Giáo trình Luật so sánh - Thân Thị Kim Oanh (Phần 1)

pdf 36 trang hapham 2010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật so sánh - Thân Thị Kim Oanh (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_luat_so_sanh_than_thi_kim_oanh.pdf

Nội dung text: Giáo trình Luật so sánh - Thân Thị Kim Oanh (Phần 1)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Thân Thị Kim Oanh GIÁO TRÌNH LUẬT SO SÁNH Vinh - 2011 1
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Thân Thị Kim Oanh GIÁO TRÌNH LUẬT SO SÁNH (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh – 2011 2
  3. Phân công biên soạn Chủ biên: Thân Thị Kim Oanh Từ Chương 1 đến Chương 5 3
  4. CHƯƠNG 1 NHẬP MÔN LUẬT SO SÁNH 1. KHÁI NIỆM LUẬT SO SÁNH 1.1. Định nghĩa luật so sánh Có nhiều định nghĩa khác nhau về luật so sánh. Tuy nhiên, các định nghĩa về luật so sánh được các học giả sử dụng thường không tập trung giải quyết vấn đề bản chất mà chỉ tập trung vào đối tượng hoặc là chức năng của nó. Hai học giả người Đức Zweigert và Kotz trong công trình “Giới thiệu về luật so sánh” mô tả “Luật so sánh là hoạt động trí tuệ mà pháp luật là đối tượng và so sánh là quá trình hoạt động”. Cùng với việc xác định đối tượng so sánh là hệ thống pháp luật khác nhau, hai tác giả đã khẳng định: “Luật so sánh là so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới”. Hay Peter de Cruz – tác giả cuốn sách: “Luật so sánh trong thế giới thay đổi” định nghĩa luật so sánh “nghiên cứu có hệ thống các truyền thống pháp luật và các quy phạm pháp luật nào đó trên cơ sở so sánh”, định nghĩa này dựa trên lập luận rằng luật so sánh thường tập trung vào các truyền thống pháp luật, công trình đòi hỏi phải là sự so sánh hoặc nhiều hệ thống pháp luật hoặc truyền thống pháp luật so sánh hoặc các chế định, các nghành luật của hai hay nhiều hệ thống pháp luật hoặc so sánh các chế định, các ngành luật của hai hay nhiều hệ thống pháp luật. Hay Michael Bogdan xác định “luật so sánh bao gồm: So sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt; Sử dụng những điểm tương đồng và khác biệt đã được xác định giải thích nguồn gốc của chúng, đánh giá những giải pháp được sử dụng trong các hệ thống pháp luật khác nhau, phân nhóm các hệ thống pháp luật thành các dòng họ pháp luật hoặc nghiên cứu những vấn đề cốt lõi của các hệ thống pháp luật; và Xử lý các vấn đề mang tính phương pháp luận nảy sinh có liên quan đến các nhiệm vụ trên, bao gồm những vấn đề mang tính phương pháp luận liên quan đến việc nghiên cứu pháp luật nước ngoài”. 4
  5. 1.2. Đặc điểm của luật so sánh Mặc dù những định nghĩa trên không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng có thể giúp cho chúng ta đi đến một số nhận định cơ bản sau: - So sánh không phải là ngành luật hay lĩnh vực pháp luật thực định. Nói cách khác, luật so sánh không phải là hệ thống quy phạm pháp luật có đặc tính chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội. - So sánh các hệ thống pháp luật khác nhau để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của luật so sánh. Khác với việc so sánh các quy phạm pháp luật trong cùng một hệ thống pháp luật, mà ở đây so sánh các quy phạm không cùng hệ thống pháp luật. - So sánh không đồng nhất với nghiên cứu pháp luât nước ngoài, Trong quá trình nghiên cứu pháp luật so sánh, thường so sánh hệ thống pháp luật nước ngoài và hệ thống pháp luật nước mình. - Một trong những nhiệm vụ quan trọng và thú vị nhất của luật so sánh là cố gắng giải thích những điểm tương đồng và khác biệt. 2. ĐỐI TƯỢNG CỦA LUẬT SO SÁNH 2.1. Đối tượng của luật so sánh Khác với các lĩnh vực khoa học pháp lí khác như luật dân sự, luật hình sự, luật hành chính hay luật hiến pháp tập trung nghiên cứu các lĩnh vực pháp luật nhất định của hệ thống pháp luật, luật so sánh không nghiên cứu so sánh các ngành luật, các chế định hay các quy phạm pháp luật khác nhau trong cùng một hệ thống pháp luật. Cho dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng các luật gia vẫn thừa nhận “việc so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra điểm tương đồng và khác biệt của chúng" là nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu luật so sánh. Từ đó có thể nhận định rằng các hệ thống pháp luật là đối tượng của luật so sánh. Vậy, hệ thống pháp luật được hiểu như thế nào? Thông thường khi nói đến hệ thống pháp luật của quốc gia hay vùng lãnh thổ nào đó, các luật gia có thể sử dụng thuật ngữ hệ thống pháp luật với nghĩa là tổng 5
  6. thể các quy phạm pháp luật của quốc gia hay vùng lãnh thổ đó. Theo nghĩa này chúng ta có thể sử dụng các thuật ngữ hệ thống pháp luật để nói đến hệ thống pháp luật của Mỹ với hàm ý là quốc gia nhưng cũng có thể ám chỉ hệ thống pháp luật của từng bang trong nhà nước liên bang Mỹ. Hoặc nói đến pháp luật Trung Quốc hiện nay, chúng ta cũng có thể sử dụng thuật ngữ hệ thống pháp luật Trung Quốc để nói đến toàn bộ hệ thống pháp luật của Trung Quốc cũng có thể sử dụng thuật ngữ này để nói đến hệ thống pháp luật Hồng Kông với tư cách là bộ phận của hệ thống pháp luật Trung Quốc. Bên cạnh việc sử dụng thuật ngữ hệ thống pháp luật để nói đến pháp luật của các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, thuật ngữ này còn được sử dụng để nói đến pháp luật của chúng có những quan điểm chung nhất định. René David, trong công trình giới thiệu về các hệ thống pháp luật lớn trên thế giới đã sử dụng thuật ngữ hệ thống pháp luật khi nói đến nhóm hệ thống pháp luật của các nước thuộc lụa địa Châu Âu – hệ thống pháp luật La Mã. Tương tự với các hệ thống luật Anh Mỹ hay hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) cũng được hiểu như vậy. Một số học giả đã thay thuật ngữ hệ thống pháp luật bằng dòng họ pháp luật để chỉ nhóm các hệ thống pháp luật có những điểm chung. Vì vậy ta thường bắt gặp những thuật ngữ “dòng họ pháp luật La Mã” hay “dòng họ pháp luật Anh Mỹ”. Mặc dù không có định nghĩa rõ rang về dòng họ pháp luật nhưng nó có thể được xem là phương tiện mang tính chất khái niệm và phương pháp luân của cá luật so sánh, chứ không phải là các nhà xã hội học pháp luật hoặc lí luận về pháp luật. Dòng họ pháp luật xét về khía cạnh ngôn ngữ, phản ánh mối quan hệ mang tính chất lịch sử của các hệ thống pháp luật khi chúng được xác định thuông cùng dòng họ. Mối quan hệ này đôi khi được ví như mối quan hệ dòng tộc của con người. Như vậy, đối tượng của luật so sánh không hoàn toàn bị giới hạn ở nội dung của các “hệ thống pháp luật” theo định nghĩa hẹp của từ này. Để xác định được điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật cần phải hiểu các quy định của các hệ thống pháp luật đó. Và để hiểu được các quy định pháp luật đó cần phải hiểu cách giải thích của các quy phạm pháp luật đó. 6
  7. 2.2. Các cấp độ so sánh dành cho đối tượng của luật so sánh Do phạm vi và đối tượng của luật so sánh rộng như thế nên các nghiên cứu so sánh pháp luật có thể tiến hành so sánh một cách tổng thể, khái quát hệ thống pháp luật này với hệ thống pháp luật này với hệ thống pháp luật khác hoặc so sánh thành tố của hệ thống pháp luật này với thành tố tương ứng trong hệ thống pháp luật khác. Từ quan điển đó, các học giả thường phân biệt hai cấp độ so sánh vĩ mô và vi mô. - So sánh ở cấp độ vi mô là so sánh những vấn đề cốt lõi của hệ thống pháp luật như các hính thức pháp luật, các phương pháp tư duy và các thủ tục được sử dụng trong các hệ thống pháp luật đó. Một cách cụ thể hơn, các nghiên cứu ở cấp độ vĩ mô tập trung vào các phương pháp xử lí các tài liệu pháp luật, trình tự, thủ tục để giải quyết các tranh chấp cũng như vai trò của các tài liệu và các thủ tục này trong hệ thống pháp luật. Các nghiêncứu so sánh về kỹ thuật lập pháp, phương pháp gải thích luật, các loại nguồn và giá trị pháp lí của chúng đối với hệ thống nguồn của các hệ thống pháp luật. - So sánh ở cấp độ vi mô tập trung vào các vấn đề cụ thể trong các hệ thống pháp luật . Xét về phạm vi, so sánh vi mô không bao quát toàn bộ hệ thống pháp luật mà nó tập trung vào việc so sánh các quy phạm pháp luật và các chế định hợp đồng giữa các hệ thống pháp luật, so sánh các quy phạm điều chỉnh vấn đề hiệu lực của di chúc giữa hệ thống pháp luật khác nhau là so sánh ở cấp độ vi mô. Tuy nhiên so sánh cấp độ vĩ mô hay vi mô đều mang tính so sánh tương đối. Ranh giới phân chia giữa so sánh vĩ mô và so sánh vi mô không phải khi nào cũng rõ rang mà sự phân biệt giữa hai loại so sánh này rất linh hoạt. Thông thường so sánh ở cấp độ vi mô và vĩ mô thực hiện ngay trong cùng một thời điểm, trong cùng một công trình nghiên cứu. Điều đó có nghĩa là khi so sánh ở cấp độ vĩ mô, người nghiên cứu vẫn phải thực hiện các so sánh ở cấp độ vi mô và ngược lại. 3. PHƯƠNG PHÁP CỦA LUẬT SO SÁNH 3.1. Phương pháp so sánh Ở cấp độ so sánh vĩ mô, các học giả đã đề xuất nhiều yếu tố khác nhau để xác định khả năng so sánh của các hệ thống pháp luật. Các nhân tố đó có thể là 7
  8. kinh tế, chính trị, văn hóa, địa lí, ngôn ngữ, tôn giáo, hệ thống các giá trị. Một số học giả lại cho rằng việc so sánh nên được tiến hánh giữa các hệ thống pháp luật có cùng những bước phát triển nhất định, có thể là kinh tế, xã hội hoặc pháp luật. Ở cấp độ vi mô, mặc dù có sự tranh luận rất sôi nổi trong giới luật học trên thế giới nhưng cho đến nay chức năng của các chế định, các quy phạm pháp luật vẫn được đa số các học giả so sánh và thừa nhận là nhân tố thứ ba của việc so sánh. 3.2. Các bước của so sánh pháp luật Tất cả những phân chia các bước của quá trình so sánh chỉ mang tính tương đối. Đây là một cách phân chia cơ bản để thực hiện một công trình so sánh luật. Bước 1: Xác định vấn đề pháp luật cần so sánh và xây dựng giả thuyết để nghiên cứu so sánh. Để thực hiện được các so sánh, trước hết, người nghiên cứu phải xác định vấn đề dự kiến nghiên cứu so sanh. Vấn đề dự kiến nghiên cứu so sánh có thể xuất phát từ đòi hỏi của công việc và nhiệm vụ của nhà nghiên cứu. Sau khi đã xác định được vấn đề để tiến hành nghiên cứu so sánh, công việc tiếp theo trong bước này là xây dựng giả thuyết để nghiên cứu so sánh. Giả thuyết nghiên cứu so sánh luật có ý nghĩa hết sức lớn đối với việc đảm bảo tính chính xác cũng như giá trị của kết quả nghiên cứu. Một giả thuyết nghiên cứu so sánh luật không chính xác có thể dẫn đến việc đưa ra những kết luận sai lầm khi xác định những điểm tương đồng và khác biệt cũng như khi đánh giá pháp lí trong các hệ thống pháp luật khác nhau. Giả thuyết nghiên cứu so sánh phải đảm bảo tính chức năng, đó là việc một giả thuyết phải thực hiện được nội dung của vấn đề xã hội hoặc vấn đề pháp lí mà các quy phạm pháp luật được sử dụng để giải quyết. Tiếp theo đó là không nên đưa vào trong giả thuyết nghiên cứu đó bất kỳ khái niệm pháp lí của hệ thống pháp luật của nước nào. Bởi vì, ở các hệ thống pháp luật khác nhau thì các khái niệm không đồng nhất với nhau. Thậm chí có khái niệm sử dụng trong hệ thống pháp luật này lại không sử dụng trong hệ thống pháp luật của nước kia. Bước hai: lựa chọn hệ thống pháp luật để so sánh Tùy thuộc vào mục đích so sánh chúng ta sẽ lựa chọn được hệ thống pháp luật so sánh cho phù hợp. Nếu so sánh với mục đích hoàn thiện hệ thống pháp luật 8
  9. thường so sánh các hệ thống pháp luật có sự tương đồng về văn hóa, xã hội, văn hóa pháp luật. Tuy nhiên, nếu mục đích của việc so sánh nhằm làm hài hòa hóa và nhất là để nhất thể hóa pháp luật thì yếu tố chính trị lại đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn các hệ thống pháp luật để so sánh. Trong trường hợp nghiên cứu để thõa mãn nhu cầu thông tin và nâng cao hiểu biết về hệ thống pháp luật khác nhau thì việc lựa chọn hệ thống pháp luật nghiên cứu không phải là vấn đề phức tạp đối với người nghiên cứu vì họ có thể chọn bất kỳ một hệ thống pháp luật nào để tiến hành nghiên cứu so sánh. Khả năng tiếp cận được nguồn thông tin của các hệ thống pháp luật cũng đóng vai trò quan trọng đối với việc lựa chọn hệ thống pháp luật cũng đóng vai trò quan trọng đối với việc lựa chọn hệ thống pháp luật để tiến hành nghiên cứu. Cấp độ so sánh là một trong những yếu tố quan trọng có liên quan đến việc lựa chọn hệ thống pháp luật nào để nghiên cứu. Nếu là so sánh ở cấp độ vĩ mô, các nhà nghiên cứu thường lựa chọn hệ thống pháp luật vẫn duy trì được tính chất của hệ thống pháp luật “gốc” của dòng họ pháp luật hay truyền thống pháp luật nào đó. Ví dụ nếu chúng ta nghiên cứu hệ thống pháp luật civil law thì chúng ta không thể bỏ qua hệ thống pháp luật Đức, hay nếu chúng ta nghiên cứu dòng họ common law thì không thể bỏ qua hệ thống pháp luật Anh - Mỹ. Nếu so sánh ở cấp độ vi mô, việc lựa chọn hệ thống pháp luật để so sánh, phụ thuộc rất lớn vào vấn đề được lựa chọn để nghiên cứu. Bước ba: Mô tả các hệ thống pháp luật được lựa chọn hoặc giải pháp pháp luật của hệ thống này về vấn đề đã được lựa chọn để nghiên cứu so sánh. Việc mô tả các hệ thống pháp luật được lựa chọn để so sánh có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những quan điểm tương đồng và khác biệt giữa hệ thống pháp luật. Để đảm bảo tính toàn diện của việc mô tả đối với hệ thống pháp luật nước ngoài, người nghiên cứu cần phải tìm kiếm tất cả các quy định của các hệ thống pháp luật được sử dụng để giải quyết vấn đề được xác định trong giả thuyết nghiên cứu. Đây là một công việc hết sức khó khăn, hơn nữa việc mô tả đối tượng so sánh cũng không nên xây dựng theo một khuôn mẫu cứng nhắc nào cả mà tùy thuộc vào những đặc điểm riêng của từng hệ thống pháp luật. Việc mô tả về các hệ thống pháp luật có thể tiến hành dưới hình thức trình bày các quy phạm, các khái 9
  10. niệm và các chế định pháp luật của các hệ thống pháp luật, thậm chí có thể bao gồm cả các vấn đề kinh tế xã hội gắn liền với các khái niệm, các quy phạm cũng như các mô tả về vấn đề cụ thể của hệ thống pháp luật nào đó liên quan đến những vấn đề khác trong hệ thống pháp luật. Bước bốn: Xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật. Trên cơ sở mô tả về các hệ thống pháp luật lựa chọn để so sánh đã được hoàn thành trong giai đoạn trước, nhiệm vụ của người nghiên cứu trong giai đoạn này là dựa vào các bản mô tả đó để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật hoặc giải pháp của các hệ thống pháp luật đó. Tuy nhiên để đảm bảo việc so sánh và phân tích những điểm tương đồng được tiến hành một cách hệ thống, việc xác định những điểm tương đồng và khác biệt cần phải dựa trên những tiêu chí nhất định. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của bước này là xác định được hệ thống các tiêu chí cho việc so sánh. Hệ thống tiêu chí so sánh cũng không phải là vấn đề dễ dàng vì mỗi hệ thống pháp luật lại có những cách giải quyết vấn đề khác nhau, hệ thống khái niệm khác nhau. Sauk hi có được hệ thống tiêu chí so sánh, nhiệm vụ của người nghiên cứu so sánh tiếp theo là xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so sánh theo hệ thống các tiêu chí đã xác định. Bước năm: Giải thích nguồn gốc của những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, đồng thời phân tích đánh giá ưu điểm và hạn chế của các giải pháp của các hệ thống pháp luật đã so sánh. Cơ sở để lí giải những điểm tương đồng và khác biệt là những yếu tố có ảnh hưởng đối với pháp luật. Trong đó có những yếu tố mang tính tất nhiên mà đáng chú ý là những yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo, lịch sử và địa lí, nhân chủng cũng như các phương tiện điều chỉnh khác đối với hành vi của con người và có những yếu tố mang tính ngẫu nhiên tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi hệ thống pháp luật. Sau khi lí giải được nguồn gốc của những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, người nghiên cứu cần phân tích, đánh giá những ưu và hạn chế của các hệ thống pháp luật hoặc các giải pháp của các hệ thống pháp luật hoặc các giải pháp của hệ thống pháp luật được so sánh. 10
  11. 4. PHÂN LOẠI LUẬT SO SÁNH 4.1. Căn cứ vào số lượng các hệ thống pháp luật được lựa chọn để so sánh Bao gồm hai loại là so sánh song diện và so sánh đa diện. Trong đó, so sánh song diện là so sánh hai hệ thống pháp luật với nhau. Nói cách khác, trong công trình nghiên cứu người so sánh chỉ lựa chọn hai hệ thống pháp luật để so sánh. Ví dụ so sánh hệ thống pháp luật Trung Quốc và hệ thống pháp luật Việt Nam. Khác với so sánh song diện là so sánh đa diện, là việc so sánh nhiều hệ thống pháp luật trong công trình nghiên cứu. Chẳng hạn người so sánh có thể chọ so sánh hệ thống pháp luật Anh, Đức và Trung Quốc để so sánh. 4.2. Căn cứ vào mục đích của việc so sánh Dựa vào mục đích của so sánh chúng ta có thể phân thành so sánh học thuật và so sánh lập pháp. So sánh học thuật được thực hiện để hỗ trợ các nhà sử học, xã hội học, các luật gia phân tích tìm hiểu nguồn gốc và sự phát triển của các khái niệm pháp lí chung của tất cả các hệ thống pháp luật. Giá trị to lớn của so sánh học thuật là nâng cao hiểu biết về pháp luật của các luật gia và các nhà nghiên cứu pháp luật. Trong khi đó, so sánh lập pháp lại nhấn mạnh vào mục đích thực tiễn của luật so sánh là tập hợp và cung cấp các thông tin liên quan đến pháp luật nước ngoài và sử dụng những kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài và sử dụng kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia. Nói cách khác, so sánh lập pháp là để tìm những kinh nghiệm, mô hình pháp luật nước ngoài phục vụ cho quá trình lập pháp, có nghĩa là sử pháp luật nước ngoài trong quá trình soạn thảo các đạo luật mới của pháp luật quốc gia. 5. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT SO SÁNH 5.1. Sự hình thành và phát triển của luật so sánh trên thế giới Có thể phân chia sự hình thành và phát triển của luật so sánh trên thế giới thành hai giai đoạn cơ bản là trước thế kỷ XIX và từ thế kỷ XIX đến nay. - Trước thế kỷ XIX Ngay từ thời kỳ cổ đại, nhiều nhà nước cổ đại đã viện dẫn pháp luật nước ngoài để xây dựng hệ thống pháp luật nước mình. Điển hình là nhà nước Hi Lạp và nhà nước La Mã. Trong nhà nước Hi Lạp cổ đại, một số thành phố khi xây dựng 11
  12. luật lệ của mình đã chấp nhận toàn bộ hoặc một phận luật lệ của các thành bang khác. Việc chấp nhận pháp luật của các vùng khác hoặc các thành bang khác ở thời kỳ cổ đại này có lẽ xuất phát từ lí do là luật lệ của các vùng đó được coi là tốt hơn, tiến bộ hơn. Do đó, đây là cách thích hợp để có luật lệ tốt hiện nay. Đến thời kỳ Trung cổ, sau khi đế chế Tây La Mã bị sụp đổ, ở các khu vực của Tây Âu tồn tại hai loại luật song song cùng được áp dụng là luật La Mã và Luật Giécmanh. Tuy nhiên, sự tồn tại của hai loại luật lệnày cùng được áp dụng cũng không làm xuất hiện bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Đến thời kỳ Phục Hưng, đã xuất hiện những nghiên cứu khoa học dựa trên cơ sở so sánh. Đến thời kỳ Trung cổ, ở Châu Âu lục địa hầu như không có bất kì một sự nghiên cứu so sánh nào ngay cả khi các trường đại học nghiên cứu giảng dạy luật La Mã. Từ thế kỉ XVI, ở các quốc gia châu Âu lục địa tồn tại nhiều loại luật lệ khác nhau được áp dụng cho các vùng lãnh thổ khác nhau, vì vậy đã xuất hiện một số công trình so sánh các luật lệ của người Giécmanh đã được thực hiện ở một số nước như Tây Ban Nha, Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của các hệ thống pháp luật của các quốc gia trong thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII đã làm cho các luật gia ở các nước châu Âu lục địa tập trung nghiên cứu hệ thống pháp luật của nước mình, vì vậy, luật so sánh hầu như không được phát triển. Tuy nhiên một số học giả cũng đã đề xuất rằng các học giả cần phải thoát khỏi khuôn khổ của hệ thống pháp luật quốc gia để đánh giá được giá trị đúng của hệ thống pháp luật. Từ thế kỷ XIX đến nay Từ thế kỷ XIX đến nay, luật so sánh được phát triển mạnh mẽ xuất phát từ hai cơ sở là luật so sánh lập pháp và luật so sánh học thuật. Luật so sánh lập pháp là quá trình theo dó pháp luật của nước ngoài viện dẫn để soạn thảo các văn bản pháp luật quốc gia; còn luật so sánh học thuật là việc so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau đơn giản là nhằm nâng cao hiểu biết về pháp luật. Trong nửa đầu thế kỷ XIX, luật gia của các nước chỉ tập trung vào nghiên cứu hệ thống pháp luật của nước mình vì thế luật so sánh không có điều kiện để phát triển. Bắt đầu từ cuối những năm 20 của thế kỷ này đã có những tín hiệu cho 12
  13. sự hình thành và phát triển luật so sánh học thuật. Giai đoạn cuối thế kỷ XIX, sự phát triển của luật so sánh được đánh dấu bằng sự phát triển mạnh mẽ của các thiết chế của nó như các hiệp hội, các tạp chí và trưởng các chuyên ngành so sánh. Trong nửa đầu thế kỷ XX, nhiều thiết chế chuyên về luật so sánh đã được thành lập và các thiết chế này đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của luật so sánh. Cùng với sự phát triển của các thiết chế chuyên về luật so sánh, luật so sánh trong giai đoạn hiện nay cũng được phát triển thành các môn học ở cấp độ khác nhau trong các khoa học luật của trường đại học ở các nước khác nhau. Cùng với sự ra đời của các thiết chế, đưa môn luật so sánh vào giảng dạy thì thời kỳ này có nhiều công trình về luật so sánh được xuất bản góp phần quan trọng vào sự phát triển của luật so sánh trên thế giới. Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, với sự ra đời của hệ thống các nước XHCN bao gồm các nước Đông Âu và một số nước đổi nhất định và ít nhiều bị ảnh hưởng bởi sự phân hóa thế giớ và quan điểm chính trị. Từ sau những năm 50, với sự xuất hiện của các trung tâm và các viện nghiên cứu về luật so sánh ở Mỹ cũng như ở châu Âu. Sự xuất hiện các tạp chí chuyên nghành về luật so sánh và việc thành lập các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu luật so sánh và sự quan tâm của giới luật học đối với luật so sánh đã làm xuất hiện số lượng khổng lồ các công trình nghiên cứu so sánh ở các cấp độ và phạm vi khác nhau. 5.2. Sự hình thành và phát triển của luật so sánh ở Việt Nam Thời kỳ trước năm 1986, luật so sánh ở Việt Nam chủ yếu là so sánh lập pháp. Nói cách khác, các nhà làm luật của Việt Nam ở các thời kỳ khác nhau trong lịch sử đều viện dẫn và sử dụng pháp luật nước ngoài để xây dựng hệ thống pháp luật của mình. Trong thời kỳ phong kiến, các nhà làm luật của các triều đại phong kiến Việt Nam đã tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài để xây dựng hệ thống pháp luật của mình. Mặc dù không có nền tảng lý thuyết về so sánh như bây giờ nhưng các nhà làm luật Việt Nam ở các thời kỳ khác nhau đã chắt lọc những điểm hợp lí trong pháp luật của nước ngoài mà chủ yếu là luật Trung Quốc để xây dựng hệ thống pháp luật của nước mình phù hợp với điều kiện và hoàng cảnh kinh tế xã hội của 13
  14. Việt Nam. Sự tiếp thu những kinh nghiệm của pháp luật của các triều đại phong kiến Việt Nam không phải chỉ là sự tiếp thu về tư tưởng mà còn tiếp thu về hình thức cũng như nội dung của các văn bản pháp luật nước ngoài. Sau cách mạng tháng Tám, với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng bước xây dựng. Có thể nói hầu hết các đạo luật lớn đặc biệt là Hiến pháp và các luật về tổ chức nhà nước của Việt Nam đã được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật nước ngoài. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, hoạt động lập pháp của Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể. Hiến pháp năm 1980 và các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước đã được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của Liên Xô và các nước XHCN khác. Điều này đã làm cho hệ thống pháp luật của Việt Nam trong giai đoạn này nhiều điểm tương đồng với pháp luật Liên Xô. Từ năm 1986 đến nay, những yêu cầu của quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để có thể chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nhờ đó luật so sánh đã được phát triển mạnh hơn so với giai đoạn trước trên cả hai phương diênh là so sánh lập pháp và so sánh luật. Ở phương diện so sánh lập pháp, các nhà làm luật trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật đã tìm hiểu và tham khảo kinh nghiệm pháp luật của các nước khác nhau, đặc biệt là những nước đã phát triển nền kinh tế thị trường. Việc ban hành các văn bản pháp luật, nhất là văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ gắn với nền kinh tế thị trường được chú trọng hơn. Ở phương diện luật so sánh học thuật, các nhà luật học Việt Nam trong giai đoạn này đã bắt đầu quan tâm đến các nghiên cứu so sánh học thuật. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của các nhà luật học Việt Nam chủ yếu là giới thiệu các dòng họ pháp luật trên thế giới hoặc giới thiệu những vấn đề cụ thể của các hệ thống pháp luật nước ngoài. Các công trình nghiên cứu luật so sánh trên cơ sở những nguyên tắc và lí thuyết về luật so sánh chưa nhiều. Đặc biệt những nghiên cứu lí thuyết về luật so sánh còn rất nhiều khiêm tốn. Mặc dù vậy sự phát triển ngày càng mạnh mẽ các công trình so sánh và giới thiệu pháp luật nước ngoài đã phần nào phản ánh được sự phát triển của luật so sánh với Việt Nam trong giai đoạn này. 14
  15. 6. Ý NGHĨA CỦA LUẬT SO SÁNH 6.1. Luật so sánh giúp cho việc nâng cao hiểu biết của các nhà nghiên cứu Đây là nơi cung cấp cho các nhà nghiên cứu tri thức vê các dòng họ pháp luật trên thế giới, luật so sánh còn cung cấp những tri thức về hệ thống pháp luật các nước trên thế giới. Cung cấp thông tin về các hệ thống pháp luật khác nhau là sự đóng góp đáng kể nhất của luật so sánh đối với thực tiễn pháp luật và trên thực tế, việc tạo ra các thông tin đó là điều mà đa số các nhà so sánh thực hiện trong phần lớn thời gian. Luật so sánh không chỉ cung cấp cho các luật gia và các nhà nghiên cứu những tri thức về các dòng họ pháp luật trên thế giới và tri thức về hệ thống pháp luật nước ngoài mà còn giúp cho các luật gia và các nhà nghiên cứu có thêm được tri thức về hệ thống pháp luật nước mình. Ngoài những tri thức và hiểu biết về pháp luật mà các luật gia còn có được từ việc nghiên cứu luật so sánh, luật so sánh còn cung cấp những tri thức của nhiều lĩnh vực khoa học khác. Trong quá trình tiến hành các so sánh luật, để hiểu được một cách đúng đắn các quy định của pháp luật nước ngoài, các nhà nghiên cứu còn phải tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đối với pháp luật và xã hội của nước mà hệ thống pháp luật đã được lựa chọn để so sánh. 6.2. Luật so sánh hỗ trợ việc cải cách pháp luật quốc gia Một trong những ứng dụng rất hữu ích của luật so sánh là hỗ trợ việc cải cách pháp luật của quốc gia. Những tri thức có được từ kết quả của việc nghiên cứu so sánh sẽ hỗ trợ rất lớn cho các nhà làm luật trong việc xây dựng hoặc cải tổ hệ thống pháp luật quốc gia. Thậm chí, việc nghiên cứu luật so sánh không phải chỉ giúp cho nhà làm luật lựa chọn được giải pháp nào hoặc mô hình nào để tiếp nhân mà còn giúp họ tránh được những thử nghiệm luật pháp không thành công. 6.3. Luật so sánh hỗ trợ cho việc làm hài hòa pháp luật và nhất thể hóa pháp luật Hài hòa hóa và nhất thể hóa pháp luật là hai khái niệm khác nhau dược sử dụng khá phổ biến trong khoa học pháp lý. Hài hòa hóa pháp luật và nhất thể hóa pháp luật là những hình thức khác nhu để loại bỏ sự khác biệt trong các lĩnh vực 15
  16. pháp luật cụ thể của các hệ thống pháp luật khác nhau. Trong đó hài hòa hóa pháp luật là quá trình nhằm làm giảm đi những khác biệt trong các lĩnh vực pháp luật cụ thể giữa các hệ thống pháp luật bằng cách xây dựng các luật mẫu và thực hiện các biện pháp để khuyến khích các quốc gia tiếp nhận và áp dụng. Nhất thể hóa pháp luật được sử dụng để nói đến quá trình theo đó các quy phạm pháp luật mâu thuẫn của các hệ thống pháp luật khác nhau thay thế bởi các quy phạm pháp luật giống nhau. Hay nói cách khác, hài hòa hóa là cố gắng làm giảm đi những khác biệt trong cùng những lĩnh vực pháp luật thì nhất thể hóa pháp luật lại đi xa hơn là tạo ra các quy phạm pháp luật để áp dụng trong những lĩnh vực nhất định của các nước chấp nhận việc nhất thể hóa. Luật so sánh hỗ trợ cho quá trình hài hòa hóa và nhất nhể hóa pháp luật để vượt qua những khó khăn về kỹ thuật. Những hỗ trợ của luật so sánh về mặt kỹ thuật thực sự đóng vai trò trong các giai đoạn khác nhau của quá trình hài hòa hóa và nhất thể hóa. Một trong những nội dung quan trọng trong giai đoạn này là tìm ra những điểm chung của các hệ thống pháp luật làm cơ sở cho việc hài hòa hóa và thống nhất hóa pháp luật. Vì vậy, để có được đề xuất thích hợp cho việc nhất thể hóa, việc nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật và các quy phạm liên quan đến lĩnh vực được nhất thể hóa và hài hòa hóa. Bên cạnh đó còn hỗ trợ việc xây dựng được giải pháp pháp lí tốt hơn và dễ dàng áp dụng hơn đối với các giải pháp pháp lý đang được sử dụng ở tất cả các quốc gia. Mặt khác, luật so sánh cung cấp cho các luật gia những tri thức và kỹ năng quan trọng để tham gia vào quá trình đàm phán để đi đến nhất thể hóa pháp luật hoặc hài hòa hóa pháp luật. Việc xây dựng các mâu thuẫn được áp dụng chung đòi hỏi quá trình đàm phán giữa đại diện các quốc gia đạt được sự đồng thuận về các quy tắc pháp luật chung. Những tri thức về các hệ thống pháp luạt và hơn thế là các kỹ năng phân tích, đánh gia các hệ thống pháp luật khác nhau. 6.4. Luật so sánh hỗ trợ việc thực hiện và áp dụng pháp luật Luật so sánh có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc có liên quan đến yếu tố nước ngoài và pháp luật nước ngoài. Các thẩm phán, khi giải quyết vụ việc cụ thể nào đó liên quan đến việc phải áp dụng pháp luật nước ngoài, các luật sư tranh tụng tại tòa án đối với các việc liên quan đến pháp luật 16
  17. nước ngoài đương nhiên cần hiểu được các quy định của pháp luật nước ngoài. Hơn nữa, khi tòa án phải áp dụng pháp luật nước ngoài, các tòa án đều phải đảm bảo rằng các quy định pháp luật nước ngoài không trái với nguyên tắc cơ bản pháp luật trong nước. Câu hỏi: 1. Phân tích đối tượng nghiên cứu Luật so sánh 2. Trình bày cách phân loại luật so sánh 3. Trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển của Luật so sánh 4. Phân tích tầm quan trọng của Luật so sánh đối với khoa học pháp lý ngày nay? 5. Phân tích vai trò của Luật so sánh trong công cuộc hoàn thiện pháp luật Việt Nam? 17
  18. CHƯƠNG 2 DÒNG HỌ PHÁP LUẬT CHÂU ÂU LỤC ĐỊA (DÒNG HỌ CIVIL LAW) 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DÒNG HỌ CIVIL LAW 1.1. Thuật ngữ “Civil law” Thuật ngữ này trong lĩnh vực pháp luật có hai nghĩa phổ biến: Thứ nhất, đó là tên gọi của hệ thống pháp luật châu Âu (hay còn gọi là hệ thống pháp luật La Mã – Đức), là dòng họ pháp luật lớn nhất trên thế giớ, tồn tại ở các nước lục địa châu Âu như: Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, phần lớn các nước châu Phi, hầu hết các nước châu Mỹ Latinh, các nước phương đông kể cả Nhật Bản. Thứ hai, có nghĩa là luật dân sự - nghành luật điều chỉnh các quan hệ tài sản và nhân than giữa cá nhân thuộc lĩnh vực luật tư – điều chỉnh các quan hệ giữa tư nhân với tư nhân. Trong lĩnh vực luật so sánh Civil law được hiểu theo nghĩa thứ nhất là hệ thống pháp luật lớn nhất trên thế giới mà nền tảng của nó là luật La Mã cổ đại. 1.2. Đặc điểm của dòng họ civil law Thứ nhất, chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật La Mã Các bộ luật lớn của châu Âu lục địa như Bộ luật dân sự Napoleon năm 1804, Bộ luật dân sự Đức 1896 đều được hình thành trên cơ sở kết hợp tập quán địa phương và luật La Mã. Đặc biệt Đức, các đế chế Đức tồn tại thời kỳ giữa năm 962 và năm 1806 tự cho mình là sự kế thừa của đế chế La Mã. Luật La Mã được nghiên cứu tại các trường đại học của Đức, Pháp và áp dụng trực tiếp nếu luật pháp thành văn và tập quán pháp luật của họ chưa có quy định đối với quan hệ xã hội cần thiết phải điều chỉnh. Thứ hai, các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law được phân chia thành công pháp và tư pháp. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt dòng họ Civil law với dòng họ common law. Các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ này thường được chia thành 18
  19. công pháp và tư pháp. Công pháp bao gồm những ngành luật điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan nhà nước với nhau hoặc cơ quan nhà nước với tư nhân. Vông pháp bao gồm các ngành luật như Hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự, luật ngân hàng, luật tài chính công. Tư pháp bao gồm các ngành luật điều chỉnh các quan hệ giữa tư nhân với tư nhân. Tư pháp bao gồm các nghành luật như luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật thương mại, luật lao động. Thứ ba, các hệ thống pháp luật thuộc dòng hò civil law coi trọng lí luận pháp luật. Ngay từ thế kỷ XII, XIII, khi các trường đại học của các quốc gia ở lục địa châu Âu ra đời, quan điểm của các giáo sư đại học lúc này đã là: pháp luật là công cụ, là mô hình tổ chức xã hội. Quan điểm này đuwọc duy trì ở những thế kỷ tiếp theo. Thứ tư, các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ civil law có trình độ hệ thống hóa, pháp điển hóa cao. Ngoài các bộ luật thông thường như bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật dân sự, bộ luật tố tụng dân sự, bộ luật lai động, bộ luật thương mại các quốc gia lục địa châu Âu đã xây dựng hệ thống tòa án hành chính, bộ luật tố tụng hành chính, bộ luật hàng hải, luật hàng không, luật bầu cử .Nhờ xây dựng được nhiều bộ luật nên việc nghiên cứu và thực hiện áp dụng pháp luật trở nên dễ dàng hơn. Các quy phạm trong các bộ luật thường rất cụ thể với các chế tài rõ rang vì vậy có thể áp dụng trực tiếp vào các quan hệ xã hội mà không cần thông qua văn bản pháp luật trung gian như nghị định hoặc thông tư hướng dẫn thi hành. Thứ năm, dòng họ civil law không coi tiền lệ pháp là hình thức pháp luật thông dụng và phổ biến như pháp luật thành văn. Khác với dòng họ common law, dòng họ civil law do chịu ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết phân chia quyền lực nên không thừa nhận vai trò lập pháp của các cơ quan xét xử. Các luật gia lục địa châu Âu hầu như có quan điểm thống nhất rằng lập pháp là hoạt động của nghị viện, tòa án là cơ quan áp dụng luật để xét xử chứ không phải bằng hoạt động xét xử tạo ra luật. Án lệ là hình thức pháp luật không 19
  20. được khuyến khích phát triển và chỉ áp dụng một cách hạn chế như là hình thức khắc phục khiếm khuyết của pháp luật thành văn. 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ CIVIL LAW 2.1. Giai đoạn pháp luật tập quán Đây là thời kỳ pháp luật như tên gọi của nó hình thành từ tập quán địa phương, vì vậy còn mang tính biệt lập, phân tán, thiếu thống nhất. Tồn tại các luật tập quán của Pháp, Đức, của các dân tộc Slavian, luật La Mã, phần lớn các bộ tộc ở Tây Âu đã bị người La Mã đô hộ suốt 4 thế kỷ nên Luật la Mã cổ đại đã ảnh hưởng rất lớn ở đây. Nhìn chung giai đoạn này luật pháp còn giản đơn, lẫn lộn gữa quy phạm đạo đức và quy phạm tôn giáo, pháp luật. Đặc biết trong thời kỳ mà người phương Tây gọi là “The Dark Age” thời kỳ đen tối từ thế kỷ V đến thế kỷ X. Thời kỳ này mặc dù pháp luật đã tồn tại nhưng chưa phải thực sự là công cụ chủ yếu để đảm bảo công lý trong xã hội. Với những quan điểm về chứng cứ hoặc duy tâm hoặc thiếu sự khách quan thì phương pháp giải quyết tranh chấp thời kỳ này có thể là đấu sung, đấu gươm, đấu vật, cá cược, lợi thề trước chúa, chịu thử thách với lửa, nước Các tranh chấp giữa các cá nhân hoặc giữa các nhóm xã hội được giải quyết hoặc bằng luật của sức mạnh cơ bắp hoặc bằng sức mạnh quyền uy của các tộc trưởng. Luật pháp thời kỳ này chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng tôn giáo, nhiều quốc gia lấy luật lệ nhà thờ làm luật lệ nhà nước. 2.2. Giai đoạn phát triển pháp luật thành văn từ thế kỷ XIII đến cuối thế kỷ XVIII Cuối thế kỷ XII, các thành phố châu Âu bắt đầu phát triển và cùng với sự phát triển đó là sự gia tăng các hoạt động thương mại, giao lưu giữa các dân tộc châu Âu lục địa. Hoạt động buôn bán thương mại và sự phát triển dân cư tạo ra nhu cầu cần phải phân biệt giữa tôn giáo, đáo và pháp luật. Đáng chú ý là giai đoạn văn hóa Phục Hưng bắt đầu từ thế kỷ XIII – XIV xuất phát từ Italia sau đó lan dần sang các nước lục đia châu Âu. Các nhà tư tưởng lúc này muốn những giá trị đích thực của luật La Mã. 20
  21. Từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII, trong quá trình khoảng 5 thế kỷ nghiên cứu, giảng dạy luật La Mã nhằm đào tạo các chuyên gia pháp luật, các trường đại học châu Âu đã có những đóng góp to lớn cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật chung cho lục địa châu Âu nên các nhà luật học châu Âu gọi đó là “pháp luật chung của các trường đại học”. Trong giai đoạn này cũng xuất hiện nhiều trường phái luật học khác nhau. Giai đoạn từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII là giai đoạn hình thành hệ thống pháp luật thống nhất của châu Âu. Vào đầu thế kỷ XIII, khoonh những châu Âu mà các nước thuộc lục địa châu Âu cũng không có một hệ thống pháp luật thống nhất. Nguyên nhân của tình trạng này là mỗi quốc gia đếu áp dụng luật tập quán cho các vùng miền khác nhau. Tóm lại, khoảng từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII trên cơ sở ảnh hưởng sâu rộng của Corpus Juris Civilis, hệ thống pháp luật chung của lục địa địa châu Âu đã ra đời và được gọi là Jus Commune. Đây là hệ thống pháp luật thống nhất của châu Âu nhưng được thể hiện đa dạng ở các nước châu Âu, đó là hệ thống pháp luật mềm dẻo, hoàn toàn khác với common law của nước Anh. 2.3. Giai đoạn pháp điển hóa pháp luật và phát triển mở rộng ra ngoài lục địa Châu Âu Đây là giai đoạn được đánh dấu bằng những văn bản pháp luật quan trọng, là cuộc cách mạng lớn trong sự phát triển tư tưởng pháp luật của nhân loại. Trước hết phải kể đến bản tuyên ngôn nhân quyền đầu năm 1789 của Pháp. Những quy định cơ bản của Bản tuyên ngôn đã trở nên nổi tiếng này đã trở thành những nguyên tắc cơ bản của các bản hiến pháp của các quốc gia lục địa châu Âu và nhiều nước khác trên thế giới. Đây là nền móng chow một ngành luật mới ra đời đó là luật Hiến pháp. Những quy định trong bản tuyên ngôn nổi tiếng này đã trở thành những nguyên tắc cơ bản trong quá trình đấu tranh vì chế độ dân chủ trong lịch sử lập hiến các nước lục địa châu Âu. Vào đầu thế kỷ XIX, các bộ luật quan trọng của các nước đã ra đời như Bộ luật dân sự Naponeon 1804, Bộ luật tố tụng dân sự năm 1806, Bộ luật thương mại 1806, Với các bộ luật nổi tiếng trên đây, dòng họ civil law đã đạt được những thành tựu to lớn, đánh dấu giai đoạn phát triển rực rõ của khoa học pháp lý. 21
  22. Hệ thống pháp luật của các quốc gia thuộc dòng họ pháp luật này có trình độ hệ thống hóa, pháp điển hóa cao nhất trong các hệ thống pháp luật lớn trên thế giới. Các quốc gia thuộc dòng họ civil law đều xây dựng được khá nhiều bộ luật trên các lĩnh vực khác nhau. 2.4. Sự phát triển pháp luật thuộc dòng họ civil law ra ngoài Châu Âu Do nhiều quốc gia Tây Âu như Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, có nhiều thuộc địa ở các châu lục khác nên dòng họ pháp luật civil law đã có điều kiện thuận lợi để phát triển sang các châu lục khác. Ở châu Mỹ, những thuộc địa của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Hà Lan là những vùng lãnh thổ đã tiếp nhận các chế định pháp luật thuộc dòng họ civil law và xây dựng các bộ luật theo các hình mẫu của châu Âu. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của châu Mỹ, hệ thống pháp luật án lệ đã thống soái ở đây. Ở châu Á, dòng họ civil law cũng được tiếp nhận ở nhiều khu vực lãnh thổ khác nhau. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, từ năm 1839 các bộ luật châu Âu đã được coi là mô hình để họ cải cách hệ thống pháp luật. Năm 1926, Thổ Nhĩ Kỳ tiếp nhận Bộ luật nghĩa vụ của Thụy Sĩ và gia nhập dòng họ civil law mặc dù đây là quốc gia hồi giáo và trước đó không lâu pháp luật hồi giáo vẫn còn thống trị. Các nước khác như Ai Cập, Irac, Isaren cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật lục địa châu Âu và trong quá trình phát triển pháp luật, các chế định pháp luật lục địa châu Âu được cấy ghép xen kẽ via pháp luật Hồi giáo thành hệ thống pháp luật pha trộn. Các nước viễn đông như Trung Quốc, Nhật Bản, và các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Lào, Campuchia cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc các chế định pháp luật của dòng họ civil law trong lĩnh vực công pháp cũng như tư pháp. Hầu như tất cả các nước nói trên đều chịu ảnh hưởng các chế định pháp luật cụ thể như hợp đồng, thừa kế, sở hữu, pháp nhân trong luật tư và các chế định nghị viện, tổng thống, chính phủ, hệ thống tòa án, chính quyền địa phương trong lĩnh vực công. Các hiến pháp, các bộ luật dân sự, hình sự, thương mại, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự của các nước châu Âu cũng có ảnh hưởng lớn đế quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật các nước châu Á cũng như châu lục khác. 22
  23. 3. CẤU TRÚC CỦA CÁC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THUỘC DÒNG HỌ CIVIL LAW 3.1. Sự phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp Các hệ thống pháp luật dòng họ civil law phân chia thành hai loại công pháp và tư pháp. Công pháp là hệ thống các ngành luật điều chỉnh các quan hệ giữa các cơ quan công quyền via nhau và giữa các cơ quan công quyền với tư nhân. Một số ngành luật được coi là hỗn hợp giữa luật công và luật tư như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tư pháp quốc tế. Theo Rene David, ở các nước thuộc hệ thống pháp luật lục địa châu Âu, khoa học pháp lý liên kết các quy phạm pháp luật vào các nhóm lớn là công pháp và tư pháp. Sự phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp dựa trên tư tưởng đã hình thành từ lâu trong các luật gia lục địa châu Âu là những mối quan hệ giữa người cai trị và người bị cai trị đòi hỏi những chế định hoàn toàn khác với mối quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, lợi ích chung và lợi ích riêng không thể cùng đo trên một bàn cân. Các nhà luật học theo trường phái luật tự nhiên, không phụ thuộc vào nhà nươc và cao hơn nhà nước. Công pháp có các nguyên tắc cơ bản sau: - Tất cả các quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân; - Đảm bảo sự phân chia quyền lực và kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. - Đảm bảo cho các cơ quan tư pháp độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp; - Đảm bảo các quyền công dân và quyền con người được tôn trọng, thực hiện; - Xây dựng nhà nước pháp quyền Tư pháp có những nguyên tắc cơ bản sau đây - Nguyên tắc tự do thỏa thuận ý chí của các bên tham gia quan hệ pháp luật; - Nguyên tắc tự do thỏa thuận ý chí của các bên tham gia quan hệ pháp luật; 23
  24. - Nguyên tắc bình đẳng của các chủ thể trong việc thể hiện ý chí và thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý - Nguyên tắc bình đẳng của các chủ thể trong việc thể hiện ý chí và thự hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý; - Nguyên tắc thiện chí, trung thực trong việc xác lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý; - Nguyên tắc tôn trọng đạo đức truyền thống tốt đẹp của cộng đồng; - Nguyên tắc không xâm phạm lợi ích hợp pháp cảu các chủ thể pháp luật khác; Công pháp có đặc điểm cơ bản sau đây - Mục đích công pháp là bảo vệ lợi ích công - Quy phạm công pháp mang tính tổng quát cao; - Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của công pháp là phương pháp mệnh lệnh Công pháp thông thường thể hiện tính chất bất bình đẳng giữa các chủ thể pháp luật, trong đó các cơ quan nhà nước thường ra các quyết định mang tính mệnh lệnh và bên chủ thể khác phải thi hành. Tư pháp có đặc điểm cơ bản sau - Các quy định của tư pháp hướng tới việc bảo vệ lợi ích tư nhân. - Các quy phạm của tư pháp thường rất cụ thể, chi tiết; - Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của tư pháp là tự do thỏa thuận ý chí của các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. - Các quan hệ pháp luật tư pháp thể hiện sự bình đẳng của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. 3.2. Các chế định pháp luật đặc thù - Chế định luật nghĩa vụ 24
  25. Chế định luật nghĩa vụ là chế định đặc thù của các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ civil law vì trong các hệ thống pháp luật khác không có khái niệm này. Tuy nhiên xét về nội dung chế định luật nghĩa vụ tương đương với chế định hợp đồng và trách nhiệm pháp lí ngoài hợp đồng trong hệ thống pháp luật XHCN. Theo điều 1101 Bộ luật dân sự Naponeon, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao vật, làm hoặc không làm cho việc nào đó. Hợp đồng chỉ có hiệu lực khi thỏa mãn điều kiện chủ yếu sau đây: - Các bên giao kết hoàn toàn tự nguyện; - Các bên giao kết có năng lực giao kết hợp đồng; - Đối tượng của hợp đồng phải xác định; - Căn cứ của hợp đồng phải hợp pháp. Không chỉ riêng Bộ luật dân sự Naponeon mà các bộ luật dân sụ khác của các nước châu Âu lục địa đều quy định rõ những biện pháp để đảm thực hiện hợp đồng như cầm cố, đặt cọc, tiền phạt, bảo lãnh, Người có nghĩa vụ sẽ phải bồi thường thiệt hại xảy ra do không thực hiện nghĩa vụ hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ, trừ trường hợp chứng minh được rằng việc không thực hiện nghĩa vụ đó nguyên nhân khách quan và hoàn toàn ngay tình. Khác với dòng họ pháp luật XHCN, nơi mà hợp đồng chỉ được coi là chế định của luật dân sự và thương mại, trong dòng họ civil law còn có khái niệm hợp đồng hành chính. Hợp đồng hành chính có một số đặc điểm khác với hợp đồng dân sự và thương mại. Hợp đồng dân sự, thương mại hướng đến lợi ích tư còn hợp đồng hành chính hướng tới lợi ích công. Trong hợp đồng dân sự và thương mại các chủ thể tư nhân còn trong hợp đồng hành chính thì một trong các bên tham gia hợp đồng phải là pháp nhân công quyền. Trong hợp đồng dân sự và thương mại các chủ thể hoàn toàn bình đẳng với nhau, còn trong hợp đồng hành chính các bên không nhất thiết phải bình đẳng. Hợp đồng dân sự và thương mại thuộc lĩnh vực điều chỉnh của luật tư còn hợp đồng hành chính thuộc lĩnh vực điều chỉnh của luật công. - Chế định pháp nhân 25
  26. Chế định pháp nhân là sản phẩm sáng tạo của các luật gia La Mã cổ đại, cội nguồn của hệ thống pháp luật lục địa châu Âu. Pháp nhân là thực thể trìu tượng được tạo nên từ sự tập hợp của nhiều thể nhân và được giao năng lực pháp luật theo ý chí của các thành viên. Đương nhiên, mỗi thành viên của pháp nhân vẫn là thể nhân nhưng sự tập hợp của nhiều thể nhân trong một tổ chức đã tạo nên một chủ thể pháp luật mới. Năng lực pháp luật của pháp nhân hoàn toàn độc lập với năng lực pháp luật của các thể nhân tạo ra nó. Các pháp nhân tư pháp bao gồm. - Các công ty dân sự và thương mại – đó là các tổ chức trong đó các thành viên góp vốn chung, hoạt động kinh doanh vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Hoạt động của các công ty này được điều chỉnh bằng luật dân sự và thương mại. Các công ty dân sự như công ti mở trường học tư, công ty luật, các công ty thương mại như công ty vô danh, công ty hợp danh, công ty cổ phần. - Các hiệp hội – là tổ chức hoạt động vì một mục đích khác ngoài mục đích kiếm lời. Các hiệp hội còn được gọi là các hiệp hội không bị cấm kinh doanh kiếm lời mà chỉ bị cấm kinh doanh kiếm lời mà chỉ bị cấm phân lợi nhuận thu được cho các thành viên. Có nhiêu loại hiệp hội: các hiệp hội không đăng ký thành lập và hoạt động công khai và các hiệp hội được công nhận là hiệp hội công ích. - Các tổ chức nghiệp đoàn là các tổ chức cũng không giống như các hiệp hội không bảo vệ những lợi ích nghề nghiệp của các thành viên đặc biệt là lợi ích nghề nghiệp của các thành viên. Đặc biệt là các lợi ích kinh tế như lương bổng, tiền thưởng, chế độ nghỉ hưu, các khoản đóng góp. - Các quỹ Khác với các quỹ không phải là sự tập hợp các thể nhân mà là một công cụ pháp lý nhằm quyên góp các tài sản dành để phục vụ cho mục đích nhất định cứu tế, nhân đạo, văn hóa, khoa học, khuyến học, trợ giúp người nghèo. 26
  27. 3.3. Quy phạm pháp luật Ở các nước lục địa châu Âu, các luật gia có quan điểm khá giống nhau về quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật được hiểu là quy tắc xử sự có tính chất chung và có ý nghĩa rộng hơn áp dụng vào một vụ việc cụ thể nào đó. Các nhà luật học lục địa châu Âu cho rằng tuyển tập thực tiễn xét xử của tòa án và các hình thức của đơn từ có thể là công cụ hữu ích cho các nhà thực hành, chúng cũng cần thiết cho các nhà luật học trên phương diện như dữ liệu ban đầu cho công việc của họ nhưng chúng không có sự bao quát của khoa học pháp lí. Do quy phạm pháp luật có tính khái quát cao nên quy phạm pháp luật không phải chỉ áp dụng trong một trường hợp mà có thể áp dụng trong một trường hợp mà có thể áp dụng cho nhiều trường hợp khác nhau, do đó nảy sinh nhâu cầu giải thích luật của các thẩm phán. Ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, quy phạm pháp luật được xây dựng theo xu hướng thật cụ thể và chính xác, trong khi đó các nước lục địa châu Âu thì cho rằng quy phạm pháp luật phải để khoảng trống cho thẩm phán, không nên quy định quá chi tiết vì nhà lập pháp không thể nào lường hết được sự đa dạng của các vụ việc trong thực tiễn. 4. NGUỒN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THUỘC DÒNG HỌ CIVIL LAW 4.1. Pháp luật thành văn Ở dòng họ civil law pháp luật thành văn được coi trọng và có trình độ hệ thống hóa, pháp điển hóa cao. Vào thế kỷ XIX, sau khi các bộ luật cơ bản của Pháp lần lượt ra đời, với ảnh hưởng lớn của các bộ luật này, nhất là bộ luật Dân sự Naponeon, trường phái pháp luật chứng thực ra đời. Trường phái pháp luật chứng coi pháp luật thành văn hầu như là nguồn duy nhất của pháp luật. Họ coi các bộ luật như là sự hoàn hải của lí trí. Ngày nay không ai còn ảo tưởng về vai trò tuyệt đối của pháp luật thành văn, tuy nhiên theo tư tưởng truyền thống, pháp luật thành văn vẫn được coi là nguồn quan trọng nhất trong hệ thống các nguồn pháp luật. Nguồn pháp luật thành văn trong dòng họ Civil law bao gồm các loại văn bản sau đây. - Hiến pháp – đạo luật cơ bản của nhà nước là văn bản có hiệu lực pháp lí cao nhất do nghị viện ban hành với điều kiện có từ 2/3 trở lên số nghị sĩ ở cả hai 27
  28. viện bỏ phiếu thuận. Ở một số nước nghị viện thông qua còn phải lấy trưng cầu dân ý, hiến pháp chỉ được thông qua khi được đa số cử tri bỏ phiếu thuận. - Các công ước quốc tế Các công ước quốc tế thông thường được kí kết khi không trái với hiến pháp quốc gia, trong trường hợp cần thiết thì phải sửa đổi hiến pháp trước khi kí kết điều ước quốc tế. Một số quốc gia như Pháp và Hà Lan quy định các công ước quốc tế có hiệu lực cao hơn nội luật. Nhìn chung, các nước lục địa châu Âu đều có quan điểm tương đối thống nhất là công ước quốc tế có hiệu lực dưới hiến pháp nhưng trên các đạo luật quốc gia. - Bộ luật Lúc mới ra đời bộ luật có nghĩa là tuyển tập những luật khác nhau. Vào thời kỳ phong kiến các luật không là các tuyển tập nữa mà là một văn bản tổng hợp trình bày có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các loại quan hệ xã hội khác nhau bao gồm cả hình sự, dân sự, hành chính, thương mại, đất đai, hôn nhân gia đình - Luật Là những văn bản quy phạm pháp luật do nghị viện ban hành theo một trình tự, thủ tục nhất định và phải được đa số nghị sĩ ở cả hai viện bỏ phiếu thuận. Đối tượng điều chỉnh của luật cũng có thể có giới hạn hoặc không giới hạn. Đối tượng điều chỉnh của luật có thể vô hạn như ở Anh, Mỹ, Italia, các nước XHCN, Pháp dưới nền cộng hòa thứ III, thú IV. Đối tượng điều chỉnh của luật của luật cũng có thể có giới hạn như ở Pháp dưới nến cộng hòa thứ năm. Trong trường hợp giới hạn, ta thấy có sự phân chia giữa thẩm quyền lập pháp của nghị viện và thẩm quyền lập quy của chính phủ. - Sắc lệnh Do tổng thống ban hành có hiệu lực thấp hơn luật. Tuy nhiên có những sắc lệnh được ban hành thuộc lĩnh vực luật theo sự ủy quyền của nghị viện thì có hiệu lực như luật gọi là các sắc lệnh. - Nghị định 28
  29. Do chính phủ ban hành trong lĩnh vực lập quy và có hiệu lực thấp hơn và sắc lệnh. Tuy nhiên cũng có những nghị định do nghị viện ủy quyền ban hành tong lĩnh vực luật, khi chưa được nghị viện phê chuẩn nó có hiệu lực như nghị định thông thường nhưng sau khi được nghị viện phê chuẩn nó sẽ có hiệu lực như luật. - Quyết định do tổng thống ban hành để thực hiện thẩm quyền đặc biệt theo quy định tại Điều 16 Hiến pháp 1958 của Cộng hòa Pháp. Những quyết định này không cần các bộ trưởng liên quan tiếp kí. - Quyết định do các bộ trưởng, thị trưởng ban hành - Các chỉ thị của cấp trên đối với cấp dưới - Các thông tư của cấp trên đối với cấp dưới và phần lớn các thông tư mang tính bắt buộc thực hiện. 4.2. Tập quán pháp luật Trong dòng họ civil law đã tồn tại nhiều quan điểm lí luận khác nhau về vai trò của tập quán pháp luật. Có quan điểm xã hội học pháp luật cho rằng tập quán đóng vai trò chủ đạo trong các nguồn của pháp luật, chính tập quán là nền tảng của pháp luật, xác định các phương thức áp dụng, phát triển của pháp luật do thẩm phán, học thuyết đưa ra. Đối lập với quan điểm trên, trường phái pháp luật thực định phủ nhận vai trò của tập quán. Trên thực tế, các nước trong dòng họ civil law đều thừa nhận tập quán pháp là những nguyên tắc xử sự hình thành một cách tự phát, tồn tại lâu đời, được quyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành thói quan tự nhiên, mang tính bắt buộc chung như quy phạm pháp luật. Phân tích các tập quán pháp luật lục địa châu Âu cũng như tập quán pháp luật khác trên thế giới chúng ta đã thấy các tập quán pháp luật khác trên thế giới phải dựa trên hai yếu tố. - Yếu tố khách quan: các quy tắc xử sự hình thành một cách tự phát, tồn tại trong thời gian dài và đã trở thành thói quen tự nhiên. - Yếu tố chủ quan: các chủ thể pháp luật cho rằng thói quen đó mang tính bắt buộc như quy phạm pháp luật. 29
  30. Trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, tập quán pháp luật có thể được chia thành ba loại. - Tập quán áp dụng đương nhiên: đó là những tập quán mà nhà nước và xã hội thừa nhận một cách phổ biến như con cái sinh ra mang họ của bố, con gái lấy chồng mang họ của chồng. - Tập quán áp dụng theo sự dẫn chiếu của pháp luật; - Tập quán pháp luật. 4.3. Án lệ Án lệ được hiểu là bản án đã tuyên hoặc sự giải thích, áp dụng pháp luật được coi như tiền lệ làm cơ sở để các thẩm phán sau đó có thể áp dụng trong các trường hợp tương tự. 4.4. Học thuyết Trong quá khứ, học thuyết đã từng là nguồn chính của hệ thống pháp luật lục địa châu Âu. Các nguyên tắc pháp luật chính đã ra đời trong khoảng thế kỷ XIII – XVIII do các trường đại học châu Âu xây dựng nên. Cùng với sự thắng lợi của các tư tưởng 4.5. Các nguyên tắc chung của pháp luật Theo quan điểm phổ biến của dòng họ civil law, nguyên tắc chung của pháp luật là nguyên tắc có thể thành văn và không thành văn được chấp nhận trong luật quốc gia của hầu hết các nước. Các nguyên tắc chung có thể được thể hiện trong hiến pháp, các bộ luật, các luật, tuy nhiên cũng có nhiều nguyên tắc chung của pháp luật không được thể hiện trong luật thành văn hiện hành mà có nguồn gốc từ án lệ hoặc luật La Mã cổ đại. Việc thừa nhận những nguyên tắc chung này dựa trên quan niệm pháp luật là đại lượng của công bằng, công lí. Những nguyên tắc chung giúp chúng ta lấp các chỗ trống của pháp luật, giúp các thẩm pháp tìm ra giải pháp công bằng nhất khi giải quyết vụ việc trong thực tiễn. Chúng ta có thể liệt kê một số nguyên tắc chung của Luật La Mã cổ đại được nhiều quốc gia lục địa châu Âu thừa nhận. 30
  31. 5. MỘT SỐ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT THUỘC DÒNG HỌ CIVIL LAW 5.1. Hệ thống pháp luật Pháp - Bối cảnh lịch sử Pháp là một trong những quốc gia có hệ thống pháp luật thành văn rất phát triển, có trình độ hệ thống hóa và pháp điển hóa cao và có ảnh hưởng đối với hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ IV. Cũng như dòng họ civil nói chung, hệ thống pháp luật Pháp có thể được chia thành ba giai đoạn phát triển. trước thế kỷ XIII là giai đoạn pháp luật tập quán. Từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XVIII là giai đoạn pháp điển hóa pháp luật và phát triển sự ảnh hưởng của luật Pháp sang quốc gia khác. Ngoài đặc điểm trên đây, có thể chị ra một đặc điểm khác của pháp luật Pháp là có sự khác nhau rõ rệt giữa hai vùng lãnh thổ miền Bắc và miền Nam nước Pháp. Theo Hiến pháp năm 1958, nước Pháp ngày nay là nhà nước đơn nhất, đa nguyên chính trị, có chính thể cộng hòa lưỡng tính, tổng thống do nhân dân bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm. - Bộ luật dân sự Naponeon Sau cách mạng dân chủ 1789, chính quyền mới mong muốn xây dựng bộ luật dân sự nhưng ý định đó đã không biến thành hiện thực. Quốc hội lập hiến cũng như quốc hội lập phán đó có dự kiến ban hành bộ luật chung về luật dân sự để áp dụng cho toàn thể Vương quốc nhưng cả hai dự án đều không thành. Khi Naponeon trở thành hoàng đế nước Pháp, ý tưởng xây dựng bộ luật dân sự đã điều kiện chin muồi để trở thành hiện thực. Với ý chí chính trị mạnh mẽ, Naponeon đã biến những ước mơ về bộ luật dân sự của mình từ những ngày trong tù ngục được thành lập với 4 thành viên, 4 luật gia nối tiếng lúc bấy giờ. Dự thảo luật được soạn thảo trong hai năm và được trình lên Tòa tư pháp tối cao với các nội dung cơ bản của dự luật. Cuối cùng, Bộ luật dân sự đã được công bố bởi Đạo luật ngày 21 tháng 3 năm 1804. Bộ luật này đã thay thế toàn bộ hệ thống pháp luật dân sự phong kiến. - Nội dung cơ bản của Bộ luật dân sự Naponeon 31
  32. Bộ luật dân sự Naponeon bao gồm 2283 điều, chia thành Thiên mở đầu và 3 quyền. Các quyền chia làm các thiên, các thiên chia thành các chương, các chương chia làm các phần và các phần chia thành các điều. Thiên mở đầu từ điều 1 đến điều 6. Thiên này được gọi là công bố luật, hiệu lực của luật và áp dụng luật. Văn bản luật và văn bản hành chính trong trường hợp văn bản hành chính được đăng trên công báo của Cộng hòa Pháp, có liệu lực kể từ ngày công bố văn bản luật, văn bản hành chính không quy định ngày phát sinh hiệu lực. Tuy nhiên, đối với những điều khoản mà việc thi hành đòi hỏi phải có phải có quy định hướng dẫn thì thời điểm có hiệu lực được lùi lại đến ngày quy định hướng dẫn thi hành đó có hiệu lực. Trong trường hợp khẩn cấp, căn bản luật hoặc văn bản hành chính sẽ có hiệu lực pháp luật ngay từ thời điểm công bố của Hoàng đế đối với văn bản luật theo quy định của Chính phủ đối với văn bản hành chính. Đặc điểm cơ bản của Bộ luật dân sự Naponeon - Đây là bộ luật phản ánh những tư tưởng của cách mạng mạng dân chủ tư sản Pháp bảo vệ các quyền và tự do cá nhân. - Bộ luật được xây dựng trên nguyên tắc phi tôn giáo Đây là nguyên tắc được thể hiện rõ trong các quy định về hôn nhân và gia định. Thể thức cử hành lễ kết hôn, không gắn với nhà thờ mà cử hành công khai trước viên chức hộ tịch của xã, nơi một trong hai vợ chồng thường trú hoặc cư trú vào thời điểm công khai. - Tính ổn định, khả năng tồn tại và có hiệu lực lâu dài của Bộ luật. - Bộ luật dân sự Pháp đánh dấu sự phát triển của kỹ thuật lập pháp. Hệ thống tòa án Pháp Hệ thống tòa án Pháp được chia thành ba hệ thống là: Tòa án tư pháp, tòa án hành chính và tòa án hiến pháp - Tòa án tư pháp + Tòa án dân sự thông thường 32
  33. Tòa dân sự thông thường gồm có các cấp xét xử Tòa sơ thẩm quyền hẹp, tòa này thay thế cho các tòa hòa giải tồn tại trước năm 1958. Các tòa này có thẩm quyền xét xử các vụ dân sự nhỏ, có giá trị tranh chấp cho đến 30.000 fr, sơ thẩm đồng thời chung thẩm các vụ án có giá trị từ 13 fr trở xuống. Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng là cấp xét xử cơ bản của hệ thống tòa án Pháp. Mỗi tỉnh có từ 1 dến 3 tòa. Toàn bộ nước pháp có 181 tòa. Tòa án này xét xử theo nguyên tắc tập thể, mỗi phiên tòa đều thẩm phán chuyên nghiệp. Quyết định của tòa án này có thể thể bị kháng nghị, kháng cáo lên tòa án phúc thẩm. Tòa án phúc thẩm được thành lập ở các thành phố lớn và các khu vực lãnh thổ. Toàn thể nước Pháp có 3 tòa phúc thẩm. Tòa án này có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các vụ án do các tòa cấp dưới xét xử bị kháng nghị, kháng cáo và xét xử sơ thẩm các bản án phức tạp. Các vụ án xét xử phúc thẩm gồm 5 thẩm phán, các vụ án xét xử sơ thẩm gồm 3 thẩm phán và 9 hội thẩm. Quyết định của tòa án phúc thẩm có thể bị khàng nghị, kháng cáo lên Tòa phá án. - Tòa dân sự đặc biệt Bên cạnh các tòa dân sự thông thường còn có các tòa án khác như tòa thương mại, tòa lao động, tòa xét xử hợp đồng nông nghiệp. - Tòa hình sự thông thường Tòa hình sự thông thường ở Pháp được tổ chức phù hợp với việc phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự Pháp. Mỗi loại tội phạm được xét xử ở một loại tòa khác nhau. + Tòa vi cảnh + Tòa tiểu hình + Tòa đại hình - Tòa hình sự đặc biệt gồm: + Tòa án dành cho các vị thành niên + Tòa án quân sự 33
  34. + Tòa án an ninh quốc gia - Tòa phá án Tòa phá an là tòa án tư pháp tối cao nước cộng hòa Pháp. Tòa này còn được gọi là Tòa phá án vì nó thường hủy bỏ các bản án của tòa cấp dưới nhưng không thay thế các bản án đó bằng bản án của mình mà gửi vụ án xuống một tòa khác cùng cấp tòa đã xét xử để xét xử lại. Tòa phá án có 6 tòa chuyên trách gồm 3 tòa dân sự, 1 tòa thương mại, tài chính, 1 tòa hình sự, 1 tòa về các vấn đề xã hội. Về nhân sự, Tòa phá án có 1 chánh án, 6 chánh tòa, 84 thẩm phán, 37 cố vấn, 1 viện trưởng công tố, 1 viện phó công tố, 19 công tố viên cao cấp, 2 công tố viên ủy quyền. - Tòa hành chính + Tòa hành chính thẩm quyền chung Bao gồm tòa hành chính sơ thẩm và tòa hành chính phúc thẩm và tham chính viện. + Các tòa hành chính thẩm quyền chuyên biệt Nước cộng hòa Pháp có các tòa án hành chính chuyên biệt sau: Tòa kiểm toán, tòa kỉ luật, ngân sách và tài chính, Ủy ban trung ương về giải quyết khiếu kiện của người tị nạn thành lập năm 1988. - Tòa hiến pháp Tòa hiến pháp được coi là Hội đồng bảo hiến. Hội đồng bảo hiến được thành lập theo Hiến pháp 1958. Chức năng hội đồng bảo hiến là kiểm soát tính hợp hiến của luật, tuy nhiên Hội đồng chỉ xem xét vụ việt khi có đơn đề nghị của Tổng thống, thủ tướng, chủ thịch Thượng viện, Chủ tịch Hạ Viện, 60 thượng nghị sĩ hoặc 60 hạ sĩ. 5.2. Hệ thống pháp luật Đức Bộ luật dân sự Đức 1896 Bộ luật dân sự Đức được ban hành năm 1896 và có hiệu lực năm 1900. Khác vơi Bộ luật dân sự Naponeon do các luật gia thực tiễn xây dựng nên. Bộ luật dân sự 34
  35. Đức năm 1896 do các nhà biên tập đều là giáo sư đại học nên còn có tên gọi là “Bộ luật giáo sư”. Bộ luật này có 2.400 đoạn, sắp xếp thành 5 quyển. Quyển 1 – Phần chung; Quyển 2 – Luật nghĩa vụ; Quyển 3 – Luật sở hữu tài sản; Quyển 4 - Luật gia đình; Quyển 5 – Luật thừa kế So sánh câu trúc Bộ luật Đức và Bộ luật Naponeon thì ta thấy Bộ luật Đức có cấu trúc hiện đại hơn, có phần chung và các phần riêng trong đó phần chung giải quyết các vấn đề lí luận cơ bản làm tiền đề cho các phần sau và tránh được sự trùng lặp không cần thiết. - Hệ thống tòa án Đức + Tòa án hiến pháp Tòa án hiến pháp Đức là cơ quan xét xử sơ thẩm và chung thẩm các vụ kháng cáo, kháng nghị liên quan đến tính hợp hiến của các đạo luật, xung đột về thẩm quyền giữa các bang và giữa các bang với liên bang. + Hệ thống tòa án tư pháp Tòa án tư pháp có thẩm quyền thấp nhất (AG) ở Đức giải quyết các khiếu kiện nhỏ như tranh chấp giữa chủ nhà và người thuê nhà, các vi phạm hình sự nhỏ. Tòa án cao hơn (LG) là tòa xét xử sơ thẩm phần lớn các vụ án hình sự và tranh chấp dân sự ở Đức, đồng thời xét xử phúc thẩm các bản án do cấp thấp nhất xét xử nhưng bị kháng nghị, kháng cáo. Tòa án cấp cao nhất xem xét thủ tục mà tòa án đã xét xử có đúng các quy định của pháp luật hay không, chứ không xem xét các tình tiết sự việc, các chứng cứ của vụ án và không tự mình xét xử lại vụ án mà chuyển giao cho tòa phúc thẩm. - Hệ thống tòa hành chính và các tòa khác 35
  36. Ngoài hệ thống tòa án tư pháp và tòa hiến pháp ở Đức còn có hệ thống tòa án hành chính, tòa bản hiểm xã hội, tòa lao động, tòa thuế. Chỉ có tòa thuế có hai cấp còn lại đều có ba cấp: sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm. Câu hỏi: 1. Phân tích các đặc điểm cơ bản của dòng họ pháp luật Châu Âu lục địa. 2. Trình bày sự tương đồng và khác biệt giữa luật công và luật tư ở các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law. 3. Trình bày cấu trúc hệ thống Tòa án của nước Pháp 4. Trình bày cấu trúc hệ thống Tòa án của nước Đức 5. Trình bày các loại nguồn của dòng họ pháp luật Civil law. 36