Sự hình thành tư tưởng về mô hình nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

pdf 8 trang hapham 60
Bạn đang xem tài liệu "Sự hình thành tư tưởng về mô hình nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsu_hinh_thanh_tu_tuong_ve_mo_hinh_nha_nuoc_viet_nam_dan_chu.pdf

Nội dung text: Sự hình thành tư tưởng về mô hình nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

  1. CHÍNH TRỊ - KINH TẾ HỌC Trần Trọng Thơ Sự hình thành tư tưởng về mô hình nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Trần Trọng Thơ * Tóm tắt: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là thành quả trực tiếp của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đồng thời là hệ quả của quá trình phát triển tư duy lý luận về nhà nước và sự chuẩn bị lâu dài, sáng tạo của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ những ý niệm đầu tiên, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước, định hình mô hình nhà nước dân chủ cộng hòa phù hợp với đặc điểm Việt Nam. Mô hình nhà nước đó là một động lực để các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh, tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi vào mùa thu năm 1945. Hình thành từ cuộc cách mạng do nhân dân tiến hành, do nhân dân xây dựng và bảo vệ, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trở thành nhân tố trung tâm tập hợp và quy tụ các nguồn lực sức mạnh của toàn dân tộc, là “lợi khí” để nhân dân Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang trên những chặng đường lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ khóa: Nhà nước; Việt Nam; dân chủ; cộng hòa; Cách mạng tháng Tám; Hồ Chí Minh; Đảng cộng sản Việt Nam. 1. Mở đầu hoa về định chế cổ truyền chế độ tự quản Một trong những thành tựu vĩ đại của của cộng đồng làng xã, “nhà nước thân Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thành dân” trong lịch sử dân tộc. lập Nhà nước Việt Nam mới - Nhà nước 2. Từ ý niệm đầu tiên đến định hướng cộng hòa, dân chủ nhân dân đầu tiên ở về nhà nước dân chủ Đông Nam Châu Á do Đảng Cộng sản lãnh Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị đạo. Tư tưởng của Hồ Chí Minh và Đảng của nhân loại về tư tưởng dân chủ, dân Cộng sản Việt Nam về mô hình nhà nước quyền, nhà nước pháp quyền để nghiên cứu, Việt Nam dân chủ cộng hòa được hình hình thành những ý niệm rồi tiến tới xác lập thành trên cơ sở kế thừa những giá trị của định hướng về mô hình nhà nước cộng hòa nhân loại về tư tưởng dân chủ, dân quyền, dân chủ ở Việt Nam.(*) nhà nước pháp quyền, thấm nhuần sâu sắc Từ những ý niệm đầu tiên về mô hình quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin “Vấn nhà nước pháp quyền được thể hiện trong đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn “Bản yêu sách của Dân An Nam” (1919), đề chính quyền nhà nước” [1, tr.13], thấu “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), hiểu những giá trị đặc trưng của văn hoá Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước và tinh (*) Phó giáo sư, tiến sĩ. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. ĐT: 0982624871. thần cố kết cộng đồng, phát huy những tinh Email: trantrongthovlsd@yahoo.com.vn. 3
  2. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(97) - 2015 “Nhời hô hoán cùng Vạn Quốc hội” (1926) quyết định “thay đổi chiến lược cách mạng” (bản này ký tên cùng Phan Bội Châu, Phan [2, tr.118], đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc Chu Trinh), đến tác phẩm “Đường cách lên hàng cấp bách, trước tiên của cách mệnh” (1927), Hồ Chí Minh đã bước đầu mạng Đông Dương. Cùng với những chuyển định hướng về mô hình nhà nước của nhân biến trong nhận thức ngày càng sâu sắc về dân Việt Nam sau ngày giành độc lập, mà vấn đề dân tộc, vấn đề đại đoàn kết dân tộc, bản chất là quyền lực nhà nước phải thuộc sự chuyển hướng mục tiêu trước mắt, thay về nhân dân. Người viết: “chúng ta hy sinh đổi phương pháp vận động cách mạng làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nhằm khơi dậy và nhân lên sức mạnh của cả nghĩa là làm sao cho cách mệnh rồi thì dân tộc, thành lập mặt trận dân tộc thống quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để nhất rộng rãi, Đảng quyết định chuyển mô trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy hình chính quyền công nông binh, chính sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được quyền của dân chúng số nhiều sang mô hạnh phúc” [2, tr.27]. hình chính quyền của toàn dân tộc, rút khẩu Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên và hiệu “Chính phủ công nông binh” là “hình Chương trình tóm tắt được thông qua tại thức Chính phủ riêng của dân chúng lao Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng đầu năm động” đưa ra khẩu hiệu thành lập Chính 1930, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, phủ cộng hòa dân chủ, là “hình thức chính Đảng Cộng sản Việt Nam (trong lịch sử xây phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân dựng và trưởng thành, Đảng nhiều lần đổi chúng trong xứ và trong phong trào giải tên, để tiện trình bày, chúng tôi dùng tên phóng dân tộc” [2, tr.539]. Nghị quyết Hội gọi hiện nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung đã chủ trương làm tư sản dân quyền cách ương Đảng (năm 1941) nêu rõ: “Sau lúc mạng và thổ địa cách mạng, đánh đổ đế đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập quốc Pháp và phong kiến, “Làm cho nước một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh Nam được hoàn toàn độc lập”, dựng ra thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng Chính phủ công nông binh [2, tr.2]. Cơ sở của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc xã hội của Chính phủ công nông binh quyền riêng của của một giai cấp nào mà là không chỉ là thợ thuyền, dân cày, binh lính của chung cả toàn thể dân tộc, chỉ trừ có bọn mà còn bao gồm các tầng lớp tiểu tư sản, trí tay sai đế quốc Pháp - Nhật và những bọn thức, trung nông, phú nông, tư sản. Nội phản quốc ( ), còn ai là người dân sống trên dung các chính sách cách mạng đề cập đến dải đất Việt Nam thảy đều được một phần những vấn đề dân chủ căn bản. Mô hình tham gia giữ chính quyền, phải có phần nhà nước “của dân chúng số nhiều” được nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy” bổ sung thêm nội hàm dân tộc, được xây [2, tr.114]. Chương trình Việt Minh do Hội dựng cơ sở “nước Nam được hoàn toàn độc nghị ban hành, ghi rõ: “Sau khi đánh đuổi lập” [2, tr.2] (tác giả nhấn mạnh). được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, trước chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ sự tồn vong của vận mệnh dân tộc, Đảng cộng cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao năm 4
  3. Trần Trọng Thơ cánh làm cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do kháng Nhật cứu quốc rộng rãi, làm tiền đề quốc dân đại hội cử ra” [2, tr.1150]. cho Tổng khởi nghĩa. Bên cạnh việc tổ Bản chất và cách thức thành lập nhà chức và lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh chiến nước mới được thể hiện trong Nghị quyết tranh du kích, khởi nghĩa từng phần, mở của Đảng, trong Chương trình của Mặt trận rộng căn cứ địa, phát triển các chiến khu, Việt Minh chứa đựng tinh thần dân chủ và Trung ương Đảng đặt nhiệm vụ “thành lập nhân dân sâu sắc. Đến đây, những định Uỷ ban Nhân dân cách mạng Việt Nam hướng về mô hình nhà nước ở Việt Nam đã theo hình thức Chính phủ lâm thời Cách rõ nét. mạng Việt Nam” vào hàng những công 3. Định hình mô hình nhà nước dân việc cần kíp [2, tr.371]. chủ nhân dân ở Việt Nam Ngày 16 tháng 4 năm 1945, Tổng bộ Trên cơ sở định hướng đó, với tinh thần Việt Minh ra Chỉ thị về việc gấp rút tổ chức tích cực, nhạy bén, chủ động trước sự Ủy ban Dân tộc giải phóng (trong Văn kiện chuyển biến của tình hình trong nước và thế Đảng thời gian này, tên gọi “Ủy ban Dân giới, Đảng đã từng bước định hình mô hình tộc giải phóng” và “Ủy ban Giải phóng dân nhà nước dân chủ nhân dân với những cấp tộc” cùng đồng thời được sử dụng. Để độ từ thấp lên cao. thống nhât, trong bài viết này, chúng tôi Tháng 10 năm 1944, Hồ Chí Minh từ dùng tên gọi: “Ủy ban Dân tộc giải phóng”) nước ngoài trở về, cùng với việc ra những “là hình thức tiền chính phủ, trong đó, nhân chỉ thị quan trọng như hoãn cuộc khởi dân học tập để tiến lên giữ chính quyền nghĩa chưa chín muồi ở Vũ Nhai do Liên cách mạng” [2, tr.535]. Cùng thời gian này, Tỉnh ủy Cao Bắc Lạng chủ trương; thành Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng tại Hiệp Hòa (Bắc Giang) đã đề nghị triệu quân, Người đã kêu gọi đồng bào cả tập một cuộc đại biểu đại hội gồm các giới, nước cùng nhau chuẩn bị cuộc Toàn quốc các đảng phái, các thân sĩ toàn quốc để đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái “thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt cách mạng và các đoàn thể ái quốc trong Nam và tiến tới thành lập Chính phủ lâm nước vào năm 1944, để cử ra một “cơ cấu thời Việt Nam” [2, tr.396]. đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và nhất Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận trí của toàn thể quốc dân”, có “đủ lực lượng Việt Minh, ở nhiều địa phương trên cả và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu nước, nhất là tại Việt Bắc, các Ủy ban nhân quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với dân cách mạng lần lượt được thành lập các hữu bang” [3, tr.505]. Do những điều trong những xã, tổng, huyện, châu diễn ra kiện chủ quan và khách quan nhất định, chủ khởi nghĩa từng phần, thực thi Mười chính trương triệu tập Quốc dân Đại hội trong sách của Mặt trận Việt Minh. Tháng 6 năm năm 1944 không thực hiện được. 1945, Uỷ ban Lâm thời khu Giải phóng Tháng 3 năm 1945, sau khi Nhật đảo Việt Bắc thành lập. Trong quá trình đó, chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương hình thức chính quyền dân chủ trực tiếp tiến Đảng kịp thời phát động một cao trào dần lên dân chủ đại diện. Đại hội nhân dân 5
  4. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(97) - 2015 phát triển thành Đại hội đại biểu nhân dân nghĩa của Đảng, tính chính đáng của Nhà và cử ra Ủy ban nhân dân làm nhiệm vụ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau ngày quản lý và chịu trách nhiệm trước Đại hội thành lập. đại biểu. Đồng thời, Đảng xúc tiến khẩn Đại hội ra Nghị quyết thông qua Mười trương triệu tập một Đại hội quốc dân để chính sách của Mặt trận Việt minh có ý bầu ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng cho cả nghĩa như một “Hiến pháp lâm thời”, nước, tức Chính phủ lâm thời. mang những nội dung dân tộc hết sức sâu Trong điều kiện Tổng khởi nghĩa đang sắc và hàm chứa những nội dung dân chủ chín muồi, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về rộng rãi. Nghị quyết khẳng định: “Giành Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) để lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt lãnh đạo nhân dân cả nước chuẩn bị chớp Nam Dân chủ Cộng hoà trên nền tảng hoàn thời cơ vùng lên giành độc lập dân tộc. Tại toàn độc lập ( ) Ban bố những quyền của đây, Người đã gấp rút tiến hành những công dân cho dân. - Nhân quyền, - Tài quyền việc thiết yếu để tổ chức Đại hội Đại biểu (quyền sở hữu), - Dân quyền: quyền phổ quốc dân, lập Ủy ban Dân tộc giải phóng. thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự Bằng sự chỉ đạo sát sao, tích cực của Hồ do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, Chí Minh, của Đảng, sự nỗ lực phấn đấu, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam tinh thần cách mạng của các đại biểu, ngày nữ bình quyền” [2, tr.559 - 560]. Có thể 16 tháng 8 năm 1945, Quốc dân Đại hội thấy những đặc trưng cơ bản: độc lập, chủ khai mạc tại Tân Trào. quyền, thống nhất của một quốc gia độc Là một cơ cấu liên hiệp chính trị của lập hoàn toàn theo đúng những nguyên tắc toàn dân được tổ chức lần đầu tiên trong dân tộc bình đẳng, dân tộc tự quyết đã lịch sử dân tộc, với hơn 60 đại biểu đại diện được xác lập. Mười chính sách của Mặt cho hai mươi lăm triệu nhân dân Việt Nam, trận Việt Minh do Đại hội thông qua là cơ thuộc mọi thành phần dân tộc, tôn giáo, giai sở để Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng và cấp, đảng phái và cả kiều bào ở nước ngoài công bố Tuyên ngôn độc lập ngày mùng 2 tham dự, Quốc dân Đại hội mang tầm vóc tháng 9 năm 1945 và là cơ sở để xây dựng một cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hiến pháp năm 1946 (sắc lệnh số 14 - SL là một cơ chế “tiền Quốc hội”. Những quyết của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ định do Đại hội thông qua vừa mang tính Chí Minh ký ban hành ngày 8 tháng 9 năm sống còn của dân tộc, đồng thời mang giá 1945 về cuộc Tổng tuyển cử nêu rõ: trị pháp lý vững chắc và sâu sắc. “Chiểu theo Nghị quyết của Quốc dân đại Đại hội nhất trí chủ trương phát động biểu Đại hội họp ngày 16, 17 tháng năm 8 Tổng khởi nghĩa của Đảng, giao toàn quyền năm 1945, tại Khu giải phóng, ấn định lãnh đạo khởi nghĩa cho Ủy ban Khởi nghĩa rằng nước Việt Nam sẽ theo chính thể dân toàn quốc do Trung ương Đảng thành lập chủ cộng hòa và Chính phủ nhân dân toàn ngày 13 tháng 8 năm 1945. Đây là những quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu theo quyết định mang tính pháp lý, khẳng định lối phổ thông đầu phiếu cử lên”). tính chính danh về vai trò lãnh đạo khởi Đại hội đã cử ra Ủy ban Dân tộc giải 6
  5. Trần Trọng Thơ phóng Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta từ gồm 15 thành viên, do lãnh tụ Hồ Chí Minh ngót một thế kỷ nay” [2, tr.553 - 554]. làm Chủ tịch, Trần Huy Liệu - Phó chủ tịch Là cơ cấu đại diện cho toàn thể quốc và các ủy viên. Uỷ ban Dân tộc giải phóng dân, ra đời ngay tại thời điểm dân tộc ta được trao sứ mệnh “Để lãnh đạo cuộc cách vùng lên đánh đổ chính quyền phát xít, tay mạng dân tộc giải phóng ( ) thắng lợi”, sai, Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam “thay mặt quốc dân mà giao thiệp với các có sức thu hút lớn, củng cố và nhân lên lòng nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong tin của quần chúng vào Mặt trận Việt Minh, nước” [2, tr.560 - 561]. là cơ sở để hội tụ khối đại đoàn kết của toàn Đáp lại sự tín nhiệm của toàn thể quốc dân tộc trong giờ phút đấu tranh quyết liệt dân đại biểu, sáng ngày 17 tháng 8 năm với kẻ thù; góp phần đẩy Chính phủ do phát 1945, Uỷ ban Dân tộc giải phóng ra mắt xít Nhật lập ra vào thế cô lập và tan rã. quốc dân tại đình Tân Trào. Hướng lên lá Là cơ cấu đại diện cho toàn dân tộc, Ủy cờ đỏ sao vàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay ban Dân tộc giải phóng Việt Nam ra đời đã mặt Uỷ ban Dân tộc giải phóng đọc lời tạo thêm vị thế cho Mặt trận Việt Minh, cho tuyên thệ: “nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân Việt Nam trong quan hệ với Đồng nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống minh, đón tiếp quân Đồng minh vào giải giáp quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù quân đội Nhật với tư cách người làm chủ phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết đồng thời, làm thất bại những âm mưu và không lùi bước” [4]. cuồng vọng của các thế lực nước ngoài nhăm Sau khi thành lập, Uỷ ban Dân tộc giải nhe chiếm Việt Nam, áp đặt sự nô dịch mới phóng Việt Nam ra lời hiệu triệu tới toàn lên nhân dân ta. Ủy ban Dân tộc giải phóng thể nhân dân và các đoàn thể cứu quốc. Việt Nam đóng một vai trò rất quan trọng Hiệu triệu thông báo: Uỷ ban Dân tộc giải trong thắng lợi của Tổng khởi nghĩa giành phóng Việt Nam đã ra đời, đáp ứng mong chính quyền về tay nhân dân, tạo cơ sở trực đợi của toàn thể đồng bào về “một chính tiếp cho sự ra đời của Chính phủ lâm thời phủ quốc dân có đủ uy tín và thực lực”. Uỷ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. ban gồm những người xứng đáng nhất trong Với việc ra đời của Ủy ban Dân tộc giải các đoàn thể cứu quốc, là cơ quan lãnh đạo phóng, đông đảo quần chúng nhân dân cùng tối cao của quốc gia để hành động cho kịp ý thức được vai trò lịch sử của mình, càng thời với sự chuyển biến rất mau lẹ của tình quyết tâm bảo vệ Chính phủ do chính mình hình, “sẽ thay mặt quốc dân Việt Nam và tạo dựng bằng bất cứ giá nào. dựa trên thực lực của quốc dân để tranh lấy Có thể thấy, đến Quốc dân Đại hội Tân sự đồng tình của các nước Đồng minh dân Trào, mô hình nhà nước dân chủ nhân dân chủ” [2, tr.562 - 563]. đã được định hình từ cơ sở đến cấp Trung Trong thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Hồ ương. Cùng với Quốc dân Đại hội - một cơ Chí Minh chỉ rõ: sự ra đời Uỷ ban Dân tộc chế mang tính chất “tiền Quốc hội”, Ủy ban giải phóng Việt Nam đóng vai trò như Chính Dân tộc giải phóng Việt Nam đặt cơ sở phủ lâm thời “là một tiến bộ rất lớn trong pháp lý, cơ sở thực tiễn cho một thể chế 7
  6. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(97) - 2015 chính trị của chế độ cộng hòa, dân chủ sắp ngôn độc lập tạo nên bộ văn bản pháp lý ra đời. mang tính chất một bộ luật gốc của nhà 4. Nhà nước dân chủ nhân dân Việt nước dân chủ nhân dân, là cương lĩnh về Nam ra đời quyền tự do dân chủ của nhân dân, đặt cở Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ sở pháp lý để củng cố chính quyền cách Chí Minh triệu tập và chủ toạ phiên họp của mạng, xây dựng các thiết chế nhà nước và Ban Thường vụ Trung ương Đảng để bàn hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước dân chủ cộng hoà. Trên tinh thần của Tuyên cách mạng. Hồ Chí Minh nhất trí với chủ ngôn độc lập, trong khi từng bước hoàn trương của Ban Thường vụ Trung ương thiện các thiết chế nhà nước, Chính phủ lâm Đảng mở rộng thành phần Uỷ ban Dân tộc thời giữ trọng trách chỉ đạo quốc gia thống giải phóng và sớm công bố danh sách của nhất và quản lý đất nước, thực hiện các Uỷ ban cho toàn dân biết. quyền năng pháp lý, là nhân tố cực kỳ quan Ngày 27 tháng 8 năm 1945, tại cuộc họp trọng để Đảng và nhân dân ta vượt qua tổ chức ở Hà Nội, theo đề nghị của Chủ tịch muôn vàn thử thách, giành những thắng lợi Hồ Chí Minh, Uỷ ban Dân tộc giải phóng lớn lao trong bối cảnh thế nước chông Việt Nam do Quốc dân Đại hội (Tân Trào) chênh bởi di họa của chế độ thuộc địa, bởi bầu ra tự cải tổ thành Chính phủ cách mạng nạn thù trong, giặc ngoài. lâm thời, nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng Hiện thực lịch sử cho thấy, sự ra đời của lớp nhân dân, các đảng yêu nước và những Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là nhân sĩ tiến bộ. Một số uỷ viên Việt Minh thành quả trực tiếp của Cách mạng tháng tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường Tám năm 1945; đồng thời là hệ quả của quá chỗ cho các thành phần khác, có cả những trình phát triển tư duy lý luận về nhà nước người đã từng tham gia trong chính quyền của Hồ Chí Minh và của Đảng (từ những ý cũ. Hành động đó được Chủ tịch Hồ Chí niệm đầu tiên, đến những định hướng, định Minh đánh giá: “Đó là một cử chỉ vô tư, tốt hình về mô hình nhà nước dân chủ nhân đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích dân); là kết quả của sự kết hợp giữa chủ của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên trương, đường lối của Đảng với sự lớn lợi ích cá nhân” [2, tr.160]. mạnh của phong trào cách mạng, với khát Ngày 28 tháng 8 năm 1945, danh sách vọng độc lập, tự do, dân chủ cháy bỏng của Chính phủ gồm 15 thành viên được công bố nhân dân. trên các báo ở Hà Nội. Ngày mùng 2 tháng Sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay chủ cộng hòa đã góp phần phát triển lý luận mặt Chính phủ lâm thời công bố Tuyên về nhà nước kiểu mới phù hợp với đặc điểm ngôn độc lập chính thức tuyên bố nền độc Phương Đông do giai cấp vô sản lãnh đạo. lập của Việt Nam; xác lập Nhà nước Việt 5. Kết luận Nam mới được thành lập theo chế độ dân Là kết quả của Cách mạng tháng Tám chủ cộng hoà. Cùng với Nghị quyết của năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ Quốc dân Đại hội Tân Trào trước đó, Tuyên cộng hòa trở thành nhân tố trung tâm tập 8
  7. Trần Trọng Thơ hợp và quy tụ các nguồn lực sức mạnh của nghĩa Việt Nam công bố năm 2013 ghi rõ: toàn dân tộc, là “lợi khí” để nhân dân Việt “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang trên Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ những chặng đường lịch sử đấu tranh giải nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân phóng dân tộc, thống nhất, phát triển đất dân, Nhà nước bảo đảm và phát huy nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, Trong công cuộc xây dựng đất nước theo tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, tục được Đảng và nhân dân xây dựng theo văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển nghĩa. Công cuộc xây dựng và phát triển toàn diện” [6]. đất nước, sự nghiệp công nghiệp hóa hiện Những nội dung ghi trong Cương lĩnh đại hóa đất nước đã có những thành tựu to chính trị của Đảng, trong Hiến pháp năm lớn nhưng cũng còn không ít những hạn chế 2013 phù hợp với Việt Nam và xu thế của và bất cập, điều này đã và đang đặt ra thế giới, là nền tảng để xây dựng Nhà nước những yêu cầu mới đối với nhiệm vụ xây trong bối cảnh mới. Đây cũng chính là sự dựng Nhà nước. Đại hội Đại biểu toàn quốc tiếp nối và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí lần thứ XI của Đảng chủ trương đẩy mạnh Minh về Nhà nước pháp quyền, sự kế thừa, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp phát triển những giá trị và mô hình nhà quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà nội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời dung chủ yếu là hướng về phục vụ nhân trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. dân, phụng sự dân tộc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Tài liệu tham khảo do Đại hội thông qua, xác định: “Nhà nước [1] V.I. Lênin (1959), Tuyển tập, quyển 2, ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Nxb Sự thật, Hà Nội. của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân Đảng toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, dân ta mà nền tảng là liên minh giữa giai Hà Nội. cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội [3] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.3, Nxb ngũ trí thức, do Đảng cộng sản Việt Nam Chính trị quốc gia, Hà Nội. lãnh đạo ( ) Nhà nước phục vụ nhân dân, [4] Nguyễn Lương Bằng (1975), Những lần gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện gặp Bác trong Bác Hồ (Hồi ký), Nxb Văn đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn học, Hà Nội. trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu [5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện sự giám sát của nhân dân ( ) nghiêm trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ Chính trị quốc gia, Hà Nội. quốc và của nhân dân” [5, tr.85 - 86]. [6] www.chinhphu.vn. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ 9
  8. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(97) - 2015 10