Giáo trình Phương pháp dạy học âm nhạc (Dùng cho ngành GD Mầm non hệ từ xa) (Phần 1)

pdf 68 trang hapham 4760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phương pháp dạy học âm nhạc (Dùng cho ngành GD Mầm non hệ từ xa) (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phuong_phap_day_hoc_am_nhac_dung_cho_nganh_gd_mam.pdf

Nội dung text: Giáo trình Phương pháp dạy học âm nhạc (Dùng cho ngành GD Mầm non hệ từ xa) (Phần 1)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH Mai Tuấn Sơn GIÁO TRÌNH PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ÂM NHẠC (Dùng cho ngành GD Mầm non hệ từ xa) Vinh 2011 1
  2. LỜI NÓI ĐẦU Cùng với việc biên soạn giáo trình “Âm nhạc”, cung cấp những kiến thức cơ bản về nhạc lý, kí xướng âm, kĩ thuật ca hát, chỉ huy hát tập thể chúng tôi biên soạn cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học âm nhạc cho trẻ mầm non” nhằm trang bị cho sinh viên, học viên, giáo viên mầm non những kiến thức, kĩ năng cơ bản của môn học và phương pháp dạy học bộ môn. Giáo trình gồm 5 chương: - Chương I: Một số vấn đề về giáo dục âm nhạc cho trẻ MN. - Chương II: Phương pháp dạy các hoạt động âm nhạc ở trường MN. - Chương III: Một số vấn đề về đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục ở trường MN. - Chương IV: Các hình thức tổ chức hoạt động âm nhạc. - Chương V: Thiết kế bài soạn và tập dạy. Giáo trình đề cập đến những vấn đề cốt lõi của các hoạt động ca hát, vận động theo nhạc, nghe hát, trò chơi âm nhạc theo hướng đổi mới. Nêu lên các khái niệm cụ thể của quá trình dạy học để từ đó mà xác định nội dung, kiến thức, thời lượng, phương pháp phù hợp trong từng hoạt động, cho từng độ tuổi. Giúp người học nhìn bao quát toàn cảnh về các hoạt động trong trường mầm non và những yêu cầu cụ thể, chi tiết cần đạt được trong các hoạt động âm nhạc. Mặc dù đã có những cố gắng nghiên cứu, tìm tòi nhưng giáo trình sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết, sai sót. Chúng tôi hy vọng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp bổ ích tứ các bạn sinh viên, học viên và đồng nghiệp để giáo trình hoàn thiện hơn trong những lần tái bản. Vinh, tháng 10/ 2011 TÁC GIẢ 2
  3. MỤC LỤC Trang Lời nói đầu 1 Chương I MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC ÂM NHẠC CHO TRẺ MẦM NON 1. Vai trò của giáo dục âm nhạc đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ 3 2. Đặc điểm khả năng âm nhạc của trẻ theo nhóm tuổi 4 3. Nhiệm vụ Giáo dục âm nhạc cho trẻ MN 6 Chương II PHƯƠNG PHÁP DẠY CÁC HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG MẦM NON 1. Ca hát 13 2. Vận động theo nhạc 34 3. Nghe nhạc 50 4. Trò chơi âm nhạc 60 Chương III MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI HÌNH THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG MẦM NON 1. Những vấn đề chung 68 2. Chủ đề và hướng dẫn thực hiện 77 Chương IV CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC 1. Nội dung hoạt động âm nhạc theo chương trình cải cách 85 2. Nội dung hoạt động âm nhạc theo hướng đổi mới 94 3. Nội dung hoạt động âm nhạc hàng ngày ở trường MN 107 Chương V THIẾT KẾ BÀI SOẠN VÀ TẬP DẠY 1. Thiết kế bài soạn 116 2. Một số bài soạn tham khảo 119 3. Tập dạy 130 3. Phụ lục 133 Tài liệu tham khảo 141 3
  4. Chương I MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC ÂM NHẠC CHO TRẺ MẦM NON I. VAI TRÒ CỦA ÂM NHẠC TRONG QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH TRẺ EM 1. Âm nhạc là phương tiện giáo dục thẩm mĩ Âm nhạc là một trong những bộ môn nghệ thuật giáo dục con người cái mỹ, cái thiện. Lời ca và giai điệu của bài hát, bản nhạc sẽ giúp trẻ có những rung cảm mạnh mẽ. Từ đó, trẻ biết cảm nhận tác phẩm và trải nghiệm những cảm xúc, ý nghĩ của mình để dần biết khám phá sự đa dạng của cuộc sống. Âm nhạc có sức lay động tình cảm kỳ lạ, có thể đánh thức tâm hồn con người bằng những âm thanh nhẹ nhàng, bay bổng. Khi nghe những bài hát ru, chúng ta như được trở lại thuở ấu thơ, nằm trọn trong vòng tay của mẹ. Nghe những bài hát đồng dao như đang được chơi đùa cùng lũ trẻ ở sân đình. Những bản hành khúc tạo khí thế hào hùng, mãnh liệt đầy sức trẻ Những hình tượng được phản ánh trong giai điệu, lời ca của tác phẩm sẽ nuôi dưỡng tâm hồn trẻ và từ nhận thức khách quan đó dần đi vào chiều sâu thế giới chủ quan của trẻ. Âm nhạc giáo dục tình cảm thẩm mĩ cho trẻ, trong đó có cái đẹp về cách giao tiếp, ứng xử với bạn bè, cô giáo, ông bà, cha mẹ và cộng đồng. Vì vậy, giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động âm nhạc ở trường Mầm non làm phong phú thêm đời sống tinh thần của trẻ. 2. Âm nhạc là phương tiện giáo dục đạo đức Ca khúc nói chung, bài hát ở nhà trẻ mẫu giáo nói riêng có nội dung lời ca rất phong phú, giàu hình tượng, đề cập tới nhiều lĩnh vực trong cuộc sống sẽ giúp trẻ có thái độ đúng mực với bạn bè, những người xung quanh, biết yêu và bảo vệ thiên nhiên, cuộc sống hay nói cách khác là giáo dục trẻ đạo đức làm người. Những bài dân ca của các dân tộc phong phú về âm điệu, tiết tấu, phương thức diễn xướng, phong tục tập quán sẽ giúp trẻ hiểu biết về bản sắc vùng miền và lòng tự hào về văn hóa dân tộc. Các hoạt động âm nhạc có ảnh hưởng tốt đến hành vi văn hóa của trẻ bởi cách thể hiện các tác phẩm với lối diễn xuất tâm trạng khác nhau. Khi trẻ tham gia các hoạt động âm nhạc, mỗi trẻ đều phải chú ý, tuân theo luật động, phản ứng nhanh, biết kiềm chế, điều khiển vận động phù hợp với nhịp độ của tác phẩm, biết nhường nhịn, hoà đồng, giúp đỡ nhau. Điều đó sẽ giáo dục trẻ văn hóa giao tiếp, văn hóa hành vi và tính tập thể tạo điều kiện hình thành những phẩm chất đạo đức của trẻ. 4
  5. 3. Âm nhạc góp phần phát triển trí tuệ Âm nhạc không chỉ đơn thuần giáo dục thẩm mỹ, đạo đức mà còn thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của trẻ. Âm nhạc giúp trẻ phát triển trí nhớ. Trí nhớ âm nhạc là khả năng thu nhận, ghi nhớ và trải nghiệm. Trong quá trình học tập âm nhạc (ca hát, nghe nhạc, vận động, trò chơi âm nhạc), trẻ sẽ ghi nhớ: nội dung, đề tài, hình tượng, ca từ trong lời ca; đường nét, bước nhảy, hướng chuyển động, của giai điệu; sự dàn trải, tự do hoặc mô phỏng, nhắc lại trong tiết tấu Từ đó trẻ có tư duy về cao độ, trường độ, luyện tai nghe và trí nhớ tác phẩm âm nhạc. Âm thanh là ngôn ngữ đặc thù để tạo dựng nên hình tượng âm nhạc. Hình tượng âm nhạc là loại hình tượng mang tính khái quát và ước lệ cao. Khi hoạt động âm nhạc trẻ phải tư duy, tưởng tượng và sáng tạo theo cảm xúc riêng của mình, vì thế trí tuệ phải hoạt động tích cực. Như vậy, giáo dục âm nhạc thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy họat động trí tuệ. 4. Âm nhạc góp phần phát triển thể chất Hoạt động ca hát, nghe nhạc, vận động theo nhạc có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển thể chất của trẻ. Các âm thanh mạnh, nhẹ, dài, ngắn, cao, thấp giúp trẻ có những cảm nhận, phản ứng nhanh nhạy, tai nghe trường độ, cao độ chính xác. Sự lặp lại đều đặn của phách, nhịp, trọng âm trong câu hát giúp trẻ có hơi thở đầy, sâu nên lưu thông khí huyết, hệ thống cơ, xương chắc khoẻ. Múa, minh hoạ theo tính chất âm nhạc hoặc theo lời ca là vận động gần như toàn thân giúp, cơ thể trẻ uyển chuyển, hưng phấn, có ảnh hưởng tốt tới tim mạch từ đó trẻ có thể đi lại, chạy nhảy linh hoạt, tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát. Hát còn tạo tư thế đứng, ngồi, đi lại của trẻ, liên quan trực tiếp đến sự phát triển thể lực, giúp trẻ củng cố cơ quan phát âm, tạo nên âm sắc giọng nói vang, sáng, đầy đặn. Vì vậy, việc dạy và học âm nhạc ở trường mầm non nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện . II. ĐẶC ĐIỂM VÀ KHẢ NĂNG ÂM NHẠC CỦA TRẺ THEO NHÓM TUỔI Để tổ chức và định hướng các hoạt động âm nhạc ở trường Mầm non đạt hiệu quả, cần phải có sự hiểu biết về khả năng âm nhạc của trẻ theo từng nhóm tuổi. Căn cứ vào mức độ phát triển chung của trẻ, có thể chia thành các nhóm tuổi như sau: + Nhóm nhà trẻ (dưới 36 tháng tuổi): - Trẻ từ 0 tháng đến 12 tháng tuổi. - Trẻ từ 12 tháng đến 24 tháng tuổi. 5
  6. - Trẻ từ 24 tháng đến 36 tháng tuổi. + Nhóm mẫu giáo (từ 3 đến 6 tuổi) : - Mẫu giáo bé (lớp mầm): Từ 3 - 4 tuổi. - Mẫu giáo nhỡ (lớp chồi): Từ 4 - 5 tuổi. - Mẫu giáo lớn (lớp lá): Từ 5 – 6 tuổi. Khái niệm “phát triển khả năng âm nhạc” bao gồm : - Tri giác âm nhạc là cảm giác nghe, nghe âm nhạc. - Cảm xúc và mức độ nhạy cảm với âm nhạc. - Kỹ năng hát, vận động theo nhạc (ở mức độ đơn giản). 1. Đặc điểm, khả năng âm nhạc nhóm tuổi nhà trẻ a. Trẻ dưới 1 tuổi Nhiều nghiên cứu tâm lý, sinh lý học cho rằng sự nhạy cảm và nghe ở trẻ phát triển rất sớm. Theo tài liệu của Liu-blin-xkaia: Trẻ sơ sinh từ 10 đến 12 ngày tuổi đã xuất hiện những phản ứng với âm thanh. 2 tháng tuổi trẻ có biểu hiện lắng nghe giọng nói (hóng chuyện), trẻ 4 - 5 tháng tuổi có thể ngoái nhìn theo nơi phát ra âm thanh. Trẻ có biểu hiện hưởng ứng với tính chất âm thanh như lắng nghe khi có tiếng nhạc, nín khóc khi nghe tiếng ru. Trẻ từ 10 – 12 tháng tuổi có thể bắt chước người lớn, hát bập bẹ b. Trẻ từ 1 - 2 tuổi Ở giai đoạn này, những bài hát vui tươi, khoẻ khoắn dễ tạo cho trẻ cảm xúc, sự thích thú đối với âm thanh âm nhạc. Trẻ biết chú ý lắng nghe, biết thể hiện thái độ yên lòng, tươi cười. Trẻ có thể cảm nhận âm sắc giọng nói, tiếng hát của bà, mẹ, người thân trong gia đình và biết hưởng ứng , thể hiện tình cảm như chú ý, hát theo một vài câu ngắn hoặc vẫy tay, dậm chân, nhún nhảy, vỗ tay theo tiếng nhạc c. Trẻ từ 2 - 3 tuổi Trẻ đã có những biểu hiện về khả năng âm nhạc cao hơn, cụ thể và rõ ràng hơn. Trẻ thể hiện hứng thú với âm nhạc qua vận động, lắc lư, dậm chân, vỗ tay, một số trẻ còn biết nhún nhảy theo tiết tấu hay chạy vòng tròn theo tiếng nhạc. Khả năng nghe nhạc của trẻ cũng tốt hơn như biết phân biệt âm thanh cao thấp, to nhỏ, dài ngắn, có thể hát theo người lớn hoặc nhắc lại một vài câu hát ngắn. 2. Đặc điểm, khả năng âm nhạc nhóm tuổi mẫu giáo a. Trẻ từ 3 - 4 tuổi Đây là giai đoạn chuyển lên mẫu giáo nên cảm xúc, khả năng âm nhạc của trẻ tăng dần, giọng hát, tai nghe tốt hơn. Ở trẻ xuất hiện sự hứng thú hoạt động âm nhạc như hát, vận động theo nhạc, biết thực hiện các động tác múa đơn giản. 6
  7. Trẻ có thể hát những bài ngắn, giai điệu liền bậc hoặc quãng hẹp. Một số trẻ còn biết tự nghĩ ra lời và hát theo một giai điệu mà trẻ thích. Ở độ tuổi này có thể cho trẻ tiếp xúc, làm quen với nhạc cụ (organ, trống ) b. Trẻ 4 - 5 tuổi Trẻ có thể xác định được các âm thanh cao thấp, to nhỏ, thậm chí cả hướng chuyển động của giai điệu (đi lên hay đi xuống), âm sắc giọng hát, nhạc cụ và có thể phân biệt tính chất âm nhạc: vui vẻ, sôi động, êm ả, yên tĩnh, nhịp độ nhanh chậm để có thể tự điều tiết động tác múa, vận động. Ở độ tuổi này, giọng trẻ khá linh hoạt, có độ vang (tuy chưa lớn). Hứng thú với các hoạt động âm nhạc của trẻ cũng bắt đầu có sự phân hoá. Một số trẻ thích ca hát, thích múa, một số trẻ thích trò chơi âm nhạc, với nhạc cụ. c. Trẻ 5 - 6 tuổi Cảm giác tai nghe và kinh nghiệm nghe nhạc của trẻ đã tốt hơn nhóm 4- 5 tuổi. Trẻ biết phân biệt các phương tiện diễn tả âm thanh: cao độ, trường độ, tiết tấu, giai điêu, hướng chuyển động của âm thanh và cả sự thay đổi sắc thái, tình cảm giọng hát hoặc của nhạc cụ. Hứng thú và khả năng âm nhạc của trẻ thể hiện rõ. Phần lớn trẻ đã biết lựa chọn bài hát, điệu múa hay thể loại trong ca khúc Trẻ thể hiện sự nhanh nhẹn, hoạt bát, chính xác khi múa, vận động, di chuyển đội hình. Trên đây là một số khái quát về đặc điểm, khả năng âm nhạc của trẻ theo nhóm tuổi. Tuy vậy, để đạt được kết quả cao trong quá trình dạy học, người giáo viên không những phải tìm hiểu đặc điểm chung mà còn phải chú ý đến khả năng, đặc điểm riêng, của từng trẻ. III. NHIỆM VỤ GIÁO DỤC ÂM NHẠC CHO TRẺ MẦM NON VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CƠ BẢN Âm nhạc trong xã hội chúng ta rất đa dạng và phong phú nhưng tất cả đều bắt nguồn từ cuộc sống, lao động, tập tục sinh hoạt và được nuôi dưỡng từ “người mẹ” âm nhạc dân gian Việt Nam. Hoạt động âm nhạc ngày càng được nhân rộng trong cộng đồng với nhiều hình thức, thể loại môi trường diễn xướng và được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng.Với tư cách là một môn học trong hệ thống giáo dục từ Nhà trẻ mẫu giáo, Tiểu học, THCS Âm nhạc đã có một vị trí quan trọng, được coi là một trong những phương tiện hiệu quả nhất để góp phần thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, tạo cơ sở hình thành nhân cách cho trẻ. Tuỳ vào đặc điểm lứa tuổi, nhận thức, cấp học mà chúng ta đặt ra mục đích, nhiệm vụ giáo dục âm nhạc có mức độ khác nhau. 7
  8. 1. Nhiệm vụ giáo dục âm nhạc cho trẻ mầm non Xuất phát từ đặc điểm lứa tuổi, mục đích giáo dục và những đặc trưng của nghệ thuật âm nhạc, nhiệm vụ giáo dục âm nhạc cho trẻ mầm non gồm: - Giáo dục trẻ tình yêu âm nhạc, những hiểu biết về tác phẩm âm nhạc. Thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng tạo cho trẻ những ấn tượng, khái niệm ban đầu, làm cơ sở cho việc hình thành thị hiếu âm nhạc ở trẻ. - Dạy trẻ những kĩ năng âm nhạc cơ bản, cảm giác tai nghe cao độ, tiết tấu, tính chất âm nhạc, những thói quen cần thiết khi tham gia các hoạt động âm nhạc, giúp trẻ biết thể hiện tác phẩm một cách chân thực, hồn nhiên - Phát triển ở trẻ trí tưởng tượng, tích cực, độc lập, sáng tạo trong tất cả các dạng hoạt động âm nhạc từ đó hình thành thái độ, sự lựa chọn, đánh giá tác phẩm và nhu cầu hoạt động âm nhạc. Những nhiệm vụ trên có mối quan hệ gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau. Giúp trẻ nắm được những kỹ năng cơ bản là điều kiện cần thiết để phát triển tình cảm đối với âm nhạc và thực hiện tốt tác động giáo dục của âm nhạc. Trong thực tế có những giáo viên chỉ rèn kỹ năng cho trẻ, yêu cầu mọi trẻ phải giống cô mà không chú ý tới việc phát triển tình cảm và các mặt giáo dục khác thông qua hoạt động âm nhạc nên thiếu tính tổng hợp trong giáo dục. Nên tránh hiện tượng chỉ chú ý đến những cháu phát triển tốt mà quên đi những cháu kém hoặc quá nhút nhát. Sự tiến bộ đồng đều của tập thể trẻ có ý nghĩa lớn, tuy nhiên, việc phát triển những năng khiếu đặc biệt cũng cần quan tâm vì đó là những hạt nhân nòng cốt cho nhà trường. Ở trường Mầm non, bước đầu trẻ được tiếp cận với nền văn hoá của loài người nên cần cho trẻ làm quen với những hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc rõ nét như: ca dao, bài đồng dao, trò chơi dân gian, hát ru, dân ca các vùng miền. Âm nhạc là phương tiện sắc bén để bồi dưỡng tình cảm dân tộc cho moi người nói chung và trẻ em nói riêng. Ở nhiều nước trên thế giới, giáo dục truyền thống trong âm nhạc là vấn đề có tính nguyên tắc, bắt buộc. Bởi vậy, trong nhiều bài hát sáng tác cho trẻ, nhạc sỹ của chúng ta cũng đã lấy âm điệu, tiết tấu dân ca các miền làm phong phú nguồn giai điệu nhằm giúp trẻ hiểu thêm về các dân tộc Việt Nam. Việc sử dụng các trò chơi dân gian, hát cho trẻ nghe các bài dân ca càng thể hiện rõ ý thức dân tộc trong giáo dục âm nhạc. Muốn thực hiện tốt việc giáo dục âm nhạc ở trường Mầm non, giáo viên phải có kiến thức, khả năng âm nhạc, biết truyền đạt, biết thể hiện tác phẩm một cách hấp dẫn vì hiệu quả giáo dục ảnh hưởng trực tiếp tới trẻ. Bên cạnh đó giáo viên cũng cần phải biết đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ trong mối quan hệ với âm nhạc, đặc điểm cơ quan phát âm của trẻ để có phương pháp dạy thích hợp. 8
  9. Các nhiệm vụ giáo dục âm nhạc nói trên được đặt ra cho trẻ mầm non. Tuy nhiên tuỳ theo độ tuổi, các nhiệm vụ cần có mức độ, yêu cầu cho phù hợp. 2. Phương pháp dạy học cơ bản Để tổ chức các hoạt động âm nhạc ở trường mầm non đạt hiệu quả, chúng ta nên áp dụng các phương pháp dạy học cơ bản sau: a. Phương pháp trực quan thính giác (trực quan truyền cảm): Đây là phương pháp đặc thù trong thưởng thức và giáo dục âm nhạc bởi vì âm nhạc chỉ có thể gợi cảm xúc tới người nghe khi được trình diễn. Việc tổ chức cho trẻ tiếp xúc với âm nhạc nhằm mục đích gợi lên những tâm trạng, cảm xúc, tình cảm đa dạng, gần gũi trẻ, giúp trẻ có sự liên tưởng. Tác phẩm hay rất quan trọng, đồng thời cũng cần người trình bày tốt mới truyền cảm tới người nghe. Người giáo viên tuy không phải là nghệ sĩ biểu diễn nhưng tiếng đàn, giọng hát chuẩn xác, diễn cảm kết hợp động tác, điệu bộ phù hợp mang đến cho trẻ niềm vui sướng, thán phục. Giáo viên nghiên cứu, tìm tòi cách thể hiện sáng tạo, trình bày tác phẩm dưới các hình thức khác nhau để thu hút sự tập trung, chú ý của trẻ, lôi cuốn trẻ mong muốn được thể hiện mình. Thông qua phương pháp trình bày tác phẩm, giáo viên cho trẻ được tri giác trọn vẹn giai điệu và lời ca của bài hát, đặc biệt là những tính chất và đặc điểm cơ bản của âm hình tiết tấu, các tuyến giai điệu và những ca từ gần gũi và hấp dẫn với trẻ. Bên cạnh đó các cách thể hiện sắc thái như: to - nhỏ, ngân dài - ngắt nẩy, to dần ở cao trào bài hát hay nhỏ dần và chậm lại ở cuối câu Trong hoạt động múa, vận động, phương pháp này giúp trẻ quan sát tỷ mỉ các động tác, điệu bộ thể hiện nội dung âm nhạc của giáo viên, và tuỳ theo khả năng của độ tuổi mà trẻ có thể dần ghi nhớ và bắt chước theo cô giáo hay quan sát và tích luỹ những kĩ năng vận động mà trẻ có cơ hội thể hiện trong quá trình tham gia vào các hoạt động âm nhạc sau này. b. Phương pháp dùng lời ( phân tích, chỉ dẫn) Trong quá trình tổ chức cho trẻ hoạt động âm nhạc, giáo viên sử dụng lời nói để hướng tới ý thức của trẻ. Đối với trẻ mầm non, cách diễn đạt mạch lạc, thong thả, cụ thể, dễ hiểu của cô giáo là một trong những yếu tố thuận lợi đặc biệt để nhận thức. Khi giới thiệu tác phẩm cho trẻ nghe hoặc bài trẻ chuẩn bị hát cần diễn giải sinh động, gây hứng thú tập trung để trẻ chờ đón được thưởng thức. Có thể kết hợp với thơ, câu đố, trò chơi liên quan đến nội dung tác phẩm để tạo sự hấp dẫn cho trẻ. Khi hướng dẫn trẻ học hát, vận động có thể dùng lời nói có tính chất hiệu 9
  10. lệnh, ngắn gọn và cũng có thể dùng lời nói có hình ảnh giúp trẻ tưởng tượng khi thể hiện diễn cảm. Với trẻ, những lời khen động viên nhẹ nhàng của giáo viên sẽ khích lệ trẻ thi đua nhau học tập. Khác với nghệ sĩ biểu diễn, giáo viên sau khi trình bày tác phẩm phải giải thích, đàm thoại cho trẻ hiểu nội dung tác phẩm, liên hệ giáo dục đồng thời phải đặt câu hỏi để kiểm tra khả năng cảm thụ của trẻ. c. Phương pháp thực hành nghệ thuật Trẻ học hát, chơi trò chơi âm nhạc, vận động (múa), sử dụng nhạc cụ, hoạt động sáng tạo dưói sự hướng dẫn của giáo viên là kết quả của giáo dục âm nhạc. Sự phát triển trí tuệ, năng khiếu của trẻ được bắt nguồn đầu ngay từ khi tiến hành các hoạt động giáo dục âm nhạc. Những hoạt động bắt chước, tập luyện hay sáng tạo của trẻ dưới sự tổ chức và điều khiển của giáo viên sẽ đồng thời nâng cao khả năng hoạt động âm nhạc và phát triển trí tuệ cho trẻ. Đặc điểm của trẻ mầm non học âm nhạc không dựa vào chữ viết hay kí hiệu nốt nhạc mà học qua bắt chước. Vì vậy, giáo viên cần giúp đỡ trẻ tập luyện nhiều lần để hình thành kĩ năng thể hiện âm nhạc, giúp trẻ cảm thụ âm nhạc, nắm được các thuộc tính âm nhạc (độ cao, độ dài, độ mạnh, cách thể hiện sắc thái ). Trong vận động – múa theo nhạc trẻ cũng hình thành động tác tư thế đúng, luân chuyển động tác khớp với nhịp điệu, tính chất âm nhạc. Trong quá trình luyện tập, trẻ có thể hát sai, tập chưa đúng động tác, giáo viên giúp trẻ khắc phục bằng cách nhắc nhở, giải thích và cho trẻ tập riêng. Có thể lúc đầu chưa đúng, sau vài lần, trẻ sẽ dần điều chỉnh để làm được. Có giáo viên trực tiếp hướng dẫn, trẻ nhanh chóng nắm được bài, tuy nhiên sau đó có thể quên, vì vậy trong giờ học sau (hát, vận động là nội dung kết hợp), cô cho trẻ ôn lại. Nghe nhạc cũng là hoạt động cần cho trẻ rèn luyện thường xuyên, có hệ thống. Giáo viên tổ chức cho trẻ nghe bằng các hình thức khác nhau như nghe đàn hát trực tiếp hoặc nghe qua phương tiện nghe nhìn để giúp trẻ cảm thụ âm nhạc. Khác với nghe để giải trí đơn thuần, giáo viên cho trẻ nghe có mục đích giáo dục do đó thường đặt câu hỏi, đàm thoại để đánh giá khả năng tiếp thu âm nhạc của trẻ, đồng thời rèn luyện cho trẻ sự tập trung chú ý, sự tưởng tượng Thực hành nghệ thuật chính là sự luyện tập để phát triển tai nghe âm nhạc, khả năng ca hát, vận động và trò chơi âm nhạc cho trẻ. d. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan Trong các hoạt động giáo dục âm nhạc như hát, vận động – múa, nghe nhac, trò chơi âm nhạc đều sử dụng đồ dùng trực quan. Với trẻ mẫu giáo, đồ chơi, đồ dùng học tập là phương tiện hữu hiệu giúp trẻ nhận thức và thể hiện 10
  11. cảm xúc. Những đồ chơi, tranh ảnh, con rối có liên quan đến nội dung tác phẩm thường được giáo viên sử dụng minh hoạ trong giờ học nhằm thu hút sự chú ý của trẻ. Trong khi học hát, trẻ gõ đệm theo bằng phách tre, trống lắc, nhạc cụ trẻ em sẽ tăng cường cảm giác nhịp điệu, tạo sự hưng phấn. Khi vận động – múa, các đạo cụ, hoá trang giúp trẻ thể hiện tự tin, sinh động, hấp dẫn hơn. hoạt động giáo dục âm nhạc sẽ kém hiệu quả nếu không có các phương tiện đồ dùng dạy học như nhạc cụ, băng, đĩa hình Dạy trẻ hát sẽ chuẩn hơn, lôi cuốn hơn nếu giáo viên có sử dụng nhạc cụ. Mặt khác, trước khi học hát nếu trẻ được làm quen bằng cách nghe băng, xem đĩa hình bài sắp học sẽ tiết kiệm thời gian hơn trong quá trình học thuộc. Khi dạy hát, việc sử dụng đàn để lấy giọng giúp trẻ hát đúng âm vực, tránh bị cao hoặc thấp quá. Sửa câu hát sai bằng cách cho trẻ nghe đàn giai điệu nhiều lần giúp trẻ dần dần tự điều chỉnh tai nghe để hát cho đúng. Việc ghi sẵn giai điệu các bài hát, bài vận động, bài nghe vào bộ nhớ đàn phím điện tử giúp giáo viên đỡ vất vả và chủ động trong giờ dạy. Đồ dùng trực quan có thể do giáo viên tự làm hoặc được trang bị. Tuy nhiên giáo viên phải học cách sử dụng và biết sử dụng cho phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ, tránh lạm dụng để mọi đồ dùng trực quan “phát huy” được vai trò hỗ trợ “của mình”. Trong quá trình giáo dục âm nhạc, các phương pháp: trực quan thính giác, dùng lời, thực hành nghệ thuật và sử dụng đồ dùng trực quan có vai trò hết sức quan trọng. Việc sử dụng những phương pháp nào cho phù hợp, nhằm tạo hiệu quả còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại tiết, chủ đề, nội dung, độ tuổi, cơ sở vật chất, sự tìm tòi chuẩn bị của giáo viên bởi vậy đòi hỏi giáo viên phải nắm vững nhiệm vụ dạy học và hết lòng yêu nghề, yêu trẻ. Câu hỏi: 1.Tại sao nói:“Âm nhạc góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của trẻ” ? 2. Hãy trình bày đặc điểm khả năng âm nhạc của trẻ ở các độ tuổi. 3. Hãy nêu nhiệm vụ và phương hướng giáo dục âm nhạc ở trường mầm non. 4. Hãy nêu và phân tích các phương pháp dạy học cơ bản. HƯỚNG DẪN TỰ HỌC Tài liệu tham khảo 1. Trần Hữu Du. Giáo dục âm nhạc trong trường mẫu giáo. NXB Giáo dục, 1983. 2. Ngô Thị Nam (chủ biên). Âm nhạc và Phương pháp giáo dục âm nhạc trong trường mầm non Hà Nội, 1994. 3. Vugoxki LX. Tâm lý học nhà trẻ. NXB KHKT Hà Nội, 1995. 11
  12. 4. Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên). Tâm lý học lứa tuổi mầm non. ĐHSP Hà Nội, 1993. 5. Đào Thanh Âm (chủ biên). Giáo dục học mầm non. Tập 1,2,3. NXB ĐHSP, 2004. 6. Phạm Thị Hoà. Giáo dục âm nhạc tập 2. NXB ĐHSP Hà Nội, 2008. 7. Hoàng Văn Yến. Nghệ thuật âm nhạc với trẻ mầm non. NXB Giáo dục, 1999. 8. Mai Tuấn Sơn. Phương pháp dạy học âm nhạc. Giáo trình đào tạo GV mầm non hệ chính quy, ĐH Vinh 2010. Kiến thức cơ bản 1. Vai trò giáo dục của âm nhạc đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ được nhìn dưới góc độ: Giáo dục thẩm mĩ, đạo đức, thể chất và trí tuệ. 2. Cá giai đoạn phát triển của trẻ từ 0 – 6 tuổi có liên quan đến hoạt động âm nhạc. - Trẻ dưới 1 tuổi - Trẻ từ 1 – 2 tuổi - Trẻ từ 2 – 3 tuổi - Trẻ từ 3 – 4 tuổi - Trẻ từ 4 – 5 tuổi - Trẻ từ 5 – 6 tuổi 3. Nhiệm vụ giáo dục âm nhạc trong trường mầm non: - Giáo dục khả năng cảm thụ âm nhạc. - Rèn luyện kỹ năng hoạt động âm nhạc. - Phát triển tính tích cực, độc lập, sáng tạo. 4. Phương pháp dạy học âm nhạc trong trường mầm non: - Phương pháp trực quan thính giác – trình bày tác phẩm. - Phương pháp dùng lời. - Phương pháp thực hành nghệ thuật. - Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Câu hỏi 1. Tại sao nói:“Âm nhạc góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của trẻ” ? Gợi ý: - Nêu những điểm nổi bật đặc trưng của nghệ thuật âm nhạc ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống con người. Có thể so sánh cách cảm thụ tác phẩm âm nhạc với một vài loại hình nghệ thuật khác như: hội hoạ, điêu khắc, văn học - Phân tích các chức năng giáo dục của âm nhạc về thẩm mỹ, đạo đức, thể chất, trí tuệ. Thông qua nội dung tác phẩm và các hoạt động âm nhạc của trẻ, lấy ví dụ minh hoạ làm sáng tỏ nhận định trên. 12
  13. 2. Hãy trình bày đặc điểm khả năng âm nhạc của trẻ ở các độ tuổi. Gợi ý: - Nêu các biểu hiện trực quan của trẻ ở các độ tuổi về khả năng nghe, cảm nhận âm thanh; các phản xạ, vận động theo âm nhạc; khả năng phát âm, hát theo - Sự phát triển của trẻ ở mỗi giai đoạn khác nhau nên cần nhấn mạnh sự khác biệt về nội dung, phương pháp giáo dục của các độ tuổi. 3. Hãy nêu nhiệm vụ và phương hướng giáo dục âm nhạc ở trường mầm non. Gợi ý: - Giáo dục âm nhạc trước hết cần tạo cho trẻ sự yêu thích âm nhạc, biết cảm thụ âm nhạc từ đó có nhu cầu hoạt động âm nhạc. - Bước đầu hình thành kĩ năng, thói quen hoạt động và thị hiếu âm nhạc cho trẻ. - Giáo dục truyền thống dân tộc qua các làn điệu dân ca, bài đồng dao, hát ru, các ca khúc mang âm hưởng dân ca 4. Hãy phân tích các phương pháp dạy học âm nhạc ở trường mầm non. Gợi ý: - Phương pháp trình bày tác phẩm (trực quan thính giác) là phương pháp được trình bày thông qua nghe, nhìn tạo sự cảm nhận cho trẻ. Dựa vào đặc điểm lứa tuổi và tính chất, thể loại tác phẩm, giáo viên chọn phương pháp thể hiện phù hợp với nhận thức của trẻ. Cho ví dụ. - Phương pháp dùng lời là phương pháp quan trọng (vì trẻ đi học khi chưa biết chữ). Có thể nêu khái niệm, câu hỏi, đặt tình huống, đàm thoại, gợi mở, giúp trẻ nhận thức và thể hiện tình cảm qua các hoạt động âm nhạc. - Phương pháp thực hành nghệ thuật là quá trình học thuộc, tập luyện thường xuyên và hệ thống các kĩ năng. Đặc điểm của trẻ là học thông qua bắt chước: bắt chước động tác, điệu bộ; hát theo cô, theo bạn. Trẻ mau nhớ nhưng chóng quên nên sau khi học phải được củng cố ôn luyện. Cho ví dụ phân tích quá trình rèn luyện cho trẻ ở từng hoạt động ca hát, nghe nhạc, vận động theo nhạc, trò chơi âm nhạc. - Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan . Đồ dùng trực quan rất đa dạng: các loại nhạc cụ có âm thanh (đàn ghi ta, sáo, trống con ) nhạc cụ trẻ em (xăc xô, organ, violon ),đạo cụ (súng, mũ, nón, bông lúa ), dụng cụ (đồ chơi, mô hình, sa bàn ),giáo cụ (con rối, thú nhồi bông, búp bê, tranh ảnh ). Sau khi phân tích ý nghĩa, tác dụng của đồ dùng trực quan, cần cho ví dụ về cách sử dụng trong từng hoạt động âm nhạc, từng tác phẩm, từng độ tuổi 13
  14. Chương II PHƯƠNG PHÁP DẠY CÁC HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG MẦM NON Giáo dục âm nhạc được thực hiện trong điều kiện có sự tiếp xúc trực tiếp của giáo viên với trẻ, sự giúp đỡ của giáo viên trong quá trình học tích cực và hoạt động âm nhạc độc lập của trẻ. Đặc điểm lứa tuổi liên quan đến mức độ phát triển âm nhạc nói chung. Từ những luận điểm chủ yếu của lí luận Mác- Lê nin về nhận thức cho thấy: Trẻ nhận thức thế giới xung quanh qua âm nhạc có hình ảnh và cảm xúc. Đặc trưng của âm nhạc là bằng âm thanh tác đông lên tri giác , gợi lên sự đồng cảm với các hình tượng nghệ thuật. Hoạt động tư duy được phản ánh trong lời nói của giáo viên ảnh hưởng đến ý thức, suy nghĩ, tưởng tượng, sự sáng tạo của trẻ. Giáo dục âm nhạc được thực hiện bằng các phương pháp tích cực thể hiện rõ trong mối quan hệ không ngừng giữa nghe, nhìn, cảm xúc, trao đổi. Vấn đề là phải đưa trẻ đến với nghệ thuật, tạo cho trẻ cảm xúc, tạo các phương tiện giúp trẻ thực hiện nghệ thuật. Trong khi tưởng tượng, trẻ có thể nghĩ ra các động tác để diễn đạt cảm xúc. Trẻ thấy mình có thể diễn tả những sở thích, ý nghĩ, ước mơ hoặc trao đổi với những người xung quanh, từ đó sẽ hứng thú xây dựng và học để có thể diễn đạt được tốt nhất trong khả năng của mình. Hoạt động âm nhạc trong trường mầm non bao gồm: - Ca hát - Vận động theo nhạc - Nghe nhạc - Trò chơi âm nhạc Căn cứ vào khả năng của trẻ ở từng độ tuổi, bài học âm nhạc sẽ được giáo viên xây dựng cấu trúc từ các hoạt động trên. Tuy nhiên, mỗi hoạt động có những đặc trưng riêng dẫn tới sự khác biệt về phương pháp. I. CA HÁT 1. Ý nghĩa giáo dục của hoạt động ca hát Hoạt động ca hát có ảnh hưởng trực tiếp đến con người bằng tác động của âm nhạc và lời ca. Sức diễn cảm của giọng hát cùng với những cử chỉ diễn xuất, nét mặt tươi tự nhiên rất thu hút trẻ. Có thể nói, bài hát là phương tiện tốt nhất để truyền tải, phản ánh những hình tượng sống động, đa dạng của cuộc sống. Nó 14
  15. khơi dậy ở trẻ những cảm xúc chân thực với cái đẹp, cái thiện và có lúc còn thuyết phục mạnh hơn bất kỳ các hình thức giáo dục khác. Từ những tháng tuổi đầu tiên, trẻ đã có những biểu hiện hưởng ứng xúc cảm với tiếng hát trong khi chưa hiểu được nội dung bài hát. Giọng hát là một nhạc cụ đầu tiên mà trẻ có được từ rất sớm. Vì vậy, hoạt động hát luôn đồng hành cùng với trẻ (lúc múa, vận động, hoạt động góc, lúc dạo chơi ). Trong khi hát, trẻ vừa thể hiện một cách tích cực những xúc động và tình cảm của mình đồng thời cũng cảm thụ âm nhạc được dễ dàng hơn. Quá trình học hát đòi hỏi trẻ hoạt động trí tuệ một cách tích cực, lắng nghe nhịp điệu, âm điệu, cách tiến hành giai điệu, sự thay đổi tiết tấu trẻ học so sánh giữa mình và các bạn (ai đúng, ai sai, ai hát, ai không hát ) Hoạt động hát có ảnh hưởng đến cơ thể trẻ: tai nghe chính xác, thanh đới mềm mại, lưu loát, hơi thở sâu, ngôn ngữ phát triển Hát tập thể theo nhóm mang lại cho trẻ niềm vui, sự giao lưu, thống nhất, hoà đồng, gắn bó Vì vậy, hát là hoạt động âm nhạc được sử dụng ở mọi cấp học: Tiểu học, Trung học cơ sở, đặc biệt là ở Trường mầm non. Hát đóng vai trò chủ yếu trong việc giải quyết các nhiệm vụ giáo dục âm nhạc, là phương tiện để thực hiện các chủ đề, tạo cơ sở phát triển toàn diện nhân cách trẻ. 2. Đặc điểm cơ quan phát âm của trẻ So với người trưởng thành, thanh quản của trẻ chỉ bằng một nửa. Các dây thanh mảnh, nhỏ, ngắn . Trẻ biết nói trước khi biết hát. Hai tuổi có thể nói sõi, có trẻ còn ngọng do vòm họng còn cứng, chưa linh hoạt, hơi thở yếu, hời hợt. Trẻ chưa điều khiển được hệ cơ thanh quản và hô hấp nên giọng yếu. Phần cộng hưởng ngực (phía dưới) ít phát triển, cộng hưởng đầu (phía trên) lại phát triển. Do đó, giọng trẻ tuy yếu nhưng lại vang. Trong quá trình giáo dục âm nhạc, hát tạo sự phối hợp giữa tai nghe và giọng: tai nghe âm thanh - giọng bắt chước. Hát có chuẩn xác hay không là do tai nghe kiểm tra, thẩm định. Sự hỗ trợ của người lớn giúp trẻ tái hiện chính xác những gì nghe được trong phạm vi có thể. Âm vực giọng của trẻ (gồm toàn bộ âm thanh từ thấp đến cao nhất) không rộng và cũng khác nhau theo độ tuổi: Trẻ 2 – 3 t Trẻ 3 – 4 t Trẻ 4 – 5 t Trẻ 5 – 6 t Giáo viên cần phải nắm được đặc điểm, âm vưc giọng của từng độ tuổi, từng trẻ để có kế hoạch tập luyện, củng cố và bảo vệ giọng hát, tai nghe cho trẻ. 15
  16. 3. Yêu cầu cần đạt khi dạy trẻ hát (kỹ năng ca hát) Yêu cầu cơ bản là giúp trẻ hát tự nhiên, chuẩn xác, diễn cảm các bài có nội dung phù hợp với độ tuổi trên cơ sở có cảm xúc và biết cách hát các âm cao, thấp, dài, ngắn, ngân, ngắt nẩy, phát âm rõ, diễn cảm. Như vậy, giáo viên phải giúp trẻ hiểu bài hát từ nội dung lời ca đến tính chất âm nhạc để thể hiện: bài hành khúc nhấn mạnh vai trò của tiết tấu, thể hiện tính chất bước hành quân rắn rỏi ; bài vũ khúc vui vẻ, nhịp nhàng ; bài hát ru chậm rãi, du dương. Để quá trình dạy hát đạt kết quả tốt, giáo viên phải chú ý rèn luyện cho trẻ các kỹ năng ca hát: tư thế, hơi thở, phát âm rõ lời, chính xác, đồng đều, hoà giọng (khi hát tập thể). Tư thế hát Trong ca hát thường có ba tư thế: đứng, ngồi hoặc đi lại. - Đứng hát: Khi đứng hát phải biết tạo cho mình phong thái đẹp, người thẳng tự nhiên, trọng lượng rơi đều hai chân ở tư thế hơi mở, cơ thể thả lỏng, thoải mái để dễ lắc lư, xoay chuyển. Nét mặt tươi, mắt nhìn phía trước, tầm mắt không thấp cũng không cao quá. Hai tay thả xuôi theo người một cách tự nhiên để hít thở sâu và dễ làm động tác diễn xuất, minh hoạ. Không nên cho trẻ co tay ngang trước bụng vì sẽ làm mất tính hồn nhiên, ngây thơ của trẻ. - Ngồi hát: Khi dạy trẻ hát, giáo viên cần quan tâm đến tư thế ngồi cho trẻ. Tư thế đẹp là ngồi thẳng, lưng thẳng không tựa vào ghế, không nghiêng người nâng vai, không gập bụng để dễ hít thở sâu. Hai chân co, tay đặt lên đùi tự nhiên, nét mặt tươi, mắt nhìn phía trước, đầu thẳng, cổ thả lỏng để có thể lắc lư nhẹ nhàng. Giáo viên cần lưu ý : không yêu cầu trẻ thể hiện tình cảm bài hát bằng cách nghiêng đầu sang phải, sang trái hoặc gật đầu trước sau theo nhịp điệu bài một cách nặng nề, máy móc, cũng không để trẻ ngồi hát trong một tư thế quá lâu. - Hát kết hợp đi lại: Trong quá trình học hát, tập tiết mục, chơi trò chơi âm nhạc hoặc giờ hoạt động chung, trẻ có thể phải di chuyển, vừa đi vừa hát. Vì phải kết hợp nhiều giác quan nên đòi hỏi phải có tư thế đúng, đẹp (giống như đứng hát). Khi xoay chuyển, nhún nhảy hoặc lắc lư, cần theo trọng âm, nhịp điệu của bài hát. Thông thường nên bước vào phách mạnh, đầu nhịp, bước vào đầu câu hát, câu nhạc hoặc đầu đoạn nhạc. Cần bao quát không gian lớp học, sân khấu, sàn diễn, chú ý hướng đi và khoảng cách cho phù hợp. Ví dụ: Trẻ vừa bước chân vừa hát bài Trời nắng, trời mưa (Đặng Nhất Mai) trong trò chơi Ai nhanh chân : “Trời nắng, trời nắng, thỏ đi tắm nắng ” Khi dạy trẻ hát, chúng ta cần nắm vững những yêu cầu cần thiết về tư thế 16
  17. trong ca hát. Ngoài ra để có được âm thanh đúng, đẹp, không chênh phô thì phải biết hít thở sâu, quai hàm lỏng, môi mềm mại, miệng mở nhẹ nhàng, to, tròn nhưng không quá rộng. Hít thở Cách hít thở đúng trong ca hát là hít nhanh, sâu vào ngực và bụng một lượng hơi đầy đặn (không quá nhiều) rồi đẩy ra từ từ để hát hết câu hát (khoảng một tiết nhạc) một cách thoải maí, nhẹ nhàng, không hổn hển. Dạy trẻ hít thở, lấy hơi ngay trong quá trình dạy hát (không tập riêng bài hít thở). Giáo viên phải theo dõi, điều khiển khéo léo bằng nét mặt, tư thế hoặc đôi tay để trẻ dễ dàng lấy hơi vào đầu, cuối câu hát. Không lấy giữa các từ kép, từ láy Như vậy, để hát câu ngắn âm thanh lưu loát (Nhóm nhà trẻ), trẻ chỉ cần hít thở nhẹ nhàng. Có thể vận dụng trong các bài: “Tập tầm vông” (Đặng Nhất Mai), “Mùa hè đến” (Nguyễn thị Nhung), “Em tập lái ô tô” (Nguyễn Văn Tý) Hát câu dài, ngân dài (Nhóm mẫu giáo), cần hít thở sâu vào ngực, vào bụng. Vận dụng trong bài: “Rước đèn” (Đỗ Mạnh Thường), “Chim mẹ chim con” (Đặng Nhất Mai), “Cháu đi mẫu giáo” (Phạm Thành Hưng), “Trường chúng cháu là trường mầm non” (Phạm Tuyên) Ngoài ra, ở nhóm mẫu giao có thể tập kết hợp hơi thở một cách linh hoạt: Đẩy mạnh hơi khi hát bài hành khúc, nhảy múa. Ngắt hơi gọn gàng khi hát bài dí dỏm, nảy âm. Hít thở sâu, đẩy ra từ từ chậm rãi khi hát những âm dài, bài trữ tình, hát ru. Hát rõ lời Hát rõ lời là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu trong ca hát, góp phần truyền đạt nội dung, hình tượng, tình cảm bài hát một cách hiệu quả. Những nguyên tắc khi phát âm lời bài hát có liên quan chặt chẽ đến sự vận động của sáu thanh điệu: không, huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã. trong ngữ âm tiếng Việt. Trẻ ở nhóm nhà trẻ, mẫu giáo bé đang tập nói, tai nghe chưa tốt, vòm họng, lưỡi, môi chưa được mềm mại nên thường hát sai các từ : “anh” hát thành “ăn”, “cánh” hát thành “cắn”, “nhanh nhanh” thành “nhăn nhăn”, “ngựa gỗ” thành “ngựa gố” Khi trẻ phát âm sai thanh điệu hoặc sai lời ca, cần phát hiện chính xác chỗ sai, nguyên nhân sai (không chú ý, tai nghe kém hoặc hơi thở yếu) rồi giáo viên có thể đọc lời rõ ràng, chậm, diễn cảm, để trẻ nghe và hát rõ, đúng, rành mạch. Khi trẻ phát âm đúng, có thể đọc (hát) nhanh hơn theo tiết tấu, nhịp độ bài hát. Tập cho trẻ hát đúng, rõ lời nhưng vẫn phải giữ được nét mặt tươi tự nhiên và sự mềm mại, duyên dáng của của giọng hát. Hát chính xác Hát chính xác là hát đúng cao độ, trường độ, âm lượng to nhỏ, đúng âm 17
  18. điệu, nhịp điệu, giọng điệu, lời ca và thuộc bài hát. Hát đúng, chính xác phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tư thế, hơi thở, tai nghe, sự linh hoạt của cơ quan phát âm nhưng việc chọn bài hát vừa sức, phù hợp với âm vực giọng cho từng trẻ, ở từng nhóm tuổi cũng rất quan trọng. Các biện pháp hỗ trợ giúp trẻ hát chính xác : - Tăng cường cho trẻ nghe hát (nghe cô hát, bạn hát, băng đĩa, loa đài của nhà trường trong và ngoài giờ học) - Tạo điều kiện cho trẻ hát đơn hoặc theo nhóm nhỏ (2 đến 5 cháu). - Xếp những trẻ hay hát sai ngồi cạnh cô hoặc ngồi xen các bạn hát đúng. - Khen và động viên trẻ, tránh chê trách hoặc nói nặng lời - Hát chính xác còn phụ thuộc vào môi trường, điều kiện sống, sự quan tâm chăm sóc của từng gia đình. Hát đồng đều, hoà giọng Khi hát tập thể, yêu cầu các giọng hát phải có âm lượng đồng đều, cường độ tương đương nhau. Trẻ phải biết hoà giọng mình trong giọng hát chung của các bạn, không hát quá to hoặc quá nhỏ. Khi dạy hát, nếu giáo viên không khéo léo, tinh tế bao quát lớp mà chỉ động viên một cách chung chung “các con cần hát hay hơn nữa ” thì một số trẻ sẽ phấn khích và sẽ “hô”, “hét”, tiết học căng thẳng, làm trẻ mệt mỏi. dẫn đến mệt mỏi, khản giọng . Một số biện pháp giúp trẻ hát đồng đều, hoà giọng : - Trước khi hát cần thu hút sự tập trung chú ý của trẻ. - Giáo viên đánh đàn hoặc hát lấy giọng rõ ràng, đúng âm vực giọng trẻ. - Làm động tác chỉ huy, bắt vào một cách mạch lạc, gọn gàng. - Có thể làm động tác lấy hơi (miệng mở, hít hơi vào, khẽ nhấc tay lên) rồihát cùng với trẻ, nên chú ý động viên, khuyến khích những trẻ hát yếu, hát nhỏ. - Trong khi trẻ hát, giáo viên có thể đánh nhịp, gõ phách, lắc lư theo nhịp điệu bài hát. Chú ý chỗ vào đầu (bài có đà, không có đà), đường nét giai điệu (có nốt ngân dài hoặc dấu lặng), khi tăng hoặc giảm cường độ âm thanh, thay đổi tiết tấu, nhịp độ của bài hát và âm kết thúc. Tổ chức âm thanh Để có âm thanh đúng, đẹp cần phải biết tổ chức, phối hợp các hoạt động của cơ quan phát thanh như hàm dưới, hàm ếch mềm, môi, lưỡi. Luyện tập thường xuyên cách mở miệng, phát âm, nhả chữ, luyện thanh, trẻ sẽ biết điều khiển các cơ quan phát thanh, biết hát bằng giọng tự nhiên, âm thanh lưu loát, đầy đặn, nhẹ nhàng, trong sáng, có độ vang. Cần tránh sự la hét, căng thẳng trong quá trình ca hát. 18
  19. 4. Lựa chọn bài cho trẻ hát Việc chọn bài để dạy trẻ hát có ý nghĩa quan trọng vì nội dung của bản nhạc nói chung, bài hát nói riêng ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ, tình cảm, nhận thức và sự phát triển nhân cách trẻ (như phần trên chúng tôi đã nêu). Chính vì vậy, trong thời gian qua có rất nhiều nhạc sỹ, nhà giáo đã dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu, sáng tác, tuyển chọn để cho ra đời nhiều đầu sách bàn về phương pháp dạy học và bài hát cho nhà trẻ mẫu giáo với số lượng lên tới hàng trăm bài. Tuy vậy, theo tinh thần đổi mới trong giáo dục âm nhạc ở trường Mầm non, từ những tập sách bài hát, người giáo viên lại phải biết lựa chọn các bài (trong và ngoài chương trình) có nội dung phù hợp với các chủ đề, chủ điểm, độ tuổi, ở từng vùng, từng địa phương. Đó là những ca khúc được viết ở giọng trưởng từ không đến 1 dấu hoá có tính chất trong sáng, ca ngợi (kể cả những bài sáng tác của địa phương mà trẻ yêu thích). Bài lấy chất liệu từ thang 5 âm dân tộc (không dùng quãng nửa cung). Bài dân ca các vùng miền giai điệu hay, dễ nhớ và một số bài hát nước ngoài hợp độ tuổi, chủ đề. Về âm nhạc: Các bài hát phải có hình tượng rõ ràng (thông qua tiết tấu, nhịp điệu và sự “hỗ trợ” của lời ca), giai điệu đơn giản (tiến hành liền bậc hoặc nhảy quãng hẹp, âm vực trong phạm vi quãng 8 thứ nhất), tiết tấu dễ nhớ (có âm hình, sử dụng nốt đen, đơn, lặng đen, lặng đơn; trẻ mẫu giáo lớn có thể hát chấm dôi, móc kép), tính chất ca ngợi trong sáng (điệu thức trưởng; điệu Bắc, Xuân), nhịp điệu khoẻ khoắn dễ hát, dễ vận động (nhịp 2/4 hoặc 3/4). Về cấu trúc: Độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo bé nên chọn bài từ 8 đến 12 nhịp, lớp nhỡ chọn bài từ 12 đến 16 nhịp, lớp lớn chon bài từ 16 đến 24 nhịp. Chú ý chọn những bài có cấu trúc cân phương (số nhịp các câu bằng nhau), ngắn gọn (thể 1 đoạn đơn, 2 câu); câu, tiết rõ ràng (dễ ngắt nghỉ, lấy hơi) Về lời ca: Các bài có nội dung theo các chủ đề, chủ điểm giáo dục: gia đình, bản thân, trường mầm non, quê hương đất nước, giao thông, thế giới động vật, thực vật Ngôn ngữ sử dụng trong bài phải hết sức đơn giản, dễ hiểu, lời ca đề cập đến những sự vật hiện tượng thiên nhiên, xã hội gần gũi với trẻ, cuộc sống ở trường Mầm non, trong gia đình. Ở độ tuổi nhà trẻ, mẫu giáo bé chỉ nên dùng bài hát có một lời, mẫu giáo nhỡ, lớn có thể dùng bài hát hai lời ca. Để có khả năng nhìn nhận, đánh giá, thẩm định các nhạc phẩm, trước hết 19
  20. đòi hỏi người giáo viên phải nắm chắc kiến thức âm nhạc. Hiểu biết một cách sâu sắc về các yếu tố cấu thành tác phẩm: giọng điệu, nhịp điệu, giai điệu, tiết tấu, hình thức, thể loại, thủ pháp xây dựng tác phẩm và cái nhìn toàn diện về lời ca: nội dung, đề tài, hình tượng, cách sử dụng ca từ, lối ví von so sánh của tác giả 5. Các bước tiến hành dạy hát Ở loại tiết dạy hát là trọng tâm thì rèn luyện kỹ năng hát là yếu tố cơ bản. Để tiết dạy đạt hiệu quả và tạo được sự hứng thú cho trẻ, giáo viên nên tiến hành theo ba bước : - Gíơi thiệu - Dạy hát - Củng cố Có thể tổ chức và thực hiện các bước theo những nội dung sau: a. Giới thiệu bài hát Trước hết cô dẫn dắt trẻ vào nội dung chủ đề bằng cách trò chuyện, đọc thơ, xem tranh, nêu câu đố cho trẻ kể tên các bài hát viết về chủ đề, cô gợi ý (xướng âm “la”, đọc lời ca ) để trẻ biết bài sắp học. Cần cho trẻ làm quen bài hát một cách toàn diện: tên bài, tên tác giả, hoàn cảnh ra đời (nếu có), xuất xứ vùng miền (nếu là bài hát dân ca), tính chất, nội dung, đề tài, hình tượng âm nhạc và nghe trọn vẹn bài hát. - Đối với các cháu nhà trẻ, mẫu giáo bé: Giáo viên dùng lời ngắn gọn để hướng trẻ đến với nội dung, tính chất của bài và có thể đọc vài câu đồng dao hoặc lời bài hát kết hợp với các phương tiện đồ chơi (Búp bê, con rối, gà, vịt, chim, thỏ, thú nhồi bông, mũ đính sao vàng), tranh ảnh (dùng một số tranh vẽ, ảnh chụp phóng to) gắn với nội dung bài hát. Đối với các cháu mẫu giáo nhỡ, lớn: Giáo viên kể một cách sinh động, có hình ảnh về bài hát, đặt câu hỏi để dẫn dắt trẻ đến với nội dung bài. Có thể đọc lời bài hát hoặc đọc một vài khổ thơ ngắn, dễ hiểu và kết hợp với phương tiện trực quan khác như mô hình, sa bàn, máy tính để giới thiệu một số hình ảnh gắn với nội dung, chủ đề bài dạy. Kết hợp lời nói và đồ dùng trực quan để giới thiệu cho trẻ nắm được bài sắp học rất phong phú và đa dạng. Lời nói của cô phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và truyền cảm: có thể hạ thấp, hoặc nâng cao giọng (cao độ), có thể nói nhanh, chậm hoặc kéo dài (trường độ, tiết tấu) hoặc có thể nhấn mạnh (cường độ) kết hợp điệu bộ (tay, nét mặt ) để tạo sự chú ý của trẻ. Tuy nhiên cũng không quá lạm dụng để giữ âm sắc giọng nói, tình cảm và sự gần gũi của trẻ đối với người “mẹ hiền”. Tuỳ tính chất bài hát, thể loại tác phẩm và nhóm trẻ để lựa chọn, sử 20
  21. dụng phương pháp cho phù hợp. Cô không nên giải thích, thuyết trình quá nhiều mà nên đặt câu hỏi, kết hợp với phương pháp tri giác, gợi ý để cho trẻ tự nói lên suy nghĩ của mình (lấy trẻ làm trung tâm). Hát mẫu: Cô trình bày bài hát một cách đầy đủ, trọn vẹn để trẻ nghe toàn bộ giai điệu và lời ca. Cô phải hát đúng, hát rõ lời, hát hay để thu hút sự chú ý và gợi cho trẻ khả năng tri giác trọn vẹn bài hát, nhằm tạo cảm xúc, lôi cuốn trẻ vào nội dung, hình tượng của tác phẩm. Thường hát mẫu hai lần. Lần một (hát cho trẻ nghe): Cô ngồi gần trẻ, nét mặt vui tươi, ánh mắt thân thiện, hát kết hợp lắc lư nhẹ nhàng và làm một vài động tác đưa tay mềm mại ở biên độ hẹp (biểu cảm). Nếu sử dụng nhạc cụ đệm hát (cô tự đệm hoặc hát cùng bộ nhớ đã ghi sẵn trong đàn organ, hát cùng với phần đệm làm trên đĩa mềm) thì chỉ cần âm lượng nhỏ để trẻ nghe rõ lời ca, nội dung, đường nét giai điệu. Lần hai (biểu diễn cho trẻ xem): Cô nên cho trẻ về chỗ ngồi để tạo một khoảng cách cần thiết về không gian. Cô biểu diễn bài hát với tình cảm trong sáng, tự nhiên, giọng hát vang, có sức truyền cảm, kết hợp động tác minh hoạ, nhún nhảy, đưa tay nhẹ nhàng, biên độ rộng (diễn xuất). Âm lượng đàn đệm cho lần hai cần lớn hơn lần một để trẻ có thể “nghe thấy” hiệu quả của sự hoà hợp giữa lời ca, giai điệu và hoà âm phần đệm của đàn. Nếu có điều kiện và thời gian, giáo viên nên thay trang phục phù hợp (áo dài, áo tứ thân, áo bà ba ), sử dụng đạo cụ (nón lá, nón quai thao ) và cho trẻ múa phụ hoạ (cô múa cùng với trẻ) nhằm khắc hoạ hình tượng tác phẩm, tạo hứng thú học tập cho trẻ. (giờ hoạt động chung có 2 NDTT: Hát và vận động, bước làm quen với bài hát, cô không hát mẫu mà dẫn dắt, gợi ý để trẻ nhận biết tên bài). Các nội dung của bước làm quen có thể hoán vị, đổi chỗ cho nhau (giới thiệu bài rồi hát, nhưng cũng có thể hát rồi giới thiệu), cần căn cứ vào thói quen, sở thích, khả năng của trẻ, năng lực của giáo viên, điều kiện của nhà trường để chọn cách tiến hành cho hợp lý. Hệ thống câu hỏi phải phù hợp nhóm tuổi và phải để cho nhiều lượt trẻ được trình bày, trải nghiệm. Ngoài ra, ở bước làm quen cũng có thể tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi nhỏ (không phải là trò chơi trong NDKH) và hát một đoạn hoặc một bài ngắn (không phải là bài của NDC) có nội dung phù hợp, nhằm nhấn mạnh chủ đề và tạo không khí tự nhiên, thoải mái, vui tươi cho tiết học. Đặc điểm của trẻ mầm non là chưa biết chữ nên phương pháp dạy hát chung cho các nhóm tuổi là “truyền khẩu”, tức trẻ hát theo cô cho đến khi trẻ tự hát được. Tuỳ vào độ tuổi và mức độ làm quen bài hát của trẻ để chọn cách dạy hát cả bài hay dạy hát từng câu. 21
  22. b. Dạy hát cả bài (bài trẻ đã được làm quen) Đối với những bài hát ngắn, giai điệu đơn giản, tiết tấu nhắc lại, lời ca dễ nhớ, trẻ đã biết (đã được làm quen mọi lúc mọi nơi) thì nên áp dụng phương pháp dạy hát cả bài, tức cô lấy giọng rồi cho trẻ hát từ đầu đến hết bài mới dừng lại (không dừng sau từng câu), khi trẻ nắm được bài (sau lần hát thứ nhất) mới tiến hành sửa sai. Cách lấy giọng Cô đưa tay làm động tác chuẩn bị rồi lấy giọng (còn gọi là bắt giọng), hát câu đầu của bài (khoảng hai nhịp - nếu bài bắt đầu bằng nhịp đủ; khoảng một nhịp - nếu bài bắt đầu bằng nhịp thiếu) cho trẻ nghe đồng thời làm động tác bắt vào (đánh hai tay và khẽ gật đầu) và hát cùng với trẻ cả bài. Bắt đầu dạy trẻ hát, không nên cho trẻ hát cùng với nhạc đệm để trẻ nghe rõ lời ca và giai điệu. Để tránh mất thời gian và sự rườm rà trong khi dạy hát, cô có thể lấy giọng theo kinh nghiệm, cảm giác về độ cao chứ không nên phụ thuộc vào đàn. Cao độ giọng mà cô hát phải phù hợp với âm vực giọng của trẻ, nếu hát thấp, âm thanh sẽ tối, xỉn; cao quá âm thanh sẽ chói, căng thẳng. Trong lần hát thứ nhất, nếu phát hiện có trẻ hát sai, cô vẫn cho hát tiếp (không dừng lại). Cô chưa nên hỏi tên tác phẩm, tác giả: “các con vừa hát bài hát gì, của ai” và cũng chưa nên vội vàng khen trẻ theo thói quen hình thức: “các con hát rất hay” hoặc yêu cầu một cách chung chung, khó hiểu: “các con hãy hát hay hơn nữa nào” Sau khi nghe trẻ hát, giáo viên nên có lời nhận xét chính xác, cụ thể về lời ca, âm nhạc hoặc về âm lượng để tiến hành sửa sai , luyện kỹ năng cho trẻ, trên tinh thần động viên để trẻ hào hứng học tập. Thực tế cho thấy rằng, nếu giáo viên nhận xét chỗ sai không chính xác thì sẽ xẩy ra hiện tượng: không sai cũng sửa hoặc sửa theo dự kiến của cô. Cách bắt nhịp Trong quá trình dạy hát ở trường Mầm non, giáo viên thường phải bắt nhịp (tay đánh nhịp, miệng bắt giọng). Động tác đánh nhịp (còn gọi là chỉ huy) phải dứt khoát, mạch lạc, đường nét rõ ràng. Tư thế của cô phải đẹp, đàng hoàng, tự tin để thu hút sự chú ý và “cảm hoá” trẻ. Đôi tay là phương tiện chủ yếu để điều khiển trẻ hát nên phải đánh đúng hướng, đúng trọng âm, phách nhẹ và cần chú ý những bài có nhịp thiếu (nhịp lấy đà). Muốn cho trẻ dễ bắt vào, cô phải “tạo đà” một cách gọn gàng dễ hiểu, như mở đầu bằng “phách lấy hơi” thì phải đồng thời “lấy hơi” (miệng hơi mở, tay nâng cao hơn, khẽ gật đầu) rồi hát cùng với trẻ. Ở thời gian đầu tiếp xúc với trẻ, cô cần quy ước về tư thế, động tác, cách hát: 22
  23. - Cô đưa hai tay về phía trước, lòng bàn tay hướng ra trước: Trẻ chú ý,im lặng. - Một tay cô để yên, tay kia đánh: Cô hát (trẻ chuẩn bị hát). - Hai tay cô cùng đánh: Cả lớp hát. - Một tay cô đánh phía bên nào thì bên đó hát hoặc đưa ra từ từ rồi để yên là ngân dài . - Tay cô đánh thấp: Hát nhỏ; đánh ngang ngực: Hát vừa; đánh cao: Hát to. - Cô đánh chậm: Hát chậm, đánh nhanh dần thì phải hát nhanh dần. - Khi cô đưa hai tay từ trong ra ngoài, lòng bàn tay hướng ra phía trước thì dừng lại (kết thúc). Khi đánh nhịp, cô giáo phải chú ý đến loại nhịp và những bài có nhịp lấy đà (nhịp thiếu ở đầu). Luyện kỹ năng Đối với những bài trẻ đã được làm quen, cô giáo có thể tiến hành sửa sai (nếu có) và luyện các kỹ năng hát ngay sau lần hát thứ nhất: hát rõ lời, hát chính xác, đúng âm điệu, hát ngân dài, thể hiện tính chất của bài hát. * Trẻ hát sai lời ca: + Hát sai “âm”: Có những ca từ giống nhau về “thanh”, “vần” nhưng khác nhau về “âm”. Ví dụ: “Mẹ và cô đấy hai mẹ hiền” trong bài Cô và mẹ (Nhạc và lời: Phạm Tuyên), trẻ hát thành “Mẹ và cô mấy ai mẹ hiền”. + Hát sai “tiếng”: - Hát theo thói quen do lời ca khó phát âm: Ví dụ: “bướm vờn hoa lượn bay trong nắng” trong bài Mùa hè đến (Nguyễn Thị Nhung), trẻ hát thành “bướm lượn hoa lượn bay trong nắng”. - Hát theo sự liên tưởng của trẻ: Ví dụ: “khi em giơ tay lên là bướm xinh bay múa” trong bài Múa cho mẹ xem (Nhạc và lời: Xuân Giao), trẻ hát thành “ bướm xinh bay mất”. Cô giáo có thể đọc lời ca hoặc hát theo âm hình tiết tấu một cách chậm rãi, diễn cảm (chỉ đọc chậm câu mà trẻ hát sai), trẻ hát theo cô một đến hai lần rồi hát lại cả bài. * Trẻ hát sai cao độ: Trong ca khúc (bài hát) giai điệu không được tách rời lời ca, giai đỉệu và lời ca luôn phải “đồng hành”, “tôn vinh” nhau. Khi hai âm cùng cao độ thì hai ca từ thường phải cùng thanh, hai ca từ khác thanh thì phải khác cao độ Một bài hát hay thì phải có giai điệu đẹp và phù hợp với dấu giọng của lời ca, khi hát lên từng ca từ phải rõ ràng, đúng nghĩa. Thế nhưng, trong thực tế nhiều bài hát chưa 23
  24. thực sự có được điều đó, giữa giai điệu và lời ca thiếu đi sự đồng nhất, ăn khớp với nhau. Bởi vậy khi học hát, trẻ thường hát theo lời ca (theo thanh) mà không chú ý đến cao độ của bài nên sai cao độ. Ví dụ: - Bài Con gà trống (Nhạc và lời: Tân Huyền): Trẻ hát thành: - Bài Con cò cánh trắng (Nhạc và lời: Xuân Giao): Trẻ hát thành: Cô giáo hát lại (chỗ sai) hoặc xướng âm “la la ” ở nhịp độ chậm, kết hợp đưa bàn tay lên xuống để diễn đạt độ cao hoặc đánh đàn rõ từng âm cho trẻ nghe sau đó cho trẻ hát lại. * Trẻ hát sai trường độ (sai tiết tấu): + Từ hai nốt đơn, trẻ hát thành đơn chấm dôi và kép (hát giật): Ví dụ: - Bài Em đi mẫu giáo (Nhạc và lời: Dương Minh Viên): Trẻ hát thành: - Bài Nhớ ơn Bác (Nhạc và lời: Phan Huỳnh Điểu): “A có Bác Hồ đời em được ấm no”. - Bài Chú ếch con (Nhạc và lời: Phan Nhân).“Kìa chú là chú ếch con có hai là hai mắt tròn” 24
  25. Cô hát lại cho trẻ nghe và thể hiện sự, mềm mại, thiết tha, liền âm trong câu hát, kết hợp với động tác đánh tay lên xuống đều đặn, trẻ hát theo cô. + Từ nốt đơn chấm dôi và móc kép (âm trước dài, âm sau ngắn), trẻ hát thành hai nốt đơn (ngược lại ví dụ trên). Ví dụ: - “Nào đưa bàn tay, trực nhật khám ngay” trong bài Khám tay (Nhạc và lời: Đào Việt Hưng). - “tình tình đây mấy cây đàn, cùng hoà lên vang lừng vang” trong bài Múa đàn (Dân ca Thái, lời Việt Anh). - “Người đi đầu là chú lái tàu” trong bài Đoàn tàu nhỏ xíu (Nhạc và lời: Mộng Lân) - “A mùa xuân đẹp quá, bạn khắp nơi mau cùng lại đây chơi” trong bài Cùng múa hát mừng xuân (Nhạc và lời: Hoàng Hà). Nốt đơn chấm dôi thường đi liền với nốt kép (móc giật) tạo nên sự hồ hởi, chắc khỏe cho giai điệu. Bởi vậy, cô giáo cần dạy trẻ hát đúng trường độ, cách bật lưỡi để thể hiện âm thanh ngắt nẩy, đầy đặn. + Từ nốt đen, trẻ hát thành nốt trắng (ngân thừa một phách): Ví dụ: Trong bài Một con vịt (Kim Duyên): Trẻ hát thành: Ở ví dụ trên, chữ “vịt” là nốt đen, thuộc phách mạnh, chữ “xoè ra” là hai nốt đơn, thuộc phách nhẹ. Khi tập cho trẻ hát, cô giáo có thể hát chậm kết hợp vỗ tay theo phách: chữ “vịt” hai bàn tay áp vào nhau, chữ “xoè” tay phải thụt về nửa bàn, cho trẻ nhìn và hát theo. * Tập hát ngân (hát kéo dài âm thanh): Cuối câu hát thường là những âm có trường độ lớn, để giúp trẻ hát ngân dài chính xác, cô có thể kết hợp động tác tay để so sánh trực quan. Ví dụ: - “Gió đung đưa cành, bướm nhỏ vờn quanh kìa là lá xanh xanh” trong bài Lá xanh (Nhạc và lời: Thái Cơ). - “Màu hoa tím, màu hoa đỏ, màu hoa vàng, nhiều hoa xinh thế” trong bài 25
  26. Màu hoa (Nhạc và lời: Hồng Đăng). Chữ “xanh” và chữ “thế” ở ví dụ trên phải ngân 3 phách, cô đưa tay từ từ sang ngang (không đánh nhịp) cho đến khi ngân đủ 3 phách. Trẻ vừa nghe hát, vừa nhìn tay cô, sẽ hiểu rằng chữ “xanh” và chữ “thế” phải hát ngân mà không được ngắt. * Tập thể hiện tính chất bài hát. Xét về nội dung và tính chất âm nhạc, bài hát ở độ tuổi NTMG (không kể bài hát cho cháu nghe) có thể phân thành hai nhóm cơ bản: nhóm có tính hoạt bát, vui nhộn, ngộ nghĩnh và nhóm có tính ca ngợi, đằm thắm, du dương. + Với những bài vui nhộn, ngộ nghĩnh cần phải hát từng tiếng chắc khoẻ, rõ ràng, âm thanh đầy đặn và hơi ngắt nẩy giọng (staccato). Tuy nhiên vẫn phải giữ được sự mượt mà, trong sáng cho lời ca. Ví dụ: - “Trời nắng, trời nắng” hoặc “vươn vai, vươn vai” trong bài Trời nắng trời mưa (Nhạc và lời: Đặng Nhất Mai). - “Po pí po po po” hoặc “po pí po, tôi lái xe” trong bài Lái ô tô (Đoàn Phi) - “Pí pò, pí po, em tập lái ô tô” trong bài Em tập lái ô tô (Nhạc và lời: Nguyễn Văn Tý). - “Xịch xịch xịch, một đoàn tàu nhỏ tý xíu” trong bài Đoàn tàu nhỏ xíu (Nhạc và lời: Mộng Lân). - “Thùng thình thùng thình trống rộn ràng ngoài đình” trong bài Đêm trung thu (Nhạc và lời: Phùng Như Thạch). + Với những bài du dương, đằm thắm phải hát liền giọng, âm thanh thiết tha, mỗi câu hát thường hát trong một hơi (Legato). Ví dụ: “Con cò cánh trắng, bay vào giấc mơ” trong bài Con cò cánh trắng (Nhạc và lời: Xuân Giao). - “Hoa nào mẹ yêu nhất, hoa nào thơm ngát hương” trong bài Hoa bé ngoan (Nhạc và lời: Hoàng văn Yến). - “Sáng hôm nay trời đã nắng lên rồi, cầm tay nhau chúng ta ra vườn chơi” trong bài Mùa xuân đến rồi (Nhạc và lời: Phạm Thị Sửu). Sau khi sửa sai và tập cho trẻ các kỹ năng hát, giáo viên cần thay đổi tư thế cho trẻ bằng cách cho cả lớp cùng đứng dậy hát có nhạc đệm và vận động theo nhịp điệu của bài. Tùy vào thực tế của trẻ (thuộc, hát đúng, hứng thú) mà cô có thể cho hát cả bài thêm một đến hai lần rồi hỏi tên tác giả, tác phẩm, cô nhận xét và khen trẻ. Hát nâng cao (thi đua tổ, nhóm) Bài hát trẻ đã biết nên chúng ta không dạy từng câu, không dành nhiều thời gian cho việc sửa sai mà cho trẻ hát theo tổ, nhóm luân phiên với một trong 26
  27. các hình thức: nối tiếp, to nhỏ, đối đáp, hoặc nhanh chậm (giống hình thức hát đồng ca có bè, hợp xướng thiếu nhi đơn giản) để trẻ được nâng cao các kỹ năng ca hát. Biết cách dừng lại hoặc hòa giọng mình đúng lúc, đồng thời trẻ được nghỉ ngơi, quan sát và đánh giá bạn. Để tiến hành hát nâng cao đạt hiệu quả, giáo viên phải chuẩn bị trước một số nội dung: chia câu hát, dự kiến hình thức hát, động tác đánh nhịp (chú ý những bài có đà), dự kiến đặt tên các tổ, + Động tác đánh nhịp: Động tác phải dứt khoát, rõ ràng, mềm mại, có thể đánh rộng, đánh hẹp hoặc thu gọn về trước ngực. Tư thế đánh phải đẹp, tự tin, cơ thể thoải mái để dễ đánh bên nọ, bên kia. + Chia câu hát: Giáo viên phải căn cứ vào cấu trúc của bài để chia câu hát: - Loại bài có 3 tiết nhạc: Gà trống, mèo con và cún con (Nhạc và lời: Thế Vinh), Nhớ lời cô dặn (Nhạc và lời: Hồng Ngọc) chia thành 3 câu hát. - Loại bài có 4 tiết nhạc: Đi trên vỉa hè bên phải (Nhạc và lời: Nguyễn Thị Thanh), Sắp đến tết rồi (Nhạc và lời: Hoàng Vân) chia thành 4 câu hát. - Loại bài có 5 tiết nhạc: Cá vàng bơi (Nhạc và lời: Hà Hải), Cùng múa hát mừng xuân (Nhạc và lời: Hoàng Hà) chia thành 5 câu hát. - Loại bài có 6 tiết nhạc: Múa với bạn Tây Nguyên (Nhạc và lời: Phạm Tuyên), Em đi chơi thuyền (Nhạc& lời: Trần Kiết Tường) chia thành 6 câu hát. + Đặt tên tổ: Để nhấn mạnh chủ đề, chủ điểm có thể đặt cho mỗi tổ một tên gọi riêng, ví dụ: chủ đề thế giới động vật: “sóc nâu”, “gấu xám”, “thỏ trắng”; các con vật sống trong gia đình: “gà trống”, “mèo con”, “cún con”; các loại côn trùng: “ếch con”, “ong vàng”, “bướm trắng”; chủ đề thực vật, có thể đặt tên các loài hoa: “mào gà”, “cúc vàng”, “hoa cải”. Với những chủ đề khác: Gia đình, bản thân, trường mầm non cũng có thể gọi theo cách trên nhằm giáo dục trẻ tình yêu thương và biết bảo vệ thiên nhiên, môi trường. + Hình thức hát: Giáo viên phải nắm được khái niệm, sự khác nhau cơ bản giữa các hình thức hát nâng cao và trong một lần dạy hát chỉ chọn một hình thức thì mới tạo được hiệu quả và hứng thú cho trẻ. *Hát nối tiếp: là hát phối hợp giữa 3 tổ (3 bè), mỗi tổ hát một câu, nối tiếp nhau thành cả bàì. Trước khi cho trẻ hát cô cần nhắc lại quy ước về động tác, cách hát để trẻ nhớ: “cô đánh phía bên nào thì tổ đó hát ” Ví dụ: Dạy bài Một con vịt (Nhạc và lời: Kim Duyên): Chia lớp thành 3 tổ (3bè), đứng theo ghế ngồi. - Câu 1: “một con vịt hai cái cánh” cô đánh tay phải (chếch sang bên phải): tổ gà trống hát. - Câu 2:“nó kêu rằng cạp cạp”cô đánh tay phải (phía trước): tổ mèo con hát. 27
  28. - Câu 3: “gặp hồ nước bì bõm”cô đánh tay trái (chếch bên trái): tổ cún con hát. - Câu 4: “lúc lên bờ cho khô” cô đánh 2 tay (mạnh, phía trước, rộng sang hai bên): cả 3 tổ cùng hát to. * Hát đối đáp: là sự phối hợp giữa 2 nhóm (2 bè): nhóm đối và nhóm đáp. Tuỳ bài để có thể chọn hình thức này, nhưng thông thường mỗi câu hát được chia thành 2 vế cho 2 nhóm: nhóm một hát vế 1 và nhóm hai hát vế 2 (đáp lại). Ví dụ: Dạy bài Quà mồng 8/3 (Nhạc và lời: Hoàng Long): Có thể chia lớp thành hai nhóm, đứng hai bên. - Cô đánh tay phải, nhóm bên phải hát: “Em làm được một cái hoa” - Cô đánh tay trái, nhóm bên trái hát: “Cô cho em mang về nhà” - Cô đánh tay phải, nhóm bên phải: “Em nói rằng” - Cô đánh tay trái, nhóm bên trái hát: “Con biếu mẹ” - Cô đánh 2 tay phía trước, hai nhóm cùng: “Quà mùng tám tháng ba, quà mùng tám tháng ba”. *Hát to, hát nhỏ: là hát hình thức cả lớp nhưng giữa các câu hát âm lượng phải khác nhau: câu hát to, câu hát nhỏ. Tuy cả lớp cùng hát nhưng đây là bước “thi đua tổ” nên khi nhận xét cô nên nhận xét từng tổ. Trước khi cho trẻ hát, cô cần nhắc lại quy ước về động tác, cách hát để trẻ nhớ: “cô đánh tay thấp, hẹp thì hát nhỏ, đánh cao, rộng thì hát to ” Ví dụ Dạy bài Cá vàng bơi (Nhạc và lời: Hà Hải): - Cô đánh thấp, cả lớp hát nhỏ câu 1: “Hai vây xinh xinh bể nước” - Cô đánh cao, cả lớp hát to câu 2 : “Ngoi lên, múa tung tăng” - Cô đánh thấp, cả lớp nhỏ câu 3: “Hai vây xinh xinh nhanh thế” - Cô đánh cao, cả lớp hát to câu 4 và 5: “Cá vàng thấy theo rất nhanh. Cá vàng bắt thêm sạch trong” *Hát nhanh, hát chậm: Giống như hình thức “hát to, hát nhỏ”, hình thức “hát nhanh, hát chậm” hoặc “chậm rồi nhanh dần” cũng nên cho cả lớp cùng hát. Trước khi cho trẻ hát, cô cần nhắc lại quy ước về động tác, cách hát để trẻ nhớ: “Cô đánh tay chậm thì hát chậm, đánh nhanh thì hát nhanh; đánh chậm rồi nhanh dần thì hát chậm rồi nhanh dần ” Ví dụ bài Múa với bạn Tây Nguyên (Nhạc và lời: Phạm Tuyên) có 6 câu hát: - Cô đánh chậm câu 1,2 cả lớp hát chậm: “Tay em cầm hoa vang vang” - Cô đánh nhanh câu 3,4 cả lớp hát nhanh: “Vui bên nhau thêm lưu luyến” - Cô đánh chậm câu 5 cả lớp hát chậm: “Hôm nay hát kết đoàn” - Cô đánh nhanh câu 6 cả lớp hát nhanh: “Những cháu Bác Hồ ngoan ngoan”. Căn cứ vào cấu trúc của bài để chia câu và khả năng của trẻ để chon cách 28
  29. hát: Chậm – nhanh; Chậm – nhanh – chậm; Chậm – vừa – nhanh; Chậm – nhanh – chậm – nhanh; cho hiệu quả. Hát cá nhân: Có thể cho vài trẻ xung phong hát cá nhân (tập biểu diễn), mục đích là cho trẻ trải nghiệm và chứng tỏ khả năng của mình. Tuy chỉ vài trẻ được hát trước lớp nhưng nó sẽ tạo nên những ấn tượng đẹp và không khí vui tươi cho tiết học. Liên hệ, giáo dục trẻ Cô đàm thoại với trẻ về nội dung, những hình ảnh, sự vật, hiện tượng được nêu trong bài hát và lông ghép các nội dung tích hợp: toán, MTXQ thông qua hệ thống câu hỏi (trẻ nghe, trả lời câu hỏi) từ đó liên hệ cuộc sống để hình thành thái độ, nhắc nhở và giáo dục trẻ. Dạy hát từng câu (bài mới trẻ chưa được làm quen) Bài hát dài, giai điệu khó nhớ, hoặc bài mới trẻ chưa được làm quen, chúng ta nên áp dụng phương pháp: Dạy hát từng câu nối tiếp. Để tiến hành dạy trẻ hát, ở khâu chuẩn bị, giáo viên phải dự kiến chia câu hát dựa trên cấu trúc của bài (như chúng tôi đã trình bày ở phần hát nâng cao). Cách lấy giọng Cô đưa tay làm động tác chuẩn bị rồi lấy giọng (bắt giọng), hát cả câu cho trẻ nghe sau đó đánh hai tay cho trẻ hát (cô hát nhỏ, kết hợp nghe trẻ hát). Nếu câu hát dài, khó nhớ có thể căn cứ lời ca để chia câu nhỏ hơn. Bắt đầu dạy trẻ hát, không nên cho trẻ hát cùng với nhạc đệm để trẻ nghe rõ lời, và giai điệu. Để tránh mất thời gian và sự rườm rà trong khi dạy hát, cô có thể lấy giọng theo kinh nghiệm, cảm giác về độ cao chứ không nên phụ thuộc vào đàn. Cao độ giọng cô hát phải phù hợp với âm vực giọng hát của trẻ (tránh hát thấp hoặc cao quá), sau mỗi câu cô nhận xét, động viên và khen trẻ. Ví dụ: Bài Cái mũi (Nhạc: Woody Guthie, lời: Lê Đức- Thu Hiền). Cô hát: “Nào bạn ơi ra đây ta xem một cái mũi” - Trẻ hát nhắc lại. Cô hát tiếp: “Nào bạn ơi ra đây xem tôi phình cái mũi” - Trẻ hát nhắc lại cứ như thế học nối tiếp các câu, không cần dạy thuộc câu này mới sang câu khác. Dạy hát nối tiếp để trẻ nhanh nắm được bài rồi sau đó cho cả lớp hát trọn vẹn cả bài một hoặc hai lần. Nếu bài hát có nhiều lời, không bắt buộc trẻ phải thuộc cả trong lần đầu học hát. Luyện kỹ năng Khi dạy bài hát mới, phần luyện kỹ năng hát chủ yếu là sửa sai, tập cho trẻ hát chính xác cao độ, trường độ, phát âm đúng thanh điệu, hát đúng lời ca. Phương pháp sửa sai chúng tôi đã trình bày ở phần trên, tuy nhiên khi học bài 29
  30. hát mới, vì chưa được làm quen nên trẻ hát sai sẽ nhiều hơn, bởi vậy biện pháp sửa sai phải phù hợp, cụ thể, rõ ràng và cũng nên sửa sai sau khi trẻ đã nắm được giai điệu, lời ca của câu hát, bài hát. Trẻ hát sai câu nào thì cô phải hát lại cho trẻ nghe cả câu đó, rồi cho trẻ hát lại. Hát thi đua Đối với bài hát mới, dạy từng câu thì chưa yêu cầu trẻ hát nâng cao: hình thức nối tiêp, đối đáp Sau khi trẻ nắm được bài, cô cho các tổ, nhóm lần lượt thi đua. Trước khi hát, cô đặt tên cho các tổ (như đã trình bày ở phần trên). - Hát theo tổ: Cô cho một tổ đứng hát tại chỗ hoặc lên trước lớp, hai tổ ngồi quan sát rồi nhận xét tổ bạn. Mỗi tổ lên đều phải hát từ đầu đến hết bài mới đến lượt tổ khác. - Hát cá nhân: Sau khi các tổ hát, cô chọn một vài cháu có giọng hát hay, lần lượt lên biểu diễn cho các bạn xem, cô giáo nhận xét và khen trẻ. Liên hệ, giáo dục trẻ Cô đàm thoại với trẻ về nội dung, những hình ảnh, sự vật, hiện tượng được nêu trong bài hát và lông ghép các nội dung tích hợp: toán, MTXQ thông qua hệ thống câu hỏi (trẻ nghe, trả lời câu hỏi) từ đó liên hệ cuộc sống để hình thành thái độ, nhắc nhở và giáo dục trẻ. Giáo viên cần chú ý: - Trong quá trình dạy hát từng câu cũng như cho trẻ hát theo tổ, nhóm hoặc cá nhân, cô luôn phải hát đúng giọng (không nên thay đổi giọng), làm động tác bắt vào và hát câu đầu với trẻ, thay đổi vị trí, tư thế ngồi, đứng, hoặc đi lại để trẻ khỏi mệt mỏi, nhàm chán - Ở nhóm nhà trẻ (nhất là nhóm dưới 2 tuổi) thời gian đầu đến trường, mọi hoạt động dạy hát trẻ đều chưa được làm quen. Trẻ ít chú ý hoặc không tích cực tham gia hát cùng cô. Hơi thở, âm thanh còn yếu ớt, hát ngọng hoặc chỉ hát được những ca từ dễ phát âm ở cuối câu, cuối bài. Bởi vậy khi dạy hát, cô hát là chính, cô lấy giọng rồi hát từ đầu đến hết bài kết hợp động tác âu yếm, vuốt tóc, vỗ tay cho trẻ hát theo, không dừng ở từng câu. - Ở nhóm mẫu giáo thì trẻ hát là chính, cô lấy giọng rồi bắt vào, trẻ hát theo cho đến hết bài. Khi trẻ hát, cô có thể hát nhỏ và lắng nghe, bao quát lớp, người cô lắc lư, hoà nhịp cùng với trẻ và chỉ hát to vào chỗ khó, đầu câu hát để tạo cảm giác vững vàng cho trẻ. c. Củng cố Bài hát sau khi đã học cần được củng cố nhằm giúp trẻ thuộc bài, hát chính xác, biết cách thể hiện tác phẩm. Tuy trong giáo án của giáo viên không ghi thành một mục cụ thể nhưng nó là một bước cần thiết. Nội dung củng cố gồm : Hỏi tên bài hát, tác giả, bài hát dân ca miền nào, nói về cái gì rồi hát cùng với đàn một 30
  31. vài lần. Có thể cho trẻ sử dụng các đạo cụ: mũ gà, mũ vịt, mũ thỏ, mũ vẽ ngón tay (tuỳ vào chủ đề) để minh họa, vừa hát, vừa nhún nhảy nhẹ nhàng theo nhịp, theo phách, theo tiết tấu của bài với đội hình tự do hoặc đứng thành hàng, thành từng nhóm tập biểu diễn. Việc làm này nhằm tạo hứng thú cho trẻ và chuẩn bị cho tiết biểu diễn (cuối chủ đề). Chúng ta cần lưu ý rằng, theo phương pháp mới thì sau bước dạy hát (trẻ đã nắm được bài), cô giáo không dạy trẻ vận động theo cô, theo một dạng nhất định mà cho trẻ vận động tự do, vận động theo ý thích trên cơ sở nhịp điệu của bài hát (nhip 2/4, 3/4 ). Như vậy, sẽ có trẻ dậm chân, lắc lư theo nhịp, theo phách; có trẻ vỗ tay, đánh tay hoặc làm vài động tác minh hoạ đơn giản (không yêu cầu trẻ sử dụng nhạc cụ, hoặc phải tập động tác vận động) Ngoài ra, bước củng cố cần chú ý cách phát âm, ngắt nghỉ, lấy hơi và cách thể hiện tình cảm phù hợp với tính chất, nhịp điệu của bài hát. Để tiến hành dạy hát (trong giờ học) đạt kết quả cao thì việc cho trẻ tiếp xúc, làm quen với bài hát ở mọi lúc, mọi nơi (ngoài và trong giờ học) là rất cần thiết. Cô giáo có thể dạy trẻ hát khi tập thể dục, khi dạo chơi, trước giờ học, trước giờ ăn hoặc ngay trong hoạt động góc, bằng cách hát cho trẻ nghe, hát cùng với trẻ, hát vào câu, đoạn mà trẻ hát sai. Dạy hát ngoài giờ học dễ bị chi phối bởi các hoạt động riêng lẻ (có khi không liên quan đến chủ đề, nội dung bài hát) nên đòi hỏi cô giáo phải hết sức chủ động, linh hoạt. Vừa tổ chức cho trẻ hoạt động lại vừa hát cho trẻ nghe đồng thời hát cùng trẻ để tạo thói quen và sự tự tin cho trẻ. 6. Chuẩn bị dạy hát Trước khi dạy hát, giáo viên phải chuẩn bị một số nội dung sau: - Luyện hát trôi chảy, chính xác, diễn cảm bài hát. - Tìm hiểu cấu trúc của bài, chia câu hát và dự kiến hình thức hát nâng cao (nối tiếp,đối đáp ) - Nắm nội dung,tính chất của bài trong sự thống nhất giữa âm nhạc và lời ca. - Xác định đặc điểm âm nhạc, điệu thức trưởng thứ - Dự kiến chỗ khó về âm điệu, nhịp điệu, lời dễ nhầm, khó phát âm, chỗ ngân - Luyện tập đàn, hát chuẩn xác, diễn cảm. - Xác định chủ đề, mức độ yêu cầu của bài, cách tổ chức, dàn dựng đội hình. - Nêu cụ thể biện pháp, thủ thuật tiến hành theo tuần tự trong soạn giáo án (trực quan, đàm thoại, thực hành nghệ thuật, các dụng cụ âm nhạc). Câu hỏi: 1. Hãy phân tích ý nghĩa giáo dục của ca hát đối với trẻ mẫu giáo. 2. Nêu đặc điểm cơ quan phát âm của trẻ, từ đó vạch ra các tiêu chí khi chọn bài dạy trẻ hát. 31
  32. 3. Hãy nêu các yêu cầu khi dạy trẻ hát. 4. Hãy nêu các nguyên tắc lựa chọn bài dạy trẻ hát. 5. Phương pháp dạy hát và các bước tiến hành dạy trẻ hát? Bài tập thực hành: 1. Tập hát chính xác và chỉ huy các bài hát nhip 2/4, 3/4. + Nhịp 2/4: - Lái ô tô (Đoàn Phi) - Con chim non (Lý Trọng) - Chim mẹ - chim con (Đoàn Phi) - Làm chú bộ đội (Hoàng Long) - Đàn vịt con (Mộng Lân) - Lá xanh (Thái Cơ) + NHịp 3/4: - Em tập lái ô tô (Ng Văn Tý) - Chú bộ đội đi xa (Hoàng Vân) - Trường em (Phạm Đức Lộc) - Nắm tay thân thiết (Hàn Quốc) + Nhịp 4/4: - Cái mũi (nhạc nước ngoài) - Hãy xoay nào (Hàn Quốc) HƯỚNG DẪN TỰ HỌC Tài liệu tham khảo 1. Hoàng Văn Yến. Trẻ mầm non ca hát (tuyển tập bài hát nhà trẻ mẫu giáo). Vụ GDMN – NXB Âm nhạc 2002. 2. Hoàng Văn Yến. Nghệ thuật âm nhạc với trẻ mầm non. NXB Giáo dục 1999. 3.Ngô Thị Nam (chủ biên). Âm nhạc và Phương pháp giáo dục âm nhạc trong trường mầm non. Hà Nội 1994. 4. Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục – Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Chương trình Giáo dục Mầm non. Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố theo chủ đề (trẻ 3-4 tuổi) và (trẻ 4-5 tuổi). 5.Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục – Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Chương trình Giáo dục Mầm non. Hướng dẫn giáo dục đổi mới cho trẻ mầm non. 6. Phạm Thị Hoà. Giáo dục âm nhạc tập 2. NXB Đại học Sư phạm 2008. Kiến thức cơ bản 1 Vai trò, ý nghĩa giáo dục của ca hát đối với trẻ mẫu giáo: phát triển tai nghe, mở rộng nhận thức, hoàn thiện cơ quan phát âm, giọng nói 2. Đặc điểm giọng hát của trẻ liên quan đến âm vực, câu hát ngắn (khoảng 2 nhịp) phù hợp hơi thở. 3. Những yêu cầu khi dạy trẻ học hát (tư thế đúng giúp cho việc phát âm, lấy hơi theo câu hát, chất lượng âm thanh, hiểu ý nghĩa của ca từ để hát rõ lời, chuẩn xác, diễn cảm, đồng đều, hoà giọng, biết phối hợp với nhạc cụ). 4. Đặc điểm bài hát và nguyên tắc lựa chọn (thể loại phải đa dạng, âm vực 32
  33. vừa với giọng hát của trẻ, cấu trúc ngắn gọn, nội dung lời ca phù hợp với chủ đề - chủ điểm). 5. Phương pháp tiến hành dạy trẻ học hát (nêu các bước tiến hành: giới thiệu, hát mẫu, dạy hát, trò chuyện về nội dung, cách dạy bài trẻ đã biết, bài chưa được làm quen, nhận biết lỗi sai, cách sửa sai, liên hệ giáo dục trẻ) 6. Chuẩn bị của giáo viên trước khi dạy hát: nghiên cứu tác phẩm, dự kiến hát đối đáp, nối tiếp chuẩn bị đồ dùng, soạn giáo án. Câu hỏi 1. Hãy phân tích ý nghĩa giáo dục của ca hát đối với trẻ mẫu giáo. Gợi ý: - Nêu khái niệm ca hát, tác dụng của hoạt động ca hát đối với trẻ. Có thể liên hệ với các lĩnh vực nghệ thuật khác, từ đó khẳng định vai trò, ý nghĩa của ca hát đối với trẻ mầm non. - Khi tham gia ca hát một cách có định hướng, sẽ giúp trẻ phát triển giọng, tai nghe, tư duy, sự linh hoạt và nhạy cảm trong cuộc sống lấy ví dụ từ các thể loại tác phẩm và hoạt động ca hát chứng minh. 2. Nêu đặc điểm cơ quan phát âm của trẻ, từ đó vạch ra các tiêu chí khi chọn bài dạy trẻ hát. Gợi ý: - So với người lớn, vòm họng của trẻ cứng, thiếu linh hoạt nên phát âm chậm, có thể bị ngọng - Dây thanh đới mảnh, nhỏ, ngắn nên âm thanh phát ra yếu nhưng trong và cao hơn âm thanh người lớn - Trẻ lấy hơi vào ngực, vai (trong ca hát phải lấy hơi xuống bụng) nên hơi thở nông, vì vậy trẻ thường phải lấy hơi sau 2 nhịp (nửa câu hát). - Bài dạy trẻ hát thường ngắn gọn, gồm 2 câu nhạc, trong mỗi câu thường gồm 2 tiết nhạc (có thể coi mỗi tiết 4 nhịp là một câu hát) nên trẻ dễ nhớ, dễ thuộc. Bài hát nhịp 2/4, âm vực quãng 6: Đô – Xon (lớp bé), Đo – La (lớp nhỡ), Đô – Đô (lớp lớn) thuộc quãng tám thứ nhất. 3. Hãy nêu các yêu cầu khi dạy trẻ hát? Gợi ý: - Giúp trẻ hát tự nhiên, mở rộng âm vực giọng, bảo vệ và phát triển giọng hát. - Trẻ thuộc bài, hát đúng, biết thể hiện một cách hồn nhiên, truyền cảm, sáng tạo. - Thông qua dạy hát để rèn luyện kĩ năng ca hát: Chính xác, rõ lời, đồng đều, hoà hợp, hơi thở, tư thế trong ca hát (giáo viên cần phân biệt yêu cầu cụ thể của từng kĩ năng thông qua việc dạy hát và đặc điểm của từng tác phẩm). 33
  34. 4. Hãy nêu các nguyên tắc lựa chọn bài dạy trẻ hát. Gợi ý: a. Về âm nhạc: + Về giọng điệu: giọng từ không đến một dấu hoá, thuộc điệu thức trưởng, tính chất vui tươi, trong sáng ca ngợi. + Nhịp điệu: nhịp 2/4, 3/4; điệu disco, pop, march hoặc wasl, boston. + Giai điệu: đường nét đơn giản, dễ nhớ, dễ thuộc. + Cấu trúc: thể 1đoạn đơn gồm 2 câu hoặc 3 câu ngắn, cân đối. + Tiết tấu: sử dụng các nốt đen, đơn, tiết tấu dễ hát, dễ nhắc lại. b. Về lời ca: + Nội dung: nói về bản thân, gia đình, bạn bè, cô giáo, môi trừờng xã hội, môi trường tự nhiên và phải phù hợp với từng nhóm tuổi. Tuỳ chủ đề, chủ điểm để chọn bài có tính vui hoạt, ngộ nghĩnh hoặc đằm thắm du dương + Ca từ: mộc mạc, trong sáng, giàu hình tượng, gần gũi với cuộc sống, nhận thức của trẻ. 5. Phương pháp dạy hát và các bước tiến hành dạy trẻ hát? Gợi ý: a. Phương pháp dạy hát: + Phương pháp dạy từng câu: Với bài mới, trẻ chưa được làm quen: giáo viên dạy trẻ hát từng câu ngắn (mỗi câu 4 nhịp). Cô hát một lần sau đó trẻ hát nhắc lại (cô nhận xét sửa sai - trẻ hát lại) rồi tập tiếp câu sau cho đến khi trẻ thuộc. + Phương pháp dạy hát cả bài: Với bài trẻ đã được làm quen mọi lúc mọi nơi (hoạt động đón trẻ, thể dục sáng; hoạt động chung; hoạt động góc; hoạt động ngoài trời, hoạt động chiều), giáo viên lấy giọng, bắt nhịp cho trẻ hát theo từ đầu đến hết bài (không dừng lại sau mỗi câu hát), sau đó nhận xét và chỉ sửa câu nào trẻ hát chưa đúng. b. Các bước tiến hành dạy trẻ hát: Thông thường dạy hát theo 3 bước: + Giới thiệu, làm quen: - Trò chuyện về chủ đề để giới thiệu tên bài hát, tác giả - Hát mẫu. + Dạy hát: - Cô bắt nhịp cho cả lớp hát - Thi đua tổ, nhóm - Thi đua cá nhân - Giảng dải về nội dung, giáo dục trẻ. + Củng cố, ôn luyện: 34
  35. - Nhắc lại tên bài, tác giả - Cả lớp hát ôn hoặc tập biểu diễn. II. VẬN ĐỘNG THEO NHẠC 1. Ý nghĩa của vận động theo nhạc Như chúng ta đã biết, trẻ thường có tính hiếu động. Trẻ tiếp nhận thế giới xung quanh bằng trực quan cảm tính, đời sống tinh thần của trẻ chủ yếu là tình cảm. Ngôn ngữ nói (với tư cách là tín hiệu thứ hai của trẻ) chưa phát triển, chưa hoàn thiện. Khi nghe nhạc, dưới tác động của âm nhạc (nhịp điệu, trọng âm, tiết tấu ) trẻ bộc lộ cảm xúc bằng cử chỉ, hoạt động của tay, chân, đầu, cơ thể một cách tự nhiên, ngẫu hứng đó chính là vận động. Hoặc khi nghe hát, từ nội dung lời ca, tính chất âm nhạc mà trẻ biết nhún nhảy, lắc lư cơ thể, đưa tay lên xuống đó là hành động mang tính khởi đầu của múa. Do vậy, múa và vận động theo nhạc là nhu cầu không thể thiếu đối với trẻ, được coi là tín hiệu thông báo đặc trưng tâm lý lứa tuổi. Động tác múa được sử dụng như là một phương tiện đẩy mạnh khả năng cảm thụ âm nhạc và làm cơ sở phát triển năng lực âm nhạc cho trẻ. Múa là phương tiện góp phần giáo dục và tạo cơ sở hình thành , phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Thông qua hoạt động múa, vận động theo nhạc, trẻ biết bộc lộ cảm xúc và từ đó sẽ có lối sống vui tươi, hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin 2. Đặc điểm, khả năng vận động của trẻ Trong quá trình phát triển thể chất, âm nhạc đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vận động của trẻ. Tuy nhiên, cần chú ý tới một số đặc điểm về lứa tuổi để có phương pháp giáo dục cho phù hợp. Trẻ 1 tuổi: Các khớp cổ, chân, tay chưa hoàn thiện, trẻ tập đi lại, tay biết cầm, nắm, lắc, vỗ hoặc đưa ra trước, ra sau vài ba lần theo sự khích lệ của người lớn. Có thể tập cho trẻ cảm giác về nhịp điệu (2/4), trọng âm (phách mạnh) thông qua bài đồng dao: “Chi chi chành chành”, “Tập tầm vông” Trẻ 2 – 3 tuổi: Hệ xương phát triển hơn, trẻ vận động dễ dàng và khá linh hoạt. Có thể tập cho trẻ những động tác đơn giản như: đi lại, nhún nhảy, lắc lư theo nhịp điệu 2/4 ở nhịp độ chậm, thông qua các bài đồng giao:“kéo cưa lừa xẻ”, “Dung dăng dung dẻ”, “Lộn cầu vồng” hoặc tập vỗ tay theo nhịp, theo phách bài hát: “Con gà trống”(Tân Huyền), “Cháu yêu bà” (Xuân Giao) Trẻ 3 – 4 tuổi: biết nhún nhảy theo nhịp điệu của bài hát, làm các động tác phối hợp đơn giản, các động tác múa, vận động có tính đối xứng, ngược hướng. Một số trẻ còn biết thực hiện các bước chuyển động theo nhịp độ: nhanh, chậm; 35
  36. tính chất âm nhạc: êm dịu, sôi nổi; biết nghe nhạc để bắt đầu và kết thúc động tác. Có thể vỗ tay và sử dụng nhạc cụ xắc xô, phách tre, trống gõ theo tiết tấu chậm, tiết tấu nhanh các bài hát ở nhịp 2/4. Trẻ 4 – 5 tuổi: biết vận động nhịp nhàng theo nhịp điệu khi nghe hát hoặc nhạc không lời. Biết thay đổi bước chuyển động: từ chậm sang nhanh hoặc ngược lại; hướng chuyển động: nhảy tiến, đổi nhóm, nhảy vòng tròn một mình . Một số trẻ có thể tự cầm đạo cụ và làm các động tác nhảy chân sáo, đá chéo chân hoặc tập các động tác múa minh hoạ cùng với cô giáo.Có thể vỗ tay và sử dụng nhạc cụ xắc xô, phách tre, trống gõ theo tiết tấu nhanh, tiết tấu kết hợp cho các bài hát nhịp 2/4. Trẻ 5 – 6 tuổi: biết vận động nhịp nhàng theo nhịp điệu khi nghe hát, nhạc không lời , thay đổi bước chuyển động: từ chậm sang nhanh hoặc ngược lại; hướng chuyển động: nhảy tiến, lùi; đổi nhóm: bên phải, bên trái; nhảy vòng tròn: một mình, nhảy đôi hoặc nhảy với nhiều bạn. Trẻ biết làm các động tác khó như: nhảy gập đầu gối, nhảy mềm tại chỗ, bật nhảy ra trước. Một số trẻ có thể vận động nhịp nhàng, uyển chuyển theo các loại nhịp khác nhau 2/4; 3/4, múa các bài theo chất liệu dân gian: Kinh, Tây Nguyên, Thái hoặc biết nghĩ ra các động tác theo lời ca, giai điệu âm nhạc. Có thể vỗ tay, thổi kèn, sử dụng nhạc cụ: xắc xô, phách tre, trống gõ theo tiết tấu nhanh, tiết tấu kết hợp cho các bài hát. 3. Các phương pháp dạy học cơ bản Phương pháp dạy trẻ vận động theo nhạc cơ bản cũng giống phương pháp dạy trẻ hát đó là: Làm mẫu, dùng lời, thực hành. - Phương pháp làm mẫu: Làm mẫu cho trẻ xem chính là cho trẻ tri giác toàn ven sự kết hợp giữa âm nhạc, lời ca và dạng vận động. Trẻ tập động tác, học thuộc bài vận động, bài múa thông qua bắt chước bởi vậy giáo viên phải làm mẫu rõ ràng, động tác đẹp, vừa sức với trẻ. Trẻ bắt chước có thể chưa hoàn toàn giống cô nhưng những gì được nghe – nhìn thông qua mẫu sẽ giúp trẻ khắc sâu ấn tượng, nắm và thuộc bài. Trong quá trình làm mẫu giáo viên nên hát hoặc kết hợp mở nhạc cho trẻ nghe. - Phương pháp dùng lời: Dùng lời là biện pháp quan trọng để làm quen tác phẩm, gợi cho trẻ những dạng vận động phù hợp với bài hát, giải thích chi tiết động tác đồng thời kích thích trẻ hoạt động độc lập. Giọng nói của giáo viên phải nhẹ nhàng truyền cảm, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Biện pháp dùng lời còn để động viên, khuyến khích trẻ, giúp trẻ tưởng tượng khi làm động tác. Ví dụ: khi giáo viên muốn trẻ vẫy hai tay mềm mại có thể nói “các con hãy cùng nhau làm cánh chim bay ” hoặc muốn trẻ đánh hai tay đi đều có thể nói “các con hã làm chú bộ đội hành quân ” 36
  37. - Phương pháp thực hành, luyện tập: Sau khi giáo viên phân tích, làm mẫu động tác cho trẻ quan sát, bước tiếp theo là trẻ tiến hành bắt chước, luyện tập. Trẻ làm theo cô từng tư thế, động tác trên cơ sở mỗi câu hát là một động tác rồi nối các động tác thành tổ hợp, thành bài. Với những động tác đơn giản, cô làm mẫu một lần; động tác khó cô phải làm chậm, vài lần cho trẻ làm theo.Trẻ được thực hành, luyện tập sẽ nhanh nắm động tác và ghi nhớ bài học. 4. Dạng vận động, cách vận động, động tác vận động, bài vận động Vận động theo nhạc ở độ tuổi nhà trẻ mẫu giáo tuy đơn giản nhưng lại rất đa dạng. Để quá trình dạy vận động đạt hiệu quả, trước hết chúng ta cần phân biệt các khái niệm trong vận động theo nhạc: “Dạng vận động”, “Cách vận động”, “Động tác vận động”, “Bài vận động” vì giữa chúng luôn có mối quan hệ không thể tách rời. Trên cơ sở đó mà định hướng, chọn nội dung, lượng kiến thức, phương pháp áp dụng cho từng độ tuổi. Căn cứ vào đặc điểm âm nhạc, bản chất, luật động của động tác và yêu cầu của chương trình, chúng tôi có thể phân nhóm và nêu các khái niệm để các bạn sinh viên tham khảo: + Dạng vận động là những vận động cơ bản có thể phù hợp với một trong các yếu tố (còn gọi là các phương tiện diễn tả) của âm nhạc: tiết tấu, nhịp điệu, tính chất, lời ca Có thể phân thành bốn dạng như sau: - Dạng vỗ tay, gõ đệm (theo tiết tấu). - Dạng nhún nhảy,lắc lư (theo nhịp điệu). - Dạng múa (theo tính chất âm nhạc). - Dạng minh hoạ, điệu bộ (theo nội dung lời ca). + Cách vận động: Trong mỗi dạng vận động lại có nhiều kiểu vận động giống nhau về bản chất, luật động, sự thể hiện gọi là các cách vận động (hoặc có thể gọi là loại vận động). - Dạng vỗ tay, gõ đệm gồm các cách: 1. Vỗ theo nhịp. 4. Vỗ tiết tấu nhanh 2. Vỗ theo phách. 5. Vỗ tiết tấu kết hợp. 3. Vỗ tiết tấu chậm. 6. Vỗ theo lời ca. - Dạng nhún nhảy lắc lư gồm các cách: 1. Dậm chân theo nhịp 2/4, 3/4 2. Nhún lên, xuống theo phách của nhịp 2/4, 3/4 3. Bước, di chuyển theo điệu disco, walxơ - Dạng minh hoạ gồm các cách: 1. Cụ thể: rửa mặt, đánh răng, vác súng 3. Cách điệu: mô phỏng, điệu bộ 37
  38. 2. Biểu cảm: niềm vui, nỗi nhớ, lòng tự hào - Dạng múa gồm các cách: 1. Múa theo tính chất âm nhạc sôi nổi vui nhộn, khoẻ khoắn, 2. Múa theo tính chất âm nhạc đằm thắm, thiết tha, du dương 3. Múa sử dụng chất liệu âm nhạc dân gian: múa dân gian. 4. Múa sử dụng chất liệu âm nhạc hiện đại: múa hiện đại, vũ quốc tế. 5. Múa sử dụng chất liệu âm nhạc cổ điển: múa cổ điển, múa ba lê. + Động tác vận động là tư thế của cơ thể khi thực hiện một cách vận động nào đó. Ví dụ: Khi múa, người ta thường làm động tác đưa tay lên cao, đưa tay xuống thấp hoặc vận động vỗ tay, người ta có thể làm động tác nghiêng người sang bên trái, nghiêng người sang bên phải Mỗi động tác thường ứng với một 1 câu hát (tiết nhạc) khoảng 4 nhịp. Chúng ta cũng có thể coi khái niệm động tác vận động giống như động tác khi tập thể dục + Bài vận động (bài múa) Đối với nhóm 3, 4 tuổi, giáo viên cần dạy trẻ nắm vững các cách vận động cơ bản như: vỗ tay, gõ đệm theo nhịp, phách, tiết tấu chậm ở tư thế ngồi thẳng lưng. Nhưng với nhóm 5 tuổi, nếu chỉ dạy lại động tác cơ bản thì máy móc, bài học sẽ đơn điệu và nhàm chán. Bởi vậy cần phải nâng cao hơn như vỗ kết hợp nghiêng người bên nọ, bên kia tức biên đạo động tác để thành BÀI VẬN ĐỘNG. Bài vận động là tổ hợp gồm nhiều động tác nối tiếp nhau với thời lượng và khuôn khổ nhất định. Bài vận động theo nhạc của trẻ thường tương ứng với một bài hát có 3 hoặc 4 câu hát nên chỉ có 3 hoặc 4 động tác đơn giản. Thông qua các động tác của bài vận động mà củng cố cách vận động và nâng cao kỹ năng vận động cho trẻ. Bài vận động được coi như là khâu cuối của quá trình chuẩn bị nên giáo viên cần quan tâm tới sự logic, thống nhất và phải phù hợp với từng độ tuổi. Bài vận động của trẻ có thể ví như một “bữa ăn”, dù là “bình dân” nhưng nhất thiết phải qua một quá trình chế biến! Các khái niệm trên có thể diễn đạt thành quy trình sau: Vỗ phía trước 4 nhịp . động tác 1 - Vỗ tay Tiết tấu chậm Vỗ bên phải 4 nhịp động tác 2 Tiết tấu nhanh Vỗ bên trái 4 nhịp .động tác 3 Tiết tấu kết hợp Vỗ phía trước 4 nhịp động tác 4 Vác súng vai phải 4 nhịp động tác 1 -Minh hoạ Làm cụ thể Đánh tay hai bên 4 nhịp động tác 2 Cách điệu Đưa tay vào lòng 4 nhịp động tác 3 Biểu cảm Bồng súng,dậm chân4nhịp động tác4 38
  39. DẠNG VĐ CÁCH (loại vđ) ĐỘNG TÁC(bỉên đạo) BÀI VĐ + Cách vỗ tay, gõ đệm cơ bản: Để dạy vận động đạt kết quả tốt trước hết giáo viên cần nghiên cứu bài hát để chọn dạng vận động phù hợp với bài hát đó: múa, nhún nhảy theo nhịp điệu, minh hoạ lời ca hay vỗ tay gõ đệm theo tiết tấu và nên chọn bài ở nhịp 2/4 hoặc 3/4 (phách là nốt đen: ). Phải phân biệt một cách rõ ràng các khái niệm về vận động, thực hành thuần thục các động tác vỗ, gõ để làm cơ sở cho việc chọn dạng, cách vận động cho phù hợp với trẻ. Vì khuôn khổ giáo trình có hạn chúng tôi chỉ nêu một số cách vỗ tay, gõ đệm thường áp dụng ở trường Mầm non: 1. Vỗ theo nhịp: Mỗi nhịp vỗ một cái (vỗ đều vào phách mạnh của nhịp), (v) 2. Vỗ theo phách: Mỗi phách vỗ một cái, phách mạnh (M) vỗ mạnh hơn: v v Đọc là : đen đen 3. Vỗ theo tiết tấu chậm: Mỗi phách vỗ một cái, sau ba phách đều nhau thì nghỉ một phách: v v v mở Đọc là : đen đen đen lặng 4. Vỗ theo tiết tấu nhanh: Mỗi phách vỗ hai cái (vỗ nốt đơn) sau bốn đơn là nốt đen rồi lặng: v v v mở Đọc là : đơn đơn đơn đơn đen lặng 5. Vỗ theo tiết tấu kết hợp: Là kết hợp tiết tấu chậm và tiết tấu nhanh: v v v v mở Đọc là : đen đơn đơn đen lặng 6. Vỗ theo tiết tấu lời ca: Mỗi ca từ vỗ một cái ( v ). * Phương pháp luyện tập : - Tập vỗ riêng từng loại tiết tấu, kết hợp đếm 1, 2; đen, đen hoặc đơn, đơn, lặng - Ghép với lời ca : chọn bài dễ hát để vừa hát vừa vỗ theo từng câu ngắn. - Luyện tập kỹ năng:+ Vỗ nhiều cách (nhiều loại tiết tấu) cho một câu hát. +Vỗ một cách (một loại tiết tấu) cho nhiều câu hát khác nhau. 39
  40. - Gõ đệm các loại tiết tấu bằng nhạc cụ đồ chơi của trẻ. (Ở dạng vận động nhún nhảy,có thể dậm chân, lắc lư theo nhịp, phách ). Ví dụ: 1. Nhìn bản nhạc để xác định các cách vỗ tay (hoặc gõ đệm): a. Nhịp 2/4 : Tập đếm (trích) Nhạc và lời : Hoàng Công Sử b. Nhịp 3/4 : Chú bộ đội đi xa (trích) Nhạc và lời : Hoàng Vân Lưu ý : Với loại nhịp 3/4 ; 4/4, chúng ta chỉ nên chon cách vỗ (gõ) theo nhịp và phách, các cách vỗ (gõ) theo tiết tấu chậm, nhanh, phối hợp đều không phù hợp với khả năng của trẻ. 40
  41. 2. Nhìn bản nhạc để viết tiết tấu các cách vỗ tay (gõ): a. Bài có đà 1/2 phách : Gà trống, mèo con và cún con (trích) Nhạc và lời : Thế Vinh - Theo nhịp : v v v v > - > - > - > - - Theo phách : - Tiết tấu chậm: - Tiết tấu nhanh: - T.tấu kết hợp: - T.tấu lời ca: v v v v v v v v v v v Ví dụ trên được coi như một bản tổng phổ hay bản hợp xướng có 7 bè (kể cả bè hát). Mỗi hàng ngang (một bè) là một cách vận động. Cột dọc là sự phối hợp của 7 bè trong cùng một câu hát (hòa âm). Mỗi nốt nhạc (trường độ) ứng với một cái vỗ tay. b. Bài có đà 1 phách: Năm ngón tay ngoan (trích) Nhạc và lời : Trần Văn Thụ - Theo nhịp : v v v v > - > - > - > - - Theo phách : - TT chậm: - TT nhanh: 41
  42. - Kết hợp: - Lời ca: v v v v v v v v v v v v v 3. Nhìn lời ca (1 câu hát) để xác định cách vỗ tay (gõ) theo tiết tấu : a. Bài có đà 1/2 phách: Tay thơm tay ngoan (Bùi Đình Thảo) Một tay xoè ra , thành một bông hoa - Theo nhịp : v v v v - Theo phách : - TT chậm: - TT nhanh: - Kết hợp: - Lời ca: v v v v v v v v b. Bài không đà : Làm chú bộ đội (Hoàng Long) Em thích làm chú bộ đội, bước một hai chân bước một hai - Theo nhịp : v v v v - Theo phách : - TT chậm: - TT nhanh: - Kết hợp: - Lời ca: v v v v v v v v v v v v v Từ ký hiệu nốt nhạc, chúng ta dễ phân biệt các loại tiết tấu và so sánh sự khác nhau cơ bản giữa các cách vỗ. Trong một tiết trọng tâm là vận động, giáo viên chỉ nên sử dụng một hoặc hai cách vỗ, gõ nêu trên. 42
  43. * Lưu ý: - Khi nhìn bản nhạc để viết tiết tấu, vì dựa vào số chỉ nhịp, nốt nhạc nên bản “tổng phổ” thường chính xác, hợp lý; đều về khoảng cách giữa các phách (hàng ngang); thẳng hàng phách mạnh, nhẹ giữa các cách vỗ (cột dọc). - Khi nhìn lời ca để viết tiết tấu thì phải hát lời để cảm nhận trọng âm, vỗ nhip, vỗ phách vào ca từ nào Vì mỗi ca từ được cấu tạo âm, vần khác nhau nên khoảng cách không đều dẫn đến hiện tượng bản “tổng phổ” có các nốt cùng trường độ nhưng khoảng cách xa gần khác nhau 5. Biên đạo động tác vân động Qua thực tế giảng dạy ở nhiều nơi (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quãng Bình, Quảng Trị, Huế, Đaklắc, Thanh Hoá, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương ) chúng tôi thấy phần lớn giáo viên không hiểu các khái niệm: dạng vận động, cách vận động, động tác vận động, bài vận động nên chưa nghĩ đến việc biên đạo động tác thành bài vân động dù chỉ ở mức độ đơn giản. Dẫn đến tình trạng dạy lại bài đã dạy, học lại bài đã học, giáo viên này bắt chước giáo viên kia một cách máy móc, rập khuôn, mất đi tính chủ động, sáng tạo. Thậm chí có giáo viên còn tỏ ra quá tự tin vào khả năng nên chủ quan hoặc có suy nghĩ “qua loa”, “đại khái” trong công việc. Điều cơ bản là từ suy nghĩ và cách làm đó đã không tạo được sự hứng thú cần thiết cho trẻ. Đối với nhóm 3 tuổi, giáo viên cần dạy trẻ nắm vững các cách vận động cơ bản như: vỗ tay, gõ đệm theo nhịp, phách, tiết tấu chậm ở tư thế ngồi thẳng lưng. Nhưng với nhóm 4 và 5 tuổi, nếu chỉ dạy động tác cơ bản thì bài học sẽ đơn điệu và nhàm chán. Bởi vậy cần phải nâng cao hơn như vỗ kết hợp nghiêng người bên nọ, bên kia tức biên đạo động tác để thành bài vận động. Một số điểm cần lưu ý khi biên đạo: - Căn cứ vào một số nguyên tắc: vừa sức, cân đối, ngược hướng, nhắc lại - Căn cứ theo cấu trúc của bài hát: mấy đoạn, mấy câu, mấy tiết - Căn cứ vào loại nhịp: 2/4, 3/4, 4/4 - Căn cứ tiết tấu của bài (hoặc từng câu, đoạn): có âm hình, tự do - Các động tác ngược hướng, đối xứng: trái-phải, lên-xuống, tiến - lùi, cao - thấp. - Căn cứ tính chất âm nhạc: vui nhộn, hoạt bát, dàn trải, du dương - Căn cứ chất liệu âm nhạc: ca khúc, dân ca vùng miền - Mỗi câu hát là một động tác: khoảng 4 nhịp - Sử dụng chất liệu múa các dân tộc khi biên đạo những bài mang âm hưởng dân gian. 6. Các bước tiến hành dạy vận động Ở tiết dạy vận động thì rèn luyện kỹ năng vận động là trọng tâm và cũng theo 3 bước : - Giới thiệu. 43
  44. - Dạy vận động. - Củng cố. Có thể tiến hành các bước theo những nội dung sau : a. Giới thiệu Có thể gọi trẻ lên ngồi (hoặc đứng) gần cô (cách sắp xếp giống tiết dạy hát), cho trẻ đọc thơ, xem tranh ảnh, sa bàn, mô hình có nội dung nói về chủ đề, chủ điểm. Cô gợi ý cho trẻ bằng cách nói về sự nghiệp của tác giả, hình tượng, nội dung bài hát, xuất xứ vùng miền bài dân ca hoặc có thể “la la” vài nốt giai điệu để trẻ nhận biết, nêu đúng tên bài hát. Khi trẻ đã biết được tên bài hát, tác giả hoặc làn điệu dân ca nào thì cho cả lớp hát lần 1, cô nhận xét, sửa sai. Hát lần 2, cô hỏi tên tác giả, tác phẩm rồi khen trẻ. (nên cho trẻ hát 2 lần để củng cố, ôn lại bài, hơn nữa, có thể cô chưa dạy trẻ hát trên lớp). Cô hỏi trẻ về cách vận động phù hợp với bài hát? (2 - 3 trẻ trả lời) rồi cô chọn một cách (trùng với cách cô đã chuẩn bị) để dạy cho trẻ. - Làm mẫu: Cô cho trẻ về chỗ ngồi rồi mở nhạc hoặc cô và trẻ cùng hát, cô vận động cả bài cho trẻ xem (1lần). b. Dạy vận động Mỗi bài hát ở nhà trẻ mẫu giáo thường có cấu trúc 1 đoạn đơn, 2 câu gồm 4 tiết nhạc (tức 4 câu hát). Bởi vậy, chúng ta chỉ nên biên đạo 4 động tác, mỗi động tác tương ứng với 1 câu hát. Tùy theo độ tuổi, cách vận động khó hoặc dễ để chúng ta có thể chọn phương pháp và cho trẻ tập ở tư thế ngồi hoặc đứng. Ví dụ: - Nhóm 3, 4 tuổi, nếu giáo viên chọn dạng vận động vỗ tay, cách vỗ theo nhịp (đơn giản) thì có thể cho cả lớp vừa hát vừa vận động theo cô từ đầu đến hết bài ở nhịp độ chậm, tư thế ngồi khoảng 2 – 3 lần (sau lần 1 mới sửa sai), sau đó đến bước thi đua theo nhóm hoặc tổ. - Nhóm 5 tuổi, nếu vẫn chọn dạng vận động vỗ tay (hoặc gõ đệm) thì nên chọn cách vỗ khó hơn (tiết tấu kết hợp hoặc tiết tấu nhanh) đồng thời giáo viên nên biên đạo thành bài vận động (gồm nhiều động tác) và cho trẻ đứng để học từng động tác. + Dạy từng động tác: - Nếu là bài vận động múa gồm những động tác khó, cô hát và làm mẫu động tác thứ nhất cho trẻ quan sát, sau đó trẻ hát và làm cùng cô. Cô bao quát, động viên, khen trẻ, sửa sai cho trẻ rồi cho cả lớp cùng hát và làm lại một lần (cô khen trẻ). Cách dạy các động tác sau tương tự nhưng tiến hành nhanh hơn. 44
  45. - Nếu bài vận động vỗ tay, gõ đệm với những động tác đơn giản (vỗ tay bên trái, bên phải ) thì có thể kết hợp phương pháp trực quan bắt chước, cho trẻ vận động theo cô, chậm từng động tác (hai hoặc một lần) mà cô không cần phải làm mẫu. Tuy nhiên, sau mỗi động tác nên nhận xét, sửa sai và khen trẻ. + Vận động cả bài: Sau khi dạy trẻ tập hết các động tác (khoảng 3, 4 động tác), cô nên “xâu chuỗi” để trẻ nhanh thuộc bằng cách cho cả lớp hát và vận động cùng với cô (lần 1). Cô cần bao quát để biết được khả năng tiếp thu của trẻ, cô động viên, khen trẻ và sửa sai cho trẻ (nếu có). Sau đó cho cả lớp hát và vận động (lần 2) cùng với nhạc đệm. Cô đứng phía trước quan sát và “gợi ý” để trẻ nhớ động tác. Ở nhà trẻ mẫu giáo, việc cho trẻ phát triển cảm xúc và trải nghiệm là hai yếu tố quan trọng, bởi vậy, sau khi trẻ nắm được bài, chúng ta cần đưa thêm các hình thức tổ, nhóm, cá nhân. + Nhóm, tổ thi đua: Cô cho từng tổ vận động theo nhạc với nhiều cách tổ chức: đứng tại chỗ, lên trước lớp hoặc kết hợp. Hai tổ còn lại hát và cổ vũ rồi nhận xét tổ bạn. + Cá nhân (vận động sáng tạo): Nếu là tiết dạy vỗ tay theo tiết tấu, động tác đơn giản thì ở bước này, cô cho trẻ vận động sáng tạo. Giáo viên hỏi trẻ: “ngoài cách vận động mà cô vừa dạy, bạn nào có cách vận động khác, lên biểu diễn cho cả lớp xem nào?” rồi cho vài lượt trẻ vận động ngẫu hứng, sáng tạo. Để tạo khí thế vui nhộn, tuỳ vào thực tế của lớp, giáo viên có thể mời cả lớp đứng dậy “cùng vận động ngẫu hứng” theo một bạn (cô nhận xét, khen trẻ). Nếu là tiết dạy múa hoặc minh họa, động tác khó thì ở hình thức này cô cho vài lượt trẻ xung phong biểu diễn, múa lại bài đã học nhằm củng cố (cho một trẻ nhận xét bạn). c. Củng cố Bài vận động sau khi đã học cần phải được củng cố nhằm nâng cao kỹ năng và khắc sâu trí nhớ cho trẻ. - Cô hỏi tên bài hát, tác giả, dạng vận động vừa học và lồng ghép các nội dung tích hợp, giáo dục trẻ. + Cả lớp vận động ( tập biểu diễn): Nếu là tiết dạy gõ đệm thì cho trẻ cầm nhạc cụ, tập gõ đệm từ đầu giờ học. Nếu là tiết dạy vỗ tay theo tiết tấu thì bước củng cố có thể cho trẻ cầm nhạc cụ, tập biểu diễn. Cho trẻ hát và vận động (theo cách vận động cô dạy) có nhạc đệm, đội hình hàng ngang, hàng dọc, thành tốp hoặc đi vòng tròn. 45
  46. Tùy vào chủ đề để có thể sử dụng các đạo cụ: súng, mũ, nón, thú nhồi bông hoặc trang phục: khăn, váy, áo quần. cho trẻ tập dượt để chuẩn bị cho tiết biểu diễn cuối chủ đề. 7. Chuẩn bị dạy vận động Trước khi dạy vận động, giáo viên phải chuẩn bị một số nội dung: - Nghiên cứu lời ca bài hát: đề tài, nội dung, hình tượng. - Nghiên cứu âm nhạc: giọng điệu, nhịp điệu, tiết tấu, thủ pháp xây dựng tác phẩm, cấu trúc bài (tiết, câu, đoạn). - Chọn loại vận động : vỗ tay, gõ đệm; nhún nhảy, lắc lư; điệu bộ, minh hoạ; múa hoặc dạng vận động : tiết tấu chậm, tiết tấu nhanh, tiết tấu phối hợp để phù hợp với bài hát, với độ tuổi. - Biên động tác (số lượng, hướng chuyển động) trên cơ sở cấu trúc của bài, phù hợp độ tuổi. - Tập vận động thành thạo các động tác: Tự hát hoặc trên nền nhạc. - Chuẩn bị các giáo cụ, đạo cụ, nhạc cụ phục vụ cho tiết dạy. - Lên kế hoạch dạy. 8. Một số gợi ý, hướng dẫn biên đạo bài vận động, bài múa Chúng ta cần lưu ý rằng, đối với nhóm trẻ dưới 4 tuổi thì chỉ cần dạy trẻ biết phân biệt và thực hành được các dạng vận động như: Vỗ tay theo nhịp, vỗ tay theo phách, vỗ tay theo tiết tấu chậm nhưng với nhóm trên 4 tuổi, trẻ đã nắm được các dạng vận động thì giáo viên cần phải nâng cao hơn bằng cách biên đạo các động tác thành bài vận động. Sau đây là một số gợi ý nhỏ cho giáo viên tham khảo. a. Biên đạo vỗ tay tiết tấu nhanh bài “Sắp đến tết rồi” (Nhóm 4 tuổi). Phần dạo nhạc của bài (có 4 nhịp): các cháu đứng dậy lắc lư theo nhịp điệu của bài hát. + Câu 1 “Sắp đến tết rồi, đến trường rất vui”: Vỗ tiết tấu nhanh, phía trước ngực, người lắc lư nhẹ nhàng bên trái, bên phải. + Câu 2 “Sắp đến tết rồi, về nhà rất vui”: Vỗ tiết tấu nhanh bên phải, chân phải đưa sang phải ở tư thế người hơi nghiêng phải. + Câu 3 “Mẹ đã may áo mới nhé, ai cũng vui mừng ghê”: Vỗ tiết tấu nhanh bên trái, chân trái đưa sang trái ở tư thế người hơi nghiêng trái. + Câu 4 “Mùa xuân nay em đã lớn, biết đi thăm ông bà”: Vỗ tiết tấu nhanh phía trước ngực, người lắc lư nhẹ nhàng bên trái, bên phải. b. Biên đạo múa minh hoạ bài “Vườn trường mùa thu” (nhóm 4 tuổi). + Câu 1 “Mùa thu sang, chim líu lo múa ca hoà bình”: Trẻ đứng thành vòng tròn cầm tay nhau đi vào giữa rồi lùi ra hoặc các hàng ngang, tiến lên phía trước rồi lùi lại phía sau. 46
  47. + Câu 2 “Trời mây xanh nắng lung linh vui đùa theo gió”: Trẻ cầm tay đi lùi ra hoặc lùi lại phía sau. + Câu 3 “Vườn hoa tươi thơm ngát hương múa ca tưng bừng”: Trẻ vỗ tay theo tiết tấu chậm, phía trước. + Câu 4 “Là la la, lá la la chúng cháu vui trong vườn mùa thu”: Trẻ vỗ tay theo nhịp, sang hai bên kết hợp đá chéo chân. c. Biên đạo múa bài “Cháu yêu bà” (Nhóm 5 tuổi). Phần dạo nhạc của bài (có 8 nhịp): Các cháu chạy từ các góc ra giữa lớp, đứng thẳng, chân mở rộng bằng vai, hai tay đưa lên vẫy sang hai bên theo nhịp điệu của bài hát. + Câu 1 “Bà ơi bà, cháu yêu bà lắm”: Hai tay vòng rộng, đưa vào ấp nhẹ lên ngực. + Câu 2 “Tóc bà trắng, màu trắng như mây”: Hai tay đưa lên cao, vuốt từ từ bên tai thẳng xuống dưới, chân nhún theo. +Câu 3“Cháu yêu bà cháu nắm bàn tay”: Đứngvỗ tay theo nhịp sang hai bên + Câu 4 “Khi cháu vâng lời cháu biết bà vui”: Vỗ tay sang hai bên theo nhịp, chân đá chéo sang hai bên. d. Biên đạo múa bài “Trống cơm”, (Nhóm 5 tuổi). + Câu 1: Quỳ 1 chân, đánh trống hai tay. + Câu 2: Chân thế chữ đinh (một chân chùng đầu gối, chân kia thẳng), hai tay đánh một mặt trống, vung một tay ra, tay kia vẫn bịt mặt trống. + Câu 3: Hai bàn tay bịt hai mặt trống, khuỷu tay hơi nâng, bước cao chân tiến thẳng. + Câu 4: Một tay đặt sau lưng, một tay chỉ đuôi mắt, người đung đưa. + Câu 5: Hai tay đánh hai mặt trống, chân đi lướt theo vòng tròn nhỏ. + Câu 6: Bước đi chân mõ mời. + Câu kết: Quỳ một chân như lúc đầu, đánh trống hai tay sau đó bịt mặt trống, vung tay lên. Hai bàn tay uốn cong lên đầu, trước trán, hai bàn tay ngửa. Câu hỏi: 1. Nêu và phân tích các phương pháp dạy vận động cơ bản. 2. Phân biệt khái niệm loại vận động, dạng vận động, động tác vận động, bài vận động. 3. Hãy nêu khái niệm các cách vỗ tay, gõ đệm cơ bản . 4. Nêu những điểm khác nhau giữa vận động trọng tâm và vận động trong dạy hát theo hướng đổi mới. 5. Nêu những căn cứ để biên đạo động tác vận động cho trẻ. Bài tập thực hành: 1. Viết tiết tấu các cách vỗ tay cho các bài hát nhịp 2/4. 47
  48. 2. Tập từng dạng vận động vỗ tay theo tiết tấu cho các bài ở nhịp 2/4, 3/4. 3. Tập từng dạng vận động theo nhịp điệu các bài trong chương trình ở nhịp 2/4, 3/4. 4. Tập biên đạo động tác vận động cho các bài trong chương trình ở nhịp 2/4. 5. Tập biên đạo động tác vận động, minh họa cho các bài: Đội kèn tý hon Nhạc và lời: Phan huỳnh Điểu. Cá vàng bơi Nhạc và lời: Hà Hải. Đàn vịt con Nhạc và lời: Mộng Lân. Chú bộ đội Nhạc và lời: Hoàng Hà. HƯỚNG DẪN TỰ HỌC Tài liệu tham khảo 1. Trần Đồng Tâm. Trò chơi vận động mẫu giáo. NXB Giáo dục, Hà Nội 1980. 2. Tô Ngọc Thanh. Những vấn đề âm nhạc và múa.Vụ Nghệ thuât Âm nhạc và Múa, 1969. 3. Lê Ngọc Canh. Khái luận nghệ thuật múa. NXB VHTT, Hà Nội 1997. 4.Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục – Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Chương trình Giáo dục Mầm non. Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố theo chủ đề (trẻ 3-4 tuổi) và (trẻ 4-5 tuổi). 5. Hoàng Văn Yến. Hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục âm nhạc lớp mẫu giáo 5 tuổi (theo đổi mới tổ chức hoạt động giáo dục mầm non). NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2000. 6. Hoàng Văn Yến. Trò chơi âm nhạc cho trẻ mầm non. NXB Giáo dục 1998. 7. Phạm Thị Hoà. Giáo trình PPGD âm nhạc trong trường mầm non, NXB ĐHSP 2011. Kiến thức cơ bản 1. Nắm được mối liên hệ mật thiết giữa âm nhạc và múa và đối với trẻ em. 2. Tác dụng của vận động theo nhạc đối với trẻ: Phát triển thể chất (hệ cơ, xương, tai nghe), cảm giác nhịp điệu, tác phong nhanh nhẹn 3. Nắm đặc điểm, khả năng vận động của trẻ theo từng nhóm tuổi và các phương pháp dạy học cơ bản. 4. Hiểu các khái niêm trong vận động theo nhạc: dạng cận động, cách vận động, động tác vận động, bài vận động từ đó biết cách chọn dạng vận động phù hợp để dạy cho từng nhóm tuổi. 5. Tập viết tiết tấu các cách vỗ, gõ thông qua bản nhạc, thông qua lời ca 6. Trước khi dạy vận động, Gv phải nghiên cứu tác phẩm, chọn cách vận động, viết tiết tấu theo lời bài hát (vận động vỗ tay).Cách tiến hành dạy vận động. 48
  49. 7. Cách biên đạo động tác vận động, động tác múa phù hợp với bài hát, với độ tuổi. Câu hỏi 1. Nêu và phân tích các phương pháp dạy vận động cơ bản. Gợi ý: Dạy trẻ vận động theo 3 phương pháp cơ bản + Phương pháp làm mẫu: - Giáo viên làm mẫu cả bài cho trẻ xem. - Trẻ tri giác trọn vẹn bài vận động. - Động tác vận động được kết hợp với âm nhạc, lời ca, sẽ có sức lôi cuốn trẻ. - Là phương pháp nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ đối với nhận thức của trẻ. + Phương pháp dùng lời: - Giáo viên dùng lời nói để mô tả động tác, tư thế, đường nét cơ thể - Giọng nói của giáo viên phải dễ hiểu, có sức lôi cuốn trẻ, phải động viên, khuyến khích trẻ hào hứng học tập. - Dùng lời là phương pháp quan trọng để dẫn dắt trẻ đến với bài vận động, bài múa. + Phương pháp thực hành luyện tập: - Cho trẻ thực hành làm các động tác theo yêu cầu của giáo viên. - Với động tác khó, giáo viên cho trẻ tập 1 lần nhưng động tác khó, đòi hỏi độ chính xác cao, cần luyện tập nhiều lần để trẻ ghi nhớ bài học. - Có thể coi là phương pháp tích cực để trẻ trải nghiệm khả năng tri giác, bắt chước và nhận thức của bản thân. 2. Phân biệt khái niệm dạng vận động cách vận động, động tác vận động, bài vận động. Gợi ý: Cần phân biệt một cách rạch ròi các khái niệm trong vận động theo nhạc: + Dạng vận động: - Vỗ, gõ theo tiết tấu. - Nhún nhảy, lắc lư theo nhịp điệu. - Múa minh hoạ, làm điệu bộ theo nội dung lời ca. - Múa tiết mục, múa nghệ thuật theo chất liệu, tính chất, nội dung âm nhạc. + Cách vận động: Trong mối dạng có nhiều cách vận động - Vố, gõ theo tiết tấu có 6 cách: theo nhịp, theo phách, theo tiết tấu chậm, tiết tấu nhanh, tiết tấu kết hợp, theo tiết tấu lời ca. - Nhún nhảy, lắc lư có 3 cách thương dùng: theo nhịp 2/4; nhịp 3/4; 4/4. - Múa minh hoạ, điệu bộ gồm 3 cách: Làm cụ thể, làm cách điệu, làm động tác tượng trưng. 49
  50. - Múa nghệ thuật chuyên nghiệp gồm: Múa chất liệu các dân tộc Kinh, Tày, Khơ Me; Múa cổ điẻn, múa ba le, Vũ quốc tế + Động tác vận động: Là tư thế cúa cơ thể để thực hiện một cách vận động nào đó. Ví dụ: động tác vẫy tay nghiêng người bên phải, nghiêng người bên trái + Bài vận động: - Là tổ hợp gồm nhiều động tác, mỗi động tác thường kéo dài 4 nhịp. - Số động tác trong bài vận động tương ứng với số câu của bài hát (4 động tác). 3. Hãy nêu khái niệm các cách vỗ tay, gõ đệm cơ bản . Gợi ý: Vỗ tay, gõ đệm là cách vận động phù hợp với khả năng của trẻ. Có 6 cách: - Vỗ theo nhịp: là mỗi nhịp vỗ 1 cái vào phách mạnh ở đầu nhịp. - Vỗ theo phách: là mỗi phách vỗ 1 cái, phách mạnh vỗ mạnh hơn. - Vỗ tiết tấu chậm: là vỗ theo phách, sau 3 cái đều nhau là lặng. - Vỗ tiết tấu nhanh: là vỗ nốt đơn, sau 4 đơn là đen rồi lặng. - Vỗ kết hợp: là kết hợp tiết tấu chậm và nhanh. - Vỗ theo lời ca: là vỗ theo tiết tấu của bài hát, mỗi ca từ vỗ 1 cái. Sau khi nêu khái niệm, cần viết tiết tấu cho các bài hát nhịp 2/4. 4. Nêu những điểm khác nhau giữa vận động trọng tâm và vận động trong dạy hát theo hướng đổi mới. Gợi ý: + Trong tiết trọng tâm là vận động: - Giáo viên chuẩn bị các động tác (biên đạo) vận động, bài vận động. - Làm mẫu trước khi dạy vận động. - Dạy trẻ vận động (vận động theo cô). - Trẻ được vận động từ đầu, được hướng dẫn từng động tác + Trong tiết trọng tâm là dạy hát: - Giáo viên không chuẩn bị động tác, bài vận động. - Không dạy trẻ vận động. - Trẻ được vận động tự do (vận động theo ý thích của trẻ), theo nhịp điệu, không cần sự thống nhất. - Vận động vào cuối tiết học, khi đã thuộc bài hát. 5. Nêu những căn cứ để biên đạo động tác vận động cho trẻ. Gợi ý: - Căn cứ vào đặc điểm, khả năng âm nhạc của trẻ. Các động tác phải đảm bảo tính cân đối, ngược hướng, nhắc lại 50