Giáo trình Triết học (Phần 1)

pdf 226 trang hapham 2100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Triết học (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_triet_hoc_dung_cho_hoc_vien_cao_hoc_va_nghien_cuu.pdf

Nội dung text: Giáo trình Triết học (Phần 1)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC (Dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) Hà Nội, 2005
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ___ GIÁO TRÌNH TRIẾ T HOC̣ (Dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học) Hà Nội - 2005
  3. 1 Chƣơng 1 KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC I. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC 1. Khái niệm triết học và đối tƣợng nghiên cứu của triết học a) Khái niệm triết học. Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thức VI trước công nguyên với các thành tựu rực rỡ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Triết học, theo gốc từ chữ Hán là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự hiểu biết sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật. Theo người Ấn Độ, triết học là darshana. Điều đó có nghĩa là sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Theo chữ Hy Lạp, triết học là philosophia, có nghĩa là yêu thích sự thông thái. Nhà triết học được coi là nhà thông thái, có khả năng nhận thức được chân lý, làm sáng tỏ được bản chất của sự vật. Như vậy, dù ở phương Đông hay phương Tây, khi triết học mới ra đời, đều coi triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, đi sâu nắm bắt được chân lý, được quy luật, được bản chất của sự vật. Trải qua quá trình phát triển, đã có nhiều quan điểm khác nhau về triết học. Trong các quan điểm khác nhau đó vẫn có những điểm chung. Đó là, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra các quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Khái quát lại, có thể hiểu. Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó. b) Đối tượng của triết học Triết học ra đời từ thời cổ đại. Từ đó đến nay, triết học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Trong quá trình phát triển đó, đối tượng của triết học cũng thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử.
  4. 2 Thời cổ đại, khi mới bắt đầu có sự phân chia giữa lao động trí óc với lao động chân tay, tri thức của loài người còn rất ít, chưa có sự phân chia giữa triết học với các khoa học khác, mà tất cả tri thức khoa học đều gọi là triết học. Ở Trung hoa, triết học gắn liền với những vấn đề chính trị- xã hội; ở Ấn Độ, triết học gắn liền vơi tôn giáo; ở Hy Lạp. triết học gắn liền với khoa học tự nhiên và gọi là triết học tự nhiên. Cũng vì vậy, khi đó đối tượng nghiên cứu của triết học là mọi lĩnh vực tri thức. Đây cũng là nguyên nhân sâu xa về sau dẫn đến quan niệm cho rằng: "Triết học là khoa học của các khoa học". Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, đặt nền móng cho sự phát triển về sau không chỉ đối với triết học mà còn đối với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Thời Trung cổ ở Tây Âu, do sự thống trị của Giáo hội thiên chúa giáo trên mọi mặt của đời sống xã hội, triết học trở thành đầy tớ của thần học. Nhiệm vụ của triết học khi đó là lý giải và chứng minh tính đúng đắn của các nội dung trong kinh thánh. Triết học đó gọi là triết học kinh viện. Với khuôn khổ chật hẹp của đêm trường Trung cổ, triết học phát triển rất chậm chạp. Vào thế kỷ XV- XVI, khi trong lòng xã hội phong kiến các nước Tây Âu xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, khoa học tự nhiên phát triển. Khi đó, triết học duy vật phát triển gắn liền với yêu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản và sự phát triển của khoa học tự nhiên. Đặc biệt, đến thế kỷ XVII- XVIII, khi cách mạng tư sản nổ ra ở các nước Tây Âu, khi khoa học tự nhiên diễn ra quá trình phân ngành sâu sắc và đạt được nhiều thành tựu, nhất là cơ học Niutơn, triết học duy vật phát triển mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII- XVIII là chủ nghĩa duy vật Anh, Pháp, Hà Lan với các đại biểu như Ph. Bêcơn, T. Hốpxơ (Anh), Điđrô, Henvetiuýt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan) Vào thời kỳ này, mặc dầu khoa học tự nhiên đã hình thành các bộ môn khoa học độc lập, nhưng triết học vẫn gắn liền với khoa học tự nhiên, chưa xác định rõ đối tượng nghiên cứu của riêng mình. Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khi mà Anh, Pháp đã là nước tư bản, thì nước Đức còn là một nước phong kiến, giai cấp tư sản đang hình thành. Trước ảnh hưởng của Anh, Pháp và yêu cầu phát triển của giai cấp tư sản Đức, triết học Đức đã phát triển mạnh mẽ nhưng trên lập trường duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen. Hêghen xem triết học của mình là
  5. 3 một hệ thống phổ biến của tri thức khoa học, mà trong đó các ngành khoa học cụ thể chỉ là những móc khâu của triết học. Triết học Hêghen là hệ thống triết học cuối cùng xem triết học là "khoa học của các khoa học". Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, trước yêu cầu cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và sự phát triển của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ, triết học Mác đã ra đời. Triết học Mác đã đoạn tuyệt với quan niệm "triết học là khoa học của các khoa học" và xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất với ý thức trên lập trường duy vật; nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ. Với sự phát triển đầy mâu thuẫn trong xã hội tư bản, với những thành tựu trong cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại, ở các nước tư bản hiện đại đã xuất hiện nhiều trào lưu triết học khác nhau mà ta gọi là "triết học phương Tây hiện đại". Đó là các trào lưu triết học duy khoa học, trào lưu triết học nhân bản phi lý tính, trào lưu triết học tôn giáo. 2. Vấn đề cơ bản của triết học và các trƣờng phái triết học. a) Vấn đề cơ bản của triết học. Theo Ph. Ăng ghen, ngay từ thời cổ xưa, con người đã gặp phải vấn đề quan hệ giữa linh hồn với thể xác của con người. Từ việc giải thích những giấc mơ, người ta đi đến quan niệm về sự tách rời giữa linh hồn với thể xác, về sự bất tử của linh hồn. Như vậy, ngay từ thời đó, con người phải suy nghĩ về mối quan hệ giữa linh hồn với thế giới bên ngoài. Từ khi triết học ra đời, vấn đề đó được tiếp tục nghiên cứu giải quyết nhưng trên cơ sở khái quát cao hơn, đó là mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại , giữa tinh thần với tự nhiên, giữa ý thức với vật chất. Đó chính là vấn đề cơ bản của triết học. Ph. Ăng ghen viết: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại". 1 Vấn đề mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại, hay giữa ý thức với vật chất được gọi là "vấn đề cơ bản lớn" của triết học vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Việc giải quyết vấn đề này là tiêu chuẩn để phân chia các trường phái triết học trong lịch sử. 1 C. Mác và Ph. Ăng ghen Toàn tập, tập 21, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2004, tr. 403
  6. 4 Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: -Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? -Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Căn cứ vào cách giải đáp hai mặt đó của vấn đề cơ bản mà các nhà triết học được chia thành các trường phái khác nhau. b) Các trường phái triết học - Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Căn cứ vào cách giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học được chia làm hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. + Chủ nghĩa duy vật cho rằng, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật được thể hiện ba hình thức lịch sử cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật. Vào thời kỳ này, khoa học tự nhiên mới hình thành cho nên các quan điểm duy vật được hình thành dựa trên cơ sở trực quan, trực giác nên mang tính mộc mạc, chất phác. Khi đó, các nhà duy vật giải thích thế giới vật chất bằng cách đi tìm một hay một số sự vật ban đầu, từ đó sinh ra mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới. Mặc dù còn mang tính mộc mạc, chất phác của nó, nhưng chủ nghĩa duy vật thời kỳ này đã xuất phát từ bản thân giới tự nhiên để giải thích tự nhiên, không viện đến thần linh, thượng đế. Hình thức thứ hai của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại (Thế kỷ XVII- XVIII) ở các nước Tây Âu. Nó là thế giới quan của giai cấp tư sản cách mạng chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo của giai cấp phong kiến. Dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này đã có một bước phát triển so với chủ nghĩa duy vật thời cổ đại. Tuy nhiên, do hạn chế bởi trình độ khoa học và lợi ích giai cấp, cho nên duy vật chưa triệt để và mang tính chất siêu hình, máy móc.
  7. 5 Hình thức thứ ba của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăng ghen sáng lập ra và không ngừng phát triển gắn liền với thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và các thành tựu của khoa học hiện đại. Nó đã thống nhất được chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng, và không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn duy vật trong cả lĩnh vực xã hội. Đó là chủ nghĩa duy vật triệt để. + Đối lập với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm cho rằng: ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm chia làm hai hình thức: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng: cảm giác, ý thức là cái có sẵn trong con người, là cái có trước, quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng. Sự vật, hiện tượng chỉ là "tổng hợp các cảm giác". Như vậy, họ phủ nhận sự tồn tại khách quan của sự vật và cho rằng, cảm giác của con người quy định sự tồn tại của sự vật. Quan điểm đó không thể tránh khỏi đi đến chủ nghĩa duy ngã. Chủ nghĩa duy tâm khách quan lại cho rằng: ý thức, tinh thần ("ý niệm", "ý niệm tuyệt đối", "tinh thần thế giới" ) là cái có trước con người trước thế giới vật chất; nó quyết định sinh ra tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất đều là biểu hiện (hay hiện thân) của một thứ ý thức, tinh thần nào đó có trước thế giới vật chất. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy khác nhau về hình thức nhưng đều cho rằng: ý thức, tinh thần quyết định sinh ra vật chất. Về thực chất, chủ nghĩa duy tâm đều tán đồng với tôn giáo và bảo vệ tôn giáo. Bên cạnh các nhà triết học duy vật hay duy tâm triệt để, hay còn gọi là các nhà triết học nhất nguyên, còn có các nhà triết học nhị nguyên. Họ cho rằng, nguyên thể vật chất và nguyên thể tinh thần tồn tại độc lập với nhau, không cái nào quyết định cái nào. Quan điểm này muốn điều hòa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhưng xét đến cùng thì họ rơi vào duy tâm, bởi vì cho ý thức có một cuộc sống riêng, tồn tại tách khỏi vật chất. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai trường phái đối lập nhau trong lịch sử, luôn luôn đấu tranh với nhau. Cuộc đấu tranh giữa chủ
  8. 6 nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là phản ánh cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng trong xã hội. Nhìn chung trong lịch sử phát triển của triết học, chủ nghĩa duy vật là thế giới quan của giai cấp, của lực lượng xã hội tiến bộ cách mạng. Nó hình thành, phát triển gắn liền với cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội và với sự phát triển của khoa học tự nhiên, cũng như khoa học xã hội. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm là thế giới quan của giai cấp, của lực lượng xã hội lỗi thời, lạc hậu, phản tiến bộ. Nó tồn tại, phát triển gắn liền với tôn giáo và bảo vệ tôn giáo. b) Thuyết khả tri (có thể biết) và thuyết bất khả tri (không thể biết). Căn cứ vào cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học chia ra: thuyết khả tri (thừa nhận khả năng nhận thức) và thuyết bất khả tri (phủ nhận khả năng nhận thức). Đại đa số các nhà triết học đều thừa nhận khả năng nhận thức của con người, trong đó có cả các nhà triết học duy vật lẫn các nhà triết học duy tâm. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà triết học duy vật và chủ nghĩa duy tâm khác nhau về cơ bản. Các nhà triết học duy vật xuất phát từ chỗ cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, cho nên nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người và con người hoàn toàn có khả năng nhận thức đúng đắn thế giới khách quan. Ngược lại, các nhà triết học duy tâm xuất phát từ chỗ cho rằng ý thức có trước, vật chật có sau, ý thức quyết định vật chất, cho nên nhận thức là ý thức, tinh thần hay "ý niệm tuyệt đối" tự nhận thức. Trong lịch sử triết học lại có một số người phủ nhận khả năng nhận thức của con người. Học thuyết của họ gọi là "thuyết không thể biết". Theo thuyết này, con người không thể biết được sự vật, nếu có biết thì cũng chỉ biết được hiện tượng bề ngoài, chứ không thể hiểu được bản chất của sự vật. Chẳng hạn, Hium (nhà triết học Anh) cho rằng: chúng ta không biết được sự vật là như thế nào, thậm chí cũng không biết được sự vật có tồn tại hay không. Còn Cantơ (nhà triết học Đức) thừa nhận tồn tại các sự vật, mà ông gọi là "vật tự nó", nhưng không nhận thức được "vật tự nó" mà chỉ có thể nhận thức được hiện tượng của nó mà thôi. Thuyết không thể biết đã có mầm mống từ "hoài nghi luận" trong triết học Hy Lạp cổ đại mà đại biểu là Pirôn. Những người theo thuyết này hoài nghi tri thức đã đạt được và đi đến cho rằng con người không thể đạt được chân lý khách quan. Vào thời kỳ phục hưng, hoài nghi luận đã có tác
  9. 7 dụng chống lại các tín điều tôn giáo và hệ tư tưởng thời Trung cổ. Đến thế kỷ XVIII, hoài nghi luận đã chuyển thành thuyết không thể biết. Thuyết không thể biết cũng đã bị Hêghen và Phoiơbắc phê phán. Theo Ph. Ăng ghen, "sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép những sự vặn vẹo triết học ấy, cũng như tất cả những triết học khác, là thực tiễn, chính là thực nghiệm và công nghiệp. Nếu chúng ta có thể chứng minh được tính chính xác của quan điểm của chúng ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó, bằng cách tự chúng ta làm ra hiện tượng ấy, bằng cách tạo ra nó phải phục vụ mục đích của chúng ta, thì sẽ không còn cái "vật tự nó" không thể nắm được của Cantơ nữa"1 3. Biện chứng và siêu hình. a) Phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng. Triết học không chỉ giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, mà còn phải giải quyết vấn đề: các sự vật, hiện tượng trên thế giới tồn tại như thế nào? Chúng tồn tại biệt lập nhau hay có quan hệ với nhau? Chúng ở trạng thái tĩnh hay không ngừng vận động, phát triển? Giải quyết các vấn đề đó, trong lịch sử triết học có hai phương pháp đối lập nhau: phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức sự vật trong trạng thái cô lập, không có liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và trong trạng thái tĩnh, không vận động, phát triển; nếu có vận động, phát triển thì cũng chỉ là sự biến đổi về lượng, không biến đổi về chất và tìm nguyên nhân vận động phát triển từ bên ngoài chứ không phải từ mâu thuẫn nội tại bên trong sự vật. Theo Ph. Ăng ghen, phương pháp đó. "chỉ nhìn thấy những vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng". 2 Ngược lai, phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức sự vật trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng phương pháp đó không chỉ thấy những sự vật cá biệt, mà còn thấy mối quan hệ lẫn nhau giữa 1 C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1995, tập 21, tr. 406 2 C. Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1994, tập 20, tr. 37.
  10. 8 chúng; không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật, mà còn thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật, mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật, không chỉ thấy "cây" mà còn thấy cả "rừng". Theo Ph. Ăng ghen, phương pháp biện chứng "xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng"1. Phương pháp biện chứng là một phương pháp mềm dẻo, linh hoạt. Nó "thừa nhận trong những trường hợp cần thiết, bên cạnh cái "hoặc là hoặc là" thì có cả cái"cả cái này lẫn cái kia"nữa"2. Phương pháp biện chứng là phương pháp thực sự khoa học trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. b) Các hình thức cơ bản của phép biện chứng. Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn xã hội. Sự phát triển của phương pháp biện chứng gắn liền với sự phát triển của phép biện chứng. Phép biện chứng là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hình thức đầu tiên của phép biện chứng là phép biện chứng tự phác thời cổ đại, mà tiêu biểu là thuyết "Âm- dương" trong triết học Trung hoa, trong đạo phật và nhiều học thuyết triết học Hy Lạp cổ đại. Phép biện chứng thời kỳ này đã thấy được các sự vật trong quá trình sinh thành, tiêu vong và mối liên hệ vô tận giữa các sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, những tư tưởng đó dựa trên cơ sở trực quan, trực giác chứ chưa có được những cơ sở khoa học vững chắc. Hình thức thứ hai của phép biện chứng là phép biện chứng duy tâm, mà đỉnh cao là trong triết học cổ điển Đức, bắt đầu là triết học Cantơ và hoàn thiện trong triết học Hêghen. Nhờ dựa vào các thành tựu khoa học tự nhiên vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và thực tiễn lúc bấy giờ, triết học Đức đã có tính khái quát cao và trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của phép biện chứng. Tuy nhiên, phép biện chứng đó lại không triệt để vì đó là biện chứng duy tâm và bảo thủ. Hình thức thứ ba của phép biện chứng là phép biện chứng duy vật do C. Mác, Ph. Ăng ghen xây dựng và được Lênin tiếp tục phát triển. Nó là kết quả của việc kế thừa những giá trị của phép biện chứng trước đó và tiếp 1 Sđd, tr. 696 2 Sđd, tr. 696
  11. 9 tục phát triển sáng tạo trong điều kiện thực tiễn mới và các thành tựu khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XIX. Phép biện chứng duy vật đã thống nhất phép biện chứng với chủ nghĩa duy vật. Đó là một hệ thống hoàn bị, thống nhất chặt chẽ giữa tính khoa học với tính cách mạng. 4. Chức năng thế giới quan và chức năng phƣơng pháp luận của triết học. a) Chức năng thế giới quan của triết học. Những vấn đề triết học đặt ra và giải quyết trước hết là những vấn đề thế giới quan. Tồn tại trong thế giới, con người phải nhận thức về thế giới và về bản thân mình. Từ đó hình thành nên thế giới quan. Thế giới quan là những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung quanh, về bản thân và về cuộc sống của con người, về vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan bao hàm nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con người. Đến lượt mình, thế giới quan được hình thành lại trở thành nhân tố định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới xung quanh, cũng như tự xem xét bản thân mình và từ đó xác định thái độ, cách thức hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ của thế giới quan là một tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của cá nhân cũng như cộng đồng xã hội nhất định. Triết học ra đời làm cho thế giới quan phát triển lên một trình độ cao -trình độ tự giác dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học mạng lại. Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới quan, là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chính là cơ sở lý luận của hai thế giới quan đối lập: Thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội đối lập nhau. Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật là thế giới quan của giai cấp, của lực lượng xã hội tiến bộ cách mạng, đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội; ngược lại, chủ nghĩa duy tâm được sử dụng làm công cụ biện hộ về lý luận cho giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu, phản động. b) Chức năng phương pháp luận của triết học. Cùng với chức năng thế giới quan, triết học còn có chức năng phương pháp luận. Phương pháp luận, là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng,
  12. 10 lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và trong thực tiễn. Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau: phương pháp luận ngành (phương pháp luận cho rừng chuyên ngành) phương pháp luận chung (phương pháp luận cho một số ngành) và phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận chung cho tất cả các ngành). Phương pháp luận của triết học chính là những phương pháp luận chung nhất. Trong triết học, thế giới quan và phương pháp luận không tách rời nhau. Bất cứ lý luận triết học nào, khi lý giải về thế giới xung quanh và bản thân con người, đồng thời cũng thể hiện một phương pháp luận nhất định, chỉ đạo cho việc xây dựng và vận dụng phương pháp. Mỗi hệ thống triết học không chỉ là một thế giới quan nhất định, mà còn là phương pháp luận chung nhất trong việc xem xét thế giới. Mỗi quan điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc phương pháp luận, là lý luận về phương pháp. Thế giới quan và phương pháp luận là hai chức năng không tách rời nhau trong triết học, và nó tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hoạt động thực tiễn. Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy: Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng duy vật là công cụ mạnh mẽ trong nhận thức khoa học và thực tiễn cải tạo thế giới. II. KHÁI LUẬN VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC 1. Lịch sử triết học và đối tƣợng của khoa học lịch sử triết học Để nhận thức một cách sâu sắc về triết học cũng như rèn luyện năng lực tư duy, cần phải nghiên cứu lịch sử triết học. Lịch sử triết học là lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng triết học qua các giai đoạn phát triển của xã hội; là lịch sử đấu tranh giữa các trường phái triết học, mà điển hình là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm; giữa phương pháp biện chứng với phương pháp siêu hình; là lịch sử gạt bỏ và kế thừa lẫn nhau của các tư tưởng triết học qua các giai đoạn lịch sử, cũng như giữa các dân tộc và các vùng với nhau. Từ nhu cầu nghiên cứu lịch sử triết học đã ra đời bộ môn khoa học lịch sử triết học. Đối tượng của khoa học lịch sử triết học là nghiên cứu làm rõ lịch sử hình thành, phát triển và nội dung tư tưởng của các học thuyết triết học dưới các biểu hiện cụ thể của nó trong từng giai đoạn lịch sử, làm rõ cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học (chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm), giữa hai phương pháp triết học (phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình).
  13. 11 Với tư cách là một khoa học, khoa học lịch sử triết học không dừng lại mô tả sự hình thành, phát triển và nội dung tư tưởng của các học thuyết triết học trong lịch sử, mà phải đi sâu nghiên cứu tìm ra được lôgíc nội tại, được các quy luật hình thành, phát triển của triết học. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức một cách sâu sắc các tư tưởng triết học trong lịch sử. Khoa học lịch sử triết học phải đi sâu nghiên cứu chỉ ra được mối quan hệ giữa các học thuyết triết học với thực tiễn xã hội, với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội. Đồng thời làm rõ thực chất các học thuyết triết học, đánh giá được những giá trị, cũng như những hạn chế và vai trò lịch sử của các học thuyết triết học đó. Khoa học lịch sử triết học còn phải nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ lẫn nhau giữa các học thuyết triết học, sự gạt bỏ và kế thừa lẫn nhau giữa các tư tưởng triết học qua các giai đoạn lịch sử; sự thâm nhập lẫn nhau giữa các tư tưởng triết học của các dân tộc, các quốc gia và các vùng với nhau; sự thâm nhập lẫn nhau và tác động qua lại lẫn nhau giữa triết học với các hình thái ý thức xã hội khác trong quá trình phát triển. Như vậy, khoa học lịch sử triết học phải nghiên cứu tìm ra được quy luật hình thành, phát triển của các học thuyết triết học và vai trò của nó đối với phát triển tư duy lý luận nói riêng, đời sống xã hội nói chung. 2. Tính quy luật về sự hình thành, phát triển của lịch sử tƣ tƣởng triết học. Lịch sử triết học chỉ thực sự trở thành một khoa học khi nó tìm ra được tính quy luật hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học. Bởi vì, chỉ khi đó, chúng ta mới không dừng lại sự mô tả các sự kiện mà đi đến phân tích lô gích, tìm ra được cơ sở sâu xa của quá trình hình thành, phát triển và nội dung tư tưởng của các học thuyết triết học; cũng như sự thay thế lẫn nhau của các học thuyết triết học trong lịch sử. Theo quan điểm Mácxít, lịch sử phát triển tư tưởng triết học có tính quy luật của nó. Trong đó, các tính quy luật chung là: sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học gắn liền với điều kiện kinh tế- xã hội, với cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội; với các thành tựu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; với sự thâm nhập và đấu tranh giữa các trường phái triết học với nhau. Là một hình thái ý thức xã hội, sự hình thành, phát triển của các tư tưởng triết học gắn liền với các điều kiện kinh tế- xã hội, với cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển khác
  14. 12 nhau của xã hội, mỗi giai cấp, mỗi lực lượng xã hội khác nhau sẽ xây dựng nên các hệ thống triết học khác nhau. Sự phát triển và thay thế lẫn nhau giữa các hệ thống triết học trong lịch sử là phản ánh sự biến đổi và thay thế lẫn nhau giữa các chế độ xã hội, phản ánh cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng trong xã hội. Chính vì vậy, nghiên cứu lịch sử triết học không thể tách rời điều kiện kinh tế- xã hội, điều kiện giai cấp và đấu tranh giai cấp đã sinh ra nó. Là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát, lịch sử phát triển của tư tưởng triết học không thể tách rời các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Sự phát triển của triết học, một mặt phải khái quát được các thành tựu của khoa học, mặt khác nó phải đáp ứng yêu cầu phát triển của khoa học trong từng giai đoạn lịch sử. Vì vậy, mỗi giai đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên, thì triết học cũng có một bước phát triển. Đúng như Ph. Ăng ghen đã nhận định: "Với những phát minh mới mang tính thời đại thì triết học cũng phải thay đổi hình thức ". Do đó, việc nghiên cứu lịch sử triết học không thể tách rời các giai đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên. Trong lịch sử triết học luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, mà điển hình nhất là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trong quá trình đấu tranh đó, các trường phái triết học vừa gạt bỏ lẫn nhau, vừa kế thừa lẫn nhau, và mỗi hình thái đều không ngừng biến đổi, phát triển lên một trình độ mới cao hơn. Chính cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học đã làm cho triết học không ngừng phát triển. Đó là lôgíc nội tại trong quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng triết học. Việc nghiên cứu lịch sử triết học không thể tách rời cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học trong lịch sử. Sự phát triển của triết học trong lịch sử không chỉ diễn ra quá trình thay thế lẫn nhau giữa các học thuyết triết học mà còn bao hàm sự kế thừa lẫn nhau giữa chúng. Các học thuyết triết học giai đoạn sau thường kế thừa những tư tưởng nhất định của triết học giai đoạn trước và cải biến, phát triển cho phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới. Đó chính là sự phủ định biện chứng trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học. Việc nghiên cứu lịch sử triết học đòi hỏi phải nghiên cứu sự kế thừa lẫn nhau giữa các tư tưởng triết học. Lịch sử phát triển tư tưởng triết học không chỉ gắn liền với từng quốc gia, dân tộc, mà còn có sự tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau giữa tư tưởng triết học của các quốc gia, dân tộc cũng như giữa các vùng
  15. 13 với nhau. Sự tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau đó góp phần thúc đẩy tư tưởng triết học nhân loại nói chung, tư tưởng triết học từng dân tộc nói riêng phát triển. Sự phát triển của tư tưởng triết học vừa có tính dân tộc, vừa có tính nhân loại. Sự phát triển của triết học không chỉ trong sự tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau giữa các tư tưởng triết học, mà còn giữa triết học với chính trị, tôn giáo, nghệ thuật Sự tác động qua lại lẫn nhau đó làm cho hình thức phát triển của triết học rất đa dạng. Triết học không chỉ là cơ sở lý luận cho các hình thái ý thức xã hội khác, mà nhiều khi còn thể hiện thông qua các hình thái ý thức xã hội khác, như biểu hiện thông qua chính trị, thông qua tôn giáo, thông qua nghệ thuật Điều đó cho thấy, nhiều khi nghiên cứu các tư tưởng triết học phải thông qua nghiên cứu, khái quát từ các hình thái ý thức xã hội khác. 3. Phân kỳ lịch sử triết học Lịch sử hình thành, phát triển triết học trải qua nhiều thời kỳ khác nhau. Phân kỳ lịch sử triết học là cơ sở để đi sâu nghiên cứu lịch sử triết học một cách khoa học. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về phân kỳ lịch sử triết học. Theo quan điểm Macxit, việc phân kỳ lịch sử triết học cần dựa trên những căn cứ cơ bản sau: Triết học là một hình thái ý thức xã hội và là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng, nó hình thành, phát triển gắn liền với sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của các hình thái kinh tế - xã hội sẽ hình thành nên các học thuyết triết học khác nhau. Cho nên phân kỳ lịch sử triết học cần phải dựa vào các giai đoạn phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Đó là triết học xã hội nô lệ, triết học xã hội phong kiến, triết học thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản (thời kỳ phục hưng và cận đại), triết học trong xã hội tư bản Sự phát triển của triết học luôn luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên, triết học đều có bước phát triển mới. Vì vậy, phân kỳ lịch sử triết học còn phải gắn liền với các giai đoạn phát triển của khoa học tự nhiên. Như triết học thời kỳ khoa học tự nhiên mới bắt đầu hình thành thời kỳ cổ đại, triết học thời kỳ khoa học tự nhiên đi sâu vào khoa học thực nghiệm thế kỷ XVII - XVIII, triết học thời kỳ khoa học tự nhiên đi sâu vào khái quát những quy luật chung của tự nhiên cuối thế kỷ
  16. 14 XVIII đầu thế kỷ XIX, triết học trong thời kỳ khoa học tự nhiên bắt đầu vào nghiên cứu thế giới vi mô cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, triết học trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay. Do nhiều yếu tố tác động khác nhau, lịch sử triết học còn có những bước ngoặt mang tính cách mạng trong quá trình phát triển. Điều đó đòi hỏi phân kỳ lịch sử triết học cần phải tính đến những bước ngoặt trong sự phát triển của triết học. Chẳng hạn, triết học cổ điển Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã nâng phép biện chứng lên thành một hệ thống lý luận có tính khái quát cao. Đặc biệt phải nói đến sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Sự phát triển của triết học không thể tách rời những điều kiện cụ thể về tự nhiên, về kinh tế - xã hội, về văn hóa của từng vùng, từng dân tộc. Những điều kiện cụ thể đó tạo nên những nét độc đáo riêng về tư tưởng triết học của từng vùng, từng dân tộc. Vì vậy, phân kỳ lịch sử triết học còn phải gắn liền với từng vùng, từng dân tộc. Chẳng hạn phân ra triết học phương Đông và triết học phương Tây, trên cơ sở đó lại chia ra triết học ở các nước khác nhau và các thời kỳ khác nhau. Phân kỳ lịch sử triết học dựa trên nhiều căn cứ khác nhau, cho nên có nhiều cách phân kỳ khác nhau. Mỗi cách phân kỳ thỏa mãn được tiêu chí này lại hạn chế về tiêu chí kia. Để khắc phục điều đó, thông thường trong phân kỳ lịch sử triết học phải kết hợp nhiều tiêu chí. Trong cuốn tài liệu này, lịch sử triết học được chia ra: - Triết học phương Đông cổ, Trung đại - Triết học phương Tây cổ, Trung, Cận và hiện đại - Triết học Mác - Lênin Cách phân kỳ này vừa kết hợp nét đặc thù của từng vùng với các thời kỳ phát triển khác nhau của triết học gắn liền với các hình thái kinh tế - xã hội và với những bước ngoặt trong sự phát triển của triết học.
  17. 15 Chƣơng II KHÁI LƢỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƢƠNG ĐÔNG Theo nghĩa đầy đủ, khái niệm triết học Phương Đông không chỉ bao gồm những tư tưởng triết học ở các nước vùng châu Á mà còn bao gồm những tư tưởng triết học ở các nước vùng Trung Cận Đông. Tuy nhiên, nét đặc sắc của triết học Phương Đông so với triết học các nước phương Tây chính là triết học các nước vùng châu Á mà tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ thời Cổ, Trung đại. Đồng thời, với chiều dài lịch sử khoảng hai ngàn năm qua, những tư tưởng triết học Ấn Độ và Trung Quốc đã có một vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học và văn hoá Việt Nam. I. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI 1. Điều kiện ra đời và nét đặc thù của triết học Ấn Độ cổ, Trung đại Về địa lý. Ấn Độ Cổ đại là một bán đảo rộng lớn ở phía Nam châu Á, có điều kiện tự nhiên rất phức tạp: địa hình có nhiều núi non trùng điệp, có nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù phú; Khí hậu có vùng nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những sa mạc khô khan. Về phương diện lịch sử. Xã hội Ấn Độ cổ đại là một xã hội ra đời từ rất sớm: Khoảng thế kỷ XXV trCN trong lưu vực sông Ấn đã nảy nở một nền văn minh cao, được gọi là nền văn minh Sông Ấn hay Harappa. Khoảng thế kỷ XV trCN, các bộ lạc du mục Arya đã từ phía Bắc xâm nhập vào đất Ấn Độ. Họ dần định cư, rồi đồng hóa với dân bản địa Dravida, tạo thành cơ sở cho sự xuất hiện quốc gia, nhà nước lần thứ hai. Từ thế kỷ VII trCN đến thế kỷ XVI CN đất nước Ấn Độ phải trải qua hàng loạt biến cố lớn, đó là những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các vương triều trong nước và sự xâm lăng của các quốc gia bên ngoài. Vào thế kỷ XVIII, Ấn Độ bị đế quốc Anh đô hộ, từ đó Ấn Độ bước sang thời kỳ thống nhất về chính trị thúc đẩy sự kết hợp giữa văn hóa cổ truyền với văn hóa phương Tây. Về kinh tế - xã hội. Nét nổi bật của Ấn Độ cổ đại là sự tồn tại sớm và kéo dài kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình "công xã nông thôn". Trong kết
  18. 16 cấu này, ruộng đất thuộc về nhà nước, dân công xã canh tác ruộng đất công và nộp tô cho nhà nước, nô lệ không có vai trò trong sản xuất. Trên cơ sở mô hình ấy, trong xã hội Ấn Độ cổ trung đại đã tồn tại rất dai dẳng sự phân chia đẳng cấp, sự phân biệt chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo làm cho kết cấu xã hội rất phức tạp. Về văn hóa. Ấn Độ Cổ đại được hình thành trên cơ sở điều kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người Ấn Độ đã biết quả đất tròn quay xung quanh một trục, đã biết sáng tạo ra lịch pháp, đã có hệ thống số đếm thập phân, đã biết đến số không, đã có những thành tựu trong đại số, hình học, khai căn, các phép tính lượng giác, đường tròn, số , y học và hóa học phát triển. Các tập sử thi vĩ đại như Mahabharata và Ramayana cũng hình thành trong thời kỳ này. Đây cũng là thời kỳ phát triển tư duy trừu tượng, thời kỳ ra đời của các hệ thống tôn giáo, triết học. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hoá luôn tác động mạnh đến con người Ấn độ, và để lại dấu ấn đậm nét, tạo nên cơ sở ra đời và quy định nội dung tính chất cuả nền triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại. Nét đặc thù của tư tưởng triết học này chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng tôn giáo có tính chất "hướng nội". Xu hướng lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới sự "giải thoát" là xu hướng trội của nhiều học thuyết triết học - tôn giáo Ấn Độ cổ , trung đại. 2. Tƣ tƣởng triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại Người ta đã chia lịch sử hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ Cổ, Trung đại thành ba thời kỳ lớn: Thời kỳ Véda (vào khoảng 1500 năm đến 1000 năm trCN); Thời kỳ cổ điển, hay còn gọi là thời kỳ Bàlamôn - Phật giáo (vào khoảng 700 năm trCN đến 600 năm CN); Thời kỳ sau cổ điển hay còn gọi là thời kỳ xâm nhập của Hồi giáo (vào khoảng 700 năm đến 1800 năm CN) a) Tư tưởng triết học thời kỳ Véda Véda, trong tiếng cổ Ấn Độ có nghĩa là tri thức, thường hiểu là tri thức tôn giáo. Trong nghĩa cụ thể, Véda là một khối lượng tác phẩm văn học đồ sộ được sáng tác trong khoảng thế kỷ XV trCN và được sưu tập, chép lại bằng tiếng Phạn cổ vào khoảng thế kỷ X trCN gọi là thánh kinh Véda. Bộ phận sớm nhất của văn học Véda là bốn tập Véda: Rigveda, Samaveda, Atharvaveda, Yajurveda. Bộ phận muộn của văn học Véda là Brahmana, Aranyaka và Upanisad. Nhìn chung, trong các tập này, chúng ta
  19. 17 chỉ thấy các ước vọng của con người, nó phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo, chưa có những khái quát triết học. Song, ta có thể nhận ra những bước phát triển mới của tư duy trừu tượng. Khuynh hướng rõ rệt là người Ấn Độ đi tìm những điểm giống nhau giữa vô vàn hiện tượng và sự vật khác nhau. Đi xa hơn, người ta thừa nhận một nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn biểu hiện ra trong thiên nhiên, trong tinh thần và trong nghi lễ. Ở đây đã phôi thai hai quan niệm đối lập nhau mà ta có thể nhận thấy trong tư tưởng triết học về sau là quan niệm coi thế giới bị chi phối bởi một nguyên lý phi nhân cách và quan niệm coi một vị thượng đế nhân cách hóa điều khiển mọi quá trình vũ trụ. Upanisad là sách triết lý – tôn giáo cuối giai đoạn Véda. Upanisad có nghĩa là tri thức bí mật, thể hiện khát vọng hệ thống hóa các tín ngưỡng cổ. Vấn đề trước hết mà Upanisad quan tâm là mối quan hệ giữa “Tinh thần vũ trụ tối cao” (Brahman) và “Linh hồn” con người (Atman). Upanisad giải đáp một cách duy tâm rằng Brhaman là thực thể duy nhất, có trước, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về với nó sau khi chết. Tất cả mọi vật đều có Atman và Atman là một bộ phận của Brahman. Thứ hai, Upanisad cũng đã trình bày về thuyết luân hồi và cho rằng con người sau khi chết, sẽ lại tái sinh dưới một hình thức khác, người hoặc động vật. Các dạng tái sinh kiếp sau được quy định bởi các nghiệp đã có ở kiếp này. Để giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi nghiệp báo, thoát khỏi sự chi phối của đời sống nhục dục thì phải có tri thức thần bí đặc biệt, muốn đạt được thì phải thiền. Thiền là bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình khi đó linh hồn (Atman) mới đồng nhất được với tinh thần vũ trụ tối cao [Brahman]. Các sách Upanisad đã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển hệ tư tưởng Ấn Độ, là cội nguồn tư tưởng cho nhiều khuynh hướng triết học và tôn giáo khác nhau ở Ấn Độ cổ đại. b) Tư tưởng triết học thời cổ điển Vào thời kỳ cổ điển (hay là Bàlamôn – Phật giáo), tuy nền kinh tế và xã hội nô lệ đã phát triển cao hơn trước nhưng vẫn bị kìm hãm bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn, bởi sự phân chia đẳng cấp ngặt nghèo và sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Về đời sống tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo của kinh thánh Véda, Upanisad và đạo Bàlamôn được suy tôn là hệ tư tưởng chính thống ngự trị trong đời sống tinh thần của con người. Các trường phái triết
  20. 18 học thời kỳ này đa dạng, phản ánh lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau được trình bày thành hệ thống chặt chẽ, được chia làm hai phái: phái chính thống thừa nhận uy thế tối cao của kinh Véda, đạo Bàlamôn và phái không chính thống bác bỏ uy thế kinh Véda và đạo Bàlamôn. Phái chính thống bao gồm 6 trường phái: Sàmkhya, Mimàna, Vedànta, Yoga, Nỳaya, Vaisesia. Phái không chính thống, hay phái tà giáo có ba trường phái: Jaina, Lokàyata, Buddha (Phật giáo). Trường phái Sàmkhya. Tư tưởng của Sàmkhya có nguồn gốc rất cổ và ảnh hưởng của nó rất lớn. Đến nay chỉ có hai tập sách trình bày quan điểm Sàmkhya là Sàmkhya-sùtra được coi là của Kapila và Sàmkhya- karita được coi là của Isvarakrisna. Triết học Sàmkhya sơ kỳ là duy vật, phủ định sự tồn tại của Brahman và thần, họ đưa ra học thuyết tồn tại của kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết về sự chuyển hoá thực tế của nguyên nhân trong kết quả. Họ cho rằng nếu thế giới là vật chất thì nguyên nhân của nó cũng phải là vật chất. Vật chất đầu tiên (Prakriti) ở dạng tinh tế, tiềm ẩn, không thể cảm giác trực tiếp. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng, tươi vui), Rajas (động, kích thích), Tamas (nặng, khó khăn). Khi ba yếu tố này ở trạng thái cân bằng thì Prakriti ở trạng thái không thể trực quan được. Khi cân bằng bị phá vỡ thì đấy là điểm xuất phát của sự tiến hoá thế giới. Triết học Sàmkhya hậu kỳ có khuynh hướng nhị nguyên khi thừa nhận sự tồn tại song song hai yếu tố đầu tiên là Prakriti và Purusa (vật chất và tinh thần). Yếu tố Purusa mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng lượng biến hoá vào yếu tố vật chất. Trường phái Mimànsà. Tư tưởng của Mimànsà có kinh điển đầu tiên là Mimànsà - sùtra được coi là của Jaimini và sau đó là bản chú giải các tác phẩm trên còn lại đến nay là Sabara - Bhasya do Sabara viết. Mimànsà là hệ thống triết học chính thống, không thừa nhận sự tồn tại của thần. Lập luận của họ về sự tồn tại của thần là không có chứng cứ, cảm giác không nhận ra thần, nguồn gốc của tri thức suy cho cùng là dựa trên cảm giác. Quan điểm vô thần như trên có nguồn gốc trong quan điểm của họ về kinh Véda và thần linh Véda. Họ coi kinh Véda là tập mệnh lệnh về nghi lễ. Nghi lễ có sức mạnh, có thể đưa lại hiệu quả. Còn thần trong kinh Véda là cái tên, hay là âm thanh cần thiết cho các câu thần chú nghi lễ. Mimànsà hậu kỳ thừa nhận sự tồn tại của thần.
  21. 19 Trường phái Vêdànta. Tư tưởng của Vêdànta có kinh điển đầu tiên là Vêdànta-sùtra được coi là của Badarayana viết, nhằm hệ thống hoá, thống nhất các quan điểm triết học của Upanisad. Cách luận giải có ảnh hưởng lớn nhất là quan điểm Advaita - Vedanta (tức Vêdànta nhất nguyên) hay Maya - vada (tức lý thuyết là ảo ảnh). Theo lý thuyết này, tồn tại tuyệt đối (Brahman) đồng nhất với “tôi” (Atman) là ý thức cá nhân thuần tuý. Thế giới vật chất không hiện thực, hình ảnh của nó chỉ là ảo ảnh (maya), sinh ra do vô minh (avidya). Vậy, Vêdànta nhất nguyên không thừa nhận sự tồn tại của bất cứ cái gì ngoài Brahman - tức là ý thức thuần tuý. Các phái Vêdànta sau này giải thích Vêdànta - sùtra theo quan điểm hữu thần hay duy tâm khách quan. Họ coi Brahman là linh hồn vũ trụ, vĩnh hằng, còn Atman là linh hồn cá thể, một bộ phận của linh hồn tối cao, tức là thượng đế Brahman. Trường phái Yoga. Yoga-sutra của Patanjali là kinh điển của trường phái Yoga. Tư tưởng triết học cốt lõi của Yoga là sự hợp nhất tâm thể về một mối, là hệ thống tu hành mà người tu hành chấp nhận giải thoát Atman ra khỏi các giác quan và sự ràng buộc của cơ thể. Trường phái Yoga kết hợp tư tưởng triết học của trường phái Sàmkhya nhưng lại coi Purusa là thượng đế. Thượng đế của Yoga không có ý nghĩa triết học mà chỉ có mục đích đạt tới giác ngộ để vượt qua thế giới vật chất hữu hình, hữu hạn, thường biến để đạt tới đại giác - tức đến với Brahman. Trường phái Nyaya - Vaisêsika. Ngay từ đầu, hai hệ thống Nyaya và Vaisêsika đã gắn liền với nhau, qua thời gian thực sự hòa làm một, nên có thể gọi chung là Nyaya - Vaisêsika. Kinh điển cơ bản của Nyaya - Vaisêsika là Nyaya-sùtra của Gautama và Vaisêsika-sutra của Kanađa. Lý thuyết nhận thức, lý thuyết nguyên tử và lý thuyết biện luận là ba nội dung chủ yếu về mặt triết học của trường phái Nyaya - Vaisêsika. Lý thuyết nguyên tử: Những nhà triết học của trường phái Nyaya - Vaisêsika thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất, thế giới ấy là rất phong phú, đa dạng, phương pháp luận của họ là quy toàn bộ sự đa dạng của tồn tại vào bốn yếu tố vật chất: đất, nước, lửa và không khí. Những yếu tố này lại được quy vào bản nguyên duy nhất, đầu tiên là Ami (nguyên tử). Nguyên tử được coi là những hạt vật chất không đồng nhất, bất biến, vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dáng, tồn tại trong môi
  22. 20 trường đặc biệt, trong không gian, thời gian. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử, phái này còn thừa nhận có vô số những linh hồn tồn tại trong vũ trụ, những linh hồn ấy được gọi là Ya mà đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng, ý chí, vui buồn, giận hờn Để điều khiển sự kết hợp giữa các nguyên tử với nhau và giữa các nguyên tử với linh hồn, hoặc giải thoát các linh hồn khỏi nguyên tử hai phái này tìm đến lực lượng thứ ba mang tính chất siêu nhiên đó là thần Isvara. Lý thuyết nhận thức: họ thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nhận thức, đề cao vai trò kinh nghiệm trong nhận thức. Nhận thức có thể tin cậy, cũng có thể không tin cậy. Vì vậy phải kiểm tra đúng sai của nhận thức một cách thực tế. Thuyết biện luận của Nyaya - Vaisêsika có đóng góp quan trọng về hình thức logic của tư duy. Đó là hình thức lôgic của tư duy theo nguyên tắc “Ngũ đoạn luận”: Luận đề – ví dụ – suy đoán – kết luận. Trường phái Jaina. Tên của Jaina bắt nguồn từ tên người sáng lập Mahavira có hiệu là Jina (chiến thắng). Kinh điển của Jaina là Tattvartha - Dhigama - sùtra của Umasvati. Nội dung triết học cơ bản của Jaina là thuyết tương đối, lý luận về phán đoán và thực thể tồn tại.Trước hết Jaina đề cao thuyết tương đối. Theo thuyết này, tồn tại vừa là bất biến vừa chuyển biến. Cái vĩnh hằng là vật chất, còn cái biến đổi là các dạng vật chất, giống như đất sét thì không thay đổi, nhưng những cái bình làm bằng đất sét thì thay đổi. Lý thuyết tương đối của Jaina dẫn đến lý luận về phán đoán. Theo thuyết này, khi đưa ra một phán đoán nào đấy thì chỉ có nghĩa là với một độ chắc chắn nào đó thôi. Những người Jaina cho rằng có thể chia thực thể tồn tại ra làm hai loại sống và không sống: sống là có lý trí, linh hồn; không sống gồm không gian, thời gian, vận động, nghỉ ngơi Các yếu tố sống và không sống liên kết với nhau. Jaina tin vào thuyết luân hồi và nghiệp. Để giải thoát khỏi luân hồi cần hoàn thiện đạo đức bằng hình thức tu khổ hạnh. Trường phái Lokàyata. Tên Lokàyata hay Carvaka thường được hiểu là thứ triết học phổ biến trong nhân dân, hay là triết học lấy vật chất là cơ sở. Luận giải về nguồn gốc thế giới: Lokàyata cho rằng tất cả đều tạo ra bởi bốn yếu tố vật chất là đất, nước, lửa và không khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian và cấu thành vạn vật. Tính đa dạng của vạn vật do sự kết hợp khác nhau của những yếu tố ấy. Bản thân con người cũng là kết quả sự kết hợp của các nguyên tố đó.
  23. 21 Không có linh hồn bất tử. Linh hồn hay ý thức chỉ là một thuộc tính của cơ thể. Ý thức do vật chất sinh ra như gạo nấu thành rượu, nhưng rượu lại có tính chất mà gạo không có là làm cho người ta say. Từ đó Lokàyata phủ nhận thuyết luân hồi và nghiệp, chế giễu sự giải thoát. Lý luận nhận thức và lôgic học: phái này có khuynh hướng duy vật theo lập trường kinh nghiệm luận. Họ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận thức, đồng thời phủ nhận tính chất xác thực của tri thức gián tiếp. Về lôgic học Lokàyata không phủ nhận giá trị của biện luận, chứng minh và kết luận lôgic mà chỉ phủ nhận phương thức suy luận, chứng minh và mở ra kết luận sai lầm của kinh Vêda. Về đạo đức: họ phê phán lý thuyết chấm dứt đau khổ bằng sự kiềm chế ham muốn dục vọng hạnh phúc ở thiên đường. Họ cho rằng chỉ có thế giới con người đang sống mới là có thực. Vì vậy, hãy để cho mọi người sống và hưởng lạc tất cả những cái gì họ mong muốn. Những tư tưởng trên cho thấy Lokàyata là phái duy vật triệt để nhất trong các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại, nó xa lạ với tinh thần tôn giáo truyền thống của Ấn Độ. Trường phái Phật giáo (Bouddha). Phật giáo ra đời vào thế kỷ VI trCN. Người sáng lập là Siddartha (khoảng thế kỷ VI trCN). Sau này ông được người đời tôn vinh là Sakyamuni (Thích ca Mâu ni), là Buddha (Phật). Phật (gọi chung là “Tam Tạng kinh điển” là tên ghi âm Hán Việt của Buddha, có nghĩa là giác ngộ. Phật giáo là hình thức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức Phật, tức từ biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddharta. Kinh điển của phật giáo gồm Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng. Phật giáo, có chung với các tôn giáo Ấn Độ khác một số khái niệm như kiếp nghiệp, luân hồi. Phật học nguyên là một triết lý sống theo mục tiêu giải thoát. Vũ trụ quan thuyết nhân duyên của Phật giáo cho rằng tất cả sự vật có danh có tướng(có thể nhận thức qua cảm giác hay ý niệm) gọi là Pháp (Dharma); đều bị chi phối bởi luật vô thường (luôn luôn chuyển biến): chuyển biến trong nháy mắt hay từng giai đoạn thay hẳn chất lượng rõ rệt. Vạn vật tuân theo luật nhân quả: thành, trụ, dị, diệt. Khái niệm nhân duyên giải thích sinh và diệt của sự vật: nhân là nguyên nhân, duyên là những điều kiện giúp cho nhân phát triển. Nhân duyên là những quan hệ biện chứng trong không gian và thời gian giữa các sự vật. Một sự vật ảnh hưởng
  24. 22 dây chuyền (duyên) đến tất cả các sự vật khác. Trong một có tất cả, trong tất cả có một. Sự vật không có thực thể, chỉ hư ảo tạm thời: sinh ra vì nhân duyên hòa hợp thành (sắc) diệt đi vì nhân duyên tan rã (không). Do đó, không thể có cái “tôi” vĩnh hằng, thực chất là không có tôi, “vô ngã”. Vạn vật hư ảo gốc ở nhân duyên: chân lý ấy gọi là tính chân như, phật tính, pháp tính. Nhân sinh quan tứ diệu đế của Phật giáo cho rằng theo thuyết vô ngã, không có sự vật riêng biệt, không có cái “tôi”. Con người sinh ra chỉ do nhân duyên kết hợp, cụ thể là ngũ uẩn (gồm năm thành tố): cái “tôi” sinh lý tức là thân (với yếu tố sắc, tức là cảm giác được), cái “tôi” tâm lý tức là tâm (với bốn yếu tố tinh thần là thụ, tưởng, hành, thức). Khi nhân duyên ngũ uẩn tan rã, thì tử, diệt. Do không nhận thức được cái “tôi” có mà không; nên con người ta khổ. Do đó, Phật đề ra thuyết Tứ diệu đế, cơ sở của Phật học:1/ Khổ đế là đời người có 8 cái khổ:sinh, lão, bệnh, tử, muốn mà không được, ưa mà phải xa lìa, ghét mà phải gần, ngũ uẩn che lấp trí tuệ. 2/ Tập đế là nguyên nhân cái khổ: tham, sân, si. Chúng sinh do không biết vô ngã, nên sinh ra khổ, dục vọng, tạo ra nhân duyên luân hồi. 3/ Diệt đế là trừ diệt cái khổ, không còn luân hồi sinh tử. 4/ Đạo đế là con đường dẫn đến giải thoát khỏi luân hồi sinh tử đến cõi Niết bàn. Phải theo tám con đường đúng là tri kiến (nhận thức), tư duy, nói năng, hành động (nghiệp), sinh sống, nỗ lực, niệm (nghĩ và nhớ) định (tập trung tư tưởng) đều phải đúng: Niết bàn là trạng thái không còn bản thân nữa, tịch diệt tham dục, không còn sinh tử - luân hồi. Phật giáo chủ trương bình đẳng (ai cũng có Phật tính) từ bi (thương yêu mọi loài). Về giới luật của Phật giáo không phải xuất phát từ ý chí của thần thánh như ở các tôn giáo khác mà là dựa vào yêu cầu của luận lý. Giới luật căn bản của Phật giáo là 5 giới 10 thiện. 5 giới là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. 10 thiện: trong đó có ba thiện nghiệp về thân thể [cứu sinh, bá thí, giữ phẩm hạnh]; 4 thiện nghiệp về khẩu [ thành thực, hoà nhã, ái kính, ngay thẳng]; 3 thiện về ý [ thanh tịnh, từ bi, chính kiến]. Tóm lại, yêu cầu của Phật giáo về giới luật là tránh mọi điều ác, làm mọi điều thiện. Làm ác và không làm điều thiện đều là phạm giới. Phạm giới phải có đủ 3 điều kiện: tâm, cảnh, sự mới gọi là mắc tội phạm giới. Trải qua quá trình vận động của lịch sử, ngay trên đất Ấn Độ đã xuất hiện nhiều hệ phái Phật giáo, họ đưa ra những quan điểm khác nhau.
  25. 23 Sau khi Siddharta mất, Phật giáo đã chia thành hai bộ phận: phái Thượng tọa bộ (Theravada) chủ trương duy trì giáo lý cùng cách hành đạo thời Đức Phật tại thế và phái Đại chúng bộ (Mahasamghika) với tư tưởng cải cách giáo lý và hành đạo cho phù hợp với thực tế. Khoảng thế kỷ II trCN xuất hiện nhiều phái Phật giáo khác nhau, về triết học có hai phái đáng chú ý là phái Nhất thiết hữu bộ (Sarvaxtivadin) và phái Kinh lượng bộ (Sautrànstika). Vào đầu công nguyên Phật giáo Đại thừa xuất hiện chủ trương tự giác, giác tha; họ gọi những người đối lập là Tiểu thừa. Ở Ấn Độ, Phật giáo bắt đầu suy dần từ thế kỷ IX và hoàn toàn sụp đổ trước sự tấn công của Hồi giáo vào thế kỷ XII. c) Tư tưởng triết học thời kỳ sau Cổ điển. Từ thế kỷ VII Đạo Hồi xâm nhập vào Ấn Độ. ở bình diện tư tưởng, cuộc cạnh tranh uy thế giữa đạo Phật, đạo Bàlamôn và đạo Hồi diễn ra ngày càng quyết liệt. Được sự ủng hộ của giai cấp thống trị là tín đồ của Hồi giáo, đạo Hồi từng bước phát triển. Sự phát triển của đạo Hồi đã làm cho đạo Phật suy yếu và đến thế kỷ XII, bị loại ra khỏi ý thức hệ người Ấn Độ. Đến đầu kỷ nguyên mới đạo Bàlamôn phát triển thành đạo Hinđu. Đạo Hồi là tôn giáo do người ả Rập Mohamed sáng lập vào thế kỷ VII, tiếng ả Rập là Islam, có nghĩa là "thuận tòng", "tuân theo" - tức là thuận tòng thánh Allah tối thượng và duy nhất, tuân theo vị sứ giả của thánh Allah là Mohamed. Đạo Hồi kết hợp tín ngưỡng dân gian Ả Rập, đạo Do Thái và đạo Kitô. Nó chống lại một số cơ sở và tư tưởng quá lạc hậu của công xã nguyên thủy, nhưng đồng thời nó thần thánh hóa sự bất bình đẳng trong thế giới Ả Rập, chế độ phong kiến và tàn dư chiếm hữu nô lệ. Cơ sở giáo lý của đạo Hồi là Kinh Koran và những truyền thống, tập quán (Sunna) gồm những tục lệ và hành động do Mohamed truyền lại. Đạo Hồi là đạo một thần, chỉ có một thượng đế là đức Allah (Ala). Mohamed là vị tiên tri của đức Allah. Tư tưởng triết học của Đạo Hồi được thể hiện trong kinh Koran. Kinh Koran cho rằng thánh Allah là côi nguồn của thế giới. Tính chất duy tâm của kinh Koran được thể hiện ở các nội dung sau. Tin chân thánh: là chỉ tin thánh Allah ngoài ra không còn vị thần nào khác, thánh Allah là duy nhất. Đây là hạt nhân tín ngưỡng của đạo Hồi, không được phép thoả hiệp hoặc xem thường. Để củng cố đức tin đạo Hồi đòi hỏi tín đồ: trong lòng thành tín, ngoài miệng tụng niệm, thân thể tuân
  26. 24 hành tuyệt đối không được hoài nghi, tranh biện, có như vậy mới đạt được tâm toàn tin. Tin thiên sứ: Theo Kinh Koran thì có nhiều thiên sứ, mỗi thiên sứ cai quản một công việc: có thiên sứ lo quan sát, có thiên sứ lo truyền đạt, có thiên sứ chuyên theo dõi người chết Theo truyền thuyết của Hồi giáo, trước khi thánh Allah lấy đất tạo ra con người đầu tiên, thì thánh Allah đã lấy ánh sáng tạo ra thiên sứ chấp hành mọi mệnh lệnh của đấng Allah, quan sát, theo dõi, ghi chép không bỏ sót mọi hành vi thiện, ác của con người trong suốt cuộc đời. Tin kinh điển là lòng tin vào bộ Kinh Koran - Bộ kinh thần thánh do Allah khải thị cho nhà tiên tri Mohamed, từ đó xây dựng uy quyền tuyệt đối của kinh Koran. Tin sứ giả là lòng tin vào người nhận mệnh lệnh của thánh Allah để truyền cho người đời. Tín điều này đòi hỏi các tín đồ tôn sùng Mohamed - sứ giả và nhà tiên tri của đức Allah. Tin kiếp sau nghĩa là sau khi chết, con người có thể sống lại và chịu sự phán xét của thánh Allah vào ngày tận thế. Đạo Hồi cho rằng cuộc đời của con người là ngắn ngủi, kiếp sau là tồn tại vĩnh hằng, đây mới chính là nơi thực sự của mỗi con người. Tin tiền định là hạt nhân của thuyết định mệnh Hồi giáo. Tín đồ Hồi giáo tin rằng số phận con người do thánh Allah an bài. Trước khi chào đời tất cả được sắp đặt xong xuôi, con người không có cách gì cưỡng lại được . Thế giới quan của Đạo hồi là thế giới quan duy tâm, coi vũ trụ và con người do thánh Allah sáng tạo ra. Thánh Allah có sức mạnh toàn năng chi phối tất cả mọi sự vật, hiện tượng kể cả con người. Trong thế giới ấy chỉ có Mohamed là người kế tục được thánh Allah. Mỗi con người do thánh Allah sáng tạo ra có một số phận đã được định trước. Nhờ có thánh Alalh chỉ bảo nên con người mới xây dựng được cuộc sống của mình trên trái đất. Những ai không nghe lời dạy của thánh Allah sẽ bị đày xuống địa ngục khi chết, còn những người nghe lời sẽ được lên thiên đàng vì thế phải tuân theo ý chí của thánh Allah. Như vậy, triết lý của đạo Hồi là triết lý duy tâm, ngoại lai, xâm nhập vào Ấn Độ, nó là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị ở Ấn Độ trong thời kỳ chế độ phong kiến suy tàn.
  27. 25 3. Một số kết luận về triết học Ấn Độ cổ, trung đại a) Triết học Ấn Độ ra đời sớm, đồ sộ về quy mô và số lượng tác phẩm, sự đa dạng các trường phái, sự phong phú cách thể hiện, sự sâu rộng nội dung phản ánh. Vì vậy, triết học Ấn Độ cổ, trung đại là một trong những cội nguồn của nền văn minh nhân loại nói chung, cội nguồn của nền triết học thế giới nói riêng. b) Trong quá trình vận động và phát triển, nền triết học Ấn Độ cổ, trung đại chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo, nên giữa triết học và tôn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học ẩn dấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua Kinh Véda và Upanisad. Vì vậy, từ thời kỳ cổ điển về sau, trừ trường phái duy vật điển hình Lokàyata đã mất đi từ sớm, còn các trường phái triết học khác có một sự chuyển biến giống nhau là từ chủ nghĩa duy vật sang chủ nghĩa duy tâm, từ vô thần sang hữu thần. Các vấn đề lớn của triết học như bản thể luận, nhận thức luận, vấn đề con người và cuộc sống của con người đều được lý giải một cách duy tâm: - Vấn đề bản thể luận, trong tư tưởng triết học từ thời sơ khai đã có mầm mống và sau đó từ thời cổ điển trở đi, đã có hai quan điểm đối lập nhau là coi thế giới bị chi phối bởi một nguyên lý phi nhân cách và quan niệm coi một vị Thượng đế nhân cách hóa điều khiển mọi quá trình vũ trụ. Vấn đề quan tâm hàng đầu của các trường phái là mối quan hệ giữa tinh thần vũ trụ tối cao (Brahman) với linh hồn con người (Atman). Họ đã giải thích duy tâm rằng Brahman là thực thể duy nhất, có trước, bất diệt sinh ra tất cả các sự vật, hiện tượng của thế giới và sự nhập về với Brahman của tất cả mọi sự vật hiện tượng trong thế giới. Mọi sự vật, hiện tượng đều có Atman, và Atman là một bộ phận của Brahman. - Vấn đề con người và cuộc sống của con người, là vấn đề triết học Ấn Độ cổ trung đại rất quan tâm. Nhưng do ảnh hưởng tư tưởng luân hồi của kinh Upanisad, do hạn chế của lịch sử, các nhà tư tưởng đã không tìm thấy nguyên nhân đau khổ của con người là trong đời sống kinh tế – xã hội mà là trong nhận thức, do “Vô minh”. Vì thế, hầu hết các trường phái triết học đều tập trung giải quyết vấn đề nhân sinh bằng con đường “giải thoát” mang màu sắc duy tâm. - Về nhận thức, để giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi nghiệp báo, thì phải có tri thức. Con đường đạt tới tri thức không phải là hoạt động nhận thức thông qua sự tác động qua lại của chủ thể và
  28. 26 khách thể mà phải Thiền. Thiền là con đường trực giác thực nghiệm tâm linh của con người để nhận ra chân bản của mình, để linh hồn (Atman) đồng nhất với tinh thần vũ trụ tối cao (Brahman). c) Khi giải quyết các vấn đề của triết học, các hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại chỉ tôn trọng quá khứ, có khuynh hướng phục cổ. Khác với triết học phương Tây, các nhà triết học không đặt ra mục đích tạo ra một loại triết học mới thông qua phê phán có kế thừa nền triết học trước đó mà chỉ tập trung bảo vệ, lý giải và các quan niệm ban đầu. Vì vậy, các vấn đề triết học của các bậc tiền bối đặt ra được bàn sâu sắc, nhưng không phong phú. d) Khi bàn đến vấn đề bản thể luận, một số phái triết học đã đưa ra phạm trù “tính không”, đem đối lập “không” và “có”, quy cái “có” về cái “không”, thể hiện một trình độ tư duy trừu tượng cao. II. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI 1. Điều kiện ra đời và nét đặc thù của triết học Trung Quốc Cổ, Trung đại. Trung Quốc cổ đại là vùng đất rộng lớn, chia làm hai miền. Miền Bắc ngang vĩ tuyến với Hy Lạp, xa biển, khí hậu lạnh, đất đai khô khan, cằn cỗi, sản vật nghèo. Miền Nam, khí hậu ấm áp, cây cối xanh tươi, phong cảnh đẹp, sản vật phong phú. Trung Quốc cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III, kéo dài tới tận thế kỷ III trCN. Trong khoảng 3000 năm lịch sử ấy, Trung Quốc được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: thời kỳ từ thế kỷ IX trCN về trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII đến thế kỷ III trCN. Thời kỳ từ thế IX về trước, bao gồm thời Thượng cổ và thời Tam đại: là Hạ, (2205 -1784 trCN) Thương (1783-1135 trCN), Tây Chu (1135 - 770). Tây Chu là đỉnh cao của chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc. Từ thế kỷ VIII - III trCN là thời kỳ Đông Chu (770 – 221 tr CN thường gọi là thời kỳ Xuân thu - Chiến Quốc). Đó là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Ở thời Đông Chu quyền sở hữu tối cao về ruộng đất thuộc về chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành. Chính nguyên nhân kinh tế này làm xuất hiện sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ sở tài sản, sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ và đẩy xã hội Trung Quốc cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt. Đó cũng chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu để
  29. 27 xây dựng chế độ phong kiến; giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Thực trạng ấy của xã hội đã làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm "kẻ sĩ" luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu cho một xã hội tương lai. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy), "Bách gia tranh minh" (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã hình thành các nhà tư tưởng lớn và các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hoá của Trung Quốc cổ trung đại là cơ sở cho sự ra đời và quy định nội dung, tính chất của triết học Trung Quốc cổ trung đại. Nét đặc thù của triết học ở giai đoạn này là ra đời một loạt học thuyết chính trị - xã hội, triết học và hầu hết các học thuyết này có xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. 2. Tƣ tƣởng triết học Trung Quốc thời cổ đại Trong thời kỳ từ thế kỷ IX trCN về trước, tư tưởng triết học bắt đầu xuất hiện, nhưng chưa đạt tới hệ thống. Tư tưởng triết học có hệ thống được hình thành vào thời Đông Chu. Theo sách Hán thư có tất cả 103 học phái, trong đó chủ yếu là sáu học phái: Nho, Mặc, Đạo, Danh, Pháp, Âm Dương và có ảnh hưởng lớn nhất là ba học phái: Nho, Mặc, Đạo. a) Âm dương gia Âm Dương gia vốn gốc ở các nhà Thuật số. Thuật số có nguồn gốc từ mê tín, song là nguồn gốc của khoa học vì trong thuật số có ước vọng như khoa học. Khi loại trừ sự tin tưởng vào lực lượng siêu nhiên thay vào đó là sự giải thích vũ trụ bằng từ ngữ của lực lượng tự nhiên, dù còn giản dị, thô sơ, có thể tìm thấy bước đầu của khoa học. Phái Âm Dương gia ra đời trên cơ sở ấy. Ở Trung Quốc thời cổ, có hai luồng tư tưởng giải thích cấu tạo và nguồn gốc của vũ trụ: Âm Dương và Ngũ Hành. Hai luồng đó tiến triển độc lập và về sau hợp làm một, dưới tên Âm Dương gia (Sử Ký Tư Mã Thiên). Tư tưởng triết học về Âm - Dương: Ghi chép thành văn về Âm và Dương trong sách Quốc ngữ, Chu ngữ, Chu Dịch. Dương nguyên nghĩa là ánh sáng. Âm có nghĩa là bóng tối. Về sau, Âm - Dương được coi như hai khí; hai nguyên lý hay hai thế lực vũ trụ, biểu thị cho giống đực, hoạt động, hơi nóng, ánh sáng, khôn ngoan, rắn rỏi, v.v tức là Dương; giống
  30. 28 cái, thụ động, khí lạnh, bóng tối, ẩm ướt, mềm mỏng, v.v tức là Âm. Chính do sự tác động qua lại giữa âm và dương mà sinh ra mọi sự vật, hiện tượng trong trời đất. Trong Kinh Dịch sau này có bổ sung thêm trong lịch trình biến hoá của vũ trụ có khởi điểm là Thái cực, từ Thái cực mà sinh ra Lưỡng nghi (âm dương), rồi Tứ tượng, rồi Bát quái. Vậy, nguồn gốc vũ trụ là Thái cực, chứ không phải âm dương. Đa số học giả đời sau cho Thái cực là thứ khí tiên thiên, trong đó tiềm phục hai nguyên tố ngược nhau về tính chất là Âm - Dương. Đây là một quan niệm tiến bộ so với quan niệm Thượng đế làm chủ vũ trụ của các đời trước. Khái quát quá trình phát triển quan niệm về âm dương, ta thấy tư tưởng triết học về âm dương có thiên hướng đi sâu cắt nghĩa nguồn gốc của vạn vật. Âm dương là hai phạm trù rộng, phản ánh hai dạng sự vật, hiện tượng tồn tại phổ biến trong vũ trụ. Một dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi Một dạng có âm tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược Hai thế lực âm dương không tồn tại biệt lập mà thống nhất, chế ước lẫn nhau theo các nguyên lý sau: - Âm Dương thống nhất thành Thái cực. Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, tính chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và biến đổi. - Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực. Hai nguyên lý trên được người Trung Hoa khái quát bằng vòng tròn khép kín, có hai hình đen trắng tượng trưng cho âm dương, hai hình này tuy cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau nhưng ôm lấy nhau, xoắn lấy nhau, biểu thị trong âm có dương, trong dương có âm. - Sự khái quát đồ hình thái cực âm dương diễn tả hình ảnh dương tiến đến đâu thì âm lùi đến đó và đồng thời chỉ rõ âm thịnh dần thì dương suy dần, ngược lại dương thịnh dần thì âm cũng suy dần. Khi âm cực thịnh đã có một mầm dương xuất hiện, khi dương cực thịnh đã có một mầm âm xuất hiện. Để giải thích lịch trình biến hoá trong vũ trụ, người Trung Hoa đã khái quát cái lôgic tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương), Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (thái dương - thiếu âm - thiếu dương - thái âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài), Bát quái sinh ra vạn vật (vô cùng vô tận).
  31. 29 Tư tưởng triết học về âm dương đạt tới mức một hệ thống hoàn chỉnh trong tác phẩm Kinh Dịch. Với cách cấu tạo 64 quái (kép) được tổ thành từ 8 quái (đơn – kinh). Mỗi cấu tạo quẻ kép là một cấu trúc tượng trưng cho một động thái tồn tại của vạn vật. Tinh hoa của Kinh Dịch là Dịch, Tượng, Từ với nguyên lý âm dương. Dịch là biến hoá của vạn vật. Quy luật biến hoá ấy là từ không rõ ràng đến rõ ràng, đến sâu sắc, đến kịch liệt, đến cao điểm, đến mặt trái. Tượng chỉ biến dịch của vạn vật biểu hiện qua các quẻ. Tám quẻ ba vạch tượng trưng ý nghĩa nào đó về sự vật, hiện tượng gọi là tượng. Từ là biểu thị Tượng về phương diện lành hay dữ, động hay tĩnh. Nguyên lý âm dương coi sự giao cảm biến hoá của âm dương trong thái cực là nguyên nhân căn bản tạo nên sự biến hoá trong vũ trụ. Tư tưởng triết học về ngũ hành: Từ ngũ hành được dịch là năm yếu tố không tĩnh mà là động có ảnh hưởng lẫn nhau. Ngũ hành được ghi chép thành văn trong Kinh thư (phần V, quyển IV) dưới tên Hồng Phạm có nghĩa là Khuôn lớn. Thứ nhất là thủy, hai là hoả, ba là mộc, bốn là kim, năm là thổ. Thuỷ nhuần nhã nhất; hoả nóng lên; mộc cong thẳng; kim cắt được; thổ lợi mùa màng. Nhuần nhã dưới thì mặn, nóng lên thì đắng, cong thẳng thì chua, cắt được thì cay, mùa màng thì ngọt. Cuối Tây Chu, thuyết ngũ hành đan xen xuất hiện được dùng để giải thích sự sinh trưởng của vạn vật trong vũ trụ. Thuyết này cho rằng vật giống nhau thì không thể kết hợp thành vật mới, chỉ có những vật có tính chất khác nhau mới có thể hoá sinh thành vật mới. Tiếp theo là thuyết ngũ hành tương thắng, rồi xuất hiện thuyết ngũ hành tương sinh đã bổ khuyết chỗ chưa đầy đủ của thuyết ngũ hành đan xen. Tư tưởng ngũ hành vào thời Chiến quốc đã phát triển đến giai đoạn cao nhất, hình thành một thuyết tương đối hoàn chỉnh là ngũ hành sinh thắng. Sinh có nghĩa là dựa vào nhau mà tồn tại, thắng có nghĩa là đối lập lẫn nhau. Như vậy, tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, những tương tác( tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ) với nhau. Đó là năm yếu tố Kim - Mộc - Thủy - Hoả - Thổ, trong đó Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay, phía Tây, v.v. Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc, v.v. Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, phía Đông, v.v. Hoả tượng trưng cho tính chất đỏ, đắng phía Nam, v.v. Còn Thổ tượng trưng cho chất vàng, ngọt, ở giữa, v.v Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh
  32. 30 hưởng sinh - khắc với nhau theo hai nguyên tắc: Tương sinh (sinh hoá cho nhau): Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hoả sinh Thổ, v.v và tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hoả; Hoả khắc Kim; Kim khắc Mộc; và Mộc khắc Thổ, v.v. Hai luồng tư tưởng Âm Dương và Ngũ Hành được hợp làm một vào thời Chiến quốc, đại biểu lớn nhất là Trâu Diễn. Ông đã dùng hệ thống lý luận âm dương ngũ hành tương sinh tương khắc để giải thích mọi vật trong trời đất và giữa nhân gian. Từ đó phát sinh ra quan điểm duy tâm Ngũ đức có trước có sau. Từ thời Tần Hán về sau, các nhà thống trị có ý thức phát triển thuyết âm dương ngũ hành, dẫn đến biến thành một thứ thần học, chẳng hạn thuyết Thiên nhân cảm ứng của Đổng Trọng Thư, hoặc Phụng mệnh trời của các triều đại sau đời Hán. b) Nho gia Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trCN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng Tử (551- 479 trCN). Sau khi Khổng Tử chết, Nho gia chia làm tám phái, quan trọng nhất là phái Mạnh Tử (327-289 trCN) và Tuân Tử (313 - 238 trCN). Mạnh Tử đã đi sâu tìm hiểu bản tính con người trên cơ sở đạo nhân của Khổng Tử, đề ra thuyết tính thiện. Ông cho rằng, thiên mệnh quyết định nhân sự, nhưng con người có thể qua việc tồn tâm dưỡng tính mà nhận thức được thế giới khách quan, tức cái gọi tận tâm, tri tính, tri thiên, vạn vật đều có đủ trong ta. Ông hệ thống hoá triết học duy tâm của Nho gia trên phương diện thế giới quan và nhận thức luận. Tuân Tử đã phát triển truyền thống trọng lễ của Nho gia, nhưng trái với Mạnh Tử, ông cho rằng con người vốn có tính ác, coi thế giới khách quan có quy luật riêng. Theo ông sức người có thể thắng trời. Tư tưởng triết học của Tuân Tử thuộc chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại. Kinh điển của Nho gia thường kể tới là hai bộ Tứ thư và Ngũ kinh. Tứ thư gồm 4 sách: Trung dung, Đại học, Luận ngữ, Mạnh Tử. Ngũ Kinh có: Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu. Qua hệ thống kinh điển này có thể thấy rõ nét tư tưởng triết học của Nho gia là các tư tưởng dựa trên triết lý về vũ trụ và giới tự nhiên, từ đó luận giải về đạo làm người, về chính trị, về nhận thức. Trong đó đậm nét nhất là tư tưởng về đạo làm người về chính trị và giáo dục. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Tư tưởng triết học về vũ trụ và giới tự nhiên. Những người sáng lập Nho gia nói về vũ trụ và tự nhiên không nhiều, song có một số tư
  33. 31 tưởng cơ bản. Trước hết, trong học thuyết của Nho gia thì Trời có ý nghĩa bậc nhất. Khổng Tử thường nói đến trời, đạo trời, mệnh trời. Nhưng khi giảng giải đạo lý của mình, Khổng Tử lại không nói rõ ràng và hệ thống, ông chỉ cần vận dụng các khái niệm, phạm trù trời, đạo trời, mệnh trời, để làm chỗ dựa mạnh mẽ, thiêng liêng cho học thuyết và đạo lý của mình là được. Vì vậy, sau này quan niệm về trời đất lần lượt được các danh nho đời sau bổ sung. Thứ hai, gộp trời đất muôn vật vào một thể, Khổng Tử thường chú ý tính chất động nhiều hơn tính chất tĩnh. Thứ ba, Khổng Tử tin vào vũ trụ quan dịch, cuộc vận hành biến hoá không ngừng, sâu kín, mầu nhiệm của vũ trụ con người không thể cưỡng nổi, Khổng Tử gọi đó là thiên mệnh. Từ đó ông coi trời có ý chí làm chủ tể của vũ trụ. Tin vào thiên mệnh, Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trời là một điều kiện để trở thành người hoàn thiện. Thứ tư, Khổng Tử tin có quỷ thần, nhưng quan niệm quỷ thần của ông có tính chất lễ giáo hơn tôn giáo. Ông cho rằng quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất tạo thành. Tuy nhìn mà không thấy, lắng mà không nghe, thể nghiệm mọi vật mà không bỏ sót, nhưng mọi người đều cung kính, trang nghiêm để tế tự thì quỷ thần có ở bên tả, bên hữu mình. Mặt khác, ông lại cho rằng quỷ thần không có tác dụng chi phối cuộc sống con người, ông phê phán sự mê tín quỷ thần. Quan niệm thiên mệnh của Khổng Tử được Mạnh Tử hệ thống hoá, xây dựng thành nội dung triết học duy tâm trong hệ thống tư tưởng triết học của Nho gia. Tư tưởng triết học về đạo làm người. Khi nghiên cứu con người, những người sáng lập Nho gia rất quan tâm nghiên cứu bản tính của con người vì họ coi đây là nguồn gốc của sự đảo lộn xã hội thời Đông Chu. Tính của con người theo Nho gia là do trời phú (Trung Dung, I). Sự phú ấy của trời là đồng đều nên tính của con người luôn gần nhau. Nhưng trong cuộc sống xã hội, do những tập tục, tập quán luôn làm cho con người xa nhau (Luận ngữ, Dương hóa, 2) không giữ được tính người trời đã phú tất dẫn đến con người vô đạo, cả nước vô đạo, thiên hạ vô đạo. Vì vậy, thành ra phải lập nên đạo của con người. Đạo theo nghĩa gốc của từ này là con đường đúng đắn từ nơi đi tới nơi đến. ứng dụng vào sự vận động của trời, đất, đạo là những quy luật cơ bản của sự vận động ấy. ứng dụng vào cuộc sống xã hội, đối với con người, đạo là con đường đúng đắn phải noi theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp, phù hợp với tính của con người, do con người lập nên. Theo tinh thần ấy, Kinh Dịch chỉ rõ: "Lập đạo của trời, nói âm và dương"; "Lập đạo
  34. 32 của đất, nói nhu và cương"; "Lập đạo của người, nói nhân và nghĩa". Vậy, đạo làm người là nhân nghĩa. Nhân, xét trong mối liên hệ với đức nghĩa thì nhân là bản chất của nghĩa, bản chất ấy là thương người. Khổng tử nói rằng nhân là thương người, người nào thật lòng thương người khác thì có thể làm tròn nghĩa vụ của mình. Trong Luận ngữ Khổng Tử đã dùng chữ nhân để chỉ một đức riêng, nhưng ông dùng nhiều nhất là để chỉ mọi đức tính, là toàn đức. Nghĩa, xét trong mối liên hệ với nhân thì nghĩa là hình thức của nhân. Nghĩa là phần ta phải làm. Đó là mệnh lệnh tối cao. Trong cuộc sống xã hội, mọi người đều có những điều phải làm, làm nhiệm vụ vì nhiệm vụ, bởi vì những điều ấy đáng phải làm về phương diện luân lý. Nếu làm nhiệm vụ vì lý do khác, không vì luân lý thì hành vi ta không hợp nghĩa, dẫu cho ta có làm tròn bổn phận. Khổng tử cho rằng, trong trường hợp đó hành động chỉ vì lợi. Với Nho gia nghĩa và lợi là hai từ hoàn toàn đối lập. Nhà nho phải biết phân biệt nghĩa và lợi và sự phân biệt này là tối quan trọng trong giáo dục đạo đức Đức của con người gắn chặt với đạo nhân nghĩa. Tứ đức trong kinh điển Nho gia thường được dùng để chỉ một cái gì thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người trong tâm hồn ý thức cũng như hình thức, dáng điệu v.v. Mối quan hệ giữa đạo nhân nghĩa với đức của con người có thể diễn đạt một cách khái quát rằng đường đi lối lại đúng đắn phải theo để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp là đạo; noi theo đạo một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn trong cuộc sống thì có được đức trong sáng quý báu ở trong tâm. Trong kinh điển Nho gia có nói năm đạo cư xử lớn trong năm quan hệ lớn gọi là ngũ luân: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em (hoặc trưởng ấu), bầu bạn. Từ những đạo cư xử lớn ấy, Kinh Lễ đã nêu lên các đức: Vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, trưởng có ân, ấu ngoan ngoãn, với bạn hữu phải có đức tín. Khi nói đến những đức thường xuyên phải trau dồi, là năm đức gọi là ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đối với các đệ tử nói chung, các danh nho gộp cụm sáu chữ: hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa. Với những người có vị trí trọng trách, các danh nho gộp thành một cụm ba chữ là nhân, trí, dũng. Với những đức được đề cao, coi là hạt nhân, đó là nhân và lễ v.v. Tóm lại, nội dung đạo đức cơ bản của Nho gia là Luân Thường. Trong Ngũ Luân có ba điều chính gọi là tam cương; trong ngũ thường nhân là chủ, nên Đạo của Khổng tử gọi là Đạo nhân. Tư tưởng triết học về chính trị. Tình hình xã hội thời Xuân Thu- Chiến Quốc đã xuất hiện những vấn đề lớn như: sự hỗn loạn về quan niệm
  35. 33 đẳng cấp và danh phận; các chư hầu xâm lấn và thôn tính lẫn nhau; mâu thuẫn gay gắt giữa nông dân là lãnh chúa; sự xuống cấp về đạo đức; Do không hiểu nguyên nhân sâu xa của các sự biến lịch sử và bị những quyền lợi giai cấp quy định nên những kế sách chính trị của Khổng Tử chỉ dừng lại ở tính chất cải lương và duy tâm, chứ không phải bằng cách mạng hiện thực. Kế sách chính trị trước hết là thuyết chính danh. Để làm cho xã hội có trật tự, Khổng Tử cho rằng biện pháp trước hết là phải thực hiện chính danh. Chính danh có nghĩa là một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp với cái danh nó mang. Nói cách khác, mỗi cái danh bao hàm trong đó một số điều kiện tạo nên bản chất loại sự việc mà danh liên quan đến. Bản chất của ông vua là những điều kiện lý tưởng mà ông vua phải có, nghĩa là những điều kiện hợp với vương đạo. Hành động theo vương đạo, thì ông vua mới thật là ông vua, ông vua vừa hợp với thực và vừa hợp với danh. Nếu ông vua không hành động theo vương đạo, thì ông vua không phải là ông vua nữa, mặc dù dân chúng vẫn coi là vua. Vậy, trong xã hội, mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm, bổn phận và những cá nhân mang danh ấy phải có những trách nhiệm và bổn phận phù hợp với danh ấy. Đó là ý nghĩa thuyết chính danh của Khổng Tử. Kế sách chính trị thứ hai là thuyết Lễ trị. Thời Xuân Thu - Chiến Quốc nhiều học phái triết học xuất hiện và mỗi học phái đưa ra cách trị nước an dân khác nhau của mình gọi là trị đạo. Những trị đạo được người ta nói nhiều là chính trị, đức trị, lễ trị, pháp trị và vô vi trị. Đấu tranh gay go nhất là đấu tranh giữa Nho gia và Pháp gia về trị đạo. Pháp gia thiên về bá đạo và chủ trương pháp trị, Nho gia kiên trì vương đạo và chủ trương lễ trị. Lễ, hiểu theo nghĩa rộng là những nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự, tôn ty của cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử hàng ngày. Với nghĩa này, lễ là cơ sở của xã hội có tổ chức bảo đảm cho phân định trên dưới rõ ràng, không bị xáo trộn, đồng thời nhằm ngăn ngừa những hành vi và tình cảm cá nhân thái quá. Lễ, hiểu theo nghĩa là một đức bên trong ngũ thường, đó là sự thực hành đúng những giáo huấn kỷ cương, nghi thức do Nho gia đề ra cho những quan hệ tam cương ngũ luân, thất giáo, và cho cả sự thờ cúng thần linh. Đã là người thì phải học lễ, biết lễ và có lễ. Không như thế là phi lễ, mà đã phi lễ thì không được nhìn, không được nghe, không được nói, không được làm. Kinh lễ cho rằng lễ là trật tự của trời cho nên đức lễ chính là tính trời, mệnh trời của con người học lễ từ tuổi trẻ thơ. Với ý nghĩa này lễ là nội dung cơ bản của lễ giáo đạo Nho. Lễ
  36. 34 với những nội dung trên là công cụ chính trị, là vũ khí của một phương pháp trị nước, trị dân lâu đời của Nho giáo. Phương pháp ấy là phương pháp lễ trị. Khổng Mạnh coi trọng giáo dục hơn chính trị và pháp luật nhưng giáo dục và kỷ cương của Nho giáo bao giờ cũng nhằm tới thay thế chính trị, pháp luật một cách hiệu lực hơn. Lễ, có thể đưa tất cả vào nề nếp tăm tắp, có thể ngăn cấm mọi lỗi khi sắp xảy ra. Vì vậy, những điều quy định về lễ vốn ra đời rất sớm, nhiều và tỷ mỉ hơn những điều về pháp luật. Với đối tượng dễ sai khiến đông đảo là nông dân lao động, lớp trẻ và phụ nữ thì lễ lại càng rườm rà, phiền phức và cay nghiệt, làm cho họ mất đi nhiều về phẩm chất con người. Tư tưởng triết học về nhận thức luận. Từ kinh nghiệm của mình, Khổng Tử đã tổng kết được nhiều quy luật nhận thức, nhưng chủ yếu là thực tiễn giáo dục và về phương pháp học hỏi. Để đạt tới đạo nhân, Nho gia rất quan tâm tới giáo dục. Do không coi trọng cơ sở kinh tế kỹ thuật của xã hội, cho nên giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào rèn luyện đạo đức con người. Nhưng, tư tưởng về giáo dục, về thái độ và phương pháp học tập của Khổng Tử chính là bộ phận giàu sức sống nhất trong tư tưởng Nho gia Ý nghĩa của giáo dục, theo Khổng Tử là cải tạo nhân tính. Muốn dẫn nhân loại trở về chỗ tính gần nhau, tức là chỗ thiện bản nhiên thì phải để công vào giáo dục vì giáo dục có thể hoá ác thành thiện. Trung Dung viết: „Giáo dục là tu sửa cái đạo làm người”. Đại học viết: “Đạo của đại học là ở chỗ làm sáng tỏ đức sáng”. Tu sửa đạo làm người, và làm sáng tỏ đức sáng là mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân tính. Khổng Tử không coi giáo dục chỉ mở mang tri thức, giải thích vũ trụ mà ông chú trọng đến việc hình thành nhân cách đầy đủ lấy giáo dục để mở mang cả trí, nhân, dũng, cốt dạy người ta hoàn thành con người đạo lý. Mục đích của giáo dục, theo Khổng Tử trước hết là học để ứng dụng có ích cho đời, với xã hội. Thứ hai là học để hoàn thiện nhân cách. Khổng Tử cho rằng: “Kẻ đi học xưa vì lo mình, ngày nay kẻ đi học là vì người”. Chương trình giáo dục được Khổng Tử nêu lên là văn chương, thực hành, trung nghĩa, tín nhiệm. Trong bốn nội dung ấy, có ba nội dung thuộc phương diện hành vi đại biểu cho nhân cách của một cá nhân hành động ở đời. Thứ ba là học để tìm tòi điều lý. Trời đất vạn vật rất phức tạp, nhưng có thể tìm ra được đạo lý. Khi tìm ra được hệ thống điều lý thì có thể hiểu được sự khác nhau của sự vật. Phương pháp của giáo dục, theo Khổng Tử, trước hết là coi trọng việc giáo
  37. 35 dục theo lịch trình đúng với điều kiện tâm sinh lý. Cách giáo dục ấy nhằm nuôi cho tình cảm nảy nở, rồi đưa vào khuôn phép, rồi điều hoà sự xung đột ở tâm. Thứ hai, coi trọng mối quan hệ giữa các khâu của giáo dục. Trong việc học, cần tuân thủ học gắn liền với tư, với tập, với hành. Trong việc dạy, muốn dạy tốt, phải có trò tốt, tức những học trò học vì đạo, học không biết chán, và phải có thầy dạy tốt, dạy vì đạo mà không biết mệt mỏi. c) Mặc gia Người sáng lập phái Mặc gia là Mặc Tử, tên là Địch (479 - 381 trCN), cùng thời với Khổng Tử. Tư liệu tư tưởng của phái Mặc gia là bộ Mặc Tử gồm 53 chương. Xuất phát từ lập trường giai cấp và đạo đức nghề nghiệp, họ đả kích Nho gia nhiều mặt, muốn tranh chấp địa vị của Nho gia trên trường chính trị. Qua tài liệu kinh điển, tư tưởng triết học của Mặc gia thể hiện các nội dung cơ bản sau: Tư tưởng triết học về vũ trụ. Tư tưởng này, phái Mặc gia có nhiều mâu thuẫn. Một mặt phủ nhận quan điểm thiên mệnh của Khổng Tử và cho rằng sự giàu nghèo, sống chết, họa phúc, thành bại không phải do số mệnh quy định mà là do hành vi con người gây nên, do sức ta chưa đủ, lực ta chưa mạnh. Mặt khác họ lại đưa ra một thế giới quan tôn giáo trọng trời, đất, quỷ thần, phục tùng sức mạnh tự nhiên thần bí. Tư tưởng về nhân nghĩa. Nhân là kiêm ái, tức yêu thương mọi người không phân biệt đẳng cấp, thân sơ, trên dưới ; yêu người như yêu mình, yêu người ngoài cũng như yêu người thân. Nghĩa là lợi là làm lợi cho mọi người, trừ hại cho mọi người. Mặc gia phê phán xã hội lễ trị của Nho gia, noi gương Hạ Vũ khổ hạnh cứu đời, thể hiện màu sắc của chủ nghĩa công lợi nồng đượm. Mười nội dung chủ yếu tạo thành tư tưởng của Mặc gia xoay quanh chữ nghĩa: (thượng hiền, thượng đồng, tiết dụng, tiết táng, phi nhạc, phi mệnh, thiện chí, minh quỷ, kiêm ái, phi công). Mặc gia lấy chữ nghĩa làm tiêu chuẩn để xem xét các vấn đề nhân sinh, xã hội. Tư tưởng về nhận thức. Khi bàn về quan hệ giữa danh và thực ông chủ trương lấy thực đặt tên, cách chọn đúng sai là dựa vào thực tế khách quan. Thuyết tam biểu thể hiện quan điểm đó: lập luận phải có bản, lập luận phải có nguyên, lập luận cần được dụng. Mặc gia coi trọng khoa học tự nhiên, nó phản ánh lợi ích người sản xuất nhỏ, có màu sắc bình dân, nên không có chỗ đứng trong tư tưởng của
  38. 36 giai cấp thống trị. Các triết gia hậu Mặc đã phát triển khía cạnh duy vật của Mặc Tử, nhất là trong nhận thức luận. d) Đạo gia Người sáng lập Đạo gia là Lão Tử họ là Lý, tên là Nhĩ, người nước Sở, sống vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Lão Tử tiếp nhận tư tưởng của Dương Chu, của âm dương - ngũ hành và phép biện chứng của Kinh Dịch sáng lập nên Đạo gia. Tư liệu tư tưởng là cuốn Đạo Đức kinh. Trang Tử (396 - 286 trCN), họ Trang, tên Chu, là một ẩn sĩ. Ông phát triển học thuyết Lão tử, xây dựng một hệ thống tư tưởng sâu sắc thể hiện trong cuốn Nam hoa kinh. Quan điểm về đạo. Đạo là sự khái quát cao nhất của triết học Lão Trang. ý nghĩa của đạo có hai mặt: Mặt thứ nhất, đạo là bản nguyên của vũ trụ, có trước trời đất, không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo. Vì đạo quá huyền diệu, khó nói danh trạng nên có thể quan niệm ở hai phương diện vô và hữu. Vô là nguyên lý vô hình, là gốc của trời đất. Hữu là nguyên lý hữu hình là mẹ của vạn vật (chương 1). Công dụng của đạo là vô cùng (chương 4), đạo sáng tạo ra vạn vật (chương 21). Vạn vật nhờ nó mà sinh ra (chương 34), sự sinh sản ra vạn vật theo trình tự: đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật (chương 42). Đạo còn làm chủ tể vạn vật (chương 4) và đạo là phép tắc của vạn vật (chương 25). Mặt thứ hai, đạo còn là quy luật biến hoá tự thân của vạn vật, quy luật ấy gọi là đức. Đạo sinh ra vạn vật (vì nó là nguyên lý huyền diệu); đức bao bọc, nuôi dưỡng tới thành thục vạn vật (là nguyên lý của mỗi vật) (chương 51). Mỗi vật đều có đức mà đức của bất kỳ sự vật nào cũng từ đạo mà ra, là một phần của đạo, đức nuôi lớn mỗi vật tùy theo đạo. Đạo đức của Đạo gia là một phạm trù vũ trụ quan. Khi giải thích bản thể của vũ trụ; Lão Tử sáng tạo ra phạm trù Hữu và Vô, trở thành những phạm trù cơ bản của lịch sử triết học Trung Hoa. Về đời sống xã hội. Lão Tử cho rằng bản tính nhân loại có hai khuynh hướng hữu vi và vô vi. Vô vi là khuynh hướng trở về nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức hợp thể với đạo. Trên cơ sở ấy, Lão Tử đưa ra giải pháp cho các bậc trị nước là lấy vô vi mà xử sự, lấy bất ngôn mà dạy đời (chương 2). Để lập quân bình trong xã hội thì phải trừ khử những thái quá, nâng đỡ cái bất cập, lấy nhu nhược thắng cương thường, lấy yếu thắng mạnh, tri túc không cạnh tranh bạo động, công thành thân thoái, dĩ đức báo oán. Đó là quan điểm tiêu cực, bảo thủ. Vì vậy, Lão Tử đã gạt bỏ các khái niệm hữu vi của Nho gia, Mặc gia và theo đuổi một thế giới vô
  39. 37 vi, thanh tịnh, vô sự, vô dục. Trang Tử đã thổi phồng một cách phiến diện tính tương đối của sự vật và cho rằng, trong phạm trù đạo, vạn vật đều thống nhất. Ông đề ra tư tưởng triết học nhân sinh tề vật, tức là đối xử như một những cái tương phản, xoá bỏ đúng sai. Mục đích của ông là đặt phú quý, vinh nhục ra một bên tiến vào vương quốc tiêu dao, thanh đạm, đạm bạc, lặng lẽ, vô vi Về nhận thức: Lão Tử đề cao tư duy trừu tượng, coi khinh nghiên cứu sự vật cụ thể. Ông cho rằng không cần ra cửa mà biết thiên hạ, không cần nhòm qua khe cửa mà biết đạo trời. Trang Tử xuất phát từ nhận thức luận tương đối của mình mà chỉ ra rằng nhận thức của con người đối với sự vật thường có tính phiến diện, hạn chế, nhưng lại trượt đến bất khả tri cảm thấy đời có bờ bến mà sự hiểu biết lại vô bờ bến, lấy cái có bờ bến theo đuổi cái vô bờ bến là không được. Ông ta lại cho rằng ngôn ngữ và tư duy logic không khám phá được đạo trong vũ trụ. Trong thời kỳ Ngụy Tấn, thuyết của đạo gia chiếm địa vị thống trị về tư tưởng. Nhìn suốt lịch sử hai ngàn năm tư tưởng Đạo gia tồn tại trong tư tưởng văn hoá truyền thống như là sự bổ sung triết học Nho gia. g) Pháp gia Người sáng lập phái Pháp gia là Hàn Phi (280 - 233 trCN). Tư liệu tư tưởng của Pháp gia là Hàn Phi tử gồm 55 thiên, đã tập hợp được tư tưởng của các nhà Pháp gia, đại biểu ba nhóm là Thận Đáo chủ trương thế là yếu tố trọng yếu đối với chính trị và chính quyền; Thân Bất Hại chủ trương Pháp là yếu tố trọng yếu nhất; Thương Uởng nhấn mạnh Thuật. Hàn Phi đồng ý rằng cả ba Thế, Pháp và Thuật đều cần. Tư tưởng triết học của phái Pháp gia thuộc tư tưởng triết học chính trị, đại biểu lợi ích của tầng lớp địa chủ mới trỗi dậy, của nền chuyên chính quân chủ, có ba nội dung cơ bản: Pháp là luật hay sự quy định theo luật, được viết thành văn bản của quốc gia. Pháp chủ trương khống chế dư luận, dùng pháp trị thay thế lễ trị, yêu cầu dùng hình phạt nặng, không a dua quyền quý. Thế là thế lực hay quyền thế, phải có quyền thế vạn năng thì pháp sẽ được tôn trọng, thuật mới được thực thi. Thuật là phương pháp hay nghệ thuật giải quyết công việc và điều khiển con người, tức là thuật cai trị.
  40. 38 Địa vị của tư tưởng Pháp gia ở giá trị thực dụng. Bao đời nay, các nhà thống trị đều dùng Pháp như một thủ đoạn chính trị để cướp quyền và củng cố chính quyền. Âm Pháp, dương Nho, lấy Đạo hỗ trợ là chủ lưu văn hoá chính trị Trung Quốc. đ) Danh gia Do xã hội Đông Chu biến động, cái cũ, cái mới, cái danh, cái thực tách khỏi nhau, các học phái triết học đều đề cập đến cái danh, cái thực, đại biểu nổi tiếng có Huệ Thi, Công Tôn Long. Huệ Thi: Xuất phát từ thực, không trọng danh, cho rằng mọi sự vật trong thế giới là tương đối. Sự vật dưới trời vừa giống nhau, vừa khác nhau, không có cái gì khác nhau tuyệt đối, tất cả đều biến đổi không ngừng, tất cả đều tương quan mật thiết. Đó chính là thuyết “bàn về cái giống nhau và khác nhau có thể kết hợp” [Hợp đồng dị chi biện] của Huệ thi. Thí dụ: “To đến mức không có cái bên ngoài gọi là đại nhất”. “Nhỏ đến mức không có cái bên trong gọi là tiểu nhất”. Nhìn từ cái đại nhất của vũ trụ thì cái cao thấp cả trời đất chẳng là gì, nhìn cái tiểu nhất thì gần hóa ra xa. Hoặc”Mặt trời ở chính giữa rồi lại xế”, “vật sống lâu rồi lại chết”, “trứng gà có lông”, “đàn bà có râu” tư tưởng này cho thấy thời gian dài ngắn, không gian to nhỏ đều là tương đối, có thể biến hóa. - Công Tôn Long: Không coi trọng thực mà coi trọng danh, ông nhấn mạnh sự khác biệt giữa từ và khái niệm. Ví dụ: Với luận đề “Ngựa trắng không phải là ngựa”, ông luận rằng “ngựa” là để nói hình, còn “trắng” là để nói sắc, cái để nói sắc không phải để nói hình, cho nên “ngựa trắng không phải là ngựa”; Với đề mục “cứng và trắng tách biệt” [Ly Kiên bạch], ông luận rằng đá hoa cương trắng cho ta cảm nhận “nhìn thì không biết độ cứng mà chỉ biết màu trắng như vậy nó không cứng, sờ vào không biết nó trắng mà chỉ biết nó cứng như vậy nó không trắng. Từ đó ông kết luận cứng và trắng tách biệt. Lối tư biện của Huệ Thi và Công Tôn Long đã gạt bỏ sự tổng hợp kinh nghiệm của cảm quan rơi vào biện luận một cách quái đản: “trứng có lông”, “chó có thể là dê”, “con rùa dài hơn con rắn”, “gà ba chân”, “lửa không nóng”. Sự cố gắng theo đuổi khái niệm thuần túy trừu tượng của họ đã mở đường cho việc đi vào lĩnh vực siêu hình học của triết học Trung Quốc, thúc đẩy sự phát triển của logíc học.
  41. 39 Về sau, trong phái Hậu Mặc, tư tưởng minh biện tiếp tục được thể hiện để lại nhiều chủ đề trong sách Mặc Tử. 3. Diễn biến của tƣ tƣởng triết học cổ đại trong thời Trung cổ của Trung Quốc Từ thời Tần Hán về sau, giai cấp thống trị yêu cầu thống nhất về tư tưởng, các phái triết học thời cổ đại lần lượt dung hợp với Đạo Phật từ bên ngoài vào, tạo nên con đường diễn biến độc đáo của tư tưởng triết học Trung Quốc. a) Triết học thời nhà Hán Triều đại nhà Hán (209 trCN – 219 CN) là một triều đại thống nhất tương đối ổn định. Qua ứng dụng tư tưởng triết học thời Tiên Tần đã nảy sinh một loại tư tưởng triết học thích ứng với nhu cầu củng cố chính quyền mới đó là Kinh học. Kinh học là loại tư tưởng triết học giải thích Kinh điển Nho gia, là kết quả sự dung hợp đầu tiên lấy Nho làm chủ, đưa đến một ảnh hưởng sâu rộng đối với hình thái ý thức của toàn bộ xã hội phong kiến. Kinh học thời Hán là một thứ triết học Kinh viện chiếm địa vị thống trị. Nó biến một số tư tưởng triết học thời Tiên Tần trở thành cứng nhắc, thần bí thể hiện trong cuốn sách “Xuân thu phồn lộ” của Đổng Trọng Thư. Đối lập với tư tưởng triết học thần bí của Đổng Trọng Thư là tư tưởng triết học duy vật và biện chứng của Dương Hùng, Hoàn Đàm, Vương Sung, Vương Phù, Tuân Diệt, Trọng Trường Thông , đặc biệt là Vương Sung (27 – 107) b) Triết học thời Ngụy – Tấn Cuối thời nhà Hán nền thống trị phong kiến gặp khó khăn cả trong lẫn ngoài. “Danh giáo” (chỉ chính trị, đạo đức luân lý nhân danh thiết giáo) của Nho gia bị Kinh học duy tâm lũng đoạn. Để giải thoát cho “Danh giáo” các nhà tư tưởng nhìn lại tư tưởng Lão – Trang, Đạo gia trỗi dậy, loại triết học mới xuất hiện, đó là Huyền học. Huyền học thời Ngụy – Tấn (220 – 265 – 420) là loại triết học đan xen Nho, Danh, Pháp, tiếp thu Phật học, là sự dung hợp lần thứ hai của các phái triết học lấy Đạo gia làm chủ. Xoay quanh mối quan hệ giữa khái niệm tự nhiên của Đạo gia và Danh giáo của nho gia, tiêu điểm tranh luận triết học thời kỳ này là “có” và “không” (động và tĩnh) của bản thể luận, “ngôn” và “ý” của nhận thức luận đã sáng tạo nên một loạt phạm trù triết học như “có” và “không” (hữu, vô),
  42. 40 “gốc” và “ngọn” (bản, mạt), “một” và “nhiều” (nhất, đa), “thể dụng”, “tài, tính”, “ngôn, ý, tượng” dẫn dắt tư duy trừu tượng của con người vào chiều sâu của triết học. c) Triết học thời Tùy - Đường Phật giáo nhập vào Trung Quốc từ đời Hán song chưa trở thành hệ thống triết học thích hợp với văn hóa truyền thống Trung Quốc, cho nên phải dựa vào Huyền học Ngụy – Tấn để dung hợp Nho, Đạo, Phật và cuối cùng Phật giáo trỗi dậy vào thời Đường. Cuối thời Ngụy – Tấn, Huyền học suy thoái, triết học Nho, Đạo đình đốn. Triết học Phật giáo đã có những khía cạnh sâu sắc khi phân tích khái niệm, suy lý logíc cũng như chiêm nghiệm vũ trụ, nhân sinh, phản tĩnh lý tính của con người Vì vậy, mọi người trở về với Phật giáo. Các nhà triết học có tư duy triết học cao, các trước tác triết học phần lớn thuộc về lĩnh vực Phật học. Sự hấp thụ, dung hợp lẫn nhau giữa Nho, Đạo, Phật đã dẫn đến cuộc dung hợp lần thứ ba lấy Phật giáo làm chủ đạo của triết học Trung Quốc thời Tùy Đường (590 – 906). Các tông phái Phật giáo như Thiên đài, Hoa nghiêm, Thiền tông xuất hiện, chứng tỏ bước đầu hoàn thành việc Trung Quốc hóa Phật giáo. Các phái Phật giáo khi bàn đến triết học duy tâm đều khảo cứu một cách sâu sắc cái “Tâm”. Việc làm này, khách quan mà xét là đã bổ sung cho sự khiếm khuyết của triết học Trung Quốc là ít phân tích nghiên cứu sâu sắc hiện tượng tinh thần; đồng thời sự khảo sát của Phật học đối với một số nhân tố, một số khâu của tư duy con người cũng sâu sắc hơn các phái triết học trước kia. d) Triết học thời Tống - Minh Từ thời nhà Tống về sau, xã hội phong kiến Trung Quốc bước vào hậu kỳ, tư tưởng triết học Trung Quốc trải qua quá trình phát triển đến thời Tống – Minh (960 – 1278 và 1368 – 1648), Nho học được phát triển đến đỉnh cao dưới hình thức Lý học – là sự dung hợp Đạo và Phật vào Nho. Lý học còn được gọi là Đạo học. Đặc điểm của Lý học là gạt bỏ lối tầm chương trích cú của Hán Nho, phục hưng thánh học (Nho học Tiền Tần) dựa vào Kinh Dịch và Trung dung để giải thích nghĩa lý, tính mệnh. Lý học là hình thái ý thức xã hội thống trị trong xã hội phong kiến hậu kỳ. Xoay quanh mối quan hệ giữa “thiên lý” và “nhân dục”, qua cuộc tranh luận về các phạm trù triết học cơ bản như Lý và Khí (đạo và khí),
  43. 41 Tâm và Vật (tri và hành) hình thành nên một phái duy tâm khách quan có đại biểu lớn nhất là Trình Hạo, Trinh Di, Chu Hy và duy tâm chủ quan là có đại biểu lớn là Lục Cửu Uyên, Vương Thủ Nhân. Đồng thời ở một góc cạnh khác, trong Lý học đang xây dựng một thuyết duy vật thô sơ coi nguyên khí là bản thể với đại biểu lớn là Trương Tải. Lý học vẫn lấy tư tưởng Khổng Mạnh làm hạt nhân, nhưng nội hàm tư tưởng của nó sâu sắc hơn Nho học truyền thống. Do hấp thụ tư tưởng triết học Đạo gia và Phật học, lại biết gạt bỏ những nhân tố tiêu cực, bi quan, vô vi, nên hệ thống lý luận của lý học tinh vi hơn, còn được gọi là Nho học mới. đ) Triết học thời Thanh Cuối thời Thanh, do sự khô cứng của Lý học Trình Chu và Tâm học của Lục, Vương tạo nên không khí ưa chuộng hư ảo. Đứng trước tình hình ấy, các học giả đời Thanh đã nhấn mạnh nghiên cứu học thuật cần liên hệ với hiện thực xã hội có lợi cho quốc kế dân sinh và đã hình thành loại triết học mới là Thực học, đã sản sinh ra một loạt nhà tư tưởng duy vật kiệt xuất như Hoàng Tông Hy (1610 – 1695), Cố Viêm Võ (1613 – 1683), Vương Phu Chi (1619 – 1695), Nhan Nguyên (1635 – 1704), Đới Chấn (1723 – 1777). Tư tưởng triết học cổ Trung Quốc ra đời từ thời Tiên Tần, trải qua hơn 2000 năm đến Lý học đã chín muồi, có thể tự phê phán để tổng kết. Các nhà tư tưởng thời Thanh đã gánh vác nhiệm vụ ấy, đã triển khai phê phán về thực chất Lý học, tổng kết tư tưởng triết học truyền thống trên các phạm trù chủ yếu như lý khí, tâm vật, tri hành, thiên lý, nhân dục Đồng thời họ phê phán chủ nghĩa chuyên chế phong kiến, chủ nghĩa ngu dân theo đuổi sự giải phóng cá tính, dấy lên tư trào khải mông soi sáng tương lai phục hưng văn hóa dân tộc. 4. Một số kết luận triết học Trung Quốc cổ, trung đại a) Mầm mống của tư tưởng triết học Trung Quốc bắt nguồn từ thần thoại thời tiền sử. Tư tưởng triết học có hệ thống hình thành vào thời Xuân Thu – Chiến Quốc với xu hướng chung lấy con người và xã hội là trung tâm của sự nghiên cứu. Các hệ thống triết học thời kỳ này là cội nguồn tư tưởng triết học của Trung Quốc, là mầm mống ban đầu của các loại thế giới quan và phương pháp luận.
  44. 42 b) Từ thời Tần Hán, dựa vào quyền lực trong tay, kẻ thống trị yêu cầu thống nhất tư tưởng: hoặc tôn Nho, hoặc sùng Đạo, hoặc sùng Phật. Các phái tư tưởng triết học thời Tiền Tần như Nho, Đạo, Danh, Pháp Âm dương lần lượt dung hợp với đạo Phật từ ngoài vào tạo nên con đường diễn biến độc đáo của tư tưởng triết học Trung Quốc. Lưỡng Hán, Ngụy - Tấn, Tùy - Đường kế tiếp nhau thịnh hành Kinh học, Huyền học, Phật học. Xuất hiện cục diện Nho, Đạo, Phật luân phiên làm chủ để dung nạp các học phái. Từ thời nhà Tống về sau, xã hội phong kiến bước vào hậu kỳ, Nho học lại được đề cao và phát triển đến đỉnh cao, hình thức biểu hiện là lý học – dung hợp Đạo và Phật vào Nho. Các nhà tư tưởng thời Thanh đã tiến hành tổng kết một cách duy vật cuộc tranh luận trên hai ngàn năm nhiều vấn đề của triết học Trung Quốc. c. Vấn đề bản thể luận và vấn đề cơ bản của triết học đã được các trường phái triết học Trung Quốc cổ trung đại quan tâm. Cách giải thích các vấn đề trên của các trường phái thể hiện có hai quan điểm đối lập nhau là duy vật và duy tâm. - Về vấn đề bản thể luận. Quan điểm duy tâm và tôn giáo cho rằng thế giới bên ngoài, kể cả con người, số phận con người đều do Trời, do Thượng đế quy định. Quan điểm duy vật và vô thần trong Kinh Dịch cho rằng do sự giao cảm của Âm Dương sinh ra; Trong Kinh Thi cho rằng do Ngũ hành tương sinh, tương khắc sinh ra; trong tư tưởng Lão Tử là do “Đạo” sinh ra, trong tư tưởng của Tuân Tử, của Vương Sung là do Khí, trong tư tưởng của Trương Tải là - Thái hư. - Vấn đề cơ bản của triết học được thể hiện trong ba cặp phạm trù là Hình – Thần; Tâm – Vật; Lý – Khí. Cặp phạm trù Hình - Thần ra đời sớm từ thời Chiến Quốc. Quan điểm duy tâm cho rằng thần là bản nguyên của hình, hình là phái sinh từ thần (Đổng Trọng Thư). Ngược lại, quan điểm duy vật từ Hoàn Đàm, vương Sung, Trọng Trường Thông thời nhà Hán và sau đó là Phạm Chấn thời Nam Bắc triều cho rằng hình là thể chất, thần là cái sử dụng (hình chất, thần dụng). Cặp phạm trù Tâm - Vật ra đời thời Tùy - Đường. Quan điểm duy tâm cho rằng vật phụ thuộc vào tâm. Quan điểm duy vật coi tâm phụ thuộc vật chất. Cặp phạm trù Lý - Khí ra đời vào thời Tống – Minh. Quan điểm duy tâm cho rằng Lý sinh ra Khí. Ngược lại quan điểm duy vật coi Khí sinh ra Lý, lý là lý của khí. d) Phép biện chứng mang màu sắc Trung Quốc là quan niệm về “ Dịch”. Tên “Dịch”, do ai đặt ra, xuất hiện từ lúc nào thì chưa rõ. Ý nghĩa
  45. 43 của “Dịch” trong lịch sử Trung Quốc có hai thuyết: Thuyết đựơc nhiều người thừa nhận coi “Dịch” là biến đổi và thuyết được ít người thừa nhận coi “Dịch” là “dị”, nghĩa là dễ dàng. Khái quát các thuyết khác nhau về “Dịch” của Trung Quốc thời cổ, trung đại, Dịch có nghĩa là giao dịch, là biến dịch và bất dịch. Nghĩa giao dịch chỉ rõ giống đực và giống cái giao cảm với nhau mới sinh sinh hoá hoá. Trong tám quẻ đơn, hào âm và hào dương thay đổi cho nhau, trong 64 quẻ trùng, các quẻ đơn thay đổi cho nhau. Nghĩa biến dịch cho rằng giống đực và giống cái, âm và dương muốn giao nhau thì phải động. Âm dương có động thì mới giao nhau, mới biến mà sinh sinh hoá hoá và có hoá thì mới thông (thông có nghĩa là tác động qua lại không cùng). Nếu không có thông thì tới một lúc nào đó sẽ ngừng trệ, vũ trụ nói chung không trường tồn. Nhưng biến phải theo một trật tự, theo quy luật. Nói đến quy luật là nói đến bất biến. Do đó Dịch còn có nghĩa thứ ba là bất dịch. Nghĩa bất dịch trước hết cho rằng sự biến hoá trong vũ trụ diễn ra theo một quy luật bất di bất dịch, quy luật đó gọi là “thường”. Quy luật thường có nghĩa là âm dương thay đổi lẫn nhau, một cái tiến một cái lùi, một cái lùi thì một cái tiến. Biến hoá chỉ là sự tự tiến lùi của âm dương (Kinh dịch. Hệ từ thượng – chương 2 ). Nghĩa bất dịch thứ hai là luật phản phục, tuần hoàn. Luật này người Trung Quốc đã nhận thấy rất sớm trước khi có Kinh Dịch. Xem sự vận hành của mặt trời, mặt trăng, bốn mùa họ thấy sự vật diễn biến theo một phương hướng nào đó, khi tới mức không tiến triển được nữa thì chuyển biến quay trở lại theo chiều ngược lại phương hướng cũ, như thế mãi, không bao giờ thôi. Từ cực thịnh qua suy vi tới diệt vong [từ quẻ Càn đến quẻ Cấu, quẻ Độn, quẻ Bĩ tới quẻ Khôn là phản]. Từ diệt vong lại phát sinh để tiến triển tới chỗ cực thịnh [từ quẻ Khôn tới quẻ Phục, quẻ Lâm, quẻ Thái tới quẻ Càn gọi là Phục]. Sự phản phục đó là sự phản phục của khí dương, sự phản phục của khí âm thì ngược lại; thời phản của dương là thời phục của âm, thời phục của dương là thời phản của âm. Cứ một lần phản, một lần phục, rồi lại phản, như vậy thành luật tuần hoàn. đ) Triết học Trung Quốc cổ trung đại coi con người và xã hội là trung tâm của sự nghiên cứu, từ đó mà triển khai hàng loạt phạm trù triết học, nên so với triết học phương Tây và ấn Độ cùng thời, triết học Trung Quốc mang những đặc trưng đậm nét sau đây: