Nghiên cứu thể lực của học sinh tiểu học ở Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương

pdf 8 trang hapham 2420
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu thể lực của học sinh tiểu học ở Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_the_luc_cua_hoc_sinh_tieu_hoc_o_thanh_pho_thu_dau.pdf

Nội dung text: Nghiên cứu thể lực của học sinh tiểu học ở Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương

  1. Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 5 (24) – 2015 NGHIÊN CỨUTHỂ LỰC CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC Ở THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƢƠNG Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thúy Hiệp Trường Đại học Thủ Dầu Một TÓM TẮT Nghiên cứu các chỉ số thể lực của 1127 học sinh từ 6-10 tuổi ở thành phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương cho thấy: Các chỉ số thể lực của học sinh tăng liên tục từ 6 đến 10 tuổi nhưng tốc độ tăng không đều giữa các độ tuổi và giới tính. Chiều cao, cân nặng và vòng ngực của học sinh tăng nhanh nhất ở giai đoạn 9-10 tuổi. Trong nhóm nghiên cứu, phần lớn học sinh có tình trạng dinh dưỡng bình thường (chiếm 50,78% ở nam và 56,91% ở nữ), chỉ số BMI ở mức suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ đáng quan tâm (5,70% ở nam và 8,91% ở nữ), chỉ số BMI ở mức béo phì chiếm tỉ lệ khá cao (25,22 % ở nam và 18,91% ở nữ). Chỉ số Pignet của học sinh tăng trong giai đoạn đầu (từ 6-9 tuổi) – ở nam từ 30,68 lên 32,20; ở nữ từ 33,05 lên 37,40 và giảm trong giai đoạn sau (từ 9-10 tuổi) – ở nam từ 32,20 xuống 27,79; ở nữ từ 37,40 xuống 36,97. Từ khóa: chỉ số thể lực, học sinh, cân nặng, chiều cao, chỉ số pignet, BMI. 1. MỞ ĐẦU tỉnh Bình Dương. Để đánh giá được thực Các chỉ số thể lực không phải là hằng trạng về một số chỉ số thể lực của học sinh định mà có thể thay đổi phụ thuộc vào môi tiểu học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu trường tự nhiên và điều kiện xã hội, đáng Một- tỉnh Bình Dương, chúng tôi tiến hành kể nhất là chế độ sinh hoạt và dinh dưỡng. nghiên cứu các chỉ số thể lực: chiều cao Cải thiện sức khỏe và tình trạng dinh đứng, cân nặng, vòng ngực, chỉ số BMI và dưỡng của trẻ em là mục tiêu quan trọng chỉ số Pignet. hàng đầu của tất cả các quốc gia trong đó 2. ĐỐI TƢỢNG, THỜI GIAN, PHƢƠNG có Việt Nam. Đây cũng là mục tiêu thiên PHÁP NGHIÊN CỨU niên kỷ của Liên hiệp quốc, Chiến lược Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng Quốc gia về Dinh dưỡng của Việt nam. Các nghiên cứu là các chỉ số thể lực của học nghiên cứu khoa học gần đâyđều cho thấy sinh tiểu học có độ tuổi từ 6-10 ở các xu hướng gia tăng thừa cân béo phì ở trẻ trường: Tiểu học Phú Hòa I, Tiểu học Phú em [7]. Do đó, các chỉ số sinh học cần phải Mỹ, Tiểu học Nguyễn Du thuộc thành phố nghiên cứu định kỳ ở từng thập kỷ và ở Thủ Dầu Một. Tổng số học sinh trong từng vùng miền để đánh giá sự phát triển nghiên cứu là 1127. về thể chất của thế hệ tương lai trước sự Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 phát triển liên tục của đất nước và sự thay năm 2013 đến tháng 5 năm 2014. đổi kinh tế của từng địa phương. Đã có Phƣơng pháp nghiên cứu nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu [1], [2], [3], [4], [5], [6] nhưng chưa có theo phương pháp phân tầng ngẫu nhiên: công trình nào nghiên cứu trên học sinh ở các trường được chia ra theo khu vực: 43
  2. Journal of Thu Dau Mot University, No 5 (24) – 2015 Trung tâm thành phố và vùng ngoại ô đến 1 mm. Vòng ngực được đo ở tư thế thành phố, chọn ngẫu nhiên 3 trường, các đứng thẳng bằng thước dây cuốn quanh trường chọn gồm Tiểu học Phú Hòa I, Tiểu ngực qua mũi ức, dưới núm vú, sao cho học Phú Mỹ, Tiểu học Nguyễn Du; ở từng mặt phẳng của thước dây tạo ra song song trường chọn ngẫu nhiên 2 lớp ở mỗi khối. với mặt đất. Chỉ số BMI được tính theo Phương pháp nghiên cứu các chỉ số thể công thức: BMI = Cân nặng (kg) / (Chiều lực: Các chỉ số thể lực được xác định theo cao (m))2. Đánh giá chỉ số BMI theo CDC các phương pháp đã chuẩn hóa hiện hành. chuẩn dành cho trẻ em từ 2-20 tuổi. Chỉ số Chiều cao đứng: đơn vị đo là cm, dụng cụ Pignet được tính theo công thức: Pignet = đo là thước có vạch sẵn có độ chính xác Chiều cao (cm) – [Cân nặng (kg) + Vòng đến 1 mm. Khi đo, học sinh ở tư thế đứng ngực (cm)]. thẳng, hai gót chân sát vào nhau, mắt nhìn Phƣơng pháp xử lý số liệu: Từ các số thẳng, đồng thời đảm bảo 4 điểm là đầu, liệu thu được, tiến hành tính các tham số lưng, mông và gót chân chạm vào thước thống kê cơ bản: Độ lệch chuẩn (S); Giá trị đo. Tư thế đứng được xác định khi đuôi trung bình ( X ); Sai số của số trung bình mắt và lỗ tai ngoài cùng ở trên đường thẳng (SD). Độ tin cậy sai khác giữa hai giá trị ngang vuông góc với trục cơ thể. Cân trung bình (t). Các tính toán được xử lý trên nặng: được xác định bằng cân y tế có độ máy tính, sử dụng phần mềm hệ chương chính xác đến 0,1 kg. Cân được đặt trên trình Excel 2010. mặt phẳng ngang. Khi cân: đối tượng chỉ 3. KẾT QUẢ mặc trang phục gọn gàng, không mang dép 3.1. Chiều cao và đội mũ, đứng thẳng sao cho trọng tâm của cơ thể rơi vào điểm giữa cân, đo xa bữa Kết quả chiều cao đứng của học sinh ăn. Vòng ngực trung bình: dụng cụ đo là theo tuổi và giới tính được trình bày trong thước vải không co dãn có độ chính xác bảng 1. Bảng 1: Chiều cao đứng của học sinh theo tuổi và giới tính Qua bảng 1 cho thấy, chiều cao đứng nữ, chiều cao tăng từ 118,04cm lúc 6 tuổi của học sinh tăng dần theo tuổi. Ở nam lên 139,99cm lúc 10 tuổi, mức tăng trung tăng từ 118,77cm lúc 6 tuổi lên 138,54cm bình ở giai đoạn này là 5,49cm/năm. Như lúc 10 tuổi, mức tăng chiều cao trung bình vậy, giai đoạn này chiều cao của học sinh ở giai đoạn này là 4,94 cm/năm. Đối với nữ tăng nhiều hơn chiều cao học sinh nam. 44
  3. Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 5 (24) – 2015 Hình 1: Đồ thị biểu diễn chiều cao đứng của học sinh theo tuổi và giới tính Ở cùng lứa tuổi, chiều cao của học sinh nam và học sinh nữ không giống nhau. Từ 6 đến 8 tuổi, chiều cao trung bình của nam lớn hơn của nữ. Tuy nhiên, chênh lệch về chiều cao giữa học sinh nam và học sinh nữ ở tuổi từ 6-8 không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Ở 9 tuổi, chiều cao của nữ lớn hơn so với chiều cao của nam đáng kể (2,24cm) và có ý nghĩa thống kê (p<0,02). Tốc độ tăng chiều cao nhanh nhất của học sinh nam và học sinh nữ ở giai đoạn từ 9 đến 10 tuổi. Nhìn chung, ở độ tuổi tiểu học tốc độ tăng trung bình của chiều cao đứng ở nữ (5,49cm) tăng nhiều hơn ở nam (5,94cm). Sở dĩ có sự khác biệt này vì ở cuối lứa tuổi tiểu học ở cơ thể các em đã bắt đầu giai đoạn dậy thì và theo quy luật sinh học thì nữ dậy thì sớm hơn ở nam. 3.2. Cân nặng Kết quả nghiên cứu cân nặng của học sinh theo tuổi và giới tính trong bảng 2. Bảng 2: Cân nặng của học sinh theo tuổi và giới tính Các số liệu ở bảng 2 và hình 2 cho thấy, từ 6 đến 10 tuổi cân nặng của học sinh tăng dần. Cân nặng của học sinh nam tăng từ 25,65kg lúc 6 tuổi lên 38,12kg lúc 10 tuổi, mức tăng trung bình là 3,12kg/ năm. Cân nặng của nữ tăng từ 24,72kg lúc 6 tuổi lên 36,15kg lúc 10 tuổi, mức tăng trung bình 2,86kg/ năm. Hình 2: Đồ thị biểu diễn cân nặng của học sinh theo tuổi và giới tính 45
  4. Journal of Thu Dau Mot University, No 5 (24) – 2015 Trong giai đoạn từ 6 đến 10 tuổi, cân nặng trung bình của nam lớn hơn của nữ cùng tuổi. Ở tuổi 6 nam nặng hơn nữ 3,93kg, ở tuổi 7 là 1,33kg, ở tuổi 8 nam nặng hơn nữ 2,3kg, tuổi 9 hơn 0,52kg và tuổi 10 hơn 1,97kg. Trong giai đoạn 6 đến 10 tuổi, mức tăng cân nặng của học sinh không đều. Cân nặng của học sinh nam và nữ đều tăng nhiều nhất ở giai đoạn từ 9 đến 10 tuổi (tăng 3,58kg/năm ở nam và 4kg/năm ở nữ). Nhìn chung, ở học sinh tiểu học cân nặng trung bình của học sinh nam ở các độ tuổi đều cao hơn của học sinh nữ. 3.3. Vòng ngực Kết quả nghiên cứu vòng ngực trung bình của học sinh theo tuổi và giới tính được trình bày trong bảng 3. Bảng 3: Vòng ngực trung bình của học sinh Các số liệu ở bảng 3 cho thấy vòng ngực trung bình của học sinh tăng không đều theo theo tuổi. Đối với học sinh nam, vòng ngực trung bình tăng từ 61,89cm ở tuổi 6 lên 72,08cm ở tuổi 10 với mức tăng trung bình là 2,54 cm/năm. Đối với học sinh nữ, vòng ngực trung bình tăng từ 60,54cm ở tuổi 6 lên 62,83cm ở tuổi 7 và ở tuổi 8 là 63,42cm và sau đó tiếp tục tăng dần đến tuổi 10 là 66,92cm với mức tăng trung bình là 1,59cm/năm. Hình 3: Đồ thị vòng ngực trung bình của học sinh theo tuổi và giới tính (cm) Từ 6 đến 10 tuổi vòng ngực trung bình của học sinh nam tăng liên tục và tăng nhanh nhất ở giai đoạn 9 đến 10 tuổi. Ở học sinh nữ có tốc độ tăng không đều và tăng nhanh nhất ở giai đoạn 8 đến 9 tuổi. Như vậy, vòng ngực của nữ tăng nhanh ở độ tuổi sớm hơn ở nam và điều này cũng phù hợp với quy luật là nữ dậy thì sớm hơn nam. Từ 6 đến 10 tuổi vòng ngực trung bình của học sinh nam cao hơn của học sinh nữ. Mức chênh lệch là 1,36cm ở tuổi 6, ở tuổi 7 là 2,91cm, ở tuổi 8 là 2,92cm, ở tuổi 9 là 1,99cm và ở tuổi 10 là 5,16cm. Các mức chênh lệch trong các độ tuổi từ 6 đến 9 đều không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), còn ở 10 tuổi thì sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0.02). 46
  5. Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 5 (24) – 2015 3.4. Chỉ số BMI của học sinh Kết quả nghiên cứu chỉ số BMI của học sinh theo tuổi và giới tính trong bảng 4. Bảng 4: Chỉ số BMI của học sinh theo tuổi và giới tính (kg/m2) Các số liệu ở bảng 4 cho thấy, chỉ số BMI của học sinh nam và học sinh nữ từ 6 – 10 tuổi có sự chênh lệch. Cụ thể, ở học sinh nam chỉ số BMI giảm từ 18,08kg/m2 (6 tuổi) xuống 17,46kg/m2 (7 tuổi). Học sinh nữ, chỉ số BMI giảm từ 17,32kg/m2 (6 tuổi) xuống 16,75kg/m2 (7 tuổi). Chỉ số BMI bắt đầu tăng dần từ 7 tới 10 tuổi, tăng từ 17,46 kg/m2 (7 tuổi) lên 19,51 kg/m2 (10 tuổi) ở nam, tăng từ 16,75 kg/m2 (7 tuổi) lên 18,29 kg/m2 ở nữ. Trong giai đoạn này mức độ tăng chiều cao ít hơn so với tăng cân nặng. Chỉ số BMI cao nhất ở học sinh nam và học sinh nữ là 6 tuổi. Từ 6 đến 10 tuổi, chỉ số BMI của học sinh nam và học sinh nữ đều có sự chênh lệch. Ở 6-7 tuổi, chỉ số BMI của nam cao hơn nữ với mức chênh lệch là 0,76 kg/m2 và 0,71 kg/m2 nhưng không có sự khác biệt rõ (p > 0,05). Ở các tuổi 8, 9, 10 chỉ số BMI của nam cao hơn nữ với mức chênh lệch lần lượt là 1,14 kg/m2, 0,96 kg/m2, 1,22kg/m2 với mức chênh lệch có ý nghĩa thống kê. Đối chiếu với bảng BMI CDC chuẩn dành cho trẻ em từ 2-20 tuổi, kết quả phân bố học sinh theo thể trạng được trình bày qua bảng 5. Bảng 5: Phân bố của học sinh từ 6-10 tuổi theo thể trạng Bảng 5 cho thấy, chỉ số BMI ở mức suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ đáng quan tâm (5,70% ở nam và 8,91% ở nữ). Ở học sinh nữ, tỉ lệ suy dinh dưỡng có xu hướng cao hơn học sinh nam và đáng báo động ở 7 tuổi (10,88%) và 8 tuổi (12,77%). Chỉ số BMI ở mức bình thường chiếm tỉ lệ cao và đều đạt trên 50% (50,78% ở nam, 56,91% ở nữ). Chỉ số BMI ở 47
  6. Journal of Thu Dau Mot University, No 5 (24) – 2015 mức có nguy cơ béo phì và béo phì ở các độ tuổi đều chiếm tỉ lệ khá cao. Trung bình của lứa tuổi tiểu học từ 6-10 tuổi: ở nam có tỉ lệ béo phì là 25,22 % và nguy cơ béo phì là 18,31 %; ở nữ thì tỉ lệ này lần lượt là : 18,91% và 15,27%. Như vậy, qua sự phân bố thể trạng của học sinh theo chỉ số BMI cho thấy ở thành phố Thủ Dầu Một có tỉ lệ học sinh béo phì thấp hơn tỉ lệ này ở thành phố Hồ Chí Minh (21,1%) và tỉ lệ học sinh suy dinh dưỡng cao hơn tỉ lệ này ở thành phố Hồ Chí Minh (3,5%) [7]. Hình 4: Đồ thị thể hiện tỷ lệ phân bố học sinh nam, nữ 6-10 tuổi theo thể trạng 3.5. Chỉ số Pignet của học sinh Kết quả nghiên cứu chỉ số Pignet được trình bày ở bảng 6 và hình 5. Các số liệu ở bảng 6 và hình 5 cho thấy, chỉ số Pignet của học sinh biến đổi theo quy luật chung là tăng trong giai đoạn đầu, giảm ở giai đoạn sau. Ranh giới giữa hai giai đoạn này là 9 tuổi. Chỉ số Pignet biến đổi theo lứa tuổi là do các chỉ số chiều cao, cân nặng và vòng ngực của học sinh tăng không giống nhau. Ở giai đoạn đầu, mức tăng chiều cao nhanh hơn mức tăng cân nặng và vòng ngực nên chỉ số Pignet tăng dần. Còn ở giai đoạn sau, mức tăng chiều cao chậm hơn mức tăng vòng ngực và cân nặng nên chỉ số Pignet giảm xuống. Cụ thể, ở học sinh nam chỉ số Pignet tăng từ 30,68 lúc 6 tuổi lên 32,20 lúc 9 tuổi và giảm xuống còn 27,79 ở 10 tuổi, mức giảm trung bình hàng năm là 0,72. Học sinh nữ có chỉ số Pignet tăng từ 33,05 lúc 6 tuổi lên 37,40 lúc 9 tuổi và giảm xuống còn 36,97 ở 10 tuổi, mức giảm trung bình hàng năm là -1,15. Bảng 6: Chỉ số Pignet của học sinh theo tuổi và giới tính Ở cùng một lứa tuổi, chỉ số Pignet của học sinh nam và của học sinh nữ không giống nhau. Từ 6 đến 7 tuổi, chỉ số Pignet của nam thấp hơn nữ nhưng không có sự khác biệt rõ (p>0,05). Lúc 8 tuổi, chỉ số Pignet của nam cũng thấp hơn của nữ với mức chênh lệch là 48
  7. Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 5 (24) – 2015 4,38 và mức chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Lúc 9 tuổi, chỉ số Pignet của nam thấp hơn của nữ với mức chênh lệch là 5,2 và mức chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Ở 10 tuổi, chỉ số Pignet của nam thấp hơn của nữ với mức chênh lệch là 9,18 và mức chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Hình 5: Đồ thị biểu diễn chỉ số Pignet của học sinh theo tuổi và giới tính Nhìn chung, chỉ số Pignet của học sinh bình là 2,54 cm/năm; ở nữ 60,53cm lúc 6 tuổi nam thấp hơn của học sinh nữ theo từng độ lên 66,92cm lúc 10 tuổi, tăng trung bình tuổi từ 6 đến 10 tuổi và mức chênh lệch có 1,59cm/năm. Chỉ số BMI tăng dần theo lứa sự khác biệt rõ là từ 8 đến 10 tuổi. Nam học tuổi (ở nam là 18,08 kg/m2 lúc 6 tuổi lên sinh ở các độ tuổi đều có thể lực khỏe (24 < 19,51 kg/m2 lúc 10 tuổi). Chỉ số BMI ở mức chỉ số pignet < 35); ở nữ giai đoạn 6-7 tuổi suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ đáng kể (5,70% ở có thể lực khỏe, còn giai đoạn 8-10 tuổi có nam và 8,91% ở nữ), chỉ số BMI ở mức béo thể lực trung bình (35 < chỉ số pignet < 41). phì chiếm tỉ lệ khá cao (25,22% ở nam và 4. KẾT LUẬN 18,91% ở nữ). Chỉ số Pignet của học sinh Chiều cao đứng, cân nặng, vòng ngực tăng trong giai đoạn 6-9 tuổi, giảm trong giai trung bình của học sinh tăng dần theo lứa đoạn 9-10 tuổi. Nam và nữ ở các độ tuổi đều tuổi: có thể lực khỏe và thể lực trung bình. – Chiều cao đứng: ở nam tăng từ Chỉ số BMI ở học sinh tiểu học trên địa 118,77cm lúc 6 tuổi lên 138,54cm lúc 10 bàn Thành phố Thủ Dầu Một ở mức có tuổi, tăng trung bình 4,94cm/năm; ở nữ tăng nguy cơ béo phì và béo phì chiếm tỉ lệ khá từ 118,04cm lúc 6 tuổi lên 139,99cm lúc 10 cao, chỉ số BMI ở mức suy dinh dưỡng tuổi, tăng trung bình 5,49cm/năm. chiếm tỉ lệ đáng kể. Vì vậy, cần tăng cường công tác truyền thông, giáo dục cung cấp – Cân nặng trung bình: ở nam 25,65kg kiến thức và xây dựng hành vi dinh dưỡng lúc 6 tuổi lên 38,12kg lúc 10 tuổi, tăng trung hợp lý thông qua việc triển khai tốt chương bình 3,12 kg/năm; ở nữ 24,72kg lúc 6 tuổi trình dinh dưỡng học đường. Sự phát triển đến 36,15kg lúc 10 tuổi, tăng trung bình 2,86 thể lực của học sinh hiện nay có nhiều thay kg/ năm. đổi. Vì vậy, các chỉ số này cần được nghiên – Vòng ngực trung bình: ở nam 61,89cm cứu thường xuyên ở mỗi địa phương trong lúc 6 tuổi lên 72,08cm lúc 10 tuổi, tăng trung từng khoảng thời gian nhất định. 49
  8. Journal of Thu Dau Mot University, No 5 (24) – 2015 RESEARCH ON PRIMARY PUPILS’ PHYSICAL HEALTH IN THU DAU MOT CITY, BINH DUONG PROVINCE Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thuy Hiep Thu Dau Mot University ABSTRACT The research was conducted on 1127 pupils at the age from 6 to 10 years old in Thu Dau Mot city, Binh Duong province. The results show that physical health data of pupils increase continuously from 6 to 10 years old. However, physical development happens differently according to their ages and sexes. Height, weight and bust of pupils get the fastest development at the period of age of 9 and 10. In the studied group, most students have normal nutritional status (boys accounting 50,78% and girls accounting 56,91%). BMI index at malnutrition accounts for interest rates (5,70% in boys and 8,91% in girls), and the index of BMI obesity takes at the relatively high proportion (25,22% in boys and 18,91% girls). The Pignet index of pupils increases in the initial stage (6-9 years old): from 30,68 to 32,20 in boys; from 33,05 to 37,40 in girls, and decreases in the following period (9-10 years old): from 32,20 to 27,79 in boys; 37,40 to 36,97 in girls. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Hữu Chỉnh và cs (1996), Báo cáo thực hiện điều tra một số chỉ tiêu nhân trắc ở người Việt Nam trên 7 tuổi ở Hải Phòng, Chương trình điều tra cơ bản đặc điểm cơ bản của người Việt Nam ở thập kỷ 90, Trường Đại học Y khoa Hà Nội. [2] Trần Văn Dần và cs (1997), Một số nhận xét về phát triển thể lực của học sinh lứa tuổi 8 đến 14 tuổi trên một số vùng dân cư miền Bắc Việt Nam trong thập kỷ 90, Bàn về đặc điểm tăng trưởng của người Việt Nam, Đề tài KX 07-07, Hà Nội. [3] Nguyễn Điểm và cs (2006), Đặc điểm tăng trưởng của trẻ em trước tuổi đến trường ở 3 vùng sinh thái (thành phố, nông thôn và miền núi) tỉnh Bình Định, Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ, Trường Đại học Quy Nhơn. [4] Tạ Thúy Lan, Đàm Phượng Sào (1998), Sự phát triển thể lực của học sinh một số trường tiểu học và trung học cơ sở ở tỉnh Hà Tây, Thông báo Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [5] Trần Thị Lan, Lê Thị Tám (2012), Nghiên cứu một số chỉ số thể lực của học sinh từ 12-18 tuổi ở huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, Báo cáo khoa học về nghiên cứu và giảng dạy Sinh học ở Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [6] Trần Thị Loan (2002), Nghiên cứu một số thể lực và trí tuệ của học sinh từ 6-17 tuổi tại quận Cầu Giấy, Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [7] Trung tâm dinh dưỡng Thành phố Hồ Chí Minh (2014), “Dinh dưỡng trẻ em: Tiếp cận từ cộng đồng, trường học và bệnh viện”, Hội nghị dinh dưỡng thành phố Hồ Chí Minh mở rộng lần thứ 3. [8] Mei Z, Grummer-Strawn LM, Pietrobelli A, Goulding A, Goran MI, Dietz WH (2002), Validity of body mass index compared with other body-composition screening indexes for the assessment of body fatness in children and adolescents, American Journal of Clinical Nutrition; 7597–7985. 50