Giáo trình Tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo (Dùng cho học viên hệ đào tạo từ xa)

pdf 41 trang hapham 2590
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo (Dùng cho học viên hệ đào tạo từ xa)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_to_chuc_hoat_dong_vui_choi_cho_tre_mau_giao_dung.pdf

Nội dung text: Giáo trình Tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo (Dùng cho học viên hệ đào tạo từ xa)

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH Hồ Thị Hạnh GIÁO TRÌNH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI CHO TRẺ MẪU GIÁO (Dùng cho học viên hệ đào tạo từ xa) Nghệ An - 2011 1
  2. LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI. 1. QUAN ĐIỂM HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI. 1.1.Quan niệm sinh vật hoá trò chơi. - Ở lứa tuổi MN chơi chính là cuộc sống của trẻ. Đặc biệt là lứa tuổi MG, chơi là hoạt động chủ đạo, trong khi chơi trẻ hoạt động sôi nổi, hết mình và chủ động như chính cuộc sống của mình; Khi chơi trẻ thỏa sức suy nghĩ, tìm tòi, ước mơ, tưởng tượng hết sức phong phú như nào là lái xe, nào là chữa bệnh, hay chú công nhân xây dựng cái gì cũng có thể làm được. Một cháu gái cũng có thể trở thành “nàng tiên”, “công chúa”, hay “lực sĩ”. Chính sự tưởng tượng ngây thơ đó đã đem lại cho trẻ niềm vui vô bờ và đó thực sự là giây phút hạnh phúc nhất của trẻ thơ. Người lớn cần nuôi dưỡng trí tưởng tượng ngây thơ này cho trẻ bằng trò chơi hấp dẫn hay truyện cổ tích. Nếu thiếu trò chơi và truyện cổ tích thì đời sống TL của trẻ trở nên khô cằn, khó mà phát triển bình thường được. Vậy chơi là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về HĐVC của trẻ MN. G. Spencer cho rằng: chơi chính là sự giải tỏa năng lượng dư thừa ở trẻ em giống như con vật non. Những năng lượng dư thừa ở con vật không được sử dụng trong hoạt động thực nên đã được tiêu khiển qua việc bắt chước hành động thực đó bằng trò chơi. ở trẻ em, trò chơi là sự bắt chước bản thân và người lớn. Trong trò chơi những bản năng nghịch ngợm phá phách của trẻ được đáp ứng. Học thuyết sức dư thừa của Spencer có những khía cạnh được thừa nhận nhưng vẫn mâu thuẫn với thực tiễn, bởi vì tham gia vào trò chơi không chỉ có những cháu khoẻ mạnh mà có cả những cháu bệnh tật (sức khoẻ yếu). Chơi không chỉ có tiêu hao năng lượng dư thừa mà còn có tác dụng khôi phục sức khoẻ cho trẻ. Sự dư thừa năng lượng chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện trò chơi chứ không phải nguyên nhân tạo ra trò chơi. S.Freud cho rằng trò chơi trẻ em là hành vi bản năng tình dục. Những say mê, mong ước, những biểu hiện bí ẩn của trẻ đều liên quan đến bản năng tình dục nhưng chúng không được thể hiện trong cuộc sống của trẻ nên biểu hiện trong trò chơi. Arian sumo Seipt dựa trên quan điểm của Freud cho ra đời thuyết trò chơi trị liệu. Bà cho rằng chơi là phương tiện để làm bình thường hoá các quan hệ của trẻ với người lớn, với thực tế xung quanh, xua tan nỗi bực tức, làm lành mọi tổn thương. G. Piagie - TLH Thụy sĩ coi trò chơi là một trong những hoạt động trí tuệ, là một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ, tạo ra sự thích nghi của trẻ với môi trường. * Tất cả các quan niệm trên dù có hạn chế, nhưng đều có đóng góp nhất định là khẳng định vai trò của trò chơi đối với cuộc sống của con người, nhất là trẻ em. 1.2. Quan niệm của các nhà TLH- GDH phương Tây Một số nhà GDH, TLH Phương Tây như Vallon, N. Khrixtencer cũng chỉ ra rằng, trò chơi của trẻ là sự phản ánh cuộc sống, là hoạt động của chúng được quy định bởi những điều kiện XH. Trẻ nhắc lại những ấn tượng đã được trải nghiệm vào trò chơi một cách có chọn lọc. Trò chơi không phải là bất biến, nó phản ánh hiện thực xã hội luôn vận động và phát triển. 1.3.Các nhà GDH- TLH Mác xít coi trò chơi là một hoạt động đặc trưng của xã hội loài người, phản ánh cuộc sống lao động, sinh hoạt của con người. Trò chơi của trẻ em không có nguồn gốc sinh học mà có nguồn gốc xã hội, được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác không theo con đường giáo dục. Theo G.V.Plêkhanốp, trò chơi là cầu nối các thế hệ với nhau, là phương tiện truyền tải thành tựu văn hoá từ đời này sang đời khác. 2
  3. Đ.B. Encônhin cùng quan điểm với Plêkhanốp cho rằng nhu cầu và sự ham hiểu biết thế giới xung quanh chính là nguồn gốc động lực giúp trẻ tích cực hoạt động trong trò chơi. Trẻ có nhu cầu chơi vì chúng mong muốn hiểu biết thêm về thế giới xung quanh. Từ những quan niện trên, dưới góc độ lý thuyết hoạt động, ta có thể hiểu : Chơi là một hoạt động mà động cơ của nó nằm trong quá trình chơi chứ ko phải nằm trong kết quả của hoạt động, khi chơi, trẻ ko chú tâm vào một lợi ích thiết thực nào cả, trong trò chơi các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và XH được mô phỏng lại, chơi mang lại cho trẻ trạng thái tinh thần vui vẻ, phấn chấn, dễ chịu. 2. Đặc điểm hoạt động vui chơi của trẻ tuổi MN Hoạt động vui chơi của trẻ em, đặc biệt là của trẻ MG có những đặc điểm sau : + HĐVC mang tính hồn nhiên, vô tư. Nghĩa là trong khi chơi trẻ ko chủ tâm nhằm tới một lợi ích thiết thực nào cả. Cái thúc đẩy trẻ chơi chính là sự hấp dẫn của đồ chơi và bản thân quá trình chơi chứ ko phải kết quả chơi. Trẻ chơi chỉ để vui, có vui thì mới chơi, vui là một thuộc tính vốn có của chơi. + HĐVC là HĐ không mang tính bắt buộc mà mang tính tự do, tự nguyện, tự lập. Vì trò chơi hấp dẫn trẻ, trẻ tự tạo ra nó, làm chủ được nó. Hơn nữa, do hành động chơi xuất hiện từ nguyện vọng và hứng thú cá nhân chứ ko do sự áp đặt máy móc từ phía người lớn. Thể hiện, tính tự chủ, tự lực trong khi chơi, trẻ tự làm hết mọi việc từ chọn trò chơi, bạn chơi đến việc tìm kiếm đồ chơi, ngoài ra còn thể hiện ở sự điều chỉnh hành vi của mình khi chơi. Chính tính độc lập và tự điều chỉnh hành vi đó ko chỉ tạo cho trẻ niềm vui sướng và lòng tự tin khi chơi mà còn giúp trẻ phát huy được khả năng tự lập của mình trong cuộc sống sau này. + HĐVC là HĐ mang màu sắc xúc cảm chân thực, mạnh mẽ. Trò chơi đã tác động mạnh mẽ và toàn diện đến trẻ, vì nó thâm nhập dễ dàng hơn cả vào thế giới tình cảm của trẻ, mà tình cảm đối với trẻ là động cơ mạnh mẽ nhất. Dù biết trong trò chơi mọi cái đều là giả vờ, nhưng tình cảm mà các em biểu hiện trong đó là tình cảm chân thực, hồn nhiên và thẳng thắn, ko mang tính giả tạo. M.X. Macarenco đánh giá: niềm vui trong trò chơi là niềm vui của sự sáng tạo, niềm vui chiến thắng, niềm vui đẹp đẽ, niềm vui của những phẩm giá. Hơn nữa, khi chơi trẻ ko chỉ trải nghiệm những xúc cảm, tình cảm tích cực mà còn cả những xúc cảm, tình cảm tiêu cực: như nỗi buồn khi thất bại, sự giận hờn chưa thỏa mãn trước kết quả chơi. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp, trò chơi thường mang lại cho trẻ niềm vui, sự thoải mái, mãn nguyện. + Hoạt động vui chơi mang tính chất tượng trưng. Vì HĐVC của trẻ là mô phỏng lại cuộc sống của con người, mô phỏng lại những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Trong khi chơi, trẻ có thể dùng đồ vật thay thế tượng trưng cho vật thật, việc thật. chính sự mô phỏng đó là điều kiện cần thiết giúp trẻ có được những hành động tự do, thoải mái, có niềm say mê đến tận cùng với bao ước mơ ngộ nghĩnh và thú vị, làm nảy sinh trí tưởng tượng và chức năng ký hiệu- tượng trưng, một chức năng TL cần thiết cho HĐHT và cuộc sống sau này. + HĐVC của trẻ mang tính sáng tạo. Tính sáng tạo được thể hiện rất đa dạng: trong việc lựa chọn trò chơi, đồ chơi, nội dung chơi, hoàn cảnh chơi, cách chơi. Trẻ không bắt chước một cách nguyên si hành động, cuộc sống của người lớn mà trẻ hành động, tỏ thái độ theo hứng thú, ý muốn và cảm nhận của mình. Tính sáng tạo còn thể hiện rõ trong việc sử dụng vật thay thế khi chơi. + Trò chơi của trẻ thay đổi theo lứa tuổi. Nếu ở lứa tuổi hài nhi, hành động chơi chưa thể hiện rõ và thường xuất hiện sau những hành động mang tính ngẫu nhiên, tình cờ; Bước sang tuổi ấu nhi hành động chơi thể hiện rõ hơn khi xuất hiện những hành động mang tính chủ động. Trẻ hành động nhằm khám phá đối tượng đồ vật và bắt chước hành động của người lớn, sau đó mô phỏng những hành động ấy trong khi chơi. Cuối tuổi ấu nhi trò chơi thao tác giả bộ xuất hiện. Đến tuổi MG trò chơi ngày càng phong phú và hoàn thiện. 3. Nguồn gốc và bản chất của hoạt động vui chơi 3
  4. Về nguồn gốc và bản chất của trò chơi có nhiều quan niệm khác nhau 3.1. Về nguồn gốc : Năm 1925 G.V. Plekhanop cho rằng trò chơi là một nghệ thuật xuất hiện sau lao động và trên cơ sở của LĐ. Sau đó, các nhà TLH Nga như L.X Vưgotxki, A.N. Leonchiep, Rubinstein Đ.B. Enconhin phát triển đầy đủ hơn. Họ khẳng định rằng: chơi có nguồn gốc từ lao động và chuẩn bị cho thế hệ trẻ đến với LĐ, nội dung chơi phản ánh hiện thực cuộc sống. Theo Đ.B. Enconhin, lịch sử phát triển của trò chơi gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người và sự thay đổi vị trí của đứa trẻ trong hệ thống các mối quan hệ xã hội. Ông đồng tình với quan điểm của Plêkhanốp rằng trong lịch sử xã hội thì lao động có trước và trò chơi chính là hiện tượng xã hội, là phương tiện để trẻ làm quen với lao động của người lớn, song thời nguyên thuỷ trò chơi không xuất hiện. Trò chơi xuất hiện khi công cụ lao động trở nên phức tạp và xã hội có sự phân công lao động theo lứa tuổi. Khi đó trẻ em không thể tham gia lao động cùng với người lớn, cũng không thể tham gia vào các mối quan hệ của người lớn như thời nguyên thuỷ, lúc này người lớn làm đồ chơi cho trẻ giống như công cụ lao động. với đồ chơi, trẻ không thể hành động giống như công cụ lao động mà chỉ có thể mô phỏng lại mà thôi. Trò chơi ĐVTCĐ xuất hiện. Khi trẻ chơi trò chơi này chúng được thoả mãn nguyện vọng của mình và vươn tới cuộc sống xã hội của người lớn, được hành động và đối xử như người lớn thực sự. Thực tế, lịch sử phát triển của mỗi cá nhân cho thấy, HĐVC xuất hiện trước hết do nhu cầu được chơi của trẻ. Nhu cầu này được hình thành trong XH- nơi trẻ sinh sống. Nhờ được người lớn hướng dẫn, trẻ được làm quen với phương thức hành động với đồ vật và phương thức giao tiếp của loài người, vốn kinh nghiệm sống của trẻ ngày càng phong phú, nhờ đó nhu cầu tham gia vào cuộc sống XH như người lớn được nảy sinh và thôi thúc trẻ. Song khả năng của trẻ còn hạn chế chưa cho phép trẻ sống và làm việc như người lớn. Để giải quyết mâu thuẫn này, trẻ tìm đến một phương thức để thỏa mãn nhu cầu này là dưới hình thức giả vờ: giả vờ bế em, giả vờ tiêm, hay bán hàng, giả vờ lái xe TCĐVTCĐ xuất hiện. 3.2. Bản chất của trò chơi Theo quan điểm sinh vật hóa cho rằng trò chơi mang tính bản năng nhằm giải tỏa những năng lượng dư thừa trong cơ thể hoặc giải tỏa những đam mê tình dục tuổi ấu thơ. Theo quan điểm của các nhà TLH mác xít và các nhà TLH phương tây hiện đại thì khẳng định rằng trò chơi của trẻ mang bản chất XH (thể hiện ở nguồn gốc xuất hiện của trò chơi, về chủ đề, nội dung chơi và hình thức biểu hiện). Bản chất XH của HĐ chơi còn biểu hiện bởi điều kiện mà mỗi xã hội tạo ra cho trẻ chơi. Nhưng ko phải XH nào cũng tạo ra được ĐK đó. Một số trẻ em đã tham gia sớm vào công việc gia đình, công việc nặng nhọc đã làm mất đi tuổi thơ và trò chơi của trẻ. Hơn nữa, nội dung của trò chơi mang tính XH rõ nét như qua trò chơi của trẻ ta thấy dấu vết của XH- thời đại (trò chơi ĐVTCĐ). Như vậy, các trò chơi của trẻ em ở các dân tộc và ở mọi thời đại đều mang trong mình dấu ấn sâu sắc về sự phát triển của XH. Khẳng định trò chơi mang bản chất XH cũng chính là khẳng định tác động tích cực của người lớn đến trò chơi của trẻ. KLSP: Trong khi để trẻ chơi một cách tự nhiên, chủ động, người lớn cũng cần hướng dẫn trẻ chơi một cách có chủ đích, có phương hướng và có kế hoạch nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động chơi. tức là có thể sử dụng trò chơi như một phương tiện giáo dục quan trọng đối với trẻ. 4. ý nghĩa của hoạt động vui chơi. 4. 1.Chơi là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ MN Chơi là phương tiện giáo dục phát triển trí tuệ cho trẻ Giúp trẻ mở rộng, củng cố, chính xác hóa những biểu tượng của trẻ về cuộc sống xung quanh. Vì nội dung chơi là phản ánh thế giới xung quanh, nên khi tham gia chơi trẻ càng hiểu hơn về cuộc sống xung quanh, làm chính xác hóa, phong phú hơn những điều trẻ đã lĩnh hội được. 4
  5. VD trẻ có biểu tượng chính xác hơn về chức năng sử dụng một số đồ dùng sinh hoạt quen thuộc: thìa để xúc cơm, cốc để uống nước; người bác sĩ thì phải làm gì, bế em thì phải thế nào Trong quá trình chơi, những tri thức mà trẻ nắm được trước đây bắt đầu tham gia vào một số liên hệ mới và được điều khiển, vận dụng tri thức ấy trong những hành động chơi, thao tác chơi: trẻ dùng thìa bón cơm cho búp bê, dùng khăn rửa mặt cho búp bê, đặt em ngủ, nựng búp bê như mẹ đã chăm sóc em. Chơi là phương tiện giúp trẻ lĩnh hội tri thức mới. Thể hiện trong quá trình thực hiện các hành động chơi, thao tác chơi, trẻ nhận ra được một vài thuộc tính, mối quan hệ nào đó của SV, HT. VD trẻ hình dung ra được thế nào là to hơn, nhỏ hơn; thế nào là cao hơn, thấp hơn, gần hơn, xa hơn chính nhờ phát hiện ra những tri thức mới đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính tích cực nhận thức của trẻ, thôi thúc trẻ tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo trong khi chơi. Trò chơi là phương tiện phát triển các quá trình tâm lý, nhận thức cho trẻ như cảm giác, trí giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng và ngôn ngữ. Vì khi tham gia vào trò chơi, các chuẩn cảm giác về hình dạng, kích thước, màu sắc của trẻ được củng cố và chính xác hóa, nhờ đó trẻ dễ dàng thực hiện hành động chơi, nội dung chơi (xếp được ngôi nhà hợp lý, phân loại đồ vật theo màu sắc). Tính chủ định trong các quá trình TL được hình thành trong HĐ chơi. + Tư duy cũng được PT vì khi tham gia vào trò chơi, trẻ suy nghĩ về hành động chơi, thao tác chơi ( làm bác sĩ thì phải làm gì? làm như thế nào?) sử dụng vật thay thế như thế nào? trẻ học cách giải quyết nhiệm vụ, tìm kiếm phương tiện thích hợp nhất để thực hiện dự định đã đề ra. Qua đó tư duy của trẻ được phát triển mạnh mẽ. + V/C còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Chơi là phương tiên giáo dục đạo đức cho trẻ Trò chơi mà đặc biệt là trò chơi ĐVTCĐ ảnh hưởng mạnh đến nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức của trẻ. Hãy CM? + Khi tham gia vào trò chơi đứa trẻ trải nghiệm được những thái độ, tình cảm đạo đức và tập được hành vi ứng xử với người xung quanh bằng cách nhập vai của mình, qua đó trẻ học làm người. + Khi chơi trẻ thử sức hành động như người lớn, qua đó dần dần hình thành hành vi và thái độ riêng cho bản thân; thực hiện hành động chơi phù hợp với quy tắc, chuẩn mực đạo đức Xh của vai, VD như bác sĩ thì phải ân cần, niềm nở với bệnh nhân, phải thông cảm, chia sẻ với bệnh nhân + Trong quá trình chơi sau nhiều lần đóng vai, và đóng nhiều vai khác nhau, dần dần trẻ nắm được quy tắc giao tiếp, ứng xử giữa người với người. Những tri thức về các biểu tượng hành vi đạo đức mà trẻ đã lĩnh hội được dần dần được trẻ vận dụng vào trong các mối quan hệ thực của đời sống như biết thương yêu em bé, biết vâng lời cô giáo + Trong HĐ V/C, đặc biệt là trò chơi ĐVTCD, dưới sự hướng dẫn của cô giáo, một số phẩm chât cao quý được hình thành ở trẻ như tính thật thà, dũng cảm, tính chủ động, kiên trì, đặc biệt là lòng nhân ái. Vì khi tham gia vào các MQH người – người trong trò chơi, những rung động mang tính người được gợi lên ở trẻ. Hơn nữa, thái độ vui hay buồn còn phụ thuộc vào hoàn cảnh tưởng tượng trong khi chơi. Do vậy, trong khi chơi đã thể hiện tình người. Như vậy, chơi là một mắt xích nối liền giữa trẻ với quy tắc, chuẩn mực đạo đức Xh. Nó giúp cho quá trình hình thành các phẩm chất đạo đức diễn ra tự nhiên, hiệu quả. chơi là phương tiên giáo dục thể chất cho trẻ - Vì sao? Vì chơi mang lại niềm vui cho trẻ, làm cho tình thần được sảng khoái- làm cho thể lực phát triển tốt hơn. + Khi tham gia vào trò chơi, các cơ quan trong cơ thể được vận động một cách tích cực, thúc đẩy sự trao đổi chất, tăng cường hô hấp và tuần hoàn máu góp phần tăng cường sức khỏe cho trẻ ( nhưng vận động đó phải hợp lý ko quá sức). 5
  6. Lưu ý: khi lựa chọn trò chơi (đặc biệt là trò chơi vận động) cô cần lưu ý đến tư thế của trẻ và nhiệm vụ chơi phải phù hợp với khả năng của trẻ. + Những trò chơi phù hợp với sự phát triển của lứa tuổi sẽ góp phần phát triển và hoàn thiện các vận động cơ bản như chạy, nhảy, leo và góp phần rèn luyện chất thể lực như: nhanh, mạnh, khéo, bền Chơi là phương tiên giáo dục thẫm mĩ cho trẻ Cái đẹp mà trẻ cảm nhận được trong khi chơi là gì? + Trẻ cảm nhận được cái đẹp ở sự phong phú, đa dạng về màu sắc, hình dạng, kích thước, âm thanh của đồ vật, đồ chơi. + Cảm nhận được vẻ đẹp trong hành vi, trong giao tiếp, ứng xử của các mối quan hệ giữa người với người và giữa người với thế giới hiện thực. Lưu ý: khi tổ chức vui chơi cho trẻ? Cô cần tạo ra môi trường tiện lợi, để hấp dẫn trẻ, Trong đó yếu tố thẫm mỹ cần đặc biệt quan tâm, từ trang trí lớp, đến đồ chơi, đến cách cư xử, đều cần làm sao cho đẹp để gợi lên ở trẻ những cảm xúc thẫm mỹ lành mạnh. + Trò chơi còn giúp trẻ hình thành nhu cầu sống theo cái đẹp, bảo vệ cái đẹp và làm ra cái đẹp. Điều này thể hiện rõ nhất trong trò chơi XD-LG, TCĐVTCĐ. Chơi là phương tiên giáo dục lao động cho trẻ. Qua chơi giáo dục LĐ cho trẻ như thế nào? Qua chơi trẻ nhận ra được biểu tượng về lao động, về ý nghĩa Xh và tính hợp tác của nó. + Hình thành cho trẻ một số KN lao động đơn giản như Kn tự phục vụ, KN trực nhật. + Qua chơi GD cho trẻ một số phẩm chất đạo đức cần thiết cho người LĐ như: tính mục đích, tính sáng tạo, lòng yêu LĐ, thích LĐ. KLSP: Nhà GD phải tạo ra môi trường thuận lợi để trẻ được chơi một cách chủ động, sáng tạo và chơi hết mình. Đối với trẻ thơ chơi là cuộc sống của trẻ. tổ chức cho trẻ chơi là mang lại hạnh phúc cho tuổi thơ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển tự nhiên nhất. 4.2.Chơi là hình thức tổ chức đời sống của trẻ ở trường MN Đối với trẻ MN, chơi chính là cuộc sống thực của trẻ. ở trường MN nếu trẻ ko được chơi thì không khí sẽ rất nặng nề, lúc đó trường chỉ là nơi giữ trẻ, không phải là nơi CS-GD trẻ, hạnh phúc của trẻ thơ bị tước đoạt, tâm hồn của trẻ thơ dần trở nên khô cứng. Vì sao vậy? Vì chơi là HĐ đặc trưng của trẻ, nó có mặt trong tất cả các HĐ khác, như HĐ HT, HĐLĐ, trong giao tiếp và trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Do vậy, việc tổ chức cho trẻ chơi vừa là nhiệm vụ, vừa là con đường GD có hiệu quả cho trẻ. Chơi là phương thức thỏa mãn nhu cầu được sống và được làm việc như người lớn. Trong mỗi giờ chơi, mỗi trò chơi phản ánh một mảng của hiện thực đời sống XH: bệnh viện, trường học, cửa hàng, bách hóa, công viên Mỗi trẻ có vị trí nhất định trong nhóm chơi. Khi chơi, trẻ khônh chỉ biết phối hợp với nhau trong nhóm chơi: người bán và người mua; giữa bác sĩ và bệnh nhân, mà còn biết phối hợp với nhau giữa các nhóm chơi như người mua hàng có con ốm nên phải đưa con đi gặp bác sĩ, rồi sau đó ghé qua cửa hàng mua sữa cho con Sự phối hợp giữa trẻ với nhau như vậy đã hình thành một “Xh trẻ em” trong khi chơi. Chính trong Xh đó, trẻ thỏa sức hành động, được sống trong Xh người lớn thu nhỏ, được làm việc, nói năng, được xưng hô như người lớn Vì thế trẻ luôn là chủ thể tích cực. ở đây trẻ tìm thấy vị trí của mình trong nhóm bạn bè, và cũng ở đây trẻ cảm thấy mình được tự do thoải mái và tự tin vào bản thân hơn. Vì vậy, có thể nói “XH trẻ em” là hình thức đầu tiên giúp trẻ được sống và làm việc cùng nhau, được sống cuộc sống của người lớn. KLSP: Nhóm trẻ cùng chơi là một trong những cơ sở Xh đầu tiên của trẻ. Do đó, người lớn cần tổ chức tốt các hoạt động vui chơi cho trẻ. Người lớn phải chú ý tổ chức cho trẻ được chơi thoải mái, tạo môi trường, tình huống cho trẻ phối hợp - liên kết với nhau trong các nhóm chơi và làm cho các nhóm chơi của trẻ thực sự là một hình thức tổ chức đời sống của trẻ ở trường MN. 6
  7. 4.3.Mối quan hệ qua lại giữa chơi và lao động, chơi và học tập, chơi và hoạt động nghệ thuật của trẻ MN * Mối quan hệ giữa chơi và lao động Vui chơi và LĐ đều có sự cố gắng về thể lực và trí tuệ, nhưng giữa chúng có sự khác biệt nhau căn bản: LĐ tạo ra sản phẩm là giá trị vật chất và văn hóa, còn chơi không tạo ra sản phẩm đó nhưng có quan hệ gián tiếp đến quá trình tạo ra sản phẩm ấy. Ở lứa tuổi MG chơi và LĐ có MQH khăng khít với nhau, chi phối lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Thông qua chơi, trẻ học được một số kỹ năng cần thiết. Trong LĐ cũng nhuốm màu sắc của HĐ V/C: HĐ LĐ của trẻ tổ chức nhẹ nhàng như là chơi, hoặc đưa yếu tố chơi vào HĐLĐ thì trẻ sẽ LĐ sôi nổi, hiệu quả hơn. Mặt khác, những kỹ năng trẻ được luyện tập trong LĐ sẽ được chuyển vào trong trò chơi, làm cho hành động chơi mang tính chất thật hơn, dưới sự hướng dẫn của người lớn, trẻ biết tạo ra ra đồ chơi phục vụ cho trò chơi của mình thêm hấp dẫn. Tóm lại: trong khi chơi trẻ lĩnh hội được những kỹ năng lao động đơn giản và khi LĐ của trẻ được tổ chức dưới hình thức chơi, giúp cho trẻ LĐ tích cực hơn. * Mối quan hệ giữa chơi và học tập HĐVC và HĐHT cũng có MQH khăng khít, chi phối lẫn nhau, bổ sung cho nhau giống như HĐLĐ. Thông qua chơi, trẻ học tiếp nhận nền văn hóa XH, biến kinh nghiệm XHLS thành kinh nghiệm của bản thân. Khi tham gia vào trò chơi, trẻ ko tự đặt ra mục đích là làm cho mình lĩnh hội và phát triển cái gì. Những tri thức, kỹ năng mà trẻ lĩnh hội được qua trò chơi diễn ra một cách tự nhiên (chơi mà học). Mặt khác, HĐHT của trẻ được nẩy sinh và phát triển trong lòng HĐ chơi, nên nó mang màu sắc chơi rất rõ rệt; Học trong niềm vui được tham gia vào trò chơi (học mà vui, vui mà học). Như vậy, giữa chơi và học của trẻ có MQH khăng khít khó phân biệt. + Về phương diện kết quả thì đó là học tập. + Đứng về phương diện hoạt động thì coi đó là chơi. Bởi trong quá trình học tập trẻ chưa ý thức đầy đủ mục đích học tập.Tức HĐHT của trẻ chưa có động cơ đích thực, mà do động cơ chơi thúc đẩy * KLSP: Để hoạt động học tập của trẻ có kết quả, cần biến đối tượng nhận thức của trẻ thành động cơ chơi của chúng. *Mối quan hệ giữa chơi và hoạt động nghệ thuật Chơi và HĐ nghệ thuật của trẻ rất gần gũi với nhau. Ngôn ngữ, kỹ năng hoạt động nghệ thuật được trẻ đưa vào trong trò chơi, giúp trẻ dễ dàng thực hiện được nội dung chơi, hành động chơi. Những lời ca, những câu nói giàu tính nghệ thuật mà trẻ tiếp nhận được trong các tác phẩm thơ, truyện sẽ được trẻ sử dụng trong trò chơi, làm cho trò chơi trở nên hấp dẫn, vui nhộn. Mặt khác, HĐ nghệ thuật của trẻ cũng diễn ra nhẹ nhàng như là chơi: Trẻ vừa đọc thơ, kể chuyện vừa mô phỏng hành vi, việc làm của nhân vật theo nội dung thơ, truyện ( như trò chơi đóng kịch). Đặc biệt, trò chơi lắp ghép- xây dựng được ra đời trên cơ sở của HĐ tạo hình (vì các kĩ năng xây dựng trẻ có là nhờ HĐ tạo hình). Thực tế cho thấy, việc dạy trẻ các ki năng xây dựng tạo điều kiện cho trẻ phát triển các trò chơi của mình. * Tóm lại, chơi có mối quan hệ chặt chẽ với HT, LĐ và tạo hình. Chính vì các mối quan hệ này đã cuốn hút trẻ và tạo điều kiện cho sự phát triển chung của trẻ MG 5. Đồ chơi 5.1. Đặc điểm của đồ chơi Đồ chơi là vật thay thế cho đồ vật thật, mô phỏng những đồ vật thật nên giúp trẻ thực hiện những hành động chơi tương ứng với hành động thực. 7
  8. Đồ chơi phản ánh nền văn hóa của mỗi dân tộc. XH phát triển thì đồ chơi cũng ngày càng phát triển phong phú, tinh vi, hấp dẫn hơn. Đồ chơi mang tính hiện đại, tính toàn cầu. Điển hình là loại đồ chơi cơ giới và điện tử. Đồ chơi khác đồ vật ở những điểm nào? Đồ chơi chỉ là mô tả một cách ước lệ và khái quát những vật dụng trong LĐSX và trong sinh hoạt hàng ngày của XH. Do đó, ngoài việc dùng vào chơi, đồ chơi ko còn công dụng nào khác. + Nhờ tính ước lệ và khái quát của đồ chơi mà nó trở nên linh hoạt, sinh động, phong phú về chức năng sử dụng vào các trò chơi. 5.2.ý nghĩa của đồ chơi Đồ chơi giúp cho trẻ thực hiện được các trò chơi, mà trò chơi chính là cuộc sống của trẻ thơ. Đồ chơi xuất hiện như người bạn thân thiết của trẻ. + Đồ chơi giúp trẻ tạo ra hoàn cảnh chơi, nhập vào vai chơi, thực hiện và phối hợp những hành động chơi, nhờ đó trẻ quen dần với thế giới đồ vật, nắm được đặc điểm, công dụng và phương thức sử dụng của chúng. + Đồ chơi phát triển ở trẻ tính ham hiểu biết và năng lực trí tuệ. + Đồ chơi đáp ứng được tính tích cực vận động, giúp tăng cường sức khỏe cho trẻ. + Đồ chơi mang tính thẫm mỹ, gây cho trẻ cảm xúc thẫm mỹ, trí thông minh, tính hài hước, thị hiếu thẫm mĩ. + Đồ chơi làm cho các cháu vui vẻ, sung sướng, khêu gợi ở chúng mối quan hệ tích cực với môi trường xung quanh, tình thân ái đối với bạn bè, quan tâm đến mọi người, thể nghiệm được những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Đặc biệt, trò chơi búp bê, có tác dụng khêu gợi thái độ tích cực đối với đời sống của con người và tình yêu thương đồng loại. + Đồ chơi giúp trẻ phát triển các chức năng TL như: cảm giác, thị giác, thính giác, sự tập trung chú ý, phát triển các cử động tinh khéo của đôi tay. Đó là nấc thang đầu tiên để sau này trẻ có được những hành vi của con người. 5.3.Phân loại đồ chơi Thế giới đồ chơi của trẻ vô cùng phong phú bao gồm nhiều loại: 5.3.1. Loại đồ chơi mang tính hình tượng: Là loại đồ chơi mang tính mô phỏng con người và những gì trong cuộc sống thực như búp bê, đồ dùng trong gia đình. Loại đồ chơi này thường được dùng trong trò chơi ĐVTCĐ. .5.3.2. Loại đồ chơi kĩ thuật :Là loại đồ chơi giúp trẻ quen với những đồ vật mang tính kĩ thuật máy móc, các phương tiện sinh hoạt. Nó bao gồm loại đồ chơi mô phỏng các loại phương tiện giao thông vận tải có gắn động cơ hoặc ko như: máy điện thoại, rađio, tivi, ô tô 5.3.3. Loại đồ chơi vật liệu lắp ghép xây dựng cơ bản Gồm 2 loại: - Loại đồ chơi các hình học bằng gỗ hay nhựa hình vuông, tròn, tam giác, hình chữ nhật và các hình khối theo các hình hình học đó giúp trẻ có thể xếp được thành các hình khối khác nhau ( như ngôi nhà, hình hoa, hình người hay những con vật). - Loại đồ chơi dùng những vật liệu- kiến trúc, như mái nhà, vòm nhà, cánh cửa, hàng rào Ngoài ra, còn những vật liệu mang tính hình hình học cơ bản. Trẻ thường dùng chúng vào trò chơi xây dựng một cách thuận tiện tùy vào chỗ chơi, tùy theo ý đồ chơi của trẻ. 5.3.4. Đồ chơi vận động. 5.3.5. Đồ chơi mang tính hài hước vui nhộn như mặt nạ, ông hề nhào lộn, thỏ đánh trống, khỉ leo cây Nó thường được dùng trong trò chơi đóng kịch hay múa rối. 5.3.6. Đồ chơi âm nhạc như lục lạc, kèn, mỏ, sáo , trống. Ngoài ra còn có đồ chơI phát ra tiếng kêu của con vật như: chim hót, chó sủa, gà gáy 5.3.7. Đồ chơi dân gian: Là loại đồ chơi mang tính dân tộc có trong nhân dân. Những đồ chơi này thường do các nghệ nhân làm ra theo phong cách dân gian bằng các chất liệu dễ tìm trong 8
  9. các làng như que, như tre, cọng rơm, cuống rạ, lá cây, rễ cây, hột hạt, vỏ sò, hến ( như búp bê bằng gỗ, con giống bằng đất nặn 5.3.8. Vật liệu chơi: Là những vật liệu phù hợp với trò chơi như đất nặn, trẻ có thể làm ra bánh , con giống, hột hạt, vỏ sò, vỏ bia Ngày nay, các nước trên thế giới có ngành công nghệ sản xuất đồ chơi. Công nghệ đồ chơi ngày càng được phát triển tinh xảo, mang tính khoa học kỹ thuật cao, điển hình là những đồ chơi điện tử. Nó vừa có lợi và có hại. Một mặt nó vừa tạo điều kiện cho trẻ tiếp cận được với khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhưng mặt khác nó gây nên tác hại về thể chất lẫn tinh thần nếu trẻ sử dụng quá nhiều (như mắt mờ, béo phì). Tuy nhiên, việc khôi phục lại đồ chơi dân gian vẫn có ý nghĩa lớn đối với HĐVC của trẻ. Vì đồ chơi này lưu giữ lâu bền nhất bản sắc dân tộc và có khả năng tác động mạnh mẽ đến sự phát triển toàn diện của trẻ. * KLSP: Người lớn làm đồ chơi và Khuyến khích trẻ làm đồ chơi bằng các vật liệu trong thiên nhiên (cọng rơm, hoa lá, hòn sỏi) hoặc những vật liệu có sẵn trong cuộc sống hàng ngày như vỏ bao diêm, hộp bia, giấy việc trẻ tạo ra đồ chơi giúp cho cuộc chơi thêm hào hứng, say mê. Điều đó đặc biệt cần thiết đối với địa phương kinh phí còn nghèo nàn thì việc vận động người lớn làm đồ chơi cho trẻ là cần thiết. Tất nhiên là trẻ ở đó rất cần những đồ chơi được chế tạo bằng công nghệ tiên tiến. Ngược lại, trẻ ở đô thị cũng cần những đồ chơi làm bằng vật liệu thiên nhiên và trong cuộc sống gần gũi với con người. 5.4. Một số yêu cầu đối với đồ chơi của trẻ Đồ chơi của trẻ có thể ví như sách giáo khoa cho HS phổ thông. Đồ chơi chuẩn mực là một điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả CS-GD trẻ. yêu cầu đồ chơi phải đảm bảo: Mang ý nghĩa giáo dục Phải phản ánh được những thuộc tính đặc trưng của đồ vật thật Phải hấp dẫn trẻ Phải đảm bảo vệ sinh và an toàn cho trẻ 5.5. Một số vấn đề hướng dẫn trẻ sử dụng đồ chơi Phải lựa chọn đồ chơi phù hợp với thể loại trò chơi, với lứa tuổi của trẻ. Lứa tuổi ấu nhi đồ chơi phải có màu sắc rực rỡ, có thể di chuyển, phát ra âm thanh, đơn giản, gần gũi để trẻ dễ dàng thao tác với chúng. Đến tuổi MG, đồ chơi có thể phức tạp hơn, nhiều chi tiết hơn, nhiều chức năng sử dụng nhằm phát triển chủ đề và nội dung chơi. Đồ chơi kĩ thuật, đồ chơi dụng cụ thể thao, đồ chơi phản ánh sinh hoạt đa dạng, phong phú. Đồng thời, hướng dẫn trẻ tự làm đồ chơi, biết giữ gìn, bảo quản đồ chơi, biết cất đồ chơi đúng nơi quy định. 6.Câu hỏi ôn tập 6.1.Nêu một số quan điểm về trò chơi. Đánh giá ưu, nhược điểm của các quan điểm đó. 6.2. Trình bày khái niệm, nguồn gốc và bản chất của hoạt động vui chơi. 6.3. Trình bày đặc điểm của hoạt động vui chơi. 6.4. Chứng minh rằng chơi là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ em mầm non. 6.5. Trình bày cách hướng dẫn và sử dụng đồ chơi. Cho ví dụ minh hoạ. CHƯƠNG II : PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN TRÒ CHƠI CHO TRẺ MẪU GIÁO 1. Trò chơi đóng vai theo chỦ đỀ 1.1. Những đặc điểm đặc trưng của trò chơi ĐVTCĐ + V/C ko mang tính chât bắt buộc + mang tính tự lập, tự chủ, tự nguyện + Chơi cùng nhau, phải biết hợp tác giữa các thành viên trong khi chơi + Trò chơi mang tính chất ký hiệu - tượng trưng Đặc điểm đặc trưng làm cho trò chơi đóng vai khác hẳn với các trò chơi khác gồm các nét đặc trưng sau; 9
  10. *Chủ đề chơi : Là các mảng hiện thực được phản ánh vào trò chơi, nên nó mang tính chất muôn màu, muôn vẻ. Chủ đề sinh hoạt gia đình (trò chơi mẹ con, nấu ăn ). Chủ đề bán hàng (trò chơi cửa hàng bách hóa), chủ đề giao thông vận tải (trò chơi chú lái xe), chủ đề trường học (trò chơi dạy học ), chủ đề bệnh viện (trò chơi bác sĩ; phòng khám răng) *Vai chơi: Vai chơi là trẻ ướm mình vào vị trí của một người lớn nào đó và bắt chước hành động của họ như là để thực hiện các chức XH Vai chơi là yếu tố quan trọng để tạo nên trò chơi. Vai chơi luôn gắn liền với hành động chơi ( thực hiện một công việc nào đó mang tính chất nghề nghiệp như cô giáo- dạy học; bác sĩ - khám bệnh; công nhân- xây dựng). Đóng vai chính là con đường để trẻ thâm nhập vào cuộc sống của người lớn xung quanh. Đóng vai là hành động chủ yếu của trò chơi. nếu trẻ ko biết đóng vai thì TCĐVCĐ ko thành công. Qua nhiều lần chơi khả năng đóng vai của trẻ ngày một tốt hơn. * TCĐVCĐ mang tính hợp tác. Trò chơi này mô phỏng lại cuộc sống xung quanh của người lớn. HĐ của người lớn bao giờ cũng mang tính hợp tác. Do vậy, để tiến hành trò chơi này phải có nhiều trẻ cùng tham gia, cùng HĐ với nhau. Do vậy, một "XH trẻ em" được hình thành. Bản chất của TC này là mô hình hóa những quan hệ XH mà trẻ chịu sự chi phối. Đó là những MQH giữa những người lớn với nhau trong XH được trẻ em quan tâm và trở thành đối tượng hành động của chúng ( mẹ - con ; cô giáo- học sinh). Mỗi trò chơi có hai mặt: mặt thứ nhất là động cơ có tính chất XH, tức là “ý”; Mặt thứ hai là mặt kỹ thuật (bao gồm các thao tác) tức là "nghĩa". Trò chơi ĐVTCĐ chủ yếu nhằm vào “ý” tức là nhằm vào hình thành động cơ của trẻ được biểu hiện trong các MQH XH (dù chỉ là mô phỏng); Còn mặt kỹ thuật ( những thao tác với đồ vật) chỉ là hỗ trợ cho mặt thứ nhất. Nhờ có trò chơi này mà mỗi trẻ có cách nhìn mới về mình( ko còn nhìn mình một cách chủ quan như hồi lên ba nữa), mà là người khác, như một nhân vật của đời sống XH. Tức là bằng trò chơi ĐVTCĐ đứa trẻ đảm nhiệm các chức năng XH và tự biến mình thành một nhân cách XH, một con người như mọi người (vì trẻ có thể đóng bất cứ vai nào). ý nghĩa XH của ntrò chơi được thể hiện trong các quy tắc mà ai cũng phải tuân theo (những quy tắc này được trẻ mô phỏng vào trò chơi), vd như mua hàng thì phải trả tiền, đi đ ường phải đi bên phải, đèn đỏ thì phải dừng lại Khi chơi trẻ tự nguyện chấp nhận những chuẩn mực của đời sống XH trong các MQH: Người lớn với nhau và với trẻ em. Dần dần trẻ chuyển những quan hệ XH khách quan vào trong nhân cách của mình, tạo ra sự trải nghiệm, tạo ra thế giới nội tâm. Kết quả là tạo ra một cách nhìn nhận bản thân mình, tức tự ý thức (ý thức cá nhân) hình thành- cốt lõi trong nhân cách mỗi người. *Trò chơi ĐVTCĐ mang tính biểu trưng cao, đó là chức năng kí hiệu tương trưng của trò chơi này. Giả tượng trưng cho thật, thể hiện trong khi chơi mỗi trẻ tự nhận cho mình một vai và hành động theo vai của mình nhưng tất cả những gì diễn ra trong trò chơi chỉ là giả vờ mà thôi. Từ vai chơi, hành động chơi, đồ chơi đều là giả, đều mang ý nghĩa tượng trưng, nhưng lại rất thực đối với trẻ vì nó phản ánh cái có thực đã xảy ra trong cuộc sống như vậy (mẹ- con, mẹ ru con, cho con ăn, ngủ, chơi với con ). Sự kiện đó đã cho ra đời chức năng mới của ý thức: đó là chức năng ký hiệu- tượng trưng. từ đây trẻ có thêm một loại hình mới để nhận thức hiện thực, đó là nhận thức hiện thực thông qua hệ thống ký hiệu. Nó là loại hình nhận thức đặc trưng của con người. Các chức năng kí hiệu mà trẻ sử dụng trong TCĐVTCĐ Gồm 3bachức năng ký hiệu: 10
  11. - Ký hiệu về vai chơi: Vai mẹ - tượng trưng một người mẹ cụ thể ở trong XH ( VD Hằng là mẹ, Bình là con) - Hệ thống ký hiệu về hành động theo vai: là những hành động mô phỏng (giả vờ)- tượng trưng cho việc làm của vai (như giả vờ khám bệnh - để tượng trưng vai bác sĩ ). Đây cũng chỉ là hành động mang tính ước lệ cho những hành động thực của vai (vì hành động đó chỉ còn lại một số thao tác tượng trưng thôi, đã loại bỏ nhiều thao tác cụ thể khác ko phải hoàn toàn như thật) - Ký hiệu về đồ chơi: Là khả năng sử dụng vật thay thế cho vật thật khi tham gia vào trò chơi (như một mẩu gỗ có thể là mâm ở trò chơi này, nhưng có thể là cái gường ở trò chơi khác Nhờ đó, trẻ có thể có bất cứ cái gì mình muốn để thực hiện vai chơi, hành động chơi. - Chức năng ký hiệu tượng trưng cho phép trẻ tách hành động khỏi đồ vật thật mà hành động với vật thay thế (hành động phi ngựa bằng gậy- đã mất đi ý nghĩa thực tiễn biến thành một ký hiệu đánh dấu việc cưỡi ngựa) . Tức là trẻ biết dùng ký hiệu- tượng trưng để nhận thức thế giới. Nhờ đó các chức năng TL bậc cao được phát triển tốt (TD, tưởng tượng, tình cảm ) 1.2. Phương pháp hướng dẫn trò chơi ĐVTCĐ 1.2.1. Những yêu cầu chung - Cần tôn trọng tính tự nguyện, tự chủ của trẻ trong khi chơi. Vì khi chơi nếu được tự nguyện, tự chủ trẻ dễ dàng phát huy sáng kiến và hứng thú cũng lâu bền. + Vì sao trẻ MG lại chơi TCĐVCĐ? vì để thỏa mãn lòng mong muốn được sống và làm việc như người lớn trên cơ sở tự nguyện và chủ động ( tự nghĩ ra dự định chơi, nội dung chơi) - Cần hướng dẫn trẻ lựa chọn những trò chơi có nội dung tích cực và lành mạnh. - Cần giúp trẻ thiết lập các mối quan hệ giữa các vai chơi.Bản chất của trò chơi ĐVTCĐ là ở những mối quan hệ qua lại giữa những người lớn trong XH được trẻ mô phỏng vào trò chơi. Do đó, cô cần nêu lên cho trẻ thấy những mối quan hệ hiện có trong đời sống xung quanh từ đơn giản đến phức tạp. Đồng thời cần mở rộng dần chủ đề để các mối quan hệ được phản ánh vào đó ngày càng phong phú, tạo Đk để trẻ trải nghiệm được nhiều sắc thái khác nhau trong cuộc sống người lớn. Đó chính là cơ sở để trẻ học làm người. VD : trong trò chơi phòng khám răng, cô cần hướng dẫn trẻ thiết lập mối quan hệ ứng xử phù hợp giữa bác sĩ và bệnh nhân. - Cô cần thường xuyên tạo ra tình huống để gợi ra ở trẻ các cách ứng xử khác nhau phù hợp với từng tình huống xảy ra. Tận dụng các tình huống của cuộc sống để GD là một phương thức GD đặc trưng của GDMN, TCĐVCĐ là một môi trường thuận lợi để thực hiện phương thức GD đó. Tình huống luôn luôn xuất hiện trong trò chơi sẽ làm nảy sinh ở trẻ thái độ sống tích cực, giúp trẻ thêm gắn bó với con người và cuộc sống xung quanh. - Tạo quan hệ thân tình bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa người hướng dẫn với trẻ, giữa trẻ em với nhau. + Trong TCĐVCĐ cô và trẻ là những người bạn cùng chơi với nhau chứ ko phải như cô- trò ở trong HĐHT. Cô luôn là nhà GD, người hướng dẫn trẻ chơi, đối với trẻ trong khi chơi phải có sự bìng đẳng như nhau, khi đó chơi mới thực sự tự nhiên, thoải mái. + yêu cầu người hướng dẫn phải khéo léo, biến những yêu cầu GD thành động cơ chơi của trẻ, làm cho trẻ không nhận ra mọi sự điều khiển của người lớn một cách lộ liễu, như thế sẽ làm trẻ mất hứng thú. + Để trò chơi diễn ra một cách tốt đẹp, giữa các trẻ cùng chơi phải thân ái, đoàn kết với nhau. Nếu xung đột xảy ra giữa các trẻ thì cách giải quyết như thế nào? Người lớn phải tìm cách giảm bớt sự căng thẳng giữa trẻ với nhau để tránh tan vỡ trò chơi. khi giảng hòa, phải giữ thái độ công bằng, một sự thiên vị nhỏ sẽ gây nên sự bất hòa. Vì lứa tuổi MG có tâm hồn nhạy cảm và rất dễ bị tổn thương. 1.2.2. Hướng dẫn trò chơi ĐVTCĐ theo độ tuổi a. Đối với trẻ MG bé: * Đặc điểm: Trò chơi còn ở dạng sơ khai: 11
  12. + CĐ chơi nghèo nàn chỉ xoay quanh một số vấn đề gần gũi với cuộc sống của trẻ (mẹ con; nấu ăn; đi chợ ); + Nội dung chơi cũng còn nghèo nàn, đơn giản ( mẹ con thì chỉ có vài việc làm thân thuộc: cho em ăn, ru em ngủ, rửa mặt cho em). trẻ chơi còn nặng về bắt chước chứ chưa biết nhập vai( vừa mô phỏng viêc làm, vừa thể hiện cảm xúc). + Tính chất chơi một mình, chơi cạnh bạn còn thể hiện rõ nét. + Trẻ chưa biết phối hợp giữa các vai chơi với nhau. + Hành động chơi mới chỉ biết bắt chước một vài hành động đơn giản của người lớn thể hiện qua thao tác, việc làm còn sơ sài, diễn ra chưa lô gic. Chẳng hạn trẻ chơi trò chơi “mẹ con”, em bé (búp bê) đang ngủ nhưng vẫn ngồi bón cho em ăn, cô hỏi:”em bé đang làm gì?”, cháu hồn nhiên trả lời: “em đang ngủ”. Cô gợi hỏi: “em bé đang ngủ sao lại cho ăn”, cháu bé cười ngượng:”ờ nhỉ, quên mất”! rồi ko cho em ăn nữa hay chi trò bác sĩ thì bệnh nhân đến là tiêm sau đó mới khám (do trẻ chỉ mô phỏng những việc làm có ấn tượng sâu sắc trong cuộc sống thực mà trẻ trải nghiệm. - Sau đó trẻ biết nhận vai- thể hiện hành động theo vai- biết phối hợp giữa các vai trong quá trình chơi, nhóm chơi được hình thành nhưng chưa bền, dễ bị tan vỡ do bị lôi cuốn bởi vai chơi khác và đồ chơi khác hấp dẫn hơn. *Yêu cầu cần đạt: + Trẻ phải biết sử dụng đồ dùng, đồ chơi theo đúng nghĩa của nó nhằm mô phỏng hành động việc làm của người lớn trong Xh và củng cố biểu tượng về đồ vật với ý nghĩa XH của nó. + Biết giữ gìn, bao quản đồ chơi, không phá nghịch như quăng, ném, tranh giành đồ chơi. + Biết nhận vai và hành động theo vai (thực hiện những hành động đặc trưng nổi bậtt của vai). + Biết phối hợp với nhau trong trò chơi. *hướng dẫn trẻ chơi: - Cần hướng dẫn cho trẻ biết nhập vai. Vai chơi là linh hồn của trò chơi ĐVTCĐ. Làm thế nào để trẻ biết nhận vai chơi: biết ướm mình vào những người xung quanh mà trẻ thích? - Hàng ngày phải chỉ cho trẻ thấy sinh hoạt của người lớn xung quanh và nói rõ cho trẻ biết họ đang làm gì và làm như thế nào bằng: - Các câu hỏi như: “Mẹ đang làm gì, làm như thế nào” hay “bố dắt xe đi đâu, làm việc gì. ” - Bằng truyện kể - Bằng sự liên tưởng đến những điều trẻ đã trải nghiệm (mắt thấy, tai nghe) - Bằng hành động mẫu của người lớn khi chơi cùng với trẻ nhờ sự hướng dẫn của người lớn mà vốn kinh nghiệm ngày càng phong phú. => dần dần trẻ biết tự ướm mình vào những người lớn xung quanh mà trẻ thích. Qua đó trẻ trải nghiệm được những tình cảm và tiếp thu những cách ứng xử của họ trong cuộc sống. Đến cuối tuổi MG bé trẻ đã quen dần với việc nhập vai và trở nên thích thú hơn. Tiến bộ hơn là biết phân vai cho nhau. Lúc này tác dụng chủ đạo của TCĐVTCĐ đối với sự phát triển TL của trẻ đã phát huy khá rõ rệt. - Cần hướng hành động chơi của trẻ theo một chủ đề nhất định Khi chơi, trẻ chưa biết tập trung hành động của mình theo một chủ đề nhất định. VD: khi chơi có trẻ đang ru em bé bằng gối ngủ, sau đó liền đặtt gối xuống ngồi lên đó nhún nhảy như phi ngựa. Có cháu đang cầm que tiêm cho búp bê, sau đó liền biến que thành bút chì để vẽ vào giấy. +Hướng dần như thế nào để trẻ biết chơi tập trung theo một chủ đề ko lan man, tản mản? - Kể cho trẻ nghe những công việc của người lớn trong chủ đề đó Trong gia đình (có bố, mẹ, ông, bà); Trong bệnh viện (bác sĩ, bệnh nhân) mỗi người làm gì và làm như thế nào để giúp trẻ chơi có định hướng mà ko bị lạc đề. Khi trẻ biết chơi theo chủ đề thì sẽ làm cho tính chủ định của các chức năng TL phát triển. Như ghi nhớ có chủ định, do 12
  13. muốn hành động giống như bác sĩ trẻ phải nhớ bác sĩ làm những gì (khám bệnh, kê đơn, dặn dò bệnh nhân) và lúc chơi trẻ phải tưởng tượng mình là bác sĩ để hành động cho giống. - Cần hướng dẫn trẻ thực hiện các thao tác, hành động theo lô gic thông thường của vai mà trẻ đảm nhiệm. Do đầu tuổi trẻ MG bé chưa biết quan tâm tới trình tự hiện thực của các hành động, việc làm nên trẻ mô phỏng ko theo đúng với trình tự việc làm trong thực tế như tiêm trước, khám sau vì trẻ có ấn tượng sâu sắc với hành động tiêm hơn là khám. Thực tế trẻ đã trải qua rất nhiều lần tiêm, mỗi lần tiêm trẻ rất đau đớn và sợ tiêm. Sự ám ảnh về tiêm ấy hằn sâu trong tâm trí trẻ. Kể cả việc ăn uống cũng vậy, nhất là trẻ biếng ăn, người lớn phải vật lộn với trẻ mãi mới xong bữa ăn. Tất cả những điều đó sẽ được trẻ ưu tiên số một để mô phỏng trong khi chơi. + Khi thấy trẻ làm như vậy, người lớn cần khéo léo gợi cho trẻ trình tự những thao tác, việc làm phù hợp với thực tế. Chẳng hạn, Khi cô giáo thấy trẻ chưa khám mà đã tiêm thì cô làm như thế nào? Lúc đó cô có thể hỏi trẻ: “em bé bị bệnh gì mà phải tiêm đó! Khám xem em bị bệnh gì đã chứ! Lúc đó trẻ sẽ nhận ra phải làm cái gì trước, cái gì sau. Cô luôn chú ý trao đổi, trò chuyện với trẻ trước khi chơi và trong khi chơi về những công việc và trình tự của nó theo các vai, để trẻ có biểu tượng về vai và lô gic hành động, việc làm của vai. Đối với trẻ đầu tuổi MG bé, cô có thể chơi cùng trẻ để trẻ bắt chước trình tự, việc làm mà cô thực hiện. Cô luôn nhớ vai trò của mình chỉ là gợi ý để trẻ hành động chứ không can thiệp thô bạo vào việc làm của trẻ hoặc làm thay trẻ. - Cần phải tổ chức cho trẻ biêt phối hợp- hợp tác với nhau trong một chủ đề. + Cần chỉ cho trẻ biết chủ đề mà trẻ dự định chơi thường có nhân vật nào, mỗi nhân vật làm gì và quan hệ với nhau như thế nào trong cuộc sống XH. VD: bán hàng phải có người bán và người mua hàng. Người bán làm gì, người mua làm gì, hai bên cần ứng xử với nhau thật đúng mực( ánh mắt, cử chỉ, nét, mặt ) để tạo ra một kiểu quan hệ tốt đẹp trong XH. Chính trong khi nhập vào các mối quan hệ đó, trẻ mới dần nhận ra các quy tắc sống, các chuẩn mực đạo đức giữa người với người trong XH. + Cần chuẩn bị thật chu đáo khi tổ chức cho trẻ chơi: Do trẻ MG bé chưa tự lực nhiều trong khi chơi, trước khi tổ chức cô cần chuẩn bị chu đáo mọi thứ. Từ việc chọn trò chơi, tìm chỗ chơi, đến việc phân vai, tạo ra các tình huống chơi đều cần phải suy nghĩ, lựa chọn sao cho phù hợp với nhóm trẻ. Tốt nhất là cô phải chơi cùng với trẻ để trực tiếp tạo ra tình huống chơi và làm mẫu các hành động chơi, nhất là sự phối hợp giữa các vai với nhau. Đây cũng là dịp để người lớn khuyến khích, kịp thời động viên những trẻ chơi đúng, chơi hay, uốn nắn kịp thời những sai trái của trẻ khi chơi, giúp trẻ duy trì hứng thú chơi và phát huy được sáng kiến. Tóm lại, TCĐVTCĐ ở trẻ MG bé còn ở dạng sơ khai, nhưng đã phát huy vai trò chủ đạo đối với sự phát triển TL của trẻ, tuy nhiên vai trò chủ đạo chưa thật mạnh. Nhiệm vụ của các nhà GD là phải cố gắng hướng dẫn cho trẻ biết chơi, thúc đẩy trò chơi này phát triển thật nhanh để phát huy vai trò chủ đạo của nó, tạo ra những bước phát triển mới trong đời sống TL của trẻ. b. Đối với trẻ MG nhỡ: * Đặc điểm: TCĐVTCĐ ở trẻ MG nhỡ đang phát triển tới mức hoàn thiện: + Khi chơi, trẻ thể hiện rõ tính tự lực, tự do, chủ động như tư lực lựa chọn chủ đề chơi, nội dung chơi (tự thỏa thuận với nhau). - CĐ chơi phong phú, đa dạng hơn. - Nội dung muôn hình muôn vẻ: Trò chơi mẹ con không chỉ là cho em ăn, ngủ, rửa mặt, mà còn cho đi trường MN, đi công viên, đi siêu thị, dạy em học bài. + Tự lựa chọn bạn chơi (chọn bạn tâm đầu ý hợp với mình thì chơi mới bền, vui hơn). + Tự do tham gia vào trò chơi nào mà mình thích và cũng tự do rút khỏi trò chơi mà mình không thích (tự chọn trò chơi, tự phân vai cho nhau, tự tìm kiếm đồ chơi, tự quy ước với nhau 13
  14. về vật thay thế và tự thỏa thuận với nhau về cách chơi, lúc chơi thì say sưa hết mình, khi chán thì bỏ cuộc nhẹ nhàng). + Đã biết thiết lập những quan hệ rộng rãi và phong phú với các bạn cùng chơi - một “XH trẻ em “ được hình thành làm cho giờ chơi sôi nổi, vui nhộn hơn.( khi kết thúc trò chơi “XH trẻ em” tan rã, song các mối quan hệ tình cảm, các tiêu chuẩn đạo đức XH, nghề nghiệp mà trẻ thể hiện trong quan hệ chơi, được chuyển vào trong các quan hệ thực của trẻ trong cuộc sống: trẻ dũng cảm ko sợ đau khi tiêm, nghe lời khuyên của bác sĩ khi ốm). + Trẻ đã biết nhận xét, đánh giá bản thân và nhận xét, đánh giá bạn thông qua việc thực hiện hành động chơi, nội dung chơi (trẻ tự vấn mình: “mình là cô giáo sao lại nói tục”, hoặc nhận xét bạn: Lái xe mà sao đi ẩu thế”) *yêu cầu cần đạt: + Trẻ biết cùng nhau bàn bạc về chủ đề, ND chơi, tìm đồ chơi, vật thay thế, cách chơi, phân vai chơi để thực hiện dự định chơi của nhóm. + Trẻ mô phỏng việc làm, hành động của vai theo một lô gic phù hợp với hiện thực + Trẻ biết phối hợp với nhau trong nhóm và với nhóm chơi ở các góc khác, biết thể hiện quan hệ tình cảm, tiêu chuẩn đạo đức XH và chuyển được nó vào trong các mối quan hệ cuộc sống hiện thực của trẻ. *Hướng Dẫn trò chơi ĐVTCĐ cho trẻ MG nhỡ Ở trẻ MG nhỡ, TCĐVTCĐ đã đạt tới dạng chính thức và đã khôn lớn hơn, nên khi tổ chức cho trò chơi này cho trẻ cần phải phát huy đầy đủ các đặc điểm của trò chơi. - Cần phát huy tính tự nguyện, tự lực của trẻ. Biện pháp để phát huy tính tự nguyện, tự lực của trẻ trong khi chơi? + Cô giáo tạo điều kiện để trẻ tự lựa chọn trò chơi, đồ chơi, chỗ chơi, tự phân vai, tự thỏa thuận luật chơi. + Cô giáo (người lớn) chỉ can thiệp khi trẻ gặp khó khăn hoặc xẩy ra sự cố nào đó trong khi chơi, đặc biệt khi cuộc chơi phản lại ý đồ của nhà GD, gây nên tác hại cho sự phát triển của trẻ. - Lưu ý: Sự can thiệp của cô lúc đó phải thật khéo léo, tế nhị. Cách tốt nhất là cô nên nhập vào một vai thích hợp cùng chơi với trẻ, qua đó mà điều chỉnh hành vi chơi của trẻ sao cho đúng, cho phù hợp, nhưng vẫn đảm bảo cho bầu không khí chơi luôn luôn vui vẻ. (như trẻ đóng vai "cô giáo" cứ luôn quát mắng "HS"->hiện tượng này sẽ tạo quan hệ không tốt giữa cô- trò. Trẻ đóng vai "cô" tiêm nhiễm phải tính hống hách; Trẻ đóng vai "HS" thì trở nên sợ hãi, nhút nhát đối với cô. Lúc này người hướng dẫn có thể đóng vai "cô hiệu trưởng" đến gặp lớp, nhân đó mà tham gia góp ý kiến với "cô": "các cháu trong lớp ngoan thế này cơ mà, nếu cháu nào sai phạm điều gì, cô nên bảo ban nhẹ nhàng thôi", "còn các cháu cần phải học hành cho tử tế, nghe lời cô giáo, đừng để cô la rầy rất mệt" Sau đó, cô hiệu trưởng chào các cháu và đi nơi khác để các cháu lại tiếp tục tự chơi với nhau. Như thế sẽ giúp cho trẻ sau này vào lớp một không sợ cô giáo nữa vì trẻ nhận ra rằng giữa cô và HS luôn có MQH thân tình. + Ngay cả khi các cháu xảy ra xung đột, cô cũng nên để các cháu tự giải quyết với nhau, chỉ khi nào các cháu ko tự giải quyết được, cô mới nên giúp trẻ cách giải quyết như thế nào cho thỏa đáng. + Nếu khi chơi, tính tự nguyện tự lực của trẻ được phát huy cao độ thì sẽ nảy ra nhiều sáng kiến trong việc đóng vai, tìm kiếm đồ chơi, tìm vật thay thế Đó là tiền đề của hoạt động sáng tạo sau này. - Cần mở rộng mối quan hệ trong trò chơi ĐVTCĐ Ở trẻ MG nhỡ các MQH giữa các vai trong trò chơi đã trở nên bền vững hơn. Điều này đôi khi dẫn đến sự trở ngại cho việc mở rộng các MQH, vì trẻ dễ theo thói quen, ngày nào cũng 14
  15. chơi như nhau, có khi hàng tháng nhưng MQH của trẻ trong khi chơi vẫn không được mở rộng do đó trò chơi không thể phát triển được. + Cần phải hướng dẫn trẻ mở rộng chủ đề chơi (mở rộng nội dung chơi trong chủ đề). VD như trò chơi chủ đề "gia đình" không phải lúc nào cũng chỉ có mẹ với con mà còn có cả những người khác nữa, như con đau mẹ phải đưa con vào bệnh viện, ở đó mẹ còn trao đổi với bác sĩ bệnh tình của con mình. Như vậy là mở rộng thêm được một MQH nữa, cứ như thế các MQh dần dần được mở rộng. + Cần hướng dẫn trẻ liên kết các nhóm chơi theo các chủ đề khác nhau lại, cô gợi ý cho các nhóm chơi để các cháu thấy cần phải liên kết với các nhóm chơi khác. (cô tạo tình huống để "mẹ " đưa con đến phòng khám răng để khám, rồi sau đó ra cửa hàng thực phẩm để mua rau, cứ như thế các MQh ngày càng được mở rộng ra và trở nên đa dạng, đây là điều rất cần cho trẻ vì càng thiết lập nhiều mối quan hệ giữa các vai chơi thì việc trải nghiệm của trẻ càng phong phú, nên sự phát triển nhân cách của trẻ mới được thuận lợi. - Cần hướng dẫn trẻ tổ chức “Xã hội trẻ em” trong các buổi chơi. Vì sao người lớn phải quan tâm tới "XH trẻ em"? Biện pháp: hướng dẫn bằng cách nào? Trò chơi là nguyên cớ thúc đẩy trẻ tìm đến nhau, tập hợp lại thành những nhóm chơi, tuy còn lỏng lẻo nhưng cũng khá phức tạp. Nếu để trẻ tự tổ chức lấy "XH" của mình chắc chắn sẽ lộn xộn và nẩy sinh nhiều cái bất lợi. Có một số trẻ lúc nào cũng giành vai chính, có khi còn giành lấy cả quyền chỉ huy trong các trò chơi nên chúng muốn cho bạn nào chơi, đóng vai gì là tùy ý của chúng, có khi còn đuổi bạn ra khỏi trò chơi. Ngược lạ, có một số trẻ chắng dám chơi gì cả, chỉ đứng nhìn bạn chơi một cách thụ động, chán thì lúi húi ngồi chơi một mình, có khi vì tranh nhau vai, hay đồ chơi mà sẵn sàng ẩu đả nhau, dẫn tới tan rã cuộc chơi => Người lớn cần phải quan tâm tới xã hộitrẻ em này và hướng dẫn trẻ biết tổ chức nhóm chơi của mình sao cho ổn thỏa, đảm bảo cho không khí chơi luôn vui vẻ, để trò chơi phát triển thuận lợi, có tác động tốt tới sự hình thành nhân cách trẻ. Cô giáo phải luôn nhắc nhở trẻ luôn luôn có thái độ thân ái và bình đẳng với nhau trong khi chơi. Ai cũng có quyền chơi trò chơi mà mình thích, nhưng lại phải biết nhường nhịn nhau, đặc biệt cần phải luân phiên vai cho nhau Cần tìm cách khéo léo loại bỏ tư tưởng độc quyền ở một số trẻ và khuyến khích các cháu mạnh dạn đóng vai mới, nhất là trẻ có tính nhút nhát. Nếu nhóm xuất hiện thu lĩnh thì cần chú ý hướng dẫn hành vi của thủ lĩnh sao cho vừa điều khiển tốt trò chơi, vừa dễ hòa nhập với các bạn vì nếu thủ lĩnh tốt thì sẽ ảnh hưởng tốt cho các trẻ khác trong nhóm chơi, ngược lại nếu thủ lĩnh là trẻ có tính xấu (hống hách, ích kỷ) thì tính đó sẽ dễ lây sang bạn khác. - Cần giúp trẻ chính xác hóa các hành động với đồ vật (ở đây là đồ chơi). Vì sao? Vì khi chơi trẻ ko quan tâm tới kết quả hành động chơi, chủ yếu bắt chước sao cho giống người lớn, nên trẻ thao tác với đồ vật thường mang tính chất đại thể. Vì thế, cần hướng dẫn trẻ làm đúng chuỗi thao tác với đồ vật, vì đây là một bước tiến đến thế giới của xã hội người lớn. VD trong trò chơi "bác sĩ", điều cốt yếu là trẻ thiết lập được mối quan hệ giữa bác sĩ với bệnh nhân. Nhưng để đóng được vai bác sĩ như thật thì cô cần hướng dẫn trẻ biết thực hiện một chuỗi thao tác của người bác sĩ khi khám bệnh như: Đặt ống nghe ở đâu (ở ngực, bụng, lưng chứ không phải ở má, ở trán), ghi đơn như thế nào? Tất cả chuỗi thao tác đó chỉ là mô phỏng nhưng dáng vẻ bên ngoài cũng cần phải đúng để giống như thật thì trò chơi mới thú vị. Để phát triển hoàn thiện trò chơi ĐVTCĐ cho trẻ MG nhỡ + Cô cần phải giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết xã hội, đặc biệt là các mối quan hệ người- người trong xã hội bằng nhiều con đường khác nhau như: Kể chuyện, xem tranh ảnh, truyền hình, tham quan, giao tiếp với xã hội vốn hiểu biết của trẻ càng phong phú thì nội dung chơi, chủ để chơi càng phản ánh đầy đủ hơn cuộc sống XH. 15
  16. c. Đối với trẻ MG lớn * Đặc điểm trò chơi - Trẻ đã có kĩ năng tổ chức trò chơi và chơi một cách độc lập, sáng tạo phản ánh sinh động cuộc sống Xh của người lớn. - Khả năng phối hợp giữa các nhóm chơi ngày càng tốt hơn làm cho giờ chơi ngày càng sôi nổi và nhộn nhịp hơn. Trong khi chơi khả năng tự tổ chức, tự đánh giá của trẻ ngày càng tốt. - Đặc điểm bổi bật nữa là trẻ đã ý thức được chơi chỉ là giả vờ ko phải là thật, nên tính tự do, tính sáng tạo trong khi chơi ngày càng cao. * Yêu cầu cần đạt - Trẻ biết tự tổ chức các trò chơi và biết phối hợp giữa các nhóm chơi với nhau. - Trẻ biết cùng nhau thảo luận, bàn bạc về chủ đề chơi, về nội dung chơi, phân vai chơi và cách tổ chức trò chơi. - Trẻ biết tự đánh giá mình và đánh giá bạn căn cứ vào yêu cầu đưa ra của tập thể. Hướng dẫn trò chơi ĐVTCĐ cho trẻ MG lớn Đối với trẻ MGL, trò chơi ĐVTCĐ đã trở nên quen thuộc, những biện pháp tổ chức như ở trẻ MGN vẫn phát huy tác dụng, ngoài ra cần chú ý một số điểm sau: - Cần mở rộng thêm những chủ đề chơi mới để duy trì hứng thú chơi và kích thích trí tưởng tượng của trẻ. - Hướng dẫn trẻ chú ý đến luật chơi nhiều hơn. Vì trò chơi có luật là bước phát triển mới của trò chơi ĐVTCĐ. + Sự thỏa thuận của trẻ MG lớn khi chơi đã trở nên rõ ràng và giống với hiện thực hơn nên mang tính ổn định hơn. VD như chơi đi tàu hỏa, trẻ tự thảo thuận với nhau (hành khách phải mua vé, ngồi đúng ghế, "người soát vé thì phải đeo băng đỏ và kiểm tra vé của từng người một, "người lái tàu" thì phải ngồi đúng toa đầu máy, không được bỏ đi nơi khác khi tàu chạy) sẽ biến thành những quy định nghiêm ngặt của trò chơi không ai được vi phạm, tức là luật chơi. + trò chơi có chủ đề càng phức tạp thì sự quy định càng nghiêm ngặt hơn, tức luật chơi càng rõ ràng hơn. Nếu được người lớn hướng dẫn về quy tắc hành vi, những chuẩn mực đạo đức trong XH thì trẻ dễ định ra luật chơi và dễ tuân thủ luật chơi, vì một trẻ nào đó không nắm luật chơi thì sẽ bị trẻ khác đuổi khỏi cuộc chơi. + Như vậy biết xác định luật chơi và biết chơi theo luật là một bước tiến đáng kể, coi như trẻ đã biết lĩnh hội tri thức một cách chủ định. Đó là điều kiện tốt để trẻ lĩnh hội tri thức khoa học sau này. - Cần phải phát huy sáng kiến của trẻ trong khi chơi. Ở trẻ MGL, việc mô phỏng lại cuộc sống của người lớn vào trò chơi ko chỉ là sự bắt chước đơn thuần mà trẻ có thể thêm bớt, biến hóa đi theo ý đồ chơi của mình. + Người lớn cần khuyến khích trẻ tạo ra những ý đồ chơi mới bằng cách: Cung câp vốn sống cho trẻ là cơ sở giúp trẻ hiểu được cuộc sống sâu rộng hơn và làm cho trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ dễ nảy nở, từ đó ý đồ chơi dễ được hình thành. + Người lớn cần khuyến khích trẻ phát huy sáng kiến cả trong việc tìm kiếm đồ chơi, vật thay thế, đặc biệt là tự làm ra đồ chơi. Việc tự làm lấy đồ chơi sẽ làm cho trẻ nảy sinh nhiều sáng kiến. - Cần phải tăng cường tổ chức các trò chơi theo chủ đề trường học để giúp trẻ làm quen với cuộc sống và học tập ở nhà trường. - Ngoài ra những trò chơi đòi hỏi trẻ phải nổ lực ý chí cũng cần khuyến khích trẻ chơi. Như trò chơi "dạy học", trẻ đóng vai cô giáo phải nói năng rõ ràng, dịu dàng khi giảng bài, học sinh phải lắng nghe, ko mất trật tự Thực hành tổ chức trò chơi ĐVTCĐ. 2. TRÒ CHƠI XÂY DỰNG 16
  17. 2.1. Khái niệm và ý nghĩa của trò chơi xây dựng đối với trẻ MN 2.1.1. Khái niệm Trò chơi xây dựng là loại trò chơi mà trẻ sử dụng đồ chơi, vật liệu chơi để mô phỏng lại dưới dạng mô hình hiện thực xung quanh (đặc biệt là thế giới đồ vật) trong các công trình xây dựng, lắp ghép nhờ trí tưởng tượng và sáng tạo của trẻ. - Trong các lọa trò chơi của trẻ, trò chơi XD thể hiện khả năng tạo hình của trẻ rõ nhất. Mẫu gỗ, khối nhựa, hộp giấy với những hình dạng, kích thước, màu sắc khác nhau trẻ lắp ghép- XD nên những công trình khác nhau như nhà cửa, công viên, ô tô, tàu hỏa hay từ những vật liệu có sẵn trong tự nhiên như các loại hạt, vỏ ốc, vỏ hến, sỏi, cát trẻ XD nên những vườn hoa, ao cá, đường đi, hàng rào, Trong những công trình, sáng kiến của trẻ được bộc lộ rõ nét. Vốn sống, trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ được thể hiện trong các công trình mà trẻ tạo nên. 2.1.2. ý nghĩa của trò chơi xây dựng đối với trẻ MN - TCXD là loại trò chơi mô phỏng dưới dạng mô hình không gian hiện thực cuộc sống xung quanh trẻ. Do vậy, khi tham gia trò chơi này: + Những biểu tượng không gian về các vật thể hình học và sự tương quan giữa các bộ phận tạo nên vật thể được củng cố và phát triển. + Năng lực đinh hướng không gian được hình thành và phát triển. + Năng lực quan sát, tư duy, tưởng tượng của trẻ được phát triển. Chẳng hạn, trước khi xây dựng trẻ phải Q Sát các vật liệu XD, phân biệt độ lớn, kích thước, hình thù của nó để lựa chon, sắp xếp sao cho phù hợp như xếp ngôi nhà, phải đặt khối gỗ hình chữ nhật trước làm tường, khối gỗ hình chóp tam giác đặt lên trên làm mái mới thành hình thù ngôi nhà. + Qua trò chơi XD làm cho óc thẫm mỹ, năng lực sáng tạo ra cái đẹp của trẻ được hình thành và phát triển. + Trò chơi còn hình thành ở trẻ tính có kế hoạch, tính kiên trì trong công việc, tinh thần hợp tác, ý thức tập thể. + Việc tham gia vào trò chơi XD còn giúp trẻ phát triển sự khéo léo, linh hoạt của bàn tay, ngón tay, phát triển năng lực tạo hình ở trẻ. 3. Hướng dẫn trò chơi xây dựng ở trường mầm non 3.1. Những yêu cầu chung - Cần chuẩn bị đồ chơi, vật liệu xây dựng đầy đủ và sắp xếp thành một môi trường chơi hấp dẫn để giúp trẻ nảy sinh ý đồ xây dựng. - Trò chơi XD là một loại HĐ có sản phẩm, nhưng SP dùng để chơi chứ ko phải để dùng. Vì vậy, cô cần phải biết duy trì không khí vui chơi cho trẻ. Nếu biến trò chơi XD thành một việc làm nghiêm túc thì ko còn là chơi nữa. Muốn vậy: Cô cần tạo điều kiện cho trẻ hoạt động một cách tự do thoải mái (tuy vẫn theo ý đồ XD). Trước hết cô cần lôi cuốn trẻ tự nguyện đến với trò chơi XD bằng sức hấp dẫn của chính trò chơi này. - Cần phát huy tính tự lực và sáng kiến của trẻ. Trò chơi XD vừa là hoạt động mang tính nghệ thuật vừa là HĐ mang tính kỹ thuật, nó đòi hỏi tính tự lực cao và nhiều sáng kiến. + Cô cần phát huy tính tự lực và sáng kiến của trẻ (từ việc hình thành ý đồ XD, lên kế hoạch XD, tìm vật liệu ). Đặc biệt cần phát huy sáng kiến của trẻ trong việc giải quyết những khó khăn gặp phải khi chơi (như chưa hình thành được ý đồ XD một cách rõ ràng, lúng túng khi lên kế hoạch XD, tìm vật liệu phù hợp) . + Cô khuyến khích trẻ suy nghĩ tự tìm cách giải quyết và khen ngợi kịp thời những trẻ có sáng kiến. - Mở rộng hiểu biết và làm giàu vốn biểu tượng cho trẻ về thế giới xung quanh, đặc biệt là những công trình xây dựng. 17
  18. - Hướng dẫn trẻ phối hợp với nhau trong khi chơi để tạo thành một sản phẩm xây dựng hoàn chỉnh, phù hợp với hiện thực. 3.2. Hướng dẫn trò chơi xây dựng cho trẻ mẫu giáo theo độ tuổi 3.2.1. Đối với trẻ MG bé Đặc điểm: - Chủ đề XD còn mờ nhạt, đơn giản, chưa ổn định, xoay quanh mấy đối tượng quen thuộc: Xây cái bàn, cái ghế, ao cá, ngôi nhà. + phần lớn ý đồ XD hình thành sau khi tiếp xúc, thao tác với vật liệu XD. Nhiều trẻ bắt tay vào XD lung tung sau đó mới nảy sinh ý đồ XD, nhưng ý đồ ko ổn định như đang xây nhà lại thay đổi sang xây công viên, một lúc lại chuyển sang lắp ráp ô tô - Sản phẩm XD đôi khi chưa hợp lý (cấu trúc công trình còn ngây ngô, chưa hợp lý) VD khi XD ao cá, cháu đặt con cá ở vị trí trung tâm rồi lấy sỏi đá xây xung quanh làm bờ ao. Bờ ao bó sát đầu và đuôi cá chẳng khác nào cá đang nằm trên đĩa. Hay một số trẻ khác lại xây xong ao, rồi xếp cá vào trong thành một hàng thẳng, như là xếp hàng tập thể dục buổi sáng vậy. - Mối liên kết giữa các bạn cùng chơi chưa hình thành. Đầu tuổi trẻ bé vẫn chơi một mình, bên cạnh bạn. Mỗi trẻ chơi một chủ đề đơn lẻ ( theo ý thích của trẻ). Dần dần được sự hướng dẫn, gợi ý của cô, kỹ năng chơi của trẻ tốt hơn (sản phẩm XD hợp lý hơn). Đến cuối tuổi MG bé, bắt đầu xuất hiện chơi với bạn, biết phối hợp các công trình đơn lẻ thành chủ đề nhỏ (như xây nhà cho Thỏ bao gồm nhà, hàng rào, bồn hoa, đường đi ) b) Cách hướng dẫn: - Căn cứ vào chủ đề, sự phân phối thời gian và yêu cầu của chủ đề, cô giáo chuẩn bị đồ chơi, vật liệu xây dựng đầy đủ phù hợp với chủ đề và sắp xếp, bố trí tạo ra môi trường hấp dẫn để thu hút trẻ tham gia vào trò chơi XD theo chủ đề đó. chẳng hạn: CĐ "ngôi nhà của bé" thì phải có đồ chơi, vật liệu xây dựng nhà là các khối vuông, chữ nhật, khối chóp để xây nhà, xếp gường ngủ. - Khi hướng dẫn trẻ chơi cô cần: + Gây hứng thú cho trẻ tới chủ đề XD (phù hợp với chủ đề GD của tuần, tháng) và làm nảy sinh ý đồ XD thông qua câu chuyện kể dẫn dắt trẻ vào chủ đề XD. cho VD. (như hôm nay Thỏ nâu đến chơi với nhóm mình, các con xây nhà cho Thỏ Nâu nhé! ) Hoặc gợi cho trẻ nhớ lại những công trình mà trẻ đã thấy khi đi tham quan. + Cô hướng dẫn (giúp ) trẻ hình thành biểu tượng về công trình sẽ xây dựng thông qua trò chuyện gợi mở hoặc cho trẻ quan sát từng bộ phận và mối quan hệ không gian giữa chúng (qua tranh vẽ, mô hình hoặc công trình thực tế ). + Sau đó cô cùng chưi với trẻ, giúp trẻ làm quen với vật liệu XD (tên gọi, đặc điểm, màu sắc, hình dạng, kích thước, công dụng của chúng ) để trẻ quan sát và bắt chước các thao tác của cô với vật liệu XD; đồng thời dạy trẻ các kĩ năng XD cơ bản như: biết lựa chọn vật liệu phù hợp khi xây nhà, xây hàng rào, xây đường đi Chẳng hạn, muốn xây nhà phải chọn khối gỗ hình chữ nhật đặt làm tường, sau đó khối gỗ hình tam giác xếp chồng lên làm mái nhà, rồi xây đường vào, tường bao quanh. + Khi trẻ đã có kĩ năng chơi, cô gợi ý để trẻ sử dụng đồ chơi, vật liệu XD khác nhau để xếp thành các sản phẩm đơn giản, gần gũi với trẻ: cái bàn, cái ghế, ngôi nhà Sau đó, hướng dẫn trẻ hợp tác với nhau, liên kết các công trình đơn lẻ thành một chủ đề như Xây nhà cho Thỏ, xây công viên cho búp bê chơi. Bắt đầu có sự phân công mỗi người mỗi việc, mới đầu tuy có chuệnh choạc, ko ăn nhập với nhau, nhưng nếu được sự hướng dẫn của cô, thì sự phối hợp ấy sẽ trở nên nhịp nhàng hơn. Lúc này trẻ mới nhận ra được chơi trong nhóm bạn bè rất thú vị. + Cô còn động viên kịp thời khi trẻ biết sử dụng đồ chơi- vật liệu xây dựng để tạo ra công trình hợp lý nhằm tạo hứng thú chơi ở trẻ. Đồng thời cô cũng cần giúp đỡ những trẻ chưa có kĩ năng chơi, chưa biết sử dụng vật liệu xây dựng. Ngoài ra cô còn có thể lôi cuốn trẻ khác "chiêm ngưỡng" công trình của bạn (VD bác Minh Tú xem này! Cái nhà bác Bảo Khanh xây 18
  19. có đẹp không!) Hoặc mời các bạn ở các góc khác đến "tham quan" các "công trình" ở góc xây dựng. - Kết thúc chơi: Cô khích lệ trẻ cất dọn đồ chơi, vật liệu XD vào nơi quy định và nhẹ nhàng chuyển hứng thú của trẻ sang hoạt động khác. 3.2.2 hướng dẫn trò chơi xây dựng ở trẻ mẫu giáo nhỡ a) Đặc điểm: - Khác với trẻ MG bé chỉ mới chú ý đến quá trình chơi, trẻ MG Nhỡ lại chú ý nhiều hơn đến sản phẩm xây dựng của mình, trẻ biết nhận xét công trình XD đã được chưa, có giống thật không, vì thế cái thúc đẩy trẻ chơi ko chỉ hành động chơi mà sản phẩm chơi sao cho đẹp, sao cho như thật. - Trẻ đã nắm được một số kĩ năng xây dựng cơ bản như xây đường thẳng, đường cong, bậc thang, và sắp xếp các bộ phận thành một công trình hợp lý. Như trẻ đã biết xây một ngôi nhà hợp lý có mái ngói, có cửa ra vào, có cửa sổ, đường vào - Chủ đề chơi mở rộng, ổn định hơn ( xây trường MN, xây công viên, xây lăng Bác )với nhiều chi tiết (bộ phận) phong phú phức tạp hơn ( như trường MN ko chỉ có khu lớp học, hàng rào, cổng ra vào mà còn có sân chơi ngoài trời, vườn hoa, ao cá ) - Trẻ biết phối hợp cùng chơi với bạn, trò chơi mang tính chất tập thể (theo nhóm) rõ rệt, biết cùng nhau xây dựng một công trình chung (người thì xây nhà, người thì xây bồn hoa, người khác xây hàng rào ) b) Hướng dẫn trẻ MG nhỡ chơi XD - Cô cần chuẩn bị chu đáo đồ chơi, vật liệu xây dựng, sắp xếp, bố trí hấp dẫn để thu hút trẻ tham gia vào trò chơi XD theo chủ đề giao dục được phân phối trong chương trình. Điều quan trọng là phải làm phong phú, đa dạng đồ chơi, vật liệu XD để trẻ mở rộng chủ đề, nội dung chơi. + Cô cần xác định trước đây trẻ đã chơi gì, chơi như thế nào, bây giờ trẻ cần chơi gì, chơi như thế nào để trẻ ko bị nhàm chán và phù hợp với khả năng của trẻ. Khi hướng dẫn trẻ chơi cô cần: + Khéo léo giới thiệu chủ đề chơi (thông qua tình huống, câu hỏi, trò chuyện ) và gợi cho trẻ xác định ý tưởng xây dựng, lựa chọn đồ chơi, vật liệu XD phù hợp để thực hiện ý định XD của mình, để trẻ tự bàn bạc với nhau về kế hoạch XD. VD Xây trường MN gồm có bộ phận nào, phòng học, hội trường, nhà bếp, tường bao quanh, cổng, sân chơi, vườn trường và phân công công việc trong nhóm. Tất cả các khâu trên, cần tạo ĐK để trẻ tự lập, chủ động, cô chỉ gợi ý, hướng dẫn để trẻ chơi tốt hơn, ko áp đặt trẻ chơi theo ý mình. + Khi trẻ bắt tay vào công việc, cô theo dõi quá trình chơi của trẻ và gợi ý phù hợp, giúp trẻ sử dụng các vật liệu phong phú để tạo ra công trình nhiều kiểu (mái nhọn, mái vòm, mái bằng, nhiều tầng ); củng cố phát triển kĩ năng XD cho trẻ (xây uốn cong, gấp khúc, bậc thang ); Qua đó trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ sẽ được phát triển, hứng thú chơi trở nên bền vững. + Cô gợi ý, hướng dẫn trẻ cách bố cục công trình sao cho hợp lý, sao cho hài hòa, đẹp mắt dựa trên những ấn tượng, những trải nghiệm của trẻ về chủ đề. Muốn vậy, mỗi trẻ phải tự bố trí bố cục công trình của mình theo sự phân công của nhóm sao cho đẹp, hợp lí, đồng thời trẻ phải phối hợp cùng nhau tạo ra bố cục hợp lí theo công trình lớn. VD khi xây dựng trường MN, các cháu phải thỏa thuận với nhau về bố cục chung: Cổng xây chỗ nào, khu lớp học xây chỗ nào, rồi phân công ai xây khu lớp học, ai xây khu vui chơi ngoài trời + Khi trò chơi đã trở nên quen thuộc, cô gợi ý, hướng dẫn trẻ mở rộng chủ đề XD (như công trình có nhiều bộ phận, chi tiết hơn, mang tính tổng hợp hơn. + Cô cần động viên kịp thời sản phẩm XD đẹp, hợp lí của trẻ. Đồng thời, gợi mở hướng dẫn trẻ điều chỉnh công trình sao cho đẹp hơn, hấp dẫn hơn, phù hợp với hiện thực hơn. 19
  20. + Cô gợi ý sử dụng sản phẩm công trình XD vào các trò chơi khác. VD sau khi xây xong công viên, nhóm Xd tổ chức văn nghệ "khánh thành" hay mời các cháu ở trường MN (góc đóng vai) đến tham quan, dạo mát công viên. - Kết thúc chơi: Cô khích lệ trẻ cất dọn đồ chơi, vật liệu XD vào nơi quy định và nhẹ nhàng chuyển hứng thú của trẻ sang hoạt động khác. 2.2.3. hướng dẫn trò chơi XD cho trẻ MG lớn a) Đặc điểm: - Chủ đề XD của trẻ ngày càng mở rộng do vốn sống của trẻ ngày càng phong phú. Trẻ thường xây các công trình phức tạp từ trí tưởng tượng sáng tạo của mình. Trẻ XD công viên ngoài những bộ phận chi tiết như trẻ MG nhỡ: cổng, hàng rào, vườn rau, ao cá. Trẻ MG lớn còn xây dựng cả "cổng phụ", "quầy bán vé ra vào". - Công trình của trẻ thường có bố cục hợp lý, hài hòa, sáng tạo hơn, màu sắc đẹp, hấp dẫn hơn vì nhờ kĩ năng chơi của trẻ đã thành thạo. - Khả năng hợp tác- phối hợp trong khi chơi của trẻ ngày càng tốt hơn. Trẻ tự bàn bạc với nhau về ý đồ XD, tự lựa chọn vật liệu, tự phân công công việc cho nhau, tự điều khiển trò chơi của mình. Vai trò người thủ lĩnh- chỉ huy công trình ngày càng thể hiện rõ. Người thủ lĩnh quán xuyến, đôn đốc các đội XD hoàn thành công trình. Góc chơi XD trở nên sôi động ko khác nào công trường đang thi công. - Trẻ không chỉ biết đánh giá nhận xét công trình của bản thân mà còn biết đánh giá nhận xét công trình của bạn, của cả nhóm. +Khi công trình hoàn thành trẻ MG lớn thường chủ động trong việc sử dụng công trình để chơi một trò chơi khác như tổ chức tham quan du lịch công viên, tổ chức văn nghệ làm lễ khánh thành b) Hướng dẫn trẻ MG lớn chơi XD - Cô chuẩn bị đầy đủ đồ chơi, vật liệu xây dựng phù hợp với yêu cầu của lứa tuổi và chủ đề giáo dục. - Khi hướng dẫn chơi cần: + tạo điều kiện để trẻ xác định ý tưởng XD, tự bàn bạc với nhau về kế hoạch XD, tự chọn đồ chơi, vật liệu XD và tự phân công công việc, tự điều khiển trò chơi. + Cô đóng vai trò là quan sát viên, cố vấn để theo dõi tiến trình chơi của trẻ. Cô nắm được ý tưởng chơi của trẻ từ đó tìm cách tác động nhằm phát uy tính tự lực, sáng tạo của trẻ, duy trì hứng thú chơi, phát triển ý đồ chơi. Cô gợi ý để trẻ bố cục công viên sao cho đẹp hơn, sự phối hợp giữa các đội XD sao cho nhịp nhàng, lựa chọn đồ chơi, vật liệu XD sao cho hợp lý, phù hợp với hiện thực của cuộc sống. + Tiếp tục rèn luyện kĩ năng chơi cơ bản: XD đường thẳng, đường vòng, đường gấp khúc, bậc thang, phát triển óc quan sát, trí tưởng tượng sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát trong quá trình XD ý tưởng chơi, bố cục các bộ phận và thực hiện các hành động chơi. + Cô động viên khen gợi kịp thời những sản phẩm XD đẹp, hợp lí; Hướng dẫn trẻ sửa sang lại công trình sao cho đẹp hơn, hợp lí hơn. Đồng thời cô hướng dẫn trẻ nhận xét, đánh giá công trình của bản thân, của bạn, của cả nhóm. + Khích lệ trẻ sử dụng công trình vừa xây dựng vào trò chơi ĐVTCĐ. - Kết thúc chơi, cô nhận xét công trình của trẻ, động viên, khen ngợi và khích lệ trẻ cất dọn đồ chơi, vật liệu XD gọn gàng, ngăn nắp vào nơi quy định và nhẹ nhàng chuyển hứng thú của trẻ sang hoạt động khác. 3. TRÒ CHƠI ĐÓNG KỊCH 3.1. Khái niệm và ý nghĩa của trò chơi đóng kịch đối với trẻ MN 3.1.1. Khái niệm. 20
  21. Trò chơi đóng kịch là trò chơi đóng vai theo tác phẩm văn học ( truyện ngụ ngôn, cổ tích, thần thoại ) nhờ trí tưởng tượng sáng tạo và cảm xúc cuả mình trẻ tái tạo lại tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học. Để tham gia vào trò chơi này thì trẻ phải cảm thụ được tác phẩm văn học, nắm được cốt truyện, tính cách nhân vật. Trên cơ sở đó tái hiện lại tính cách nhân vật theo một kịch bản. Trò chơi này phù hợp với lứa tuổi MG khi vốn sống, vốn ngôn ngữ của trẻ đã khá phát triển. 3.1.2. ý nghĩa của trò chơi đóng kịch đối với trẻ MN - Trò chơi ĐK là một trong những con đường giúp trẻ tiếp nhận tác phẩm văn học có hiệu quả nhất. + Vì trẻ ko chỉ nghe đọc, nghe kể, phân tích về tác phẩm, về tính cách các nhân vật trong tác phẩm mà còn được trải nghiệm, được hóa thân vào nhân vật, qua đó trẻ cảm nhận một cách sâu sắc tác phẩm. - Khi tham gia trò chơi ĐK, trẻ được nhập vai và trải nghiệm đời sống tình cảm của các vai, giúp trẻ hiểu được chân, thiện, mĩ. Từ đó bồi dưỡng tình cảm hướng thiện, yêu cái thiện, khinh ghét cái ác và giáo dục lòng nhân ái cho trẻ. - Khi chơi, trẻ nhập vai và phản ánh tính cách của nhân vật bằng lời nói, cử chỉ, điệu bộ qua đó ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ nghệ thuật của trẻ nói riêng được phát triển; hình thành ở trẻ tâm hồn nghệ sĩ, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần cho trẻ. - Suốt trong quá trình chơi, đòi hỏi trẻ phải huy động tất cả các chức năng TL như ngôn ngữ, trí nhớ, óc tưởng tượng, tư duy, xúc cảm để thể hiện tính cách nhân vật, do vậy mà các chức năng TL đó phát triển. 3.2. Đặc điểm của trò chơi đóng kịch - Là loại trò chơi có chủ đề, vai chơi, nội dung chơi nhưng được xác định trước trong tác phẩm văn học (không phải do trẻ tự nghĩ ra). - Tính sáng tạo của trẻ được thể hiện ở cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, lời nói làm nổi bật tính cách nhân vật của tác phẩm văn học chứ ko làm sai lệch tính cách nhân vật ( nhân vật tốt, đáng yêu thì trở nên đáng yêu hơn, nhận vật xấu, đáng ghét thì trở nên xấu xa, đáng ghét hơn). - Là loại trò chơi mang tính nghệ thuật. Tính nghệ thuật và tính chất chơi là hai yếu tố kết hợp chặt chẽ với nhau trong nội dung chơi cũng như quá trình tổ chức chơi. + yếu tố nghệ thuật thể hiện: Trò chơi đóng kịch bao giờ cũng có kịch bản (kịch bản chuyển thể có hấp dẫn hay ko, có làm nổi bật tính cách nhân vật hay k, có phù hợp với khả năng của trẻ hay ko ). Vì vậy việc chuẩn bị kịch bản có ý nghĩa quan trọng khi tổ chức trò chơi đóng kịch. Nhân vật trong trò chơi đóng kịch có thể là người, có thể là con vật, cảnh vật được nhân cách hóa với những phẩm chất, tính cách nổi bật như hiền hay ác, nhanh hay chậm, dũng cảm hay nhút nhát Để làm nổi bất tính cách nhân vật trẻ phải sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt nhằm hóa thân vào nhân vật để truyền cảm tới khán giả, gợi nên ở khán giả những suy nghĩ, thái độ phù hợp. Việc nhập vai trong trò chơi đóng kịch ko diễn ra một cách tự nhiên mà phải tuân thủ một kịch bản văn học nhất định. Vì thế để nhập được vai trẻ phải trải qua một quá trình lao động nghệ thuật: tập tành trước khi biểu diễn giống như một nghệ sĩ. Ngoài những nhân vật theo nội dung tác phẩm văn học, trò chơi ĐK còn có nhân vật người dẫn chuyện, có thể là một cá nhân hay một nhóm, có thể xuất hiện hoặc ko xuất hiện trên sân khấu, nhưng luôn có chức năng xâu chuỗi các sự kiện, làm cho câu chuyện có đầu, có cuối diễn biến mạch lạc, trở nên dễ hiểu đối với trẻ. Nghệ thuật trong nội dung trò chơi còn thể hiện ở tính tổng hợp của nội dung kịch bản. Bởi kịch bản cần có thêm những hỗ trợ bằng điệu múa, lời ca tiếng hát phụ họa cho tính cách các nhân vật; hóa trang, đạo cụ, sân khấu phù hợp với nhân vật, với chủ đề chơi làm tăng thêm sức hấp dẫn của vở kịch. 21
  22. + yếu tố chơi được thể hiện: Lời nói,cử chỉ, điệu bộ của nhân vật; trang phục, hóa trang, sân khấu, lời hát, điệu múa đều mang tính hồn nhiên, ngộ nghĩnh phù hợp với tâm lý tuổi thơ. Trẻ tham gia trò chơi một cách tự nguyện, thoải mái do sức hấp dẫn của chính trò chơi (được đóng vai này, vai kia ) chứ ko phải do bị áp đặt. Trong thực tế trẻ thích đóng nhân vật giỏi giang, tốt bụng chứ ko muốn đóng vai xấu xí, độc ác, kém cỏi. Do vậy cô giáo cần động viên khích lệ trẻ ko chỉ đóng vai tốt, việc tốt mà còn đóng cả vai xấu xí, độc ác nữa thì mới vui. Nhưng dù sao cô cũng ko được gượng ép trẻ. Trong nhiều trường hợp cô cần nhận vai mà trẻ ko thích để cùng trẻ thể hiện đúng yêu cầu của kịch bản. Khi tham gia những vai như vậy cô cần thể hiện sao cho thật ấn tượng, thật vui để khích lệ trẻ tự nguyện nhận vai đó cho lần chơi sau. Trò chơi Đk của trẻ MG chỉ là mô phỏng lại nghệ thuật kịch chứ ko phải là đóng kịch thực sự. Do vậy, trong trò chơi này cả diễn viên và khán giả đều thuộc lời nói, hành động của các nhân vật và có thể hoán đổi vị trí cho nhau (giữa khán giả và diễn viên) 3.3. Các bước tiến hành tổ chức trò chơi đóng kịch 3.3.1. Chuẩn bị Về kịch bản: Cần lựa chọn tác phẩm có nội dung rõ ràng để biên soạn hay chuyển thể thành những kịch bản ngắn, có cốt truyện phát triển mạch lạc, với những nhân vật giàu màu sắc thẫm mĩ về tính cách hành động và ngôn ngữ. - Đối với tác phẩm dài cần lược bỏ những gì ko cần thiết hoặc chỉ chọn lựa những trích đoạn có ý nghĩa nhất chuyển thể thành kịch bản cho trẻ tập đóng vai. . Cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học và kịch bản - Kể hoặc đọc cho trẻ nghe toàn bộ tác phẩm VH bằng nghệ thuật đọc và kể diễn cảm (có thể nhiều lần). - Trò chuyện với trẻ về tác phẩm văn học, gợi mở giúp trẻ cảm thụ được tác phẩm: nhớ cốt truyện, tên nhân vật, nhớ hành động của nhân vật, nhận ra tính cách của nhân vật, biết đánh giá hành động của nhân vật (ở mức tốt, xấu, đúng, sai ). - Đọc kịch bản cho trẻ nghe, giúp trẻ phân biệt được sắc thái giọng điệu, lời nói của các nhân vật khác nhau, qua đó mà khắc họa rõ thêm tính cách của nhân vật. Bên cạnh đó còn chọn các bài hát, dựng các điệu múa cho phù hợp với kịch bản . Phân vai và luyện tập đóng vai - Phân vai cho từng trẻ (có thể cho nhiều trẻ đóng cùng một vai, số lượng tùy thuộc vào số trẻ trong nhóm), cô trò chuyện với trẻ giúp trẻ hiểu sâu hơn nhân vật mình sẽ đóng. - Giúp trẻ ghi nhớ ngôn ngữ ( theo kịch bản). Trước hết cần nhắc lại cho trẻ nghe toàn bộ kịch bản, sau đó hướng dẫn riêng cho mỗi trẻ trong nhóm (một lớp có thể chia nhiều nhóm, mỗi nhóm gồm có đủ các vai của nhân vật trong kịch bản) về lời nói, cử chỉ, điệu bộ của vai mình đóng, nên luân chuyển vai đóng cho trẻ. - Lần lượt cho từng nhóm tập kết hợp lời nói và cử chỉ điệu bộ của vai mình đóng với những vai khác. Khi trẻ tập nhập vai thì cô giáo vừa là người "nhắc", vừa là người dẫn chuyện, vừa là người đạo diễn. . Sân khấu, đạo cụ, hóa trang - Sân khấu có thể thiết kế bằng nhiều kiểu: + Sân khấu đơn giản: Gồm một màn kéo căng trên một đoạn dây cao 1,5- 2m; ngang 3m, sâu 3m. + sân khấu phức tạp: Được thiết kế giống như một nhà hát thu nhỏ, gồm 3 mặt giáp (hai cánh gà là hai bên, một phần ở giữa là mặt chính của sân khấu). - Vật liệu dựng sân khấu có thể bằng gỗ, cót, bìa, vải, giấy trong sân khấu có một số cảnh trí cần thiết như núi rừng, hoa lá, cỏ cây, tùy theo yêu cầu của kịch bản. 22
  23. - Đạo cụ là những đồ vật dùng để chỉ rõ một không gian nhất định mà truyện kịch xảy ra, như giường, ghế, bàn, tủ của một căn nhà hoặc những đồ dùng mà nhân vật cần đến như cốc, chén, sách vở. Những cái đó cần có nhằm tạo cho trẻ những phương tiện cần thiết để thực hiện một cách tự nhiên các nhân vật như những con người trong cuộc sống. - Hóa trang: Phụ thuộc vào nhân vật trong kịch bản, dựa vào tính cách nhân vật mà có cách hóa trang nhằm nhấn mạnh những nét điển hình của tính cách nhân vật + Hóa trang trên mặt: Tùy theo tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính, tính cách của từng nhân vật mà hóa trang trên mặt cho trẻ những nét dáng phù hợp với nhân vật mà trẻ đóng. Lưu ý dù trẻ đóng vai nào khi hóa trang trên mặt vẫn phải giữ cho trẻ nét hồn nhiên, ngây thơ nên người ta đã sử dụng mặt nạ và các mũ hóa trang đặc biệt, những vai công chúa, bà tiên, ông bụt hay vai chó, thỏ, mèo, cáo + hóa trang quần áo (trang phục): Ngoài việc cải tiến quần áo trẻ mặc hàng ngày cho thích hợp với vai diễn có thể sắm thêm một số áo choàng, đai lưng để mặc khi đóng vai vua, hoàng tử hoặc quần áo theo kiểu người xưa như áo tứ thân, váy, các dải thắt lưng nhiều màu sắc, ngoài ra còn sắm thêm các kiểu quần áo dân tộc ít người (Mường, Mán, Thái, Tày, Nùng, Mông ) Việc tạo dáng cho trẻ ở các vai đóng cần phải có tính thẫm mĩ, và phải phù hợp với hoàn cảnh và truyện kịch diễn ra (đời xưa, hay nay, miền ngược, hay miền xuôi, thành phần nghề nghiệp) 3. 3.2. Tổ chức buổi diễn Tổ chức buổi diễn là một khâu quan trọng của trò chơi đóng kịch. Đây là kết quả của một quá trình luyện tập, chuẩn bị. Tổ chức buổi diễn thực chất là tổ chức cuộc chơi cho trẻ, nhưng cuộc chơi này lại mang tính chất nghệ thuật, nên cần phải tổ chức chu đáo, cẩn thận. Tổ chức buổi diễn là tạo dựng một mảng cuộc sống trong sinh hoạt văn hóa, đó là xem kịch và diễn kịch. Đây cũng là mô phỏng cuộc sống người lớn vào trò chơi chứ ko phải là diễn kịch thực sự, vì thế tổ chức diễn kịch gồm nhiều mặt cho tất cả mọi trẻ đều tham gia. . Tổ chức sân khấu và phòng xem biểu diễn Buổi diễn vừa là một buổi chơi, vừa là một buổi sinh hoạt văn hóa đặc biệt của trẻ. Do đó cần phải tổ chức một không gian hợp lý, thuận lợi cho người diễn lẫn người xem, bao gồm cả việc thiết kế sân khấu, lẫn việc sắp xếp chỗ ngồi. Việc này chủ yếu người lớn làm, có thể thêm một số cháu khỏe mạnh cùng tham gia. Chọn nhóm biểu diễn của đoàn kịch Buổi đầu thường chọn các cháu đóng vai đạt nhất, sau đó cần luân phiên các nhóm khác vào các buổi tiếp theo. Có thể đặt tên cho đoàn kịch để gây hào hứng cho trẻ hơn như "Đoàn kịch Hoa Sen" Cần phải chọn người giới thiệu- thường là người dẫn chuyện (cô hay trẻ) Phân công thành phần còn lại theo chức năng - Trang trí sân khấu. - Sắp xếp ghế cho khán giả ngồi. - Bán vé và kiểm soát vé. - Giữ trật tự và hướng dẫn người xem ngồi đúng chỗ. - Thành phần đông đảo nhất là người xem. Các cháu có thể đóng vai mẹ dẫn con đi xem. Người xem phải làm đúng một số thủ tục như mua vé, đưa cho người soát vé, theo người hướng dẫn ngồi đúng chỗ, trong khi xem ko được nói chuyện ồn ào. Tổ chức giao lưu giữa người diễn và người xem Xem kịch là một hoạt động văn hóa. Kết quả buổi biểu diễn tốt hay ko là tùy thuộc về hai phía: Sự cố gắng của diễn viên trong vai diễn và sự hưởng ứng của người xem bằng những lời tán thưởng, khen ngợi; bằng những tràng vỗ tay nồng nhiệt hay những đóa hoa trao tặng cho diễn viên. Vì vậy cần GD cho trẻ thái độ trân trọng đối với người diễn và vở diễn. Hơn nữa còn cần tạo ra một mối giao lưu nồng thắm giữa người diễn và người xem. Đôi khi người xem còn hát múa cùng người diễn làm cho không khí kịch trở nên sôi động. Nhờ đó thu hẹp khoảng cách giữa người diễn và người xem, tạo sự đồng cảm giữa hai bên. Trẻ thêm hào hứng và sự tiếp 23
  24. nhận tác phẩm văn học cũng được nâng lên. Như vậy, qua trò chơi đóng kịch trẻ ko chỉ học được cách đóng kịch mà còn học được cách xem kịch như thế nào cho có văn hóa. 3.4. Hướng dẫn trò chơi đóng kịch cho trẻ MG 3.4.1. Những yêu cầu chung - Dựa vào chủ đề GD cô lựa chọn tác phẩm văn học phù hợp với khả năng của trẻ. Đó là những tác phẩm hấp dẫn dễ chuyển thể thành kịch bản ( MG bé tác phẩm nội dung đơn giản, ít nhân vật; MG nhỡ và lớn thì chọn những tác phẩm có nội dung phong phú hơn, nhiều nhân vật hơn) - Tổ chức trò chơi ĐK theo các bước như đã trình bày trên. - Trò chơi Đk chỉ tổ chức sau khi trẻ đã làm quen với tác phẩm văn học. 3.4.2. Hướng dẫn trò chơi đóng kịch theo các độ tuổi a) Đối với trẻ MG bé Cô tham gia chơi cùng trẻ, thường là cô đóng vai người dẫn truyện giúp trẻ nhận vai và thể hiện vai đúng như sự mô tả trong tác phẩm. Nếu trong quá trình chơi, hành động nào mà trẻ thể hiện chưa đạt thì cô có thể làm mẫu cho trẻ xem. Cô chọn những tác phẩm văn học phù hợp với sở thích và kinh nghiệm của trẻ. Cô chuẩn bị quần áo hóa trang phù hợp với nhân vật trong tác phẩm. Cô có thể tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch vào các thời điểm khác nhau trong ngày. b) Đối với trẻ MG Nhỡ Đối với lứa tuổi này trẻ có thẻ tự đóng kịch theo những truyện trẻ đã thuộc. Hình tượng nhân vật trong truyện trẻ đóng được mở rộng hơn, có tính cách phức tạp hơn. Cô đóng vai trò khán giả theo dõi trẻ chơi, khi cần cô có thể góp ý, nhất là cách thể hiện hình tượng nhân vật qua cử chỉ, điệu bộ, lời nói cho phù hợp. Nếu trẻ chưa thể hiện được cô có thể gợi ý bằng lời hoặc làm mẫu cho trẻ xem. Cô chú ý luôn đổi vai chơi cho trẻ. Cô hướng dẫn giúp trẻ đóng vai người dẫn truyện để tổ chức giờ chơi. Cô chuẩn bị đầy đủ trang phục hóa trang phù hợp với các nhân vật trẻ đóng. Nếu những tác phẩm cần dàn dựng sân khấu, cô phải dựng sân khấu trước. Cô theo dõi quá trình chơi của trẻ để kịp thời sửa sai hoặc khen ngợi, giúp trẻ biết cách chơi. c) Đối với trẻ MG Lớn Trẻ lứa tuổi này tham gia tích cực vào trò chơi đóng kịch. - Trẻ tự tổ chức trò chơi, trẻ vừa là người điều khiển, vừa là khán giả trong buổi chơi. - Cô theo dõi quá trình chơi của trẻ, hướng dẫn trẻ chọn chủ đề, phân vai, nhớ lại nọi dung tác phẩm. - Cô chỉ đóng vai cố vấn, giúp đỡ trẻ khi cần thiết. Đối với lứa tuổi này trò chơi ĐK có thể trở thành chủ đề lớn, trung tâm của trò chơi đóng vai theo chủ đề (Vd chủ đề "nhà hát"). *Thực hành: hướng dẫn trò chơi đóng kịch cho trẻ ở trường MN 4. TRÒ CHƠI HỌC TẬP 4.1. Khái niệm và ý nghĩa của trò chơi học tập đối với trẻ MN 4.1.1. Khái niệm Trò chơi học tập là loại trò chơi có luật, thường do người lớn nghĩ ra cho trẻ chơi. Đó là loại trò chơi đòi hỏi trẻ phải thực hiện một quá trình hoạt động trí tuệ để giải quyết nhiệm vụ học tập được đặt ra như nhiệm vụ chơi, qua đó mà trí tuệ của trẻ được phát triển. 4.1.2. ý nghĩa của trò chơi học tập đối với trẻ MN Trò chơi HT là phương tiện, con đường cơ bản quan trọng nhất để phát triển trí tuệ cho trẻ MN. 24
  25. + Vì nó phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ MN trong việc rèn luyện sự nhạy bén của các giác quan, sự khéo léo linh hoạt trong hành động và phát triển óc quan sát, khả năng định hướng trong không gian, thời gian. Vd khi tổ chức các trò chơi: "Con gì biến mất", "Tai ai thính", "Chiếc túi kỳ lạ" Không chỉ rèn luyện sự tinh nhạy của các giác quan mà còn phát triển óc quan sát, khả năng định hướng khôn gian cho trẻ. + Là phương tiện, là con đường cung cấp biểu tượng mới, tri thức mới, củng cố những biểu tượng, tri thức đã có cho trẻ. + Về phương diện tư duy: Trò chơi HT là phương tiện để rèn luyện các thao tác tư duy cho trẻ. VD qua trò chơi lô tô rèn luyện cho trẻ phân loại con giống, cây, quả, đồ dùng theo một dấu hiệu nào đó. Chẳng hạn số chân con vật, cây lấy gỗ hay cây cảnh, màu sắc, mùi vị của quả hay chức năng của đồ dùng. Qua trò chơi HT trẻ biết nhìn nhận, phân tích, so sánh, khái quát các SVHT theo môt vài dấu hiệu (bề ngoài). + Trò chơi HT cũng được xem là một phương tiện để PT trí tưởng tượng của trẻ, cũng như các trò chơi khác trò chơi HT đòi hỏi trẻ phải sử dụng vốn sống, những biểu tượng đã có vào việc giải quyết nhiệm vụ chơi với các vật thể, đồ chơi như vật tượng trưng cho vật thật. VD: một vòng tròn trên đất tượng trưng cho hồ nước, hay một miếng gỗ trẻ tưởng tượng ra một ngôi nhà, một chiếc tàu thủy, một chiếc ô tô qua đó trí tưởng của trẻ càng phát triển. + Trò chơi HT còn là phương tiện phát triển ngôn ngữ, sự tập trung chú ý cho trẻ. VD như trò chơi cánh cửa kỳ diệu - Trò chơi HT là phương tiện GD một số phẩm chất đạo đức như tính thật thà, tính tự lập, tính tích cực, tính tổ chức cho trẻ (qua việc thực hiện nội dung chơi, thao tác chơi theo luật). - Trong một chừng mực nào đó trò chơi HT còn được xem là một hình thức tổ chức hoạt động học tập cơ bản cho trẻ. Nghĩa là chúng ta có thể tổ chức một số tiết học dưới hình thức trò chơi (khi đó nội dung HT được thể hiện trong nội dung, nhiệm vụ, chơi-> trẻ giải quyết được NV chơi tức là đã giải quyết được NV học tập. Học thông qua chơi đã tránh được sự phổ thông hóa trong việc tổ chức hoạt độngHT ở trường MN. Tuy nhiên, ko phải mọi giờ học đều có thể tổ chức được dưới hình thức chơi. 4.2. Đặc điểm và phân loại trò chơi hoc tập. 4.2.1.Đặc điểm của trò chơi học tập T/C HT là loại trò chơi mà nhiệm vụ trí dục được thực hiện dưới hình thức nhiệm vụ chơi vui vẻ, thoải mái, nội dụng học tập được lồng ghép trong nội dung chơi; Động cơ HT hòa quyện vào động cơ chơi. Việc thực hiện thao tác chơi, hành động chơi chính là thực hiện các nhiệm vụ trí dục. Như vậy giữa chơi và học có quan hệ chặt chẽ với nhau. Về phương diện kết quả thì đó là học. Về phương diện hành động thì đó là chơi. => Học mà chơi, chơi mà học là phương thức HT độc đáo của trẻ lứa tuổi MN. Trò chơi HT có cấu trúc rõ ràng gồm 3 thành phần: nội dung chơi, hành động chơi, luật chơi. Ba thành phần đó có MQH mật thiết với nhau. Nếu thiếu một trong ba thanh phần đó thì trò chơi HT ko thể diễn ra. - Nội dung chơi: Chứa đựng nhiệm vụ nhận thức như: phát triển một vài chức năng TL nào đó của hoạt động trí tuệ ( Quan sát, tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ, chú ý) hay nhận thức một điều gì mới mẻ, hoặc củng cố biểu tượng mà trẻ đã biết. VD trò chơi "Tai ai thính", rèn luyện cho trẻ sự tâp trung chú ý, khả năng tri giác nghe; trò chơi " Chiếc túi kỳ lạ" rèn luyện khả năng tri giác xúc giác, củng cố một số biểu tượng về con vật mà trẻ đã biết. - Hành động chơi: Là hệ thống các thao tác, chủ yếu là thao tác trí óc nhằm thực hiện nhiệm vụ nhận thức mà trò chơi đặt ra. Hệ thống thao tác trong hành động chơi là do nhiệm vụ chơi quy 25
  26. định và diễn ra theo luật chơi. Nên hành động chơi càng phong phú thì trò chơi càng lý thú (vd : Hành động sờ , nắn đồ vật, nhớ gọi tên đúng đồ vật đó ). - Luật chơi là những quy định việc thực hiện hành động chơi. Vì thế, khi chơi trẻ nhất thiết phải tuân thủ quy tắc chơi, nếu phá vỡ thì trò chơi ko thành. VD: Trò chơi con gì biến mất: Luật chơi quy định trời tối các con phải nhắm mắt lại giả vờ ngủ. Nếu trẻ nào hé mắt nhìn là phạm luật, trò chơi mất ý nghĩa. Luật chơi sẽ điều khiển hành vi, các mối quan hệ của trẻ trong khi chơi và là tiêu chuẩn để đánh giá hành động của trẻ đúng hay sai. Trò chơi HT có sự tự nguyện và bình đẳng giữa các trẻ. Mọi trẻ đều có vị trí và nhiệm vụ như nhau khi tham gia vào trò chơi (như cùng đoán, hay cùng thực hiện mọt công việc nào đó trên vật liệu, đồ chơi như nhau). Trong trò chơi HT có sự thống nhất chặt chẽ giữa hành vi chơi và động cơ chơi. Vậy động cơ thúc đẩy trẻ hành động là trẻ phải thực hiện đúng thao tác, hành động mà trò chơi đặt ra (còn ở TCĐVTCĐ là giả bộ làm một cái gì đó như thật). Trò chơi HT bao giờ cũng có một kết quả nhất định, trẻ cảm nhận được kết quả hành động của mình là đúng hay sai hay phát hiện ra cái gì mới. Kết quả này có ý nghĩa to lớn đối với trẻ, mang lại niềm vui vô hạn cho trẻ, thúc đẩy tính tích cực của trẻ, mở rộng, củng cố, phát triển vốn hiểu biết cho trẻ. Kết quả của trò chơi là tiêu chí đánh giá mức độ thành công hoặc mức độ lĩnh hội tri thức ở trẻ. Trò chơi TH luôn tồn tại mối quan hệ giữa cô và trẻ, và giữa trẻ với nhau. Quan hệ này do nhiệm vụ chơi, hành động chơi, luật chơi quy định. Cô có thể là người tổ chức, có thể là người cùng tham gia trò chơi của trẻ. Thông thường trò chơi phụ thuộc vào cô giáo- người tổ chức, điều khiển trò chơi. Tuy nhiên khi trẻ biết chơi thì sự phụ thuộc đó sẽ bớt dần đi. Lúc đó trẻ có khả năng tự tổ chức trò chơi HT của mình. Tính tự lập và sáng kiến của trẻ được thể hiện trong quá trình trẻ thực hiện thao tác chơi, hành động chơi, tự lựa chon các phương thức hành động trong các tình huống chơi, trong việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo những hiểu biết, kĩ năng, kỹ xảo của mình để giải quyết nhiệm vụ nhận thức hoặc phán đoán được tình huống có thể xảy ra để thay đổi chiến thuật chơi (tuy nhiên một số trẻ chơi chưa tự lực còn bắt chước bạn, nhưng dần dần trẻ sẽ tự lực hơn). 4.2.2.Phân loại trò chơi học tập Hiện nay có nhiều cách phân loại TCHT. Mỗi cách dựa theo một điểm tựa nhất định a. Dựa trên phương diện tổ chức, trò chơi HT có các loại sau: - Trò chơi HT với đồ vật, đồ chơi, tranh ảnh. - Trò chơi lô tô. - Trò chơi HT bằng lời - Trò chơi âm nhạc b. Dựa trên nhiệm vụ HT được đưa vào trò chơi, trò chơi HT bao gồm: - Trò chơi HT nhằm cung cấp biểu tượng, tri thức mới. - TC HT nhằm củng cố tri thức, biểu tượng đã học. c. Dựa trên ý nghĩa của trò chơi đối với sự phát triển của trẻ, trò chơi HT bao gồm: - T/C HT nhằm rèn luyện sự nhạy bén của các giác quan. PT óc quan sát, khả năng định hướng trong không gian và thời gian. - T/C nhằm cung cấp biểu tượng, tri thức mới và củng cố biểu tượng, tri thức đã biết. - T/C rèn luyện các thao tác tư duy, óc tưởng tượng sáng tạo. - T/C nhằm phát triển ngôn ngữ. - Trò chơi nhằm rèn luyện khả năng tập trung chú ý và sự nổ lực ý chí của trẻ. Nhìn chung, sự phân loại trên đây chỉ có ý nghĩa tương đối bởi nhiều trò chơi HT nó phản ánh đầy đủ các tiêu chí phân loại trò chơi HT nêu trên. 4.3. Hướng dẫn trò chơi học tập ở trường MN 26
  27. 4.3.1. Những yêu cầu chung - Phải chuẩn bị chu đáo đồ chơi và các phương tiện cần thiết phục vụ cho trò chơi HT. Đồ chơi do nội dung chơi quy định. + Trong trò chơi HT có hai loại đồ chơi, phương tiện chơi: một loại dành cho mọi trẻ, một loại dành cho cô. + Đối với MG bé, lần chơi đầu, cô sử dụng đồ chơi, phương tiện chơi để hướng dẫn trẻ nội dung, cách chơi và làm mẫu để trẻ quan sát, bắt chước. + Đồ chơi, phương tiện chơi được bố trí sắp xếp hợp lí tạo môi trường hấp dẫn thu hút trẻ tham gia vào trò chơi. - Trò chơi HT phải hấp dẫn để kích thích tính tích cực, sáng tạo của trẻ. Cô cần lựa chọn để XD ND chơi, hình thức chơi phù hợp với trình độ phát triển của trẻ. + Trong khi chơi, trẻ có thể phát huy được những hiểu biết của mình, sử dụng được những kỹ năng , kỹ xảo đã có để giải quyết các nhiệm vụ chơi. Có như vậy trẻ chơi mới vui và mới hào hứng tham gia vào những lần chơi tiếp theo. - T/C HT là loại trò chơi có luật mang đặc trưng riêng. Khi tổ chức cô cần quan tâm hai vấn đề sau: + Nhấn mạnh nội dung chơi và luật chơi, dặc biệt là luật chơi trước khi trẻ tham gia vào trò chơi. luật chơi quy định việc thực hiện hành động chơi. + Luật chơi bao giờ cũng xây dựng trên cơ sở của nội dung chơi, mục đích chơi. tức là phải xác định được ý nghĩa của trò chơi đối với sự phát triển của trẻ. Để đạt được MĐ đó phải tổ chức cho trẻ chơi nội dung gì, hành động gì? Theo quy tắc nào? - Để tạo sự hấp dẫn khi chơi, ko bị nhàm chán thì nội dung chơi, hành động chơi, luật chơi phải phức tạp dần qua mỗi lần chơi, qua mỗi độ tuổi - Những trò chơi HT sử dụng trong giờ học thì phải phù hợp với nội dung của giờ học. + Trò chơi nhằm cung cấp tri thức mới, khái niệm mới phải vừa sức với trẻ và trẻ có thể tiếp nhận nội dung chơi, hành động chơi, luật chơi một cách dễ dàng. - Trong quá trình tổ chức trò chơi, cô cần động viên khích lệ mọi trẻ đều tham gia một cách tích cực, bình đẳng; Phải định hướng các hành động, tháo tác của trẻ vào việc giải quyết các nội dung, nhiệm vụ HT, song ko cứng nhắc, máy móc làm lu mờ yếu tố chơi trong quá trình trẻ hành động. - Trong T/CHT trẻ tiếp nhận nội dung chơi, hành động chơi, luật chơi một cách chủ động, sáng tạo. Tiến trình tổ chức trò chơi HT diễn ra như sau: + Cô gây hứng thú cho trẻ đối với trò chơi qua cách đặt vấn đề, qua việc gây sự chú ý của trẻ vào trò chơi, tạo tình huống chơi (VD: Trò chơi "chiếc túi kỳ lạ" cô có thể tạo tình huống như sau: Hôm nay búp bê đến thăm lớp ta, có tặng cả lớp một túi quà, các con có thể ngửi, sờ nắn để đoán xem trong túi có những quả gì nhé) + Sau đó cô nêu tên trò chơi, phổ biến nội dung chơi, luật chơi, cách tiến hành chơi. + Tổ chức cho trẻ tham gia chơi một cách tích cực, thoải mái. + Kết thúc chơi cô khen ngợi những trẻ tích cực, sáng tạo và động viên trẻ khác phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ trong những lần chơi sau và hướng dẫn trẻ cất dọn đồ chơi, thiết bị chơi vào nơi quy định để chuyển sang HĐ tiếp theo. 4.3.2.Hướng dẫn trò chơi học tập cho trẻ theo độ tuổi 4.3.2.1. Hướng dẫn trò chơi HT cho trẻ tuổi nhà trẻ a) Đặc điểm: - Đối với trẻ nhà trẻ, trò chơi HT đang hình thành: nội dung chơi, cách chơi còn đơn giản, luật chơi chưa thực sự rõ ràng. Do vậy, khó có thể phân biệt rạch ròi sự luyện tập với trò chơi HT. Có thể coi hoạt động của trẻ là sự luyện tập diễn ra một cách nhẹ nhàng, vui vẻ, thoải mái như là chơi. Tức là có yếu tố chơi trong sự luyện tập (nên thường diễn ra trong giờ chơi tập, và giờ 27
  28. tự chơi). Đến cuối tuổi nhà trẻ, luật chơi trong trò chơi HT được thể hiện rõ ràng hơn, tính chất chơi cũng thể hiện rõ hơn, làm cho hoạt động của trẻ mang tính tự lập, sáng tạo và vui nhộn hơn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp trẻ ko thực hiện theo luật. Vì trẻ chưa hiểu luật, hơn nữa trẻ thường hành động theo thú vui của mình. - Trò chơi HT ở tuổi nhà trẻ phụ thuộc nhiều vào cô- là người tổ chức hướng dẫn trẻ chơi. + Cô là người đưa ra nội dung, cách chơi, tham gia cùng chơi với trẻ để hướng dẫn trẻ cách thao tác, hành động chơi. Trẻ chủ yếu quan sát, bắt chước theo cô, do vậy tính tự lập, sáng tạo của trẻ chưa nhiều. b) Hướng dẫn. Để mang lại niềm vui cho trẻ cô cần thực hiện những yêu cầu sau: - Chuẩn bị: + Dựa vào mục đích, yêu cầu, nội dung của giờ chơi tập, cô lựa chọn trò chơi phù hợp (Tốt nhất dựa vào chương trình GDMN tuổi nhà trẻ 3-36 tháng) + Chuẩn bị chu đáo đồ chơi, môi trường chơi phù hợp với trò chơi, với chủ đề GD. - Hướng dẫn trẻ chơi + Cô ổn định trẻ bằng các thủ thuật hấp dẫn, ấn tượng (trò chơi, hát, bắt chước tiếng kêu con vật ) để thu hút trẻ vào hoạt động sắp diễn ra. + Sau đó cô giới thiệu đồ chơi, nội dung chơi, cách chơi, cô làm mẫu để hướng dẫn trẻ cách thao tác, hành động. + Cô tổ chức trẻ chơi. Cô là chủ- luôn chủ động đưa ra các nội dung chơi, nhiệm vụ chơi trong các tình huống cụ thể và khích lệ trẻ thực hiện các thao tác, hành động để giải quyết nhiệm vụ chơi. VD trẻ phải quan sát, suy nghĩ, phán đoán để trả lời xem con gì có tiếng kêu như vậy. + Cô động viên, khen ngợi kịp thời những trẻ có kết quả đúng, nhanh nhẹn, chơi đúng luật. Giúp đỡ kịp thời những trẻ chưa hiểu luật hoặc thao tác, hành động ko theo luật. - Kết thúc chơi + Cô đưa ra những câu hỏi hoặc tạo tình huống để trẻ nhớ lại mình đã chơi gì, có vui ko. + Cô nhận xét, động viên cả lớp nhằm tạo niềm vui cho mọi trẻ + Hướng dẫn trẻ cất dọn đò chơi vào nơi quy định một cách vui vẻ nhẹ nhàng (vừa làm vừa hát, thi đua xem ai nhanh hơn) để chuyển sang hoạt động tiếp theo. Thực hành hướng dẫn trò chơi HT cho trẻ nhà trẻ như trò chơi " chơi trốn tìm"; "trò chơi cái gì, con gì kêu như thế"; "trò chơi hãy lấy cho đúng 4.3.2.2. Hướng dẫn trò chơi HT cho trẻ mẫu giáo a) Đối với trẻ MG bé * Đặc điểm: - Trẻ thường bị hấp dẫn bởi đồ chơi, nên trẻ thường ko chú ý đến nhiệm vụ chơi và luật chơi. Cái thúc đẩy trẻ chơi chính là đồ chơi và quá trình chơi ( Muốn được hàng động, được thử nghiệm, được khám phá) => trẻ chưa thực hiện đúng luật. - Nội dung chơi, hành động chơi đơn giản.VD trò chơi phân loại dựa trên một hay hai dấu hiệu cơ bản (màu sắc, hình dạng), với hành động đơn giản, mang tính cá nhân (như xếp hình tròn, hình tam giác sang một bên; Nghe và đoán tiếng kêu của con vật, đồ vật.) - Khi chơi, trẻ MG bé phụ thuộc nhiều vào cô, trẻ chưa có khả năng tự chơi trò chơi học tập. * Cách hướng dẫn: - Đồ chơi mang đến cho trẻ phải đẹp, màu sắc, hình dạng, kích thước phải hấp dẫn và được sắp xếp, bố trí hợp lý nhằm tạo MT chơi hấp dẫn, kích thích hứng thú chơi của trẻ. 28
  29. - Đối với trò chơi củng cố, trước khi tổ chức, cô cần tổ chức cho trẻ QS hoặc đàm thoại về biểu tượng đó (Như đàm thoại về hình dạng, màu sắc, tiếng kêu: chơi trò "con gì biến mất"). - Đối với trò chơi hình thành biểu tượng mới thì biểu tượng mới đó phải cụ thể, dễ nhận ra khi thực hiện hành động chơi, nhiệm vụ chơi.VD để hình thành biểu tượng "cao hơn, thấp hơn" ta có thể cài những bông hoa ở độ cao, thấp khác nhau (sao cho trẻ chỉ hái được bông hoa thấp); Bằng cách tạo tình huống chơi "hái hoa tặng mẹ", thi ai hái được nhiều hơn, nhưng chỉ hái được bông thấp. Cô giải thích những bông đó ở cao hơn nên các con ko hái được. Các con chỉ hái được những bông thấp hơn. Qua đó trẻ sẽ hình dung được thế nào là cao hơn, thấp hơn (trẻ có biểu tượng về cao hơn, thấp hơn). - Cô giới thiệu ND chơi, nhiệm vụ chơi, luật chơi một cách ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Cô vừa làm mẫu thao tác, hành động vừa giải thích rõ ràng để trẻ QS, thích thú bắt chước làm theo. - Khi trẻ đã nắm được nội dung, hành động chơi và luật chơi, cô cùng chơi với trẻ. Lúc này cô cần hướng dẫn cho từng trẻ hành động, thao tác và nhắc nhở trẻ thực hiện đúng luật. - Cô quan sát trẻ chơi để động viên, khen ngợi kịp thời những trẻ thao tác, hành động đúng, giải quyết nhiệm vụ chơi nhanh và hướng dẫn những trẻ còn lúng túng. - Hình thành cho trẻ một số thói quen cần thiết như tự chuẩn bị đồ chơi, chỗ chơi, ko tranh dành, đập phá đồ chơi, quấy bạn, biết cất dọn đồ chơi khi kết thúc. b Đối với trẻ MG nhỡ. * Đặc điểm: - Khi chơi trẻ MG Nhỡ đã biết chú ý đến nhiệm vụ chơi, luật chơi. Tuy nhiên, nhiều trẻ chú ý đến quá trình chơi hơn là kết quả chơi. Được sự hướng dẫn, kích thích của cô, yếu tố thắng- thua, đúng – sai-> yếu tố kích thích trẻ thi đua làm theo yêu cầu nhanh nhẹn, chính xác hơn. - Nội dung, hành động luật chơi trở nên phức tạp hơn vì trẻ MG Nhỡ phân loại sự vật dựa trên nhiều dấu hiệu hơn trẻ MG bé (3 dấu hiệu: màu sắc, hình dạng, công dụng). - Trong khi chơi trẻ đã thể hiện tính tự lập, sáng tạo của mình. Tuy nhiên khả năng tự chơi vẫn còn yếu, nội dung chơi, luật chơi vẫn phụ thuộc vào cô. * Hướng dẫn: Cô cần chú ý mấy điểm sau: - Chuẩn bị chu đáo đồ chơi phù hợp với nội dung, nhiệm vụ trò chơi; bố trí sắp xếp sao cho hấp dẫn. - Trẻ vẫn còn bị cuốn hút vào quá trình chơi, hành động chơi, chứ chưa chú ý đến kết quả chơi, hay quên luật. Vì thế phải nhắc nhở trẻ thực hiện tháo tác, hành động chơi theo luật. - Đối với trò chơi mới, phức tạp, cô phải hướng dẫn một cách cụ thể, ngắn gọn, dễ hiểu kèm theo thao tác, hành động mẫu và cùng chơi với trẻ để trẻ bắt chước, làm theo. - Cô cần chú ý mở rộng nội dung chơi, phức tạp dần nhiệm vụ chơi sau mỗi lần tổ chức. - Để gây hứng thú, tích cực hành động cho trẻ, cô cần hướng vào thực hiện kết quả chơi và tạo ra yếu tố ganh đua trong quá trình chơi. Khi đánh giá, nhận xét cần dựa vào kết quả hành động của trẻ, đồng thời phải động viên khuyến khích kịp thời. - Khi trẻ đã biết chơi, trò chơi đã quen thuộc, cô khích lệ trẻ tự tổ chức, nhất là trong những giờ tự chơi (vào buổi SH chiều). - Tiếp tục rèn luyện cho trẻ những thói quen cần thiết trước khi chơi, trong quá trình chơi, kết thúc chơi. Tăng cường rèn luyện thói quen tự phục vụ trong quá trình chơi, hướng dẫn trẻ có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong khi chơi. c) Đối với trẻ MG lớn * Đặc điểm: - Hứng thú chơi của trẻ đã biết hướng vào kết quả và nhiệm vụ đặt ra. Tức là nhiệm vụ chơi, kết quả chơi chỉ đạo hành động của trẻ; yếu tố thắng- thua , đúng- sai trở thành động cơ thúc đẩy trẻ tự lập, tích cực, sáng tạo trong khi hành động. 29
  30. - Nội dung, hành động, luật chơi ngày càng mở rộng và trở nên phức tạp. Trẻ biết sử dụng các thao tác tư duy để giải quyết nhiệm vụ chơi ( Thích chơi trò chơi nhóm các đồ vật, hiện tượng giống nhau và khác nhau). - Trẻ thích chơi những trò chơi HT bằng lời (do ngôn ngữ của trẻ PT) và những trò chơi đòi hỏi sự nổ lực ý chí. - Trong khi chơi trẻ thể hiện tính tự lập, sáng tạo rất rõ. Có khả năng tự chơi trò chơi HT (tự xác định được ND, HĐ, và luật chơi và tự tổ chức chơi với nhau). * Hướng dẫn: - Đồ chơi phải phong phú, đa dạng để trẻ có thể chơi những trò chơi có nhiệm vụ phức tạp: Phân tích, so sánh, phân loại, khái quát hóa theo các dấu hiệu khác nhau. - Cần tăng cường những trò chơi Ht bằng lời (câu đố, đoán) và nhwgx trò chơi đòi hỏi trẻ phải nổ lực nhận thức. - Khi hướng dẫn cô cần giúp trẻ xác định rõ mục đích của hành động (kết quả) và cùng trao đổi, thảo luận về luật chơi, cách chơi, giao ước thi đua giữa các nhóm, giữa các trẻ với nhau. Đối với trò chơi mới, cô ko càn hướng dẫn một cách tỉ mỉ và làm mẫu như trẻ bé, cô có thể đặt ra những câu hỏi có tính chất gợi mở để trẻ tự xác định cách chơi và thống nhất với nhau luật chơi. - Cô cần động viên khuyến khích kịp thời trẻ làm nhanh, đúng và động viên trẻ khác tích cực hơn. Đồng thời chú ý mở rộng nội dung chơi, phức tạp dần nhiệm vụ chơi sau mỗi lần chơi. - Trẻ đã có khả năng tự tổ chức trò chơi đã biết, cô cần tạo ĐK để trẻ chủ động, sáng tạo, còn cô chỉ là người quan sát, cố vấn, trọng tài cho trẻ. - Tiếp tục rèn luyện cho trẻ những thói quen cần thiết 5. TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG 5.1. Khái niệm và ý nghĩa của trò chơi vận động đối với trẻ MN 5.1.1. Khái niệm Trò chơi vận động là loại trò chơi có luật, thường do người lớn nghĩ ra cho trẻ chơi. Đó là loại trò chơi đòi hỏi trẻ phải phối hợp các thao tác vận động để giải quyết các nhiệm vụ vận động được đặt ra như là nhiệm vụ chơi, qua đó thể chất của trẻ được phát triển. 5.1.2. Ý nghĩa của trò chơi vận động đối với trẻ MN - Ở trường MN, trò chơi vận động vừa là phương tiện để dạy trẻ vận động, vừa là hình thức tổ chức GD thể chất một cách tích cực, thoải mái, giúp trẻ giải quyết nhiệm vụ GD thể chất một cách nhẹ nhàng, vừa là phương tiện GD toàn diện cho trẻ. + Trò chơi vận động l PT hoàn thiện kĩ năng vận đông cơ bản cho trẻ như: Bò, chạy, nhảy, ném, bắt Đồng thời, những phẩm chất thể lực cơ bản cũng được hình thành: Sự nhanh nhẹn, linh hoạt, dẻo dai, mạnh dạn. Nhờ vận động tích cực mà quá trình trao đổi chất của trẻ được tăng cường, hệ tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa hoạt động tích cực hơn; hoạt động của HTK được linh hoạt, bền bỉ hơn, cơ bắp được PT mạnh mẽ. + Trò chơi vận động góp phần phát triển sự tập trung chú ý, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng và cảm xúc, tình cảm của trẻ. Vì để chơi được trẻ phải tập trung nghe cô giới thiệu nội dung chơi, luật chơi-> tri giác, trí nhớ có chủ định PT. Khi chơi trẻ phải tập trung giải quyết các nhiệm vụ chơi, tình huống chơi trong hoàn cảnh tưởng tượng-> tư duy, trí tưởng tượng PT. Trò chơi vận động còn kèm theo lời ca tiếng hát làm cho ngôn ngữ của trẻ được PT. Khi thể hiện hành động chơi, nhất là hành động chơi theo vai (vai quạ, con gà con, gà mẹ ) và kết thúc chơi (ai thắng, ai thua ) mang lại niềm vui vô bờ, qua đó xúc cảm, tình cảm của trẻ được PT (trẻ lo lắng chạy thật nhanh khi bị "quạ" đuổi; vui sướng khi chạy tới mẹ ko bị bắt). 30