Một số mô hình về bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học (Phần 2)

pdf 30 trang hapham 1620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số mô hình về bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmot_so_mo_hinh_ve_bao_ve_va_su_dung_hop_ly_tai_nguyen_da_dan.pdf

Nội dung text: Một số mô hình về bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học (Phần 2)

  1. 2.1. Mô hình lâm - ngư kết hợp vùng cửa sông ven biển phía Bắc Mô hình ao tôm sinh thái hay mô hình hồi phục rừng ngập mặn (Mô hình này đã được Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường thực hiện tại Tiền Hải, Thái Bình và đã được Cục Sở hữu Công nghiệp, Bộ Khoa học Công nghệ & Môi trường công nhận là Giải pháp hữu ích năm 1999). Mục đích của mô hình là đề xuất phương pháp hồi phục rừng ngập mặn tức là khôi phục rừng ngập mặn đã bị chết trong ao nuôi tôm cá đã bị hỏng, thích hợp cho việc nuôi tôm, cá nước lợ, nhằm đáp ứng những yêu cầu về sử dụng khôn khéo tài nguyên đất ngập nước ven biển, xoá đói giảm nghèo, giảm nhẹ thiên tai do biến đổi khí hậu gây ra v.v Địa điểm áp dụng: - Mô hình này sử dụng để hồi phục lại những ao tôm đã xuống cấp do thiết kế ao theo kiểu cũ gây phá huỷ rừng ngập mặn. Mô hình được thực hiện tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình và Vườn quốc gia Xuân Thuỷ, tỉnh Nam Định. - Điều kiện tự nhiên: • Vùng ven biển có rừng ngập mặn ở huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định có địa hình dốc từ Bắc xuống Nam, dài từ Tây sang Đông. Độ cao trung bình từ 40,5 - 40,7 cm, điểm cao nhất là Cồn Lu có độ cao +1,5m so với mực nước biển. • Khí hậu: Vùng ven biển Giao Thủy nằm trong miền nhiệt đới gió mùa, khí hậu phân thành hai mùa rõ rệt: mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10, trùng với mùa mưa; mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, trùng với mùa khô. • Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm 24oC; nhiệt độ cao nhất trong mùa hè 40,3oC; nhiệt độ thấp nhất trong mùa đông 6,8oC. ẩm độ trung bình 84% Một số mô hình sử dụng hợp lý 21 tài nguyên đa dạng sinh học
  2. • Lượng mưa: Trung bình năm 1700-1800m; Số ngày mưa trong năm là 133 ngày. • Gió: Về mùa đông thịnh hành là hướng Bắc, đầu mùa hè là hướng Đông sau chuyển hướng Đông Nam và Nam. Tốc độ gió: Mùa đông từ 3,2 - 3,9 m/s (trong đất liền 2,0-2,5m/s), mùa hè từ 4,0 - 4,5 m/s (trong đất liền 2,3-2,6m/s); tốc độ gió lớn nhất trong khi có bão, giông tố lên tới 45-50m/s (trên cấp 12). • Thủy văn: Độ mặn ven bờ bãi độ mặn biến đổi rất lớn từ 11-30‰. Sự biến thiên của độ mặn còn tùy thuộc vào các tháng trong năm và không gian cụ thể của từng vùng bãi. Cự li xâm nhập mặn ở hàm lượng 1‰ NaCl vào sâu tới 10km và ở hàm lượng 4‰ tới 5km. • Thủy triều: Thuộc chế độ nhật triều, chu kì trên dưới 23 giờ, ngoài ra còn có những trường hợp tập triều nhưng rất ít, thủy triều tương đối yếu trong 1 ngày, biên độ triều trung bình khoảng 150 đến 180cm, lớn nhất 3,3m, nhỏ nhất 0,25m. • Thổ nhưỡng: Đất đai tự nhiên toàn vùng cửa sông Hồng nói chung được thành tạo từ nguồn phù sa bồi (phù sa bồi lắng) của toàn bộ hệ thống sông Hồng. Vật chất bồi lắng bao gồm 2 loại hình chủ yếu: Bùn phù sa và cát lắng đọng. Nội dung chính của mô hình: - Quy mô, diện tích có thể áp dung: Mô hình được thiết kế áp dụng với ao có diện tích tối đa 10 ha. - Mô hình bao gồm: • Ao nuôi tôm • Kênh đào: Một hệ thống kênh đào bao gồm kênh chính chạy xung quanh phía trong ao và các kênh nằm ngang (kênh xương cá). Kênh chính này có chiều rộng 9m và dốc dần về phía biển. Ở miệng cống có đặt một lưới chắn để giữ tôm, cá trong khi tháo nước ra. Tiếp đến một cống điều tiết nước được đặt hướng ra biển. Các kênh nằm ngang cũng có chiều rộng 9m có tác dụng làm tăng độ thoáng cho tôm cá và tại điểm nối với kênh chính chúng có độ sâu bằng độ sâu của kênh chính. 22 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  3. Các kênh chính và kênh ngang tạo ra các ô đất giữa chúng để trồng cây ngập mặn. Độ sâu của kênh phụ thuộc vào độ chênh giữa đáy cống và mực nước triều thấp nhất và vào địa hình của từng vùng. Hệ thống kênh này chiếm khoảng 20% diện tích ao nuôi. • Cây trồng: Các cây trồng trong ao bao gồm: Sú (Aegiceras cornic- ulatum), Trang (Kandelia obovata), Bần (Sonneratia caseolaris). Cây ngập mặn sẽ được trồng ở các ô đất nằm lọt giữa các kênh. Các ô đất này có độ cao bằng độ cao của nền ao đã bị hỏng có diện tích bằng 85% diện tích của ao. Tuy nhiên cây sẽ chỉ được trồng trên 75% diện tích. phần đất còn lại 5% là bãi trống được dùng làm nền bổ sung thêm thức ăn cho tôm, cá nuôi trong ao. - Kỹ thuật trồng: • Các cây ngập mặn này sẽ được trồng với khoảng cách như nhau. Nếu trồng cây bằng quả thì khoảng cách thích hợp là 1m. Sau đó tuỳ thuộc vào độ lớn của cây, tốc độ tạo tán có thể tỉa bớt các cây phát triển kém để tạo điều kiện cho các cây khác có thể phát triển tốt hơn • Nếu trồng bằng cây non thì khoảng cách tốt nhất là 2m. Tuy nhiên khi trồng cây phải chú ý đến độ bằng phẳng tương đối của đáy ao. Những chỗ trũng hơn thì trồng sú còn những chỗ cao hơn thì trồng trang. • Sau một thời gian thử nghiệm trồng cây non theo quy cách trên, các cây cách nhau 2m trong mô hình ao cải tiến, các cây ngập mặn đã lên tốt. Cây sú có độ cao trung bình 80cm sau thời gian trồng một năm. Cây trang cũng có chiều cao trung bình từ 90-100cm. Các cây này khi trồng vào ao đã có chiều cao trung bình từ 40-50cm. Tỷ lệ sống của các cây trong ao khoảng 70%. Nguyên nhân chủ yếu làm cây non chết là do tình trạng ô nhiễm trong ao cũ chưa được hồi phục và do cây bị đứt rễ trong quá trình đào và vận chuyển. Tuy nhiên, các cây ngập mặn này sau thời gian 5-6 tháng đã có tốc độ lớn xấp xỉ với tốc độ lớn trong điều kiện tự nhiên. - Quy trình vận hành: Việc vận hành ao chủ yếu dựa vào chế độ thuỷ triều để tạo ra mức nước lên xuống trong ao gần giống thuỷ triều tự nhiên và như vậy là thay nước ao nuôi. Một số mô hình sử dụng hợp lý 23 tài nguyên đa dạng sinh học
  4. • Tháo nước ra khỏi ao: Lợi dụng thuỷ triều xuống, mức nước bên ngoài thấp hơn trong ao, mở cửa cống cho nước chảy ra ngoài. Vì mương dốc dần từ phía đối diện với cống nên khi mở cửa cống nước sẽ chảy dốc dần ra cống và thoát ra biển cho đến khi tất cả các cây ngập mặn hở gốc thì đóng cửa cống lại tạo điều kiện tốt cho rễ khí sinh hô hấp. Khi đó tôm, cá sẽ xuống trú dưới mương. Nhưng có lưới chắn nằm trước cống nên chúng không thoát được ra biển mà bị giữ lại. Hai mương nằm ngang ao cũng sẽ tạo ra hai luồng nước chạy ngang làm cho ao thêm thông thoáng. Bằng cách tháo nước như vậy ta có thể thay nước cho ao thường xuyên và với lượng nước lớn (khoảng 3/4- 4/5). • Lấy nước vào ao: Khi triều lên cao, mức nước ở ngoài cao hơn ở trong ao, của cống được mở để lấy nước vào cho đến khi mực nước trong và ngoài ao bằng nhau thì đóng cửa cống lại. Khi nước vào đầy ao thì tôm, cua, cá lại phát tán ra toàn ao và sinh sống gần như ngoài thiên nhiên. • Cứ như vậy quy trình vận hành ao được tiếp diễn hàng ngày. Với quy trình như vậy cây ngập mặn có thể tồn tại và phát triển tốt trong ao nhờ việc lưu thông nước liên tục. Ngoài ra, việc lưu thông này còn đảm bảo độ mặn của nước trong ao và làm phong phú thêm lượng động, thực vật thuỷ sinh (có trong nước biển). Các sinh vật đáy như giun nhiều tơ, ấu trùng của côn trùng thuỷ sinh v.v cũng cần có các chu kỳ hiếu khí và yếm khí mới sinh trưởng và phát triển được. Đây là hai nguồn cung cấp thức ăn chính cho tôm và cá trong ao. Do đó, thức ăn tự nhiên cho tôm cá trong ao này sẽ phong phú hơn rất nhiều so với ao theo kiểu cũ. Đó chính là nguyên nhân làm tăng năng suất cho tôm cá. • Đối với ao cũ không có hệ thống kênh thoát nước, nên phải giữ nước ngập thường xuyên vì vậy chỉ trong một thời gian ngắn cây trong ao bị chết hàng loạt. Lá và thân cây bị chết phân huỷ trong nước tạo ra khí H2S gây ra hiện tượng thiếu ô xy. Nước trong ao bị ô nhiễm dẫn đến ao bị hỏng không tiếp tục sử dụng được. Nhờ phương pháp khôi phục rừng ngập mặn trong ao bị hỏng đã khắc phục được các nhược điểm nêu trên. Do vậy ao có thể được sử dụng trong một thời gian dài. 24 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  5. Hình 1 - Mô hình ao tôm sinh thái Sơ đồ ao tôm Hồng Kông Cống Kênh tưới và tiêu thông với biển Bờ bao Trồng cây ngập mặn Rãnh có chiều rộng 9 m Trồng cây Rãnh có ngập mặn chiều rộng 9 m Rãnh có chiều rộng 9 m Trồng cây ngập mặn Lợi ích của mô hình: Cây ngập mặn sau khi được trồng đã sống được và màu xanh của rừng dần dần trở lại. Tình trạng xuống cấp của môi trường bước đầu được giải quyết. Nếu nước được điều tiết tốt, hay nói cách khác thời gian phơi rễ khí sinh gần giống với tự nhiên thì cây sẽ phát triển nhanh hơn. Theo ước tính của các chuyên gia thì trong vòng 8 năm, cây trồng trong ao tương đương với cây trong rừng tự nhiên. Hơn nữa, tôm được thu hoạch hàng năm với năng suất cao. Một số mô hình sử dụng hợp lý 25 tài nguyên đa dạng sinh học
  6. Do nằm ở vùng ranh giới giữa biển và đất liền nên rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đê biển chống lại bão, sóng biển, đặc biệt là sóng thần và các tác động tiêu cực khác của biến đổi khí hậu. Ngoài ra nó còn chống nhiễm mặn từ biển vào đất liền, lọc bớt chất ô nhiễm. Đặc biệt nó còn tạo ra nguồn dinh dưỡng to lớn cho thuỷ, hải sản, là nơi ươm tạo con giống cho các loài này và là nơi sản xuất mật ong lý tưởng. Rừng ngập mặn còn là nơi cư trú cho nhiều loài chim di cư, là nơi lý tưởng cho các hoạt động du lịch sinh thái và giáo dục môi trường. Những điểm cần lưu ý: Do hồi phục cây ngập mặn cần thời gian ít nhất là 3 năm sau khi trồng lại vào ao tôm đã bị xuống cấp. Trong thời gian này chủ đầm không được phép giữ mức nước trong ao quá cao và không thay nước theo thuỷ triều hàng ngày. Vì như vậy cây lại sẽ bị ngâm và chết như với mô hình cũ. Tuy nhiên để làm được điều này người làm đầm hầu như không có thu nhập trong 3 năm đầu. Vì vậy họ cần có một quỹ tín dụng dài hạn từ 8 -10 năm để có đủ thời gian hồi phục cây ngập mặn và có thu nhập để trả nợ. Việc này chỉ có nhà nước 26 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  7. mới đủ sức làm, cho nên muốn mở rộng mô hình có hiệu quả thì nhà nước phải sớm vào cuộc, giải quyết những vướng mắc về đầu tư cho dân yên tâm hồi phục lại hệ sinh thái đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Một vấn đề khác là thời hạn sử dụng đất của người làm ao tôm. Hiện huyện sở tại chỉ cho người làm đầm tôm đấu thầu đất từ 10 - 15 năm. Khi ao tôm đang phát triển tốt thì thời hạn trên đã gần hết. Vậy nên việc hồi phục là khó khăn khi vừa mới xong thì đã hết hạn hợp đồng thuê đất. Vì vậy muốn cho người dân yên tâm hồi phục hệ sinh thái thì hạn cho thuê đất ít nhất cũng là từ 20 năm trở lên. Nếu không người dân không yên tâm đầu tư hồi phục và không thể nhân rộng được mô hình. 2.2. Mô hình nông - lâm - ngư kết hợp trên đất tràm 2.2.1. Mô hình trồng rừng tràm + lúa nước + cá + ong Địa điểm áp dụng - Vùng Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên, Cà Mau - đồng bằng sông Cửu Long - Đặc điểm tài nguyên: • Khu vực này có địa hình tương đối bằng phẳng, độ chênh cao bình quân so với mặt nước biển từ 1,5m đến 2,5m, độ chênh cao trong vùng rừng từ 0,5m đến 2m nghiêng và thấp dần về phía Tây Bắc sang Đông Nam. • Có 2 loại đất chính ở đây là đất than bùn và đất sét. Quá trình cố định đất hình thành than bùn từ sự phá hủy của nhiều nguyên nhân. Đất ở đây được hình thành từ lâu đời, do sự bồi đắp của phù sa ven biển mang lại từ hệ thống sông Cửu Long, qua thời gian cố định dần, cùng với sự có mặt của thảm thực vật cây rừng ngập và sinh khối rơi rụng của nó trong điều kiện yếm khí vì bị ngập nước thường xuyên từ 5 đến 6 tháng/năm (khoảng tháng 6 đến tháng 10 hàng năm) nên đã hình thành lớp than bùn có độ dày từ 0,5m đến 1m; dưới lớp than bùn là tầng đất sét có chứa phèn tiềm tàng ở các độ sâu khác nhau. Một số mô hình sử dụng hợp lý 27 tài nguyên đa dạng sinh học
  8. Nội dung chính của mô hình - Quy mô, diện tích có thể áp dụng: Diện tích đất cho mô hình khoảng 2, 7 ha (27.000 m2) (100%) - Mô hình bao gồm: • Diện tích chuyên canh lúa nước: 1.890 m2 (7%) • Diện tích trồng và kinh doanh rừng tràm: 17.091 m2 (63,3%) • Hệ thống mương đào rửa phèn, ém phèn và nuôi cá: 2.700 m2 (10%) • Hệ thống bờ bao: 2.700 m2 (10%) • Đất thổ cư + VAC: 2.619 m2 (9,7%). - Kỹ thuật chăm sóc: Rừng tràm: • Rừng tràm trồng quảng canh bằng phương pháp sạ hạt (nếu nước ngập trong) hoặc trồng bằng cây con rễ trần (nếu nước ngập có màu đỏ đục) rừng tràm trồng với mật độ 20.000 - 30.000 cây/ha. • Trong 1 - 2 năm đầu, khi rừng tràm trồng chưa khép tán có thể trồng xen lúa nước. Khi rừng tràm khép tán, thường sau khi trồng 3 năm, lúc đó ánh sáng lọt qua tán rừng tràm ít, không thể trồng xen lúa nước. • Khi rừng tràm phát triển tới giai đoạn các tán lá cây tràm đan xen nhau dầy đặc (độ che phủ gần bằng 1) thì cần tiến hành tỉa thưa (thường là vào năm thứ 6, kể từ khi trồng) để đảm bảo mật độ vừa phải cho cây tràm phát triển tốt, đồng thời tạo ra điều kiện thông thoáng cho mặt nước dưới rừng tràm để các loài cá đồng có điều kiện sinh sống dưới rừng tràm tốt hơn. • Trong khi chăm sóc rừng tràm, cũng cần phải làm sạch cỏ dại và các dây leo, thậm chí cả tỉa bớt cành của các cây tràm để mặt nước dưới rừng tràm được thông thoáng hơn. • Toàn bộ diện tích rừng tràm cũng được chia thành nhiều lô nhỏ và cố gắng tạo ra các lâm phần rừng tràm không đồng tuổi. Khi lô nào khai thác xong, phải tiến hành trồng lại ngay. 28 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  9. • Như vậy, khu vực rừng tràm vừa có lâm phần mới trồng, vừa có lâm phần cây vừa khép tán, vừa có lâm phần gần đến tuổi khai thác v.v tạo ra môi trường nước dưới rừng tràm thuận lợi cho cá, tôm phát triển, lại có thu nhập thường xuyên hơn về gỗ tràm và lương thực do trồng xen lúa nước nhằm giúp cho các hộ nông dân khắc phục được các khó khăn trong cuộc sống khi trồng rừng tràm. Lúa nước: • Lúa nước là cây rất mẫn cảm với điều kiện môi trường sống xung quanh. Đặc biệt trên đất phèn mạnh. Khi pH của đất phèn mạnh < 3,5 thì trong đất có chứa rất nhiều chất độc hại với lúa nước, như ion Al+++ và Fe++. Cho nên trên đất phèn mạnh, không thể cấy lúa hoặc sạ lúa ngay trong đầu mùa mưa, mà phải để sau nhiều đợt mưa to, cho nước mưa rửa bớt phèn, rồi mới cấy lúa Do nước ngập sâu 40 - 60 cm nên các giống lúa cao sản ngắn ngày thường không phù hợp, người dân địa phương đã chọn giống lúa chịu phèn, cao cây, cứng rạ để cấy, Một số mô hình sử dụng hợp lý 29 tài nguyên đa dạng sinh học
  10. thời gian sinh trưởng dài (150 ngày), do đó chỉ cấy được 1 vụ/năm, chủ yếu nhờ nguồn nước mưa. năng suất giống lúa mùa địa phương này thường chỉ đạt 1,5 - 2 tấn/ha/vụ. • Tuy nhiên ở một số nơi đất cao, nước có thể lưu thông, khả năng rửa phèn tốt và ngập nước nông < 40cm, người ta có thể sử dụng các giống lúa mới cao sản, ngắn ngày (100 ngày) để sản xuất 2 vụ lúa trong 1 năm, chủ yếu dựa vào nguồn nước trời, đạt năng suất tới 4,5 – 6 tấn/ha/năm. • Để trồng lúa nước trên đất phèn mạnh có năng suất khá, người nông dân địa phương còn có kinh nghiệm đào thêm các rãnh thoát phèn trong ruộng lúa (rãnh rộng 40cm, sâu 40cm, khớp với độ sâu phân bố của rễ lúa). Khoảng cách giữa các rãnh thoát phèn thưa hay mau, còn phụ thuộc vào mức độ phèn của đất, nhưng thường cách nhau từ 10m đến 20m, đào 1 rãnh thoát phèn, đất đào rãnh được đắp và san đều trên diện tích cấy lúa. Người dân địa phương gọi là phương pháp: Kê đất. 30 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  11. • Trồng lúa nước trên đất phèn mạnh, cần phải bón thêm phân khoáng tổng hợp NPK. Việc trồng lúa nước chuyên canh gắn liền với rừng tràm là một sự kết hợp độc đáo, vì người ta đã sử dụng nước dưới rừng tràm để sổ phèn cho đất trồng lúa và người ta lại lợi dụng nước dưới rừng tràm giầu chất hữu cơ để bón cho đất trồng lúa chuyên canh. Vì vậy, năng suất lúa cao hơn mà lượng phân bón sử dụng lại không nhiều. Nuôi cá đồng: • Ở những nơi đất ngập nước sâu hơn 50cm trở lên và thời gian ngập nước kéo dài hơn 6 tháng, sẽ có điều kiện thuận lợi để nuôi các loại cá nước ngọt trong mô hình nông – lâm – ngư kết hợp. • Việc tận dụng các hệ thống mương bao, mương và rãnh thoát phèn và mặt nước được ngập toàn bộ diện tích rừng tràm + lúa nước đã đưa tiềm năng nuôi cá nước ngọt lên mức quan trọng có vai trò quyết định đến mức thu nhập hàng năm của các hộ nông dân. Trồng cây trên các bờ bao: • Bờ bao là ranh giới phân chia đất quản lý, sử dụng giữa các hộ. • Bờ bao chống quá trình tràn chua phèn từ nơi địa hình cao ở các nơi khác vào diện tích canh tác của mô hình. • Tạo điều kiện rửa phèn của đất canh tác được thuận lợi và nhanh hơn. • Trồng cây trên các bờ bao, tạo thành băng cản lửa, phòng và chống cháy rừng tràm. Một số mô hình sử dụng hợp lý 31 tài nguyên đa dạng sinh học
  12. • Tầng I (cây cao): So đũa (Serbania grandiflora) xen bạch đàn trắng. • Tầng II: Chuối xiêm, đu đủ • Tầng III: Thơm (dứa) Kinh doanh ong mật: • Các hộ gia đình nông dân ở khu vực rừng tràm U Minh đều biết gác kèo cho ong mật tự nhiên (ong khoái) làm tổ. Mật ong lấy từ rừng tràm có chất lượng cao hơn các loại rừng khác và cao hơn mật ong nuôi thùng. Hoa tràm có nhiều mật, mùa hoa lại kéo dài nhiều tháng trong năm, tuy hoa nở rộ vào tháng 5. Sản lượng mật thu được tuỳ thuộc vào số lượng kèo gác, số tổ ong định cư, độ lớn của bầy ong tự nhiên. Bình quân 1 ha rừng tràm người ta có thể thu được từ 5 - 7 lít mật ong. 2.2.2. Mô hình VAC (vườn - ao - chuồng) trên đất thổ cư: Địa điểm áp dụng: vườn nhà trên đất thổ cư ở vùng đất phèn Nội dung chính của mô hình 32 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  13. - Quy mô, diện tích có thể áp dụng: Mặc dù diện tích đất thổ cư sử dụng chỉ có 2000m2, nhưng lại nằm trong vùng đất phèn nên nhân dân thường áp dụng mô hình VAC. - Mô hình bao gồm: • Ao nuôi cá: Do nền đất thấp bị ngập nước, nên phải đào ao nuôi cá (chủ yếu là nuôi cá giống trong mùa khô để có cá giống thả vào mùa mưa). Đồng thời đào ao để lấy đất đắp nền nhà và xây dựng vườn cây ăn trái + rau xanh. Mặt nước ao trồng rau muống, rau cần, làm giàn trồng mướp v.v • Cây ăn quả: Trồng chủ yếu mít, dừa, mãng cầu xiêm, cam, quýt, chanh, đu đủ. • Rau xanh: Đậu leo, đậu bắp, cà chua, dưa leo, rau ngót, mùi tàu. • Chăn nuôi: Chủ yếu là nuôi lợn, 1 hộ gia đình nuôi từ 2 - 3 con lợn, mỗi năm sản xuất được từ 6 - 8 tấn phân chuồng để thâm canh cây ăn trái và rau xanh mặc dù thu nhập từ nuôi lợn không cao. (Một số gia đình còn nuôi trăn (đặc sản) vì có nguồn thức ăn phong phú trong vùng là chuột, chúng phá hoại lúa và hoa màu). Một số mô hình sử dụng hợp lý 33 tài nguyên đa dạng sinh học
  14. Lợi ích kinh tế và môi trường cho cả hai loại mô hình (Mô hình rừng tràm + lúa nước + cá + ong và mô hình VAC trên đất thổ cư) - Kết quả về thu nhập kinh tế cho 1 hộ gia đình ngay trong 1, 2 năm đầu: • Thu nhập về cá đồng: Chủ yếu dựa vào nguồn cá và thức ăn tự nhiên. Năng suất cá đồng 150 kg/ha/năm trị giá 450.000 đ/ha (giá bán ở địa phương 3000 đ/1kg cá tươi). Những năm sau đó mức độ phèn của đất và nước giảm, năng suất cá còn cao hơn. • Thu nhập về vườn cây ăn trái và rau xanh trên 2000m2 đất thổ cư: Thu nhập về cây ăn trái: 8.860.000 đ/năm; Thu nhập về rau xanh: 6.400.000 đ/năm (lao động chủ yếu của hộ gia đình) • Thu nhập về chăn nuôi lợn (nuôi 3 con lợn): Hàng năm sản xuất được 8 tấn phân chuồng để thâm canh vườn quả và rau xanh. Xuất chuồng 260 kg thịt lợn hơi trừ đi các chi phí về giống và thức ăn: 820.000 đ, còn được lời 740.000 đ/năm. Như vậy thu nhập của hộ gia đình trong các năm đầu: cao nhất là mô hình VAC trên đất thổ cư (2000m2): 11 triệu đồng/năm. Với mô hình sản xuất nông - lâm - ngư trên đất phèn mạnh này, nhằm mục tiêu trồng và khôi phục lại diện tích rừng tràm trên đất phèn mạnh, tạo thu nhập. - Sau 10 năm, thu hoạch rừng tràm, với năng suất gỗ: 10m3/ha/năm, trừ mọi chi phí sản xuất 1 ha rừng tràm cho lãi hơn 2 triệu/ha/năm. - Vấn đề quan trọng hơn, rừng tràm còn có tác dụng chống quá trình phèn hoá, nâng cao độ phì của đất, làm cho năng suất lúa và cá ngày càng cao và bền vững; rừng vẫn được duy trì và do đó bảo tồn được đa dạng sinh học một cách bền vững vì có được sự tham gia của người dân. Những điểm cần lưu ý: Vì dịch vụ do HST rừng tràm cung cấp là rất quan trọng đối với kinh tế - xã hội và môi trường đặc biệt là đối với biến đổi khí hậu như đã phân tích ở trên, nên nếu có được những cơ chế chính sách của nhà nước 34 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  15. như chi trả dịch vụ môi trường cho những người dân trồng và bảo vệ rừng tràm thì không nên chặt tràm đem bán mà nên giữ để sử dụng bền vững những dịch vụ do HST độc đáo này mang lại nhất là trong công cuộc xoá đói giảm nghèo cho những người có cuộc sống phục thuộc vào các dịch vụ này. Một số mô hình sử dụng hợp lý 35 tài nguyên đa dạng sinh học
  16. KẾT LUẬN Một số mô hình trên đây thực chất là các mô hình sử dụng đất tổng hợp và bền vững, được xây dựng trên cơ sở những hệ thống định canh lâu bền bằng cách sử dụng đất, rừng, nước, khí hậu phù hợp để phát triển cây trồng vật nuôi hàng năm và lâu năm phục vụ được nhu cầu con người một cách ổn định, liên tục và lâu dài. Hệ canh tác bền vững đặc biệt coi trọng mối liên hệ tương quan giữa các vật sống như cây, con, thực vật và động vật với môi trường sống xung quanh của chúng nhằm đạt hiệu quả cao làm phong phú và bền vững hơn cuộc sống mà không gây phương hại và suy thoái môi trường thiên nhiên và xã hội của con người. Cụ thể mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững phải đáp ứng một số nội dung sau: (1) Giải quyết được nhiều vấn đề đặt ra cho mọi người ở từng bản làng, buôn sóc, ở từng địa phương, trong cả nước và trên toàn cầu. (2) Tổng hợp được các hiểu biết truyền thống với khoa học hiện đại vận dụng thích hợp cho từng nơi (3) Lấy các hệ thống thiên nhiên làm mẫu chuẩn, bắt chước các hành động hoà hợp với thiên nhiên. (4) Tạo lập ra các mô hình định canh lâu bền bằng việc xây dựng phù hợp với điều kiện sinh thái từng nơi. Để đảm bảo sử dụng đất mang tính tổng hợp bền vững cần đảm bảo các nguyên tắc sau: - Đa dạng hoá các loại hình sản xuất, các chế độ canh tác, các chủng loại sản phẩm, các dạng hình sinh thái. - Kết hợp được nhiều ngành nghề nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi thuỷ sản. - Ngăn ngừa và giảm thiểu được những tai biến môi trường, những rủi ro và nạn ô nhiễm, suy thoái. - Tận dụng được các nguồn tài nguyên: đất, nước, năng lượng, sinh học làm cho nó được bảo toàn, tái tạo, tự điều chỉnh và tự tái sinh. - Sử dụng được đất theo quy mô nhỏ, thâm canh có hiệu quả, được quản lý, chăm sóc, bảo vệ và phục hồi đất. 36 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  17. Các lợi ích mà nông lâm kết hợp mang lại cho kinh tế hộ gia đình rất đa dạng. Cụ thể: - Cung cấp lương thực và thực phẩm: Nhiều mô hình NLKH được hình thành và phát triển đã đáp ứng mục tiêu sản xuất nhiều loại lương thực, thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình. Điển hình là hệ thống VAC được phát triển rộng rãi ở nhiều vùng nông thôn ở nước ta. Nhờ đó, có khả năng tạo ra sản phẩm lương thực và thực phẩm đa dạng trên một diện tích mà không yêu cầu phải đầu tư lớn. - Tăng thu nhập nông hộ: Với sự phong phú về sản phẩm đầu ra và ít đòi hỏi về đầu vào, các hệ thống NLKH dễ có khả năng đem lại thu nhập cao cho hộ gia đình. Các hộ gia đình tận dụng được thời gian, nguồn lao động, tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hoá, tăng thu nhập cho gia đình và có điều kiện đầu tư trở lại cho cây trồng. Đồng thời điều hoà được lợi ích trước mắt và lâu dài; Tận dụng được đất đai giữa các hàng cây rừng để trồng cây lương thực, hoa màu phục vụ cho đời sống người dân làm nghề rừng trong các năm đầu của rừng trồng chưa khép tán. - Tạo việc làm: Nông lâm kết hợp gồm nhiều thành phần canh tác đa dạng có tác dụng thu hút lao động, tạo thêm ngành nghề phụ cho nông dân. Tăng được sản phẩm cần dùng hàng ngày: củi đun, thức ăn, sinh tố tạo thêm việc làm, tận dụng mọi nguồn lao động ở nông thôn; - Đa dạng hóa sản phẩm: Việc kết hợp cây thân gỗ trên nông trại có thể tạo ra các sản phẩm từ cây thân gỗ như: gỗ, củi, tinh dầu, v.v để đáp ứng nhu cầu về nguyên vật liệu cho hộ gia đình. Mặt khác, việc kết hợp trồng các loài cây nông nghiệp, không chỉ tạo lương thực thực phẩm cho người mà còn tạo nguồn thức ăn cho gia súc. Thức ăn của gia súc (dê, trâu, bò ) được cắt từ cỏ và cây họ đậu trên đường đồng mức. Sau đó phân của gia súc lại dùng để bón cho đất canh tác, tạo cho đất được tốt hơn. Ngoài nông lâm sản, còn thu được sữa, thịt nên sẽ làm tăng và đa dạng hóa thu nhập của phương thức nông lâm kết hợp, đặc biệt là trong các trang trại. Một số mô hình sử dụng hợp lý 37 tài nguyên đa dạng sinh học
  18. - Giảm rủi ro trong sản xuất và tăng mức độ an toàn lương thực: Nhờ có cấu trúc phức tạp, đa dạng được thiết kế nhằm làm tăng các quan hệ tương hỗ (có lợi) giữa các thành phần trong hệ thống, các hệ thống NLKH thường có tính ổn định cao hơn trước các biến động bất lợi về điều kiện tự nhiên như: dịch sâu bệnh, hạn hán v.v ). Sự đa dạng về loại sản phẩm đầu ra cũng góp phần giảm rủi ro về thị trường và giá cả cho nông hộ; đa dạng hoá các loài cây trồng, cung cấp sản phẩm hàng hoá và hạn chế các rủi ro về sinh học và thị trường. - Hỗ trợ cây trồng chính: Cung cấp phân hữu cơ cho canh tác, giúp rừng trồng sinh trưởng tốt nhờ vào chăm sóc vệ sinh lô rừng; quay vòng vốn đầu tư nhanh và tạo điều kiện phù hợp để thu hạt giống cây rừng (Rừng và đồng cỏ) Hỗ trợ cho các cây lâm nghiệp, nông dân chăm sóc hoa màu có ảnh hưởng tốt đối với sinh trưởng và phát triển của rừng non mới trồng. - Vẫn duy trì được rừng và do đó bảo tồn được đa dạng sinh học một cách bền vững vì có được sự tham gia của người dân và các mô hình đã cung cấp đầy đủ nông lâm sản do đó người không phải “khai thác” từ rừng. Tuy nhiên chúng chưa phải là lý tưởng, nhất là đối với những vùng đất ngập nước. Vì theo tính toán của các chuyên gia trong báo cáo đánh giá HST Thiên niên kỷ của LHQ năm 2005 (MA) thì “Nếu tính gộp tất cả lợi ích của các dịch vụ HST thì ĐNN không chuyển đổi sẽ mang lại lợi ích kinh tế to lớn hơn dạng chuyển đổi”. 38 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  19. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Đình Lý, 2003: Nghiên cứu Đánh giá các mô hình phát triển kinh tế xã hội, tổ chức thực hiện mô hình trình diễn tại Quảng Bình- Quảng Trị. Báo cáo chuyên đề thuộc Đề tài Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KC.08.07: Đề tài nhánh của “Nghiên cứu những vấn đề kinh tế xã hội và môi trường vùng sinh thái đặc thù Quảng Bình-Quảng Trị”. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Hà Nội - 12/2003) 2. Isobel W. Heathcote, 1998 : Integrated Watershed Management - Principle and Practice School of Ingineering University of Guelph. 3. Gene Barrett, 2001. What is community? One lecture note. Saint Mary’s University 4. Lê Diên Dực, 1992. Wise use of wetlands in Vietnam. Paper presented to the Wise Use Working Group Meeting organised by IUCN Wetland Programme, October 1992. Texel The Netherlands 5. Lê Diên Dực, 2008. Bài học từ công tác hoạch định chính sách liên quan tới phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường. Bài học về đánh đổi các dịch vụ HST. Tài liệu giảng dạy cho lớp tập huấn cán bộ quản lý „Phục hồi và tái sử dụng các vùng đất bị suy thoái do chất độc hoá học”. Thị xã Đông Hà, Quảng Trị, 18-27/7/2008 6. Nguyễn Viết Khoa, Trần Ngọc Hải, Nguyễn Hữu Hồng, Vũ Văn Mễ, 2006, Sản xuất nông lâm kết hợp. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Chương tình hỗ trợ và đối tác. Cẩm nang ngành Lâm nghiệp, 2006. 7. Lê Diên Dực, 2000. Các phương pháp tham gia trong quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2000. Biên dịch từ bộ tài liệu tiếng Anh „Participatory methods in community-based coastal resource management”.3 vols, International Institute of Rural Reconstruction, Silang, Cavite, Philippines, 1998. 8. Lê Diên Dực, 1991. Ý nghĩa kinh tế của cây tràm trong Tuyển tập Hội thảo vể Hồi phục và Quản lý rừng tràm. Long Xuyên, An Giang 14- 18.5.1991 do trung tâm Tài nguyên và Môi trường, đại học Tổng hợp, Một số mô hình sử dụng hợp lý 39 tài nguyên đa dạng sinh học
  20. Hà Nội, IUCN và sở Lâm nghiệp An Giang phối hợp tổ chức. Trung tâm Tài nguyên và Môi trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, 1991. 9. Lê Diên Dực, 1999. Phương pháp hồi phục rừng ngập mặn trong “Bằng độc quyền Giải pháp hữu ích” số 212 do Cục Sở hữu Trí tuệ, Bộ Khoa học Công nghệ & Môi trường cấp năm 1999 10. www.thienhiencongdong.org /viewtopic.php? Thư viện cộng đồng. Viewtopic – Khu DTSQ Kiên Giang 11. www.thiennhien.net /2009.10-29 home. Hệ sinh thái U Minh Hạ: Điểm du lịch lý tưởng 12. Lê Thanh Long, 2009. Suy thoái ĐDSH ở Việt Nam. www.my.opera.com/200 13. Phạm Bình Quyền, 2003. Hệ sinh thái nông nghiệp và phát triển bền vững. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003, Hà Nội 14. www.maweb.org/wetland 15. Phan Nguyên Hồng và cs., 2004. Hệ sinh thái rừng ngập mặn vùng ven biển đồng bằng sông Hồng. Nhà xuất bản nông nghiệp, 2004, Hà Nội 16. Mô hình nông lâm kết hợp của Bộ Lâm nghiệp 40 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  21. PHỤ LỤC Vai trò của cộng đồng trong việc tham gia bảo tồn đa dạng sinh học 1. Khái niệm về cộng đồng Cộng đồng xã hội chỉ một tập đoàn người rộng lớn, có những dấu hiệu, những đặc điểm xã hội chung về thành phần giai cấp, về nghề nghiệp, về địa điểm sinh tụ và cư trú. Cũng có những cộng đồng xã hội bao gồm cả một dòng họ, một sắc tộc, một dân tộc. Như vậy cộng đồng xã hội bao gồm một loạt yếu tố xã hội chung mang tính phổ quát. Đó là những mặt cộng đồng về kinh tế, về địa lý, về ngôn ngữ, về văn hóa, về tín ngưỡng, về tâm lý, về lối sống. Những yếu tố này trong tính tổng thể của nó tạo nên tính ổn định và bền vững của một cộng đồng xã hội. Khẳng định tính thống nhất của một cộng đồng xã hội trên một quy mô lớn, cũng đồng thời phải thừa nhận tính đa dạng và nhiều màu sắc của các cộng đồng xã hội trên những quy mô nhỏ hơn (Từ điển Bách khoa Việt Nam tập I - Hà Nội 1995). 2. Đặc điểm 2.1. Tính đa dạng Phạm vi của cộng đồng về thực tế rất khác nhau. Trong một số trường hợp nó đa dạng đến mức độ mà khái niệm về cộng đồng hình như không thể áp dụng được. Trong thực tế ta vẫn phải sử dụng nó và phải chăng nó không có một ý nghĩa khoa học thực sự nào? 2.2. Cơ sở cấu trúc Ta có thể xây dựng một mô hình cộng đồng trong sự đa dạng như đã nói không? Điều kiện cần thiết cho một cộng đồng tồn tại là gì? Vận dụng khái niệm cộng đồng vào một cộng đồng ở nông thôn thì thật là khó vì nó rất đa dạng và mâu thuẫn. Theo Gene Barrett (2001) thì 4 chuẩn mực sau đây có thể được vận dụng cho mô hình của một cộng đồng: Địa điểm hay lãnh thổ, quyền lợi hay mối quan tâm, luật tục (hương ước) và bản sắc. Một số mô hình sử dụng hợp lý 41 tài nguyên đa dạng sinh học
  22. 2.3. Địa điểm sinh tụ và cư trú Khái niệm này được vận dụng cho các đặc điểm không gian của một địa điểm tự nhiên như địa lý, sinh thái, môi trường, cảnh quan. Vùng phân bố của các địa điểm tự nhiên trong đó tất cả các cộng đồng nông thôn sinh sống trong phạm vi toàn thế giới được gọi là quần xã sinh vật (biome) tự nhiên. Vậy thì cái gì có thể thể hiện một địa điểm tự nhiên mang tính xã hội của một cộng đồng. Địa điểm được thể hiện ở ranh giới tự nhiên trong đó luôn có sự tương tác do đó tác động đến sức mạnh của luật tục, địa điểm hay lãnh thổ xác định nội dung và tính thích hợp của tri thức địa phương nó cho phép định nghĩa (xác định) ranh giới pháp lý gắn liền với tài sản và tài nguyên và sự tổ chức quyền lực. Địa điểm hay lãnh thổ cũng là một hợp phần quan trọng của bản sắc với ý nghĩa là gắn kết và ràng buộc. 2.4. Quyền lợi hay mối quan tâm Thể hiện cơ sở vật chất của các cộng đồng như tài nguyên, nguồn của sức khỏe và các mối quan hệ tài sản nhưng nói chung quyền lợi hay mối quan tâm có liên quan đến tài sản như ruộng đất và tiền bạc. Trong đó quyền sở hữu đóng vai trò quyết định. Quyền sở hữu thể hiện ở: cơ sở vật chất, uy tín, thanh thế và quyền lực. Tất cả đều thể hiện các mối quan hệ. Cơ sở vật chất cũng liên quan đến câu hỏi: ai là người có quyền tiếp cận tài nguyên, ai không. Uy tín và thanh thế liên quan đến ai chiếm được sự quý trọng, còn quyền lực liên quan đến ai kiểm soát hoạt động của ai. 2.5. Luật tục Liên quan đến xây dựng luật và tiêu chuẩn đạo đức được dựng lên dựa trên tương tác của mọi người và sự sản sinh của những quyền lợi hay mối quan tâm của cộng đồng. Luật tục thể hiện luật dựa trên tiêu chuẩn đạo đức trong đời sống hàng ngày và sự kỳ vọng vào hành vi được gắn liền với những tiến trình tổ chức. Luật tục có hai mối quan hệ về sản sinh và tự trị đối với rất nhiều mối quan hệ dựa trên quan hệ quyền lợi đã được nêu ở trên. Với nghĩa rộng chức năng của luật tục thể hiện tính tự trị cao trong việc hình thành cuộc sống cộng đồng nông thôn. Luật tục thỏa mãn 3 yêu cầu trong hình thành xã hội: 42 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  23. tính có thể dự đoán (làm theo đúng thể thức trong mối tương tác), kế thừa (bảo tồn truyền thống) và an toàn (sản sinh của con người và tổ chức xã hội). Những tiêu chuẩn luật tục trong các cộng đồng cũng khác nhau ở những địa phương khác nhau. Luật tục có thể liên quan đến đạo đức cá nhân như tinh thần trách nhiệm, lòng trung nghĩa. Luật tục bao hàm mối tương tác như tính dễ gắn kết hay tính dị biệt được thể hiện lâu đời trong cộng đồng. Nhưng ta có thể phân biệt mức độ luật tục cho cả cộng đồng, một định hướng mang tính chất nhóm nó được lồng vào những kỳ vọng mà các thành viên của cộng đồng tham gia vào những hoạt động mang tính chất toàn cộng đồng hoặc chia sẻ nguồn tài nguyên của họ với những người khác (giúp đỡ lẫn nhau). Luật tục cũng là những gì được trông đợi nhưng cũng là những gì không thể chịu đựng. Cơ chế kiểm soát xã hội như khai trừ hoặc tẩy chay cũng là những thành tố quan trọng của cấu trúc luật tục của các cộng đồng. 2.6. Bản sắc Bản sắc liên quan đến ý niệm cộng đồng ở trong tâm trí. Trong ý tưởng này thì cộng đồng được xem như con đường hai chiều. Trước hết là cách mà các thành viên cộng đồng tự nhìn mình, đặc biệt là chỗ nào cộng đồng phù hợp với sự phụ thuộc của bản thân họ. Thứ hai là bản sắc tập thể và cơ quan kết hợp truyền thống chung với tình cảm. Cái tôi được hình thành từ hai tập hợp của bản sắc: ý nghĩa cốt lõi của cái tôi số ít và một tập hợp của cái tôi số nhiều. Cái tôi số nhiều có mối quan hệ có tính chất mở rộng, luôn biến đổi trong đó chúng ta bị ràng buộc vào một nhóm mà ta phải phụ thuộc. Điều cốt lõi là cái tôi bên trong nó giúp tìm ra lối qua một mớ rắc rối của các mối quan hệ nhưng chính nó cũng mang tính chất phản ảnh và mở rộng như một hậu quả của những bản sắc mà trong đó nó bị làm mờ nhạt. Bản sắc cũng liên quan đến tinh thần tập thể, tình cảm tập thể, những truyền thống và giá trị được chia sẻ, dĩ vãng và ý thức của địa phương. Trong phạm vi cộng đồng, bản sắc tập thể tương đồng Một số mô hình sử dụng hợp lý 43 tài nguyên đa dạng sinh học
  24. với cộng đồng là một thể thống nhất, nó rộng hơn bản sắc trong nội bộ họ hàng rất khác nhau. Bản sắc tập thể có tính chất nổi bật bắt nguồn từ “bộ nhớ” tập thể và những truyền thống và nghi thức được chia sẻ. Điều quan trọng hơn cả là bản sắc tập thể có một thực tế nổi bật khi nó được nối kết một cách có ý thức làm cơ sở cho hành động tập thể. 3. Sự ra đời của khái niệm dựa vào cộng đồng Trong thập kỷ qua sự tham gia của người dân địa phương vào công tác bảo tồn đã là tâm điểm của nhiều sự kiện. Môi trường và phát triển bền vững đã nhanh chóng được xem là sự ưu tiên trên trường quốc tế, nổi bật nhất là Hội nghị Thượng đỉnh được tổ chức tại Rio de Janeiro, Braxin năm 1992. Kiểm soát bảo tồn tài nguyên thiên nhiên từ trung ương vốn chặt chẽ trong nhiều thập kỷ trước nay đã trở nên lỏng lẻo. Tính tự trị địa phương và vùng đã diễn ra mặc dù còn nhiều bất cập. 44 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  25. Cùng với sự xuất hiện của những thuật ngữ mới như du lịch sinh thái, kinh tế xanh, bình đẳng thế hệ, vay nợ để bảo vệ cho tương lai (debt-nature swaps), tiêu thụ xanh, v.v thuật ngữ bảo tồn dựa vào cộng đồng cũng đã xuất hiện. Tuy nhiên, khái niệm bảo tồn dựa vào cộng đồng còn rất lỏng lẻo. Trong bảo tồn dựa vào cộng đồng trọng tâm đã chuyển từ trên xuống dưới, từ trung tâm ra nửa bán cầu, từ giai cấp quý tộc sang người nghèo và từ thành thị đến nông thôn. Tài nguyên thiên nhiên của nước ta đã bị xuống cấp đến mức độ báo động do nhiều lý do khác nhau, vì vậy việc quản lý mang tầm quan trọng đặc biệt. Tuy nhiên, quản lý đến nay hầu như vẫn chưa có được những tiến bộ mang tính đột phá là do chưa có sự tham gia “tích cực” của nhân dân nói chung và các cộng đồng địa phương nói riêng. Hay nói một cách khác là cần có một sự thay đổi trong toàn bộ xã hội về quản lý bảo vệ đa dạng sinh học và thiên nhiên. Heathcote (1998) cho rằng quản lý thiên nhiên nói chung là một tiến trình nhằm thiết lập một chương trình về thay đổi xã hội và theo ông “thay đổi xã hội không thể có nếu những cộng đồng bị tác động không cho thay đổi là cần thiết”. Do đó, công việc quy hoạch bảo tồn không chỉ phải quan tâm đến sản phẩm cuối cùng mà còn phải là trong quá trình quy hoạch để có được một quy hoạch đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân, đặc biệt là những cộng đồng bị tác động. Bởi vậy việc tham gia vào quá trình quy hoạch bảo tồn rừng ngập mặn của các bên liên quan (stakeholders) là khâu then chốt. Đó cũng chính là vai trò của cộng đồng có liên quan trong việc bảo tồn rừng ngập mặn và đa dạng sinh học, hay nói một cách khác là quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng (Community-based conservation management). 4. Mô hình quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng (CBCM) Dưới đây xin giới thiệu quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng làm ví dụ. Tuy nhiên những nguyên lý cơ bản của cách quản lý này đều có thể được vận dụng vào các địa phương khác như miền núi, đồng bằng v.v mà không cần phải có thêm những cách tiếp cận khác. Một số mô hình sử dụng hợp lý 45 tài nguyên đa dạng sinh học
  26. 4.1. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng Như nhiều tài nguyên thiên nhiên, việc quản lý tài nguyên ven biển thông qua các cơ quan trung ương đã bị thất bại trong việc hạn chế khai thác tài nguyên quá mức và những tác động huỷ diệt. Cho nên nhiều quốc gia hiện nay đang trở lại kiểm soát tài nguyên thiên nhiên ở cấp địa phương bởi vì những người phụ thuộc trực tiếp vào những nguồn tài nguyên thường là những người tận tâm, có ý thức và là những người bảo vệ có khả năng. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là quá trình quản lý tài nguyên ven biển do những người phụ thuộc vào nguồn tài nguyên đề xướng. Vì vậy ngày càng có nhiều người sử dụng tài nguyên tham gia vào quản lý nguồn tài nguyên ven biển và trách nhiệm quản lý mang tính chất địa phương. ý thức trách nhiệm, sự tuân thủ pháp luật do đó cũng tăng lên. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là hoạt động nhằm định hướng các vấn đề thông qua kiểm soát quản lý tài nguyên mang tính địa phương hơn. Khi quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng trở nên tiến bộ hơn nó sẽ giải quyết các vấn đề của cộng đồng ven biển một cách toàn diện hơn. Quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng là một nỗ lực làm cho cộng đồng “được kiểm soát hơn”. Trong tương lai sinh kế bền vững không chỉ đơn thuần là “ Sinh kế thay thế” mà nó còn bao gồm cả các khía cạnh văn hoá, xã hội và chính trị đang tác động một cách mạnh mẽ đến cuộc sống của con người. Nếu muốn con người có trách nhiệm trong việc quản lý, thì lợi ích của họ phải rõ ràng, thực chất, công bằng, những mục đích thương mại là không thể chấp nhận được. Việc đánh giá một cách toàn diện là thực sự cần thiết. Hầu hết các hệ sinh thái bị suy thoái vì nguyên nhân này hay nguyên nhân khác đều phải được hồi phục. Kiểm soát việc sử dụng và lạm dụng tài nguyên sẽ mang lại năng suất tiềm năng cho vùng ven biển và cộng đồng ven biển, với sự chăm sóc và quan tâm thích đáng, có thể cải thiện được phúc lợi của chính cộng đồng ven biển trước mắt cũng như trong tương lai. 46 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  27. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là chiến lược toàn diện nhằm xác định những vấn đề mang tính chất nhiều mặt ảnh hưởng đến môi trường ven biển thông qua sự tham gia tích cực và có ý nghĩa của cộng đồng ven biển. Điều quan trọng là chiến dịch này tìm cách xác định vấn đề cốt lõi của sự tiếp cận tài nguyên một cách tự do cùng với tất cả hậu quả bất công và không hiệu quả, bằng cách tăng cường sự tiếp cận và kiểm soát của cộng đồng đối với nguồn tài nguyên của họ. Thuật ngữ “Dựa vào cộng đồng” là một nguyên tắc mà những người sử dụng tài nguyên cũng phải là người quản lý hợp pháp đối với nguồn tài nguyên đó. Điều này giúp phân biệt nó với các chiến lược quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác hoặc là có tính tập trung hoá cao hoặc là không có sự tham gia của các cộng đồng phụ thuộc trực tiếp vào nguồn tài nguyên đó. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy những hệ thống quản lý tập trung hoá đã tỏ ra không hiệu quả trong việc quản lý nguồn tài nguyên theo cách bền vững. Do đó rất nhiều cộng đồng ven biển đã đánh mất ý thức “làm chủ” và trách nhiệm đối với vùng ven biển của họ. Thông qua những tiến trình đa dạng của mình, quản lý bảo tồn tài nguyên dựa vào cộng đồng hy vọng sẽ khôi phục lại ý thức “làm chủ” và trách nhiệm này. Quản lý bảo tồn tài nguyên dựa vào cộng đồng cũng là một quá trình mà qua đó những cộng đồng ven biển được tăng quyền lực về chính trị và kinh tế để họ có thể đòi và giành được quyền kiểm soát quản lý và tiếp cận một cách hợp pháp đối với nguồn tài nguyên ven biển của họ. Sự vận động nhằm khởi xướng một vấn đề như thế tốt hơn hết phải được bắt đầu từ bản thân cộng đồng. Tuy nhiên do yếu về quyền lực nên hầu hết các cộng đồng đều thiếu khả năng tự khởi xướng quá trình thay đổi. Chính điều này là một trong những nhân tố đã dẫn đến các tổ chức và cơ quan bên ngoài tham gia, làm cho những quá trình liên quan đến Quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng trở nên dễ dàng hơn, kể cả việc tổ chức cộng đồng. Một số mô hình sử dụng hợp lý 47 tài nguyên đa dạng sinh học
  28. 4.2. Những nguyên tắc của Quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng • Tăng quyền lực (trao quyền) Ở những cộng đồng ven biển, tăng quyền lực là sự phát triển của sức mạnh (quyền lực) thực hiện việc kiểm soát quản lý nguồn tài nguyên mà các cộng đồng này phải phụ thuộc. Việc này thường được thực hiện với những cơ quan của chính phủ. Bằng việc tăng cường sự kiểm soát và tiếp cận của cộng đồng đối với tài nguyên ven biển sẽ tạo ra cơ hội tốt hơn cho tích luỹ lơị ích kinh tế địa phương. Các tổ chức tại cộng đồng quản lý tốt tài nguyên cũng có thể được công nhận như những người cộng tác hợp pháp trong việc quản lý tài nguyên ven biển. Sự tăng quyền lực cũng có nghĩa là xây dựng nguồn nhân lực và khả năng của cộng đồng để quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên của họ theo cách bền vững. • Sự công bằng Nguyên tắc công bằng gắn liền với nguyên tắc tăng quyền lực. Sự công bằng có nghĩa là có sự bình đẳng giữa mọi người và mọi tầng lớp đối với những cơ hội. Tính công bằng chỉ có thể đạt được khi những người đánh cá quy mô nhỏ cũng có quyền tiếp cận bình đẳng đối với những cơ hội tồn tại để phát triển, bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên ven biển. Quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng cũng đảm bảo tính công bằng giữa thế hệ hiện tại và tương lai bằng cách tạo ra những cơ chế có thể bảo đảm cho việc bảo vệ và bảo tồn nguồn tài nguyên ven biển để sử dụng cho tương lai. • Tính hợp lý về sinh thái và sự phát triển bền vững Quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng thúc đẩy những kỹ thuật và thực hành không chỉ để phù hợp với những nhu cầu về kinh tế, xã hội, văn hoá của cộng đồng mà còn là hợp lý về sinh thái. Do đó những kỹ thuật phải thừa nhận sức chịu đựng và tiếp thụ của nguồn tài nguyên và hệ sinh thái. Sự phát triển bền vững có nghĩa là phải cân nhắc, nghiên cứu trạng thái và bản chất của môi trường tự nhiên trong khi theo đuổi phát triển 48 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học
  29. kinh tế mà không làm tổn hại đến phúc lợi của thế hệ tương lai. Quan tâm đến môi trường được lồng vào nguyên tắc “Người quản gia”, nguyên tắc này thừa nhận mọi người đều là người bảo vệ bình dị của Trái đất này. • Tôn trọng những tri thức truyền thống/bản địa Quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng thừa nhận giá trị của tri thức và hiểu biết bản địa. Nó khuyến khích việc chấp nhận và sử dụng những tri thức truyền thống/bản địa trong những quá trình và hoạt động khác nhau của mình. • Sự bình đẳng giới Quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng thừa nhận vai trò độc đáo và sự đóng góp của nam và nữ giới trong lĩnh vực sản xuất và tái sản xuất. Nó thúc đẩy cơ hội bình đẳng của cả hai giới trong sự tham gia có ý nghĩa vào việc quản lý tài nguyên. Một số mô hình sử dụng hợp lý 49 tài nguyên đa dạng sinh học
  30. Thiết kế và in tại Công ty Cổ phần TM & DV In Quang Hưng In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm 2009 50 Một số mô hình sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học