. Trên cơ sở đó cùng với sự tích luỹ kinh nghiệm sống và phát triển tư duy mà hình thành năng lực tưởng tượng sáng tạo. - Phát triển ngôn ngữ: Đây là nhiệm vụ rất quan trọng của giáo dục trí tuệ. Việc nắm được ngôn ngữ tạo ra khả năng nắm tri thức một cách gián tiếp mà không phải chỉ bằng con đường tri giác trực tiếp các sự vật và hiện tượng. Nhiệm vụ của trường mầm non là phát triển ngôn ngữ ở trẻ, làm phong phú vốn từ, hình thành hệ thống ngữ pháp, biết đặt câu, phát triển ngôn ngữ nói mạch lạc và đúng đắn. 2.2.2.2.3. Phát triển năng lực trí tuệ và tính ham hiểu biết cho trẻ. - Giáo dục trí tuệ có nhiệm vụ phát triển các năng lực trí tuệ ở trẻ. Năng lực trí tuệ của con người được biểu hiện ở các phẩm chất trí tuệ như tính định hướng, tính linh hoạt, tính mềm dẻo của trí tuệ, bề rộng, chiều sâu, tính độc lập, tính phê phán của trí tuệ các năng lực trí tuệ được thể hiện và phát triển trong quá trình hoạt động trí tuệ, trong quá trình lĩnh hội tri thức và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. - Giáo dục trí tuệ có nhiệm vụ phát triển các kĩ năng kĩ xảo hoạt động trí tuệ cho trẻ như: kĩ năng quan sát các sự vật, hiện tượng; phân biệt các dấu hiệu cơ bản và không cơ bản, so sánh với các sự vật khác; phân tích và tổng hợp các sự vật, hiện tượng. Các kĩ năng này là các thành phần tạo thành hoạt động nhận thức, chúng giúp trẻ nắm vững tri thức. - Bên cạnh việc phát triển năng lực trí tuệ, cần phát triển ở trẻ tính tò mò, lòng ham hiểu biết. Ham hiểu biết là phẩm chất vốn có của trẻ em, được thể hiện ở tính tích cực tìm tòi khám phá thế giới xung quanh, ở những câu hỏi mà trẻ luôn đặt ra cho người lớn. Đây là động cơ cho hoạt động trí tuệ của trẻ. Để phát triển tính ham hiểu biết cho trẻ giáo viên cần phải: + Tạo nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh ở trẻ. Kích thích và nuôi dưỡng nhu cầu khám phá thế giới xung quanh của các em. + Tạo môi trường trong lớp và ngoài trời phong phú và hấp dẫn trẻ, kích thích trẻ tò mò, khám phá, so sánh, phân loại, tưởng tượng và đếm + Thiết kế và tổ chức các hoạt động khám phá phù hợp với nhu cầu, hứng thú của trẻ và kích thích trẻ quan sát, xem xét các sự vật, hiện tượng (tạo cơ hội cho trẻ đặt câu hỏi, tìm kiếm kiến thức mới, tìm cách giải quyết vấn đề và thể hiện những điều quan sát, khám phá bằng những cách khác nhau). 2.2.3. Nội dung GD trí tuệ cho trẻ Mầm non 2.2.3.1. Nội dung GD trí tuệ cho trẻ dưới 3 tuổi 2.2.3.1.1. GD và phát triển hoạt động nhận cảm cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ * Ý nghĩa của việc GD và phát triển hoạt động nhận cảm 26
  26. Theo quan niệm của N.H.Sêvanốp, trẻ dưới 3 tuổi là “cơ hội vàng” để GD và phát triển hoạt động nhận cảm. Trong một khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi so với cả quãng thời gian dài một đời người từ khi sinh cho đến năm 2 tuổi, đứa trẻ trải qua một chặng đường phát triển nhận cảm phức tạp và kỳ diệu. Từ chưa biết phân biệt, phân biệt chưa rõ ràng từ các ấn tượng biểu tượng đến biết tri giác đồ vật trọn vẹn. Các giác quan phát triển như cửa sổ nối trẻ với thế giới bên ngoài giúp trẻ nhận thức rõ thế giới xung quanh. Cụ thể: + Mới sinh trẻ chỉ biết nhìn theo ánh sáng, tiếng động + 2-3 tháng: nhìn theo đồ vật sặc sỡ, hóng chuyện + 4- 6 tháng: phân biệt người lạ, người quen, tiếp xúc đồ vật theo các tư thế khác nhau + 1 tuổi: tri giác một cách trọn vẹn đối tượng + 3 tuổi:nắm được hơn 3 màu trong quang phổ, hình dạng, âm thanh Nhờ sự phát triển nhanh hoạt động nhận cảm đã giúp trẻ khám phá cho mình một thế giới đồ vật, đồ chơi đa dạng về màu sắc, hình dáng, âm thanh. Từ đó giúp cho chú ý, trí nhớ, những hình thức tư duy sơ đẳng của trẻ được hình thành và làm “chỗ đệm” cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Tất cả những bước phát triển này không phải do sự tăng trưởng của cơ thể mang lại mà phần lớn là do các kích thích từ bên ngoài tác động vào cơ quan nhận cảm, thúc đẩy trẻ vận động, nhờ đó mà hoạt động nhận cảm của trẻ hình thành và phát triển. Tốc độ phát triển vận động và tính tích cực trong hoạt động nhận cảm của trẻ phụ thuộc rất lớn vào công tác chăm sóc – giáo dục của người lớn. Nếu người lớn không chú ý hoặc bỏ qua giai đoạn phát triển quan trọng này của trẻ thì vô hình dung ta đã bỏ qua một cơ hội vàng để phát triển trí tuệ cho trẻ và khó có thể bù đắp lại được cho trẻ vào những giai đoạn sau. Thực tế đã cho hay, một đứa trẻ mà các giác quan của nó kém tinh tường, khả năng vận động kém thường là những đứa trẻ chậm phát triển trí tuệ. Các nhà giáo dục học Xô viết cho rằng, ngay từ khi mới sinh ra đứa trẻ đã có những giác quan tương đối hoàn chỉnh, nhưng bản thân đứa trẻ không có khả năng tri giác các đồ vật và hiện tượng xung quanh nó. Việc hình thành tri giác cho trẻ nhỏ là quá trình người lớn truyền thụ cho trẻ kinh nghiệm lịch sử xã hội một cách vô tình, ngẫu nhiên hoặc bằng dạy học. Nếu quá trình truyền thụ kinh nghiệm cho trẻ có sự hướng dẫn có chủ định của người lớn sẽ đảm bảo và tạo điều kiện cho sự phát triển của trẻ có hiệu quả hơn, khắc phục được tình trạng rời rạc, thiếu hệ thống và sai lệch trong các biểu tượng về thế giới xung quanh của trẻ. Mặt khác, nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lí tính. Theo như cách nói của Lênin: các cảm giác là những viên gạch đầu tiên xây lên lâu đài nhận thức. Các nhà Tâm lí học trẻ em khẳng định rằng, sự phát triển tư duy nói riêng và trí tuệ nói chung phụ thuộc rất lớn vào năng lực nhận cảm của trẻ. 27
  27. Phát triển nhận cảm cho trẻ dưới 3 tuổi là một việc làm cần thiết, nó không những chỉ có ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ nói riêng mà còn có ảnh hưởng chung đến sự phát triển của trẻ. Trên thế giới có nhiều trường phái nghiên cứu và quan tâm đến sự phát triển nhận cảm của trẻ, đặc biệt là trẻ dưới 3 tuổi. Các nhà giáo dục trên thế giới cũng đã khẳng định ý nghĩa lớn lao của việc giáo dục và phát triển hoạt động nhận cảm cho trẻ nói chung và trẻ dưới 3 tuổi nói riêng. * Nhiệm vụ của GD nhận cảm Trong 3 năm đầu của cuộc đời đứa trẻ thì nhiệm vụ giáo dục nhận cảm cho trẻ có sự thay đổi trong mối quan hệ với đặc điểm của từng độ tuổi. Cụ thể: - Nhiệm vụ GD nhận cảm trong năm đầu: + Phát triển và GD nhận cảm vận động (thông qua phát triển các vận động: lẫy, bò, ngồi, tập đi ) và các cử động của bàn tay, ngón tay + Phát triển xúc giác (cảm giác da), thị giác, thính giác + Luyện tập cho trẻ biết phối hợp thị giác, thính giác với vận động - Năm thứ 2 và năm thứ 3: + Hình thành và phát triển năng lực nhận cảm như nhận biết và phân biệt được độ lớn, màu sắc, hình dáng, âm thanh của đồ vật, vị trí không gian của đồ vật so với các đồ vật khác. + Tiếp tục phát triển cảm giác vận động thông qua việc tổ chức cho trẻ bò, trườn, chạy , nhảy và rèn luyện sự linh hoạt và khéo léo của đôi bàn tay + Hình thành “chuẩn nhận cảm” (màu sắc, mùi vị ), khả năng định hướng không gian (trước – sau, trên – dưới, trong – ngoài, cao – thấp ), khả năng định hướng về thời gian (sáng, trưa, chiều, tối, hôm qua, hôm nay, ngày mai ) và cho trẻ cảm nhận thế giới xung quanh thông qua cảm giác, hình dạng, kích thước, âm thanh, * Các phương tiện chủ yếu để GD và phát triển nhận cảm cho trẻ - Thông qua hoạt động với đồ vật trong các giờ chơi tập, chơi tự do: nếu như có sự tổ chức, hướng dẫn của người lớn, đứa trẻ sẽ nhận ra được các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng khách quan (về màu sắc, hình dạng, kích thước, tên gọi, âm thanh và vị trí không gian của vật này so với vật kia ). Nhờ đó mà trẻ có được biểu tượng đầy đủ hơn về đồ vật, hiện tượng. - Các giờ luyện tập giác quan phát triển cảm giác, tri giác, vận động cho trẻ: khi trẻ hoạt động với đồ vật, đồ chơi người lớn không chỉ giúp trẻ nắm được các thuộc tính bề ngoài của chúng mà cần giúp trẻ hiểu được cả chức năng sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Điều quan trọng ở đây là người lớn phải kích thích trẻ hoạt động, tạo điều kiện cho trẻ hoạt động, gây hứng thú để trẻ có nhu cầu hoạt động, nhu cầu khám phá những bí ẩn của đồ dùng, đồ chơi. Mặt khác, khi hướng dẫn trẻ luyện các giác quan, cần tập cho trẻ biết cách quan sát và nhận ra đồ vật, phân biệt vật này với vật kia theo một dấu hiệu nào đó, cho trẻ được trực tiếp thao tác với đồ vật, hướng dẫn bằng lời kèm theo minh họa để trẻ bắt chước, cần làm giàu vốn sống của trẻ bằng cách cho trẻ tham gia vào việc nghe, ngửi, nếm, sờ mó, cầm nắm 28
  28. - Trong sinh hoạt hàng ngày, người lớn cần thường xuyên chú ý làm giàu kinh nghiệm nhận cảm cho trẻ bằng cách cho trẻ sử dụng các giác quan tham gia vào việc nghe, nhìn, ngửi, nếm, cầm nắm, sờ mó 2.2.3.1.2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 3 tuổi * Đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ dưới 3 tuổi - Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản giữa con người với con người, là phương tiện nhận thức thế giới xung quanh, là vỏ của tư duy. Nhờ có ngôn ngữ mà đứa trẻ có khả năng mở rộng tầm nhìn của mình, trẻ có thể biểu đạt được sự hiểu biết, tình cảm, thái độ của mình và hiểu được ý của người lớn, từ đó giúp trẻ tích cực hoạt động giao tiếp với mọi người. Vì vậy, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng đắn và kịp thời là nhiệm vụ nặng nề của GD trí tuệ cho trẻ dưới 3 tuổi. Đối với trẻ nhỏ, giao tiếp bằng ngôn ngữ với những người xung quanh là một nhu cầu bức thiết và được nảy sinh từ rất sớm. Nếu người lớn không đáp ứng kịp thời hoặc lơ là trong công tác giáo dục và dạy trẻ nói tức là đã bỏ qua một cơ hội tốt để phát triển ngôn ngữ cho trẻ, khó hình thành tính tích cực giao tiếp bằng ngôn ngữ ở trẻ. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đạt tới tốc độ rất nhanh mà sau này khi lớn lên khó có giai đoạn nào sánh bằng. +Trẻ ngoài tháng biết hóng chuyện (thoạt đầu là những hợp âm gừ, gừ, ầu ơ chưa thành tiếng), bắt đầu bước vào thế giới ngôn ngữ mẹ đẻ, là cơ sở hình thành phát triển nhân cách trẻ. +5 - 6 tháng nói được một số từ đơn giản: bà, cha, ma + Cuối năm đầu, khi mà cơ quan phát âm đã phát triển, trẻ nói được những từ đầu tiên, thể hiện được sự nhận thức TGXQ và bước đầu hiểu được một số từ trong thế giới người lớn + Lên 2 tuổi, trẻ bắt đầu bước vào thời kỳ “phát cảm về ngôn ngữ”, tức là ngôn ngữ phát triển rất nhanh, trẻ rất ham nói, “thỏ thẻ như trẻ lên hai”. + Cuối 2 tuổi: sự phát triển ngôn ngữ đạt tới tốc độ rất nhanh, sau này khi lớn lên khó có giai đoạn nào có thể sánh bằng Có được tốc độ như vậy là nhờ sự tác động tích cực của trẻ với đồ vật, đồ chơi và thông qua giao tiếp với người lớn. Mặt khác, khi đã tự đi được trẻ được tiếp xúc với MTXQ rộng hơn và thấy được bao nhiêu điều mới lạ, trẻ rất thích thú với những điều mình làm quen, khám phá, trẻ muốn kể những điểu mắt thấy tai nghe cho người lớn. Khi trẻ học nói khiến người lớn nói theo, trẻ hỏi người lớn đáp, người lớn hỏi trẻ đáp, cuộc đối thoại diễn ra liên tục. Chính trong khi giao tiếp với người lớn trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm lịch sử xã hội, đồng thời khi học nói trẻ còn tiếp nhận được vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, nếu tuổi lên 3 mà trẻ không có điều kiện giao tiếp, không được nói chuyện với ai, thì không những ngôn ngữ kém phát triển mà các mặt khác cũng bị trì trệ theo. - Việc phát triển ngôn ngữ của trẻ nhỏ diễn ra theo 2 con đường: 29
  29. + Hiểu được lời nói của người khác Thời gian đầu trẻ chỉ hiểu trong chính hoàn cảnh giao tiếp (VD: Nói “ô tô” phải có ô tô trước mặt hoặc tranh vẽ ô tô, muốn nói “quả bóng” thì trẻ phải thấy quả bóng ) hoặc trẻ phản ánh đúng lời nói của những người xung quanh nếu từ ngữ được lặp đi lặp lại nhiều lần cùng với những cử chỉ tương ứng (VD: bắt tay, chào tạm biệt, hôn tạm biệt ). Lúc đó trẻ tìm được mối liên hệ giữa lời nói với sự vật và hiện tượng xung quanh tức là hiểu được lời nói. Cuối 2 tuổi: tình huống giao tiếp dần mất ý nghĩa, trẻ bắt đầu hiểu được các từ ngữ mà không cần tình huống cụ thể. Lúc này lời chỉ dẫn của người lớn bắt đầu điều chỉnh được hành vi của trẻ trong những tình huống khác nhau. Đây là bước tiến về chất trong việc hiểu được lời nói của người khác. Thời điểm này, trẻ rất thích nghe người lớn trò chuyện với nhau và cố gắng hiểu những điều người lớn nói và những câu chuyện cổ tích, những bài đồng dao có ý nghĩa rất quan trọng đối với trẻ. Nó không những phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ hiểu được ngôn ngữ mà còn có tác dụng GD trẻ. Những câu chuyện đơn giản về sinh hoạt hàng ngày của trẻ làm trẻ thích thú như được nghe chuyện về mình, những câu thơ giàu hình ảnh, những bài đồng giao ngộ nghĩnh khiến trẻ muốn đọc theo và sẽ nhớ rất lâu Vì vậy, người lớn cần tạo điều kiện để trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, đặc biệt là văn học dân gian. + Nói cho người khác hiểu Đây là một bước phát triển mới về ngôn ngữ, trí tuệ của trẻ. Điều này diễn ra khi đứa trẻ hiểu được ngôn ngữ của người khác không cần kèm theo tình huống cụ thể. Nghĩa là, lúc đầu vốn từ còn ít, sử dụng được vài từ nhất định. Sau vốn từ tăng, trẻ bắt đầu nắm được cấu trúc ngữ pháp, phát âm chuẩn hơn, nhu cầu diễn đạt bằng lời mong muốn, ý nghĩ của mình cho người khác hiểu được bộc lộ và phát triển. Từ đó, trẻ bắt đầu diễn đạt hiểu biết cũng như nhu cầu, nguyện vọng của mình bằng những câu đơn giản cho người khác hiểu. * Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 3 tuổi người lớn cần: - Thường xuyên gần gũi, nói chuyện âu yếm với trẻ (ngay cả khi trẻ chưa biết nói), tạo mọi cơ hội cho trẻ tập nói và dạy trẻ nói vào bất cứ lúc nào. - GD và tạo ra nhu cầu giao tiếp với người lớn cho trẻ, tạo cho trẻ trả lời và đặt ra các câu hỏi. - Tổ chức các hoạt động với đồ vật, những giờ chơi luyện và tiếp xúc với người lớn để trẻ được nói, được nghe, được hiểu khi người khác nói Trong hoạt động cũng như trong trong sinh hoạt hàng ngày, điều gì trẻ đã biết nên hỏi trẻ để trẻ tự trả lời. Khi trẻ không trả lời được người lớn nói cho trẻ nhắc lại. Khi trẻ muốn gì, người lớn yêu cầu trẻ nói, nếu trẻ chưa nói được thì người lớn nói cho trẻ nghe - Tập cho trẻ nói rõ ràng, mạch lạc. Nếu trẻ nói lắp, nói ngọng cần phải sửa ngay, người lớn cần kiên trì, bình tĩnh sửa cho trẻ. Không bắt trẻ nói những 30
  30. câu quá dài và cũng đừng bắt trẻ nói quá nhiều lần một câu. Giúp trẻ nói đúng ngữ pháp, không nói tục, chửi bậy - Trong sinh hoạt hàng ngày, người lớn cần nói những câu thanh lịch, có hình ảnh để trẻ bắt chước như nói đúng từ, đúng câu, rõ ý, không nói trống không, lời nói có âm điệu, có hình ảnh Tóm lại, đối với trẻ dưới 3 tuổi, nhất là giai đoạn 2 - 3 tuổi là thời điểm quan trọng để dạy nói. Người lớn cần phải nắm lấy cơ hội và có những biện pháp đúng đắn để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Không chỉ dạy trẻ phát âm đúng, tròn vành rõ chữ mà dạy cả những lời nói đẹp, biết chào hỏi, xin lỗi, qua đó dạy trẻ cách ứng xử với mọi người xung quanh. 2.2.3.1.3. Phát triển khả năng định hướng trong môi trường xung quanh cho trẻ Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ cần đi đôi với việc mở rộng khả năng định hướng xung quanh của trẻ. Trong khi giao tiếp với trẻ, người lớn cần gọi tên đồ vật, những thuộc tính của chúng cũng như các thao tác, cách sử dụng. Trong các giờ chơi - tập với đồ vật, đồ chơi, chú ý hình thành cho trẻ một số biểu tượng về đồ vật, phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Cần dạy cho trẻ biết thiết lập mối quan hệ giữa các đồ vật, gọi tên các đồ vật bằng lời nói nhằm phát triển cho trẻ năng lực phân biệt và khái quát ban đầu, giúp trẻ nhận biết đồ vật dưới dạng tự nhiên, dạng đồ chơi, tranh mô tả trên cơ sở đó rèn cho trẻ kỹ năng nhìn thấy những dấu hiệu riêng biệt của đồ vật. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ dưới 3 tuổi còn liên quan chặt chẽ với sự phát triển tư duy trực quan hành động, sự chú ý và trí nhớ của trẻ. Vì vậy, bên cạnh nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ, mở rộng khả năng định hướng xung quanh cần chú ý phát triển tư duy, sự chú ý, trí nhớ của trẻ nhỏ. * Phát triển tư duy trực quan – hành động Trẻ dưới 3 tuổi khi quan sát đồ vật xung quanh và thao tác với đồ vật, đồ chơi khác nhau, trẻ bắt đầu biết phân biệt và khái quát theo những dấu hiệu đặc trưng, riêng biệt của đồ vật. Để phát triển năng lực phân biệt và khái quát đồ vật của trẻ, người lớn cần cho trẻ được hoạt động nhiều với đồ vật, đặt ra nhiệm vụ cụ thể, tập cho trẻ biết quan sát đồ vật, tìm ra những dấu hiệu giống và khác nhau, biết biểu đạt bằng lời nói * Phát triển chú ý Chú ý của trẻ dưới 3 tuổi là chú ý không chủ định chiếm ưu thế. Tuy nhiên, nhờ các biện pháp GD đặc biệt, những giờ chơi - tập chuyên biệt có thể hình thành cho trẻ sự chú ý có chủ định. Do đó cần phải hướng dẫn trẻ chơi - tập có mục đích, có định hướng cụ thể và đảm bảo điều kiện thuận lợi cho trẻ được tập trung chơi - tập với đồ vật, đồ chơi của mình. Để phát triển chú ý có chủ định cho trẻ cần chú ý: - Đảm bảo cung cấp nhiều loại đồ chơi cho trẻ, chú ý không để trẻ quấy phá lẫn nhau khi chơi - tập. 31
  31. - Cần giải thích và hướng dẫn cho trẻ cách thao tác với đồ vật, đồ chơi, GD cho trẻ năng lực biết nghe, biết quan sát, chăm chú vào lời giải thích và sự hướng dẫn của người lớn. Tập cho trẻ biết tập trung vào vận động của mình. - Khêu gợi và duy trì hứng thú của trẻ với đồ vật, đồ chơi, chơi lâu với đồ vật, đồ chơi của mình. - Không làm đứt đoạn hoạt động của trẻ. * Phát triển trí nhớ - Đặc điểm trí nhớ của trẻ dưới 3 tuổi + 3 – 4 tháng trẻ đã nhận biết được các đồ vật quen thuộc + 5 – 6 tháng: phân biệt được mẹ với người lạ + 2 – 3 tuổi: trẻ đã mô phỏng được những hành động của người khác - Sự phát triển trí nhớ của trẻ diễn ra trong hoạt động với đồ vật, trong giao tiếp với người lớn. Tuy nhiên, trí nhớ của trẻ dưới 3 tuổi mang tính chất không chủ định, vì thế không nên đặt ra cho trẻ nhiệm vụ ghi nhớ cái gì đó. - Để phát triển trí nhớ cho trẻ, người lớn cần làm giàu biểu tượng về cuộc sống xung quanh cho trẻ và dạy trẻ chú ý tiếp nhận biểu tượng xung quanh, cho trẻ được trực tiếp thao tác với đồ vật nhiều lần, tạo điều kiện được nhắc lại thường xuyên để trẻ dần dần ghi nhớ một số quan hệ của các đồ vật ấy với xung quanh và những đồ vật ấy được khắc sâu trong trí nhớ của trẻ. 2.2.3.2. Nội dung GD trí tuệ cho trẻ Mẫu giáo 2.2.3.2.1. Giáo dục nhận cảm Giáo dục nhận cảm là sự hướng dẫn sư phạm nhằm hoàn thiện và phát triển quá trình nhận thức cảm tính: cảm giác, tri giác. Nhận thức thế giới của trẻ thường bắt đầu từ cảm giác, tri giác.Trẻ mẫu giáo phản ánh thế giới phần lớn bằng con đường nhận thức cảm tính, tư duy của trẻ thiên về trực quan- hành động, tư duy trực quan – hình tượng. Cảm giác, tri giác càng phát triển thì tri thức về thế giới xung quanh của trẻ tiếp thu được càng phong phú, đa dạng và sâu sắc hơn, tư duy của trẻ do đó cũng phát triển hơn. Như vậy, việc giáo dục nhận cảm cho trẻ là điều kiện quan trọng để hoạt động nhận thức có kết quả. - Giáo dục nhận cảm cho trẻ mẫu giáo có nhiệm vụ: + Rèn luyện những năng lực hoạt động nhận cảm cho trẻ + Hình thành hệ chuẩn cảm giác + Rèn luyện kĩ năng vận dụng những hoạt động nhận cảm và chuẩn cảm giác vào thực tiễn - Để thực hiện các nhiệm vụ trên, nội dung cụ thể của giáo dục nhận cảm cho trẻ mẫu giáo như sau: + Dạy trẻ phân biệt và nói tên các màu sắc, hình thành các biểu tượng về sắc thái của chúng, phát triển năng lực cảm thụ màu sắc khi xem tranh. + Dạy trẻ phân biệt hình dạng, kích thước các vật và so sánh với các vật khác. + Dạy trẻ lĩnh hội khái niệm về không gian: trước - sau, trên - dưới, xa - gần, phải - trái và sử dụng trong sinh hoạt. 32
  32. + Dạy trẻ định hướng về thời gian, hiểu tính liên tục và độ dài của thời gian. Trẻ nắm được các khái niệm và biểu tượng về một số đại lượng của thời gian: hôm qua, hôm nay, ngày mai, giờ, phút + Phát triển sự nhạy cảm về âm thanh, kĩ năng lắng nghe và phân biệt các âm thanh trong hoàn cảnh xung quanh, phát triển thính giác ngôn ngữ, năng lực phân tích cấu trúc âm thanh của từ và thính giác âm nhạc (độ cao của âm thanh, nhịp điệu ). + Phân biệt bằng cảm giác vật chất của các vật thể và diễn đạt bằng ngôn ngữ: nhẵn nhụi, mềm mại, sần sùi, cứng, mềm, nặng nhẹ, lạnh ấm. + Phát triển các cảm giác vận động, khứu giác và vị giác - Phương pháp giáo dục nhận cảm Phương pháp cơ bản của giáo dục nhận cảm là tổ chức cho trẻ quan sát các sự vật để xác định những tính chất của chúng. Quan sát là sự tri giác có mục đích, có kế hoạch các sự vật, hiện tượng nhằm thu được những biểu tượng ban đầu về chúng. Cần dạy cho trẻ biết cách quan sát các đối tượng theo một trình tự nhất định. Ví dụ: khi dạy vẽ hoặc thiết kế xây dựng có thể hướng dẫn trẻ quan sát theo trình tự: tri giác chung toàn bộ sự vật, tách các bộ phận riêng biệt và xác định tính chất của chúng (màu sắc, hình dạng, kích thước ), xác định quan hệ không gian giữa các bộ phận (cao thấp, phải trái ), xác định vị trí của các phần nhỏ hơn trong các bộ phận cơ bản, cuối cùng xem xét lại toàn bộ sự vật. Ở mỗi loại hoạt động có những hướng dẫn khác nhau, ở mỗi lứa tuổi cũng cần có phương pháp hướng dẫn khác nhau Phương tiện chung của giáo dục nhận cảm là các loại hình hoạt động có mục đích và có nội dung phong phú, hấp dẫn: tạo hình, xây dựng - lắp ghép, âm nhạc, trò chơi, tìm hiểu môi trường xung quanh.v.v Mỗi loại hình hoạt động đều có những thế mạnh riêng trong việc giáo dục nhận cảm cho trẻ. 2.2.3.2.2. Khám phá khoa học về cơ thể người và thế giới tự nhiên xung quanh Đây là nội dung rất quan trọng của giáo dục trí tuệ cho trẻ mẫu giáo nhằm cung cấp cho trẻ những biểu tượng, khái niệm về thế giới xung quanh, phát triển năng lực nhận thức cho trẻ. Nội dung này bao gồm: - Khám phá khoa học về các bộ phận của cơ thể người: Trẻ tìm hiểu, khám phá về các giác quan và các bộ phận khác của cơ thể, các chức năng của chúng. - Khám phá khoa học về đồ vật và chất liệu: Trẻ tìm hiểu đồ vật và chất liệu về: + Đặc điểm nổi bật, công dụng, cách sử dụng đồ dùng, đồ chơi và các phương tiện giao thông quen thuộc, mối liên hệ đơn giản giữa đặc điểm cấu tạo và cách sử dụng của đồ dùng, đồ chơi quen thuộc. + Sự giống nhau, khác nhau của các loại đồ dùng, đồ chơi, các phương tiện giao thông, phân loại chúng dựa trên những dấu hiệu nổi bật. + Làm quen và tìm hiểu các đặc điểm nổi bật của các chất liệu: gỗ, nhựa, kim loại, vải, ni lông 33
  33. - Khám phá khoa học về thực vật và động vật: ở nội dung này cần tổ chức cho trẻ tìm hiểu, khám phá về: + Đặc điểm, ích lợi, tác hại, điều kiện sống của một số cây, hoa, quả, con vật gần gũi, môi trường sống của chúng. + Mối liên hệ đơn giản giữa cây cối, con vật với môi trường sống của chúng, với con người và giữa chúng với nhau. + Làm quen với cách chăm sóc và bảo vệ cây cối, con vật gần gũi + Phân biệt sự giống nhau và khác nhau của một số loại cây, hoa, quả, con vật. Phân loại chúng theo những dấu hiệu nổi bật. - Khám phá khoa học về các hiện tượng tự nhiên + Các hiện tượng thời tiết: nắng, mưa, nóng, lạnh, ảnh hưởng của thời tiết đến đến sinh hoạt của con người. + Ngày và đêm, Mặt trời, Mặt trăng. + Nước: Các nguồn nước trong trong môi trường sống; ích lợi của nước đối với đời sống của con người và cây cối, con vật; các trạng thái, đặc điểm, tính chất của nước; nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước; giữ gìn, bảo vệ nguồn nước. + Không khí, ánh sáng, đất, đá, cát, sỏi: Các nguồn ánh sáng, không khí và sự cần thiết của nó đối với cuộc sống con người, cây cối và con vật. Các nội dung trên đây được mở rộng và nâng cao dần phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ ở từng độ tuổi. 2.2.3.2.3. Dạy trẻ làm quen với một số khái niệm sơ đẳng về toán Để phát triển nhận thức cho trẻ, ngoài việc giúp trẻ khám phá khoa học về cơ thể người và thế giới tự nhiên xung quanh, cần giúp trẻ làm quen với một số khái niệm sơ đẳng về toán. Nội dung này bao gồm: - Làm quen với tập hợp, số lượng, số thứ tự và đếm: + Đối với trẻ mẫu giáo bé: Đếm trên đối tượng trong phạm vi 5 và đếm theo khả năng; nhận biết 1 và nhiều. + Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ: Đếm trên đối tượng trong phạm vi 10 và đếm theo khả năng; nhận biết chữ số, số lượng và số thứ tự trong phạm vi 5. + Đối với trẻ mẫu giáo lớn: Đếm trong phạm vi 10 và đếm theo khả năng; nhận biết chữ số, số lượng và số thứ tự trong phạm vi 10. Ngoài ra, trẻ mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn cần phải nhận biết được ý nghĩa các con số được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày (số nhà, biển số xe ). - Xếp tương ứng: + Đối với trẻ mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ: Xếp tương ứng 1-1, ghép đôi. + Đối với trẻ mẫu giáo lớn: Ghép thành cặp những đối tượng có mối liên quan. - So sánh, phân loại và sắp xếp theo qui tắc: + Đối với trẻ mẫu giáo bé: Phân thành 2 nhóm theo 1-2 dấu hiệu; xếp xen kẽ; so sánh 2 đối tượng về kích thước. 34
  34. + Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ: Phân thành nhiều nhóm theo 1-2 dấu hiệu; sắp xếp 3 đối tượng theo trình tự nhất định; phát hiện qui tắc sắp xếp và tiếp tục làm theo qui tắc đó. + Đối với trẻ mẫu giáo lớn: Phân thành các nhóm và tìm dấu hiệu chung của các nhóm đối tượng; phát hiện qui tắc sắp xếp và tiếp tục làm theo qui tắc đó, tìm chỗ không đúng theo qui tắc; sắp xếp các đối tượng theo trình tự nhất định. - Đo lường: Nội dung này chỉ dành cho trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn. Cụ thể: + Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ: đo độ dài bằng một đơn vị đo nào đó; đo thể tích, dung tích bằng một đơn vị đo nào đó (bát, cốc ). + Đối với trẻ mẫu giáo lớn: đo độ dài một vật bằng các đơn vị đo khác nhau; đo độ dài các vật bằng một đơn vị đo nào đó, so sánh và diễn đạt kết quả đo; đo thể tích, dung tích các vật bằng một đơn vị đo nào đó, so sánh, diễn đạt kết quả đo. - Hình dạng: + Trẻ mẫu giáo bé: Nhận biết, gọi tên hình vuông, hình tròn, hình tam giác, hình chữ nhật và nhận dạng các hình đó trong thực tế. + Trẻ mẫu giáo nhỡ: so sánh sự khác nhau và giống nhau của các hình: hình vuông, hình tròn, hình tam giác, hình chữ nhật. + Trẻ mẫu giáo lớn: Nhận biết, gọi tên khối cầu, khối vuông, khối chữ nhật, khối trụ và nhận dạng các khối hình đó trong thực tế; phân biệt chúng với nhau. - Định hướng trong không gian, thời gian: (xem mục: nội dung giáo dục nhận cảm). 2.2.3.2.4. Phát triển ngôn ngữ: Phát triển ngôn ngữ là nội dung quan trọng của giáo dục trí tuệ. Ngôn ngữ là “vỏ của tư duy”, là phương tiện để giao tiếp, để hiểu người khác, là công cụ quan trọng để nhận thức thế giới xung quanh. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo bao gồm các nội dung cơ bản như nghe, nói và làm quen với việc học đọc, học viết. Cụ thể: - Nghe: + Nghe các âm thanh, ngữ điệu, giọng nói khác nhau. + Nghe hiểu nội dung lời nói, giao tiếp hàng ngày + Nghe hiểu nội dung truyện, bài hát, bài thơ, ca dao, đồng dao, tục ngữ phù hợp với độ tuổi. - Nói: + Phát âm theo các âm chuẩn tiếng Việt + Dùng lời nói bày tỏ tình cảm, nhu cầu và kinh nghiệm của bản thân + Nói rõ ràng, mạch lạc. Sử dụng đúng từ và câu trong giao tiếp. + Nói lễ phép, mạnh dạn và tự tin trong giao tiếp + Nói và thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh. 35
  35. + Kể lại truyện đã được nghe, rõ ràng, mạch lạc, kể chuyện theo tranh, theo chủ đề, kể chuyện sáng tạo. - Làm quen với việc học đọc, học viết + Tư thế ngồi ngay ngắn + Làm quen với sách, bút + Làm quen với một số kí hiệu thông thường trong cuộc sống (nhà vệ sinh, lối ra, nguy hiểm ) + Làm quen với chữ viết + Xem và nghe đọc các loại sách khác nhau + Làm quen với cách đọc và viết tiếng Việt: hướng đọc, viết từ trái sang phải, từ dòng trên xuống dòng dưới, hướng viết của các nét chữ. Các nội dung trên đây được lựa chọn, sắp xếp phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, được mở rộng và nâng cao dần qua các độ tuổi: mẫu giáo bé, nhỡ, lớn. - Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giáo viên cần lưu ý một số điểm sau: + Tạo môi trường giao lưu ngôn ngữ tự do, thoải mái cho trẻ. + Chú ý lắng nghe trẻ nói, giúp đỡ, động viên, thu hút trẻ trò chuyện với giáo viên, với các bạn và với những người khác. + Hướng dẫn trẻ làm quen với các tác phẩm văn học phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. + Tổ chức cho trẻ hoạt động kết hợp với lời nói trong trong các trò chơi, bài hát, đóng kịch. + Tôn trọng, khuyến khích sự sáng tạo của trẻ khi sử dụng câu, từ. + Quan sát, đánh giá sự phát triển ngôn ngữ của từng trẻ có kế hoạch phù hợp với khả năng của trẻ trong lớp. + Phát hiện sớm những trẻ có khó khăn về ngôn ngữ, từ đó có biện pháp thích hợp để giúp đỡ trẻ. 2.2.4. Phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non Trí tuệ của trẻ được phát triển thông qua việc người lớn tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động đa dạng, phù hợp với trẻ. Nói cách khác, hoạt động vừa là con đường, vừa là phương tiện để giáo dục trí tuệ cho trẻ. Vì vậy, việc giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non được tiến hành và thực hiện thông qua các phương tiện cơ bản sau: 2.2.4.1. Phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ Ở lứa tuổi dưới 3 tuổi sử dụng các phương tiện chủ yếu sau để giáo dục trí tuệ: - Chơi – tập hay gọi là “tiết học – trò chơi’’ với đồ vật, đồ chơi có sự hướng dẫn của người lớn: đây là phương tiện giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ. Tri thức trẻ lĩnh hội được trên những giờ chơi tập sẽ tiếp tục được củng cố trong các giờ chơi tự do với đồ vật, đồ chơi - Chơi tự do với đồ vật, đồ chơi - Hoạt động khác trong ngày dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người lớn 36
  36. - Ngôn ngữ cũng là phương tiện quan trọng để giáo dục trí tuệ cho trẻ dưới 3 tuổi 2.2.4.2. Phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo Giáo dục trí tuệ cho trẻ mẫu giáo được thực hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau: trò chơi, học tập, lao động và toàn bộ sinh hoạt của trẻ. Mỗi phương tiện có những đặc điểm khác nhau, cần được vận dụng sao cho phù hợp với đặc điểm và khả năng lứa tuổi của các em, sao cho mỗi phương tiện đạt được hiệu quả cao nhất đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ. Hoạt động của trẻ càng đa dạng thì con đường nhận thức thế giới xung quanh và sự phát triển khả năng nhận thức càng phong phú. Trong các hình thức hoạt động đó trẻ được trực tiếp tiếp xúc với các đối tượng, được tiếp xúc với những người xung quanh và nhờ đó mà trẻ lĩnh hội tri thức và kỉ năng, thiết lập các mối quan hệ nhất định và nắm ngôn ngữ. Tác động sư phạm có mục đích sẽ tăng cường hiệu quả của các hoạt động đó đối với sự phát triển chung của trẻ và đối với sự phát triển trí tuệ. 2.2.4.2.1. Tìm hiểu môi trường xung quanh và sinh hoạt hằng ngày là phương tiện trí dục quan trọng. Thế giới hiện thực xung quanh trẻ em, con người, sự vật, thiên nhiên, các hiện tượng trong xã hội là nguồn gốc của mọi tri thức của trẻ và giúp trẻ phát triển các quá trình nhận thức. Trẻ thu nhận nhiều tri thức mới trong quá trình trẻ được quan sát, tiếp xúc với thế giới tự nhiên, xã hội và qua hoạt động lao động của người lớn, Vì vậy, giáo viên cần giúp trẻ nhìn thấy và xác định những cái mà trẻ khó nhận ra được ngay. Từ đó, giúp trẻ phát triển óc quan sát và năng lực nhận biết nhanh chóng và dễ dàng về những thay đổi diễn ra trong môi trường xung quanh. Sự phát triển óc quan sát cũng góp phần hình thành hứng thú nhận thức bền vững của trẻ. 2.2.4.2.2. Trò chơi Chơi là một hoạt động chủ đạo của trẻ trong suốt tuổi mẫu giáo, một hoạt động đặc biệt phản ánh toàn bộ cuộc sống tâm lí của trẻ, phản ánh hiện thực xung quanh trẻ, phản ánh những hiểu biết của mình và đặt mối quan hệ với các bạn. Mỗi hình thức trò chơi tác động khác nhau đến sự phát triển trí tuệ của trẻ. + Trò chơi đóng vai theo chủ đề: mở rộng các khái niệm về các sự vật, hiện tượng xung quanh và phát triển ngôn ngữ của trẻ. + Trò chơi đóng kịch: giúp trẻ cảm thụ sâu sắc hơn các tác phẩm văn học nghệ thuật và kích thước hoạt động ngôn ngữ của trẻ. + Trò chơi lắp ghép – xây dựng: phát triển năng lực thiết kế, mở rộng kiến thức về hình học và quan hệ không gian của trẻ v.v + Trò chơi học tập: có vị trí đặc biệt quan trọng trong trí dục. Trong trò chơi này nội dung nhận thức và việc thực hiện các nhiệm vụ trí tuệ có tính chất bắt buộc, song đối với trẻ lại diễn ra dưới hình thức một trò chơi, nên hình thức học tập qua trò chơi vẫn gây hứng thú cho trẻ và kích thích tính tích cực nhận 37
  37. thức của chúng. Trò chơi học tập giúp trẻ lĩnh hội tri thức một cách vững chắc , đồng thời phát triển trí nhớ, chú ý có chủ định và thúc đẩy tư duy tích cực ở trẻ. Khi giải quyết các nhiệm vụ trí tuệ trong trò chơi trẻ tập ghi nhớ có chủ định và tái hiện, tập phân loại các sự vật hoặc hiện tượng theo đặc điểm chung, tách ra các thuộc tính và tính chất của sự vật, xác định chúng theo các dấu hiệu riêng lẻ. Như vậy, các thao tác trí tuệ được rèn luyện thúc đẩy hoạt động tư duy. 2.2.4.2.3. Lao động Lao động cũng là một phương tiện của trí dục. Trong quá trình lao động, trẻ có thể khảo sát các sự vật, hiện tượng, tìm hiểu các thuộc tính của chúng, phát hiện ra các mối quan hệ qua lại giữa chúng v.v Ví dụ: Đất sét mềm dễ nặn, xà phòng nổi bọt, cây không tưới thì chết; hạt nảy mầm, cây ở bóng râm mọc chậm hơn ở nơi có ánh nắng. Trẻ còn biết sử dụng các công cụ lao động: búa, xẻng, xô tưới, kéo v.v 2.2.4.2.4. Dạy học Trò chơi, lao động và môi trường xung quanh có tác dụng to lớn và nhiều mặt đến sự phát triển trí tuệ của trẻ. Song dạy học vẫn là phương tiện giữ vai trò quan trọng nhất trong giáo dục trí tuệ cho trẻ mẫu giáo. Dạy học được tiến hành thường xuyên theo chương trình, kế hoạch, theo một trình tự có hệ thống trong việc giúp trẻ lĩnh hội tri thức, kỉ năng, kỉ xảo, và rèn luyện các thao tác hoạt động trí tuệ. Dạy học đảm bảo tính hiệu quả lớn nhất vì có sự tác động sư phạm tích cực của người lớn đến trẻ em, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lí của trẻ. Do vậy, dạy học được nghiên cứu kĩ lưỡng trong chương 1 ở phần 2 của giáo trình. 2.3 Giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non Đạo đức là một lĩnh vực của ý thức xã hội, là một mặt của hoạt động xã hội của con người, là một hình thức chuyên biệt của quan hệ xã hội, thực hiện chức năng xã hội hết sức quan trọng là điều chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đạo đức nảy sinh từ nhu cầu của xã hội, điều hoà và thống nhất các mâu thuẫn giữa lợi ích chung (của tập thể và xã hội) và lợi ích riêng (của cá nhân) nhằm đảm bảo trật tự xã hội và khả năng phát triển của xã hội và cá nhân. - Với tư cách là một lĩnh vực của ý thức xã hội, đạo đức bao gồm tri thức về các chuẩn mực và phẩm chất đạo đức, nguyên tắc đạo đức, tình cảm, đánh giá đạo đức. - Với tư cách là một mặt hoạt động xã hội, đạo đức bao gồm các hình vi đạo đức, tức là những hành động được thúc đẩy bằng các động cơ đạo đức, đem lại những kết quả có ý nghĩa đạo đức và được đánh giá bằng những phạm trù đạo đức - Với tư cách là một hình thái quan hệ xã hội, đạo đức bao gồm những quan hệ đạo đức, biểu hiện trong hiện thực giao lưu giữa các cá nhân với nhau và giữa cá nhân với tập thể, trong đó mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích riêng được giải quyết theo những nguyên tắc nhất định. 38
  38. Giáo dục đạo đức là quá trình sư phạm nhằm hình thành cho trẻ ý thức đạo đức, tình cảm, thái độ, thói quen hành vi và các phẩm chất đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Đối với trẻ thơ, giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm trang bị cho trẻ những hiểu biết sơ đẳng về những yêu cầu của chuẩn mực hành vi đạo đức trong các mối quan hệ ứng xử, rèn cho trẻ có tình cảm, hành vi và thói quen đúng đắn trong các mối quan hệ ứng xử hàng ngày. Trên cơ sở đó hình thành cho trẻ những phẩm chất đạo đức, những nét tính cách của con người Việt Nam. Tóm lại, đạo đức tồn tại xen kẽ và đan kết trong mọi lĩnh vực ý thức xã hội, trong mọi loại hoạt động xã hội và mọi loại quan hệ xã hội. 2.3.1. Ý nghĩa giáo dục đạo đức cho trẻ Mầm non 2.3.1.1. Ý nghĩa của GD đạo đức cho trẻ dưới 3 tuổi GD đạo đức cho trẻ dưới 3 tuổi là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp nhưng rất quan trọng vì trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là giai đoạn đầu tiên hình thành nhân cách con người. Khả năng nhận thức rất hạn chế, trẻ chưa tự mình phân biệt tốt, xấu, đúng, sai mà hoàn toàn phụ thuộc vào GD của người lớn. Dưới sự tác động sư phạm và hướng dẫn của người lớn trẻ có thể lĩnh hội biểu tượng đạo đức hết sức đơn giản, có những hành vi phù hợp với biểu tượng đó. Trên cơ sở đó và cùng với nó, đứa trẻ nhận biết được nên, không nên, cái gì được phép và không được phép, trẻ bước đầu nhận biết được tốt, xấu theo sự đánh giá của người lớn. Những ấn tượng đầu tiên ấy của trẻ thường để lại dấu ấn trong suốt cuộc đời. Lên 3, ở trẻ xuất hiện “cái tôi” sự tự ý thức về mình, là thời điểm quan trọng để GD đạo đức cho trẻ. Vì vậy, cần phải xây dựng cho trẻ những khái niệm, biểu tượng đạo đức đúng đắn phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, đồng thời người lớn cần phải uốn nắn những nhận thức, hành vi, thái độ lệch chuẩn của trẻ ngay từ bé tránh để những lệch lạc ấy trở thành thói quen khó sửa, khó uốn - đó là những cơ sở đạo đức quan trọng ở lứa tuổi tiếp theo. 2.3.1.2. Ý nghĩa của giáo dục đạo đức đối với trẻ mẫu giáo Giáo dục đạo đức có ý nghĩa rất quan trọng trọng toàn bộ sự nghiệp giáo dục con người mới, đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo. - Thời kỳ mẫu giáo chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong việc lĩnh hội những khái niệm đạo đức sơ đẳng và trong việc hình thành hành vi phù hợp với những khái niệm ấy. Trong khi giao tiếp với những người xung quanh, trong quá trình giáo dục và dạy học, dựa vào kinh nghiệm trực tiếp, trẻ em biết được như thế nào là tốt, như thế nào là xấu, biết được sự đánh giá của người lớn đối với điều tốt và điều xấu. - Có thể nói ở lứa tuổi mẫu giáo, tính cách bắt đầu được hình thành, là thời kỳ hình thành cá nhân ở giai đoạn đầu tiên, lứa tuổi này đã hình thành cơ sở về phẩm chất đạo đức của con người. Chính ở lứa tuổi này, trẻ bắt đầu hình thành những quan niệm đúng đắn về hiện thực xung quanh. Dưới sự hướng dẫn của người lớn trẻ tiếp thu những kinh nghiệm đầu tiên về hành vi, về quan hệ 39
  39. với người thân, bạn bè, với thế giới xung quanh, lĩnh hội các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội. - Mặt khác, lứa tuổi mầm non là giai đoạn đầu tiên của việc hình thành nhân cách, vốn kinh nghiệm xã hội của trẻ còn ít ỏi, tình cảm chi phối mạnh mẽ đến đời sống của trẻ, trẻ dễ xúc động trước con người và cảnh vật xung quanh. Những ấn tượng đầu tiên của thời thơ ấu thường để lại những dấu ấn trong suốt cả cuộc đời sau này. Đây là thời điểm thuận lợi cho việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Chính vì vậy, cần phải tạo cho trẻ những biểu tượng, khái niệm đạo đức, những ấn tượng ban đầu thật chính xác, phản ánh được khuynh hướng đạo đức của xã hội. Đồng thời, phải bồi dưỡng cho trẻ những tình cảm, thái độ đúng đắn đối với con người và thế giới xung quanh, chú trọng việc rèn cho trẻ những thói quen, hành vi đạo đức đúng đắn. - Giáo dục đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với các mặt giáo dục khác như giáo dục thể chất, giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ. 2.3.2. Các nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ Mầm non 2.3.2.1. Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ dưới 3 tuổi - Giáo dục cho trẻ thái độ, quan hệ lành mạnh đối với mọi người gần gũi xung quanh: + Trẻ biết yêu thương, gắn bó quan tâm đến người thân + Thái độ đúng mực, biết nghe lời và làm theo sự chỉ dẫn của người lớn + Thân thiện với bạn bè cùng tuổi - Tập cho trẻ có thói quen kỷ luật vệ sinh, ngăn nắp trong sinh hoạt cũng như chơi tập - Giáo dục cho trẻ một số quy tắc, hành vi ứng xử đơn giản ban đầu + Biết giữ gìn, bảo quản đồ dùng, đồ chơi + Biết chào hỏi lễ phép, biết cảm ơn, xin lỗi + Biết yêu quý cây trồng, vật nuôi gần gũi 2.3.2.2. Các nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo. - Hình thành cho trẻ những biểu tượng và khái niệm đạo đức đúng đắn Để hình thành cho trẻ những tình cảm, thói quen hành vi đạo đức trước hết phải giúp trẻ có được những biểu tượng và khái niệm đạo đức đúng đắn. Bởi lẽ muốn có được những hành vi đạo đức tốt thì trẻ phải hiểu, phải nhận thức đúng hành vi, phương thức đạo đức đó. Ví dụ thế nào là tốt, thế nào là xấu, thế nào là ngoan, là không ngoan, thế nào là lễ phép, thế nào là không. Giáo viên có nhiệm vụ phát triển các khái niệm đạo đức sơ đẳng ở trẻ, trên cơ sở đó hình thành các động cơ hành vi. Giáo viên khi giải thích cho trẻ nên hành động như thế nào cần thông qua các dẫn chứng cụ thể (người bạn tốt là người biết nhường nhịn đồ chơi, không tranh giành đồ chơi, biết chơi chung, biết quan tâm đến bạn khác ). Các khái niệm đạo đức như lòng tốt, sự khiêm tốn, công bằng, lịch thiệp Giáo viên cần giúp trẻ hiểu được bản chất từng khái niệm đạo đức, biết so sánh, đối chiếu với các hành động cụ thể trong cuộc sống hàng ngày của mình và của người khác. Các khái niệm đạo đức được hình 40