Nội dung cơ bản về giao dịch bảo đảm (Phần 2)

pdf 14 trang hapham 2160
Bạn đang xem tài liệu "Nội dung cơ bản về giao dịch bảo đảm (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnoi_dung_co_ban_ve_giao_dich_bao_dam_phan_2.pdf

Nội dung text: Nội dung cơ bản về giao dịch bảo đảm (Phần 2)

  1. 13 + Nếu TSBĐ chưa bị xử lý thì bên nhận bảo đảm bị mất quyền đối với tài sản đó, trừ trường hợp “TSBĐ là tài sản mua trả chậm, trả dần, tài sản thuê có thời hạn từ một năm trở lên của doanh nghiệp, cá nhân có đăng ký kinh doanh gồm máy móc, thiệt bị hoặc động sản khác không thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu và hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê :  Được đăng ký tại cơ quan đăng ký GDBĐ có thẩm quyền trong thời hạn mười lăm (15) ngày, kể từ ngày giao kết hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê thì bên bán có bảo lưu quyền sở hữu, bên cho thuê có thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất khi xử lý TSBĐ;  Nếu không đăng ký hoặc đăng ký sau thời hạn trên và sau thời điểm GDBĐ đã đăng ký thì bên nhận bảo đảm được coi là bên nhận bảo đảm ngay tình và có thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất khi xử lý TSBĐ.” Dẫn giải : Trường hợp ngoại lệ nêu trên được quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo đảm ngay tình, lưu ý rằng phải hội đủ các yếu tố sau : (1) Bên bảo đảm là doanh nghiệp, cá nhân có đăng ký kinh doanh; (2) Tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là tài sản mà bên bảo đảm có quyền chiếm hữu hợp pháp thông qua các giao dịch mua trả chậm, trả dần và thuê tài sản có thời hạn từ một năm trở lên; (3) Tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là máy móc, thiết bị hoặc động sản khác không thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu. Trong trường hợp này, chủ sở hữu chỉ có quyền đòi lại tài sản hoặc được hưởng thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất từ số tiền thu được khi xử lý tài sản tùy thuộc vào một trong các trường hợp sau : không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Điều 257 và Điều 258 của Bộ luật này. Điều 257 Bộ Luật dân sự - Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu. Điều 258 Bộ Luật dân sự - Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
  2. 14 (a) Bên nhận bảo đảm không ngay tình : nếu tổ chức, cá nhân nhận bảo đảm bằng tài sản mua trả chậm. trả dần, tài sản thuê sau thời điểm hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê đã được đăng ký tại cơ quan đăng ký GDBĐ có thẩm quyền. (b) Bên nhận bảo đảm ngay tình nhưng GDBĐ chưa có giá trị pháp lý đối với người thứ ba tại thời điểm chủ sở hữu đòi lại tài sản; (c) Bên nhận bảo đảm ngay tình và GDBĐ đã có giá trị pháp lý đối với người thứ ba tại thời điểm chủ sở hữu đòi lại tài sản, nhưng hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê được đăng ký tại cơ quan đăng ký GDBĐ có thẩm quyền trong thời hạn mưới lăm (15) ngày, kể tử ngày giao kết. f. Mô tả về tài sản bảo đảm Việc mô tả chung về TSBĐ không ảnh hưởng đến hiệu lực của GDBĐ, nhưng : - Chỉ phù hợp trong việc áp dụng mô tả TSBĐ là động sản, và theo đó, những mô tả chung như là “toàn bộ phương tiện giao thông cơ giới của con nợ hiện có và sẽ hình thành trong tương lai”, “toàn bộ thiết bị văn phòng của con nợ”, “các quyền đòi nợ, tài khoản phải thu của con nợ”, đều được coi là hợp lệ và không ảnh hưởng đến hiệu lực của GDBĐ. Tuy nhiên, trường hợp TSBĐ là phương tiện giao thông cơ giới (không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình SXKD), thì việc không mô tả số khung, số máy của phương tiện đó khi đăng ký GDBĐ sẽ làm bên nhận bảo đảm mất quyền ưu tiên so với người mua, người nhận trao đổi tài sản đó một cách ngay tình. - Không phù hợp trong việc áp dụng đối với việc nhận bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, nhà ở, tàu bay, tàu biển là do pháp luật chuyên ngành có quy định chi tiết về việc mô tả đối tượng của hợp đồng. 2. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm a. Thời điểm có hiệu lực GDBĐ được giao kết hợp pháp có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết – là thời điểm được xác định theo Điều 404 Bộ Luật dân sự 11, trừ khi : - Các bên có thỏa thuận khác; 11 Điều 404 Bộ Luật dân sự - Thời điểm giao kết hợp đồng dân sự 1. Hợp đồng dân sự được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. 2. Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết. 3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. 4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
  3. 15 - Cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố; - Việc thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp; - GDBĐ có hiệu lực kể tử thời điểm công chứng hoặc chứng thực trong trường hợp pháp luật có quy định (thí dụ như trường hợp thế chấp nhà ở). b. Hiệu lực của giao dịch bảo đảm đối với bên bảo đảm là pháp nhân được tổ chức lại - Bên bảo đảm là pháp nhân được tổ chức lại phải thông báo cho bên nhận bảo đảm về việc tổ chức lại pháp nhân trước khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi. Các bên thỏa thuận về việc kế thừa, thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm và GDBĐ trong quá trình tổ chức lại pháp nhân; Nếu không thỏa thuận được thì bên nhận bảo đảm có quyền lựa chọn một trong các phương thức giải quyết sau : + Yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn :  Nếu con nợ đã hoàn thành nghĩa vụ, thì GDBĐ sẽ chấm dứt.  Trường hợp con nợ không thực hiện / không thực hiện được nghĩa vụ trước hạn theo yêu cầu thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý TSBĐ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; + Không yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn :  Việc kế thừa nghĩa vụ được bảo đảm sẽ được xác định theo pháp luật – thí dụ : như quy định từ Điều 150 đến Điều 155 Luật doanh nghiệp tại Chương VIII – Tổ chức lại, Giải thể và Phá sản doanh nghiệp (Xem phụ lục 1);  Việc kế thừa các nghĩa vụ trong GDBĐ sẽ được giải quyết như sau : . Trong trường hợp chia pháp nhân thì các pháp nhân mới phải liên đới thực hiện GDBĐ; . Trong trường hợp tách pháp nhân thì pháp nhân bị tách và pháp nhân được tách phải liên đới thực hiện GDBĐ; . Trong trường hợp hợp nhất, sáp nhập thì pháp nhân hợp nhất, pháp nhân sáp nhập phải thực hiện GDBĐ; . Trong trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp, chuyển đổi công ty nhà nước thì doanh nghiệp được chuyển đổi phải thực hiện GDBĐ. Và, GDBĐ đã giao kết vẩn tiếp tục có hiệu lực mà không cần thiết phải sửa đổi, bổ sung hay thay thế.
  4. 16 - Trong trường hợp GDBĐ đã đăng ký thì phải đăng ký thay đổi bên bảo đảm trong thời hạn do pháp luật quy định. Việc đăng ký thay đổi bên bảo đảm trong thời hạn do pháp luật quy định không làm thay đổi thời điểm GDBĐ có giá trị pháp lý đối với người thứ ba. c. Quan hệ giữa hiệu lực của giao dịch bảo đảm và hiệu lực của hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm Cơ sở pháp lý xác định mối quan hệ này dựa trên khoản 2 và khoản 3 Điều 410 Bộ Luật dân sự 12 và các quy định hiện hành về GDBĐ – cụ thể : - Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu, bị hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì GDBĐ chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì GDBĐ không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Điểm cần lưu ý ở đây là sự chuyển hóa nghĩa vụ được bảo đảm từ những nghĩa vụ theo thỏa thuận thành nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền. - GDBĐ vô hiệu, bị hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng (thí dụ như là hợp đồng tin dụng) có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác. 3. Công chứng, chứng thực và đăng ký giao dịch bảo đảm - Về nguyên tắc, việc công chứng hoặc chứng thực GDBĐ do các bên thỏa thuận, trừ các trường hợp buộc phải công chứng, chứng thực sau đây : + Thế chấp quyền sử dụng đất; + Thế chấp nhà ở; + Các trường hợp khác nếu pháp luật có quy định GDBĐ phải được công chứng hoặc chứng thực. - Hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật quy định công chứng hoặc chứng thực là điều kiện có hiệu lực của GDBĐ mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án quyết định buộc các bên thực hiện việc công chứng hoặc chứng 12 Điều 410 Bộ Luật dân sự - Hợp đồng dân sự vô hiệu 1. Các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu. 2. Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. 3. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.
  5. 17 thực trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì GDBĐ vô hiệu và bên có lỗi làm giao dịch vô hiệu có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. - GDBĐ bắt buộc phải đăng ký bao gồm : + Thế chấp quyền sử dụng đất; + Thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; + Thế chấp tàu bay, tàu biển; và + Thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ hoặc các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Các trường hợp còn lại sẽ được đăng ký GDBĐ khi có yêu cầu. Trình tự, thủ tục và thẩm quyền đăng ký GDBĐ thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký GDBĐ. - Cần đươc hiểu rõ sự khác biệt giữa việc đăng ký bắt buộc hay tự nguyện với giá trị pháp lý của việc đăng ký, và pháp luật hiện nay đã quy định rõ hai giá trị pháp lý cơ bản của việc đăng ký – như sau : + Đối với thế chấp quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển thì các bên phải đăng ký để GDBĐ có hiệu lực; + Ngoại trừ GDBD( liên quan đến những tài sản nêu trên, nếu thế chấp tài sản, kể cả tài sản hình thành trong tương lai hoặc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì các bên phải đăng ký để GDBĐ đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba. Như vậy, trong trường hợp này, nếu các bên không đăng ký thì GDBĐ không bị vô hiệu, nhưng các bên sẽ không được hưởng những ưu tiên do việc GDBĐ có giá trị pháp lý đối với người thừ ba mang lại. - Bảo lãnh và tín chấp là những biện pháp bảo đảm không bằng tài sản nên không thực hiện đăng ký GDBĐ. 4. Hiệu lực đối kháng của giao dịch bảo đảm (Giá trị pháp lý đối với người thứ ba) Tuy HỢP ĐỒNG là “luật” giữa các bên tham gia giao kết và “CAM KẾT, THỎA THUẬN HỢP PHÁP có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”, nhưng không có nghĩa là nó đương nhiên có giá trị điều chỉnh đối với các tổ chức, cá nhân khác, buộc họ phải tôn trọng, nhất là khi họ không thể biết về những cam kết, thỏa thuận đó. Vậy, để cho hợp đồng từ ý nghĩa là “luật” chỉ ràng buộc các bên tham giá ký kết, trở thành có giá trị ràng buộc đối với mọi tổ chức, cá nhân khác để qua đó, bảo vệ những quyền, lợi
  6. 18 ích hợp pháp được xác lập thông qua hợp đồng, cần phải công khai hóa, minh bạch hóa các quyền đối với tài sản, các giao dịch dân sự. Cụ thể là : a. Người thứ ba Về nguyên tắc, người thứ ba có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào ngoài các bên tham gia GDBĐ bằng tài sản. Tuy nhiên, trong thực tiễn khi xác lập và thực hiện GDBĐ, pháp luật thường tập trung điều chỉnh mối xung đột lợi ích liên quan đến TSBĐ giữa bên nhận bảo đảm với những đối tượng sau : - Các chủ nợ không có bảo đảm; - Các chủ nộ cùng nhận bảo đảm bằng tài sản; - Người mua, người thuê, người nhận chuyển giao TSBĐ; - Người bán trả chậm, trả dần, cho thuê tài sản mà bên bảo đảm đem đi cầm cố, thế chấp; - Người có quyền cầm giữ TSBĐ (Người sửa chữa, nâng cấp tài sản, người bảo quản tài sản). b. Phương thức xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba Phương thức xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba là đăng ký GDBD. c. Thời điểm có hiệu lực đối kháng Thời điểm có hiệu lực đối kháng là thời điểm đăng ký GDBĐ. Thời điểm đăng ký GDBĐ theo quy định của pháp luật không bị thay đổi trong trường hợp : - Thay đổi các bên tham gia GDBĐ; - Thay đổi hình thức của GDBĐ; - Thay đổi TSBĐ bằng các khoản tiền thu được, quyền yêu cầu thanh toán hoặc tài sản khác có được từ việc mua bán, trao đổi TSBĐ. d. Ý nghĩa của việc xác lập hiệu lực đối kháng - GDBĐ đã có giá trị pháp lý đối với người thứ ba (thông qua đăng ký GDBĐ) thì TSBĐ trong giao dịch đó se không bị kê biên để thực hiện nhĩa vụ khác của bên bảo đảm, trừ trường hợp ngoại lệ do pháp luật quy định (Pháp lệnh thi hành án). Do vậy, đòi hỏi bên nhận bảo đảm cần có ý thức trong việc đăng ký GDBĐ trong thời gian sớm nhất để bảo vệ một chách hiệu quả quyền lợi của mình. - Xác định thứ tự ưu tiên với các chủ nợ có bảo đảm khác; - Xác lập quyền ưu tiên với người mua, người thuê, người nhận chuyển giao TSBĐ;
  7. 19 - Có thể được ưu tiên đối với người bán trả chậm, trả dần, cho thuê tài sản mà bên bảo đảm đem đi cầm cố, thế chấp; - Ý nghĩa trong việc xác định thứ tự ưu tiên đối với các đối tượng sau : + Đối với chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm luôn được ưu tiên thanh toán; + Đối với người có quyền cầm giữ, chủ nợ có bảo đảm luôn có thứ tự ưu tiên thanh toán sau; + Đối với người mua TSBĐ là hàng hóa luân chuyển trong quá trình SXKD, người mua phương tiện giao thông cơ giới đã đăng ký GDBĐ nhưng không mô tả chi tiết số khung, số máy thì luôn trở thành chủ sở hữu tài sản đó; + Người bán trả chậm, trả dần, người cho thuê tài sản đã đăng ký giao dịch đó trong thời hạn mười lăm (15) ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng luôn được ưu tiên cao hơn so với bên nhận bảo đảm ngay tình. 5. Cầm cố tài sản a. Người thứ ba giữ tài sản cầm cố - Việc chuyển giao TSBĐ trong cầm cố là chuyển giao thực tế, do đó chỉ được coi là hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao tài sản khi bên cầm cố hoặc người thứ ba được bên cầm cố ủy quyền đã giữ tài sản. Như vậy, tài sản cầm cố có thể do bên nhận cầm cố trực tiếp giữ tài sản hoặc ủy quyền cho người thứ ba giữ tài sản. - Cần phân biệt người thứ ba giữ tài sản cầm cố và người thứ ba giữ tài sản thế chấp : + Người thứ ba giữ tài sản thế chấp phải do cả hai bên thỏa thuận và thống nhất ý kiến, đồng thời người này có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 352 và 353 Bộ Luật dân sự 13. + Người thứ ba giữ tài sản cầm cố : hoàn toàn do ý chí của bên nhận cầm cố thông qua việc ủy quyền và chịu trách nhiệm trước bên cầm cố về việc thực hiện nghĩa vụ như bên 13 Điều 352 Bộ Luật dân sự - Nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp Người thứ ba giữ tài sản thế chấp có các nghĩa vụ sau đây: 1. Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp; nếu làm mất tài sản thế chấp, làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp thì phải bồi thường; 2. Không được tiếp tục khai thác công dụng tài sản thế chấp, trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 353 của Bộ luật này, nếu việc tiếp tục khai thác có nguy cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp; 3. Giao lại tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp hoặc bên thế chấp theo thoả thuận. Điều 353 Bộ Luật dân sự - Quyền của người thứ ba giữ tài sản thế chấp Người thứ ba giữ tài sản thế chấp có các quyền sau đây: 1. Được khai thác công dụng tài sản thế chấp, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp, nếu có thoả thuận; 2. Được trả thù lao và được thanh toán chi phí bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
  8. 20 nhận cầm cố được quy định tại Điều 332 Bộ Luật dân sự 14 và các nghĩa vụ khác mà các bên đã thỏa thuận. b. Các quy định về trách nhiệm của bên nhận cầm cố - Trách nhiệm và chế tài được áp dụng đối với bên nhận cầm cố trong trường hợp tài sản cầm cố bị mất, hư hỏng, mất giá trị hoặc giảm sút gía trị; và - Xử lý trong trường hợp bên nhận cầm cố bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản cầm cố, sử dụng tài sản cầm cố để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ khác. (Quy định của pháp luật xem chú thích số 14 quy định tại Điều 332 Bộ Luật dân sự trên). Hướng xử lý : + Bên cầm cố có quyền đòi lại tài sản đó và yêu cầu bên nhận cầm cố bồi thường thiệt hại xảy ra, trừ các trường hợp sau đây :  Bên mua, bên nhận trao đổi, bên được tặng cho được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ Luật dân sự 15;  Bên mua, bên nhận trao đổi tài sản cầm cố là động sản không thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu và ngay tình theo quy định tại Điều 257 Bộ Luật dân sự 16. + Bên cầm cố có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 260 Bộ Luật dân sự 17 trong trường hợp không đòi lại được tài sản từ bên mua, bên nhận trao đổi, bên 14 Điều 332 Bộ Luật dân sự - Nghĩa vụ của bên nhận cầm cố tài sản Bên nhận cầm cố tài sản có các nghĩa vụ sau đây: 1. Bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố; nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản cầm cố thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố; 2. Không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản cầm cố; không được đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác; 3. Không được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nếu không được bên cầm cố đồng ý; 4. Trả lại tài sản cầm cố khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác. 15 Điều 247 Bộ Luật dân sự - Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu 1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó. 16 Điều 257 Bộ Luật dân sự - Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu. 17 Điều 260 Bộ Luật dân sự - Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại.
  9. 21 được tặng cho. Bên nhận cầm cố phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố trong trường hợp này theo quy định tại Điều 303 Bộ Luật dân sự 18. c. Cầm cố vận đơn, thẻ tiết kiệm, giấy tờ có giá - Vận đơn : Vận đơn là một dạng chứng từ chứng nhận quyền sở hữu tài sản, nhưng không phải là công cụ chuyển nhượng. Để bảo đảm phù hợp với tập quán thương mại quốc tế, tạo sự thông thoáng trong giao lưu thương mại, vận đơn cũng được coi là tài sản bảo đảm. Như vậy, đã cho phép các giao dịch về tài sản ghi trên vận đơn cũng có thể được tiến hành thông qua các giao dịch về vận đơn đó. Điều này cũng có nghĩa là cả vận đơn và các tài sản được ghi nhận trong vận đơn đều có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như những tài sản riêng biệt. Từ đó, sẽ dẫn đến trường hợp có người nhận bảo đảm bằng vận đơn và người khác lại nhận bảo đảm bằng các tài sản ghi nhận trong vận đơn đó. Xung đột về thứ tự ưu tiên thanh toán này được giải quyết : Bên nhận cầm cố vận đơn theo lệnh, vận đơn vô danh (bộ vận đơn đầy đủ) đương nhiên có quyền đối với hàng hóa ghi trên vận đơn đó; Nếu cả vận đơn và các tài sản được ghi nhận trong vận đơn được dùng làm tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho nhiều bên nhận bảo đảm khác nhau thì thứ tự ưu tiên thanh toán sẽ được xác định theo thời điểm GDBĐ có giá trị pháp lý với người thứ ba. - Thẻ tiết kiệm : Khi nhận cầm cố thẻ tiết kiệm, bên nhận cầm cố được quyền yêu cầu tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm phong tỏa tài khoản tiền gửi tiết kiệm của bên cầm cố. - Giấy tờ có giá : Khi nhận cầm cố giáy tờ có giá, bên nhận cầm cố có quyền yêu cầu người phát hành giấy tờ có giá hoặc Trung tâm Lưu ký chứng khoán bảo đảm quyền giám sát của bên nhận cầm cố đối với giá trị tài sản ghi trên giấy tờ đó; Nếu vi phạm cam kết nêu trên thì người phát hành giấy tờ có giá hoặc Trung tâm Lưu ký chứng khoán phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với phần giá trị tài sản ghi trên giấy tờ đó bị giảm sút, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 18 Điều 303 Bộ Luật dân sự - Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật 1. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó; nếu vật không còn hoặc bị hư hỏng thì phải thanh toán giá trị của vật. 2. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại thì phải thanh toán giá trị của vật. 3. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì ngoài việc thanh toán giá trị của vật còn phải bồi thường thiệt hại cho bên có quyền.
  10. 22 6. Thế chấp tài sản a. Bên thế chấp bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp - Bên thế chấp được bán tài sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình SXKD mà không cần phải có sự đồng ý của bên nhận thế chấp (khoản 3 Điều 349 Bộ Luật dân dự 19 ). Trong trường hợp này, + Người mua tài sản thế chấp trở thành chủ sở hữu của tài sản đó mà không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào của thỏa thuận giữa bên nhận thế chấp và bên thế chấp cũng như của hiệu lực pháp lý do việc đăng ký GDBĐ mang lại. + Bên nhận thế chấp sẽ được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng các khoản tiền thu được, quyền yêu cầu thanh toán hoặc tài sản khác có được từ việc bán tài sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình SXKD. Đây là sự thay thế đương nhiên về tài sản thế chấp mà không cần thỏa thuận. + Lưu ý : Bên thế chấp chỉ được bán tài sản như một hoạt động kinh doanh thông thường. Nếu bán tài sản có tính chất bất thường, không đúng với hoạt động kinh doanh như bán với mục đích tẩu tán, bán có sự thông đồng với người mua, thì người mua tài sản không trở thành chủ sở hữu. Bên thế chấp cũng không được tặng cho tài sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình SXKD. - Trường hợp tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình SXKD nhưng việc bán, trao đổi, tặng cho tài sản được sự đồng ý của bên thế chấp thì người mua, người nhận trao đổi, người được tặng cho có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bên nhận thế chấp và bên thế chấp tự thỏa thuận về việc thay thế TSBĐ hoặc biện pháp bảo đảm. - Ngoài những trường hợp trên, nếu bên thế chấp bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp thì bên nhận thế chấp có quyền : 19 Điều 349 Bộ Luật dân sự - Quyền của bên thế chấp tài sản Bên thế chấp tài sản có các quyền sau đây : 1. Được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản thế chấp theo thoả thuận; 2. Được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp; 3. Được bán, thay thế tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp bán tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu được hoặc tài sản hình thành từ số tiền thu được trở thành tài sản thế chấp thay thế cho số tài sản đã bán. 4. Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý. 5. Được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết; 6. Nhận lại tài sản thế chấp do người thứ ba giữ, khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
  11. 23 + Thu hồi tài sản thế chấp, hay trên phạm vi rộng tức là vẫn có quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ, trừ các trường hợp sau :  Việc mua, trao đổi tài sản được thực hiện trước thời điểm đăng ký thế chấp và bên mua, bên nhận trao đổi tài sản thế chấp ngay tình;  Bên mua, bên nhận trao đổi phương tiện giao thông đã được đăng ký thế chấp, nhưng nội dung đăng ký thế chấp không mô tả chính xác số khung và số máy của phương tiện giao thông cơ giới và bên mua, bên nhận trao đổi tài sản thế chấp ngay tình. + Có quyền đối với các khoản tiền thu được, quyền yêu cầu thanh toán hoặc tài sản khác có được từ việc mua bán, trao đổi tài sản thế chấp trở thành tài sản thê chấp thay thế cho số tài sản đã bán, trao đổi, nếu không thực hiện việc thu hồi tài sản thế chấp. - Đối với GDBĐ đã đăng ký thì bên nhận thế chấp được chủ động yêu cầu đăng ký thay đổi về TSBĐ, nếu việc thay đổi đó xuất phát từ việc đương nhiên thay thế TSBĐ. Việc đăng ký thay đổi TSBĐ trong trường hợp này không làm thay đổi tài sản thế chấp. b. Bên thế chấp cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp - Bên thế chấp có quyển cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp trong thời hạn việc thế chấp có hiệu lực nhưng phải tuân thủ các thủ tục pháp lý quy định (khoản 5 Điều 349 Bộ Luật dân sự) 20. - Quyền của bên nhận thế chấp không bị ảnh hưởng bởi hợp đồng cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp : + Bên nhận thế chấp vẫn có quyền xử lý tài sản theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật khi đến hạn và trong trường hợp đó, hợp đồng cho thuê, cho mượn tài sản đang thế chấp chấm dứt khi tài sản thế chấp bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ; 20 Điều 349 Bộ Luật dân sự - Quyền của bên thế chấp tài sản Bên thế chấp tài sản có các quyền sau đây : 1. Được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản thế chấp theo thoả thuận; 2. Được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp; 3. Được bán, thay thế tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp bán tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu được hoặc tài sản hình thành từ số tiền thu được trở thành tài sản thế chấp thay thế cho số tài sản đã bán. 4. Được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý. 5. Được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết; 6. Nhận lại tài sản thế chấp do người thứ ba giữ, khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
  12. 24 + Bên thuê, bên mượn phải giao tài sản cho bên nhận thế chấp để xử lý, trừ trường hợp bên nhận thế chấp và bên thuê, bên mượn có thỏa thuận khác. c. Đầu tư vào tài sản thế chấp - Bên thế chấp có quyền đầu tư vào tài sản thế chấp (khoản 2 Điều 349 Bộ Luật dân sự - Xem ghi chú số 20, đã dẫn chiếu nêu trên). Do đó, bên nhận thế chấp không được hạn chế bên thế chấp đầu tư hoặc người thứ ba đầu tư vào tài sản thế chấp để làm tăng giá trị tài sản đó; - Trong trường hợp phần tài sản tăng thêm do đầu tư được dùng để thế chấp cho một chủ nợ khác thì các bên nhận bảo đảm có quyền tách phần tài sản mà mình nhận bảo đảm để xử lý với điều kiện việc tách đó không làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản thế chấp so với trước khi đầu tư; nếu không tách được hoặc không đáp ứng được điều kiện nêu trên thì giải quyết như trường hợp một TSBĐ thực hiện nhiều nghĩa vụ. d. Thế chấp quyền đòi nợ - Quyền đòi nợ có thể phát sinh từ quyền yêu cầu thanh toán trong hợp đồng mua bán, cho thuê tài sản, cung cấp dịch vụ hoặc từ bất kỳ hợp đồng nào khác. Quyền đòi nợ có thể là quyền đối với khoản nợ đã tồn tại hoặc quyền đòi nợ hình thành trong tương lai; - Bên có quyền đòi nợ được thế chấp một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ mà không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ trả nợ; - Bên nhận thế chấp quyền đòi nợ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán trực tiếp cho mình khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Tuy nhiên, bên nhận thế chấp cũng có thể thu nợ thông qua bên thế chấp và kiểm soát việc đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, hoặc áp dụng các biện pháp khác mà các bên thỏa thuận; - Trường hợp bên nhận thế chấp trực tiếp thu hồi nợ thì có nghĩa vụ cung cấp thông tin về việc thế chấp quyền đòi nợ khi bên có nghĩa vụ trả nợ yêu cầu; Nếu bên nhận thế chấp không cung cấp thông tin thì bên có nghĩa vụ trả nợ có quyền từ chối thanh toán cho bên nhận thế chấp; - Trường hợp quyền đòi nợ được chuyển giao theo quy định tại Điều 309 Bộ Luật dân sự 21 thì phải thực hiện đăng ký theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp (đăng ký tương tự đăng ký 21 Điều 309 Bộ Luật dân sự - Chuyển giao quyền yêu cầu 1. Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thoả thuận, trừ những trường hợp sau đây : a) Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín; b) Bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thoả thuận không được chuyển giao quyền yêu cầu; c) Các trường hợp khác do pháp luật quy định. 2. Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu
  13. 25 GDBĐ bằng động sản). Nếu một quyền đòi nợ đã được chuyển giao mà sau đó lại được đem thế chấp hoặc ngược lại thì thứ tự ưu tiên giữa bên nhận chuyển giao quyền đòi nợ và bên nhận thế chấp quyền đòi nợ được xác định theo thới điểm đăng ký các giao dịch đó tại cơ quan đăng ký GDBĐ có thẩm quyền (các Trung tâm Đăng ký thuộc Cục Đăng ký quốc gia GDBĐ, Bộ Tư pháp). e. Thế chấp tài sản đang cho thuê - Pháp luật hiện hành không hạn chế việc nhận thế chấp đối với tài sản đang được cho thuê (Điều 345 Bộ Luật dân sự) 22; - Bên thế chấp có trách nhiệm thông báo về việc đang cho thuê tài sản cho bên nhận thế chấp; - Nếu tài sản đang cho thuê bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ thì về nguyên tắc, việc xử lý tài sản đó không được ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên thuê (bên thuê được tiếp tục thuê cho đến khi hết thời hạn thuê theo hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác). 7. Bảo lãnh a. Bảo lãnh là quan hệ hai bên - Khái niệm : (Điều 361 Bộ Luật dân sự) 23 Bảo lãnh là cam kết giữa người thứ ba (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh). Như vậy, + Việc xác lập quan hệ bảo lãnh không cần có thỏa thuận ý chí với bên được bảo lãnh, thậm chí, có khi không cần phải cho bên được bảo lãnh biết; + Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là quan hệ độc lập, có thể phát sinh từ thỏa thuận giữa hai bên (đặc biệt là trong trường hợp bảo lãnh có thù lao) hoặc phát sinh từ quyền yêu cầu hoàn trả của bên bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh. cầu. Người chuyển giao quyền yêu cầu phải báo cho bên có nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu. Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 22 Điều 345 Bộ Luật dân sự - Thế chấp tài sản đang cho thuê Tài sản đang cho thuê cũng có thể được dùng để thế chấp. Hoa lợi, lợi tức thu được từ việc cho thuê tài sản thuộc tài sản thế chấp, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. 23 Điều 361 Bộ Luật dân sự - Bảo lãnh Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
  14. 26 - Quy định nghĩa vụ thông báo về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh : Quan hệ bảo lãnh có tính chất độc lập với quan hệ nghĩa vụ giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh, nên bên nhận bảo lãnh có trách nhiệm thông báo cho bên bảo lãnh biết về việc đã phát sinh căn cứ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. + Trường hợp bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ, nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên nhận bảo lãnh phải nêu rõ lý do trong thông báo; + Trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì thời điểm thông báo được tính là thời điểm bắt đầu của thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. b. Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân - Thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh : Tính chất bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của biện pháp bảo lãnh xuất phát từ quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thay của bên nhận bảo lãnh và được thỏa mãn thông qua việc bên bảo lãnh thực hiện yêu cầu đó. Điều đó thể hiện bản chất của quan hệ bảo lãnh là quan hệ nghĩa vụ, và vì vậy vấn đề thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được giải quyết tương tự như quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự tại Điều 285 Bộ Luật dân sự 24. Cụ thể, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong thời hạn do các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong một thời hạn hợp lý, kể từ thời điểm được thông báo về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. - Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh : Do lợi ích của bên nhận bảo lãnh chỉ được bảo đảm thông qua việc bên bảo lãnh thực hiện yêu cầu, nên không loại trừ những rủi ro khi bên bảo lãnh không thực hiện yêu cầu hoặc không còn khả năng thực hiện yêu cầu của bên nhận bảo lãnh. Do vậy, các bên có quyền thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo đảm đối với việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (cầm cố hoặc thế chấp tài sản, bảo lãnh). Nhưng cũng cần phân biệt rõ giữa cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh với cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Đây là hai loại nghĩa vụ khác nhau về thời hạn thực hiện, điều kiện thực hiện nên thời điểm tiến hành xử lý tài sản cũng khác nhau và hậu quả 24 Điều 285 Bộ Luật dân sự - Thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự 1. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự do các bên thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ dân sự đúng thời hạn; chỉ được thực hiện nghĩa vụ dân sự trước thời hạn khi có sự đồng ý của bên có quyền; nếu bên có nghĩa vụ đã tự ý thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn và bên có quyền đã chấp nhận việc thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ được coi là đã hoàn thành đúng thời hạn. 2. Trong trường hợp các bên không thoả thuận và pháp luật không quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự thì các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải thông báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý.