Hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học (Phần 1)

pdf 77 trang hapham 1990
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfhuong_dan_quoc_gia_ve_dao_duc_trong_nghien_cuu_y_sinh_hoc_ph.pdf

Nội dung text: Hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học (Phần 1)

  1. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC BỘ Y TẾ BAN ĐÁNH GIÁ CÁC VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC HÀ NỘI 2013 1
  2. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Chủ biên: PGS TS Lê Thị Luyến TS Nguyễn Ngô Quang Ban biên soạn: GS TS Trương Việt Dũng GS TS Phạm Ngọc Đính PGS TS Nguyễn Trần Thị Giáng Hương GS TS Nguyễn Công Khẩn GS TS Nguyễn Văn Nguyên PGS TS Lê Thị Luyến PGS TS Nguyễn Trọng Thông PGS TS Nguyễn Văn Tường PGS TS Trịnh Văn Quỳ TS Nguyễn Ngô Quang GS TS Đỗ Đức Vân ThS Võ Thị Nhị Hà TS Phạm Ngọc Hùng 2
  3. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC MỤC LỤC Trang CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6 LỜI NÓI ĐẦU 8 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 10 PGS TS Nguyễn Văn Tường TS Nguyễn Ngô Quang PGS TS Lê Thị Luyến 1. Lịch sử hình thành các quy định về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học và 10 các quy định tại Việt Nam 2. Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học 11 3. Vai trò, trách nhiệm của hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học 14 4. Tầm quan trọng của việc ban hành tài liệu hướng dẫn về đánh giá các vấn 16 đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Chương 2: HƯỚNG DẪN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 18 PGS TS Nguyễn Văn Tường TS Phạm Ngọc Hùng 1. Phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu của đối tượng nghiên cứu 18 2. Các nguy cơ, lợi ích và an toàn 25 3. Sự riêng tư và bảo mật 33 4. Chi trả và bồi thường cho đối tượng nghiên cứu 37 5. Kết thúc/ ngừng nghiên cứu 40 Chương 3: HƯỚNG DẪN VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG 45 PGS TS Trịnh Văn Quỳ GS TS Đỗ Đức Vân GS TS Phạm Ngọc Đính PGS TS Lê Thị Luyến PGS TS Nguyễn Trần Thị Giáng Hương 1. Thử nghiệm lâm sàng thuốc tân dược 45 2. Thử nghiệm lâm sàng vắc xin 51 3. Thử nghiệm lâm sàng thuốc từ dược liệu/thuốc y học cổ truyền 54 4. Thử nghiệm lâm sàng những kỹ thuật mới, phương pháp mới trong chẩn 57 đoán và điều trị 5. Thử nghiệm lâm sàng sinh phẩm điều trị tương tự/thuốc sinh học tương tự 61 3
  4. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Chương 4: HƯỚNG DẪN VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG CÁC NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CÔNG 64 NGHỆ MỚI GS TS Nguyễn Văn Nguyên PGS TS Lê Thị Luyến 1. Nghiên cứu về sản phẩm sản xuất bằng công nghệ nano 64 2. Các nghiên cứu về công nghệ hỗ trợ sinh sản 66 3. Các nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc 68 4. Các nghiên cứu di truyền học 73 Chương 5: HƯỚNG DẪN VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG CÁC NGHIÊN CỨU CỘNG ĐỒNG 78 GS TS Trương Việt Dũng 1. Nghiên cứu dịch tễ học 78 2. Nghiên cứu xã hội học 82 Chương 6: HƯỚNG DẪN VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG CÁC NGHIÊN CỨU TRÊN MỘT SỐ ĐỐI 88 TƯỢNG DỄ BỊ TỔN THƯƠNG PGS TS Nguyễn Văn Tường PGS TS Nguyễn Trọng Thông PGS TS Lê Thị Luyến 1. Nghiên cứu trên đối tượng trẻ em 88 2. Nghiên cứu trên đối tượng người cao tuổi 90 3. Nghiên cứu trên phụ nữ có thai 93 4. Nghiên cứu trên đối tượng bệnh nhân tâm thần 94 5. Nghiên cứu trên bệnh nhân HIV/AIDS 96 6. Nghiên cứu trong những trường hợp khẩn cấp và thảm họa 98 7. Nghiên cứu ở người dân tộc thiểu số 101 Chương 7: HƯỚNG DẪN QUY TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG ĐẠO ĐỨC TRONG 106 NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC PGS TS Lê Thị Luyến ThS Võ Thị Nhị Hà 1. Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học các cấp tại Việt nam 106 2. Hồ sơ đệ trình IEC/IRB trước khi triển khai nghiên cứu 108 3. Thủ tục trước xét duyệt của IEC/IRB 109 4. Quy trình xét duyệt đánh giá hồ sơ nghiên cứu 109 5. Xét duyệt điều chỉnh đề cương nghiên cứu, xét duyệt định kỳ trong quá 113 trình nghiên cứu 6. Kiểm tra điểm nghiên cứu 114 7. Đánh giá báo cáo SAE 114 8. IEC/IRB được thông báo về kết thúc nghiên cứu trước thời hạn/đình chỉ 115 nghiên cứu và hoàn thành nghiên cứu 9. Hồ sơ tài liệu lưu trữ của IEC/IRB 115 4
  5. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC BẢNG CHÚ GIẢI MỘT SỐ THUẬT NGỮ 117 PGS TS Trịnh Văn Quỳ PGS TS Nguyễn Văn Tường GS TS Đỗ Đức Vân TÀI LIỆU THAM KHẢO 129 PHỤ LỤC Phụ lục 1. Mẫu ICF 130 Phụ lục 2: Các tiêu chí và biểu mẫu đánh giá nghiên cứu 133 • Phụ lục 2 mẫu 2.1. Phiếu đánh giá đề cương nghiên cứu 133 • Phụ lục 2 mẫu 2.2.Tiêu chí xét duyệt đề cương nghiên cứu 136 • Phụ lục 2 mẫu 2.3. Bảng kiểm xét duyệt định kỳ nghiên cứu 143 • Phụ lục 2 mẫu 2.4. Bảng kiểm chỉnh sửa đề cương 146 • Phụ lục 2 mẫu 2.5. Bảng kiểm đánh giá SAE/AE 152 • Phụ lục 2 mẫu 2.6. Bảng kiểm đánh giá vi phạm đề cương 156 Phụ lục 3. Danh mục các quy trình thực hành chuẩn các IEC/IRB cần có 159 Phụ lục 4. Quyết định 111/QĐ-BYT ngày 11/01/2013 về việc ban hành quy chế hoạt 163 động của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp cơ sở Phụ lục 5. Hướng dẫn ghi nhận, xử lý và báo cáo các biến cố bất lợi nghiêm trọng 173 trong các thử nghiệm lâm sàng tại Việt Nam. 5
  6. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AE Adverse Event Biến cố bất lợi ADR Adverse Drug Reaction Phản ứng bất lợi của thuốc AIDS Acquired Immune Deficiency Syndrome Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải CIOMS Council for International Organizations of Medical Sciences. Hội đồng các tổ chức quốc tế về khoa học y học CRO Clinical Research Organisation Tổ chức nghiên cứu theo hợp đồng GCP Good Clinical Practice Thực hành nghiên cứu lâm sàng tốt GLP Good Laboratory Practice Thực hành phòng thí nghiệm tốt GMP Good Manufacturing Practice Thực hành sản xuất thuốc tốt HIV Human Immunodeficiency Virus Vi rút suy giảm miễn dịch ở người IEC Independent Ethics Committee Hội đồng đạo đức độc lập IRB Institutional Review Board Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp cơ sở 6
  7. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC ICH International Conference on Harmonisation of Technical Requirements for Registration of Pharmaceuticals for Human Use Hội nghị Quốc tế về thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật cho đăng ký dược phẩm sử dụng trên người SAE Serious Adverse Events Biến cố bất lợi nghiêm trọng SOP Standard operating procedures Quy trình thực hành chuẩn SUSAR Suspected unexpected serious adverse reactions Phản ứng bất lợi nghiêm trọng ngoài dự kiến TNLS Thử nghiệm lâm sàng WMA World Medical Association Hiệp hội Y khoa Thế giới 7
  8. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC LỜI NÓI ĐẦU Gần đây, nhiều thành tựu nổi bật trong nghiên cứu công nghệ y sinh học đã hứa hẹn tạo ra những phương pháp chẩn đoán và điều trị hữu hiệu cho con người. Tuy nhiên, việc thử nghiệm những phương pháp mới này trên người đòi hỏi phải có những qui định chặt chẽ về đạo đức nghiên cứu nhằm đảm bảo an toàn tối đa cho đối tượng tham gia nghiên cứu. Ở Việt Nam, cùng với xu thế phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới, nhu cầu nghiên cứu ứng dụng các phát minh công nghệ y sinh học ngày càng tăng, trong khi đó hành lang pháp lý cho các loại nghiên cứu này còn rất hạn chế. Tình hình trên đặt ra nhu cầu cấp bách cần có những hướng dẫn về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học để bảo vệ tốt hơn quyền lợi và sức khỏe của đối tượng tham gia nghiên cứu. Cho đến thời điểm hiện nay, Tổ chức Y tế Thế giới và nhiều quốc gia, dựa trên các luật pháp hiện hành, đã ban hành các tài liệu hướng dẫn về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học nhằm giúp các nhà nghiên cứu, thành viên hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học và các cơ quan quản lý liên quan tuân thủ những nguyên tắc cơ bản về đạo đức khi nghiên cứu trên đối tượng là con người. Trước tình hình trên, Bộ Y tế đã ban hành quyết định thành lập Ban soạn thảo xây dựng Hướng dẫn Quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học. Các thành viên tham gia soạn thảo Hướng dẫn là các nhà khoa học, thành viên Ban đánh giá các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Bộ Y tế nhiệm kỳ 2012 - 2017. Trên cơ sở các hướng dẫn quốc tế về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học như Tuyên ngôn Hensinki, Hướng dẫn quốc tế về đạo đức trong nghiên cứu y sinh trên đối tượng con người (CIOMS, 2002) và các hướng dẫn của các quốc gia khác trong khu vực như Philippines, Australia, Ấn Độ, Bộ Y tế đã biên soạn tài liệu Hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học. Hướng dẫn này là cơ sở để các nghiên cứu viên thực hiện các qui định về đạo đức trong nghiên cứu cũng như để các thành viên Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học các cấp đánh giá các nghiên cứu trước khi phê duyệt và kiểm tra quá trình nghiên cứu, đảm bảo các nghiên cứu y sinh học tiến hành tại Việt Nam phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành tại Việt Nam và với các hướng dẫn quốc tế. 8
  9. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Tài liệu hướng dẫn này bao gồm 7 chương và 1 phần phụ lục, ngoài nội dung hướng dẫn chung về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học như chấp thuận tham gia nghiên cứu, cân nhắc lợi ích và nguy cơ, bảo mật thông tin và bảo vệ quyền riêng tư của đối tượng nghiên cứu, hướng dẫn này còn đề cập tới nhưng qui định về đạo đức trong từng loại hình nghiên cứu như thử nghiệm lâm sàng, các nghiên cứu dịch tễ học, xã hội học, Hướng dẫn cũng đề cập đến những qui định về đạo đức trong các nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới như chế phẩm nguồn gốc protein, sản phẩm sản xuất bằng công nghệ nano, nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc Hướng dẫn còn đề cập đến đạo đức trong các nghiên cứu trên những đối tượng dễ bị tổn thương (trẻ em, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số, phụ nữ có thai và bệnh nhân HIV/AIDS). Ngoài ra, phần Hướng dẫn hoạt động của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học sẽ giúp ích cho Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học các cấp nắm được quy trình hoạt động đảm bảo chức năng của Hội đồng. Với mục đích Hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học được ban hành không tạo rào cản đối với các nghiên cứu, mà nhằm thúc đẩy các nghiên cứu y sinh học một cách nghiêm túc và đảm bảo tính đạo đức trong các nghiên cứu y sinh học, chúng tôi đề nghị các nghiên cứu viên và các thành viên Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học các cấp áp dụng nghiêm túc các điều khoản trong Hướng dẫn này để đảm bảo tính đạo đức trong các nghiên cứu y sinh học. Thay mặt Bộ Y tế, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các thành viên Ban đánh giá các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Bộ Y tế đã tham gia biên soạn bằng tất cả tâm huyết, Văn phòng Tổ chức Y tế Thế giới tại Hà Nội và Khu vực Châu Á Thái bình dương, các tổ chức phi chính phủ đã hỗ trợ kỹ thuật, phối hợp xây dựng và đóng góp ý kiến cho việc hoàn chỉnh và biên soạn tài liệu này. Quá trình biên soạn và xuất bản lần đầu sẽ không tránh khỏi các thiếu sót. Chúng tôi mong muốn nhận được các ý kiến đóng góp để lần xuất bản sau được hoàn thiện hơn. Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về văn phòng Ban đánh giá các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Bộ Y tế, 138A Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội. Xin trân trọng cám ơn. GS TS Lê Quang Cường Thứ trưởng Bộ Y tế 9
  10. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC VÀ CÁC QUY ĐỊNH TẠI VIỆT NAM Điều luật Nuremberg ban hành năm 1947 là bản Hướng dẫn quốc tế về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đầu tiên. Từ đó đến nay đã có nhiều Hướng dẫn quốc tế và quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học có sự tham gia của đối tượng là con người được ban hành nhằm bảo vệ các đối tượng tham gia nghiên cứu. Tuyên ngôn Helsinki do Hiệp hội Y học Thế giới ban hành lần đầu vào năm 1964, sau đó được bổ sung và hoàn chỉnh nhiều lần, bản hoàn chỉnh lần gần đây nhất vào năm 2013. Hướng dẫn quốc tế của Hội đồng các tổ chức quốc tế về khoa học y học (CIOMS: Council for International Organizations of Medical Sciences) xuất bản năm 2002 đã thay thế các hướng dẫn năm 1993. Năm 2000, Chương trình liên hợp quốc về HIV/AIDS đã xuất bản văn bản hướng dẫn của UNAIDS về: “Cân nhắc các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu vắc-xin dự phòng HIV”. Năm 1996, Hội nghị Quốc tế về hòa hợp các yêu cầu kỹ thuật trong đăng ký dược phẩm sử dụng ở người (ICH: International Conference on Harmonisation) đã ban hành các hướng dẫn quốc tế về các yêu cầu kỹ thuật đối với việc đăng ký các sản phẩm dược phẩm sử dụng cho con người, trong đó có quy định về Thực hành nghiên cứu lâm sàng tốt (GCP - Good Clinical Practice) nhằm đảm bảo chấp nhận lẫn nhau các dữ liệu từ các nghiên cứu được các cơ quan có thẩm quyền của Liên minh Châu Âu, Nhật, Hoa Kỳ và các quốc gia khác chấp nhận. Hướng dẫn ICH-GCP là bản hướng dẫn quốc tế được các quốc gia chấp nhận và áp dụng đưa vào luật pháp cũng như là căn cứ xây dựng hướng dẫn về Thực hành nghiên cứu lâm sàng tốt, đặc biệt với các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, trong đó có vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học. Năm 2001, Hội đồng Bộ trưởng của Liên minh Châu Âu đã thông qua “Hướng dẫn chung về thử nghiệm lâm sàng”. Từ năm 2004 hướng dẫn này đã được lồng ghép trong các văn bản luật pháp của các quốc gia trong liên minh. Nhiều quốc gia như Malaysia, Philippin, Ấn Độ, Australia, đã ban hành các 10
  11. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y học và Thực hành nghiên cứu lâm sàng tốt. Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta đã quan tâm đến vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học và thử nghiệm lâm sàng từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Bên cạnh việc biên dịch và xuất bản các tài liệu quốc tế hướng dẫn về đạo đức trong nghiên cứu, Bộ Y tế đã có các văn bản quy định về các thử nghiệm lâm sàng thuốc y học cổ truyền tại Quyết định 371/QĐ-BYT ngày 12/3/1996 về việc ban hành “Quy chế đánh giá tính an toàn và hiệu lực thuốc cổ truyền”. Năm 2002 Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học tại Quyết định số 5129/2002/QĐ-BYT ngày 19 tháng 12 năm 2002. Ngày 07/03/2008 Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định số 799/2008/QĐ-BYT về việc ban hành Hướng dẫn thực hành tốt thử nghiệm lâm sàng thuốc nhằm chuẩn hóa quy trình triển khai nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng thuốc tại Việt Nam. Năm 2008, Bộ Y tế thành lâp Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp Bộ Y tế nhiệm kỳ 2008 - 2012 tại Quyết định số 2626/2008/QĐ-BYT ngày 22/07/2008 kèm theo Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học nhiệm kỳ 2008 - 2012. Năm 2012, Bộ Y tế thành lập Ban đánh giá các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp Bộ Y tế nhiệm kỳ 2012 - 2017 (Quyết định số 458/QĐ-BYT ngày 16/2/2012) và Quy chế hoạt động của Ban đánh giá các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp Bộ Y tế (Quyết định số 460/QĐ-BYT ngày 16/2/2012). Năm 2013, Bộ Y tế ban hành Hướng dẫn tổ chức và hoạt động của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp cơ sở tại Quyết định số 111/QĐ-BYT ngày 11/01/2013. Việt Nam là một nước đang phát triển, các hướng dẫn về đạo đức trong nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng bên cạnh việc tuân thủ các hướng dẫn quốc tế, chúng ta cần tuân thủ luật pháp, quy định của Việt Nam, đồng thời quan tâm đến nền văn hóa, truyền thống, phong tục tập quán của từng vùng miền, dân tộc. 2. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 2.1. Khái niệm chung về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học là các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức áp 11
  12. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC dụng trong các nghiên cứu y sinh học liên quan đến đối tượng nghiên cứu là con người. Hoạt động nghiên cứu khoa học y học đem lại những tiến bộ to lớn trong y học, tuy nhiên trong các nghiên cứu y sinh học, do đặc điểm đặc biệt đối tượng nghiên cứu là con người, trong quá trình tham gia nghiên cứu có thể xảy ra các nguy cơ rủi ro với đối tượng nghiên cứu. Vì những lý do trên, các chuẩn mực đạo đức trong nghiên cứu được đặt ra, cần xem xét và đánh giá nhằm bảo vệ sự an toàn, sức khỏe và các quyền của đối tượng nghiên cứu. 2.2. Các nguyên tắc cơ bản của đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Các hướng dẫn quốc tế và quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đều nhấn mạnh rằng “Tất cả các nghiên cứu trên đối tượng con người cần được tuân thủ với 3 nguyên tắc cơ bản: tôn trọng con người, hướng thiện và công bằng”. 1. Tôn trọng con người (respect for rights), bao gồm tôn trọng quyền tự nguyện lựa chọn tham gia nghiên cứu của đối tượng có đủ năng lực đưa ra việc tự quyết định và bảo vệ những đối tượng không có khả năng tự quyết định có thể tham gia nghiên cứu hay không, bảo vệ những đối tượng bị phụ thuộc hoặc dễ bị tổn thương khỏi những điều gây hại và lệ thuộc. Đảm bảo đối tượng có quyền từ chối tham gia hay rút lui khỏi nghiên cứu. 2. Hướng thiện (beneficience): nội dung của nguyên tắc đạo đức này là tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa các điều gây hại. Nghiên cứu được dự kiến mang lại những lợi ích, tránh gây hại cho người tham gia nghiên cứu, hoặc nếu có nguy cơ gây hại nào đó thì phải ở mức chấp nhận được và lợi ích dự kiến phải vượt trội so với nguy cơ gây hại. Đối tượng cần được đảm bảo an toàn cũng như được điều trị một cách tốt nhất những biến cố bất lợi do nghiên cứu gây ra. Điều này đòi hỏi thiết kế nghiên cứu hợp lý và người thực hiện nghiên cứu phải có đủ năng lực chuyên môn, chú trọng bảo vệ đối tượng nghiên cứu. 3. Công bằng (justice): Nguyên tắc này đòi hỏi sự công bằng trong phân bổ, nghĩa là phân bổ công bằng cả lợi ích và nguy cơ rủi ro cho những đối tượng tham gia nghiên cứu, cũng như những chăm sóc mà đối tượng tham gia nghiên cứu được hưởng. Nghĩa vụ của người thực hiện nghiên cứu là phải đối xử với mọi đối tượng nghiên cứu một cách đúng đắn và phù hợp về mặt đạo đức, đảm bảo mỗi cá nhân tham gia vào nghiên cứu nhận được tất cả những gì mà họ có quyền được hưởng. 12
  13. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 2.3. Các nội dung cơ bản về chuẩn mực đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Các chuẩn mực đạo đức trong nghiên cứu y sinh học có đối tượng là con người bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: 1. Nghiên cứu y sinh trên đối tượng con người phải tuân theo các nguyên tắc khoa học và phải dựa trên nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên động vật một cách đầy đủ và phải dựa trên các kiến thức thấu đáo từ các tài liệu khoa học; 2. Thiết kế từng thử nghiệm trên đối tượng con người phải được xây dựng và ghi rõ trong đề cương nghiên cứu và phải được đánh giá bởi hội đồng độc lập; 3. Nghiên cứu thử nghiệm phải được thực hiện bởi cán bộ có đủ trình độ khoa học tương xứng và được giám sát bởi các chuyên gia y học có kinh nghiệm lâm sàng; 4. Bất cứ nghiên cứu y sinh học nào có đối tượng nghiên cứu là con người cũng cần phải được đánh giá cẩn thận các nguy cơ có thể lường trước được so với các lợi ích có thể đạt được cho đối tượng nghiên cứu và các đối tượng khác. Quan tâm đến lợi ích của đối tượng nghiên cứu luôn phải đặt trên lợi ích của khoa học và của xã hội; 5. Quyền của đối tượng nghiên cứu phải được đảm bảo toàn vẹn và luôn được đặt lên hàng đầu. Tất cả các điều dự phòng phải được tiến hành để đảm bảo sự bí mật riêng tư của đối tượng và hạn chế tác động của nghiên cứu lên sự toàn vẹn về thể chất và tâm thần, nhân phẩm của đối tượng nghiên cứu; 6. Sự chính xác của các kết quả nghiên cứu phải được đảm bảo; 7. Bất cứ một nghiên cứu nào tiến hành trên con người, mỗi một đối tượng dự kiến tham gia nghiên cứu phải được biết thông tin đầy đủ về mục tiêu, các phương pháp, các lợi ích có thể và các tác hại có thể gây ra cho họ trong nghiên cứu, cũng như những phiền muộn có thể gây ra; 8. Khi lấy chấp thuận tham gia nghiên cứu, bác sỹ phải đặc biệt thận trọng nếu đối tượng trong tình trạng phụ thuộc vào bác sỹ. Không được gây áp lực hoặc đe dọa bắt buộc đối tượng tham gia nghiên cứu; 9. Trong trường hợp đối tượng thiếu năng lực hành vi, việc thông tin và lấy chấp thuận phải thông qua người có trách nhiệm pháp lý phù hợp theo luật pháp của quốc gia. 10. Các đối tượng tham gia nghiên cứu được rút khỏi nghiên cứu bất cứ lúc nào. 13
  14. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 3. VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA HỘI ĐỒNG ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 3.1. Vai trò của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học có một số tên gọi như ERC (Ethic Research Commitee), IEC (Independent Ethic Commitee), IRB (Institutional Review Board). Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học là một tổ chức độc lập (có thể phân theo các cấp: cơ sở, vùng, quốc gia hoặc khu vực) bao gồm các thành viên thuộc chuyên ngành y học và không y học; có vai trò bảo vệ quyền, sự an toàn và sức khỏe của đối tượng tham gia vào nghiên cứu. Thành phần, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, quy trình hoạt động và các quy định hoạt động của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học (viết tắt là IEC/IRB) có thể khác nhau tùy theo từng quốc gia, nhưng đều thống nhất với hướng dẫn ICH-GCP. Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học bảo đảm với cộng đồng việc bảo vệ đối tượng nghiên cứu bằng cách phê duyệt hoặc đưa ra chấp thuận cho phép tiến hành nghiên cứu trên cơ sở xét duyệt đề cương, hồ sơ nghiên cứu và đề cương sửa đổi, giám sát/kiểm tra và xét duyệt định kỳ nghiên cứu, tính phù hợp của sản phẩm nghiên cứu và phương tiện nghiên cứu, phương pháp và phương tiện thu thập bản chấp thuận tham gia nghiên cứu từ đối tượng nghiên cứu. Đối với các nghiên cứu đa trung tâm, đa quốc gia: mặc dù nghiên cứu được một Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học nước ngoài chấp thuận cho thực hiện nhưng IEC/IRB tại Việt Nam vẫn cần đánh giá đạo đức trong nghiên cứu để đảm bảo rằng các tiêu chuẩn đạo đức được áp dụng tại Việt Nam phải chặt chẽ tương đương các tiêu chuẩn sẽ áp dụng tại quốc gia của đơn vị tài trợ và phù hợp với pháp luật, quy định của Việt Nam. IEC/IRB có trách nhiệm đảm bảo rằng nghiên cứu đề xuất triển khai sẽ đáp ứng các nhu cầu và các ưu tiên về nghiên cứu y tế của Việt Nam và đáp ứng các tiêu chuẩn về đạo đức trong nghiên cứu. Hướng dẫn của WHO (2011) yêu cầu về IEC/IRB cần có những tính chất sau: • Tính độc lập của Hội đồng: để đảm bảo quy trình thực hiện và đưa ra quyết định về đánh giá nghiên cứu không bị ảnh hưởng bởi các tổ chức, cá nhân nghiên cứu viên hay nhà tài trợ hoặc cơ quan quản lý nghiên cứu. • Tính minh bạch, phù hợp và chất lượng của IEC/IRB trong đánh giá nghiên 14
  15. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC cứu, thể hiện bằng những quy chế, quy trình thực hành chuẩn (SOPs) trong hoạt động của IEC/IRB. 3.2. Trách nhiệm của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học được quy định các trách nhiệm cụ thể như sau: 1) IEC/IRB bảo vệ các quyền, sự an toàn và tình trạng sức khoẻ của mọi đối tượng nghiên cứu. Cần quan tâm đặc biệt các nghiên cứu có sự tham gia của của các đối tượng dễ bị tổn thương. 2) IEC/IRB xét duyệt nghiên cứu thông qua việc đánh giá về khía cạnh khoa học và khía cạnh đạo đức của các nghiên cứu liên quan đến đối tượng nghiên cứu là con người, bằng cách xem xét các tài liệu sau đây của hồ sơ nghiên cứu: Đề cương nghiên cứu và các sửa đổi đề cương Mẫu chấp thuận tham gia nghiên cứu (ICF) và thông tin về nghiên cứu cung cấp cho đối tượng nghiên cứu bằng văn bản Các quy trình tuyển chọn đối tượng, các tài liệu quảng cáo cho nghiên cứu. Hồ sơ sản phẩm thử nghiệm (IB) trong đó bao hàm các dữ liệu nghiên cứu liên quan ở các giai đoạn nghiên cứu trước của sản phẩm nghiên cứu Thông tin đã có về tính an toàn của sản phẩm, Các khoản chi trả và bồi thường cho đối tượng, hình thức chi trả Lý lịch khoa học và/hoặc các tài liệu xác nhận trình độ chuyên môn của nghiên cứu viên. 3) IEC/IRB cần xét duyệt nghiên cứu trong khoảng thời gian hợp lý và thể hiện các ý kiến của IEC/IRB bằng văn bản, trong đó nêu rõ: Chấp thuận, hoặc các yêu cầu cần sửa đổi trước khi chấp thuận, hoặc không chấp thuận. Trong một số trường hợp IEC/IRB đề xuất chấm dứt/ngừng đối với mọi chấp thuận đã đưa ra trước đó. 4) IEC/IRB xem xét trình độ của nghiên cứu viên thực hiện nghiên cứu thông qua lý lịch khoa học, tài liệu minh chứng. 5) IEC/IRB xét duyệt định kỳ đối với các nghiên cứu đã được phê duyệt đang được tiến hành vào các thời điểm phù hợp tuỳ theo mức rủi ro với đối tượng nghiên 15
  16. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC cứu, ít nhất là một lần một năm. Đồng thời IEC/IRB cần đánh giá các báo cáo biến cố bất lợi trong quá trình nghiên cứu. 6) IEC/IRB có thể yêu cầu nghiên cứu viên bổ sung thông tin vào ICF và các văn bản cung cấp thông tin cho đối tượng nghiên cứu nhằm bảo vệ quyền, sự an toàn, sức khỏe của các đối tượng nghiên cứu. 7) IEC/IRB có trách nhiệm kiểm tra các nghiên cứu tại điểm nghiên cứu đảm bảo tuân thủ vấn đề đạo đức trong nghiên cứu. 3.3. Cơ sở để Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đánh giá các nghiên cứu Trên cơ sở đề cương và hồ sơ nghiên cứu đệ trình, IEC/IRB đánh giá các nghiên cứu dựa trên các hướng dẫn quốc tế về đạo đức trong nghiên cứu và quyền con người, các quy định và luật lệ hiện hành của quốc gia để đánh giá nghiên cứu dựa trên một số tiêu chí chính như sau: 1) Tính khoa học của nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu và phương pháp tiến hành nghiên cứu 2) Các nguy cơ và lợi ích dự kiến 3) Lựa chọn quần thể nghiên cứu và quy trình sàng lọc, tuyển chọn đối tượng nghiên cứu 4) Quy trình lấy chấp thuận tham gia nghiên cứu 5) Bảo vệ bí mật thông tin cá nhân và quyền riêng tư của đối tượng nghiên cứu 6) Khía cạnh tài chính của nghiên cứu: tính phù hợp của việc chi trả và bồi thường cho nghiên cứu, bao gồm mức độ và phương thức chi trả. 7) Các vấn đề liên quan tới cộng đồng của nghiên cứu Các hướng dẫn cụ thể về quy trình hoạt động của IEC/IRB trong đánh giá các nghiên cứu được trình bày chi tiết trong Chương 7. 4. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC BAN HÀNH TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Nghiên cứu y sinh học trên đối tượng là con người, đặc biệt là các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng (TNLS) đang ngày càng phát triển ở Việt Nam. Chúng ta đã đạt 16
  17. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC được nhiều tiến bộ trong xem xét, đánh giá đạo đức trong nghiên cứu y sinh học của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp Bộ Y tế và cấp cơ sở đối với các nghiên cứu về TNLS. Tuy nhiên việc quyết định xuất bản cuốn “Hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học” là một bước tiến mới của quá trình hoàn chỉnh các hướng dẫn chuẩn mực về đạo đức cho các nghiên cứu y sinh học. Hướng dẫn này bao gồm 7 chương tập trung vào các nội dung: - Khái quát về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học - Hướng dẫn chung về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học - Hướng dẫn vấn đề đạo đức trong các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng - Hướng dẫn vấn đề đạo đức trong các nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới - Hướng dẫn đạo đức trong các nghiên cứu cộng đồng - Hướng dẫn vấn đề đạo đức trong nghiên cứu trên một số đối tượng dễ bị tổn thương. - Hướng dẫn quy trình hoạt động của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học. Với mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững trong lĩnh vực nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng nói riêng và nghiên cứu y sinh học nói chung, đồng thời có thể phù hợp với chuẩn mực quốc tế trong việc bảo vệ đối tượng nghiên cứu là con người, cũng như đáp ứng mong muốn sản phẩm thuốc và sinh phẩm nghiên cứu của Việt Nam được cộng đồng trong nước và quốc tế chấp nhận về chất lượng, việc tuân thủ các Hướng dẫn quốc tế và quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu và Thực hành nghiên cứu lâm sàng tốt là một yêu cầu mang tính pháp lý mà Bộ Y tế đòi hỏi các nhà khoa học, các thành viên Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học các cơ sở nghiên cứu trên đối tượng nghiên cứu là con người cần phải tuân thủ. Hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học sẽ giúp cho các thành viên Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học và các nhà nghiên cứu hiểu được các khái niệm chung về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học, đồng thời cũng hướng dẫn về mặt đạo đức đối với với một số loại nghiên cứu cụ thể và trên một số đối tượng nghiên cứu đặc biệt nhằm đảm bảo tính khoa học trong thiết kế nghiên cứu và khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu. 17
  18. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Chương 2 HƯỚNG DẪN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Các hướng dẫn quốc tế và hướng dẫn của Việt Nam về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đều dựa trên ba nguyên tắc cơ bản về đạo đức trong nghiên cứu y sinh học là: - Tôn trọng quyền con người. - Hướng thiện, không ác ý. - Đảm bảo sự công bằng. Mọi sự đánh giá các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đều cần phải xem xét để đảm bảo các nguyên tắc trên. Hướng dẫn chung về đánh giá các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu y sinh học bao gồm 5 nội dung chính là: - Phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu. - Các nguy cơ, lợi ích và an toàn. - Sự riêng tư và bảo mật. - Chi trả và bồi thường cho đối tượng nghiên cứu. - Kết thúc/ngừng nghiên cứu. Các nội dung trong chương này nhằm mục đích cùng với các chương khác của cuốn sách giải quyết những hướng dẫn chung trong toàn quốc cho các nghiên cứu liên quan đến đối tượng con người, phù hợp với các hướng dẫn quốc tế và hướng dẫn GCP. 1. PHIẾU CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1.1. Khái niệm chung về chấp thuận và phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu 1.1.1. Sự chấp thuận tham gia nghiên cứu. Sự chấp thuận tham gia nghiên cứu là sự chấp thuận của những cá nhân đồng ý tham gia vào một nghiên cứu y sinh học nào đó sau khi đã được cung cấp đầy đủ thông tin chủ yếu liên quan đến nghiên cứu và sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng rồi tự nguyện quyết định tham gia vào nghiên cứu. 18
  19. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Chấp thuận tham gia nghiên cứu là một vấn đề được xem là một yêu cầu bắt buộc đối với các nghiên cứu y sinh khi xem xét các thiết kế nghiên cứu, nó liên quan đến nguyên tắc đạo đức “Tôn trọng quyền con người”, nguyên tắc quyền tự quyết định của mỗi cá nhân có hay không tham gia vào một nghiên cứu nào đó. Sự chấp thuận tham gia nghiên cứu là sự chấp thuận của những cá nhân có đủ năng lực đưa ra quyết định mà không bị lệ thuộc vào bất cứ sự ép buộc, chi phối, xui khiến hay sự đe dọa nào. Đối với nhóm đối tượng nghiên cứu dễ bị tổn thương như trẻ em, người bị bệnh tật hoặc vì một hoàn cảnh nào đó không đủ năng lực để đưa ra quyết định có hay không tham gia vào nghiên cứu, sự chấp thuận tham gia nghiên cứu được giao cho người đại diện có trách nhiệm và có cơ sở pháp lý (người đại diện hợp pháp), người đó sẽ đưa ra quyết định về sự chấp thuận tham gia nghiên cứu. Chấp thuận tham gia nghiên cứu là quá trình thông tin hai chiều giữa nhà nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu, được diễn ra từ trước khi nghiên cứu bắt đầu, tiếp tục trong suốt quá trình nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu có quyền quyết định rút lui khỏi nghiên cứu ở bất kỳ thời điểm nào của nghiên cứu và không bị mất quyền lợi khi rút khỏi nghiên cứu. Để cho đối tượng nghiên cứu có thể đưa ra quyết định về sự chấp thuận tham gia nghiên cứu, nhà nghiên cứu cần phải cung cấp cho đối tượng đầy đủ, các thông tin chủ yếu liên quan đến nghiên cứu, bao gồm các nội dung sau đây: - Giới thiệu khái quát về nghiên cứu. - Mục đích nghiên cứu. - Thời gian tham gia của đối tượng nghiên cứu. - Mô tả quy trình nghiên cứu, nhấn mạnh những nội dung của quy trình có liên quan đến đối tượng nghiên cứu. - Dự đoán các nguy cơ và tình trạng không thoải mái của đối tượng có thể xảy ra cho đối tượng nghiên cứu. - Những lợi ích có được từ nghiên cứu cho đối tượng hoặc cho cộng đồng, lợi ích trực tiếp, lợi ích gián tiếp. - Các tình huống có thể lựa chọn tham gia (nếu có). - Những cam kết của nhà nghiên cứu đối với đối tượng nghiên cứu về việc đảm 19
  20. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC bảo giữ bí mật riêng tư và các thông tin liên quan đến đối tượng, về việc đền bù cho những tổn thương (nếu có) trong khi tham gia nghiên cứu, cam kết thực hiện các quyền lợi liên quan đến đối tượng nghiên cứu, cam kết đảm bảo đối tượng hoàn toàn tự nguyện lựa chọn tham gia, có thể từ chối không tham gia hoặc rút khỏi nghiên cứu ở bất kỳ thời điểm nào trong quá trình nghiên cứu mà không bị mất quyền lợi được hưởng và không bị đối xử không công bằng hoặc bị ngược đãi, bị phạt khi rút khỏi nghiên cứu. Hình thức chấp thuận tham gia nghiên cứu là một phiếu chấp thuận (hay bản chấp thuận) tham gia nghiên cứu trong đó có đầy đủ các nội dung liên quan đến nội dung nghiên cứu như đã nêu ở trên và có phần để đối tượng ký đồng ý chấp thuận nghiên cứu. 1.1.2. Phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu Có nhiều hình thức lấy phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu của đối tượng nhưng đều phải tuân thủ nguyên tắc chung là nghiên cứu viên phải lấy được phiếu chấp thuận theo mẫu, có chữ ký của người tham gia nghiên cứu, hoặc người đại diện hợp pháp đối với các đối tượng là trẻ em hoặc đối tượng không đủ năng lực về tinh thần để tự quyết định có hay không tham gia nghiên cứu. Khi phiếu chấp thuận không thể trình bày dưới dạng văn bản viết theo mẫu thì một bản chấp thuận không phải dạng theo văn bản mẫu (dạng văn bản cho người làm chứng) sẽ được lấy chữ ký của người làm chứng không thiên vị (tuyên ngôn Helsinki, 2008 và CIOMS, 2002). Cần phải mô tả chi tiết quy trình lấy phiếu chấp thuận trong đề cương nghiên cứu để hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học có thể xem xét và đánh giá. Những trường hợp từ chối không ký phiếu chấp thuận được coi là ngoại lệ và những trường hợp này phải được IEC/IRB cho phép mới được đưa đối tượng đó vào diện đối tượng nghiên cứu để thống kê. 1.2. Những thông tin cần có trong phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu viên cần cung cấp các thông tin đầy đủ cho đối tượng tham gia về nghiên cứu bằng cách nói hoặc viết để đối tượng đọc và phải sử dụng ngôn ngữ thông thường phù hợp với trình độ hiểu biết của đối tượng để trình bày. Những thông tin cần cung cấp cho đối tượng bao gồm: 20
  21. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC - Đối tượng được mời tham gia nghiên cứu, các lý do cho việc xem xét thấy cá nhân đó phù hợp với nghiên cứu và sự tham gia này là hoàn toàn tự nguyện. - Cá nhân có quyền từ chối tham gia và có quyền rút khỏi nghiên cứu vào bất cứ lúc nào mà không bị phạt hay mất đi lợi ích được hưởng. - Mục đích nghiên cứu, các quy trình sẽ được nghiên cứu viên thực hiện, giải thích tại sao nghiên cứu lại khác với chăm sóc y tế thường quy. - Với nghiên cứu có đối chứng, cần giải thích các đặc điểm của thiết kế nghiên cứu (ví dụ: ngẫu nhiên, mù đôi) và nêu rõ đối tượng sẽ không được cho biết về điều trị được chỉ định cho họ cho tới khi nghiên cứu kết thúc và được giải mù. - Việc sử dụng placebo trong các nghiên cứu có đối chứng có thể được chấp nhận khi hiện tại không có can thiệp hiệu quả đã được chứng minh, hoặc khi có các lý do thuyết phục và có cơ sở khoa học (Tuyên ngôn Helsinki, 2008). Cần giải thích rõ cho đối tượng nghiên cứu rằng sử dụng placebo không nhằm mục đích làm tăng các nguy cơ hoặc tổn hại nghiêm trọng không thể hồi phục. - Khi nghiên cứu y học được kết hợp một cách hợp lý với điều trị y tế, nghiên cứu viên cần đảm bảo có người khác giải thích và lấy phiếu chấp thuận của đối tượng, không tạo áp lực hay ảnh hưởng không thích hợp tới đối tượng để tham gia vào nghiên cứu. - Khoảng thời gian dự kiến của việc tham gia của đối tượng (gồm số lượng và khoảng thời gian các lần đi khám tại cơ sở y tế và tổng thời gian liên quan) và khả năng kết thúc sớm của thử nghiệm hoặc của việc tham gia vào thử nghiệm của đối tượng. - Bất cứ nguy cơ, đau đớn, sự bất tiện hoặc phiền phức nào có thể dự đoán trước xảy ra đối với đối tượng (hoặc cho người khác) có liên quan đến việc tham gia vào nghiên cứu của đối tượng (cả nhóm chứng và nhóm thử nghiệm), bao gồm cả nguy cơ đối với sức khỏe hoặc hạnh phúc của người bạn đời của đối tượng. - Các lợi ích trực tiếp cho đối tượng, nếu có, từ việc tham gia vào nghiên cứu. - Tiền hoặc các dạng khác của hàng hóa vật chất đối tượng sẽ được hưởng đền đáp cho việc tham gia vào nghiên cứu, nêu rõ loại và số lượng. 21
  22. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC - Sau khi nghiên cứu kết thúc, đối tượng sẽ được thông báo (nếu họ muốn) về bất cứ phát hiện nào liên quan đến tình trạng sức khỏe của mình. - Các lợi ích mong đợi của nghiên cứu đối với cộng đồng hoặc cho xã hội nói chung hoặc đóng góp đối với kiến thức khoa học. - Bất cứ can thiệp hoặc các đợt trị liệu thay thế có sẵn hiện tại. - Sau khi hoàn thành việc tham gia nghiên cứu, sản phẩm hoặc can thiệp được chứng minh qua nghiên cứu là an toàn và hiệu quả, liệu họ (đối tượng tham gia) có được tiếp tục nhận sản phẩm và có phải chi trả cho việc nhận sản phẩm đó hay không. - Các điều khoản đảm bảo coi trọng sự riêng tư của đối tượng nghiên cứu và tính bảo mật của các hồ sơ nhận dạng đối tượng - Các giới hạn về mặt luật pháp hoặc các vấn đề liên quan khác đối với khả năng bảo vệ tính bảo mật của nghiên cứu viên, các hậu quả có thể của việc vi phạm tính bảo mật. - Nhà tài trợ nghiên cứu, cơ quan của nghiên cứu viên, bản chất và các nguồn tài trợ cho nghiên cứu. - Việc sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp các hồ sơ y tế, khả năng sử dụng trong tương lai và nơi lưu giữ cuối cùng cho các mẫu sinh phẩm. - Nếu các mẫu xét nghiệm thu thập được không được hủy, cần nêu rõ các mẫu này sẽ được lưu giữ khi nào, như thế nào và trong bao lâu. - Đối tượng nghiên cứu có quyền quyết định về việc sử dụng trong tương lai, tiếp tục lưu giữ hay hủy các mẫu xét nghiệm đã thu thập. - Liệu các sản phẩm thương mại có thể phát triển từ các mẫu sinh học hay không và liệu đối tượng nghiên cứu sẽ có được nhận tiền hoặc các lợi ích khác từ việc phát triển các sản phẩm như vậy hay không. - Nghiên cứu viên đóng vai trò là nhà nghiên cứu đơn thuần hay đóng cả hai vai trò nhà nghiên cứu và bác sĩ điều trị của đối tượng. - Phạm vi trách nhiệm của các nghiên cứu viên trong việc cung cấp các dịch vụ y tế cho đối tượng nghiên cứu. - Việc điều trị sẽ được cung cấp miễn phí đối với các loại tổn thương liên quan đến nghiên cứu đã được xác định hoặc cho các biến chứng liên quan đến 22
  23. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC nghiên cứu, hình thức và khoảng thời gian của việc chăm sóc y tế đó, tên của tổ chức hoặc cá nhân sẽ cung cấp điều trị và khả năng có bất kỳ sự không chắc chắn nào liên quan đến việc chi trả cho việc điều trị. - Bằng cách nào và tổ chức nào sẽ bồi thường cho đối tượng nghiên cứu, gia đình hoặc những người phụ thuộc vào đối tượng cho việc tàn tật hoặc tử vong do các tổn thương liên quan đến nghiên cứu (hoặc nêu rõ là không có kế hoạch cho việc bồi thường). - Có một Hội đồng đánh giá khía cạnh đạo đức sẽ thông qua hoặc làm rõ đề cương nghiên cứu (CIOMS, 2002). 1.3. Một số nguyên tắc cơ bản khi lấy phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu của đối tượng Nguyên tắc tham gia tự nguyện của đối tượng nghiên cứu: là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất, chi phối các nguyên tắc khác. Đối tượng nghiên cứu được thông tin đầy đủ về các vấn đề liên quan đến nghiên cứu và được giải thích trả lời các câu hỏi, các vấn đề chưa rõ của đối tượng sau đó tự quyết định về sự chấp thuận tham gia vào nghiên cứu không được ép buộc, xui khiến, dụ dỗ, hoặc có bất cứ sự đe dọa dưới bất kỳ hình thức nào. Đối tượng nghiên cứu được quyền dừng không tiếp tục tham gia vào nghiên cứu, rút ra khỏi nghiên cứu ở bất cứ thời điểm nào của nghiên cứu mà không bị đối xử ngược đãi, không công bằng hoặc bị phạt khi từ chối tham gia nghiên cứu. Tạo sự liên hệ thường xuyên hoặc định kỳ với đối tượng nghiên cứu. Nhà nghiên cứu cần tạo dựng mối liên hệ thông tin hai chiều để có thể thường xuyên cập nhật các diễn biến, liên quan đến nghiên cứu, trả lời các vướng mắc của đối tượng trong quá trình nghiên cứu, thông báo cho đối tượng các quyền lợi khi cần thiết và thông báo cho đối tượng những kết quả nghiên cứu liên quan đến đối tượng nếu thấy cần thiết và được phép. Ngôn ngữ trong bản chấp thuận phải là ngôn ngữ phổ thông dễ hiểu để đối tượng có thể lựa chọn sự thỏa thuận tham gia nghiên cứu. Nội dung hay các thành phần thiết yếu của bản chấp thuận tuy có rất nhiều nội dung khoa học nhưng các nội dung này cần được diễn giải bằng ngôn ngữ phổ thông, dễ hiểu để đối tượng dễ dàng hiểu và dễ dàng lựa chọn, kể cả đối với người đại diện pháp lý cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Ngôn ngữ trong bản chấp thuận không chối bỏ quyền lợi 23
  24. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC của người tham gia nghiên cứu, nhưng cũng không làm giảm nhẹ trách nhiệm của nhà nghiên cứu hay của các cơ sở nghiên cứu. Sau khi đảm bảo rằng đối tượng tham gia nghiên cứu đã nắm được các thông tin, nghiên cứu viên cần lấy phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu của đối tượng, thường là dưới dạng văn bản viết. Nếu không thể lấy được Phiếu chấp thuận dưới dạng viết, có thể lấy bằng lời nhưng phải lưu hồ sơ một cách chính thức và có người chứng kiến (Tuyên ngôn Helsinki, 2008). Cần hết sức thận trọng khi lấy phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu trong các nghiên cứu mà đối tượng nghiên cứu đang có quan hệ phụ thuộc vào nghiên cứu viên (ví dụ, đối tượng là bệnh nhân của nghiên cứu viên) để đảm bảo rằng việc lấy phiếu chấp thuận không được tiến hành dưới một sự ép buộc hoặc một ảnh hưởng không đúng mực nào. Hội đồng đánh giá khía cạnh đạo đức có thể quy định rằng việc lấy phiếu chấp thuận tình nguyện cần do một bác sĩ nắm chắc thông tin về việc này tiến hành, bác sĩ này không tham gia vào nghiên cứu và độc lập hoàn toàn về mặt quan hệ với đối tượng (Tuyên ngôn Helsinki, 2008). Trẻ em tham gia vào nghiên cứu cần phải được bảo vệ hơn so với thường lệ, vì trẻ em không thể tình nguyện tham gia nghiên cứu theo cách giống như người lớn. Do trẻ em không thể làm được phiếu chấp thuận tình nguyện, chúng có thể được lấy chấp thuận bằng dạng phiếu chấp thuận dành cho trẻ em (assent form). Khi lấy phiếu chấp thuận tình nguyện, nhà tài trợ và nghiên cứu viên có nhiệm vụ: - Tránh lừa dối, ảnh hưởng thái quá hoặc đe dọa. - Chỉ lấy chấp thuận sau khi chắc chắn rằng đối tượng chuẩn bị tham gia nghiên cứu đã hiểu cặn kẽ về các yếu tố và kết quả liên quan đến việc tham gia nghiên cứu và đã có đủ thời gian để cân nhắc có tham gia nghiên cứu hay không. - Lấy lại phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu của từng đối tượng nếu có bất cứ thay đổi quan trọng nào trong điều kiện, hoàn cảnh hoặc quy trình của nghiên cứu, hoặc nếu có thông tin mới có thể ảnh hưởng đến sự tự nguyện của đối tượng trong việc tiếp tục tham gia nghiên cứu. - Lấy lại phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu của từng đối tượng trong các nghiên cứu diễn ra trong thời gian dài tại từng khoảng thời gian định trước ngay cả khi không có gì thay đổi trong thiết kế hoặc các mục tiêu của nghiên cứu (CIOMS,2002). 24
  25. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 2. CÁC NGUY CƠ, LỢI ÍCH VÀ AN TOÀN 2.1. Khái niệm về lợi ích và an toàn 2.1.1. Lợi ích Lợi ích trong đạo đức nghiên cứu được coi là một giá trị tích cực, giá trị đó được đem lại cho đối tượng nghiên cứu hoặc cho xã hội, đạt đến một hiệu quả nhất định. Lợi ích cho đối tượng nghiên cứu hoặc cho xã hội có thể là những lợi ích trực tiếp và cụ thể, nhưng cũng có thể là các lợi ích gián tiếp và không rõ ràng. Trong cách tiếp cận đạo đức vị mục đích Jeremy Bentham (1748-1782) cho rằng tính đúng đắn của một hành vi được xác định bởi mục đích tức là kết quả cuối cùng của hành vi đó. Cách tiếp cận này còn được gọi với tên là “kết quả luận”. Cách tiếp cận trên cho thấy lợi ích cuối cùng cho đối tượng nghiên cứu hoặc cho xã hội cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng trong các nghiên cứu. Một nghiên cứu được lựa chọn đúng khi nghiên cứu đó đem lại lợi ích lớn nhất cho đối tượng nghiên cứu và cho xã hội, đồng thời nó ít gây thiệt hại nhất cho đối tượng nghiên cứu và cho cộng đồng, đảm bảo sự an toàn cho đối tượng nghiên cứu. 2.1.2. Nguy cơ Nguy cơ hay còn gọi là rủi ro trong các nghiên cứu được coi là một thiệt hại nào đó cho đối tượng nghiên cứu. Nguy cơ có thể lượng giá được nhưng đôi khi cũng không lượng giá được. Thông thường các nghiên cứu đều có thể có các nguy cơ, nhưng Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cần xem xét nguy cơ ở mức độ như thế nào đối với đối tượng nghiên cứu Nguy cơ hay rủi ro có thể gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp cho đối tượng nghiên cứu hoặc cho cộng đồng. Trong nghiên cứu, nhà nghiên cứu phải lường trước các nguy cơ và phải đưa ra những cơ sở khoa học để chứng minh rằng thiết kế nghiên cứu đã tính đến các nguy cơ và đã giảm thiểu tới mức thấp nhất các thiệt hại hoặc không gây hại, đồng thời phải tối đa hóa lợi ích cho đối tượng nghiên cứu, nói cách khác lợi ích đạt được phải vượt trội so với nguy cơ. Điều này nó cũng giống như nguyên tắc đạo đức về “hướng thiện” và “không gây hại”. 2.1.3. Sự an toàn Trong Đạo đức nghiên cứu y sinh học, sự an toàn là một khái niệm về sự an toàn cho đối tượng tham gia nghiên cứu, nó liên quan chặt chẽ với khái niệm về lợi ích và nguy cơ. 25
  26. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Sự an toàn cho đối tượng tham gia nghiên cứu là nghiên cứu không gây tổn hại về thể chất và tinh thần của người tham gia nghiên cứu, không có những tác động tiêu cực của nghiên cứu lên đối tượng. Trong nguyên tắc của đạo đức nghiên cứu, sự an toàn được thể hiện ở nguyên tắc “làm việc thiện và không ác ý hay không gây hại”. Mọi xem xét đánh giá về đạo đức nghiên cứu được đánh giá từ nội dung của nghiên cứu có đảm bảo tối đa hóa các lợi ích và giảm thiểu đến mức thấp nhất các nguy cơ hay các rủi ro có thể xảy ra cho đối tượng. Sự xem xét như vậy chính là bảo đảm sự an toàn cho đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên cần lưu ý rằng trong nghiên cứu bên cạnh đảm bảo sự an toàn cho đối tượng tham gia nghiên cứu cũng cần phải đề cập đến vấn đề bảo đảm an toàn cho nhà nghiên cứu. Vấn đề đảm bảo an toàn cho nhà nghiên cứu ít được đề cập đến trong các văn bản pháp lý, những rủi ro cho nhà nghiên cứu cần được nêu rõ hơn trong các hợp đồng nghiên cứu ký giữa nghiên cứu viên với nhà tài trợ. Trong các mục tiếp theo của phần này đề cập đến các hướng dẫn đánh giá lợi ích và nguy cơ, vấn đề sự an toàn được thể hiện về bản chất của vấn đề lợi ích và nguy cơ. 2.1.4. Các loại lợi ích và nguy cơ Các loại lợi ích và nguy cơ trong các nghiên cứu được để cập ở đây bao gồm các lợi ích hoặc nguy cơ (rủi ro) về mặt thể chất hoặc tinh thần, tâm lý, xã hội, kinh tế hoặc pháp luật. Những nguy cơ hoặc lợi ích của nghiên cứu có thể xảy ra với từng cá nhân, với gia đình, nhóm người, cũng có thể xảy ra với một tổ chức, một cộng đồng hay một quốc gia. Như vậy ở mọi nghiên cứu y sinh học liên quan đến con người bao giờ cũng tồn tại hai vấn đề: lợi ích của nghiên cứu và các nguy cơ (rủi ro hay thiệt hại) của nghiên cứu. Hai vấn đề này mâu thuẫn với nhau và nếu nguy cơ nhiều hơn lợi ích thì mức độ tác hại cho đối tượng nghiên cứu sẽ nhiều hơn. Nguyên tắc đạo đức nghiên cứu đòi hỏi nhà nghiên cứu phải tối đa hóa các lợi ích và giảm thiểu tới mức thấp nhất các tác hại của nghiên cứu. Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu sẽ là người xem xét và đánh giá vấn đề này. Một nghiên cứu chỉ có thể được chấp thuận cho phép nghiên cứu khi đã cân nhắc kỹ các lợi ích và nguy cơ, đảm bảo mức độ thiệt hại cho đối tượng là không có hoặc thấp nhất, đồng thời đảm bảo nghiên cứu đưa lại lợi ích tối đa cho đối tượng nghiên cứu, đây cũng chính là đảm bảo sự an toàn cho đối tượng tham gia nghiên cứu. 26
  27. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 2.2. Đánh giá lợi ích và nguy cơ Đánh giá lợi ích và nguy cơ là một nguyên tắc đạo đức nghiên cứu rất cơ bản, nó chi phối các nguyên tắc đạo đức khác. Khi đề cập đến vấn đề đánh giá lợi ích và nguy cơ chúng ta đã đề cập đến ba chuẩn mực đạo đức cơ bản đó làm tôn trọng con người, làm việc thiện và sự công bằng. Đánh giá lợi ích và nguy cơ được hiểu trong đạo đức nghiên cứu là sự xem xét, cân nhắc, xét duyệt, so sánh về lợi ích, nguy cơ của một nghiên cứu y sinh học nào đó để có thể cho phép nghiên cứu được tiến hành hay không được tiến hành. 2.2.1. Nguyên tắc chung của đánh giá lợi ích và nguy cơ Nguyên tắc chung của đánh giá lợi ích và nguy cơ giúp cho người đánh giá có chuẩn mực để đánh giá, có cơ sở khoa học để xem xét các lợi ích và nguy cơ, để có thể đưa những quyết định đúng đắn với mọi nghiên cứu y sinh học khi đưa ra xem xét. Nguyên tắc đầu tiên và quan trọng, chi phối các nguyên tắc khác khi đánh giá lợi ích và nguy cơ là “Tôn trọng con người”. Nguyên tắc này đảm bảo tôn trọng quyền con người. Dựa vào nguyên tắc này, một nghiên cứu dù đã đưa lại lợi ích tối đa cho con người, cho đối tượng nghiên cứu và giảm tới mức tối thiểu các nguy cơ gây ra cho đối tượng nghiên cứu nhưng nếu không đề cập đến sự tự nguyện của đối tượng nghiên cứu, nghiên cứu đó sẽ vi phạm nguyên tắc “Tôn trọng con người”. Không có bất kỳ một sự lý giải hợp lý nào cho những hành vi đối xử phi nhân tính đối với đối tượng nghiên cứu. Trong phiên tòa xét xử các bác sỹ Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) đã tiến hành những thử nghiệm ở trại tập trung của Đức quốc xã, một số người đã cố gắng biện hộ cho những hành động của các bác sỹ là nếu thử nghiệm thành công (như tìm ra vắc xin phòng sốt rét) thì nhiều người trên trái đất sẽ được hưởng lợi ích của nghiên cứu. Tuy nhiên tòa án đã bác bỏ sự biện hộ này vì các thử nghiệm đã vi phạm quyền con người một cách trầm trọng, phi nhân tính, đến mức không thể có một kết quả tuyệt vời nào từ những thử nghiệm đó có thể biện minh cho cách mà họ có thể đạt được kiến thức bằng những cách làm như vậy. Ví dụ trên đây cho thấy, trong các thử nghiệm mà các bác sỹ đã làm, có những thử nghiệm nếu xét về lợi ích là có thể đưa lại lợi ích cho cộng đồng có được một phương pháp phòng hoặc chữa bệnh nào đó nhưng đối tượng nghiên cứu đã bị đối xử như 27
  28. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC một con vật để làm thí nghiệm, họ không biết họ đang làm gì, họ bị ép buộc phải làm và tất nhiên họ không được quyền rút khỏi nghiên cứu. Nguyên tắc “Tối đa hóa các lợi ích và giảm tới mức tối thiểu các nguy cơ hoặc hại cho đối tượng nghiên cứu”: Sự tối đa hóa các lợi ích cho đối tượng nghiên cứu phải đi cùng với việc không gây hoặc ít gây hại nhất cho đối tượng nghiên cứu. Nếu một nghiên cứu đồng thời với việc đưa lại lợi ích rất lớn cho đối tượng hoặc cho cộng đồng nhưng cũng có thể có nguy cơ đối với sức khỏe của đối tượng hoặc của cộng đồng thì nghiên cứu đó cũng không được phép tiến hành. Trong một nghiên cứu nếu có một nguy cơ tồn tại thì nguy cơ đó phải kiểm soát được khống chế được và phải là nguy cơ ít gây hại nhất. Nguyên tắc này đòi hỏi người đánh giá phải cân nhắc phải so sánh giữa lợi ích và nguy cơ, có thể nói chúng ta đặt lợi ích và nguy cơ lên bàn cân, không phải chỉ là thăng bằng giữa lợi ích và nguy cơ mà phải thấy được lợi ích bao giờ cũng phải vượt trội hơn so với nguy cơ. Nguyên tắc này tương tự như nguyên tắc đạo đức “hướng thiện” và “không gây hại” trong chuẩn mực đạo đức nói chung và đạo đức nghiên cứu nói riêng. Khi nói đến tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa các nguy cơ cũng có nghĩa là chúng ta đánh giá mức độ lợi, hại của nghiên cứu đối với đối tượng nghiên cứu. Những nghiên cứu không đem lại lợi ích trực tiếp cho đối tượng nghiên cứu, không lượng hóa được, thì cần phải xem xét kỹ lưỡng những kiến thức hoặc những đóng góp khoa học mà nghiên cứu đó đem lại cho con người, cho cộng đồng đến mức độ nào, những thiệt hại mà nghiên cứu có thể gây ra cũng phải là ít nhất và có thể kiểm soát được những rủi ro đó. Nguyên tắc “Phân phối công bằng lợi ích và nguy cơ cho đối tượng nghiên cứu”: Khi đánh giá lợi ích và nguy cơ, người đánh giá cần phải xem xét kỹ các lợi ích và nguy cơ của nghiên cứu có được phân phối công bằng cho đối tượng nghiên cứu hay không. Nguyên tắc này đặc biệt quan trọng trong các thiết kế nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có sử dụng nhóm chứng, có sử dụng placebo và những nghiên cứu trên nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng về một phương pháp điều trị mới, hay một loại thuốc mới cần phải thiết kế nghiên cứu đảm bảo nguyên tắc phân phối công bằng lợi ích và nguy cơ cho cả nhóm nghiên cứu và nhóm đối chứng. Ngày nay, những thử nghiệm lâm sàng sử dụng nhóm đối chứng, sử dụng giả dược (placebo) là những nghiên cứu rất thường gặp do nhu cầu của thực tiễn để đánh giá một trị liệu mới. Trong mọi nghiên cứu, khi đánh giá lọi ích và nguy cơ, chúng ta không được 28
  29. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC phép không công bằng trong việc phân phối các lợi ích và các nguy cơ. Không để tồn tại trong nghiên cứu có một nhóm được hưởng lợi nhiều hơn các lợi ích nghiên cứu còn nhóm khác lại bị thiệt hại nhiều hơn từ các nghiên cứu. Đối với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, nguyên tắc phân phối công bằng lợi ích và nguy cơ cần phải được cân nhắc kỹ hơn và được tôn trọng khi đánh giá, được giải trình rõ ràng trong thiết kế nghiên cứu. 2.2.2. Xác định và đánh giá lợi ích và nguy cơ. Nghiên cứu viên cần phải nhận thức được rằng nguy cơ bao gồm nguy cơ liên quan với việc tham gia nghiên cứu, nguy cơ của việc chọn ngẫu nhiên (đặc biệt khi được chọn vào nhóm đối chứng placebo), nguy cơ lộ bí mật thông tin về kết quả nghiên cứu, nguy cơ về các tai biến xảy ra trong quá trình nghiên cứu. Đối với các đối tượng nghiên cứu y sinh học, cần phân biệt nguy cơ liên quan đến nghiên cứu và nguy cơ liên quan đến chẩn đoán và điều trị mà không liên quan đến việc có tham gia nghiên cứu hay không. Những nguy cơ này cần phải được nêu rõ trong bản chấp thuận tham gia nghiên cứu. Các nguy cơ về thể chất: Một số nghiên cứu có thể gây ra tổn thương về thể chất cho đối tượng tham gia nghiên cứu. Mặc dù hầu hết các nguy cơ này là dễ dàng nhận ra nhưng một số ảnh hưởng phụ khi tham gia nghiên cứu (do các thủ thuật y học, thuốc điều trị ) có thể khó nhận thấy. Do đó người nghiên cứu cần phải cân nhắc kỹ và lường trước được những nguy cơ về thể chất này để họ có thể giải quyết nhanh chóng và hiệu quả, hạn chế thấp nhất tác hại đối với đối tượng nghiên cứu. Các nguy cơ về tâm lý: Một số nghiên cứu gây ra các thay đổi không mong muốn về suy nghĩ và tình cảm bao gồm các đợt trầm cảm, bối rối, tạo ảo giác, cảm giác căng thằng về tâm lý, cảm giác tội lỗi và mất tự chủ bản thân. Cũng giống như nguy cơ về thể chất, các nguy cơ về tâm lý cũng không dễ dàng nhận thấy. Do đó người nghiên cứu cần cân nhắc kỹ và lường trước được những nguy cơ về tâm lý này để họ có thể giải quyết nhanh và hiệu quả, hạn chế thấp nhất tác hại đối với đối tượng nghiên cứu. Nguy cơ về xã hội, kinh tế: Một nghiên cứu có thể tạo ra những thông tin nhạy cảm, có thể gây ra tổn thương đối tượng nghiên cứu do làm lộ bí mật các thông tin trong nghiên cứu. Điều này sẽ dẫn đến rối loạn về công việc của một người hay của một nhóm xã hội, mất việc làm hay bị kết tội vào tù. Người nghiên cứu cần phải giữ bí 29
  30. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC mật tuyệt đối các thông tin cá nhân về nghiện rượu, nghiện thuốc lá, nghiện ma túy, các bệnh tâm thần, hành vi tình dục và các thông tin cá nhân riêng tư khác. Đối với những thông tin này, người nghiên cứu phải phát triển chi tiết và rõ ràng cách giữ bí mật thông tin nhưng đảm bảo rằng nghiên cứu không gây ra những tác hại về xã hội và kinh tế cho người tham gia nghiên cứu. Ngoài ra, nghiên cứu cũng có thể gây ra các nguy cơ về kinh tế đối với người tham gia nghiên cứu. Cơ quan bảo hiểm y tế có thể không trả tiền cho việc điều trị trong nghiên cứu, người tham gia nghiên cứu có thể phải tự trả tiền đi lại, hay có thể bị trừ lương do mất thời gian tham gia vào nghiên cứu. Do đó người nghiên cứu phải hạn chế thấp nhất thiệt hại về kinh tế cho người tham gia nghiên cứu. Nếu nghiên cứu làm cho người tham gia nghiên cứu phải tiêu tốn thêm tiền thì điều này cũng phải được ghi rõ trong bản chấp thuận tham gia nghiên cứu. Nguy cơ tối thiểu: Là nguy cơ khi khả năng và mức độ tác hại hay ảnh hưởng xấu khi tham gia nghiên cứu không lớn hơn các nguy cơ thường gặp trong cuộc sống hàng ngày hay trong các quy trình chẩn đoán và điều trị thông thường. Người nghiên cứu cần lưu ý một điều rằng những nguy cơ không biết được thường được coi là lớn hơn nguy cơ tối thiểu. Lợi ích: Nghiên cứu y học thường mang lại lợi ích cho bệnh nhân trong việc khám, chẩn đoán và điều trị cho người tham gia nghiên cứu. Trong những trường hợp này nghiên cứu có thể làm giảm nhẹ bệnh hay cung cấp thông tin đầy đủ hơn vè hiểu biết bệnh. Người nghiên cứu cần phải mô tả chi tiết rõ ràng các lợi ích này trong bản thỏa thuận đồng ý tham gia nghiên cứu, tuy nhiên không nên quá thổi phồng những lợi ích này. Họ phải làm thế nào đó để những lợi ích này là lớn nhất cho người tham gia nghiên cứu. Mặc dù nghiên cứu y học có thể không phải lúc nào cũng mang lại lợi ích về mặt xã hội, tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã cung cấp các thông tin khái quát hóa có thể ứng dụng cho cộng đồng và xã hội. Người nghiên cứu cần phải mô tả chi tiết rõ ràng các lợi ích này trong bản thỏa thuận đồng ý tham gia nghiên cứu, tuy nhiên không nên quá thổi phồng những lợi ích này. Nếu một nghiên cứu không mang lại lợi ích cho cá nhân người tham gia nghiên cứu thì nó phải mang lại những lợi ích nào đó cho xã hội. 30
  31. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 2.3. Các hướng dẫn quốc tế về đánh giá lợi ích nguy cơ 2.3.1. Tuyên ngôn Helsinki của Hiệp hội Y khoa thế giới Hướng dẫn đánh giá lợi ích và nguy cơ của Tuyên ngôn Helsinki cũng như các hướng dẫn quốc tế về đạo đức nghiên cứu đã đưa vấn đề lợi ích và nguy cơ của nghiên cứu là vấn đề rất cơ bản, nó chi phối các nguyên tắc đạo đức giống như nguyên tắc tôn trọng con người là một chuẩn mực đạo đức cơ bản trong đạo đức nói chung và đạo đức nghiên cứu nói riêng. Tuyên ngôn Helsinki được hoàn chỉnh sửa đổi lần thứ năm tại cuộc họp của Hội đồng chung Hiệp hội Y khoa thế giới (WMA) khóa 52 họp tại Edinburgh, Scotland tháng 10 năm 2000 đã đưa ra hướng dẫn về đạo đức nghiên cứu và nhấn mạnh các vấn đề về lợi ích và nguy cơ như sau: Tuyên ngôn Geneva của Hiệp hội Y khoa thế giới đã gắn liền các cán bộ y tế với cụm từ “Sức khỏe của bệnh nhân là mối quan tâm hàng đầu của tôi” và các điều luật về y đức quốc tế ghi rõ rằng “Một cán bộ y tế phải hành động chỉ vì lợi ích của bệnh nhân khi cung cấp các dịch vụ y tế có thể ảnh hưởng đến điều kiện về thể chất và tinh thần của bệnh nhân”. Trong phần các nguyên tắc cơ bản cho tất cả các nghiên cứu y tế, tuyên ngôn Helsinki đã có 5 điều nói về lợi ích và nguy cơ trong đó nhấn mạnh các nội dung sau đây: a) Trước khi tiến hành nghiên cứu cần đánh giá thận trọng và kỹ lưỡng các nguy cơ cũng như lợi ích có thể có đối với đối tượng nghiên cứu và những người khác, điều này không gây cản trở những người khỏe mạnh tình nguyện tham gia vào nghiên cứu y tế. Thiết kế nghiên cứu phải được công bố công khai. b) Cán bộ y tế không nên thực hiện các nghiên cứu có liên quan đến con người nếu họ không chắc chắn rằng các nguy cơ có thể xảy ra đã được đánh giá và có thể được kiểm soát một cách toàn diện hơn. Các cán bộ y tế cần phải dừng việc điều tra trong trường hợp nguy cơ lớn hơn lợi ích được phát hiện. c) Các nghiên cứu y tế có liên quan đến vấn đề con người, chi được thực hiện khi chứng minh được tầm quan trọng của mục tiêu nghiên cứu lớn hơn các nguy cơ sẵn có của đối tượng nghiên cứu, điều này đặc biệt quan trọng khi những người tham gia nghiên cứu là những người khỏe mạnh. d) Các nghiên cứu chỉ được chấp nhận khi có bằng chứng chứng tỏ rằng quần thể 31
  32. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC tiến hành nghiên cứu có được lợi ích từ kết quả nghiên cứu đó. e) Quyền được bảo đảm sự an toàn của đối tượng nghiên cứu cần phải được tôn trọng. Cần phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa để đảm bảo tôn trọng tính riêng tư của đối tượng nghiên cứu, tính bí mật của các thông tin về bệnh nhân và để giảm thiểu tác động của nghiên cứu lên thể chất, tinh thần và cuộc sống cá nhân của đối tượng nghiên cứu. Những nguyên tắc đạo đức cho các nghiên cứu y học có kết hợp chăm sóc y tế đã bổ sung nguyên tắc đạo đức nghiên cứu cho các thử nghiệm lâm sàng. Nội dung bổ sung có điều viết: “Những lợi ích, nguy cơ, gánh nặng và tính hiệu quả của một phương pháp mới cần được thử nghiệm trước và được chứng minh rằng đây là phương pháp tốt nhất để phòng ngừa, chẩn đoán hoặc điều trị”. Tuyên ngôn Helsinki bao gồm 3 phần: phần giới thiệu, phần các nguyên tắc cơ bản và phần bổ sung, cả ba phần đều nêu rất rõ việc đánh giá lợi ích và nguy cơ là một nguyên tắc rất quan trọng trong khi xem xét các vấn đề đạo đức của một thiết kế nghiên cứu. 2.3.2. Hội đồng các tổ chức quốc tế về khoa học y học (CIOMS) hướng dẫn về đánh giá lợi ích và nguy cơ trong các nghiên cứu y sinh học Trong số 21 điều hướng dẫn của CIOMS vấn đề lợi ích và nguy cơ (rủi ro) được đề cập đến ở hầu hết 21 điều. Tuy nhiên hướng dẫn của CIOMS đã dành riêng hướng dẫn 8, hướng dẫn riêng về lợi ích và rủi ro của việc tham gia nghiên cứu. Hướng dẫn 12 về phân phối công bằng giữa lợi ích và nguy cơ trong việc lựa chọn các nhóm quần thể nghiên cứu. Hướng dẫn 9, 10, 13, 14, 15, 16, 17 đề cập đến các vấn đề đạo đức ở các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như nhóm trẻ em, nhóm phụ nữ và phụ nữ đang mang thai, nhóm người nghèo, nhóm bị bệnh và các nguyên nhân khác không tự ra quyết định. Ở những điều này vấn đề đánh giá lợi ích và nguy cơ lại càng phải cân nhắc rất kỹ lưỡng trước khi nghiên cứu được tiến hành. Hướng dẫn 19 đề cập đến quyền của đối tượng được điều trị và đền bù. Hướng dẫn này quy định những quyền lợi của đối tượng nghiên cứu được hưởng khi bị tổn thương do việc tham gia nghiên cứu gây nên. Như vậy đã có 9 trong tổng số 21 điều đề cập trực tiếp đến việc đánh giá lợi ích và nguy cơ của đối tượng tham gia nghiên cứu. Nội dung của các điều này hướng dẫn cụ thể và chi tiết các nguyên tắc chung khi đánh giá lợi ích và nguy cơ. 32
  33. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Ví dụ điều hướng dẫn 8 của CIOMS hướng dẫn về lợi ích và rủi ro của việc tham gia nghiên cứu. Hướng dẫn này ghi rõ: - Đối với tất cả các nghiên cứu y sinh học, nhà nghiên cứu cần phải bảo đảm rằng đã cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích và nguy cơ. Đối với các nghiên cứu can thiệp về một phương pháp chẩn đoán, điều trị hay phòng bệnh, nhà nghiên cứu cần phải chỉ ra rằng đối tượng nghiên cứu ít nhất được hưởng lợi ích trực tiếp từ các can thiệp đó, những rủi ro là đã được lường trước và có thể kiểm soát được. - Đối với những can thiệp không có các lợi ích trực tiếp và các rủi ro trực tiếp cho cá nhân đối tượng tham gia nghiên cứu thì đòi hỏi nhà nghiên cứu phải chứng minh được những lợi ích và những rủi ro cho cộng đồng và những rủi ro phải là ở mức tối thiểu và phải hợp lý so với các lợi ích mà cộng đồng đó có thể đạt được, nghĩa là lợi ích phải có tầm quan trọng vượt trội. - Trong tất cả các điều hướng dẫn của CIOMS khi giải thích về các hướng dẫn này CIOMS đều dẫn chứng những điểm mà tuyên ngôn Helsinki đã nêu ra có liên quan đến điều mà CIOMS hướng dẫn. Có thể nói CIOMS đặc biệt chú ý đến việc đánh giá lợi ích và nguy cơ của nghiên cứu đối với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. 3. SỰ RIÊNG TƯ VÀ BẢO MẬT 3.1. Khái niệm chung về riêng tư và bảo mật Riêng tư trong đạo đức nghiên cứu là những thông tin, những vấn đề của mỗi cá nhân đối tượng tham gia nghiên cứu. Những thông tin, những vấn đề của cá nhân đối tượng tham gia nghiên cứu có thể là lịch sử của bản thân, của gia đình và của những người thân trong gia đình, họ hàng do đối tượng cung cấp, có thể là tình hình sức khỏe bệnh tật, những đặc điểm sinh học của cá nhân đối tượng nghiên cứu, cũng có thể là những tâm tư, tình cảm trong mối quan hệ của cá nhân đối tượng, nó có thể là quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội Vấn đề đảm bảo quyền riêng tư, giữ bí mật hay bảo mật riêng tư của đối tượng tham gia nghiên cứu, chính là đảm bảo thực hiện nguyên tắc đạo đức “Tôn trọng con người”. Những vấn đề riêng tư không được đảm bảo giữ kín chính là nguyên nhân làm cho đối tượng nghiên cứu thiếu tin tưởng vào người thầy thuốc và không tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. Trong nghiên cứu việc điều tra xác nhận sự riêng 33
  34. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC tư của đối tượng nghiên cứu được đảm bảo giữ kín là chưa đủ mà đối tượng nghiên cứu cần phải tự nhần thấy rằng sự riêng tư của họ được đảm bảo thông qua những biện pháp mà người nghiên cứu sử dụng để đảm bảo bảo mật các thông tin. Bí mật trong đạo đức nghiên cứu là giữ kín không để lộ các thông tin cá nhân, những vấn đề riêng tư của cá nhân ra ngoài. Nhà nghiên cứu cần phải có những biện pháp để giữ bí mật riêng tư như mã hóa các thông tin cá nhân, quy định cụ thể những người có trách nhiệm được tiếp cận với các thông tin của nghiên cứu và được chia sẻ các thông tin của nghiên cứu. Việc công bố các kểt quả nếu có liên quan đến các thông tin cá nhân phải được phép của cá nhân đối tượng tham gia nghiên cứu. Đối với loại hình nghiên cứu điều tra, việc sử dụng các phiếu điều tra vô danh cũng là một loại hình đảm bảo giữ bí mật các thông tin cá nhân, tuy nhiên loại hình nghiên cứu này không phải cuộc điều tra nào cũng có thể sử dụng được, nó tùy thuộc vào từng nghiên cứu có thể sử dụng cho phù hợp. Trong trường hợp sử dụng phiếu điều tra vô danh, tên và thông tin cá nhân không được ghi lại, không thể tìm lại được người đã cung cấp thông tin. Sự bêu xấu là mô tả đặc điểm xấu nào đó hay làm ô danh với sự hổ thẹn hoặc đáng khinh với một người nào đó. Đạo đức nghiên cứu không cho phép bêu xấu, không giữ bí mật thông tin cá nhân sẽ dễ dàng dẫn đến bêu xấu. Sự bêu xấu là vi phạm nguyên tắc đạo đức “Tôn trọng con người”. Nhà nghiên cứu phải đảm bảo không có đối tượng nghiên cứu nào bị bêu xấu tức là phải đảm bảo giữ bí mật riêng tư của các đối tượng tham gia nghiên cứu. Những nhóm dễ bị bêu xấu thường là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như người nghèo, dân tộc ít người, mại dâm, nghiện ma túy, mù chữ, tình dục đồng giới nam, người nhiễm HIV, người bị bệnh lây truyền qua đường tình dục, người có quan hệ tình dục bừa bãi. Khái niệm bêu xấu trong đạo đức nghiên cứu không phải chỉ bao gồm những hành vi cố tình của nhà nghiên cứu làm mất danh dự, làm ô danh hay sự hổ thẹn hay đáng khinh mà còn bao gồm cả những hành vi vô tình để lộ các thông tin cá nhân có liên quan đến đối tượng tham gia nghiên cứu. Tất cả những hành vi bêu xấu dù vô tình hay hữu ý đều là vi phạm nguyên tắc đạo đức nói chung và đạo đức nghiên cứu trong y sinh học nói riêng, đó là nguyên tăc “Tôn trọng con người” và do đó tất cả những hành vi bêu xấu đều bị nghiêm cấm trong đạo đức nghiên cứu. 34
  35. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 3.2. Các văn bản hướng dẫn quốc tế về bí mật riêng tư - Tuyên ngôn Helsinki đã hướng dẫn về đảm bảo giữ bí mật riêng tư trong điều 21: nhà nghiên cứu cần phải đảm bảo tính an toàn cho đối tượng tham gia nghiên cứu, cần phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa để đảm bảo tôn trọng tính riêng tư của đối tượng nghiên cứu, tính bí mật các thông tin về bệnh nhân và để giảm thiểu những tác động của nghiên cứu lên thể chất, tinh thần và cuộc sống cá nhân của đối tượng tham gia nghiên cứu. - Hướng dẫn của CIOMS về bí mật riêng tư Điều 18 trong bản hướng dẫn của CIOMS về đạo đức nghiên cứu đã hướng dẫn về đảm bảo giữ kín bí mật riêng tư của đối tượng nghiên cứu. Bản hướng dẫn quy định nhà nghiên cứu phải thiết lập được hệ thống đảm bảo tốt cho việc giữ kín các số liệu về người tham gia nghiên cứu. Người tham gia nghiên cứu phải được thông báo về những điều hạn chế, tính pháp lý hoặc các thông tin khác về khả năng bảo vệ bí mật và những hậu quả của việc vi phạm các thông tin bí mật. Bản hướng dẫn đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể về các biện pháp đảm bảo giữ kín bí mật riêng tư của đối tượng là những người tham gia thử nghiệm vaccine và thuốc chống HIV/AIDS, hướng dẫn về tính bảo mật giữa thầy thuốc và bệnh nhân, bảo mật trong các nghiên cứu về gen di truyền, điều kiện có thể cho phép công bố kết quả khi thật cần thiết và vai trò của Hội đồng xét duyệt đạo đức nghiên cứu trong vấn đề giữ kín bí mật riêng tư của đối tượng nghiên cứu. 3.3. Ví dụ về giữ bí mật riêng tư Bí mật riêng tư là một nội dung quan trọng của đạo đức nghiên cứu. Tùy theo nội dung của nghiên cứu nhà nghiên cứu cần phải trình bày các biện pháp để đảm bảo giữ bí mật riêng tư cho đối tượng nghiên cứu trong đề cương nghiên cứu trình hội đồng và trong bản thỏa thuận tham gia nghiên cứu của đối tượng nghiên cứu. Các nghiên cứu về di truyền, về HIV/AIDS và phòng chống nghiện ma túy là những nghiên cứu được quan tâm nhiều hơn đến việc giữ bí mật riêng tư cho đối tượng nghiên cứu. Ví dụ sau đây muốn trình bày một số kỹ thuật nghiên cứu đảm bảo giữ bí mật danh tính của đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu đã được hội đồng đạo đức chấp thuận cho phép nghiên cứu với tên đề tài là: Đánh giá hiệu quả mô hình can thiệp huy động cộng đồng tham gia phòng chống HIV/AIDS. 35
  36. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Nghiên cứu đưa ra ba mục tiêu là: - Điều tra mô tả sự thay đổi nhận thức và thực hành về phòng chống HIV/AIDS của nam thanh niên từ 15-26 tuổi. - Điều tra mô tả sự tham gia chủ động và tự giác của chính quyền, các tổ chức đoàn thể quần chúng, gia đình và mọi người dân trong các hoạt động phòng chống HIV/AIDS. - Đánh giá hiệu quả mô hình can thiệp huy động cộng đồng tham gia phòng chống HIV/AIDS trong việc giảm tỷ lệ mới mắc và giảm sự lan truyền của nam thanh niên 15-26 tuổi. Ví dụ này đã được nêu ra trong thỏa thuận tham gia nghiên cứu của đối tượng. Đối tượng nghiên cứu của nghiên cứu này là các nam thanh niên 15-26 tuổi, họ được phỏng vấn theo bộ câu hỏi và được lấy mẫu máu và mẫu nước tiểu xét nghiệm. Trong bộ câu hỏi phỏng vấn có nhiều thông tin liên quan đến quan hệ tình dục đến tiêm chích các chất gây nghiện và đến nhiều yếu tố nguy cơ liên quan đến lây nhiễm HIV/AIDS. Nếu những thông tin này bị lộ ra đối với một cá nhân đối tượng thì việc để lộ các thông tin này sẽ là phi đạo đức và họ có thể sẽ bị cộng đồng xa rời hoặc bị gia đình ghét bỏ Các mẫu xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu cũng có thể phát hiện một đối tượng nào đó mà xét nghiệm HIV dương tính hoặc trong nước tiểu tìm thấy các chất gây nghiện. Nếu những thông tin này lộ ra sẽ gây hại cho đối tượng về nhân cách, về mối quan hệ với gia đình, cộng đồng. Xuất phát từ lý do nêu trên nên trong nghiên cứu này nhà nghiên cứu đã lựa chọn nghiên cứu vô danh để đảm bảo chắc chắn cho người được phỏng vấn và lấy mẫu xét nghiệm được giữ bí mật hoàn toàn về danh tính, không có một đặc điểm nào có thể nhận dạng được đối tượng. Nhà nghiên cứu đã mô tả được cách thức đảm bảo giữ bí mật danh tính cho đối tượng trong đề cương nghiên cứu ở phần đạo đức nghiên cứu như sau: Đối tượng nghiên cứu được cung cấp đầy đủ các thông tin về nghiên cứu và được trao đổi một mật mã số cá nhân của đối tượng để thực hiện một nghiên cứu vô danh. Mẫu phiếu điều tra phỏng vấn chỉ ghi mã số cá nhân của đối tượng, ngoài ra 36
  37. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC không ghi bất kỳ một đặc điểm nào khác như tuổi, địa chỉ hoặc họ và tên cha mẹ, anh chị em ruột để không thể nhận dạng được đối tượng nghiên cứu. Nhà nghiên cứu sử dụng đĩa CD và tai nghe trong quá trình phỏng vấn đề đảm bảo tính bí mật, những người xung quanh sẽ không nghe thấy câu hỏi và cũng không biết được người được phỏng vấn đã trả lời như thế nào. Các tờ giấy trả lời sẽ được gấp lại, bỏ chung vào một hộp lớn, do đó sẽ không có cách nào để liên hệ giữa những thông tin trả lời và người trả lời. Đối tượng nghiên cứu được thông báo địa chỉ liên hệ với nhà nghiên cứu và cách thức liên hệ với nhà nghiên cứu. Toàn bộ khâu thu thập phiếu, xử lý kết quả chỉ có mã số cá nhân của đối tượng nghiên cứu do đó những người thu thập, người xử lý kết quả cũng không thể biết được mã số đó là của ai và như vậy danh tính của đối tượng được giữ kín hoàn toàn trong toàn bộ quy tình của nghiên cứu. Ví dụ trên đây chỉ là một trong rất nhiều cách để đảm bảo giữ bí mật riêng tư cho đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên trong các hướng dẫn quốc tế cũng đề cập đến có một số ít nghiên cứu không cần giữ bí mật riêng tư cho đối tượng nghiên cứu, nhưng những nghiên cứu này phải được trình bày rõ trước hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học và phải được hội đồng đạo đức cho phép. Hầu hết các nghiên cứu khi trình bày trước hội đồng nhà nghiên cứu phải trình bày rõ việc giữ bí mật riêng tư cho đối tượng tham gia nghiên cứu, cách thức tiến hành để đảm bảo giữ bí mật riêng tư, kể cả việc quy định ai được quyền tiếp cận với các thông tin của nghiên cứu, những vấn đề này đều phải được trình bày rõ ràng trong đề cương nghiên cứu trình hội đồng xem xét. 4. CHI TRẢ VÀ BỒI THƯỜNG CHO ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 4.1. Khái niệm chung về chi trả và bồi tường cho đối tượng tham gia nghiên cứu Trong các nghiên cứu y sinh học có đối tượng nghiên cứu là con người, các hướng dẫn quốc tế về đạo đức nghiên cứu đều hướng dẫn chi trả và bồi thường cho đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên khái niệm chi trả và bồi thường trong các hướng dẫn này cần phải được hiểu không giống như trong các khái niệm chi trả và bồi thường của các hợp đồng kinh tế, nó cũng khác với khái niệm được hiểu trong ngành kinh tế. Từ điển tiếng Việt định nghĩa bồi thường và chi trả là khác nhau: 37
  38. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC - Bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây ra cho người khác. - Chi trả là bỏ tiền ra để trả. Trong hướng dẫn đạo đức nghiên cứu sử dụng khái niệm chung là bồi thường hay bồi hoàn nó bao gồm cả khái niệm chi trả cho các chi phí như chi phí đi lại, chi phí cho các chi tiêu khác phát sinh khi tham gia vào nghiên cứu, nhưng cũng có nghĩa là bồi thường cho các thiệt hại về sức khỏe do các rủi ro liên quan đến nghiên cứu gây ra. Hướng dẫn quốc gia của Việt Nam sử dụng khái niệm bồi hoàn như trong CIOMS - 2002 đã hướng dẫn: Các đối tượng có thể được bồi hoàn (bồi thường) về việc mất thu nhập, chi phí đi lại và các chi tiêu khác phát sinh khi tham gia vào nghiên cứu. Họ cũng có thể được nhận dịch vụ y tế miễn phí. Các đối tượng, đặc biệt là những người không được nhận các lợi ích trực tiếp từ nghiên cứu, có thể được trả tiền hoặc đền bù dưới một hình thức nào đó vì những bất tiện họ đã chịu và thời gian họ đã bỏ ra khi tham gia vào nghiên cứu. Tuy nhiên, các khoản bồi hoàn này không nên quá nhiều và các dịch vụ y tế cũng không nên quá lớn đến mức có thể trở thành yếu tố gây áp lực cho đối tượng trong việc đồng ý tham gia vào nghiên cứu mà trong thâm tâm thực sự họ không muốn “sự khích lệ thái quá”. 4.2. Hướng dẫn một số nguyên tắc chi trả và bồi thường cho đối tượng tham gia nghiên cứu. 1) Các đối tượng nghiên cứu có thể được bồi hoàn chi phí đi lại và các chi phí khác bao gồm cả việc mất thu nhập do tham gia vào nghiên cứu. 2) Những người không nhận lợi ích trực tiếp từ cuộc nghiên cứu có thể cũng được nhận được món tiền nhỏ vì nghiên cứu đã gây ra cho họ những phiền toái nhất định. 3) Tất cả mọi đối tượng đều có thể nhận được những dịch vụ y tế không liên quan đến nghiên cứu và có thể được thăm khám và xét nghiệm miễn phí. 4) Những chi trả bằng tiền, hiện vật hoặc phần thưởng cho các đối tượng nghiên cứu không được lớn đến mức có thể trở thành những yếu tố khiến họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro của nghiên cứu hoặc trở thành đối tượng “tình nguyện” tham gia nghiên cứu mặc dù thực sự họ không muốn. 38
  39. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC 5) Những đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, người thiểu năng trí tuệ có thể chịu rủi ro bị người giám hộ bóc lột về tài chính. Người giám hộ đại diện hợp pháp theo pháp luật chỉ được nhận chi phí đi lại và các chi phí liên quan, ngoài ra không được nhận bất kỳ một khoản nào khác. 6) Đối tượng bỏ cuộc vì những lý do liên quan đến nghiên cứu như không chịu được những phản ứng bất lợi của thuốc thử nghiệm hoặc vì sức khỏe có vấn đề phải được chi trả hoặc bồi thường giống như đã tham gia đầy đủ vào nghiên cứu. Nếu vì những lý do khác mà đối tượng bỏ cuộc, họ sẽ được trả tiền theo tỷ lệ thời gian tham gia. 7) Khi phải loại một đối tượng nào đó ra khỏi nghiên cứu vì đã cố ý không tuân thủ các hướng dẫn thì nhà nghiên cứu có quyền giữ một phần hoặc toàn bộ chi trả cho đối tượng. 8) Mọi chi trả, bồi hoàn và dịch vụ y tế cho đối tượng nghiên cứu phải được ghi rõ và mô tả chi tiết trong đề cương nghiên cứu và được một hội đồng đạo đức nghiên cứu xem xét và chấp thuận. 9) Nhà nghiên cứu phải đảm bảo rằng khi đối tượng tham gia nghiên cứu bị tổn thương hoặc rủi ro, nhất là bị tàn phế hay tử vong liên quan đến nghiên cứu phải được đền bù thỏa đáng những tổn thất của họ. Không ai được yêu cầu đối tượng từ bỏ quyền và hạn mức được đền bù này. Hội đồng đạo đức sẽ xem xét và làm trọng tài khi có tranh chấp, bất đồng. 4.3. Hình thức chi trả và bồi thường cho đối tượng tham gia nghiên cứu. Có nhiều hình thức chi trả và bồi thường: - Có thể chi trả và bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc bằng hình thức thưởng vật chất hoặc tinh thần. - Khi các can thiệp hoặc quy trình nghiên cứu không đảm bảo được lợi ích trực tiếp và gây ra nhiều rủi ro hơn mức tối thiểu thì mọi thành phần tham gia vào cuộc nghiên cứu và hội đồng đánh giá đạo đức ở các nước tài trợ và nước chủ nhà đều phải thận trọng để các khoản động viên, khuyến khích không gây ra sức ép lên đối tượng. - Mọi chi trả và bồi thường liên quan đến các dịch vụ chăm sóc y tế như xét nghiệm, thăm khám chẩn đoán và điều trị v.v liên quan đến nghiên cứu, các chăm sóc y tế dự phòng liên quan đến các rủi ro do nghiên cứu gây ra đều 39
  40. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC được mô tả chi tiết trong đề cương và phải được hội đồng đạo đức nghiên cứu xem xét và chấp thuận. - Dù hình thức chi trả và bồi thường nào, mức chi trả và bồi thường là bao nhiêu, nhà nghiên cứu và nhà tài trợ cần phải thống nhất hình thức chi trả, bồi thường, nhà tài trợ có thể sử dụng hình thức mua bảo hiểm sức khỏe cho đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên xác định mức độ hợp lý của việc chi trả và bồi thường cho đối tượng nghiên cứu là rất khó khăn, nó cần được hội đồng đạo đức nghiên cứu xem xét và chấp thuận. - Mọi hình thức, mức độ chi trả và bồi thường cho đối tượng nghiên cứu đều phải tuân thủ những nguyên tắc đã nêu ra ở phần trên. 5. KẾT THÚC/ NGỪNG NGHIÊN CỨU 5.1. Khái niệm chung về kết thúc/ ngừng nghiên cứu Đối với mọi nghiên cứu nhất là các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng chúng ta cần hiểu thống nhất khái niệm kết thúc, kết thúc sớm và ngừng nghiên cứu. - Kết thúc nghiên cứu: Một nghiên cứu được coi là kết thúc sau khi đã hoàn thành việc nghiệm thu trước Hội đồng và được Hội đồng khoa học đánh giá chấp nhận nghiệm thu các kết quả của đề tài/ dự án, Hợp đồng nghiên cứu được nghiệm thu thanh lý. Đối với các nghiên cứu TNLS hoặc các TNLS đa trung tâm nghiên cứu được coi là kết thúc khi được nhà tài trợ đánh giá và chấp nhận các kết quả đưa ra, hợp đồng nghiên cứu được nghiệm thu thanh lý. - Kết thúc sớm nghiên cứu: Kết thúc sớm nghiên cứu là những nghiên cứu kết thúc trước thời hạn ghi trong đề cương nghiên cứu. Nguyên nhân của kết thúc sớm có thể do nghiên cứu hoàn thành trước thời hạn, hoặc có thể do nhà trài trợ hoặc nhà nghiên cứu hoặc hội đồng đánh giá đạo đức nghiên cứu yêu cầu kết thúc sớm vì một nguyên nhân nào đó liên quan đến nghiên cứu cần phải kết thúc sớm. - Ngừng nghiên cứu: Ngừng nghiên cứu là những nghiên cứu đang tiến hành nhưng vì một lý do nào đó phải ngừng lại do yêu cầu có thể của nhà tài trợ/ nhà nghiên cứu/ Hội đồng đánh giá đạo đức nghiên cứu hoặc do cơ quan quản lý nghiên cứu. Thông thường nguyên nhân dẫn đến yêu cầu 40
  41. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC ngừng nghiên cứu liên quan đến biến cố bất lợi nghiêm trọng hoặc các rủi ro nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe của đối tượng nghiên cứu. 5.2. Một số nguyên tắc liên quan đến kết thúc hoặc ngừng nghiên cứu Một trong những nguyên tắc quan trọng khi kết thúc, kết thúc sớm hoặc ngừng nghiên cứu là thông báo về các vấn đề nêu trên cho đối tượng nghiên cứu và cho các bên có liên quan đến nghiên cứu như nhà tài trợ, nhà nghiên cứu, Hội đồng đạo đức và cơ quan quản lý nghiên cứu các cấp. - Đối tượng tham gia nghiên cứu cần được thông báo ngay lập tức về việc kết thúc/kết thúc sớm hoặc ngừng nghiên cứu, nhà nghiên cứu cần đảm bảo đối tượng được điều trị và theo dõi phù hợp. - Sự kết thúc hoạt động nghiên cứu không được cản trở khả năng thực hiện chăm sóc cộng đồng mở rộng. Điều này cần được đặc biệt quan tâm và cân nhắc trong các nghiên cứu liên quan đến các cộng đồng bị thiệt thòi, các nhóm dân tộc thiểu số hoặc trong các đề cương hợp tác quốc tế. - Nếu có yêu cầu của pháp luật thì phải thông báo cho các cơ quan điều phối. Nếu nghiên cứu viên kết thúc sớm/ngừng nghiên cứu mà không có sự đồng ý trước của nhà tài trợ, nghiên cứu viên cần thông báo cho cơ quan quản lý, đồng thời nhanh chóng thông báo và cung cấp những giải thích chi tiết bằng văn bản về việc nghiên cứu sớm hoặc ngừng nghiên cứu cho nhà tài trợ, hội đồng đạo đức và cơ quan quản lý. Nếu nhà tài trợ kết thúc sớm hoặc ngừng nghiên cứu, nghiên cứu viên cần nhanh chóng thông báo cho cơ quan quản lý, cho hội đồng đạo đức, giải thích chi tiết bằng văn bản về việc kết thúc sớm hoặc ngừng nghiên cứu. Nếu Hội đồng đạo đức kết thúc sớm hoặc ngừng nghiên cứu, nghiên cứu viên cần thông báo cho cơ quan quản lý và cung cấp cho nhà tài trợ giải thích chi tiết bằng văn bản về việc kết thúc sớm hoặc ngừng nghiên cứu. Khi kết thúc, kết thúc sớm hoặc ngừng nghiên cứu, nghiên cứu viên chính phải hoàn chỉnh các báo cáo gồm báo cáo tiến trình, báo cáo an toàn và báo cáo tổng kết để gửi cho nhà tài trợ, Hội đồng đạo đức và cơ quan quản lý. Toàn bộ hồ sơ nghiên cứu, các báo cáo, các văn bản pháp lý liên quan đến nghiên cứu, hồ sơ về sản phẩm thuốc nghiên cứu cần được lưu giữ theo đúng các quy định 41
  42. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC về lưu giữ hồ sơ nghiên cứu. 5.3. Hướng dẫn quy trình kết thúc/ kết thúc sớm/ ngừng nghiên cứu 5.3.1. Kết thúc nghiên cứu Một nghiên cứu khi kết thúc đúng thời hạn theo như đề cương nghiên cứu đã được phê duyệt nhà nghiên cứu cần thực hiện và hoàn chỉnh các bước sau: - Thông báo cho đối tượng và chính quyền địa phương là nơi cơ sở thực địa của nghiên cứu. - Nhập, xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu hoặc tập hợp, hoàn chỉnh hồ sơ, dữ liệu nghiên cứu để báo cáo cho nhà tài trợ đối với việc thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm. - Hoàn chỉnh các báo cáo bao gồm: báo cáo tóm tắt, báo cáo toàn văn kết quả nghiên cứu, báo cáo tiến trình nghiên cứu, báo cáo kiểm tra, giám sát (có biên bản kèm theo), báo cáo về an toàn trong quá trình nghiên cứu, báo cáo về sản phẩm thuốc thử nghiệm. Tùy từng loại nghiên cứu, nhà nghiên cứu phải hoàn chỉnh các loại báo cáo cho phù hợp. Đối với TNLS nhà nghiên cứu cần phải báo cáo đầy đủ các loại nêu trên. - Tiến hành nghiệm thu cấp cơ sở và cấp quản lý của nghiên cứu đối với các nghiên cứu theo quy định phải nghiệm thu hai cấp. Đối với các nghiên cứu không yêu cầu phải nghiệm thu như các nghiên cứu TNLS đa trung tâm, nhà nghiên cứu phải gửi các báo cáo và toàn bộ cơ sở dữ liệu theo quy định được ghi trong Hợp đồng. Đối với các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, nghiên cứu viên chính phải gửi báo cáo cuối cùng cho cơ quan quản lý với các nội dung báo cáo như trong quy định Thông tư 03/2012/TT-BYT ngày 16/2/2012. - Nghiên cứu chỉ được coi là kết thúc sau khi có biên bản nghiệm thu thanh lý hợp đồng giữa nhà nghiên cứu, nhà tài trợ, cơ quan quản lý xác nhận và phê duyệt kết quả nghiên cứu. - Toàn bộ các báo cáo hoàn chỉnh cần phải nộp cho nhà tài trợ, Hội đồng đạo đức và cơ quản quản lý đề tài - Thanh quyết toán kinh phí với nhà tài trợ và có xác nhận của cơ quan quản lý ở cấp quản lý tương ứng. - Nghiên cứu viên chính có trách nhiệm lưu giữ toàn bộ hồ sơ nghiên cứu bao gồm: 42
  43. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Cơ sở dữ liệu nghiên cứu gốc. Đối với các thử nghiệm lâm sàng cần phải nộp hồ sơ gốc cho nhà tài trợ, nhà nghiên cứu phải lưu giữ bản sao chụp có xác nhận của cơ quan chủ trì nghiên cứu. Các báo cáo đã hoàn chỉnh và toàn bộ hồ sơ nghiên cứu, chứng từ thanh quyết toán kinh phí (nếu nhà tài trợ và cơ quan quản lý yêu cầu lưu chứng từ thì cần được ghi điều này trong Hợp đồng) các biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng. Các quyết định phê duyệt và quyết định khác có liên quan. 5.3.2. Kết thúc sớm/ ngừng nghiên cứu Đối với các nghiên cứu kết thúc sớm/ ngừng nghiên cứu, nhà nghiên cứu cần thực hiện theo tiến trình sau đây: - Thông báo cho đối tượng và địa bàn là cơ sở thực địa của nghiên cứu - Thông báo cho nhà tài trợ, Hội đồng đạo đức và cơ quan quản lý; cung cấp các giải trình chi tiết về việc kết thúc sớm/ ngừng nghiên cứu. - Hoàn chỉnh và gửi các báo cáo tiến trình nghiên cứu, báo cáo kết quả đã đạt được, báo cáo thanh tra, kiểm tra giám sát, báo cáo về an toàn và các biến cố bất lợi cho sức khỏe báo cáo về sản phần thử nghiệm gửi cho nhà tài trợ, Hội đồng đạo đức và cơ quan quản lý. - Thanh quyết toán kinh phí đã sử dụng - Nghiệm thu thanh lý hợp đồng hoặc kiến nghị giải quyết các tồn đọng (nếu có). - Việc kết thúc sớm/ ngừng nghiên cứu chỉ được phép chính thức sau khi có phê duyệt của nhà tài trợ, Hội đồng đạo đức và cơ quan quản lý cho phép. 5.4. Thông báo kết quả nghiên cứu cho đối tượng trong nghiên cứu Thông báo kết quả nghiên cứu cho đối tượng trong nghiên cứu là cung cấp cho đối tượng những thông tin về kết quả nghiên cứu mà đối tượng tham gia. Một số nguyên tắc chung về việc thông báo kết quả nghiên cứu cho đối tượng nghiên cứu như sau: - Các kết quả thử nghiệm lâm sàng cũng như các kết quả nghiên cứu khác cần được thông tin kịp thời và công bố kết quả hoặc những phát hiện rút ra từ nghiên cứu. - Các kết quả nghiên cứu cần được thông báo công khai với cộng đồng và thường được xuất bản trên các tạp chí khoa học và các tạp chí khác. Cần phải 43
  44. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC cố gắng chia sẻ kết quả nghiên cứu đến các đối tượng tham gia. - Khi các báo cáo sơ bộ không đạt được như mong đợi về tính an toàn, hiệu quả của sản phẩm nghiên cứu thì cân nhắc việc công bố công khai việc sử dụng sản phẩm. - Thông báo hoặc công bố xuất bản kết quả thử nghiệm không được tiết lộ thông tin nhận diện đối tượng nghiên cứu hoặc gia đình họ và cộng đồng hoặc làm tổn hại quyền riêng tư hoặc bí mật cá nhân, gia đình hoặc cộng đồng. 44
  45. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Chương 3 HƯỚNG DẪN VỀ ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI CÁC NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG Chương này đề cập đến các hướng dẫn về đạo đức đối với các loại nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng sau: Thử nghiệm lâm sàng thuốc tân dược Thử nghiệm lâm sàng vắc xin Thử nghiệm lâm sàng thuốc từ dược liệu/thuốc y học cổ truyền Thử nghiệm lâm sàng những kỹ thuật mới, phương pháp mới trong chẩn đoán và điều trị Thử nghiệm lâm sàng sinh phẩm điều trị tương tự/ thuốc sinh học tương tự (biosimilars) 1. THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG THUỐC TÂN DƯỢC Chương này đề cập đến hướng dẫn về đạo đức đối với các Thử nghiệm lâm sàng thuốc tân dược. Thuốc tân dược là những thuốc được bào chế theo phương pháp hiện đại từ nguyên liệu hóa dược tổng hợp, bán tổng hợp hay được chiết xuất, phân lập, tinh chế từ dược liệu. Thử nghiệm lâm sàng (TNLS) là một nghiên cứu được thiết kế khoa học để đánh giá tính an toàn và hiệu lực của một trị liệu, bao gồm 4 giai đoạn như sau: Giai đoạn I là giai đoạn mà lần đầu tiên thuốc được đưa vào cơ thể con người. Thử nghiệm giai đoạn này nhằm đánh giá tính an toàn hoặc độc tính quan sát được ở liều lượng thuốc tương ứng. Trong một số trường hợp, thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I có thể cung cấp những bằng chứng sớm về hiệu quả của thuốc. Cũng trong nghiên cứu ở giai đoạn I, có thể xác định khoảng liều lượng thuốc dùng trên bệnh nhân đảm bảo tính an toàn. Đối tượng tham gia thử nghiệm là những người tình nguyện khỏe mạnh, trong một số trường hợp đặc biệt đối tượng có thể là những người bệnh. Giai đoạn II là những thử nghiệm lâm sàng có đối chứng nhằm chứng minh hiệu lực và cả tính an toàn của thuốc hoặc trị liệu đem thử. Những nghiên cứu này được 45
  46. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC thực hiện trên một số lượng hạn chế đối tượng bệnh nhân với sự theo dõi chặt chẽ. Một số nghiên cứu còn thêm vào một giai đoạn đệm gọi là Ib hoặc IIa trước khi thử chính thức giai đoạn II. Song song với nhánh dùng thuốc, người ta sử dụng một nhánh placebo hoặc nhánh dùng thuốc theo phác đồ điều trị chuẩn để dự đoán về tác dụng điều trị và tác dụng bất lợi của thuốc thử nghiệm trên bệnh nhân quần thể đích. Điều này cho phép lựa chọn đúng các kết quả đầu ra cho giai đoạn II và III. Đối tượng tham gia nghiên cứu là những bệnh nhân có bệnh đích, nhưng cũng có một số nghiên cứu bắc cầu được tiến hành trên những người khỏe mạnh. Mục đích của giai đoạn chuyển tiếp này là nhằm đánh giá tính an toàn và dược động học đa liều của thuốc hoặc theo dõi bất kỳ tác dụng nào trên các chỉ số sinh học của bệnh. Giai đoạn III được tiến hành sau khi đã có dữ liệu chấp nhận được từ thử giai đoạn II về hiệu lực của thuốc. Thử nghiệm giai đoạn III nhằm cung cấp bằng chứng bổ sung về tính hiệu quả của thuốc với những chỉ định điều trị cụ thể, đồng thời cũng xác định cụ thể hơn về tác dụng bất lợi liên quan đến thuốc. Thiết kế thử nghiệm giai đoạn này bao gồm cả nghiên cứu có đối chứng và nghiên cứu không đối chứng. Giai đoạn IV thử nghiệm lâm sàng được tiến hành sau khi thuốc đã được Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) cấp số đăng ký và thuốc được phép phân phối, lưu hành trên thị trường. Mục đích của thử nghiệm giai đoạn này là nhằm phát hiện một tác dụng dược lý cụ thể, hoặc xác định tác dụng của thuốc khi được dùng lâu dài. Nghiên cứu giai đoạn này cũng có thể nhằm đánh giá hiệu quả và tính an toàn trên một số quần thể (như trẻ em hoặc người cao tuổi) chưa được nghiên cứu thỏa đáng ở các giai đoạn trước khi thuốc được lưu hành trên thị trường. Giai đoạn IV cũng có thể được thiết kế nghiên cứu để thiết lập một chỉ định lâm sàng mới đối với một thuốc cụ thể. Bốn giai đoạn kinh điển của quá trình phát triển lâm sàng thuốc mới có những vấn đề về đạo đức khác nhau cần được xem xét. Ở từng giai đoạn thử nghiệm, vấn đề đạo đức phải được xem xét thận trọng căn cứ vào các văn bản Hướng dẫn thử thuốc trên lâm sàng của Bộ Y tế và các văn bản khác của Việt Nam và quốc tế có liên quan. Hướng dẫn chung 1. Tất cả các nghiên cứu TNLS được thực hiện tại Việt Nam đều phải được tiến hành theo hướng dẫn chung về đạo đức quy định trong các văn bản pháp quy của Bộ Y tế: Hướng dẫn thử thuốc trên lâm sàng (Thông tư 03/2012/ TT-BYT ngày 02/02/2012), Hướng dẫn thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng 46
  47. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC (Quyết định số 799/2008/QĐ-BYT ngày 07/03/2008) và các văn bản có liên quan khác của Việt Nam. 2. Tất cả các thử nghiệm lâm sàng phải có giá trị khoa học và xã hội thì mới được thực hiện; Bản thuyết minh thử nghiệm (Đề cương nghiên cứu) cần có những lý giải và biện minh phù hợp, thỏa đáng về điều này. 3. Các giai đoạn khác nhau của thử nghiệm lâm sàng tân dược có những vấn đề đạo đức khác nhau, cần được Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đánh giá, phân tích và xem xét chặt chẽ. Những vấn đề này bao gồm độc tính của sản phẩm ở giai đoạn I, sử dụng placebo ở giai đoạn II và III, xung đột lợi ích trong các hoạt động sau khi thuốc được cấp số đăng ký lưu hành ở giai đoạn IV. Cân bằng giữa lợi ích và rủi ro trong lâm sàng 4. Các nghiên cứu viên tham gia vào thử nghiệm lâm sàng cần cân nhắc thận trọng cân bằng giữa lợi ích và rủi ro có thể gặp phải trên lâm sàng. Trên cơ sở các dữ liệu sẵn có và điều kiện hiện tại, nghiên cứu viên và/hoặc cộng đồng chuyên gia y khoa có thể phần nào không chắc chắn về giá trị của trị liệu trong thử nghiệm. Do đó, có thể phải chấp nhận để bệnh nhân/đối tượng nghiên cứu sử dụng một trị liệu nào đó đưa vào thử nghiệm do chưa có trị liệu nào được coi là rõ ràng nổi trội hơn. Tập huấn GCP cho nghiên cứu viên 5. Các nghiên cứu viên phải cung cấp bằng chứng về tập huấn GCP trước khi bắt đầu nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng. Điều này nhằm đảm bảo cho nghiên cứu viên hiểu biết về Thực hành nghiên cứu lâm sàng tốt (GCP) và yêu cầu pháp luật, quy định hiện hành của Việt Nam về thử nghiệm lâm sàng. Giai đoạn tuyển chọn người tham gia nghiên cứu 6. Nghiên cứu viên cần dành thời gian thỏa đáng để tuyển chọn số lượng đối tượng cần thiết vào thử nghiệm. Cần có các nhân viên và phương tiện phù hợp để tiến hành việc tuyển chọn đối tượng nghiên cứu. 7. Nghiên cứu viên cần có đủ nhân viên có năng lực và trang thiết bị phù hợp để thực hiện chính xác và thận trọng các xét nghiệm. Tuân thủ các yêu cầu pháp quy 8. Thử nghiệm lâm sàng cần tuân thủ các yêu cầu pháp luật được quy định trong 47
  48. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Luật và các văn bản dưới luật có liên quan của Việt Nam: Luật Dược số 34/2005/ QH11 ngày 14/06/2005; Luật Khoa học và Công nghệ (2013) số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013; Hướng dẫn thử thuốc trên lâm sàng của Bộ Y tế (Thông tư 03/2012/TT-BYT ngày 02/02/2012); Hướng dẫn thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng của Bộ Y tế (Quyết định số 799/2008/QĐ-BYT ngày 07/03/2008); Quy định việc đăng ký thuốc (Thông tư 22/2009/TT-BYT ngày 24/11/2009). 9. Các sản phẩm thử nghiệm và sản phẩm đối chiếu, dù được sản xuất trong nước hay nước ngoài đều phải được sản xuất/bào chế tuân thủ theo các nguyên tắc Thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP), đảm bảo chất lượng, có mô tả đầy đủ, đóng gói và bảo quản thích hợp, an toàn. Các nghiên cứu tiền lâm sàng hoặc phi lâm sàng cũng như các thông tin lâm sàng đã có của sản phẩm cần được chuẩn bị sẵn để đánh giá. 10. Thực hành tốt phòng thí nghiệm (GLP) phải được kiểm tra, giám sát chặt chẽ khi thử nghiệm lâm sàng có yêu cầu các xét nghiệm. Thỏa thuận với nhà tài trợ 11. Nghiên cứu viên cùng với nhà tài trợ thiết lập một bản thỏa thuận về đề cương nghiên cứu, các quy trình thực hành chuẩn, giám sát và kiểm tra thử nghiệm, phân công trách nhiệm liên quan đến thử nghiệm bao gồm cả việc công bố kết quả và bản quyền. Đề cương nghiên cứu 12. Đề cương phải có tối thiểu các nội dung sau: o Thông tin chung về thử nghiệm như nghiên cứu viên chính, đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp, các tổ chức nghiên cứu khác, các phòng xét nghiệm chẩn đoán, các chuyên gia y tế có trình độ khác tham gia, nhà tài trợ, người giám sát; o Thông tin cơ bản liên quan đến sản phẩm thử nghiệm, các kết quả từ những nghiên cứu liên quan đến thử nghiệm hiện tại cùng các tài liệu tham khảo liên quan đến thông tin và dữ liệu đó, các nguy cơ và lợi ích tiềm tàng, lý do để chỉ định liều dùng, đường dùng, khoảng thời gian điều trị, quần thể nghiên cứu, tuyên bố tuân thủ GCP và các quy định pháp quy hiện hành; o Mục đích và mục tiêu nghiên cứu; o Thiết kế nghiên cứu, trong đó xác định căn bản về tính khoa học của thử nghiệm và độ tin cậy của các dữ liệu, bao gồm những nội dung sau: 48
  49. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC a) Mô tả loại hình thiết kế và kế hoạch thử nghiệm (nhãn mở hay mù, mù đơn hay mù đôi, có hay không đối chứng, đối chứng giả dược hay trị liệu chuẩn, thiết kế song song hay đối chiếu trước sau) và sơ đồ mô tả quy trình và các giai đoạn thử nghiệm, b) Mục tiêu chính và mục tiêu thứ cấp (phụ, thăm dò), c) Cách giảm thiểu hoặc tránh các sai lệch như ngẫu nhiên hóa và làm mù, d) Các trị liệu dùng thử nghiệm và liều lượng, đóng gói, dán nhãn và bảo quản sản phẩm thử nghiệm, e) Khoảng thời gian theo dõi, đánh giá của mỗi đối tượng tham gia trong thử nghiệm, f) Nguyên tắc ngừng đối với các đối tượng và toàn bộ thử nghiệm, g) Duy trì mã ngẫu nhiên trị liệu và quy định mở mã mù; h) Quy trình kiểm kê sản phẩm thử nghiệm, giả dược và thuốc đối chiếu, i) Các nguồn dữ liệu khác. o Lựa chọn và rút lui đối tượng nghiên cứu, bao gồm tiêu chuẩn tuyển chọn, tiêu chuẩn loại trừ, và rút lui; o Bản Thông tin cho đối tượng, kể cả tờ rơi thông tin thử nghiệm và Phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu; o Trị liệu của đối tượng nghiên cứu và quy trình giám sát; o Các thông số đánh giá hiệu quả, phương pháp và thời điểm đánh giá; o Các thông số đánh giá tính an toàn, phương pháp, thời điểm và quy trình ghi chép, báo cáo cũng như giám sát các phản ứng bất lợi; o Đánh giá tính an toàn đối với những đối tượng rút lui hoặc buộc phải rút lui khỏi thử nghiệm; o Kế hoạch phân tích dữ liệu và thống kê trong nghiên cứu; o Tuyên bố liên quan đến quyền tiếp cận trực tiếp các dữ liệu và tài liệu của thử nghiệm đối với việc giám sát, kiểm tra, đánh giá của Hội đồng đạo đức và thanh tra của cơ quan pháp chế; o Các xem xét về khía cạnh đạo đức; o Quản lý dữ liệu và lưu giữ hồ sơ; o Vấn đề cung cấp tài chính và bảo hiểm cho nghiên cứu; 49
  50. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC o Kế hoạch công bố, xuất bản kết quả nghiên cứu, chia sẻ về sở hữu bản quyền kết quả nghiên cứu. 13. Bất kỳ thay đổi nào của đề cương đã phê duyệt đều phải được đệ trình cho Ban đánh giá các vấn đề đạo đức trong nghiên cứu y sinh học và Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo - Bộ Y tế. Sử dụng placebo 14. Điều trị cho nhóm đối chứng bằng placebo đơn thuần không được chấp nhận khi đã có trị liệu chuẩn cho bệnh nhân được công nhận. Vì vậy, đối chứng bằng placebo chỉ có thể được sử dụng trong các trường hợp sau: a) Hiện tại chưa có trị liệu chuẩn, b) Trị liệu hiện tại không hiệu quả cho đối tượng, hoặc có những tác dụng bất lợi tới mức không thể chấp nhận được, c) Có lý do thuyết phục về mặt khoa học đối với việc sử dung placebo; đối tượng nghiên cứu dùng placebo sẽ không mắc nguy cơ có hại hoặc không hồi phục (Tuyên ngôn Helsinki, 2008), d) Bản thân placebo cũng là một trị liệu có hiệu quả (ví dụ như placebo trong điều trị đau), e) Bệnh có tác động bất lợi nhẹ trên bệnh nhân (ví dụ hội chứng cảm cúm thông thường, nhiễm nấm da nông trên bề mặt), f) Thuốc thử nghiệm và placebo thêm vào (add-on) trị liệu chuẩn: tất cả các đối tượng nghiên cứu đều được nhận trị liệu chuẩn thường quy, g) Đối tượng nghiên cứu không thể hoặc từ chối trị liệu chuẩn (vì những điều kiện hạn chế mà bệnh nhân không thể sử dụng trị liệu chuẩn), việc từ chối trị liệu không dẫn tới những tai họa không thể biện minh hoặc những tổn thương không hồi phục. Phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu 15. Phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu bao gồm Phiếu cung cấp thông tin và chấp thuận tham gia nghiên cứu cần được biên soạn đầy đủ, ít nhất gồm các nội dung như trong “Hướng dẫn thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng” ban hành theo Quyết định số 799/2008/QĐ-BYT, ngày 24/11/2008 của Bộ Y tế hoặc trong Phụ lục 1 Hướng dẫn này. 50
  51. HƯỚNG DẪN QUỐC GIA VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC Điều trị thường quy so với nghiên cứu 16. Sự khác biệt giữa điều trị thường quy và thử nghiệm lâm sàng cần được duy trì trong suốt quá trình thử nghiệm. Nghiên cứu viên cần đảm bảo rằng đối tượng nghiên cứu nhận thức được điều này và luôn ghi nhớ trong một thử nghiệm lâm sàng, các lợi ích của thuốc thử nghiệm hiện còn đang được chứng minh. Trong trường hợp nghiên cứu y học được kết hợp với chăm sóc y tế, nghiên cứu viên chính phải cung cấp các bằng cứ lập luận xác đáng về sự tham gia thử nghiệm không gây ảnh hưởng tới sức khỏe của đối tượng nghiên cứu. Điều này cần được nêu rõ trong Phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu rằng phần nào là điều trị chuẩn và phần nào thuộc về thử nghiệm. Công bố kết quả thử nghiệm lâm sàng 17. Các kết quả thử nghiệm lâm sàng cùng với những phát hiện thu được từ thử nghiệm sẽ được thông tin và công bố kịp thời. Những công bố này có thể là báo cáo công khai với cộng đồng hoặc được đăng tải trong các Tạp chí Y Dược học. Ngoài ra, cần cố gắng chia sẻ kết quả kết quả nghiên cứu đến các đối tượng tham gia thử nghiệm; 18. Khi các báo cáo sơ bộ không cho thấy như mong đợi về tính an toàn, hiệu quả của sản phẩm thì chưa được công bố công khai việc sử dụng sản phẩm; 19. Việc công bố và xuất bản kết quả thử nghiệm lâm sàng không được tiết lộ thông tin nhận diện đối tượng nghiên cứu hoặc gia đình họ, vi phạm đến quyền riêng tư và bảo vệ bí mật cá nhân hoặc gia đình. 2. THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG VẮC XIN 2.1. Giới thiệu chung về thử nghiệm lâm sàng vắc xin Vắc xin là loại sản phẩm thuốc chứa kháng nguyên có thể được dùng để phòng bệnh hoặc để điều trị. Nhiều vắc xin phòng bệnh được dùng cho người bình thường khỏe mạnh mà phần lớn là cho nhóm tuổi trẻ em, trong khi đó, các vắc xin để chữa bệnh lại được dùng cho nhóm người bị bệnh. Hướng dẫn về thử lâm sàng vắc xin vì vậy cũng khá tương đồng với thử lâm sàng thuốc tân dược, tuy nhiên các giai đoạn thử lâm sàng vắc xin có một số khác biệt so với thử lâm sàng thuốc như sau: 51