Nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực bậc cao về quản trị văn phòng phục vụ yêu cầu cải cách hành chính, đổi mới và hội nhập ở Việt Nam

pdf 10 trang hapham 1940
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực bậc cao về quản trị văn phòng phục vụ yêu cầu cải cách hành chính, đổi mới và hội nhập ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_va_dao_tao_nguon_nhan_luc_bac_cao_ve_quan_tri_van.pdf

Nội dung text: Nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực bậc cao về quản trị văn phòng phục vụ yêu cầu cải cách hành chính, đổi mới và hội nhập ở Việt Nam

  1. NGHIÊN CỨU VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC BẬC CAO VỀ QUẢN TRỊ VĂN PHÒNG PHỤC VỤ YÊU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH, ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP Ở VIỆT NAM PGS.TS VŨ THỊ PHỤNG Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng Trường Đại học KHXH&NV Đại học Quốc gia Hà Nội 1.Quan niệm về Văn phòng và Quản trị văn phòng Văn phòng (theo nghĩa Hán -Việt)1 và office (theo nghĩa tiếng Anh)2 đều là từ chỉ khu vực hoặc nơi làm việc với văn bản, giấy tờ/ hoặc nơi thực hiện các hoạt động nghiệp vụ về hành chính. Hiện nay, văn phòng (office) là từ phổ biến trên thế giới, được dùng để chỉ khu vực/ hoặc bộ phận quản lý hành chính của các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp. Theo nghĩa rộng, văn phòng là nơi/hoặc khu vực diễn ra các hoạt động quản lý hành chính (hoạt động tổ chức, điều hành) của các cơ quan, doanh nghiệp. Đối với các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức chính trị, xã hội thì Văn phòng chính là toàn bộ khu vực làm việc hành chính (đồng nghĩa với cơ quan). Nhưng đối với các doanh nghiệp, Văn phòng là khu vực khác biệt với khu vực sản xuất (nhà máy, công xưởng) và khu vực kinh doanh (nơi bán hàng). Một số doanh nghiệp có thể không có khu vực sản xuất, nhưng không có doanh nghiệp nào không có khu vực Văn phòng. Như vậy, Văn phòng là khu vực có ở tất cả các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp. Đây là nơi làm việc của bộ máy lãnh đạo và quản lý hành chính, là trụ sở liên lạc và 1 Theo Thiều Chửu (Nguyễn Hữu Kha) trong Hán Việt tự điển, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, năm 2005: Văn có nghĩa là văn từ/ văn tự (ngày nay gọi là văn bản, giấy tờ)/ Phòng có nghĩa là ngăn, buồng (hiểu rộng ra là khu vực, nơi, địa điểm). Như vậy, Văn phòng được hiểu là nơi làm việc của những người mà công cụ, phương tiện chủ yếu của họ là văn bản, giấy tờ, thông tin (trang 200, 234). 2 office : place of business where professional or clerical duties are performed: một địa điểm làm việc, nơi thực hiện các hoạt động nghiệp vụ về hành chính; Ngoài ra, văn phòng còn bao gồm tập hợp toàn bộ các cán bộ, nhân sự làm việc trong địa điểm ấy. wordnetweb.princeton.edu/perl/webwn.
  2. giao dịch chính thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp với các cơ quan, đối tác bên ngoài. Văn phòng là nơi thu thập và xử lý thông tin, là nơi bộ máy lãnh đạo bàn thảo và ban hành các quyết định quản lý. Văn phòng cũng là nơi tổ chức thực hiện và theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện các quyết định quản lý đã được ban hành. Văn phòng còn là bộ phận tham mưu đắc lực cho các cấp lãnh đạo và quản lý trong việc tổ chức, điều hành. Với vị thế đó, Văn phòng được coi là “Bộ tổng tham mưu”, là bộ phận “đầu não”của các cơ quan, doanh nghiệp. Theo nghĩa hẹp, Văn phòng là từ để chỉ một bộ phận trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Bộ phận này nằm trong khối / hoặc khu vực văn phòng theo nghĩa rộng ở trên. Tùy theo quy mô và phạm vi hoạt động, bộ phận này ở các cơ quan có thể được gọi là văn phòng hoặc gọi là Phòng Hành chính3. Đây là bộ phận không thể thiếu trong tất cả các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp. Theo các quy định hiện hành, Bộ phận văn phòng hoặc Phòng hành chính của các cơ quan có 2 chức năng cơ bản: - Chức năng tổng hợp thông tin và tham mưu cho lãnh đạo và các bộ phận quản lý khác về các biện pháp tổ chức, điều hành hoạt động của cơ quan, doanh nghiệp; - Chức năng phục vụ (hậu cần) nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết như cơ sở vật chất, phương tiện và điều kiện làm việc cho cơ quan, doanh nghiệp4. Nhưng dù là nghĩa hẹp hay nghĩa rộng thì văn phòng luôn là nơi diễn ra các hoạt động quản lý, điều hành thông qua việc thu thập, xử lý thông tin; bàn thảo và ban hành các quyết định quản lý hành chính. Văn phòng (theo nghĩa rộng) gồm nhiều bộ phận khác nhau, tất cả đều có chức năng tổng hợp thông tin và tham mưu cho lãnh đạo cơ quan về những vấn đề thuộc lĩnh vực được giao phụ trách. Riêng bộ phận văn phòng (theo nghĩa hẹp) thì có chức năng tổng hợp thông tin chung và tham mưu các biện pháp về tổ chức, điều hành hoạt động; đồng thời có thêm chức năng đặc biệt là đảm bảo cơ sở vật chất và điều kiện làm việc của cơ quan. 3 Ở một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quy mô nhỏ, một bộ phận thường phụ trách nhiều vấn đề, nên bộ phận văn phòng thường có tên là Phòng Hành chính -Tổng hợp/ Phòng Hành chính - Tổ chức/ Phòng hành chính - Nhân sự 4 Trong văn bản của các cơ quan đều ghi rõ chức năng của văn phòng là tham mưu tổng hợp và hậu cần (phục vụ).
  3. Như vậy, vì văn phòng là khu vực hoặc bộ phận hiện hữu trong tất cả các cơ quan, doanh nghiệp, nên vấn đề Quản trị văn phòng (Office management) – được hiểu là việc tổ chức, điều hành hoạt động của toàn bộ khu vực hoặc trong phạm vi bộ phận văn phòng sao cho hiệu quả là nhiệm vụ và trách nhiệm của tất cả những người đứng đầu các cơ quan, doanh nghiệp. Nhưng, do tính chất, đặc điểm và những khác biệt của khu vực văn phòng5 so với các khu vực khác nên vấn đề quản trị văn phòng là một nhiệm vụ không đơn giản, thậm chí còn rất phức tạp. Quản trị văn phòng đòi hỏi những người đứng đầu phải có kiến thức cơ bản/ hoặc chuyên sâu về quản trị và có khả năng vận dụng hiệu quả vào việc tổ chức, điều hành hoạt động của khu vực hoặc bộ phận văn phòng. Ví dụ: - Đối với các cơ quan nhà nước, quản trị văn phòng chính là việc tổ chức, điều hành hoạt động của toàn cơ quan (được hiểu là các hoạt động quản lý hành chính để phân biệt với quản lý chuyên môn) - Đối với các doanh nghiệp, việc tổ chức, điều hành các nhân viên làm việc ở khu vực văn phòng sẽ khác với việc điều hành các công nhân trong công xưởng / hoặc các nhân viên bán hàng ở khu vực kinh doanh. Do đây là nhiệm vụ phức tạp, nên các cơ quan, doanh nghiệp càng có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng thì những người đứng đầu càng cần đến những người được đào tạo chuyên sâu để tham mưu và giúp họ triển khai các biện pháp quản trị văn phòng hiệu quả6. Chính vì vậy, đổi với các cơ quan, doanh nghiệp nước ngoài, quản trị văn phòng được coi là một lĩnh vực khoa học xã hội và việc đào tạo nguồn nhân lực về quản trị văn phòng là một nhu cầu tất yếu. Trong khi đó, ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về Văn phòng và Quản trị văn phòng. Trong thực tế, rất nhiều người chỉ quan niệm văn phòng theo nghĩa hẹp (Bộ phận văn phòng hoặc Phòng hành chính), đồng thời nhìn 5 Nếu đứng ở góc độ các doanh nghiệp để xem xét thì Khu vực Văn phòng có sự khác biệt rất căn bản so với Khu vực Sản xuất và Khu vực Kinh doanh (về chức năng, về bộ máy, về nhân lực và tính chất hoạt động) 6 Trong tiếng Anh, Office manager là từ để chỉ chức danh của những người được đào tạo và có chuyên môn sâu về quản trị văn phòng, đảm nhận chức năng tham mưu và giúp lãnh đạo thực hiện các biện pháp tổ chức, điều hành hoạt động của khu vực/ hoặc bộ phận văn phòng-
  4. vào những công việc cụ thể mà bộ phận này đang thực hiện7 để cho rằng bộ phận văn phòng không có vị thế quan trọng so với các bộ phận khác trong cơ quan và nhân lực làm việc ở bộ phận này không cần có trình độ cao, nên ai làm cũng được, không cần đào tạo/ hoặc nếu có cũng không cần đào tạo ở bậc cao (đại học và sau đại học). Từ cách nhìn nhận như vậy, nên hiện vẫn có quan niệm cho rằng Quản trị văn phòng chỉ là lĩnh vực thiên về đào tạo kỹ năng nghề, tính học thuật không cao (?!). Tuy nhiên, công cuộc đổi mới đã đưa đến những quan niệm và nhận thức mới ở Việt Nam về Văn phòng và Quản trị văn phòng. Sự xuất hiện của các cơ quan, doanh nghiệp nước ngoài và nhu cầu tuyển dụng cũng như những đòi hỏi cao về số lượng và chất lượng, cách đánh giá và trả lương cao đối với nguồn nhân lực về quản trị văn phòng và yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính đã dần dần làm thay đổi nhận thức của xã hội và các nhà quản lý. Nếu cách đây 20 năm về trước, Quản trị văn phòng và Nhà quản trị văn phòng còn là một từ, một chức danh mới, thì đến nay những khái niệm này đã và đang được dùng phổ biến ở Việt Nam. Có thể nói, những quan niệm và nhận thức mới về văn phòng và quản trị văn phòng chính là cơ sở cho sự hình thành một lĩnh vực khoa học, một ngành đào tạo đang có xu hướng phát triển mạnh ở nước ta. 2. Nhu cầu và tình hình nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực về quản trị văn phòng ở Việt Nam hiện nay 2.1. Về đào tạo: Nhận thức được xu hướng và tính cấp thiết của việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về quản trị văn phòng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thời kỳ đổi mới và hội nhập, đặc biệt là việc triển khai thực hiện chủ trương cải cách hành chính, ngay từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đã là cơ sở đầu tiên xây dựng chương trình và giao nhiệm vụ tuyển sinh đào tạo nhân lực bậc đại học về lĩnh vực 7 Hiện nay, rất nhiều Văn phòng và Phòng Hành chính của các cơ quan chỉ tập trung vào các công việc phục vụ, hậu cần, không tập trung cho việc tổng hợp thông tin và tham mưu cho lãnh đạo các biện pháp quản lý, điều hành, nên thường bị lãnh đạo coi là bộ phận không quan trọng vì chỉ giải quyết những việc sự vụ của cơ quan.
  5. này cho Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng8. Từ đó đến nay, Khoa đã không ngừng nghiên cứu và bổ sung vào chương trình nhiều môn học mới, đổi mới phương pháp đào tạo theo hướng nâng cao hệ thống lý luận về khoa học quản trị và quản trị văn phòng, tăng cường trang bị các kỹ năng để khi ra trường, sinh viên có thể nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của các cơ quan, đặc biệt là các doanh nghiệp. Đến nay, chất lượng của các sinh viên sau khi ra trường đã được khẳng định trong thực tế 9, góp phần khẳng định vị thế của một cơ sở đào tạo tiên phong và chất lượng cao trong lĩnh vực quản trị văn phòng ở Việt Nam. Tuy nhiên, nguồn nhân lực được đào tạo từ Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng thuộc ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (Hà Nội) chưa thể đáp ứng nhu cầu cao về lĩnh vực này trong cả nước. Chính vì vậy trong những năm qua, tại Khoa Lịch sử của ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh cũng đã mở thêm ngành Lưu trữ học và Quản trị văn phòng. Ngoài ra, ngành học này hiện đang được đào tạo ở rất nhiều trường cao đẳng trong cả nước. Căn cứ vào nhu cầu xã hội và nhận thấy xu hướng phát triển của lĩnh vực khoa học này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công nhận và cấp mã ngành đào tạo về Quản trị văn phòng ở bậc đại học và sau đại học10. 2.2. Về mặt nghiên cứu Cho đến nay do nhiều nguyên nhân, những đề tài và công trình nghiên cứu về quản trị văn phòng ở Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, nếu không muốn nói là rất ít. Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, hiện nay ở Việt Nam có khoảng trên 10 đầu sách, trong đó khoảng ½ là sách dịch hoặc biên soạn từ sách nước ngoài có nội dung liên quan đến Quản trị văn phòng11. Năm 2005, Trường Đại học Khoa học Xã 8 Năm 1996, Khoa Văn thư – Lưu trữ được thành lập trên cơ sở tách và phát triển Bộ môn Lưu trữ từ Khoa Lịch sử. Đến năm 1998, Khoa được đổi tên là Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng, phạm vi đào tạo của khoa được mở rộng thêm 9 Hiện nay, nhiều cựu sinh viên của Khoa đã trở thành các nhà quản trị văn phòng doanh nghiệp, cán bộ phụ trách Bộ phận văn phòng ở các cơ quan, tổ chức. Đặc biệt Khoa là nơi cung cấp đội ngũ giảng viên về lĩnh vực quản trị văn phòng cho các cơ sở đào tạo cao đẳng và đại học trong cả nước. 10 Mã đào tạo ngành Quản trị văn phòng: bậc đại học: 52340404 và bậc cao học: 11 Xem thêm: - Phạm Hưng, Nguyễn Văn Đáng, Lê Văn In: Quản trị văn phòng doanh nghiệp, NXB Chính trị quốc gia, H, 1995 - Mike Harvey (Cao Xuân Đỗ dịch): Quản trị hành chính văn phòng, Nhà xuất bản (NXB) Thống kê, Hà Nội, năm 1996 - Nguyễn Hữu Thân: Quản trị hành chính văn phòng, NXB Thống kê, Hà Nội, năm 1996
  6. hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội có tổ chức một Hội thảo khoa học với chủ đề “Quản trị văn phòng - Lý luận và thực tiễn”. Những tham luận của hội thảo tuy chưa đi sâu vào các vấn đề lý luận, nhưng cũng đã đặt ra và tập hợp được nhiều quan niệm cũng như cách nhìn nhận và dự báo xu hướng phát triển của lĩnh vực này ở Việt Nam. Hạn chế của hội thảo này là các tham luận mới chỉ bàn đến những vấn đề chung, hoặc quá đi sâu vào lĩnh vực quản trị văn phòng theo nghĩa hẹp mà chưa có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này theo nghĩa rộng. Ngoài ra, các tham luận cũng mới chỉ tập trung vào các vấn đề về quản trị văn phòng ở các cơ quan nhà nước mà chưa đề cập nhiều đến vấn đề quản trị văn phòng doanh nghiệp. Ngoài việc hạn chế về số lượng, các công trình nghiên cứu về Quản trị văn phòng còn nhiều bất cập về phạm vi và nội dung. Qua khảo sát các công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy các khái niệm cơ bản như: Văn phòng/ Quản trị văn phòng/ Quản trị hành chính văn phòng /Quản trị văn phòng doanh nghiệp vẫn còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất. Do đó, những vấn đề tiếp theo như chủ thể quản trị, đối tượng quản trị, nguyên tắc và phương pháp quản trị cần áp dụng cho khu vực/ hoặc bộ phận văn phòng vẫn chưa được luận giải thấu đáo. Đặc biệt là trong một số công trình nghiên cứu, khái niệm văn phòng khi thì được hiểu theo nghĩa rộng, khi thì được hiểu theo nghĩa hẹp, nên nội dung quản trị văn phòng đôi khi cũng khó phân định rành mạch. Trong khi đó, để đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển, nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực về quản trị văn phòng của các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp ở Việt Nam lại đang trong xu hướng tăng nhanh. Bên cạnh các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, nhiều chủ doanh nghiệp (trong đó có nhiều doanh nghiệp nước ngoài) mong muốn được trang bị kiến thức hoặc tuyển dụng các nhân viên có trình độ cao về lĩnh vực này để vận dụng vào thực tiễn quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam. Chính vì vậy, các khóa đào tạo ngắn hạn về quản trị văn phòng và Quản trị văn phòng doanh nghiệp đang được mở ở nhiều nơi, nhưng vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các cơ quan, doanh nghiệp. Thực tế này đòi hỏi - PTS. Đào Duy Huân, GV Nguyễn Đình Chính, Quản trị hành chính văn phòng NXB Thống kê, Hà Nội, năm 1998
  7. các trường đại học cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo nguồn nhân lực về quản trị văn phòng . 3. Đẩy mạnh và mở rộng nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực bậc cao về quản trị văn phòng ở Việt Nam để đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và cải cách hành chính Như đã phân tích ở các phần trên, Việt Nam hiện nay có hàng ngàn cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức phi Chính phủ và đặc biệt là hàng trăm ngàn doanh nghiệp đang hoạt động. Tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đều có khu vực và bộ phận văn phòng. Số lượng các nhân viên làm việc ở khu vực / bộ phận văn phòng rất lớn và càng ngày càng tăng. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để tổ chức, điều hành bộ phận này hoạt động với hiệu quả cao để có thể tác động tích cực tới sự tồn tại và phát triển bền vững của các cơ quan, doanh nghiệp – Đó là mong muốn của tất cả những người lãnh đạo và quản lý. Đây chính là cơ hội và cũng là thách thức đối với các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về quản trị văn phòng, trong đó có Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội). Với vị thế đặc biệt hiện nay - một trường ĐH hàng đầu có uy tín cao về chất lượng đào tạo, đồng thời là nơi tiên phong đào tạo nhân lực bậc cao về lĩnh vực Quản trị văn phòng, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn không thể không tận dụng cơ hội này để đẩy mạnh việc nghiên cứu và đào tạo. Từ góc độ của một đơn vị được giao nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo về lĩnh vực này, nhân dịp Hội thảo kỷ niệm 65 năm ngày thành lập trường, Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng xin đề xuất một số định hướng để có cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện trong thời gian tới. * Về mặt nghiên cứu: - Trước hết, Khoa sẽ đề xuất với Trường và Đại học Quốc gia Hà Nội, đồng thời phối hợp với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để triển khai các đề tài/ dự án nghiên cứu và khảo sát trên diện rộng để làm rõ tính chất, đặc điểm và vị trí, vai trò của khu vực/ bộ phận văn phòng trong các cơ quan, doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở cho việc phát triển ngành học về Quản trị văn phòng, đồng thời cung cấp thông tin cho việc xây dựng các giáo trình, bài giảng và xác định nhu cầu về nguồn nhân lực.
  8. Như đã trình bày ở phần trên, hiện nay những công trình nghiên cứu về văn phòng và quản trị văn phòng ở Việt Nam vẫn còn quá khiêm tốn. Vì vậy, việc nghiên cứu và khảo sát sẽ làm sáng tỏ thêm các quan điểm, nhận thức của xã hội nói chung, của đội ngũ lãnh đạo và quản lý nói riêng về tầm quan trọng của khoa học quản trị nói chung và quản trị văn phòng nói riêng. Chẳng hạn: - Cần nghiên cứu và làm rõ sự khác biệt giữa văn phòng các cơ quan nhà nước với văn phòng các tổ chức xã hội và văn phòng của các doanh nghiệp về vị trí, nguyên tắc hoạt động, cơ cấu tổ chức và đội ngũ nhân sự - Ngay trong phạm vi doanh nghiệp, để những người lãnh đạo quan tâm đến vấn đề quản trị văn phòng doanh nghiệp, các nghiên cứu và khảo sát cần làm rõ những điểm khác biệt giữa khu vực (bộ phận) văn phòng trong sự so sánh với bộ phận sản xuất và bộ phận kinh doanh. Theo chúng tôi, tuy cùng tồn tại trong một doanh nghiệp, nhưng các bộ phận này có những đặc điểm rất khác nhau, chẳng hạn: + Chức năng chính của bộ phận hành chính/ văn phòng là tổng hợp thông tin, tham mưu cho lãnh đạo về các biện pháp tổ chức, điều hành. Trong khi đó, bộ phận sản xuất lại trực tiếp làm ra sản phẩm, hàng hóa; còn bộ phận kinh doanh thì có chức năng giới thiệu, quảng bá và giao dịch để chuyển hàng hóa tới người tiêu dùng. Từ sự khác nhau về chức năng, dẫn đến những khác biệt về nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức. + Về nhân lực: làm việc ở khu vực văn phòng là toàn bộ đội ngũ lãnh đạo và các chuyên viên, cán bộ quản lý. Trong khi đó, làm việc ở khu vực sản xuất chủ yếu là đội ngũ công nhân, ở khu vực kinh doanh là các nhân viên tiếp thị, bán hàng. Về trình độ chuyên môn, các nhân viên văn phòng có những đặc điểm riêng. Hầu hết họ là những người có trình độ cao, có nhận thưc tốt, năng động, nhạy bén nhưng cũng có nhiều mong muốn, đòi hỏi khác với đội ngũ công nhân. + Về công cụ làm việc, các nhân viên văn phòng chủ yếu làm việc với văn bản, giấy tờ, thông tin; còn công nhân ở khu vực sản xuất lại làm việc với máy móc, thiết bị; nhân viên kinh doanh làm việc với hàng hóa. Vì vậy về mặt tuyển dụng và đào tạo, đối với các nhân viên văn phòng cần trang bị các kiến thức để học có đủ năng lực làm việc với thông tin, làm việc với văn bản, làm việc với con người
  9. - Thứ hai, từ những khảo sát và nghiên cứu cơ bản trên đây, khoa sẽ đẩy mạnh việc nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về khoa học quản trị nói chung và việc vận dụng lý luận vào lĩnh vực quản trị văn phòng nói riêng. Chẳng hạn: + Các nguyên tắc tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động của khu vực/ bộ phận văn phòng + Vấn đề tổ chức bộ máy làm việc của khu vực/ bộ phận văn phòng + Vấn đề tuyển dụng, bố trí và đào tạo nhân lực ở khu vực / bộ phận văn phòng + Vấn đề tạo động lực và kiểm tra, đánh giá kết quả làm việc của nhân viên văn phòng + Quy trình và phương pháp tổ chức hoạt động của khu vực văn phòng + Vấn đề quản trị hệ thống thông tin, liên lạc và tính chuyên nghiệp trong hoạt động văn phòng Khoa học quản trị nói chung và quản trị văn phòng nói riêng là một lĩnh vực có tính liên ngành cao. Vì vậy, để nghiên cứu những vấn đề nói trên, cán bộ, giảng viên của khoa cần có sự hợp tác với các cán bộ trong và ngoài trường, đồng thời cần có sự liên kết và phối hợp với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. - Thứ ba, ở các nước phát triển và ngay cả các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á như Nhật bản, Hàn quốc, Singapor. Malayxia khoa học quản trị và quản trị văn phòng đã phát triển rất mạnh. Chính vì vậy, Khoa đã xây dựng kế hoạch để đề nghị trường tổ chức một hội thảo khoa học quốc tế nhằm chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm của các nước về lĩnh vực này, đồng thời tạo điều kiện cho các hoạt động hợp tác tiếp theo. * Về đào tạo: - Tiếp tục giữ vững và phát huy vị thế của một cơ sở đào tạo bậc cao hàng đầu ở Việt Nam về Quản trị văn phòng. Mặc dù hiện nay ở Việt Nam có nhiều cơ sở đào tạo về Quản trị văn phòng nhưng chủ yếu mới phát triển ở bậc cao đẳng. Trong khi đó các trường đào tạo bậc đại học và sau đại học còn rất ít. Trong những năm qua, với vị thế tiên phong và kinh nghiệm đào tạo trong 15 năm qua, Khoa Lưu trữ
  10. học và Quản trị văn phòng đã khẳng định được uy tín và thương hiệu qua chất lượng nguồn nhân lực do khoa đào tạo. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu xã hội, Khoa cần đẩy mạnh nghiên cứu và chỉnh sửa, bổ sung chương trình đào tạo, thiết kế nhiều môn học mới, đa dạng hóa các sản phẩm đào tạo để tạo cơ hội nâng cao trình độ cho nhiều người về quản trị văn phòng, trong đó có đội ngũ lãnh đạo và quản lý. - Cùng với việc đào tạo bậc cử nhân, Khoa đang triển khai xây dựng đề án đề nghị trường và Đại học Quốc gia Hà Nội cho phép đào tạo bậc thạc sĩ ngành quản trị văn phòng. Đây là giải pháp đẩy mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về quản trị văn phòng cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Đối tượng theo học thạc sĩ không chỉ là những sinh viên tốt nghiệp cử nhân mà cần mở rộng đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, đặc biệt là những người đã và đang trực tiếp phụ trách khu vực/ bộ phận văn phòng. - Để mở rộng phạm vi và quy mô đào tạo, Khoa chủ trương phát triển sự hợp tác với đội ngũ các nhà quản trị văn phòng trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thông qua hình thức phối hợp nghiên cứu (như đã nói ở trên); thỉnh giảng và hướng dẫn các sinh viên, học viên cao học. - Ngoài ra, khoa đang xúc tiến việc mở rộng quan hệ hợp tác và liên kết với các trường đại học trong khu vực và trên thế giới - những địa chỉ có nhiều kinh nghiệm và uy tín trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về quản trị văn phòng theo hình thức 2+2 hoặc 3+1, đặc biệt là các khóa đào tạo ngắn hạn có thăm quan và trao đổi thực tế giữa các bên. Hy vọng trong thời gian tới, với sự quan tâm của Trường và Đại học quốc gia Hà Nội, sự hợp tác và giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, lĩnh vực và ngành học Quản trị văn phòng sẽ tiếp tục phát triển để cung cấp nguồn nhân lực bậc cao, góp phần thúc đẩy sự nghiệp cải cách hành chính và đổi mới, hội nhập ở Việt Nam./.