Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình - Nguyễn Ngọc Điện (Phần 1)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình - Nguyễn Ngọc Điện (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_luat_hon_nhan_va_gia_dinh_nguyen_ngoc_dien_phan_1.pdf
Nội dung text: Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình - Nguyễn Ngọc Điện (Phần 1)
- NGUYỄN NGỌC ĐIỆN GIÁO TRÌNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Tập 1 Ebook.moet.gov.vn, 2007
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 GIỚI THIỆU PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM I. Các định nghĩa Pháp lý. “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 8 khoản 10). Theo định nghĩa pháp lý, gia đình là một tập hợp các chủ thể có quan hệ pháp lý đặc biệt, do tính chất đặc biệt của quan hệ xã hội giữa họ. Xã hội. “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Lời nói đầu). Trong quan niệm truyền thống, đất nước được hình dung như một gia đình lớn mà việc tổ chức và vận hành chỉ là sự phóng to mô hình gia đình nhỏ, gồm những người gắn bó với nhau trên cơ sở quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân. Trong quan niệm hiện đại, gia đình là nơi mà các công dân nhỏ tuổi được chuẩn bị về mọi mặt để tham gia vào đời sống xã hội. Kinh tế. Gia đình là một đơn vị sản xuất đồng thời là một đơn vị tiêu dùng. - Gia đình là một đơn vị sản xuất: Theo nghĩa cổ điển, gia đình là một nơi tạo ra các sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp từ kết quả lao động của các thành viên. Theo nghĩa hiện đại, gia đình là nguồn cung ứng lao động cho xã hội. - Gia đình là một đơn vị tiêu dùng: Gia đình có ngân sách chi tiêu chung và tiến hành mua sắm, thụ hưởng dịch vụ như một đơn vị tiêu thụ. II. Định chế gia đình Tổ chức con người. Gia đình là một tổ chức con người vận hành theo quy định của pháp luật. Những mối quan hệ gia đình được chi phối không chỉ bởi luật hôn nhân và gia đình mà cả bởi luật dân sự, hành chính, hình sự, Bản thân tổ chức gia đình-hộ, như là một tổng thể, cũng được luật đề cập trong những trường hợp đặc thù: sổ đăng ký hộ khẩu thường trú được lập theo hộ gồm những người thường xuyên sống dưới cùng một mái nhà; các trưởng khu vực, trưởng thôn thường được bầu ra bởi các cử tri đại diện cho các hộ trong khu vực, thôn; 1 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 Hộ gia đình. Gia đình, trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam, có thể được thừa nhận là chủ thể của quan hệ pháp luật trong những trường hợp đặc thù. Gia đình không phải là một pháp nhân; nhưng một khi các thành viên gia đình thực hiện các hoạt động kinh tế chung bằng cách khai thác các tài sản mà họ coi là thuộc sở hữu chung, thì các thành viên ấy tạo thành một thực thể pháp lý được luật gọi là “hộ gia đình”. Hộ gia đình có tài sản và có khả năng chịu trách nhiệm dân sự trước người thứ ba bằng tài sản của mình. III. Mối liên hệ gia đình Liên hệ thân thuộc. Liên hệ thân thuộc bao gồm liên hệ huyết thống và liên hệ nuôi dưỡng. Liên hệ huyết thống lại chia thành trực hệ và bàng hệ. Liên hệ trực hệ ràng buộc những người có quan hệ sinh thành: cha-con-cháu ; liên hệ bàng hệ kết nối những người có chung một tổ tiên: anh-chị-em, chú, bác-cháu, . Liên hệ nuôi dưỡng là mối quan hệ thân thuộc nhân tạo, hình thành từ việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên, trong khung cảnh của luật thực định Việt Nam liên hệ nuôi dưỡng là mối quan hệ thân thuộc không hoàn hảo: người con nuôi không phải là anh, chị, em của các con của người nuôi, không phải là cháu nội hay cháu ngoại của cha mẹ của người nuôi. Liên hệ hôn nhân. Do việc kết hôn, quan hệ vợ chồng hình thành. Gia đình-hộ luôn được thành lập với hai thành viên đầu tiên là vợ và chồng. Dần dần, các con được sinh ra. Cũng do hiệu lực của hôn nhân mà vợ, chồng trở thành người có quan hệ với người thân thuộc của chồng (vợ) mình theo tục lệ. IV. Mô hình gia đình Đại gia đình. Gia đình cổ Việt Nam cũng được tổ chức theo tộc họ và được đặt dưới chế độ phụ quyền. Song, quy mô tổ chức của gia đình-tộc họ cũng như cách vận hành của chế độ phụ quyền không giống nhau tùy theo gia đình được hình dung ở góc độ kinh tế hay ở góc độ nghi lễ, tín ngưỡng. Ở góc độ kinh tế, gia đình-tộc họ gồm tất cả những người thuộc các thế hệ khác nhau sống trong cùng một nhà (gọi là gia tộc)1. Gia đình có người đứng đầu, gọi là gia trưởng (chủ gia đình)2. Gia đình, chứ không phải cá nhân, là chủ thể của quyền sở hữu tài sản và việc thực hiện quyền sở hữu đó là việc của gia trưởng. Cũng chính gia 1 Xem Uỷ ban tư vấn án lệ (UBTVAL)-Comité consultatif de jurisprudence, Tập ý kiến về tục lệ của người Việt Nam ở Bắc Kỳ trong các lĩnh vực gia đình, thừa kế và tài sản thờ cúng (nguyên bản tiếng Pháp: Recueil des avis sur les coutumes des Annamites au Tonkin en matière de droit de famille, de successions et de biens cultuels), Hà Nội, 1930, câu hỏi 1. 2 Trong luật nhà Lê, vai trò gia trưởng do cả cha và mẹ đảm nhận. Nếu cha chết, thì mẹ còn sống là người duy nhất đứng đầu gia đình và ngược lại. Trong luật nhà Nguyễn, chế độ phụ quyền được quan niệm theo kiểu Trung Quốc: vai trò gia trưởng thuộc về người chồng; còn người vợ phải tự bằng lòng với thân phận người phụ tá. Trong trường hợp chồng chết, thì vợ thay chồng giữ vị trí gia trưởng chừng nào chưa kết hôn với người khác, nhưng chịu sự giám sát của trưởng tộc bên chồng. 2 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 trưởng là người điều hành các công việc thuộc sinh hoạt nội bộ của gia đình, kể cả việc dựng vợ, gả chồng cho con, cháu. Ở góc độ nghi lễ, tín ngưỡng, gia đình-tộc họ (còn gọi là dòng họ hay tông tộc3) gồm tất cả những người có chung một tổ tiên. Người đứng đầu gia đình gọi là trưởng tộc. Các thành viên gia đình có mối quan hệ gắn bó do trước hết họ có sự quan tâm chung đối với việc thờ cúng tổ tiên cũng như đối với việc gìn giữ và phát huy truyền thống. Những mối quan tâm ấy chỉ gắn với lợi ích tinh thần. Bởi vậy, chế độ phụ quyền, xoay quanh nhân vật trung tâm là trưởng tộc, có nhiều nét giống với chế độ trưởng giáo của các giáo phái. Gia đình-tộc họ theo chế độ phụ quyền được duy trì trong luật Việt Nam cho đến khi chấm dứt chế độ thuộc địa. Gia đình-hộ. Mô hình gia đình-hộ được người làm luật XHCN lựa chọn như một biện pháp đấu tranh chống những tàn dư của chế độ hôn nhân và gia đình thực dân- phong kiến và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá trong đời sống gia đình Việt Nam. Tổ chức gia đình gồm cha mẹ và con là đối tượng của những quy tắc tạo thành Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Gia đình-hộ tiếp tục là đề tài chính của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và được chi phối trong Luật này bởi một hệ thống quy tắc khá chi tiết. Xu hướng khôi phục mô hình gia đình nhiều thế hệ. Việc khôi phục mô hình gia đình nhiều thế hệ là hệ quả tất yếu của việc áp dụng chính sách kinh tế thị trường ở một nước mà kinh tế còn lệ thuộc vào nông nghiệp. Trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, người làm luật chính thức thừa nhận chủ trương khuyến khích sự nhân rộng mô hình gia đình nhiều thế hệ đồng thời cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho việc duy trì và phát triển mô hình đó: “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam” (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 49 khoản 2). Mô hình gia đình Việt Nam hiện đại thực sự là sự kế thừa có phát triển mô hình gia đình truyền thống trong hoàn cảnh, điều kiện của một nước Việt Nam độc lập, xã hội chủ nghĩa và đổi mới. V. Gia đình và pháp luật hôn nhân-gia đình Vai trò điều tiết của pháp luật. Trong chừng mực nào đó, có thể định nghĩa luật hôn nhân và gia đình như là tập hợp các quy tắc chi phối sự thành lập và sự vận hành của gia đình. Có ba dữ kiện cơ bản liên quan đến gia đình mà từ việc phân tích ba dữ kiện ấy, người làm luật đề ra các quy tắc của mình: sự phối hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà, nhằm xây dựng cuộc sống chung; sự sinh con và việc giáo dục con. Vai trò của luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình được xác định tùy theo kết quả xác định mối quan hệ giữa Nhà nước và gia đình, hay đúng hơn, tùy theo mức độ tự chủ của gia đình đối với Nhà nước, trong quá trình hình thành và phát triển của các dữ kiện ấy. Luật đóng vai trò phụ trợ, một khi gia đình được trao quyền tự chủ rộng rãi. Gia đình tự chủ, về phần mình, được tổ chức theo mô hình Nhà nước quân chủ và được 3 Sđd, câu hỏi 1. 3 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 đứng đầu bởi một người chủ gia đình với những quyền hạn rộng rãi trong quan hệ với các thành viên khác, bao gồm cả quyền trừng phạt những thành viên không phục tùng. Quyền tự do cá nhân trong gia đình tự chủ thường được đặt ở vị trí thứ yếu so với lợi ích của gia đình. Luật đóng vai trò tích cực, một khi gia đình được coi như một tập hợp nhỏ của một số thành viên của xã hội và khi gia đình và xã hội đều được trao trách nhiệm đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thành viên đó, nghĩa là trong điều kiện quan hệ gia đình cần được xã hội hoá. Gia đình xã hội hoá được tổ chức theo mô hình của Nhà nước dân chủ. Quyền tự do cá nhân trong gia đình được luật thừa nhận và bảo vệ; quan hệ giữa các thành viên trong gia đình chịu sự chi phối của cùng hệ thống quy tắc áp dụng để điều chỉnh quan hệ giữa các thành viên trong xã hội. Luật cũng có thể đóng vai trò phụ trợ trong một số trường hợp và tích cực trong một số trường hợp khác, một khi gia đình được coi như một tập hợp nhỏ của một số thành viên của xã hội, nhưng lại là một tập hợp đặc biệt gồm các thành viên gắn bó với nhau do quan hệ thân thuộc hoặc hôn nhân. Gia đình được tổ chức dựa theo tôn ti tự nhiên cũng như dựa theo các tiêu chí chung của xã hội về quan hệ bình thường giữa các thành viên trong xã hội. Quyền tự do cá nhân được tôn trọng trong chừng mực việc thực hiện quyền đó không gây phương hại đến vận mệnh và lợi ích chính đáng của gia đình. Tính chất phòng ngừa phổ biến. Luật hôn nhân và gia đình nhắm đến mục đích cao nhất là góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, hoà thuận và điều đó cần thiết cho sự phát triển bền vững của xã hội. Các quy tắc của luật đều có tác dụng phòng ngừa hoặc xử lý những tình huống khủng hoảng và bi kịch trong đời sống gia đình. Cấm kết hôn giữa những người thân thuộc, Nhà nước ngăn ngừa sự hình thành các gia đình thoái hoá về nòi giống và về đạo đức; áp đặt nghĩa vụ chung thuỷ giữa vợ và chồng, Nhà nước ngăn ngừa sự đổ vỡ của hôn nhân dẫn đến sự tan rã của gia đình; quy định rằng con phải kính trọng cha mẹ, Nhà nước ngăn ngừa khả năng xuất hiện những đứa con ngỗ ngược trong gia đình (và qua đó hạn chế khả năng xuất hiện những thành viên xấu của xã hội); quy định thành phần khối tài sản chung, khối tài sản riêng của vợ, chồng, Nhà nước hạn chế sự phát triển của các cuộc hôn nhân với động cơ không lành mạnh - hôn nhân vì tiền 4 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 PHẦN THỨ NHẤT THIẾT LẬP CÁC MỐI LIÊN HỆ GIA ĐÌNH CHƯƠNG THỨ NHẤT THIẾT LẬP MỐI QUAN HỆ GIỮA CHA VÀ MẸ Khái niệm. Trên nguyên tắc, hôn nhân được định nghĩa trong các hệ thống luật như là sự kết hợp giữa hai người, một nam và một nữ, để chung sống, để dành cho nhau sự giúp đỡ và hỗ trợ cần thiết, nói chung, để tạo lập một gia đình. Ở một số nước, hôn nhân có thể được xác lập cùng một lúc giữa một người đàn ông và nhiều nguời đàn bà (hôn nhân đa thê); mặt khác, một số nước thừa nhận tính hợp pháp của hôn nhân đồng giới. Đặc điểm của hôn nhân hiện đại. Hôn nhân hiện đại chỉ được coi là hợp pháp một khi, bên cạnh việc thoả mãn các điều kiện khác về kết hôn, nó thực sự là kết quả của việc trao đổi sự ưng thuận giữa hai người về việc kết hôn và xây dựng cuộc sống chung. Sự ưng thuận trong quan hệ hôn nhân phải được duy trì một cách liên tục và thường xuyên để hôn nhân và cuộc sống chung được duy trì; một khi không còn sự ưng thuận, bên giao kết việc hôn nhân có thể chấm dứt quan hệ hôn nhân và cuộc sống chung bằng cách tiến hành các thủ tục ly hôn. Hôn nhân còn là cam kết giữa vợ chồng về việc chung sống và xây dựng gia đình. 5 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 MỤC I. XÁC LẬP QUAN HỆ HÔN NHÂN: KẾT HÔN Khái niệm. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 8 khoản 2). Kết hôn thực sự là một giao dịch pháp lý long trọng mà việc xác lập phải tuân theo những điều kiện được pháp luật quy định một cách chặt chẽ, chi tiết. I. Các điều kiện kết hôn A. Các điều kiện về nội dung Để có thể kết hôn, người muốn kết hôn phải có năng lực hành vi, phải đạt đến một độ tuổi nhất định và phải chấp nhận kết hôn một cách tự nguyện. 1. Năng lực kết hôn a. Sự khác biệt về giới tính Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Việc cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính chỉ được chính thức ghi nhận trong luật viết từ khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 10 khoản 5). Tuy nhiên, trong tục lệ truyền thống, hôn nhân giữa những người cùng giới tính không bao giờ được thừa nhận ở Việt Nam. Trong điều kiện các luật hôn nhân và gia đình trước đây quy định chưa chặt chẽ ở điểm này, tục lệ thường xuyên can thiệp thông qua dư luận để ngăn chặn các quan hệ như vợ chồng giữa những người cùng giới tính hoặc để tạo sức ép đối với những người cùng giới tính nhằm chấm dứt việc duy trì quan hệ như vợ chồng giữa họ4. Cơ quan hộ tịch, về phần mình luôn từ chối việc đăng ký kết hôn giữa những người cùng giới tính. Việc xác định giới tính, trong trường hợp không có tranh chấp, thường dựa vào giấy khai sinh của đương sự. Nếu giữa giới tính theo nội dung giấy khai sinh và giới tính theo biểu hiện bề ngoài có sự khác biệt rõ nét, thì thông thường viên chức hộ tịch sẽ nghĩ rằng giới tính theo nội dung giấy khai sinh đã được xác định do nhầm lẫn. Luật hiện hành không có quy định gì liên quan trong trường hợp có tranh cãi về xác định giới tính. b. Tuổi kết hôn Cấm tảo hôn. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 9 khoản 1, nam từ 20 tuổi trở lên và nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn. Giải pháp này đã được chấp nhận ngay từ văn bản luật đầu tiên về hôn nhân và gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa (Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 Điều 6) và được giữ nguyên cho đến 4 Trong khung cảnh của luật thực định, chỉ quan hệ chung sống (giữa những người cùng giới tính) thôi chưa đủ để cấu thành trọn vẹn một tội phạm hoặc một vi phạm hành chính. Sau khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nhà nước có quy định việc xử phạt hành chính đối với các trường hợp kết hôn giữa những người cùng giới tính, dưới hình thức phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng (Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001Điều 8 khoản 1 điểm e) và buộc chấm dứt quan hệ hôn nhân (Điều 8 khoản 2). Thế nhưng, hành vi bị chế tài ở đây là hành vi kết hôn (nghĩa là có đăng ký kết hôn) trái pháp luật. Nếu các đương sự không kết hôn mà chỉ chung sống, thì luật không thể làm gì. 6 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 nay. Các lý lẽ của giải pháp chủ yếu mang tính y học: đối với người Việt Nam, sự phát triển thể chất đủ chín mùi cho việc thiết lập quan hệ hôn nhân thường được ghi nhận khi con người đạt độ tuổi đó5. Người làm luật quan tâm đến sự chín mùi về thể chất chứ không quan tâm đến khả năng sinh sản. Điều đó giải thích tại sao luật chỉ quy định giới hạn tối thiểu mà không có quy định giới hạn tối đa về tuổi kết hôn: người đã quá tuổi sinh sản tự nhiên vẫn có quyền kết hôn. Tất cả những người dưới độ tuổi quy định đều ở trong tình trạng không có năng lực pháp luật kết hôn. c. Bệnh tật Quyền kết hôn của người bệnh. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không cấm kết hôn vì lý do có bệnh truyền nhiễm, ngay cả trong trường hợp người kết hôn là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài và việc kết hôn được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam6. Tất nhiên, Nhà nước không khuyến khích việc kết hôn giữa những người mắc bệnh hiểm nghèo và có khả năng lây lan qua đường tình dục; nhưng quyền kết hôn của những người này được tôn trọng trong khung cảnh của luật thực định. Luật hiện hành cũng không cấm kết hôn trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không có khả năng sinh hoạt tình dục bình thường. 2. Sự ưng thuận a. Hôn nhân tự nguyện Nguyên tắc tự nguyện trong hôn nhân được ghi nhận trong rất nhiều văn bản chứ không chỉ trong Luật hôn nhân và gia đình. Kết hôn trước hết là một quyền chứ không phải là một nghĩa vụ; không thể có hôn nhân ngoài ý muốn của người kết hôn. Gọi là kết hôn ngoài ý muốn một khi một bên hoặc cả hai bên kết hôn không ưng thuận kết hôn hoặc sự ưng thuận kết hôn không được hoàn hảo. b. Không có sự ưng thuận Người mất năng lực hành vi. Người mất năng lực hành vi không thể kết hôn (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 10 khoản 2). Người đại diện của người mất năng lực hành vi cũng không có quyền cho phép người được đại diện kết hôn. Đây là giải pháp khá riêng của luật Việt Nam, bởi trong luật của nhiều nước, người mất năng lực hành vi không mất năng lực pháp luật kết hôn: luật của Pháp thừa nhận rằng người mất năng lực hành vi vẫn có thể kết hôn một khi có ý kiến thuận lợi của bác sĩ điều trị và sự cho phép của gia đình. Người không nhận thức được hành vi của mình. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 lại chỉ cấm kết hôn đối với người mất năng lực hành vi mà không nhắc đến 5 Ở Châu Âu các quy định về tuổi kết hôn tối thiểu không giống nhau tùy theo nước, dù thể trạng chung của con người thuộc các dân tộc Châu Âu không khác nhau lắm. Tuổi kết hôn tối thiểu ở Đức là 21 đối với nam và 16 đối với nữ, ở Thụy Sĩ là 20 và 18, ở Ý là 16 và 14 và ở Pháp là 18 và 15. 6 Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày 02/12/1993 không còn giá trị áp dụng từ ngày 01/01/2001 (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 108). Thực tiễn, về phần mình, vẫn ghi nhận thủ tục khám sức khoẻ trước khi kết hôn trong trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài; song, cơ quan hộ tịch không thể dựa vào kết quả xét nghiệm về bệnh tật của đương sự mà quyết định chấp nhận hay từ chối việc đăng ký kết hôn, như trước. 7 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 người bị bệnh tâm thần (nói chung, người không nhận thức được hành vi của mình), nhưng lại chưa bị đặt vào tình trạng mất năng lực hành vi theo quyết định của Toà án. Song, điều đó không có nghĩa rằng luật thừa nhận quyền kết hôn cho người không nhận thức được hành vi của mình. Có thể suy nghĩ trong logique của sự việc: 1. Nếu người không nhận thức được hành vi của mình quyết định việc kết hôn trong lúc không nhận thức được hành vi của mình, thì việc kết hôn không có giá trị do sự ưng thuận không tồn tại. Thời điểm quyết định việc kết hôn hẳn cũng là thời điểm tiến hành lễ kết hôn trước viên chức hộ tịch. 2. Nếu người không nhận thức được hành vi của mình quyết định việc kết hôn trong lúc đang tỉnh táo, thì việc kết hôn có giá trị, dù, có thể sau đó, người này bị đặt trong tình trạng mất năng lực hành vi theo một quyết định của Toà án (nếu Toà án quyết định đặt người này trong tình trạng mất năng lực hành vi, thì vợ (chồng) trở thành giám hộ đương nhiên); Người bị hạn chế năng lực hành vi. Chế định hạn chế năng lực hành vi nhằm mục đích chủ yếu là giám sát việc xác lập và thực hiện các giao dịch của đương sự liên quan đến tài sản. Kết hôn không phải là giao dịch loại đó. Bởi vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không cấm kết hôn đối với người bị hạn chế năng lực hành vi. Trong khung cảnh của luật thực định, người bị hạn chế năng lực hành vi thậm chí có thể tự mình quyết định việc kết hôn mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. c. Sự ưng thuận không hoàn hảo c1. Lừa dối Tiêu chí đánh giá? Luật hiện hành chỉ có định nghĩa chung về sự lừa dối, ghi nhận tại BLDS 2005 Điều 132 khoản 1và được áp dụng cho tất cả các giao dịch dân sự, không có định nghĩa riêng về sự lừa dối trong hôn nhân. Ta nói rằng lừa dối trong hôn nhân là việc một bên cố ý làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch để bên kia chấp nhận xác lập giao dịch kết hôn7. Định nghĩa rất chung và khó áp dụng. A muốn kết hôn với B; C cố ý làm cho A nhầm tưởng rằng mình là B; cuối cùng, A kết hôn với C mà cứ ngỡ rằng đã kết hôn với B. Trong giả thiết vừa nêu, A có thể yêu cầu huỷ hôn nhân do có sự lừa dối. Cũng có thể xin thể huỷ hôn nhân do có sự lừa dối, nếu người đàn ông đề nghị cưới người đàn bà để làm vợ, cuối cùng lại cư xử với người đàn bà như một người giúp việc nhà. Thế nhưng, nếu A muốn kết hôn với B vì tin rằng B giàu có và B cũng cố ý làm ra vẻ giàu có (dù thực ra rất nghèo) để A chấp nhận kết hôn với mình, thì khó có thể nói rằng A có quyền yêu cầu huỷ hôn nhân do có sự lừa dối. Càng không thể xin hủy hôn nhân do có sự lừa dối, nếu A tin rằng B là một chàng trai tơ và B cũng cố tình làm ra vẻ như vậy, dù trên thực tế, B đã có một (thậm chí nhiều) đời vợ. Toà án nhân dân tối cao, về phần mình, cũng không xây dựng khái niệm lừa dối trong hôn nhân mà chỉ cho một số ví dụ8: gọi là lừa dối, một bên nói với bên kia rằng 7 Luật Việt Nam thời kỳ thuộc địa, chịu ảnh hưởng luật của Pháp, không thừa nhận lừa dối như là một trong những lý do để yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu. 8 Xem Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Toà án nhân dân tối cao, 1, b2. 8 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp, sẽ bảo lãnh ra nước ngoài; một bên không có khả năng sinh lý nhưng cố tình giấu; biết mình bị nhiễm HIV nhưng cố tình giấu; c2. Cưỡng ép Cưỡng ép của bên kia hoặc của người thứ ba. Cưỡng ép kết hôn là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 8 khoản 5). Điều luật nhắm chủ yếu vào việc đấu tranh chống tệ nạn cưới ép, gả ép trong các gia đình Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của các hủ tục phong kiến trong hôn nhân, cũng như của chế độ hôn nhân xếp đặt. Cần lưu ý rằng trong thực tiễn xét xử, cưỡng ép kết hôn được hiểu là hành vi của một người thứ ba chứ không phải của một hai trong bên kết hôn9. Trong trường hợp một bên chấp nhận kết hôn do chịu sức ép của bên kia10, ta có một vụ ép buộc kết hôn, chứ không phải một vụ cưỡng ép kết hôn. Nói chung, thực tiễn có xu hướng thừa nhận rằng chỉ coi là có tình trạng cưỡng ép kết hôn, nếu sự cưỡng ép được thực hiện với động cơ phi đạo đức (ví dụ, cưỡng ép cưới, gả để thu tiền hoặc một lợi ích vật chất nào đó cho cá nhân người cưỡng ép); và cũng chính sự cưỡng ép đó tạo thành mặt khách quan của tội cưỡng ép kết hôn được ghi nhận tại BLHS 1999 Điều 14611. c3. Nhầm lẫn Nguyên tắc: không có nhầm lẫn trong hôn nhân. Khác với luật của nhiều nước, luật Việt Nam hiện hành không coi sự nhầm lẫn như là một trong những lý do để yêu cầu tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Nếu do nhầm lẫn mà chấp nhận kết hôn, thì người nhầm lẫn có thể xin ly hôn. Nếu sự nhầm lẫn là do hệ quả của sự lừa dối, thì có thể yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật do có sự lừa dối. Người nhầm lẫn về giới tính có thể yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 10 khoản 5, nếu bên kia rõ ràng có cùng giới tính với mình. Còn lại những khó khăn cho người thực hành luật trong trường hợp bên kia không rõ thuộc giới tính nào. 3. Những cản trở đối với hôn nhân a. Hôn nhân chưa chấm dứt Cấm đa thê. Người đang có vợ, có chồng không được phép kết hôn với người khác (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 10 khoản 1). Quy định này, trên thực tế, nhắm chủ yếu vào việc ngăn chặn tình trạng đa thê. Cho đến khi huỷ bỏ nền pháp luật thuộc địa, chế độ đa thê đã là một phần của pháp luật gia đình Việt Nam. 9 Theo Nghị quyết số 02 đã dẫn, người thứ ba có thể cưỡng ép một trong hai bên hoặc cả hai bên tiến hành kết hôn trái với nguyện vọng của họ (xem 1, b3). Ví dụ: bố mẹ của người nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ; bố mẹ của hai bên có hứa hẹn với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau; 10 Ví dụ, một người đàn bà có được những bằng chứng về hành vi trái pháp luật hoặc về cuộc sống sa đoạ của người đàn ông và doạ rằng nếu người đàn ông không cưới mình, thì sẽ cho công bố các bằng chứng đó. Trong Nghị quyết số 02 đã dẫn còn có các ví dụ về ép buộc kết hôn bằng cách đe doạ dùng vũ lực, dùng vật chất: xem 1, b1. 11 Khi xây dựng các biện pháp chế tài về hình sự tại Điều 146 BLHS 1999, người làm luật lại hình dung khái niệm cưỡng ép theo nghĩa rộng nhất: đó có thể là hành vi của một bên kết hôn hoặc của một người thứ ba. Theo nghĩa đó thì khái niệm cưỡng ép bao hàm cả khái niệm ép buộc được xây dựng trong Nghị quyết số 02 đã dẫn. 9 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 Tất nhiên, người đã đăng ký kết hôn và chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân có đăng ký luôn được coi là người đang có vợ, có chồng. Cũng được coi là có vợ, có chồng người chung sống như vợ chồng từ trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 mà không đăng ký kết hôn. b. Mối liên hệ thân thích Cấm loạn luân. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 10 khoản 3 và 4, việc kết hôn bị cấm giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng12. Các quy định của luật viết còn khá đơn giản. Tục lệ, tùy theo vùng, còn có thể cấm cả việc kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với vợ, chồng (góa) của con nuôi, giữa con nuôi và con ruột của người nuôi (và, nói chung, giữa con nuôi với những người thân thuộc trực hệ của người nuôi) Trong trường hợp những người vi phạm quy định về cấm kết hôn (do có mối quan hệ thân thích) là những người có quan hệ thân thuộc về trực hệ, anh, chị, em cùng cha, mẹ hoặc chỉ cùng cha hay cùng mẹ, thì các đương sự có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội loạn luân (BLHS 1999 Điều 150). Theo Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính Phủ Điều 8, thì những người kết hôn mà vi phạm các quy định về cấm kết hôn Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 10 khoản 3 và 4, ngoài trường hợp phạm tội loạn luân, sẽ bị xử lý hành chính dưới hình thức phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng. B. Các điều kiện về hình thức 1. Thủ tục trước khi kết hôn Nộp hồ sơ đăng ký kết hôn. Các bên muốn kết hôn phải lập một tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu do Bộ Tư pháp phát hành. Tờ khai phải có xác nhận của cơ quan, đơn vị nơi công tác hoặc của UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú của mỗi bên, về tình trạng hôn nhân của đương sự. Việc xác nhận về tình trạng hôn nhân này có giá trị không quá 30 ngày (có lẽ, kể từ ngày xác nhận). Tờ khai đăng ký kết hôn được nộp tại UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên, cùng với các giấy tờ sau đây hoặc giấy tờ hợp lệ thay thế: - Giấy khai sinh của mỗi bên; - Sổ hộ khẩu gia đình của bên nam hoặc bên nữ nơi đăng ký kết hôn. Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên đều đã từng có vợ (chồng) nhưng đã chấm dứt quan hệ hôn nhân (do ly hôn hoặc do một bên chết), thì còn phải nộp một bản sao bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật về việc ly hôn hoặc bản sao giấy chứng tử (có lẽ, cả bản sao giấy chứng nhận kết hôn trước đó, nếu có, hoặc bằng chứng khác về việc xác lập quan hệ hôn nhân trước đó). 12 Phải tính cả con nuôi trong số những người gọi là con riêng của vợ hoặc chồng: có những trường hợp con nuôi là con (nuôi) riêng thật, do vợ (chồng) đã nhận nuôi trước khi kết hôn. Cũng có trường hợp con nuôi thực ra không hẳn là con riêng. Trong khung cảnh của luật thực định, một người chung sống như vợ chồng với người khác mà không đăng ký kết hôn, thì không thể cùng với người sau này nhận con nuôi chung. 10 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 Các bên phải có mặt và trực tiếp nộp hồ sơ cho người đại diện của UBND. Trong trường hợp một trong hai bên không thể đến nộp hồ sơ mà có lý do chính đáng, thì có thể gửi cho UBND nơi đăng ký kết hôn đơn xin nộp hồ sơ vắng mặt; trong đơn phải ghi rõ lý do vắng mặt, có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú. Vậy có nghĩa rằng phải có ít nhất một bên có mặt và trực tiếp nộp hồ sơ: không thể nộp hồ sơ đăng ký kết hôn thông qua vai trò của người được uỷ quyền hoặc qua bưu điện. Xác minh và niêm yết công khai. Sau khi nhận đủ hồ sơ đăng ký kết hôn, UBND phải tiến hành xác minh về các điều kiện kết hôn (tức là các điều kiện về nội dung), đồng thời niêm yết công khai việc xin đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND13. Thời hạn niêm yết là 7 ngày. Nếu cần phải xác minh thêm, thì thời hạn có thể được kéo dài, nhưng thời hạn tổng cộng không được quá 14 ngày. UBND chỉ có thể tiến hành đăng ký kết hôn một khi hết thời hạn niêm yết mà không có ai phản đối việc kết hôn và, nói chung, khi hết thời hạn niêm yết mà UBND không nhận thấy có sự vi phạm của bên này hay bên kia hoặc cả hai bên đối với các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định. Từ chối đăng ký kết hôn. Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, thì trong thời hạn 7 ngày (hẳn là kể từ ngày phát hiện tình trạng không đủ điều kiện kết hôn), UBND thụ lý hồ sơ đăng ký phải mời hai bên đến trụ sở UBND để thông báo việc từ chối và cấp cho các đương sự văn bản từ chối trên đó ghi rõ lý do từ chối. Luật không phân biệt giữa từ chối do có đơn khiếu nại, tố cáo và từ chối dựa trên các kết quả xác minh của UBND nơi đăng ký. Trong mọi trường hợp, UBND phải chịu trách nhiệm về việc từ chối của mình. Bởi vậy, nếu có đơn khiếu nại, tố cáo14, UBND phải tiến hành xác minh cơ sở hiện thực của việc khiếu nại, tố cáo đó; nếu xét thấy việc khiếu nại, tố cáo không có cơ sở, UBND có quyền bác đơn khiếu nại, tố cáo và tiến hành đăng ký kết hôn cho các đương sự; nếu thấy việc khiếu nại, tố cáo là có cơ sở, UBND có quyền từ chối đăng ký kết hôn. Các bên có quyền khiếu nại việc từ chối theo các quy định hiện hành về giải quyết khiếu nại, tố cáo (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 13 khoản 2). Người khiếu nại, tố cáo, nếu bị UBND bác đơn, có quyền kiện yêu cầu Toà án huỷ hôn nhân trái pháp luật cũng như có quyền tố cáo hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật của viên chức hộ tịch. Người thực hiện việc đăng ký kết hôn trái pháp luật có thể bị xử lý kỷ luật; nếu còn vi phạm, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự (BLHS 1999 Điều 149). 2. Lễ kết hôn Ngày và nơi đăng ký kết hôn. Ngày đăng ký kết hôn do UBND ấn định và báo cho các bên biết. Thông thường UBND không xác định ngày đăng ký cụ thể mà chỉ 13 Luật chỉ quy định việc niêm yết tại trụ sở UBND nơi đăng ký, không dự kiến việc niêm yết tại trụ sở UBND nơi cư trú trong trường hợp nơi cư trú của một bên không phải là nơi đăng ký. Nói chung, việc niêm yết chỉ nhằm mục đích ngăn chặn việc kết hôn trái pháp luật. Nếu vì lý do gì đó mà người có liên quan không thể ngăn chặn được việc kết hôn trái pháp luật, thì người này cũng có thể yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Có lẽ bởi vậy mà người làm luật không đầu tư quá nhiều công sức vào việc hoàn thiện thủ tục niêm yết. Hơn nữa, niêm yết việc kết hôn, trên thực tế, không phải là biện pháp công bố có hiệu quả: không có bao nhiêu người chú ý đến tờ cáo thị. Sự thiếu quan tâm của công chúng đối với việc niêm yết kết hôn là tình trạng phổ biến ở hầu như tất cả các nước, không chỉ riêng ở Việt Nam. 14 Theo Luật khiếu nại, tố cáo ngày 02/12/1999 Điều 33, thì việc khiếu nại, tố cáo phải được ghi nhận bằng đơn (có nghĩa là bằng văn bản); nếu người khiếu nại, tố cáo trực tiếp đến công sở để trình báo, thì viên chức có thẩm quyền phải hướng dẫn cho đương sự viết lại những lời khiếu nại, tố cáo trên một đơn có chữ ký của đương sự. 11 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 yêu cầu các bên đến trụ sở UBND để tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn trong hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Trên nguyên tắc, nếu các bên đến vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn được phép đăng ký kết hôn, thì việc đăng ký kết hôn phải được tiến hành; tuy nhiên, các bên nên báo trước cho đại diện của UBND nơi đăng ký về ngày dự định đăng ký kết hôn để tránh khả năng bị động của UBND trong việc thực hiện lịch trình công tác. Nơi đăng ký kết hôn là trụ sở UBND xã, phường, thị trấn nơi nhận hồ sơ kết hôn (Nghị định số 83-CP đã dẫn, Điều 25). Đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, điều kiện đi lại quá khó khăn, thì lễ đăng ký kết hôn có thể được tổ chức tại bản làng (cùng điều luật). Toà án nhân dân tối cao nói rằng Điều 14 (của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000-TG) không quy định cụ thể địa điểm tổ chức đăng ký kết hôn; do đó, địa điểm tổ chức đăng ký kết hôn có thể là một nơi khác không phải là trụ sở của cơ quan đăng ký kết hôn (Nghị quyết số 02 đã dẫn, 2, c1). Lễ đăng ký kết hôn. Lễ đăng ký kết hôn, trong khung cảnh của luật hiện hành, phải được tổ chức ngay lập tức, một khi các bên có mặt vào ngày, giờ ấn định một cách hợp lệ cho việc đăng ký kết hôn. Sự có mặt của cả hai bên kết hôn là điều kiện cần thiết (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 14), bởi vậy: - Nếu ít nhất một bên không thể có mặt, thì lễ đăng ký kết hôn phải được hoãn lại. Trong luật thực định Việt Nam, không thể có trường hợp kết hôn từ xa, thông qua vai trò của người đại diện hoặc theo thủ tục kết hôn vắng mặt15; - Nếu một bên chết trước ngày ấn định cho việc đăng ký kết hôn, thì không thể có lễ đăng ký kết hôn. Đại diện của UBND yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn; nếu hai bên đồng ý kết hôn16, thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn mời hai bên ký vào giấy chứng nhận kết hôn và sổ đăng ký kết hôn. Chủ tịch UBND ký và trao cho mỗi bên một bản chính giấy chứng nhận kết hôn17, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Bản sao và số lượng bản sao giấy chứng nhận kết hôn được cấp theo yêu cầu của hai bên. Bằng chứng của hôn nhân. Trong khung cảnh của luật thực định, việc đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là điều kiện để quan hệ hôn nhân được 15 Tuy nhiên, theo Toà án nhân dân tối cao, “Thực tế cho thấy rằng trong một số trường hợp, vì những lý do khách quan hay chủ quan mà khi tổ chức đăng ký kết hôn chỉ có một bên nam nữ; do đó, nếu trước khi đăng ký kết hôn đã thực hiện đúng quy định tại khoản 1 Điều 13 (của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000-TG) và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn họ thực sự về chung sống với nhau, thì không coi là việc đăng ký kết hôn đó là không theo nghi thức quy định tại Điều 14” (Nghị quyết số 02 đã dẫn, 2, c2). Với chủ trương này, thì Toà án không quan tâm đến ảnh hưởng của các thủ tục đăng ký kết hôn cần có sự tham gia của đương sự đối với giá trị của việc kết hôn, ví dụ, thủ tục hỏi và đáp, thủ tục ký tên vào sổ đăng ký kết hôn và giấy chứng nhận kết hôn. Vấn đề có thể trở nên tế nhị trong trường hợp cần kiểm tra tính hoàn hảo của sự ưng thuận kết hôn và khả năng nhận thức của các đương sự ở thời điểm tiến hành lễ kết hôn. 16 Không loại trừ khả năng ý chí được bày tỏ không phải là ý chí thực; bởi vậy, các thủ tục hỏi (của đại diện UBND) và trả lời (của các đương sự) chỉ mang tính nghi thức. Việc đương sự tuyên bố đồng ý kết hôn trước đại diện của UBND không ngăn cản đương sự yêu cầu Toà án huỷ hôn nhân trái pháp luật do có sự lừa dối hoặc cưỡng ép. Nói cách khác, chính sự ưng thuận của các đương sự, chứ không phải sự tác hợp của viên chức hộ tịch, là điều kiện để hôn nhân được xác lập. 17 Vậy nghĩa là giấy chứng nhận kết hôn được lập thành hai bản chính. 12 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 pháp luật thừa nhận. Do đó, bằng chứng duy nhất về hôn nhân là giấy chứng nhận đăng ký kết hôn do cơ quan có thẩm quyền cấp. “Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng, thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng” (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 11 khoản 1). II. Chế tài đối với các vi phạm quy định về kết hôn A. Các khái niệm Kết hôn trái pháp luật. Gọi là kết hôn trái pháp luật việc xác lập quan hệ vợ, chồng có đăng ký kết hôn, nhưng vi phạm những điều kiện kết hôn do pháp luật quy định (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 8 khoản 3). Vậy, không thể coi là kết hôn trái pháp luật việc xác lập quan hệ vợ, chồng vi phạm những điều kiện kết hôn do luật quy định và cũng không có đăng ký kết hôn. Ta gọi loại quan hệ sau này là quan hệ như vợ chồng trái pháp luật, sẽ được nghiên cứu sau. Vi phạm các điều kiện về nội dung và vi phạm các điều kiện về hình thức. Các điều luật liên quan đến hôn nhân trái pháp luật trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ đề cập đến các trường hợp kết hôn vi phạm các điều kiện về nội dung: kết hôn mà chưa đến tuổi tối thiểu được phép, kết hôn do bị cưỡng ép, lừa dối, kết hôn giữa những người có quan hệ thân thích Không có điều luật nào nói rằng việc kết hôn là trái pháp luật, nếu có vi phạm các điều kiện về hình thức: hồ sơ xin kết hôn không có hoặc không đủ, nhận hồ sơ trong điều kiện không bên nào có mặt, nhận hồ sơ qua bưu điện hoặc qua người trung gian, không có thủ tục niêm yết công khai, không tôn trọng thời hạn niêm yết, không tiến hành xác minh, lập giấy chứng nhận đăng ký kết hôn mà không hỏi hai bên về việc có đồng ý hay không đồng ý kết hôn, Nói chung, người làm luật không coi các vi phạm điều kiện về hình thức kết hôn là những sự kiện có thể ảnh hưởng đến tính hợp pháp của hôn nhân. B. Chế tài trong trường hợp kết hôn trái pháp luật 1. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật Người có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Những người có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, trong khung cảnh của luật hiện hành, được liệt kê tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. - Trong trường hợp kết hôn do bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối, thì bên bị cưỡng ép, bị lừa dối, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật; - Trong trường hợp kết hôn mà chưa đủ tuổi, kết hôn với người đang có vợ hoặc có chồng, với người mất năng lực hành vi, kết hôn giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời, kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với người đã từng là con nuôi, giữa bố chồng với con dâu, giữa mẹ vợ với con rễ, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng, thì những người sau đây có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật: vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn; Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ. 13 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 Viện kiểm sát cũng có thể tự mình yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật trong các trường hợp ghi nhận tại nhóm thứ hai trên đây. Luật có quy định thêm rằng cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Quy định quá rộng và, thoạt trông, có thể cho phép một người thứ ba nào đó bất kỳ chen vào cuộc sống riêng của người khác. Trong thực tiễn, nếu xét thấy người thứ ba không có lợi ích rõ ràng trong việc yêu cầu huỷ hôn nhân trái pháp luật và bản thân việc yêu cầu cũng không xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích chung, thì Viện kiểm sát hoặc Toà án sẽ bác đề nghị của người thứ ba, đặc biệt là trong các trường hợp yêu cầu hủy hôn nhân trái pháp luật do có sự nhầm lẫn về lai lịch, lừa dối, cưỡng ép hoặc do một bên ở trong tình trạng không nhận thức được hành vi của mình. Cơ quan có quyền huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Cơ quan có quyền giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật là Toà án. Tuy nhiên, luật hiện hành quy định rất chung về việc xác định Toà án có thẩm quyền. Thực tiễn, về phần mình, có xu hướng thừa nhận rằng Toà án có thẩm quyền là Toà án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi đăng ký kết hôn hoặc nơi cư trú của vợ chồng. Thời hiệu khởi kiện. Luật hiện hành không quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Dẫu sao, khó có thể hình dung khả năng một bên kết hôn trái pháp luật hoặc cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thuyết phục được Toà án ra quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật do có sự lừa dối hoặc cưỡng ép, một khi cuộc sống chung đã được duy trì trong một thời gian dài (5 năm, 10 năm, ): hẳn việc kết hôn trong trường hợp này có thể coi như một giao dịch dân sự và chỉ có thể bị huỷ trong thời hạn được quy định tại BLDS 2005 Điều 136 khoản 1, nghĩa là trong hai năm từ ngày giao dịch được xác lập ? Mặt khác, tình trạng tảo hôn cũng không có căn cứ để được ghi nhận nữa khi các bên đã duy trì quan hệ hôn nhân một cách liên tục cho đến lúc đạt đến độ tuổi cần thiết: nếu Toà án quyết định huỷ hôn nhân theo yêu cầu của một người nào đó, với lý do có tảo hôn, thì các bên, đã đủ tuổi và không muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng, sẽ tiến hành kết hôn lại ngay lập tức và việc đăng ký kết hôn không thể bị từ chối. Điều chắc chắn, việc kết hôn vi phạm các quy định về cấm kết hôn giữa những người có quan hệ thân thuộc hoặc thông gia, ở các mức độ được ghi nhận tại Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 10 khoản 3 và 4, phải bị huỷ bỏ, dù hôn nhân đang tồn tại hay đã chấm dứt. Trong trường hợp có vi phạm chế độ một vợ, một chồng, các thẩm phán, từ lâu, đã chủ trương rằng nếu các cuộc hôn nhân hoặc quan hệ như vợ chồng khác đã chấm dứt, thì cuộc hôn nhân hoặc quan hệ như vợ chồng duy nhất còn lại không còn bị coi là vi phạm chế độ một vợ, một chồng18. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử vẫn chưa xây dựng giải pháp cho vấn đề xác định tính hợp pháp hay không hợp pháp của các mối quan hệ 18 Xem: Thông tư số 112-NCPL ngày 19/8/1972 của Toà án nhân dân tối cao, II, 2. Thực ra, giải pháp này được lấy lại trong Nghị quyết số 02 ngày 23/12/2000 đã dẫn, nhưng chỉ được áp dụng trong trường hợp cuộc hôn nhân trước chấm dứt do ly hôn: xem 2, d3. Trong khung cảnh của Nghị quyết đã dẫn, ta có cảm giác rằng, nếu một trong hai cuộc hôn nhân đã chấm dứt do có người chết, thì cuộc hôn nhân còn lại cũng không bị Toà án coi là vi phạm chế độ một vợ một chồng; song cảm giác này không mạnh lắm. 14 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 hôn nhân hoặc như vợ chồng đã chấm dứt19. Riêng quan hệ duy nhất còn lại, trong khung cảnh của luật thực định, chỉ được coi là hợp pháp nếu có đăng ký kết hôn và nếu các điều kiện về nội dung kết hôn đều hội đủ. 2. Hậu quả của việc huỷ việc kết hôn trái pháp luật a. Hậu quả đối với hai bên kết hôn trái pháp luật Về quan hệ nhân thân. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 17 khoản 1, khi việc kết hôn trái pháp luật bị huỷ, thì hai bên nam nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. Vấn đề đặt ra: thái độ của quyền lực công cộng sẽ như thế nào, nếu các bên không tuân theo quy định ấy và vẫn duy trì quan hệ như vợ chồng? Câu trả lời của luật rất khác nhau, tùy theo lý do của việc huỷ hôn nhân trái pháp luật. - Nếu việc kết hôn bị huỷ do có vi phạm quy định về tuổi kết hôn, thì người tiếp tục duy trì quan hệ như vợ chồng với người chưa đủ tuổi kết hôn sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tảo hôn, như ta đã biết; nếu không có bên nào đủ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự, thì người tổ chức việc duy trì quan hệ đó sẽ chịu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức tảo hôn. - Nếu việc kết hôn bị huỷ do vi phạm chế độ một vợ một chồng, thì các bên duy trì quan hệ như vợ chồng sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng. - Nếu việc kết hôn bị huỷ do các bên có quan hệ thân thuộc về trực hệ hoặc quan hệ anh, chị, em cùng cha, mẹ hoặc cùng cha hay cùng mẹ, thì các bên duy trì quan hệ như vợ chồng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội loạn luân. - Nếu việc kết hôn bị huỷ do có sự cưỡng ép hoặc lừa dối, thì còn phải phân biệt: + Nếu cả hai bên tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân một cách tự nguyện, thì coi như không còn sự cưỡng ép hoặc lừa dối. Hai bên có thể đăng ký lại việc kết hôn; nếu không đăng ký lại, hai bên rơi vào tình trạng chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, tình trạng mà luật không khuyến khích nhưng cũng không cấm. + Nếu một bên hoặc người thứ ba tiếp tục cưỡng ép bên kia duy trì quan hệ như vợ chồng trái với ý chí của bên kia, thì người cưỡng ép có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự. Trong các trường hợp khác, luật hiện hành chưa có biện pháp chế tài cụ thể. Có thể hình dung: quan hệ như vợ chồng có thể được tiếp tục duy trì giữa một người có năng lực hành vi và một người mất năng lực hành vi hoặc giữa hai người mất năng lực hành vi; giữa một người tỉnh táo và một người mắc bệnh tâm thần hoặc giữa hai người mắc bệnh tâm thần; giữa những người đã từng có quan hệ cha, mẹ nuôi-con nuôi, cha chồng-con dâu, mẹ vợ-con rể; giữa những người có cùng giới tính,20 Làm cho đồng 19 Lợi ích của việc giải quyết vấn đề cũng giống như trong hầu hết các trường hợp huỷ việc kết hôn trái pháp luật khác: nếu có một nghĩa vụ cấp dưỡng được xác lập sau khi ly hôn, thì nghĩa vụ đó bị xoá sổ một khi hôn nhân bị huỷ; nếu hôn nhân chấm dứt do có người chết, thì việc huỷ việc kết hôn trái pháp luật sẽ làm mất tư cách người thừa kế của người còn sống. 20 Theo Nghị định số 87/NĐ-CP ngày 21/11/2001 Điều 8, nếu kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, , thì các đương sự có thể bị xử phạt hành chính; sau khi việc kết hôn bị huỷ mà các đương sự vẫn tiếp tục chung sống, thì chỉ bị buộc chấm dứt quan hệ chung sống; nếu các đương sự vẫn tiếp tục chung sống dù đã bị buộc chấm dứt quan hệ chung sống, thì đành chịu thua. 15 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 bộ hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực hôn nhân vẫn tiếp tục là vấn đề nóng bỏng đối với người làm luật. Về quan hệ tài sản. Giữa các bên mà quan hệ hôn nhân không được thừa nhận không thể có các quan hệ tài sản của vợ chồng. Việc thanh toán và phân chia tài sản chung của hai bên được thực hiện như trong trường hợp thanh toán và phân chia tài sản của một công ty thực tế. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Đìều 17 khoản 3, sau khi việc kết hôn bị huỷ, thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và các con. Không có quan hệ vợ chồng, không có cơ sở để xác lập quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng giữa hai bên trong trường hợp một bên lâm vào cảnh sống túng thiếu sau khi hôn nhân bị huỷ. b. Hậu quả đối với con cái Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con cái. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 17 khoản 2, một khi việc kết hôn trái pháp luật bị huỷ, thì quyền lợi của con cái được giải quyết như khi ly hôn: cha, mẹ vẫn tiếp tục có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng con đó, thì có nghĩa vụ cấp dưỡng đồng thời có quyền thăm viếng, Tất nhiên, nếu cha mẹ tiếp tục chung sống như vợ chồng, thì các vấn đề cấp dưỡng, thăm viếng không được đặt ra. c. Vi phạm điều kiện về đăng ký kết hôn Hôn nhân không có giá trị pháp lý. Trước hết phải thừa nhận rằng hôn nhân không có giá trị pháp lý không nhất thiết là hôn nhân trái pháp luật, bởi theo định nghĩa của luật, kết hôn trái pháp luật là việc kết hôn có đăng ký nhưng vi phạm các điều kiện về nội dung kết hôn: hôn nhân không có giá trị pháp lý không có đăng ký kết hôn nhưng có thể không vi phạm các quy định liên quan đến điều kiện về nội dung kết hôn. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 87, trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý và không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật. Có thể từ đó ghi nhận rằng trong suy nghĩ của người làm luật, hôn nhân không có giá trị pháp lý đơn giản là hôn nhân không làm phát sinh các hệ quả pháp lý. 16 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 MỤC II. QUAN HỆ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG Khái niệm. Nếu kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn, thì quan hệ chung sống như vợ chồng là quan hệ vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Quan hệ ấy có thể được xác lập không phù hợp với các điều kiện về nội dung kết hôn, nhưng cũng có thể hoàn toàn phù hợp với các điều kiện ấy. I. Quan hệ chung sống như vợ chồng vi phạm các điều kiện về nội dung kết hôn Sự hình thành quan hệ. Quan hệ chung sống như vợ chồng vi phạm các điều kiện về nội dung kết hôn có thể hình thành theo một trong hai cách: - Hoặc đó là sự duy trì quan hệ như vợ chồng giữa những người kết hôn trái pháp luật sau khi hôn nhân bị huỷ theo một bản án hoặc quyết định của Toà án; - Hoặc đó là sự xác lập quan hệ vợ chồng mặc nhiên giữa những người biết rõ rằng họ không có quyền đăng ký kết hôn nhưng vẫn muốn chung sống như vợ chồng. Hệ quả pháp lý của quan hệ. Quan hệ vợ chồng vi phạm các điều kiện về nội dung kết hôn là quan hệ vợ chồng trái pháp luật. Tuy nhiên, việc xác lập và duy trì quan hệ đó chỉ bị chế tài về hành chính hoặc hình sự trong một số trường hợp - loạn luân, vi phạm chế độ một vợ một chồng, tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, như đã biết. Trong khung cảnh của luật thực định, chỉ có một điều chắn chắn: giữa những người này và con cái luôn có quan hệ cha mẹ và con và quan hệ ấy làm phát sinh tất cả các quyền và nghĩa vụ hỗ tương của cha mẹ và con theo đúng pháp luật hôn nhân và gia đình. II. Quan hệ chung sống như vợ, chồng không vi phạm các điều kiện về nội dung kết hôn 1. Hôn nhân thực tế Khái niệm. Hôn nhân thực tế là một quan hệ thực tế, xác lập giữa hai người, một nam và một nữ, có đủ các điều kiện để kết hôn theo quy định của pháp luật, chung sống với nhau như vợ chồng, nhưng lại không đăng ký kết hôn21. 21 Theo Thông tư liên tịch số 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ tư pháp, được coi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Có tổ chức lễ cướïi khi về chung sống với nhau; - Việc họ chung sống với nhau được gia đình (một hoặc hai bên) chấp nhận; 17 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 a. Lịch sử của hôn nhân thực tế Hoàn cảnh khách quan và nhận thức. Có một thời kỳ dài hôn nhân thực tế được thừa nhận trong thực tiễn giao dịch, như là một chế định bổ khuyết có tác dụng khắc phục những khó khăn trong việc thiết lập hệ thống hộ tịch trên phạm vi cả nước (khó khăn do chiến tranh), cũng như trong việc cải tạo nhận thức của một bộ phận dân cư về hôn nhân và gia đình. Có người muốn đăng ký kết hôn ngay khi xác lập quan hệ hôn nhân mà không thể đăng ký được vì cơ quan hộ tịch chưa được thành lập ở nơi cư trú; sau nhiều năm, lớn tuổi, cư xử với người bạn đời như vợ chồng (đã thành phản xạ tự nhiên), có con chung, có tài sản chung, người này nhận thấy việc đăng ký kết hôn trở thành một thủ tục không bình thường, thậm chí còn có tác dụng hạ thấp giá trị của mối quan hệ hôn nhân mà mình đã xác lập (thực tế) từ lâu. Có người khác, do sự lạc hậu trong nhận thức, cho rằng việc đăng ký kết hôn chỉ là thủ tục mang tính hình thức, rằng chính những nghi thức kết hôn được thiết lập trong tục lệ mới là những thủ tục mang tính đạo đức và thực sự có giá trị trong việc xác lập quan hệ hôn nhân dưới mắt cộng đồng. Hiện tượng xã hội. Việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, dù không vi phạm các điều kiện về nội dung kết hôn, trong khung cảnh của xã hội đương đại, còn là một hiện tượng xã hội, một cách sống, chứ không chỉ đơn giản là hệ quả, tàn dư của chiến tranh hay của những lề thói lạc hậu: chung sống mà không kết hôn, các bên có thể chấm dứt cuộc sống chung bằng cách chia tay thực tế mà không cần tiến hành thủ tục ly hôn (và sau đó, nếu muốn, các bên có thể chung sống với nhau trở lại mà không cần kết hôn)22. Người làm luật không khuyến khích sự phát triển của hiện tượng đó, nhưng cũng không thể coi đó như là một quan hệ xác lập trái pháp luật. Cá biệt, có những trường hợp chung sống như vợ chồng giữa những người lớn tuổi và đã từng thất bại trong hôn nhân: ngán ngại những thủ tục phức tạp phải thực hiện khi cần ly hôn cũng như những hệ quả bất lợi về tài sản có thể có sau khi ly hôn, những người “làm lại cuộc đời” chấp nhận chung sống với nhau và cư xử như vợ chồng, nhưng không chịu đăng ký kết hôn. b. Giải pháp của người làm luật năm 2000 Xác định ba loại hôn nhân thực tế. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 11 khoản 1, thì việc kết hôn phải được đăng ký theo các quy định tại Điều 14 (của Luật) và mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000, thì việc áp dụng khoản 1 Điều 11 nêu trên không giống nhau tùy theo hôn nhân thực tế xác lập trước khi có Luật hôn nhân và - Việc họ chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; - Họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ, cùng nhau xây dựng gia đình. Khái niệm chung sống như vợ chồng ghi nhận trong Thông tư đó được xây dựng trong khuôn khổ hướng dẫn thi hành Nghị Quyết số 35 ngày 09/6/2000 của Quốc hội mà nội dung sẽ được phân tích sau đây. 22 Quyền kết hôn, thực ra, có hai mặt. Tích cực, quyền kết hôn được hiểu như là quyền của một người được tự do lựa chọn người bạn đời của mình, miễn là sự lựa chọn đó không vi phạm các điều kiện về nội dung kết hôn. Tiêu cực, quyền kết hôn được hiểu như là quyền không kết hôn. Quyền không kết hôn, đến lượt mình, lại cũng có hai hình thức thể hiện: đơn giản, người không kết hôn theo đuổi cuộc sống độc thân; phức tạp, người không kết hôn chung sống như vợ chồng với một người khác, phù hợp với các điều kiện về nội dung kết hôn, nhưng lại không đăng ký kết hôn. Chính hình thức thể hiện thứ hai của quyền không kết hôn làm nảy sinh các vấn đề xã hội làm bận tâm không chỉ người làm luật mà cả những người làm công tác nghiên cứu đạo đức học, xã hội học, 18 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 gia đình năm 1986, sau khi có Luật đó nhưng trước khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 hoặc sau khi có Luật này (khoản 3). a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trướïc ngày 03/01/1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực, mà chưa đăng ký kết hôn, thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn, thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện đăng ký kết hôn theo quy định của Luật này, thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003; trong thời gian này mà họ không đăng ký kết hôn nhưng có yêu cầu ly hôn, thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết; từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn, thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng; c) Kể từ ngày 01/01/2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản, thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. 2. Thời kỳ chung sống như vợ chồng ở góc độ pháp lý a. Quan hệ giữa hai người chung sống với nhau như vợ và chồng Không có các mối liên hệ pháp lý của vợ chồng. Không phải là vợ chồng theo nghĩa của luật, những người có quan hệ như vợ chồng không có nghĩa vụ chung sống và các nghĩa vụ đặc trưng của quan hệ vợ chồng: nghĩa vụ yêu thương, chung thuỷ, đùm bọc, hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Mỗi người có các quyền và nghĩa vụ đối với người kia theo luật chung, như hai cá nhân bình thường. Về phương diện tài sản, những người chung sống như vợ chồng không có tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Trong thời gian chung sống, tài sản do một người tạo ra thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản được hai người cùng tạo ra thuộc sở hữu chung theo phần giữa họ. Các nghĩa vụ tài sản do một người xác lập chỉ ràng buộc người đó. Ngay cả trong trường hợp nghĩa vụ tài sản được xác lập nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình, thì, trên nguyên tắc, nghĩa vụ cũng chỉ ràng buộc chính người xác lập giao dịch. Việc sử dụng, định đoạt tài sản chịu sự chi phối của luật chung về quyền sở hữu: mỗi người có độc quyền sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; việc sử dụng định đoạt tài sản chung được thực hiện theo nguyên tắc nhất trí. b. Quan hệ giữa hai người chung sống với nhau như vợ chồng và người thứ ba Nguyên tắc. Đối với người thứ ba, quan hệ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn không phải là quan hệ vợ chồng. Do đó, các giao dịch mà người thứ ba xác lập với những người có quan hệ chung sống như vợ chồng chịu sự chi phối của luật chung. Những người chung sống như vợ chồng chỉ liên đới chịu trách nhiệm 19 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 đối với các nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch ấy, nếu họ bày tỏ ý chí rõ ràng về việc thiết lập tình trạng liên đới đó hoặc nếu pháp luật có quy định. Trong trường hợp một bên xác lập một giao dịch nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình, thì bên kia vẫn không chịu trách nhiệm liên đới. Giải pháp này rõ ràng không thuận lợi đối với người thứ ba: cứ mỗi lần xác lập giao dịch với một người có vẻ như có vợ (chồng), người thứ ba phải yêu cầu người đó xuất trình giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ? Trong trường hợp một trong hai bên chung sống như vợ chồng bị người thứ ba gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ mà bên kia không được nuôi dưỡng một cách bình thường, thì thiệt hại do bên kia gánh chịu không được tính vào thiệt hại mà người thứ ba phải bồi thường. Trường hợp một trong hai bên trước đây đã ly hôn và được cấp dưỡng. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 61 khoản 6, nếu bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác, thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt. Liệu quy định đó có được áp dụng cả cho trường hợp bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn không kết hôn mà chỉ chung sống như vợ chồng với người khác ? Suy cho cùng, chính trường hợp thứ hai này có ý nghĩa thực tiễn rõ nét hơn trường hợp được luật dự kiến. Trong khung cảnh của luật viết, ta chưa có câu trả lời chắc chắn. Thông thường, người đã ly hôn mà chung sống như vợ chồng với người khác sẽ tự động không yêu cầu cấp dưỡng tiếp; người chung sống như vợ chồng với người đó, về phần mình, cũng thường không muốn người cùng chung sống tiếp tục nhận tiền cấp dưỡng của vợ (chồng) cũ của người đó. Nhưng không loại trừ khả năng người được cấp dưỡng vẫn muốn tiếp tục được cấp dưỡng, còn người chung sống như vợ chồng với người được cấp dưỡng không biết chuyện đó hoặc biết nhưng không phản đối. Khi đó, người có nghĩa vụ cấp dưỡng có nguy cơ phải “gồng gánh” nhiều người chứ không chỉ một người, bởi, như sẽ thấy, mức cấp dưỡng được tính dựa trên nhu cầu của gia đình của người được cấp dưỡng chứ không chỉ của cá nhân người này. c. Quan hệ giữa hai người chung sống với nhau như vợ chồng và con cái Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con cái. Chủ trương của người làm luật là: quan hệ cha mẹ-con cái không bị ảnh hưởng bởi việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ chung sống giữa cha, mẹ cũng không lệ thuộc vào tính chất của quan hệ chung sống giữa cha và mẹ. Dù cha, mẹ có kết hôn hay không kết hôn, dù cha và mẹ còn chung sống hay đã chia tay với nhau, các quyền và nghĩa vụ hỗ tương giữa cha mẹ và con vẫn tồn tại. Bởi vậy, những người chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái và ngược lại, theo đúng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Xác lập quan hệ cha mẹ-con. Trong trường hợp có tranh chấp về việc xác lập quan hệ cha mẹ-con, sự suy đoán của luật trong việc xác định cha, mẹ, quy định tại Luật hôn nhân và gia đình Điều 63 khoản 1, không được áp dụng đối với con sinh ra từ quan hệ chung sống như vợ chồng. “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng”. Giữa những người chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không có “thời kỳ hôn nhân” theo định nghĩa của luật. Tuy nhiên, nếu “thời kỳ hôn nhân” bị xoá sổ theo một bản án hoặc quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật, thì con sinh ra trong thời kỳ giữa ngày đăng ký kết hôn trái pháp luật và ngày có bản án hoặc quyết định của Toà án huỷ việc kết hôn ấy hoặc 20 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 do người mẹ có thai trong thời kỳ ấy nên được suy đoán là con chung của hai người, như một trường hợp ngoại lệ. Trường hợp nuôi con nuôi. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 68 khoản 2, một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng. Những người chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không được coi là vợ chồng; bởi vậy, khi hai nguời chung sống như vợ chồng thống nhất ý chí về việc nhận con nuôi, thì chỉ có một người được phép tiến hành thủ tục nhận con nuôi; người chung sống như vợ hoặc chồng với cha nuôi hoặc mẹ nuôi không thể là mẹ nuôi hoặc cha nuôi của người được nuôi. 3. Chấm dứt quan hệ chung sống như vợ chồng Theo thoả thuận hoặc theo ý chí của một bên. Không được pháp luật thừa nhận như là quan hệ vợ chồng chính thức, quan hệ vợ chồng không có đăng ký kết hôn không thể chấm dứt trong lúc cả hai bên còn sống bằng con đường ly hôn, trừ các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 Nghị quyết của Quốc hội ngày 09/6/2000 đã dẫn: không phải là vợ chồng hợp pháp, các bên muốn chấm dứt cuộc sống chung thì chỉ cần thôi chung sống. Trên thực tế, quan hệ vợ chồng không có đăng ký kết hôn có thể chấm dứt theo sáng kiến (theo quyết định đơn phương) của một bên mà không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý đối với bên kia. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc chấm dứt quan hệ đó. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 87, trong trường hợp không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này. Với quy định này, thì những người chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà chấm dứt quan hệ chung sống giữa họ bằng con đường dân gian, sẽ không phải nhận văn bản tuyên bố đó của Toà án. Thông thường, những người chung sống không đăng ký kết hôn mà nhầm tưởng rằng giữa họ có quan hệ vợ chồng, là những người ít học. Sẽ dễ chịu hơn cho các đương sự, nếu Toà án chỉ từ chối thụ lý việc ly hôn của những người không có đăng ký kết hôn, với lý do không có quan hệ hôn nhân để chấm dứt. Những người ngộ nhận về thân trạng của mình khi đó sẽ biết họ cần phải làm gì để xử lý hậu quả của mối quan hệ chung sống như vợ chồng giữa họ. Hệ quả về tài sản. Sau khi quan hệ chung sống như vợ chồng chấm dứt, việc thanh toán tài sản được thực hiện giống như thanh toán một công ty thực tế: tài sản rịêng của người nào, người đó lấy lại; tài sản thuộc sở hữu chung theo phần được chia theo luật chung; người đã đóng góp vào việc làm tăng giá trị của tài sản thuộc về người kia có quyền yêu cầu hoàn lại phần giá trị gia tăng đó theo đúng các quy định về hiệu lực của tình trạng được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật. Việc phân chia có thể được thực hiện theo sự thoả thuận giữa hai bên. Trong trường hợp quan hệ như vợ, chồng chấm dứt do có người chết, thì người còn sống thoả thuận việc phân chia với những người thừa kế của người chết. Nếu giữa các bên không có sự thoả thuận cần thiết, thì một bên hoặc cả hai bên có thể yêu cầu Toà án giải quyết. Việc giải quyết của Toà án sẽ được thực hiện trên cơ sở áp dụng các quy định liên quan đến việc thanh toán tài sản trong trường hợp huỷ hôn nhân trái pháp luật (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 87). 21 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 Quyền và nghĩa vụ đối với con cái. Luật có quy định chi tiết việc giải quyết vấn đề thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp ly hôn. Nếu quan hệ hôn nhân giữa cha mẹ bị huỷ do kết hôn trái pháp luật, thì vấn đề con cái cũng được giải quyết như trong trường hợp cha mẹ ly hôn (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 17 khoản 2). Còn nếu hôn nhân thực tế chấm dứt trong lúc cả hai bên đều còn sống, thì sao ? Thông thường, khi hai bên chung sống như vợ chồng quyết định chấm dứt quan hệ, thì giữa họ cũng có được sự thoả thuận cần thiết về việc trông giữ các con chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động. Nếu giữa các bên không đạt được sự thoả thuận đó, thì, theo yêu cầu của họ, Toà án giải quyết bằng cách áp dụng các quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái sau khi ly hôn (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 87, dẫn chiếu đến khoản 2 Điều 17 của Luật). 22 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 CHƯƠNG II THIẾT LẬP MỐI LIÊN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON Quan hệ cha mẹ-con là mối liên hệ pháp lý giữa một người (gọi là con) và một người khác (gọi là cha hoặc mẹ): tùy theo người khác đó là nam hay nữ quan hệ được thiết lập là quan hệ cha-con hoặc quan hệ mẹ-con. Quan hệ cha mẹ-con có thể được xác lập một cách tự nhiện từ sự kiện thành thai và sinh nở (gọi là quan hệ cha mẹ-con ruột) hoặc một cách nhân tạo từ việc nhận con nuôi. MỤC I. QUAN HỆ CHA MẸ-CON RUỘT Đặt vấn đề. Việc làm rõ quan hệ cha mẹ-con ruột không chỉ cần thiết trong trường hợp có tranh cãi về tư cách cha, mẹ, con của một người, khi thẩm phán, theo yêu cầu, phải có trách nhiệm thẩm định các bằng chứng chống lại nhau. Một người nào đó đến cơ quan công chứng và tự xưng rằng mình là con ruột của một người đã chết và di sản đang được thanh toán; cơ quan công chứng phải kiểm tra tư cách “con” của người tự xưng đó trước khi người này tham gia vào việc chuyển giao và thanh toán di sản. Một người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi có hành vi gây thiệt hại cho một người khác; Toà án gọi cha của người gây thiệt hại ra Toà để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại; một trong những điều kiện để phiên Toà diễn tiến bình thường là người được gọi ra Toà phải thực sự là cha của người gây thiệt hại Các cách thức xác định quan hệ cha mẹ-con ruột, tùy theo tính chất, có thể được xếp vào hai nhóm chính: xác định quan hệ cha mẹ-con như là quan hệ tự nhiên và xác định quan hệ cha mẹ-con như là quan hệ pháp lý. I. Xác định quan hệ cha mẹ-con như là quan hệ tự nhiên Tạm gọi là có tính chất tự nhiên, quan hệ cha mẹ-con ràng buộc những người có liên quan một cách tự nhiên và được người thứ ba nhìn nhận mà không cần sự can thiệp của luật, không cần dựa vào các quy tắc pháp lý. Với tính cách là quan hệ tự nhiên, quan hệ cha mẹ-con có thể được xác định dựa vào một trong hai yếu tố hoặc cả hai yếu tố: sinh học và xã hội học. 23 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 1. Yếu tố sinh học Thành thai và sinh sản. Con ruột của cha và mẹ là con do người mẹ sinh ra từ một bào thai do người mẹ cưu mang và bào thai đó là kết quả của sự phối hợp xác thịt của cha và mẹ. Đối với người mẹ, yếu tố sinh học được xây dựng quanh sự kiện sinh sản: người phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ của đứa trẻ ấy. Đối với người cha, yếu tố sinh học lại được xây dựng quanh sự kiện thành thai: người có quan hệ xác thịt với người phụ nữ và dẫn đến việc người sau này mang thai là cha của đứa trẻ sinh ra từ bào thai ấy. Giả sử ngày sinh của con được xác định; làm thế nào để xác định ngày thành thai của con? Luật viết chưa trả lời câu hỏi này. Trước khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, một số văn bản lập quy của cơ quan hành chính hoặc cơ quan xét xử có ghi nhận các quy tắc về việc suy đoán khoảng thời gian mà trong khoảng thời gian đó ngườìi phụ nữ có thể mang thai. Các quy tắc ấy không giống nhau23 và hầu như không được áp dụng một cách phổ biến trong thực tiễn. Trường hợp sinh sản nhân tạo. Nghị định số 12-CP ngày 12/02/2003 về sinh con theo phương pháp khoa học chỉ ghi nhận trường hợp người vợ mang thai, nhưng bào thai là kết quả của sự phối hợp giữa trứng và tinh trùng của người khác hoặc trứng của người vợ và tinh trùng của người khác. Theo Điều 20 khoản 2 của Nghị định thì con được sinh ra trong trường hợp này coi như có cha và mẹ ruột là người chồng và người vợ đó. Tất nhiên, lai lịch của người cung cấp yếu tố vật chất bổ khuyết không được công bố cho vợ và chồng biết, cũng như bản thân người cung cấp yếu tố vật chất bổ khuyết không biết lai lịch của vợ và chồng muốn có con bằng con đường thụ tinh nhân tạo. Nếu sự thụ tinh là kết quả sự phối hợp giữa các yếu tố vật chất của vợ và chồng, nhưng việc mang thai lại do một người phụ nữ khác thực hiện, thì thực tiễn có xu hướng thừa nhận rằng trẻ sinh ra có cha và mẹ là chồng và vợ đó, người mang thai hộ chỉ đóng vai trò người hỗ trợ cần thiết cho sự ra đời của trẻ ấy. 2. Yếu tố xã hội học Cha, mẹ, con trước hết là những quan hệ xã hội. Giả thiết được hình dung như sau: một người thứ ba đứng trước hai người - A và B. A giới thiệu với người thứ ba rằng B là con ruột của mình. Người thứ ba ghi nhận sự tồn tại của mối quan hệ cha- con giữa hai người đối diện không chỉ thông qua lời giới thiệu mà còn qua thái độ cư xử của hai người đối với nhau. Ta nói rằng sự tồn tại của quan hệ cha mẹ-con được xác định nhờ những biểu hiện bên ngoài của mối quan hệ ấy, được người thứ ba ghi nhận. Một người mang thân phận “con” là người sống và cư xử theo những chuẩn mực tương ứng với thân phận ấy, do xã hội đặt ra, với điều kiện người được cư xử như cha (mẹ) có phản ứng thuận lợi khi được cư xử như thế. Ta nói rằng quan hệ cha mẹ-con được ghi nhận nhờ sự bộc lộ yếu tố xã hội học của quan hệ ấy. Một cách tổng quát, quan hệ cha mẹ-con được xác định về phương diện xã hội, như là kết quả của sự hội tụ của ba yếu tố nhỏ: danh xưng, thái độ và dư luận. 23 Ví dụ. Thông tư số 733/BYT/TT nói rằng thời gian mang thai của người phụ nữ dài nhất là 285 ngày, ngắn nhâtú là 200 ngày. Thông tư số 15/DS ngày 27/9/1974 của Toà án nhân dân tối cao lại cho rằng thời gian mang thai dài nhất là 300 ngày và ngắn nhất là 180 ngày. 24 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 Danh xưng. Con của một người mang họ của người đó. Thông thường, con sinh ra từ quan hệ hôn nhân mang họ cha; con sinh ra từ quan hệ chung sống như vợ chồng cũng thường mang họ cha. Cá biệt, có trường hợp những người có quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc chung sống như vợ chồng chấp nhận tập tục của cộng đồng dân tộc ít người mà họ có xuất xứ, theo đó, con sinh ra phải mang họ mẹ. Con của một người phụ nữ độc thân thường mang họ của chính người phụ nữ đó. Bằng chứng về việc mang họ có thể là giấy khai sinh hoặc bất kỳ giấy tờ gì khác được thiết lập một cách chính thức (chứng minh thư, hộ chiếu, sổ hộ khẩu, thậm chí lý lịch có xác nhận, bằng cấp, chứng chỉ, ). Thái độ. Việc cha, mẹ cư xử với tư cách đó trong quan hệ với con thể hiện một cách chung nhất qua việc cha mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục, gây dựng tương lai của con. Việc con cư xử với tư cách đó trong quan hệ với cha mẹ thể hiện một cách chung nhất qua việc con tỏ ra kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng, tuân theo lời khuyên của cha mẹ. Khác với khá nhiều thứ tiếng, tiếng Việt có các từ dùng để xưng hô cho phép người thứ ba nhận biết được quan hệ cha-con, mẹ-con giữa các đương sự. Dư luận. Thái độ xử sự của người thứ ba cũng có tác dụng làm rõ mối quan hệ cha mẹ-con của các đương sự: ông bà gọi cha mẹ đến để góp ý về cách giáo dục con; nhà trường gọi cha mẹ đến để họp bàn về việc học của con; Toà án triệu tập cha mẹ đến để tham gia vào vụ án huỷ hoại tài sản của người khác mà con chưa thành niên là thủ phạm; Trong tất cả những trường hợp đó, người thứ ba cũng như quyền lực công cộng thừa nhận tư cách của người tự xưng là cha hoặc mẹ chỉ trên cơ sở ghi nhận sự hội tụ của những yếu tố xã hội học đặc trưng của quan hệ ấy giữa các đương sự. Người thứ ba cũng như quyền lực công cộng trong các trường hợp ấy không bao giờ yêu cầu cha mẹ xuất trình bằng chứng đặc thù về quan hệ cha mẹ-con. Xác lập yếu tố xã hội học. Thực ra, yếu tố xã hội học có thành phần cấu tạo rất phức tạp chứ không chỉ gồm có ba yếu tố nhỏ trên: trao đổi thư từ, giữ gìn những kỷ vật, cũng có thể được coi là biểu hiện của yếu tố xã hội học. Hơn nữa, sự hội tụ của tất cả các yếu tố nhỏ ấy không phải là điều kiện bắt buộc cho sự thành lập hoàn chỉnh yếu tố xã hội học. Nói chung, có thể thừa nhận rằng gọi là có yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con một khi có đủ các dấu hiệu cho người thứ ba thấy sự hiện diện của mối quan hệ đó như là một thành phần của tổng hoà các mối quan hệ của gia đình mà các đương sự là thành viên. Vậy cũng có nghĩa rằng thái độ cư xử giữa các đương sự là thành phần chính của yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con. Liên tục, chắc chắn và không mập mờ. Yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ- con phải được ghi nhận một cách rõ nét và liên tục trong thời gian. Đó là một cách (một thái độ) sống nhất quán và được ghi nhận như một phần tiểu sử của một con người xem xét ở góc độ quan hệ gia đình. Tuy nhiên, sự liên tục của yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con không nhất thiết là sự liên tục theo nghĩa đen: hàng ngày, hàng giờ, thậm chí hàng giây, hai người gọi là cha và con phải biểu lộ mối quan hệ cha-con của họ trước người thứ ba. Thông thường những người cư xử với nhau như cha-con, mẹ-con sống chung với nhau dưới cùng một mái nhà, nhất là chừng nào người được gọi là con chưa đến tuổi thành niên. Nhưng đó không phải là điều kiện bắt buộc cho sự hình thành và duy trì quan hệ cha mẹ-con về mặt xã hội. Trong nhiều trường hợp, sự quan tâm của một người cha và thái độ tích cực của một người con trong việc tiếp nhận sự quan tâm đó, được bộc lộ ở một thời điểm nhất định, cũng đủ 25 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 để nuôi dưỡng mối quan hệ giữa hai người và khiến cho yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con được ghi nhận. II. Xác định quan hệ cha mẹ-con như là quan hệ pháp lý Truy tầm sự thật sinh học. Việc xác định quan hệ cha mẹ-con về phương diện pháp lý chịu sự chi phối của những quy tắc đặc thù, được xây dựng tùy theo việc xác định được thực hiện trong hay ngoài thủ tục tư pháp. Các yếu tố đặt cơ sở cho việc thiết lập quan hệ tự nhiên giữa cha mẹ và con được pháp lý hoá và trở thành chất liệu chính xây dựng chứng cứ của quan hệ cha mẹ-con. Tiêu chí đánh giá chứng cứ là sự phù hợp giữa chứng cứ và sự thật; và, không kể các trường hợp sinh sản nhân tạo hoặc vô tính, nội dung của sự thật về quan hệ cha mẹ-con chỉ có thể là: một người sinh ra từ sự phối hợp xác thịt giữa một người đàn ông và một người đàn bà, thì là con ruột của hai người này. Ta gọi đó là sự thật sinh học. Một cách duy lý, sự thật sinh học phải dựa trên các yếu tố sinh học - có quan hệ xác thịt, có sự thành thai như là hệ quả của quan hệ xác thịt đó và có sự sinh sản từ sự thành thai đó. Tuy nhiên, trên thực tế sự việc lại rất không đơn giản: sự thật sinh học về quan hệ cha mẹ-con như là quan hệ pháp lý phải được xây dựng từ kết quả sự phối hợp giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội học của sự thật đó. Yếu tố xã hội học đóng vai trò bổ sung trong điều kiện yếu tố sinh học thường bị che lấp bởi tính chất không công khai (và không thể công khai) của quan hệ xác thịt. A. Xác định quan hệ cha mẹ-con ngoài thủ tục tư pháp 1. Cách chứng minh chung a. Chứng minh bằng giấy khai sinh Khái niệm. Giấy khai sinh là chứng thư hộ tịch được lập nhằm ghi nhận các yếu tố đặc trưng của sự kiện một người nào đó, xác định, được sinh ra. Trong đa số trường hợp, trên giấy khai sinh, tên họ của cha và mẹ được ghi nhận. Giá trị chứng minh của giấy khai sinh đối với quan hệ cha mẹ-con ruột. Từ lâu, thực tiễn dân gian vẫn thừa nhận việc sử dụng giấy khai sinh để chứng minh quan hệ cha mẹ-con trong nhiều trường hợp. Trong suy nghĩ lành mạnh phù hợp với tâm lý của dân cư, giấy khai sinh là bằng chứng về việc có một người được sinh ra vào ngày tháng năm được ghi nhận trên giấy đó; người này có cha và mẹ lần lượt được ghi tên ở các mục tương ứng trong giấy khai sinh. Ngay cả trong trường hợp những người được khai là cha và mẹ của đứa trẻ không có đăng ký kết hôn hợp lệ, thì tư cách cha và mẹ cũng có thể được chứng minh bằng cách dựa vào các chi tiết được ghi nhận trên giấy khai sinh. Điều gần như chắc chắn: giấy khai sinh là bằng chứng về việc người mẹ có sinh con. Ta nói “gần như chắc chắn”, bởi không loại trừ khả năng con bị đánh tráo với một trẻ khác. Song, dù trong trường hợp nào, giấy khai sinh tự nó không phải là bằng chứng độc lập về sự tồn tại của quan hệ cha mẹ-con. Bởi vậy, đáng lý ra một người “bị” khai là cha (mẹ) của một đứa trẻ, theo giấy khai sinh, dù không biết đứa trẻ đó là ai, không chỉ vì có lời khai đó mà ở trong tình trạng “được nhận là cha (mẹ) của một người” theo 26 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 nghĩa của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 64 và do đó, không cần phải kiện ra Toà án để xin xác định người được khai sinh không phải là con mình24. Trong chừng mực nào đó, ta nói rằng trong trường hợp một người tìm cách xác định quan hệ cha mẹ-con với một người khác, thì giấy khai sinh có ghi lai lịch cha mẹ là manh mối truy tầm chứng cứ về quan hệ đó. Trong thực tiễn giao dịch ngoài thủ tục tư pháp, người tự xưng là con của một người khác và có giấy khai sinh ghi rõ tên họ của người khác đó ở các phần liên quan đến lai lịch của cha mẹ được phép tiếp tục bổ túc chứng cứ để khẳng định mối quan hệ cha mẹ-con đã được ghi nhận trên giấy khai sinh. Cách bổ túc chứng cứ không giống nhau, tùy theo quan hệ cha mẹ-con là quan hệ trong giá thú hay ngoài giá thú, như sẽ thấy sau đây. b. Các cách chứng minh khác Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều người Việt Nam không có giấy khai sinh. Nhưng trong điều kiện không có tranh chấp, quan hệ cha mẹ-con có thể được thừa nhận trong thực tiễn nhờ có các bằng chứng khác không phải là giấy khai sinh. Các trường hợp cần chứng minh quan hệ cha mẹ-con ruột. Các trường hợp này khá đa dạng trong thực tiễn. Có thể hình dung hai trường hợp điển hình: khi cần lập khai sinh trễ hạn hoặc đăng ký lại khai sinh cho một người và khi cần xác định một người nào đó có quyền hưởng di sản của người chết với tư cách là con ruột và là ngườìi thừa kế theo pháp luật được gọi ở hàng thứ nhất của người chết. Trong trường hợp thứ nhất, yêu cầu xác định quan hệ cha mẹ-con, như đã nói, chỉ là hậu quả của sự ngộ nhận về giá trị chứng minh của giấy khai sinh đối với quan hệ đó. Giải pháp của luật. Luật có quy định (song khá đơn giản) về bằng chứng của quan hệ cha mẹ-con ruột trong trường hợp cần lập khai sinh trễ hạn (Nghị định số 83 đã dẫn Điều 61 khoản 1): phải có người khai sinh và người này phải nộp một hồ sơ có thành phần giống như trong trường hợp đăng ký khai sinh đúng hạn. Vậy nghĩa là đối với cơ quan đăng ký hộ tịch, lời khai của người khai sinh, giấy chứng sinh (nếu có ghi tên họ cha và mẹ) và lời khai của người làm chứng là nguồn thông tin về quan hệ cha mẹ-con. Tất cả các lời khai ấy thực ra đều dựa vào các yếu tố sinh học. Điều này, như đã nói, có thể hiểu được: đối với trẻ sơ sinh không thể có yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con. Dẫu sao, trong trường hợp người được lập khai sinh quá hạn đã có một số tuổi nhất định, thì nội dung của các lời khai còn có thể bao gồm các yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con. Giải pháp của thực tiễn. Thực tiễn hầu như không có giải pháp nguyên tắc áp dụng cho tất cả các trường hợp cần chứng minh quan hệ cha mẹ-con ruột ngoài thủ tục tư pháp, trong điều kiện không có giấy khai sinh hoặc giấy khai sinh không ghi nhận lai lịch của cha mẹ. Dẫu sao, giấy khai sinh chỉ được yêu cầu xuất trình trong một số trường hợp tiếp xúc với các thủ tục hành chính25. Trong đời sống dân sự, quan hệ cha 24 Đúng là sẽ rất phiền cho một người nào đó, không có quan hệ vợ chồng hoặc quan hệ chung sống như vợ chồng với người mẹ, lại được khai là cha của đứa trẻ được sinh ra, dù không muốn. Cho đến nay, nhờ có ý thức xã hội (đặc biệt là ý thức tự trọng của người mẹ) mà người không phải là cha của một đứa trẻ thường không được khai là cha của đứa trẻ ấy. Nhưng bảo đảm cuộc sống yên lành của một người khác chỉ bằng ý thức xã hội rõ ràng là sự bảo đảm chưa đầy đủ, nếu không muốn nói là mong manh. Có lẽ nên chính thức thừa nhận rằng quan hệ cha-con ngoài giá thú không thể được chứng minh bằng giấy khai sinh, nếu người khai sinh không đồng thời là người được khai là cha. 25 Khi lập sổ đăng ký hộ khẩu thường trú lần đầu tiên, cơ quan cảnh sát có thể chấp nhận giấy khai sinh hoặc giấy tờ khác, thậm chí lời khai của người đại diện của gia đình, như là cơ sở để ghi nhận các mối liên hệ vào cột 27 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 mẹ-con ruột được thừa nhận một khi có đủ các yếu tố xã hội học của quan hệ đó. Sự tồn tại của yếu tố xã hội học thường được ghi nhận thông qua sự quan sát của người thứ ba. Riêng trong các trường hợp cần giao dịch với cơ quan Nhà nước, thì các đương sự thường chứng minh yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con bằng cách lập một tờ khai mô tả nội dung quan hệ rồi xin xác nhận của các cấp chính quyền điạ phương. Việc lập tờ khai coi như có tác dụng thiết lập bằng chứng về thái độ cư xử của các đương sự; xác nhận của chính quyền điạ phương là dấu hiệu của sự thừa nhận của dư luận (và cả của gia đình) về quan hệ cha mẹ-con giữa các đương sự. 2. Con sinh ra từ hôn nhân a. Khái niệm Con chung của vợ và chồng. Gọi là sinh ra từ hôn nhân, con mà ở thời điểm thành thai hoặc ở thời điểm được sinh ra, có cha và mẹ ràng buộc với nhau bởi quan hệ hôn nhân. Thực ra, khái niệm này còn hơi chật hẹp. Nếu coi sự ràng buộc giữa cha mẹ bằng quan hệ hôn nhân là yếu tố quyết định cho sự hình thành tư cách con chung của vợ chồng, thì con thành thai trong thời kỳ tiền hôn nhân nhưng chỉ được sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt (do ly hôn, do có người chết), cũng là con chung của vợ chồng26. Con chung của những người trở thành vợ chồng. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1, đoạn chót, con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng. Thế nào là sự thừa nhận con chung trong điều kiện cha mẹ kết hôn ? Vấn đề sẽ được giải quyết trong điểm b2 dưới đây. b. Bằng chứng về con sinh ra từ hôn nhân b1. Suy đoán dựa vào dữ kiện sinh học Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người mẹ có thai trong thời kỳ đó. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Thực ra, đứa con có thể thành thai trong thân thể người mẹ hoậc trong thân thể người khác với sự đồng ý của vợ và chồng. Đúng ra, được gọi là con chung của vợ và chồng, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc thành thai trong thời kỳ ấy: sự thành thai có thể diễn ra trên thân thể của người mẹ, nhưng cũng có thể diễn ra ở ngoài thân thể đó, nhờ sự hỗ trợ của các biện pháp y học. Điều kiện thiết lập sự suy đoán. Từ Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1, có thể nhận xét rằng để sự suy đoán con chung của vợ chồng được thiết lập dựa vào dữ kiện sinh học, cần có đủ hai điều kiện: 1. Con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc thành thai trong thời kỳ đó; 2. Con được sinh ra là con của người vợ. “quan hệ với chủ hộ”. Trái lại, khi cần nhập hộ khẩu cho một trẻ mới sinh, cơ quan cảnh sát sẽ yêu cầu xuất trình giấy khai sinh và thủ tục nhập hộ khẩu chỉ được tiến hành, nếu theo giấy khai sinh, trẻ được ghi nhận là con của một thành viên trong gia đình có sổ hộ khẩu đó. 26 Nhưng tất nhiên, khoảng cách giữa thời điểm con sinh ra và thời điểm chấm dứt hôn nhân phải tỏ ra hợp lý. Theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 Điều 21 khoản 2, thì con sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày người chồng chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật, thì được xác định là con chung của hai người. Điều luật không phân biệt con thành thai trước hay trong thời kỳ hôn nhân. 28 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 Tuy nhiên, trong logique của suy nghĩ, việc chứng minh hai điểm này, thực ra, chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để suy đoán quan hệ cha mẹ-con trong giá thú. Giá trị chứng minh của giấy khai sinh. Có thể dựa vào giấy khai sinh để biết được ngày sinh của con. Nếu ngày đó nằm trong thời kỳ hôn nhân, thì con được coi như sinh ra trong thời kỳ đó. Trong trường hợp theo giấy khai sinh, con được sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt, thì, trong điều kiện luật không có quy định chính thức về việc suy đoán ngày thành thai, có thể dựa vào kinh nghiệm chuyên môn của người làm công tác hộ sản để xác định một cách tương đối thời điểm thành thai. Người khai sinh thường là người chồng, mà cũng có thể là một người thứ ba. Trong hầu hết các trường hợp, người khai sinh sẽ khai họ tên của người mẹ. Có thể tin rằng đối với quan hệ mẹ-con, giấy khai sinh có ghi họ tên mẹ coi như chứng cứ đầy đủ. Giấy khai sinh và quan hệ cha-con. Người chồng có tên trên giấy chứng nhận đăng ký kết hôn thường sẽ được khai là cha của đứa trẻ. Trong khung cảnh của thực tiễn giao dịch, việc họ tên cha ghi nhận trên giấy khai sinh trùng với họ tên chồng của người được khai là mẹ có tác dụng củng cố bằng chứng về quan hệ cha mẹ-con trong giá thú. Công luận, về phần mình, thường coi giấy khai sinh và giấy chứng nhận kết hôn như là bằng chứng thuyết phục về quan hệ cha-con ruột một khi người được khai là cha đồng thời là chồng của người được khai là mẹ, ngay nếu như, do nguyên nhân gì đó, công luận không chứng kiến được sự đối xử giữa các đương sự theo cung cách của cha và con. b2. Suy đoán dựa vào sự thừa nhận Yếu tố xã hội học. Yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con tỏ ra đặc biệt cần thiết để chứng minh quan hệ đó, một khi con sinh ra trước khi cha mẹ kết hôn và con không có giấy khai sinh hoặc giấy khai sinh không ghi nhận tên họ cha. Con chung của vợ chồng thường mang họ cha hoặc họ mẹ theo đúng tập tục của vùng nơi con sinh ra, cư xử với cả cha và mẹ như là cha-con, mẹ-con và tất cả những điều đó được người thứ ba ghi nhận. Cần nhấn mạnh rằng yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con trong trường hợp con được gọi là con chung của vợ chồng phải là yếu tố xã hội học chung cho cả hai loại quan hệ - cha-con và mẹ-con: “con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận ”. Không thể dùng yếu tố xã hội học để chứng minh thân phận con chung của vợ chồng, nếu yếu tố đó chỉ được ghi nhận cho quan hệ cha-con hoặc quan hệ mẹ-con. c. Các mức độ suy đoán con chung của vợ chồng c1. Trường hợp có sự phù hợp giữa giấy khai sinh và yếu tố xã hội học Sự suy đoán hoàn hảo. Giả sử con có giấy khai sinh ghi rõ tên họ của cha và mẹ, mang họ theo đúng tập tục, được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân (theo giấy khai sinh), được cha mẹ đối xử theo đúng các tiêu chí xử sự đặc trưng của mối quan hệ cha mẹ-con ruột và mối quan hệ ấy được gia đình và xã hội ghi nhận và tôn trọng. Có thể tin rằng bằng chứng về quan hệ cha mẹ-con ruột trong giả thiết là hoàn hảo và tư cách cha, mẹ, con của các đương sự không thể bị tranh cãi, trừ trường hợp có ai đó chứng minh được rằng đã có việc đánh tráo trẻ lúc mới sinh ra hoặc có một vụ mua bán trẻ 29 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 em. Tuy nhiên, giải pháp này chưa được chính thức thừa nhận trong luật viết hiện hành. Cũng được coi là hoàn hảo, bằng chứng về quan hệ cha mẹ-con được thiết lập dựa trên, một mặt, các ghi chép trên giấy khai sinh cho thấy người được khai sinh là con chung của vợ chồng, dù được sinh ra trước thời điểm kết hôn và, mặt khác, yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con. c2. Trường hợp có sự phù hợp giữa sự thừa nhận con bằng con đường hành chính và yếu tố xã hội học Sự suy đoán hoàn hảo tương đối. Có trường hợp sau khi được thừa nhận bằng con đường hành chính, giữa vợ chồng và người được thừa nhận có quan hệ cư xử như cha mẹ và con. Có thể tin rằng sự suy đoán con chung của vợ chồng trong trường hợp này vẫn vững chắc, nhưng độ vững chắc kém hơn so với trường hợp trên đây: không loại trừ khả năng người chồng chỉ thừa nhận con của người vợ do được thôi thúc bởi lòng bao dung và trên thực tế người được thừa nhận là con của một người khác. c3. Trường hợp chỉ có yếu tố xã hội học hoặc chỉ có sự thừa nhận mặc nhiên Suy đoán không hoàn hảo. Con được sinh ra trước khi kết hôn và trên giấy khai sinh chỉ ghi nhận tên họ mẹ mà không ghi nhận tên họ cha; tuy nhiên, người cha và người con luôn cư xử với nhau theo đúng các chuẩn mực của quan hệ cha-con trước và sau khi người cha kết hôn với người mẹ. Ta nói rằng tư cách con trong giá thú cũng được suy đoán cho người con trong trường hợp này, nhưng sự suy đoán không được hoàn hảo do yếu tố sinh học của quan hệ cha-con còn mập mờ. Cũng không hoàn hảo, sự suy đoán chỉ dựa trên sự thừa nhận mặc nhiên đối với con sinh ra trước khi cha mẹ kết hôn, nghĩa là dựa vào giấy khai sinh và quan hệ hôn nhân giữa cha và mẹ mà không có yếu tố xã hội học của quan hệ cha mẹ-con. Không hoàn hảo, bởi người ta sẽ không hiểu tại sao các đương sự không cư xử với nhau như cha-con, mẹ-con. c4. Trường hợp sinh con trong điều kiện giữa vợ chồng không có sự chung sống Trường hợp người chồng vắng mặt tại nơi cư trú27. Nếu đã có thông báo tìm kiếm, thì có lẽ vấn đề phải được xem xét tùy theo kết quả xác định thời điểm mang thai của người vợ. - Trong trường hợp người vợ mang thai trước ngày người chồng được xác định là vắng mặt, mọi chuyện còn tùy thuộc vào việc người chồng được hay không được khai là cha của đứa trẻ. Giả sử người chồng được khai là cha của đứa trẻ theo giấy khai sinh, thì quy tắc suy đoán của Điều 63 khoản 1 có thể được áp dụng28; nếu người 27 Ta còn có trường hợp sinh con trong điều kiện người chồng bị tuyên bố mất tích. Tuy nhiên, dù luật không quy định rõ, vẫn có cơ sở trong logique của sự việc để nói rằng sự suy đoán con chung phải hoàn toàn bị loại trừ trong trường hợp này: trong luật hiện hành, một người chỉ có thể bị tuyên bố mất tích sau hai năm biệt tích thật sự; nếu người vợ sinh con sau khi có quyết định tuyên bố, thì con đó cầm chắc thân phận con ngoài giá thú giữa người vợ và người khác không phải người chồng mất tích, dù vẫn được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân. 28 Nhưng cơ sở của sự suy đoán không được vững chắc như trong trường hợp vợ chồng ly thân, bởi vì chắc chắn người đi khai sinh không phải là người chồng trong trường hợp này. Vả lại, ngay nếu như vợ chồng ly thân và người khai sinh không phải là người chồng, thì khi khai báo, người khai sinh thường phải dè chừng: người chồng 30 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 chồng không được khai là cha của đứa trẻ, thì hẳn không thể áp dụng quy tắc suy đoán ấy, bởi người chồng sẽ không thể có mặt để xây dựng yếu tố xã hội học của quan hệ cha-con nhằm bù đắp những thiếu sót của giấy khai sinh. - Trong trường hợp người vợ mang thai sau ngày người chồng được xác định là vắng mặt, có thể suy đoán, trong logique của sự việc, rằng đứa trẻ sinh ra không phải là con của người vắng mặt, nghĩa là sự suy đoán của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1 phải bị loại trừ. Tuy nhiên, cho đến nay, luật viết chỉ mới dự kiến khả năng loại trừ sự suy đoán của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1 bằng con đường tư pháp, chưa có quy tắc nào cho phép loại trừ một cách đương nhiên sự suy đoán đó. 3. Con sinh ra từ quan hệ như vợ chồng a. Bằng chứng thông thường về quan hệ cha mẹ-con Giấy khai sinh và yếu tố xã hội học. Việc khai sinh cho con ngoài giá thú cũng được thực hiện theo cùng một thủ tục như việc khai sinh cho con sinh ra từ hôn nhân: người khai, giấy chứng sinh hoặc người làm chứng Tuy nhiên, độ tin cậy của các lời khai về lai lịch cha, mẹ của con ngoài giá thú không được bảo đảm tốt như trong trường hợp con sinh ra từ hôn nhân. Có thể nghĩ rằng trong mọi trường hợp, các chi tiết về người mẹ thường có độ chính xác cao; còn các chi tiết về người cha của con ngoài giá thú, được ghi nhận trong khai sinh, thì chưa hẳn: không loại trừ khả năng một người được khai là cha của một đứa trẻ là do “sáng kiến” của người mẹ hoặc người khai, người được khai là cha của đứa trẻ hoàn toàn không biết việc mình được gán cho tư cách đó. Trên thực tế, viên chức hộ tịch chỉ ghi nhận tên họ cha trên giấy khai sinh trong trường hợp người được khai là cha đồng thời cũng là người khai sinh. Nếu người khai sinh khai tên họ của một người khác như là cha của người được khai sinh, thì viên chức hộ tịch sẽ từ chối ghi nhận lời khai đó và để trống mục tên họ cha trên giấy khai sinh. Tuy nhiên, do không có quy định rành mạch của luật ở điểm này, mà viên chức hộ tịch cũng có thể ghi nhận một cách dễ dãi lời khai của người khác về lai lịch của cha đứa trẻ. . Nói chung, nếu giấy khai sinh có ghi tên họ cha và người có tên trên giấy đó cư xử công khai với tư cách cha của người được khai sinh theo giấy đó, thì quan hệ cha- con ruột ngoài giá thú coi như được chứng minh. Quan hệ cha-con cũng có thể coi là được thiết lập, dù không được chắc chắn lắm về mặt pháp lý, trong trường hợp giấy khai sinh ghi nhận tên họ cha theo lời khai của chính người tự xưng là cha, dù giữa các đương sự không có yếu tố xã hội học của quan hệ cha-con. Nhưng không thể nói rằng quan hệ cha-con đã được chứng minh, nếu tên họ cha được ghi nhận trên giấy khai sinh mà người được khai là cha lại không hề hay biết và cũng không bao giờ cư xử với người được khai là con như con. có thể phản đối, một khi việc khai báo được thực hiện tùy tiện và nhất là không tôn trọng sự thật. Trong khi đó, người khai sinh trong điều kiện người chồng vắng mặt có thể khai mà không cần dè chừng sự phản đối. 31 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 b. Nhận con ngoài giá thú b1. Tổng quan Khái niệm. Các trường hợp nhận con ngoài giá thú. Nhận con ngoài giá thú là một thủ tục hành chính cho phép một người nhìn nhận một người khác là con của mình trong điều kiện không có tranh chấp và người được nhận là con không được coi là con của bất kỳ người nào khác có cùng giới tính với người thừa nhận. Điều đó có nghĩa là: - Người được thừa nhận phải chưa được xác định (theo thủ tục tư pháp) là con của một người khác có cùng giới tính với người thừa nhận, theo một bản án có hiệu lực pháp luật; - Người được thừa nhận phải chưa từng được thừa nhận (theo thủ tục hành chính) là con của một người khác có cùng giới tính với người muốn thừa nhận; - Người được thừa nhận không được suy đoán là con chung của vợ chồng do áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 63 khoản 1; - Người được thừa nhận không mang tư cách con ngoài giá thú của một người cùng giới tính với người muốn thừa nhận, tư cách được chứng minh bằng giấy khai sinh và yếu tố xã hội học. b2. Thủ tục Thủ tục theo văn bản lập quy. Thủ tục này được ghi nhận tại Nghị định 83-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch, nhưng lại không được ghi nhận trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quan tâm đến việc nhận con hoặc nhận cha mẹ theo thủ tục tư pháp. Thực ra, ta đã biết rằng Nghị định số 83-CP đã dẫn không phải là văn bản hướng dẫn thi hành Luật này; nhưng điều tế nhị là: dù được ban hành sau Nghị định, Luật không lấy lại (và tiếp tục hoàn thiện) các quy tắc trong Nghị định. Có lẽ người làm luật còn muốn tiếp tục thử nghiệm các giải pháp của văn bản lập quy trong một thời gian. Nộp hồ sơ. Người xin nhận cha, mẹ phải nộp một hồ sơ cho UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được gọi là con. Hồ sơ gồm có (Nghị định số 83, đã dẫn, Điều 48): - Giấy khai sinh của con; - Sổ hộ khẩu gia đình của con; - Chứng minh nhân dân của người khai nhận; - Các giấy tờ cần thiết khác chứng minh quan hệ cha-con, mẹ-con. Nếu không có các giấy tờ đó, thì phải có giấy tờ hợp lệ thay thế (cùng điều luật). Trong trường hợp một người mà tính mạng bị cái chết đe doạ do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác, không thể đến UBND khai nhận người khác là con mình, thì đơn được thay thế bằng văn bản có xác nhận của hai người làm chứng về nguyện vọng nhận con của người đó. 32 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ
- Giáo trình Luật Hôn nhân & gia đình- Tập 1 Sự đồng ý của một số người. Trong trường hợp con đang được người khác nuôi dưỡng, thì việc nhận con phải được sự đồng ý của người nuôi dưỡng đó. Nếu người được nhận là con từ đủ 9 tuổi trở lên, thì còn phải có sự đồng ý của người đó (Nghị định số 83 đã dẫn Điều 48) . Thụ lý và quyết định. Sau khi nhận đủ giấy tờ cần thiết, UBND tiến hành xác minh và niêm yết công khai việc xin nhận con tại trụ sở UBND trong thời hạn 7 ngày (Nghị định đã dẫn Điều 50). Trong trường hợp cần xác minh thêm, thì thời hạn kéo dài không quá 7 ngày. Trong trường hợp không có đủ cơ sở để công nhận việc khai nhận con, thì UBND mời người khai nhận đến để thông báo về việc từ chối đăng ký (Nghị định đã dẫn, Điều 51). Lý do từ chối phải được ghi rõ bằng văn bản. Người bị từ chối có quyền khiếu nại. Nếu thấy có đủ cơ sở để công nhận việc khai nhận con, thì UBND thông báo cho các đương sự về ngày đăng ký khai nhận con. Khi đăng ký, các đương sự phải có mặt. Nếu người khai nhận ở trong tình trạng bệnh tật hiểm nghèo, thì người thân thích hoặc người được uỷ quyền của người đó có thể thay mặt người đó để đăng ký. Chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chinh quyết định công nhận việc cha mẹ nhận con; cán bộ hộ tịch tư pháp ghi nhận sự việc vào sổ đăng ký nhận cha, mẹ, con. b3. Hiệu lực của việc thừa nhận Xác lập quan hệ cha mẹ-con. Nghị định số 83-CP chỉ quy định các thủ tục hành chính về đăng ký hộ tịch, trong đó có việc đăng ký thừa nhận con hoặc thừa nhận cha mẹ. Vấn đề hiệu lực pháp lý của các giao dịch đăng ký hộ tịch, trong đó có đăng ký thừa nhận, không được đặt ra. Tuy nhiên, có thể nghĩ rằng do mang đậm dấu ấn của ý chí, việc thừa nhận có tác dụng thiết lập bằng chứng thuyết phục về quan hệ cha mẹ- con, thậm chí thuyết phục hơn việc khai sinh. Trước hết, việc đó mang ý nghĩa của một lời tuyên bố về sự tồn tại trước đó của quan hệ cha mẹ-con. Lời tuyên bố đó có hiệu lực đối với tất cả mọi người. Kế đến, đó là lời tuyên bố không thể bị huỷ bỏ: người thừa nhận không thể, ví dụ, mong muốn chấm dứt quan hệ cha (mẹ)-con bằng cách huỷ bỏ việc thừa nhận, như người ta huỷ bỏ một hợp đồng. Nhưng, với tư cách là một bằng chứng về quan hệ cha mẹ-con, việc thừa nhận có thể bị đánh đổ bởi các bằng chứng khác thuyết phục hơn. Việc bác bỏ sự thừa nhận phải được thực hiện trong khuôn khổ một vụ án dân sự29. B. Xác định quan hệ cha mẹ-con ruột bằng con đường tư pháp Nhận xét ban đầu. Các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 liên quan đến việc xác định quan hệ cha mẹ-con bằng con đường tư pháp luôn sử dụng các cụm từ “người được nhận” hoặc “người không được nhận” khi mô tả các giả định. Vấn đề là: Luật không có quy định về nội hàm của các từ khoá “nhận” và “không nhận” và do đó, trong điều kiện các quy tắc về bằng chứng của quan hệ cha mẹ-con đang trong giai đoạn được xây dựng một cách có hệ thống, các nội hàm ấy trở nên khó xác định. 29 Ngay cả trong trường hợp sự thừa nhận bị bác bỏ bởi chính người đã thừa nhận, thì việc bác bỏ cũng phải được Toà án xem xét và xác định. 33 Khoa Luật- Đại học Cần Thơ