Tài liệu Hồ chí minh – Con người của sự sống - Mạnh Quang Thắng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Hồ chí minh – Con người của sự sống - Mạnh Quang Thắng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
tai_lieu_ho_chi_minh_con_nguoi_cua_su_song_manh_quang_thang.doc
Nội dung text: Tài liệu Hồ chí minh – Con người của sự sống - Mạnh Quang Thắng
- HỒ CHÍ MINH – CON NGƯỜI CỦA SỰ SỐNG 1
- MỤC LỤC MỤC LỤC 2 Hồ CHÍ MINH – CON NGƯỜI CỦA SỰ SỐNG 3 Lời mở đầu 3 Chương 1: Lối vào di sản 8 Đường tiếp cận 8 II. Quan điểm 15 Chương 2: NHẬN THỨC LÀ MỘT QUÁ TRÌNH 27 I. Yếu tố thứ tư 27 Hai: Hồ Chí Minh đánh giá cao chủ nghĩa dân tộc 53 Chương 3: TRIẾT LÝ PHÁT TRIỂN QUA CUỘC SỐNG 131 Chương 4: VĂN HOÁ SOI ĐƯỜNG CHO QUỐC DÂN 195 KẾT LUẬN 247 2
- Hồ CHÍ MINH – CON NGƯỜI CỦA SỰ SỐNG Lời mở đầu GS.TS MẠCH QUANG THẮNG Trong thế giới của con người, có ba cái chết. Cái chết thứ nhất là cái chết sinh học. Cái chết này được xác định khi con người đã nằm ở cõi vĩnh hằng. Nói như người Hà Nội thường hay đùa, thì là “đi Văn Điển”. Cái chết thứ hai là cái chết chính trị, đạo đức. Nghĩa là người đó còn sống đấy, sống về sinh học, nhưng coi như đã chết, thậm chí bị người đời nguyền rủa, hoặc chẳng ai còn biết người đó còn ở trên đời này nữa. Cái chết thứ ba là người đó đã chết sinh học rồi nhưng vẫn còn sống mãi, sống đẹp trong tâm khảm của những người chân chính, bởi người đó đã để lại tiếng thơm cho đời, để lại di sản tinh thần lớn lao cho nhân dân, cho dân tộc và cho nhân loại nhiều thế hệ. Người anh hùng dân tộc Bungari Khơrixtô Bôtép (1849-1876), một lãnh tụ của cuộc kháng chiến Bungari chống quân xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ, viết rất hay rằng: “Người nào ngã xuống trong cuộc đấu tranh cho tự do thì người đó không bao giờ chết. Đất trời, thiên nhiên tiếc thương và ngợi ca muôn đời cuộc sống của người đó ”[1]. Trường hợp Hồ Chí Minh chính là người thuộc cái chết thứ ba ấy. Nhân đây, tôi xin quy ước về tên gọi của Hồ Chí Minh. Trong cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh có rất nhiều tên gọi. Cuốn sách của Bảo tàng Hồ Chí Minh Những tên gọi bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, đưa ra con số thống kê: có 169 tên chính thức, bí danh, bút danh của Hồ Chí Minh, và nêu lên 17 bút danh, bí danh khác đang nghi là của Hồ Chí Minh. Còn nhà sưu tầm Bá Ngọc trong cuốn sách của mình Hồ Chí Minh – Những tên gọi đi cùng năm tháng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, thống kê Hồ Chí Minh có 78 tên chính thức, bí danh và 96 bút danh. Nhiều người hỏi tôi: tại sao Hồ Chí Minh mang tên gọi này, tên gọi nọ, bút danh này, bút danh nọ; tên đó, bút danh đó mang ý nghĩa gì? Tôi cho rằng, trừ một vài tên gọi có thể giải thích được nguyên do, ý nghĩa, nhưng hầu hết không thể giải thích được. Trong cuốn sách này, tôi dùng một tên gọi trong rất nhiều tên gọi để bạn đọc tiện theo dõi, đó là Hồ Chí Minh. Nhiều người, cả trong và ngoài nước, cho rằng Hồ Chí Minh là một nhân vật huyền thoại. Cũng có thể gọi như thế với nhiều nghĩa. Nhưng nếu là nghĩa rằng, huyền thoại là đầy những điều không có thật, thì tôi cho là không phải vậy. Các bạn đang cầm trên tay cuốn sách “Hồ Chí Minh – con người của sự sống” viết về Hồ Chí Minh, tức là về một người mà cùng với các đồng chí phái tả của mình trong Đảng Xã hội Pháp tham gia thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản năm 1920 (Section Francaise de L’ Internationale Communiste, viết tắt là S.F.I.C.) – tức là Đảng Cộng sản Pháp; là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam; là người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; là người sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam; là người sáng lập mặt trận dân tộc thống nhất; là người khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam; là chiến sĩ kiên cường của Quốc tế Cộng sản, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc Có bấy nhiêu vị thế và công trạng đó nhưng trên ngực áo của Hồ Chí Minh không có lấy một tấm huân chương nào của Việt Nam trao tặng (Có một lần Nhà nước ta dự định tặng cho Hồ Chí Minh huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của nước ta, nhưng Hồ Chí Minh có ý không nhận, Hồ Chí Minh bảo là bao giờ nước nhà thống nhất, lúc đó đồng bào miền Nam sẽ thay mặt cả nước trao cho ông huân chương đó). Đúng là trên ngực áo của Hồ Chí Minh không có tấm huân chương nào của Việt Nam, nhưng bên trong làn áo 3
- mỏng đó của Hồ Chí Minh có một trái tim đập cùng dân tộc và nhân loại. Hồ Chí Minh là người đã để lại cho thế kỷ XX, thế kỷ bi hùng, thế kỷ đầy chất tráng ca cũng như đầy máu và nước mắt, và để lại cho các thế kỷ tiếp theo, một di sản tinh thần to lớn, quý báu. Và, tôi có vài lời thưa trước với bạn đọc. Tôi viết cuốn sách này với nhiều lý do. Thứ nhất, do thôi thúc nội tâm của một người nghiên cứu khoa học. Tôi nghĩ rằng, thiếu sự thôi thúc nội tâm thì tôi sẽ không còn là người nghiên cứu khoa học nữa. Bạn hãy nghiệm mà xem, làm công tác nghiên cứu khoa học mà không có niềm đam mê thì có khi cứ “ngâm cứu” mãi mà không viết ra được một trang chữ nào cả, hoặc làm việc cứ như trâu bệnh kéo cày. Nói thì dễ, làm mới khó. Có được sự thôi thúc này thật không đơn giản. Vì trong thời buổi chuyển làn cơ chế của cuộc sống, nhiều giá trị tinh thần cứ hay bị đổi thay, có cái tốt lên và có nhiều cái xấu đi, thậm chí bị đảo lộn. Những điều đó tác động hằng ngày, hằng giờ và tác động cực mạnh đến người cầm bút. Tác động tích cực có và tiêu cực cũng không ít. Thứ hai, do yêu cầu của chính bản thân công việc của tôi là nghiên cứu và giảng dạy bậc đại học và sau đại học ngành khoa học lịch sử và chuyên ngành Hồ Chí Minh học. Qua bao năm tháng trải nghiệm nghiên cứu và giảng dạy, trong thời gian tác nghiệp, tôi thấy một nhân vật thật đặc biệt trong lịch sử hiện đại Việt Nam và lịch sử thế giới: đó là Hồ Chí Minh. Những điều đặc biệt của nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh có nhiều nhưng có lẽ đọng lại sâu nhất trong tôi là những điều sau đây khiến cho tôi càng tò mò và càng nghiên cứu càng thấy thú vị. Đúng là như nhiều người nói: lịch sử là cuộc sống. Thế giới là phẳng [2]trong xu thế toàn cầu hoá với cuộc sống số. Toàn cầu hoá đang làm cho các quốc gia-dân tộc, các thị trường xích lại gần nhau hơn bao giờ hết. Thế kỷ XXI này sẽ là thế kỷ của sự bùng phát thông tin mạnh theo cấp số nhân so với những thập niên cuối thế kỷ XX. Các ý tưởng trên thế giới sẽ được lan truyền nhanh hơn qua các nẻo đường, nó được “lên sàn”, bất chấp các biên giới quốc gia với nhiều chế độ chính trị khác nhau. Những nước nghèo sẽ được tiếp cận nhanh chóng với lượng thông tin mà một thời chỉ dành riêng cho các nước công nghiệp phát triển, còn các nước kém phát triển, đang phát triển đã luôn ở vào tình trạng “trâu chậm uống nước đục”. Một xã hội mà nền dân chủ sẽ được chế định bởi tính thông tin toàn dân, khi đó mọi cử tri sẽ biết được, có khi biết được một cách trực tiếp, nhanh chóng, những điều mà trước kia chỉ một vài quan chức được biết. Cuộc cách mạng truyền thông đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc san phẳng các trở ngại về bất bình đẳng, về cơ hội phát triển Tính chia cắt, cục bộ đã dần bị lùi vào quá khứ. Một xã hội liên kết cực kỳ chặt chẽ với nhau đang hình thành trên thế giới. Tính ảnh hưởng, sự lan truyền của cơn bão khủng hoảng tài chính bắt đầu ở nước Mỹ từ năm 2008 ra phần thế giới còn lại đã nói lên một phần tình trạng đó. Hiện đang có một thế giới như vậy thật. Nhưng, đó mới chỉ là một mặt chưa thật lớn lắm của tình hình. Một mặt khác của thế giới vẫn còn nhiều gồ ghề, xù xì, lồi lõm như chính bề mặt của trái đất vậy. Thế giới có luật chơi chung, vốn đã được soạn không lấy gì làm công bằng lắm, nhưng lại bị không ít người hiểu và làm theo ý riêng của họ. Vẫn còn đó cảnh kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu, cảnh kẻ giàu áp chế kẻ nghèo. Vẫn còn đó cái cảnh kẻ yếu, kẻ nghèo lại kèm theo cái hèn, lòng tự ty, cam chịu khuất phục trước các thế lực khác, tự chịu đi sau trong một thế giới đầy năng động, phát triển. Thế giới hiện tràn ngập những mùi vị ngọt bùi, những điều thánh thiện. Thế giới đầy những người anh minh. Nhưng, thế giới còn ngập ngụa cả những mùi vị đắng cay, chua chát. Thế giới đang có cả những ông kễnh. Và, thế giới có cả những điều xấu xa mà những người lương thiện không thể chấp nhận. Hồ Chí Minh là người đằm mình trong các sự kiện trọng đại nhất của dân tộc Việt Nam và của các biến cố trên thế giới mà ông sống. Hồ Chí Minh đã để lại nhiều dấu ấn tích cực, quan trọng cho quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam và quá trình phát triển văn minh tiến bộ của nhân loại; không những cho thời kỳ ông sống mà cả quá trình về sau, khi ông 4
- đã qua đời. Hồ Chí Minh là một phần phát triển của lịch sử Việt Nam thời hiện đại và cũng là một phần trong lịch sử tiến hoá xã hội loài người từ thế kỷ XX trở đi. Những người như thế hiếm lắm. Người ta hay gọi những người đó là những vĩ nhân hay danh nhân – những con người của thời cuộc, những người còn lại mãi mãi với thời gian. Gương phản chiếu trong cuộc đời của Hồ Chí Minh có cả những điều đó. Và hình như Hồ Chí Minh thường đi trước, đi trong, hoặc song hành, chứ không đi sau các sự kiện lớn trên thế giới bao giờ. Hồ Chí Minh tác động mạnh mẽ vào chúng cũng như các biến cố của nhân loại có một chiều khác, ngược trở lại, tác động vào ông. Hồ Chí Minh được mọi người dân Việt Nam yêu nước, từ già chí trẻ, từ giới đàn ông đến đàn bà, từ thế hệ này đến thế hệ khác, từ người nghèo đến người giàu, từ những người dân tộc đa số đến những người dân tộc thiểu số của Việt Nam, từ những người có chính kiến khác nhau, tôn giáo khác nhau, từ những người vùng biển, hải đảo, đồng bằng, thành thị đến những người sống ở các bản làng xa xôi trên núi cao miền biên ải, từ người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt lúa, củ khoai, từ người công nhân đến những người trí thức – kẻ sĩ, v.v. tôn vinh ông, coi ông là một lãnh tụ anh minh, coi ông là Bác Hồ của mọi thế hệ. Hình hài Hồ Chí Minh hoà với hình ảnh của đất nước Việt Nam làm một. Hồ Chí Minh có được cả một tình thương yêu bao la, sự kính trọng thật sự sâu lắng của những người tiến bộ trên toàn thế giới dành cho ông. Thế giới văn minh đã và sẽ còn nhắc đến Hồ Chí Minh trong những thời buổi thiên niên kỷ thứ ba và các thiên niên kỷ tiếp theo – những thời gian biến động khôn lường của những điều vốn không bất biến - như là sự trở về với cái tốt, cái đẹp. Dường như ở trong con người Hồ Chí Minh, có đồng thời cả những điều bình dị nhất của mỗi một con người, vừa có cả những điều vĩ đại, cao cả. Điều đó tạo ra cái cặp tương tác bình dị mà cao cả, và cao cả mà bình dị. Có những điều mà người ta có thể với tay là chạm tới được ngay, nhưng cũng những điều ấy thôi thì người ta lại thấy đó chỉ là ước vọng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh là con người vừa gần lại vừa xa, vừa xa ở đây với nghĩa là cái tầm mà người ta cần vươn tới. Đây chính là điều mà khiến cho nhiều người dân Việt Nam, trong cái tâm thức tín ngưỡng dân gian, trong muôn vàn sắc thái lung linh huyền ảo của đời sống tâm linh của mình, đã phong thánh cho ông. Ở Hồ Chí Minh, cũng như ở không ít người trong chúng ta, còn rất nhiều điều bí ẩn, kể cả những bí ẩn về những điều dự đoán về thế sự; những bí ẩn về các quan hệ cá nhân, tức là về đời sống riêng tư. Chính điều này lại làm cho nhiều người tò mò về Hồ Chí Minh. Với nhiều thái độ và nhiều chính kiến rất khác nhau, người ta nhìn nhận về Hồ Chí Minh cũng rất khác nhau. Nhưng, lạ thay, dù còn có nhiều bí ẩn, nhiều nhận định, thậm chí “thêu dệt” (dù vô tình hay cố ý) nhưng Hồ Chí Minh không phải là con người huyền thoại; ông vẫn hiện hữu với dáng vóc của bậc hiền tài tiêu biểu cho cái chân, cái thiện, cái mỹ, đi cùng với dân tộc Việt Nam đang hội nhập vào bước phát triển tiến bộ của nhân loại, đang đi với nhân loại giải quyết những vấn đề toàn cầu mà chính Hồ Chí Minh là một người tích cực giải quyết, cùng dân tộc, cộng đồng Việt Nam giải quyết. Tư tưởng Hồ Chí Minh không đơn thuần là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; cũng không phải chỉ là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, không hẳn là kết quả cộng lại từ sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá rị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng Việt Nam hiện đại. Hồ Chí Minh đứng trên mảnh đất hiện thực của Việt Nam để thâu hoá toàn bộ những vấn đề căn bản nhất của nhân loại. Ông cùng sống với tư tưởng đó, khích lệ mọi người theo tư tưởng đó và tiến trình của nhân loại vẫn trường tồn, gắn kết với những tư tưởng đó. Di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt nhất có lẽ từ những vấn đề toàn cầu do ông nêu ra, nhất là vấn đề giải phóng con người, và ông truyền tín hiệu, thông điệp cho mọi thời đại. Cả cuộc đời Hồ Chí Minh phấn đấu thực hiện chưa được, nhưng ông tin sẽ có những thế hệ tiếp nối làm cho kỳ được. 5
- Thứ ba, tôi tự thấy có nhu cầu ghi nhận những điều mình nhận biết về Hồ Chí Minh qua bao nhiêu năm nghiên cứu và giảng dạy để rồi trao đổi ý kiến về những nhận biết đó với đồng nghiệp, với các bạn sinh viên, với những học viên cao học và nghiên cứu sinh, và với độc giả rộng rãi. Thực ra, những trang viết của tôi trong cuốn sách này là những điều tâm sự với những ai đang đọc nó hơn là những nghiên cứu theo bài bản như nhiều cuốn sách khác mà nhiều người đã thể hiện. Và, với ý định như vậy, với kiểu trình bày như vậy, hy vọng của tôi là góp phần mang đến cho bạn đọc đôi điều suy nghĩ về một nhân vật lịch sử mà nhiều người đã, đang và sẽ để tâm đến. Trong việc thể hiện qua những trang sách này, tôi cố gắng không muốn lặp lại những công trình của đồng nghiệp. Đương nhiên, trong nghiên cứu, ai cũng có thể kế thừa những gì có trước của những người đi trước. Vì là sách viết về Hồ Chí Minh, cho nên lẽ đương nhiên, tôi muốn trích dẫn nhiều hơn cả là những quan điểm của chính bản thân Hồ Chí Minh. Cách trình bày của tôi trong cuốn sách này không theo lối hàn lâm, mà theo lối phổ thông, đôi lúc nôm na. Và, như thế, bạn có thể đọc bất kỳ mục nào của cuốn sách này mà không cần theo tuần tự. Vì là để có thể phục vụ bạn đọc theo lối đọc bất kỳ mục nào của cuốn sách, cho nên xin được báo trước và xin được cảm thông rằng, có một số ý, có một số đoạn trích dẫn đã được nêu ở mục này rồi nhưng được nêu lại ở mục khác. Tôi cho là sự trùng lặp trong cuốn sách này, tuy không nhiều, nhưng đôi khi cũng cần thiết. Những gì phản ánh qua cuộc đời của Hồ Chí Minh là các giá trị tinh thần hiện đại gắn với sự vận động của cuộc sống. Hồ Chí Minh, cuộc đời và sự nghiệp của ông, những quan điểm, lời nói và việc làm thấm đượm đạo đức trong sáng của ông, thường hay được người đời sau lấy làm gương. Thật sự là đúng có nhiều người lấy ông làm gương. Nhưng ngược lại, cũng có không ít người trí trá, mượn gương ông, mượn lời ông để nói cho bóng bẩy, mỹ miều, họ thường hay nói những điều cao cả, kỳ thực thì chỉ để làm bình phong che giấu những việc làm xấu xa của mình. Mỗi người cảm nhận về những giá trị trong cuộc đời của Hồ Chí Minh với tâm trạng khác nhau và cũng có thể những sự cảm nhận ấy được đổi thay vì nhiều lý do. Điều này chứng tỏ rằng, những giá trị của cuộc đời Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng của ông, rất sống động, chúng luôn luôn đồng hành với thế giới hiện đại và luôn luôn được phát triển, nghĩa là khi vận và phổ vào thực tế, những giá trị đó lại tự làm mới mình, được nạp thêm năng lượng mới từ cuộc sống, từ bao nhiêu con người mà dù ít dù nhiều, dù có ý thức chủ quan hay ngẫu nhiên, nhắc đến tư tưởng của ông, làm theo tư tưởng của ông. Đã có biết cơ man nào là sách, bài tạp chí, bài báo, cả báo viết, báo hình, báo điện tử, cả phim ảnh, những hình tượng nghệ thuật phản ánh, viết về Hồ Chí Minh ở cả trong nước và ngoài nước Việt Nam. Cuốn sách này của tôi chỉ là như một giọt nước trong đại dương mênh mông bao la, nhưng mong đó là một giọt nước có ích. Nhân vật Hồ Chí Minh vẫn sẽ là đề tài tiếp tục hấp dẫn đối với nhiều người nghiên cứu, vì như đã có ý ở bên trên, ông luôn luôn đồng hành với những người chân chính cả trong hiện tại và tương lai. Hồ Chí Minh không những là nhân vật của thế kỷ XX mà tư tưởng của ông còn là những ý tưởng dẫn dắt con người ta vươn lên trong cuộc sống. Hồ Chí Minh không những là một chiến sĩ tiên phong của dân tộc Việt Nam tiên phong trong cuộc đấu tranh phi thực dân hoá thế kỷ XX mà ông còn là một chiến sĩ đấu tranh giải quyết những vấn đề toàn cầu mà thế giới đang tiến hành trong thế kỷ XXI và các thế kỷ tiếp theo cho sự phát triển bền vững. Cuốn sách này ra đời được là do sự góp sức, động viên, khích lệ của những người thân trong gia đình bé nhỏ của tôi, của bạn bè, đồng nghiệp. Người thân trong gia đình tôi không ngờ công việc này lại làm hao tổn nhiều thời gian và sức lực của tôi đến vậy. Tôi hàm ơn họ. Không có sự góp sức, động viên, khích lệ đó thì có lẽ tôi đã dang dở, bỏ mặc những trang bản thảo chưa hoàn thiện nằm trong các file lưu trong máy vi tính, vì có lúc gặp rất nhiều khó khăn, kể cả cái khó về sức khoẻ. Tôi thực sự bắt đầu viết những trang bản thảo cuốn sách này vào cuối năm 2004. Tôi viết trên máy tính xách tay. Và lúc đầu dự định chỉ khoảng 2 năm gì đó thôi sẽ xong, nhưng rồi 6
- phải điều chỉnh. Bởi vì công việc của tôi khiến tôi không thể làm theo kiểu tổng lực, cấp tốc được mà phải rải ra từng bước, tranh thủ thời gian do sắp xếp được từ các công việc khác. Rải ra như vậy và tự làm trên máy tính xách tay như vậy cũng có cái hay và cũng có cái dở. Hay là bởi vì có nhiều thời gian hơn để trau chuốt bản thảo, để nghĩ suy cho “chín” hơn, để cho đỡ bớt căng hơn về thì giờ. Dở thì cũng chính từ cái hay đó. Để càng lâu thì tôi càng hay tự sửa chữa, bổ sung, thành ra thời gian để hoàn thành cuốn sách này bị kéo dài. Có thể đó là do cái bệnh cầu toàn. Làm sao mà “toàn” được trong khi có biết bao nhiêu điều trong cuộc sống vốn cứ “biến”. Bản thảo cuốn sách khi đã hoàn thành còn cần tới sự giúp sức của một nhà xuất bản. May mắn thay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi, như là một bà đỡ mát tay, cho cuốn sách đến được với bạn đọc. Xin trân trọng cảm ơn tất cả, tất cả những người thân yêu của tôi đã góp phần, dù ít dù nhiều, mang tấm lòng thành, cho sự ra đời của cuốn sách này. Năm tháng rồi sẽ qua đi. Đó là tất yếu của sự đời. Nhận thức về một ai đó và về một cái gì đó rồi cũng có sự điều chỉnh. Tìm cái cốt trong muôn vàn cái biến thiên của vũ trụ, nhất là trong thế giới của tư duy, quả là công việc bất tận của những ai muốn tìm kiếm. Chắc chắn cuốn sách này của tôi không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Có thể có người thích đọc nó, có người không, có người khen, có người chê. Điều đó không có gì là lạ cả. Đó là cuộc sống, nhất là trong cuộc sống hối hả hiện nay. Tôi mong được bạn đọc lượng thứ và chỉ giáo cho những chỗ còn thiếu sót, hạn chế. Những ý kiến quý báu của bạn đọc góp ý về cuốn sách này xin gửi theo địa chỉ với hộp thư điện tử của tôi là machquangthang@npa.org.vn Mùa Xuân năm 2009 MẠCH QUANG THẮNG [1] Nguyên văn tiếng Bungari: Тоз, който падне в бой за свобода, той не умира: него жалеят земя и небо, звяр и природа и певци песни за него пеят [2] Theo ý của tên một cuốn sách The World is Flat (Thế giới phẳng) của tác giả Thomas L.Friedman, người Mỹ. Đây là cuốn sách bán chạy nhất (best seller) năm 2005, được Financial Times và Golman Sachs Business trao giải thưởng “Cuốn sách hay nhất trong năm”. Tác giả của cuốn sách này được US. News & Report bình chọn là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc nhất của Mỹ. ở Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ đã dịch, xuất bản, ấn hành từ tháng 7 năm 2006. 7
- Chương 1: Lối vào di sản GS.TS MẠCH QUANG THẮNG Đường tiếp cận Chân lý chỉ có một. Sự thật chỉ có một. Nhưng nhận thức của mỗi con người, mỗi cộng đồng có nhiều khi không phải chỉ một lần mà nhận thức đúng ngay được chân lý, đúng ngay được sự thật. Có 1001 nguyên nhân. Thông thường thì nhận thức là cả một quá trình từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa đầy đủ đến toàn diện, và có khi nó dích dắc, có khi nhận thức tưởng là được rồi, đúng rồi nhưng sau đấy lại phải nhận thức lại. Nhận thức của con người về những sự vật và hiện tượng trong thế giới tự nhiên không bao giờ thật đầy đủ và tuyệt đối chính xác. Nhận thức của con người là quá trình phản ánh giới tự nhiên, nhưng đó không phải là là sự phản ánh đơn giản, hoàn chỉnh, và có khi đó không phải là sự phản ánh trực tiếp. Đúng như có người nói: con người không thể nào nắm được, phản ánh được, miêu tả được toàn bộ cái thế giới tự nhiên một cách đầy đủ, mà con người chỉ có thể đi gần mãi đến đó, bằng cách tạo ra những khái quát trừu tượng, những khái niệm, những quy luật, những bức tranh khoa học về một thế giới chung quanh. Con người là một trong những loài động vật có vú yếu ớt nhất trên trái đất, nhưng đồng thời con người cũng là chúa tể sức mạnh so với muôn loài. Sức mạnh đó không nằm ở cơ bắp, mà là ở tư duy, ở trí tuệ, ở trí khôn. Bộ não người có đến khoảng 100 tỷ nơrông (neuron) thần kinh, được kết nối với nhau thông qua khoảng 100 000 tỷ sợi liên bào (synapse). Đúng là nhận thức (hay tư duy) của con người là phức tạp nhất, rối rắm nhất, nhưng lại là sáng nhất và đó là một chuỗi khôn cùng trong cái biến thiên của thế giới tinh thần. Con người đã bay lên vũ trụ, bay lên được cả đến mặt trăng, mà ngay đầu thế kỷ XX có mơ cũng không tưởng tượng nổi. Con người còn khám phá ra bao nhiêu điều bí ẩn và phát minh ra bao nhiêu điều kỳ diệu trong cuộc sống. Thế kỷ XXI và các thế kỷ tiếp theo còn những điều gì nữa đây chứng tỏ sức mạnh vô biên từ trí tuệ của con người?[1] Đã có rất nhiều ý kiến đánh giá về Hồ Chí Minh, nhận xét về cuộc đời và sự nghiệp của ông, đánh giá về vai trò của ông đối với tiến trình dân tộc Việt Nam cũng như đối với quá trình phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại Ý kiến của người trong nước có, ngoài nước có; người cùng chính kiến với Hồ Chí Minh có; người khác chính kiến với Hồ Chí Minh cũng có; người sống cùng thời với Hồ Chí Minh có; người cùng làm việc với Hồ Chí Minh cũng có và cả những người thuộc thế hệ sau chưa từng gặp Hồ Chí Minh cũng có. Cũng như muôn vàn nhân vật lịch sử khác, Hồ Chí Minh được/bị mọi người nhìn nhận với nhiều con mắt khác nhau. Có người thì yêu, có người thì ghét, có cả người khác trận tuyến tuy không ưa ông (nếu phân thành tuyến ý thức hệ), nhưng lại vị nể ông. Nhận thức của con người ta thường không theo con đường thẳng tắp. Nhận thức của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam cũng như của quốc tế, về Hồ Chí Minh, nói cụ thể hơn là nhận thức, đánh giá về vai trò, về sự cống hiến của Hồ Chí Minh đối với toàn bộ sự phát triển của dân tộc Việt Nam và quá trình phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại, không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Nhận thức đó đầy góc cạnh, chiều cạnh, tuỳ từng lúc, từng người, tuỳ từng tâm trạng. Vào thời điểm này nhìn lại thì tương đối thuận lợi hơn trong đánh giá về Hồ Chí Minh, nhưng trong những năm 20, 30, 40 của thế kỷ XX thật không đơn giản một tý nào. Thật ra, hiện vẫn còn không ít ý kiến trong các cuốn sách, bài đăng các báo, tạp chí, các bài trên mạng internet đánh giá rất cực đoan, rất sai về Hồ Chí Minh, nhất là từ khi có các sự biến chính trị diễn ra làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn. Ghét sự nghiệp rồi ghét 8
- luôn cả con người của sự nghiệp đó. Bản chất của những ý kiến cực đoan đó hoàn toàn liên quan đến quan điểm không tán thành chế độ chính trị hiện hành của Việt Nam, một số ý kiến thấm đậm quan điểm chống cộng, thâm thù, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng có thể có nguyên nhân từ sự hiểu lầm, hiểu không đúng, hiểu chưa đầy đủ của Đảng Cộng sản Việt Nam, của các đồng chí cùng thời với Hồ Chí Minh, của bạn bè, của Quốc tế Cộng sản về Hồ Chí Minh. Lại cũng có thể có nguyên nhân từ chính tầm nhìn, tầm trí tuệ vượt trội của bản thân Hồ Chí Minh so với những người đương thời, những tổ chức đương thời với Hồ Chí Minh. Do có sự vượt trội của Hồ Chí Minh trong tư duy, cho nên, không ít người chưa đủ tầm để hiểu được ông. Hồ Chí Minh vượt cả tầm của Quốc tế Cộng sản về vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa; vượt cả tầm của V.I. Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Hồ Chí Minh vượt cả tầm những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về sách lược đối phó với kẻ thù khi tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương cuối năm 1945, khi ký với Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, rồi sau đó ký Tạm ước với Chính phủ Pháp tại Pari ngày 14-9-1946, coi như là bước lùi cuối cùng, một giới hạn tận cùng của sự nhân nhượng có thể nhân nhượng được, trong đó, tạm thời hạ mục tiêu độc lập xuống mà chịu nhận Việt Nam chỉ là một quốc gia tự chủ trong khối Liên hiệp Pháp để cứu vãn hoà bình vì ông quan niệm rằng, khi chiến tranh đã nổ ra thì máu của binh lính Pháp và máu của binh lính Việt Nam đều quý như nhau. Đến mức ấy, nhân nhượng đến như vậy mà vẫn không cứu nổi hoà bình vì càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới. Bước lùi đã chạm đến giới hạn cuối cùng. Nhân dân Việt Nam quyết không chịu làm nô lệ. Sau lưng Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam là sông Cửu Long, không thể lùi được nữa. Lúc ấy, chiến tranh nổ ra. Chính như vậy cho nên chúng ta mới gọi Hồ Chí Minh là bậc vĩ nhân, người có tầm nhìn xa trông rộng, nghĩ và làm những điều đúng đắn, tốt đẹp mà người thường chưa nghĩ được tới. Phạm Văn Đồng, người đã nhiều năm cùng sống và làm việc bên cạnh Hồ Chí Minh, là Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Thủ tướng lâu năm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (sau này là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đã có những lời viết về Hồ Chí Minh liên quan đến ý này khi ông cho rằng, Hồ Chí Minh là con chim phượng hoàng của dãy núi Trường Sơn hùng vĩ có tầm mắt xuyên suốt từ đồng bằng châu thổ sông Hồng, nơi buổi đầu dựng nước, đến đồng bằng sông Cửu Long giàu hoa quả và trí dũng và xuyên suốt năm châu bốn biển. Rồi nữa, cũng như chính Phạm Văn Đồng, trong một bức điện gửi cho Tỉnh uỷ Thừa Thiên – Huế và Ban Chủ nhiệm Chương trình khoa học và Công nghệ cấp nhà nước giai đoạn 1991 – 1995 KX.02 Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nhân dịp hai cơ quan này phối hợp tổ chức cuộc hội thảo khoa học với chủ đề “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh” tại thành phố Huế trong hai ngày 14 và 15-5-1993, ông viết: “Thời gian ở Huế là thời gian Nguyễn Tất Thành lớn lên và bắt đầu đi học. Những năm tháng đó là thời gian cực kỳ quan trọng đối với sự hình thành con người Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Các đồng chí cần đi sâu vào thời gian này, thời gian hình thành một con người lạ lùng, với một cuộc đời lạ lùng, những hoạt động lạ lùng đưa đến những thành tựu lạ lùng mà chúng ta ở Việt Nam đang nghiên cứu, đồng thời nhiều người ở nước ngoài cũng nghiên cứu, và sau này người ta còn nghiên cứu”[2]. Ở đây, chỉ trong một đoạn điện văn ngắn về Hồ Chí Minh mà Phạm Văn Đồng đã dùng tới 4 chữ “lạ lùng”. Ngay cả đối với hai người mà tôi cho rằng sống gần Hồ Chí Minh nhiều nhất, đó là Phạm Văn Đồng và Vũ Kỳ, đã viết về Hồ Chí Minh khá nhiều, nhưng cũng mới chỉ nói lên được một phần nào đó trong cuộc đời và sự nghiệp phong phú của Hồ Chí Minh. Phạm Văn Đồng là người dự lớp huấn luyện của Hội Việt Nam Cách mệnh Thanh niên (1925-1927) ở Quảng Châu (Trung Quốc) do Hồ Chí Minh mở. Sau này, đến năm 1940, 9
- Phạm Văn Đồng cùng với Võ Nguyên Giáp đi tìm gặp Hồ Chí Minh ở Côn Minh, thủ phủ của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Phạm Văn Đồng sống trong Phủ Chủ tịch (Ba Đình – Hà Nội) từ năm 1954 đến năm 1970. Năm 1954, sau khi từ Việt Bắc về Hà Nội, Hồ Chí Minh không ở dinh Toàn quyền Đông Dương cũ mà ở ngôi nhà cấp 4 vốn là nhà của một người thợ điện. Còn Phạm Văn Đồng ở căn buồng của người quản lý dinh Toàn quyền cũ, cách buồng mà Hồ Chí Minh ở chỉ một cái sân. Đến năm 1958, Hồ Chí Minh chuyển sang ở nhà sàn thì Phạm Văn Đồng vẫn ở chỗ cũ không xa nhà sàn là mấy. Và như vậy, Hồ Chí Minh với Phạm Văn Đồng là láng giềng, là hàng xóm của nhau từ năm 1954 đến khi Hồ Chí Minh qua đời năm 1969. Đã có lúc, Hồ Chí Minh ngỏ ý mời Phạm Văn Đồng sống cùng với mình vì biết Phạm Văn Đồng có người vợ bị bệnh tâm thần. Phạm Văn Đồng lấy cớ là mình đang có gia đình riêng, đang có vợ, tuy là đang bị bệnh, và có một con trai, cho nên không nhận lời mời. Cũng có thể cả Phạm Văn Đồng muốn để cho bản thân mình và cho cả Hồ Chí Minh có một khoảng trời riêng tư trong cuộc sống. Không ở cùng nhau trong một nhà nhưng hai người thường xuyên gặp nhau, thường ăn cơm cùng nhau, và thường xuyên trò chuyện, cả những chuyện trên trời dưới bể, đúng như những người hàng xóm của nhau. Năm 1970, chỉ mấy tháng sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Phạm Văn Đồng tâm sự với những người giúp việc của mình: “Tôi không thể và không nên tiếp tục ở và làm việc trong căn nhà này, bởi hàng ngày hình ảnh Bác cứ như trước mặt tôi, tiếng Bác cứ nhè nhẹ bên tai tôi, làm tôi không cầm được lòng. Hơn nữa toàn bộ khu vực này rồi đây phải xây dựng thành khu di tích Bác Hồ để đồng bào, đồng chí, chiến sĩ đến thăm, làm sao tôi ở đây được. Anh em nên tìm cho tôi một nơi khác thì tiện hơn”[3]. Ở gần Hồ Chí Minh nhiều năm, và Phạm Văn Đồng viết: “Tôi có may mắn được ở gần Hồ Chí Minh trong nhiều năm, qua nhiều giai đoạn của cách mạng Việt Nam, từ lớp huấn luyện chuẩn bị thành lập Đảng ở Quảng Châu, đến những ngày cuối cùng trước khi Bác Hồ qua đời Nhờ chứng kiến hoạt động và chia sẻ cuộc sống của Hồ Chí Minh một thời gian dài, tôi dần dần hiểu biết thêm về con người Hồ Chí Minh”[4]. Sống cùng nhau một thời gian lâu là một chuyện. Còn từ đó mà hiểu đầy đủ, hiểu sâu sắc về nhau lại là một chuyện khác. Chính vì thế mà Phạm Văn Đồng mới chỉ dám viết là “dần dần hiểu biết thêm về con người Hồ Chí Minh”. Nhiều người có cùng tâm trạng giống như Phạm Văn Đồng. Ông Vũ Kỳ, cựu học sinh Trường Bưởi của Hà Nội, sau này là người thư ký lâu năm nhất của Hồ Chí Minh. Ông biết nhiều về Hồ Chí Minh, hiểu được cách sống của Hồ Chí Minh, thậm chí tập viết chữ giống như chữ viết của Hồ Chí Minh, có thời để râu và ria mép như Hồ Chí Minh. Nhưng cũng như nhiều người khác, ông thú nhận là Hồ Chí Minh không mấy khi bộc bạch về bản thân mình. Những cuốn sách, những bài báo gây ra nhiều ý kiến khác nhau mà người ta đồ rằng do Hồ Chí Minh viết, thì vẫn đang là một ẩn số (Trong số đó là cuốn của Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch ra mắt công chúng lần đầu tiên năm 1948). Lại có người nói rằng (nói chứ không viết ra), Hồ Chí Minh là người giỏi chiêm tinh học, hiểu rõ tướng số, kinh dịch, v.v. Nghe có vẻ đầy những điều huyền bí trong cuộc sống. Hồ Chí Minh xem thế sự, xem vận hạn, đoán định các bước thăng giáng của cộng đồng, của đất nước, của thế giới, của người khác rất giỏi. Nhưng ông lại không xem được cho chính mình bởi dao sắc không gọt được chuôi. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đoán định được nhiều sự việc mà sau này diễn ra đúng y chang như vậy. Chẳng hạn, Hồ Chí Minh đoán định chiến tranh thế giới thứ nhất sẽ diễn ra; đoán định rằng Chiến tranh thế giới thứ nhất làm ra đời 1 nước xã hội chủ nghĩa, còn Chiến tranh thế giới thứ hai sẽ làm cho một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời; năm 1942 đoán định năm 1945 Việt Nam sẽ giành được độc lập; năm 1960 đoán định cùng lắm thì 15 năm nữa (tức là năm 1975) Bắc — Nam sẽ sum họp một nhà; trong tài liệu Tuyệt đối bí mật viết năm 1965 (sau này được gọi là Di chúc), Hồ Chí Minh viết rằng, cuộc chống Mỹ của nhân dân 10
- Việt Nam tuy sẽ kinh qua nhiều gian khổ, khó khăn nhưng sẽ thắng lợi hoàn toàn, và ông còn nhấn mạnh thêm: “Đó là một điều chắc chắn”; năm 1967, khi Mỹ đưa máy bay B-52 ra ném bom miền tây tỉnh Quảng Bình, trong buổi làm việc với Quân chủng Phòng không – Không quân, Hồ Chí Minh nói rằng, nhất định Mỹ sẽ thua, nhưng chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội bằng máy bay B-52, v.v. và v.v. Có lần, vào năm 1999 thì phải, tôi đã nghe thày giáo của tôi – cố Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng, người đã dạy cho lớp tôi môn học Khảo cổ học đại cương năm thứ nhất (1970) Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội – nói chuyện về vấn đề phương pháp nghiên cứu khoa học, trong đó đề cập cả phương pháp của Hồ Chí Minh. Ông có một bài viết dưới dạng đề cương hơn 5 trang về Hồ Chí Minh rất hay, nhan dề là: “Chủ tịch Hồ Chí Minh – biểu tượng và người mang chở những giá trị văn hoá đông tây kim cổ”, bên dưới có ghi địa điểm và thời gian viết: “Hà Nội 1989 – 1994”. Giáo sư Trần Quốc Vượng là người rất giỏi chiêm tinh. Không những ông tự nhận điều đó khi nói chuyện với chúng tôi đã đành, ông còn viết bài tự nhận về điều đó (Chẳng hạn bài “Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng ?” trong tác phẩm tuyển chọn Văn hoá Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học, Hà Nội, 2003). Trong buổi nói chuyện năm 1999 đó, Giáo sư Trần Quốc Vượng trao đổi học thuật xung quanh vấn đề phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh, đã cho rằng, sở dĩ Hồ Chí Minh đoán định được như vậy là vì Hồ Chí Minh đã sử dụng được thuật chiêm tinh. Giáo sư Trần Quốc Vượng còn kể lại rằng, hồi chống Pháp tái xâm lược, ông ấy có đến Thư viện quốc gia ở căn cứ Việt Bắc hỏi mượn cuốn sách về chiêm tinh của Trung Quốc, thì chị thủ thư trả lời rằng, Thư viện chỉ có độc mỗi một cuốn đó mà có người đã mượn từ lâu lắm rồi chưa trả. Hỏi ai mượn thì được trả lời là người thư ký của Hồ Chí Minh (mượn cho Hồ Chí Minh và lâu chưa thấy trả lại). Chuyện thực hư thế nào không rõ. Nhưng, tôi cho rằng, chắc chắn không thể nhuốm màu chiêm tinh như thế đối với những đoán định của Hồ Chí Minh về thế sự, thời cuộc. Nói vậy mà không phải vậy. Câu chuyện chiêm tinh mà Giáo sư Trần Quốc Vượng nói cứ ngồ ngộ, là lạ thế nào ấy. Giáo sư Trần Quốc Vượng suy diễn theo cách của ông ấy thôi, và cũng hợp với cái cách bạo mồm, bạo bút của ổng. Hồ Chí Minh là người có kinh nghiệm và là người hoạt động bí mật rất giỏi, đã vô số lần đánh lừa được mật thám Pháp, nhưng bản thân ông lại bị bắt và cầm tù hai lần trong tình thế phong trào đang rất cần ông. Ông có tài thuyết giáo, thu phục nhân tâm nhưng lại bị “cầm tù” bởi những quan điểm không đúng của Quốc tế Cộng sản. Do vậy, có những năm tuy ông đang sống bên trong nhưng kỳ thực ông cảm thấy sống ở bên lề, bên cạnh, bên ngoài gia đình Quốc tế Cộng sản. Ông là người giỏi dùng người, ông có thuật dùng người và đã rất đắc dụng đối với những nhân sĩ trí thức không cộng sản, nhất là trong quãng thời gian sóng gió của buổi đầu lập nước Việt Nam mới. Nhưng ông lại bị những hạt giống cộng sản do ông vun trồng trong thế hệ đầu tiên của thời dựng Đảng Cộng sản ở Việt Nam hiểu không đúng về bản thân ông, họ đã tán đồng với những quan điểm của Đại hội VI tả khuynh của Quốc tế Cộng sản để phê phán ông, v.v. Hồ Chí Minh chính là một cái khối nam châm khổng lồ hút tất cả mọi sinh lực có thể hút được vào cuộc hồi sinh và phát triển cho dân tộc Việt Nam và cho sự tiến bộ của nhân loại cần lao. Cho dù ai đó thần thánh hoá Hồ Chí Minh, thần bí thêu dệt về ông, thì ông vẫn là một con người thực, sống cùng dân tộc và nhân loại trong cái thế phát triển. Tôi thuộc thế hệ 5X, một thế hệ sống trong quãng thời gian của thời chiến tranh Việt – Mỹ, sau đó là “thời bao cấp” và của cả “thời đổi mới” ở Việt Nam, chúng đan xen nhau và chuyển giao từ cái “thời” này sang “thời” kia, cho nên cũng phần nào có điều kiện trực tiếp cảm nhận được những hình thù xù xì, gồ ghề, lồi lõm, thăng trầm của mỗi thời mà so sánh, đối chiếu chúng. Tôi là một trong những người chưa bao giờ được gặp Hồ Chí Minh. Nhưng, không phải cứ nhất thiết phải sống trong lòng sự kiện mới hiểu sự kiện. Không phải cứ sống cùng thời 11
- hoặc “ba cùng” hay “bốn cùng” với ai đó thì mới viết về người đó một cách chính xác. Đại văn hào Nga Liép Tônxtôi (Nga) viết về chiến tranh rất hay, rất sinh động nhưng ông không sống trong cuộc chiến tranh ấy. Các nhà sử học chân chính và giỏi giang đời sau viết về lịch sử đã diễn ra trước đó hàng thế kỷ nhưng rất chính xác và sâu sắc. Tôi muốn viết về Hồ Chí Minh trên cơ sở nghiên cứu những tài liệu của chính bản thân Hồ Chí Minh để lại, ngoài ra còn tham khảo nhiều tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, cả trong và ngoài nước. Mà các nguồn tài liệu của Hồ Chí Minh và nghi là của Hồ Chí Minh, về Hồ Chí Minh cho đến nay thì nhiều vô kể, thật hư có lúc chưa biết đâu mà lần. Cả điểm nhìn, cả cách nhìn, cả cái tâm của mỗi người khi đánh giá về Hồ Chí Minh nữa. Cũng cùng một sự kiện, nhưng với cái tâm như thế này thì người viết đánh giá Hồ Chí Minh như thế, còn với cái tâm khác thì người viết lại đánh giá Hồ Chí Minh khác hẳn một trời một vực. Số người viết sách, viết báo, cả báo viết, cả báo mạng để cố tình xuyên tạc Hồ Chí Minh cho đến nay không ít. Họ xuyên tạc đủ điều, “bôi đen” Hồ Chí Minh từ đời riêng đến cả các mối quan hệ công tác và có ý khái quát cả những hiện tượng nhất thời, không đúng bản chất sự việc. Có khi họ cố tình đem Hồ Chí Minh đối lập với dân tộc Việt Nam. Có khi họ cho rằng, Hồ Chí Minh là đồ đệ của Quốc tế Cộng sản, của V.I. Lênin, của J. Xtalin nhưng núp dưới bóng chủ nghĩa dân tộc. Có khi họ cho là không thể có tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ lý giải lòng dân và ý dân Việt Nam yêu kính Hồ Chí Minh là một sự sùng bái cá nhân. Vân vân và vân vân. Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh được người ta biểu đạt qua nhiều lĩnh vực. Ngoài lĩnh vực khoa học ra, còn có cả trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật nữa. Rồi cả phương pháp tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phương pháp thể hiện của mỗi người đều có sự khác nhau. Khác nhau như thế là sự thường. Mà chính do có khác nhau cho nên nhân vật Hồ Chí Minh mới được người ta biểu đạt một cách nhiều chiều, lung linh, sinh động. Và, như thế thì quả thật Hồ Chí Minh là một nhân vật thật sự hấp dẫn. Có người chỉ dựa vào tài liệu thành văn từ nhiều nguồn khác nhau để nghiên cứu và viết về Hồ Chí Minh, nhất là những tài liệu ở các kho lưu trữ trên thế giới. Lớn nhất là ở Nga và ở Pháp. Tài liệu nhiều ở Pháp là vì Hồ Chí Minh đã có một thời gian sống và hoạt động yêu nước, cách mạng ở Pháp (gần 10 năm – không liên tục). Khối lượng tài liệu từ các báo cáo của mật thám Pháp theo dõi ông khá nhiều và rất tỷ mỉ, tuy chỉ là những nhận xét bên ngoài. Những tài liệu liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam (tôi gọi chung cho các thời kỳ của các tên gọi Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam) và liên quan đến Hồ Chí Minh có rất nhiều ở kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô (đặt tại thủ đô Mátxcơva), phông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh đã hoạt động ở Liên Xô từ mùa hạ năm 1923 và sau đó gần một năm chính thức trở thành một cán bộ của Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là một phân bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản từ tháng 4 năm 1931. Do đó, các báo cáo, thư từ, các tài liệu khác liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam và liên quan đến Hồ Chí Minh được lưu trữ khá nhiều ở đấy. Hơn nữa, công tác lưu trữ ở Liên Xô có từ khá sớm, được bảo đảm tốt trên một cơ sở khoa học. Không ít lần, trong khuôn khổ quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước của Liên Xô và Việt Nam, nhiều cán bộ của Việt Nam đã sang khai thác nguồn tài liệu này. Nhưng, thực sự “cơ chế” cứng nhắc, cái cơ chế gần như đóng từ phía Liên Xô đã không cho phép các cán bộ Việt Nam khai thác được gì nhiều trong kho tư liệu đó. Không riêng gì đối với Việt Nam mà Liên Xô còn áp dụng chung cái cơ chế đóng này cho tất cả những ai đến khai thác tài liệu lưu trữ ở đây, dù đã được thoả thuận qua cấp bộ Đảng, Nhà nước. Liên Xô tan rã đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Một cơ chế hoàn toàn mới, một cơ chế mở đối với kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản đã được thực thi. Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới phần thì nhanh chân hơn, phần thì nhạy cảm thông tin hơn, phần thì nhiều tiền hơn, đã 12
- đặt chân đến kho lưu trữ Mátxcơva trước những cán bộ Việt Nam để khai thác những tài liệu, trong đó có những tài liệu về Hồ Chí Minh mà chưa từng được công bố. Việt Nam lúc này, năm 1992-1993, theo tôi được biết, có ít nhất hai đoàn sang khai thác những tài liệu liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh tại kho lưu trữ Mátxcơva. Một đoàn của Cục lưu trữ thuộc Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một đoàn của Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp nhà nước giai đoạn 1991-1995 Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, mã số KX.02. Chương trình này do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ quan chủ trì, Giáo sư Viện trưởng Đặng Xuân Kỳ làm Chủ nhiệm. Tôi đã nghiên cứu các tài liệu này hiện đang lưu ở Cục Lưu trữ thuộc Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và một phần lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh và tại Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Sau thời gian khai thác tài liệu từ nguồn này, cả ở trong và ngoài nước, người ta đã công bố một số tài liệu về Hồ Chí Minh mà từ trước đến lúc bấy giờ chưa được ai công bố, trong đó cải chính, đính chính lại một số bài viết của Hồ Chí Minh mà do trước đây chưa có tài liệu gốc để kiểm chứng cho chính xác. Một số tài liệu được bổ sung, đưa vào bộ Hồ Chí Minh Toàn tập gồm 12 tập được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản trong hai năm 1995, 1996 (Sau này, đến năm 2000, 2001, bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập được tái bản không sửa chữa, bổ sung) [5]. Ngày 18-5-2005, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Quyết định số 142/QĐ-TW, đã chủ trương tổ chức tiến hành sưu tầm, xác minh, bổ sung các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh cho bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, dự định sẽ xuất bản vào dịp kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Hồ Chí Minh, năm 2010. Năm 2006, trong một lần đến thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội, ông S.V. Xtépashin (Tổng Kiểm toán Liên bang Nga) đã có ấn tượng rất sâu sắc về những tư liệu, hiện vật tại Bảo tàng. Tính đến thời điểm năm 2006, Bảo tàng Hồ Chí Minh của Việt Nam đã lưu giữ được 130 000 tài liệu, hiện vật gốc về Hồ Chí Minh, trong đó trưng bày hơn 2 500 tài liệu, hiện vật. Theo đề nghị của S.V. Xtépashin, trong dịp Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn châu Á – Thái Bình Dương (APEC) từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 11 năm 2006 ở Hà Nội và nhân đó thăm chính thức Việt Nam, Tổng thống Liên bang Nga Vlađimia Vlađimirôvích Putin đã trao cho Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết bộ phim tài liệu “Tên Người là Hồ Chí Minh”, nhiều bản sao tài liệu về Đảng Cộng sản Việt Nam và về Hồ Chí Minh từ kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô và Quốc tế Cộng sản trước đây. Gần đây nhất là vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 2006, Đoàn cán bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh thuộc Bộ Văn hoá – Thông tin Việt Nam (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã dành ra một tháng sang sưu tầm tài liệu tại Kho lưu trữ Lịch sử Chính trị Xã hội Liên bang Nga. Đoàn đã sưu tầm được 1 000 trang tài liệu trong số hàng vạn trang về Hồ Chí Minh. Đó là những bức thư, các bản báo cáo, bản thảo, bút tích, nhiều bài viết của Hồ Chí Minh những năm 1923 – 1952 chủ yếu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Nga; những bài phát biểu của ông trên nhiều diễn đàn quốc tế; không ít giấy tờ cá nhân liên quan đến hoạt động của ông những năm 1922 – 1938 (thẻ dự các Đại hội Đảng Cộng sản Pháp, Đại hội Quốc tế Cộng sản, Đại hội Quốc tế Thanh niên, thị thực nhập cảnh nước Nga, hộ chiếu, một số bản khai lý lịch, v.v.). Có cả những đoạn phim tư liệu ghi dấu ấn của Hồ Chí Minh dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hội nghị Quốc tế nông dân. Vẫn còn hàng trăm thước phim tài liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh có trong Kho lưu trữ này của Liên bang Nga. Đó là chưa kể có thể còn rất nhiều những tư liệu quý về Hồ Chí Minh đang lưu giữ tại nhiều kho lưu trữ ở các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Đài Loan thậm chí ở trong một số cá nhân. Những tài liệu ở các kho lưu trữ thật đáng quý. Nhưng, dù chúng đáng quý như thế nào đi chăng nữa thì cũng cần được thẩm định, được nhận thức một cách đúng đắn qua tư duy của 13
- người nghiên cứu. Những tài liệu lưu trữ là những chứng cứ, song những chứng cứ ấy bao giờ cũng bị chế định bởi hoàn cảnh lịch sử và muôn vàn yếu tố khác nữa. Nó chưa hoàn toàn là sự thật. Nó chỉ là một mảnh ghép nào đó thôi của sự thật. Do vậy, mới có tình trạng là tài liệu cùng một nguồn nhưng nhận thức, đánh giá của một số người lại trái ngược nhau. Cho đến hiện nay, tài liệu của Hồ Chí Minh (tức là chính những bài nói, bài viết của bản thân Hồ Chí Minh), tài liệu về Hồ Chí Minh (tức là những bài viết của nhiều người cả trong và ngoài nước Việt Nam về Hồ Chí Minh, trong đó có cả những bài viết đã được khuôn vào hàng sách giáo trình, tập bài giảng chung, cũng như giáo trình dùng trong các học viện, các trường đại học và cao đẳng) có rất nhiều[6]. Với mạng internet hiện nay, có không ít quyển sách, bài viết về Hồ Chí Minh được tung lên mạng đủ các cỡ, các dạng, với những động cơ không trong sáng, biểu đạt rất phức tạp, trong đó đáng chú ý là những trang sách, những bài viết tiếng Việt của các tác giả người gốc Việt Nam, như Bùi Tín, Nguyễn Thế Anh, Lê Hữu Mục, Nguyễn Minh Cần, Vũ Thư Hiên Lại có một dạng sách tham khảo nữa là các chuyện kể có liên quan đến Hồ Chí Minh. Các chuyện kể này là hồi ký, hồi tưởng của những người cùng hoạt động với Hồ Chí Minh, của những người được một hay nhiều lần gặp Hồ Chí Minh. Thậm chí, lạ thay, cả của những người chưa từng gặp Hồ Chí Minh lần nào lại biên soạn những chuyện kể về Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là con người của hành động. Có nhiều khi quan điểm của ông, tư tưởng của ông lại phát tiết từ chính hành động chứ không từ sách, báo của ông, không từ lời nói của ông. Do đó, những chuyện kể đóng góp một phần quan trọng nào đó cho việc tìm hiểu ông. Những bài viết, những cuốn như của T. Lan “Vừa đi đường vừa kể chuyện” hay của Trần Dân Tiên “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” (đang nghi là do chính Hồ Chí Minh viết), v.v. hay những bài báo, những cuốn sách kể chuyện hoặc viết về cuộc sống thường nhật của Hồ Chí Minh cũng rất quý. Trong số đó, tôi thích nhất là những câu chuyện kể của ông Sơn Tùng, có những câu chuyện liên quan đến Hồ Chí Minh mà chưa viết bao giờ. Tôi rất thích những bài viết, chuyện kể về Hồ Chí Minh của Vũ Kỳ, nhật ký của Lê Văn Hiến, bài viết, chuyện kể của Việt Phương, tác phẩm của Vũ Đình Hoè về pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, những chuyện kể rủ rỉ rù rì mộc mạc rất có duyên của Hoàng Đạo Thúy, v.v. Năm 2004, trong khuôn khổ tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) đã tiến hành nghiên cứu hai chương trình khoa học trọng điểm, trong đó có Chương trình tổng kết Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới. Công trình khoa học này đã được Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản tháng 5 năm 2005[7]. Công trình đã tổng thuật, tuy chưa được đầy đủ, nhưng cũng đã nêu lên được những nét chính về các công trình ở trong và ngoài nước viết về Hồ Chí Minh. Một điều tôi cần nêu ở đây là, mặc dù tài liệu của Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh nhiều như vậy nhưng vẫn còn nhiều tài liệu vẫn còn đang ở dạng nghi vấn, nhiều tài liệu về Hồ Chí Minh, nhiều chuyện kể (hồi ký, hồi tưởng) về Hồ Chí Minh còn chưa đạt được tính chân xác. Điều này là dễ thấy. Trí nhớ của con người, động cơ của người đưa tin khác nhau. Không nói đâu xa, ngay cả những sự kiện, không phải sự kiện nhỏ mà sự kiện lớn hẳn hoi, diễn ra cách đây không lâu lắm, chẳng hạn sự kiện ở Dinh Độc Lập (Sài Gòn) trưa ngày 30-4-1975, mà mỗi người nhớ một phách, ỏm tỏi lên, ai cũng bảo là mình đúng. Việc sưu tầm những tư liệu, hiện vật của Hồ Chí Minh, về Hồ Chí Minh vẫn đang còn ở phía trước, chủ yếu là ở các kho lưu trữ nước ngoài, ở những cá nhân nào đó trên khắp bốn phương trời vì vốn dĩ Hồ Chí Minh có lẽ là một người hoạt động chính trị đi nhiều nhất các nước trên thế giới (khoảng gần 40 lượt nước trong vòng 30 năm, từ năm 1911 đến năm 1941). Chúng ta mới biết được những điều chủ yếu nhất trong sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, còn những chi tiết của cuộc đời Hồ Chí Minh, có lẽ khó mà biết được một cách hoàn toàn. 14
- II. Quan điểm ĐỪNG VẼ RẮN THÊM CHÂN “Các chú đừng vẽ rắn thêm chân”, đó là câu Hồ Chí Minh thường nói với những người sống gần ông khi những người đó miêu tả, đánh giá, nhận định về một người hay một việc nào đấy. Ngay cả việc Hồ Chí Minh thấy người khác nói, viết về mình, nặn tượng, vẽ tranh về mình, ông cũng rất ngại, và thường là ông khuyên người ta đừng có làm điều đó. Thời còn là sinh viên ở trong ký túc xá của đất Mễ Trì (Hà Nội), nơi mà các lớp học trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và hải quân của Mỹ mới từ nơi sơ tán trở về (năm 1970), có một đêm các lớp sinh viên chúng tôi đã được nghe ông Hoài Thanh, một nhà thơ có tiếng cũng là một cây bút phê bình văn học sắc sảo, nói chuyện về thơ Hồ Chí Minh, có nghệ sĩ Kim Cúc ngâm thơ “minh hoạ”. Tôi nhớ rất đậm lời ông Hoài Thanh bình rằng: “Thơ Bác hay vì đó là thơ Bác”. Có lần, trong đêm, Hồ Chí Minh nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, có buổi nghe thấy ông Hoài Thanh bình thơ của Hồ Chí Minh. Một hôm, tình cờ gặp Hoài Thanh trong một hội nghị, Hồ Chí Minh nói vui với Hoài Thanh rằng, thơ của ông không hay đến thế; những ý tứ mà Hoài Thanh bình ở trong Đài, thì khi làm thơ, chính bản thân Hồ Chí Minh không nghĩ đến. Hồ Chí Minh không nhận mình là nhà thơ. Lúc trong tù của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, năm 1942, ông tâm sự thể hiện trong bài thứ hai, tập Ngục trung nhật ký: Khai quyển Lão phu nguyên bất ái ngâm thi, Nhân vị tù trung vô sở vi; Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật, Thả ngâm thả đãi tự do thì. Nam Trân dịch: Mở đầu tập nhật ký Ngâm thơ ta vốn không ham, Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây; Ngày dài ngâm ngợi cho khuyây, Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do. Còn trong cuộc sống hằng ngày, kể cả khi làm Chủ tịch nước, ông làm thơ để giãi bày, để kêu gọi mọi người trong các phong trào thi đua yêu nước. Ông khiêm tốn đã đành, nhưng ông sợ người ta “vẽ” sai mình, mà đó chính là điều quan trọng nhất. Sự thật là những điều ai cũng có thể thấy rõ trong cuộc sống. Nhưng, không ít những sự thật bị che dấu, che lấp, bị nằm lẫn trong vô vàn cái sự rối cuộc đời. Có khi sự thật đã trở thành một thứ “trầm tích” mà nếu muốn biết rõ, hiểu rõ thì phải khai nó lên. Khác và đối lập với sự thật là những điều giả dối, xuyên tạc. Người ta hay gây nhiễu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh[8]. Hồ Chí Minh có vợ có con hay không là câu chuyện bị gây nhiễu nhiều nhất. Ngày 3-11-1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh trai của Hồ Chí Minh đến thăm em, nhân lúc vui vẻ có hỏi em mình: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình riêng của chú ra sao?”. Hồ Chí Minh trả lời hóm hỉnh: “Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì thì thôi. Em không phải là người tu hành nhưng vì việc nước quên việc nhà”[9]. Tháng 1 năm 1947, Hồ Chí Minh viết trong bức thư chia buồn khi được tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng, người theo đạo Thiên Chúa, oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc: “Ngài biết rằng 15
- tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam. Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc”[10]. Ngày 16-7-1947, trả lời câu hỏi thứ mười của một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói: “Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ. Bao giờ đạt được mục đích đó, tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thủy, đọc sách làm vườn”[11]. Năm 1948, cũng trong thời kháng Pháp, trong cơ quan Phủ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh là người hay khơi các trò chơi sau giờ làm việc. Có khi đó là một buổi tối lửa trại, tự diễn tuồng, chèo, kịch tại chỗ, có cả hoạt náo viên, có khi là họa thơ, đối thơ, v.v. Trong những buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Hồ Chí Minh nói: “Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!” [12]. Còn Phan Anh, khi thấy sức khoẻ của Hồ Chí Minh có phần giảm sút trong những ngày gian khổ tại An toàn khu (ATK) năm 1948 lúc Hồ Chí Minh 58 tuổi, trông Hồ Chí Minh đã già lắm rồi, có đề nghị Hồ Chí Minh lập gia đình để có người thân thương hằng ngày săn sóc, thì Hồ Chí Minh thủng thẳng nói: “Ông bảo thế tôi không phải là con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu Nhưng ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!”[13]. Người ta có quyền không tin những điều trên đây do chính bản thân Hồ Chí Minh viết và nói. Nhưng, ai và những tài liệu nào xác đáng để chứng minh rằng Hồ Chí Minh có vợ, có con? Không, không có tài liệu nào thuyết phục người đọc được cả. Tôi bày tỏ quan điểm của tôi rằng: việc Hồ Chí Minh có vợ, có con hay không có vợ, không có con thì chẳng ảnh hưởng gì đến tư cách, đạo đức của ông cả. Nếu ông có vợ, có con, nghĩa là có gia đình riêng, thì với những gì ông đã cống hiến cho đất nước, tôi vẫn nhận định được rằng: Hồ Chí Minh đã hy sinh lợi ích riêng tư để dâng hiến cho Tổ quốc thân yêu của mình. Không phải không có vợ con mới là hy sinh chuyện riêng tư. Chỉ có điều là nếu Hồ Chí Minh có vợ thì đấy mới là chính là một con người hoàn chỉnh, không phải là phản tự nhiên. Cũng chính vì thế mà chúng ta hay nói người vợ hay người chồng chính là một nửa bên kia của nhau. Hồ Chí Minh cũng không ít lần nói về cái khiếm khuyết của chính cuộc đời mình, và một trong những khiếm khuyết đó là không có vợ; do vậy ông khuyên thanh niên Việt Nam đừng nên học mình về điều đó. Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì ông không thể giấu được trong ngần ấy năm. Giấu làm sao được trong con mắt của hàng triệu, hàng triệu con người giữa thế gian, ở đất nước Việt Nam của ông và cả ở trên thế giới. Người bình thường đã khó giấu, huống hồ ông lại là một người nổi tiếng, ông là con người của công chúng, thì lại càng khó giấu hơn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cái kim trong bọc lâu ngày rồi sẽ lòi ra”. Đã rất lâu ngày, nhưng cái bọc không thấy lòi ra một cái kim nào cả. Làm gì có cái kim nào. Còn miệng thế gian thì càng không thể nào che được. Ông Sơn Tùng là người rất rành và rất đúng đắn về việc nghiên cứu Hồ Chí Minh. Sơn Tùng là nhà viết văn, nhà báo, nhà thơ. Ông đã có thơ mà Nhạc sĩ Lê Việt Hoà đã phổ nhạc (bài Gửi em chiếc nón bài thơ) [14]. Nhưng điều này thì không phải ai cũng biết: cả cuộc đời ông nghiên cứu Hồ Chí Minh một cách say mê, nghiêm túc, chỉn chu, đầy bản lĩnh. Sơn Tùng đi nhiều, viết nhiều, mà đề tài dường như chuyên sâu nhất và dường như duy nhất là về Hồ Chí Minh, mà tác phẩm nổi tiếng nhất, có tiếng vang nhất của ông là Búp sen 16
- xanh đến nay đã tái bản hơn 30 lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng (Tác phẩm này có lúc bị “đánh” một cách phũ phàng, vô lối). Sơn Tùng lao động, tìm hiểu vấn đề một cách say sưa, tận tụy với công việc, cày sâu, cuốc bẫm, thâm canh trên mảng đề tài Hồ Chí Minh. Điều đáng ngạc nhiên là ông là một thương binh nặng nhất trong thang bậc xếp hạng hiện nay ở nước ta (hạng 1/4), hiện vẫn còn mảnh đạn ở trong đầu, vết thương vẫn còn hành hạ ông. Mấy buổi chiều mới chớm hạ năm 2007, lần theo cái ngõ nhỏ ồn ã, gập ghềnh, lổn nhổn đầy ổ gà, tôi đến thăm Sơn Tùng và nhân đó ngỏ ý mời ông đến trao đổi ý kiến chung quanh vấn đề nghiên cứu Hồ Chí Minh cho nhóm nghiên cứu của tôi ở Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, nhưng thấy ái ngại quá cho ông. Những ngày đó, thi thoảng Sơn Tùng vẫn bị máu rỉ từ tai ra. Thường thì những buổi chiều trong căn hộ xinh nhỏ của Sơn Tùng mà ông gọi là Chiếu Văn ở trên gác hai chung cư ngõ Văn Chương chật hẹp, bất cứ mùa hè nóng bỏng hay mùa đông buốt giá, vẫn thế, vẫn hiện một con người nhỏ thó, đầy nghị lực, ngồi tiếp khách theo lối thiền, không bàn, không ghế mà ngồi bệt xuống sàn gỗ. Tiếng con chim cu gáy sống tự do không lồng như một thành viên trong gia đình Sơn Tùng, nó hay đứng trên giá sách cất tiếng gù chào mỗi khi có khách đến nhà, thật vui, mà ông gọi đó là “tiếng vàng cu gáy mênh mang thành phố vào Xuân” (Rất tiếc, mèo đã bắt trong một lúc chủ nhà sơ sẩy). Sơn Tùng và gia đình ông sống một cuộc sống đạm bạc. Hằng ngày, Sơn Tùng vẫn thiền như là một phương thuốc cực kỳ hiệu nghiệm cho cuộc sống. Bởi vậy, đến nay, khi tôi viết bổ sung những trang sách của phần này, vào năm 2008, Sơn Tùng đã hơn 80 tuổi nhưng vẫn minh mẫn, vẫn viết đều. Trong những buổi chiều tà mùa đông trước đó, vào những năm cuối thế kỷ XX, trong tiếng gió bấc rít dài từng cơn đập vào cánh cửa tầng hai khu chung cư cổ lâu ngày thiếu sự trung tu có vẻ ọp ẹp, trong cái màn mưa phùn như bụi giăng đầy ngõ nhỏ Văn Chương của phố Khâm Thiên (Hà Nội), Sơn Tùng nói cho tôi những điều sâu lắng về Hồ Chí Minh. Ông nói chậm rãi, khúc triết, mắt của người thương binh chống Mỹ ấy nhìn xa xăm như rọi thấu vào quá khứ, lôi nó trở về với cuộc sống ồn ã chốn thị thành ngõ nhỏ nơi gia đình ông đang ở. Giọng Diễn Châu xứ Nghệ gốc của Sơn Tùng không lẫn vào đâu được, phảng phất âm điệu của miền bắc phát ra ở xứ Nghệ. Không biết cái âm điệu ngôn ngữ ấy gốc là từ bắc vào hay lại chính từ gốc Diễn Châu lan ra bắc? Chưa biết chừng. Qua nhiều buổi tôi nghe ông nói hoặc tôi hóng chuyện ông nói với người khác tại căn xép nhỏ của ông, thì ra, có ba điều tôi ngỡ ngàng. Thứ nhất, trong các tác phẩm của Sơn Tùng, dù là bài báo, là tiểu thuyết, là ký, v.v. thì đều từ cái nền nghiên cứu khoa học của ông mà ra. Ông nghiên cứu theo kiểu riêng của ông, tỷ mỉ, cẩn trọng, theo phương pháp khoa học, có đối chiếu, có kiểm định. Có nhiều sự kiện, Sơn Tùng đến tận nơi nghiên cứu, xem xét, kiểm định, đối chiếu, có những lúc khó khăn hoặc vết thương tái phát không tự mình đi được thì phu nhân của ông đưa đi. Sơn Tùng chính là nhà Hồ Chí Minh học thực thụ. Ông biểu đạt những kết quả nghiên cứu của ông về Hồ Chí Minh cho bàn dân thiên hạ biết theo cách riêng của ông, và chỉ mình ông, độc nhất vô nhị, mới có có cái cách đó. Thứ hai, gia đình Sơn Tùng có quan hệ họ hàng với Hồ Chí Minh. Bà nội Sơn Tùng (Cụ Hà Thị Tự), là cháu họ bà nội Hồ Chí Minh (Cụ Hà Thị Hy). Em trai ông nội của Sơn Tùng đỗ tú tài cùng khoa với em trai ông ngoại Hồ Chí Minh. Đã từ lâu, từ trong kháng chiến chống Pháp 9 năm, Sơn Tùng đã có ý thức tìm hiểu, nghiên cứu về gia đình họ tộc Hồ Chí Minh, đã đến Kim Liên nhiều lần hầu chuyện và được chị, anh của Hồ Chí Minh là bà Nguyễn Thị Thanh và ông Nguyễn Sinh Khiêm hết sức tin cậy. Điều này thì Giáo sư Phan Ngọc đã viết trong mấy trang đầu cuốn Hoa râm bụt của Sơn Tùng lần xuất bản của Nhà xuất bản Thông tấn năm 2007. Thứ ba, bên trong và đằng sau những trang ký, những tiểu thuyết, những bài báo của ông là ngồn ngộn những tư liệu về Hồ Chí Minh mà Sơn Tùng đã mã hoá theo cách riêng của mình. ở Sơn Tùng, có sự tổng hoà tư chất của một nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà viết kịch 17
- bản văn học và, tôi nhấn mạnh, nhà khoa học cộng với tình cảm của một chiến sĩ kháng chiến bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc theo tiếng gọi của Hồ Chí Minh cũng như ý thức trách nhiệm của một công dân, một kẻ sĩ thời đổi mới. Sơn Tùng có nhiều tài liệu về người con gái đem lòng yêu Hồ Chí Minh, và bản thân Hồ Chí Minh cũng đem lòng yêu người con gái đó. Tôi cho rằng, trong cuộc đời Hồ Chí Minh có như vậy là sự thường. Tình yêu thời trai trẻ, tại sao không? Một thanh niên thư sinh, đẹp trai, hào hoa, phong nhã, lại là con của một người đỗ đại khoa (Phó bảng), con quan, con nhà gia giáo mà không rung động trước phái đẹp, mà lại không yêu một người con gái nào đó, cũng như không có người con gái nào yêu mình, mới là sự lạ. Nhưng Sơn Tùng khẳng định một cách chắc chắn, có cơ sở, rằng Hồ Chí Minh chưa bao giờ có vợ con. Đã có không ít người cho rằng, Hồ Chí Minh có một người vợ là người Pháp, một là người Đức, một là người Nga, hai bà là người Trung Quốc, hai người vợ Việt Nam, v.v. Và, đương nhiên câu chuyện và danh sách vợ con của Hồ Chí Minh, theo họ, chưa dừng lại ở đó. Ngay cả nhà nghiên cứu, giáo sư Hoàng Tranh (Học viện Khoa học xã hội Quảng Tây – Trung Quốc hiện đã nghỉ hưu) cũng đã có bài viết tương đối dài đăng trong Tạp chí Đông Nam Á Tung hoành, số 11-2001 (Trung Quốc) đề cập về cuộc sống vợ chồng Hồ Chí Minh – Tăng Tuyết Minh (người Trung Quốc). Nhưng, tôi đã đọc rất kỹ bài viết của Hoàng Tranh thì thấy rằng, lập luận và những chứng cớ mà ông nêu ra không có sức thuyết phục. Mấy cuốn sách, bài báo của một số người ngoài nước chẳng rõ thật hư ra sao về vấn đề này, lại viết theo Hoàng Tranh. Hồ Chí Minh là người hoạt động bí mật nhiều năm trời, cho nên không phải những gì mà tài liệu viết về Hồ Chí Minh đều là đúng sự thật, mặc dù đó là những tài liệu báo cáo chính thức, tài liệu lưu trữ trong kho lưu trữ chính trị-xã hội của Liên bang Nga từ năm 1992 (tiếp nối Lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô). Vì một số người không đặt vào hoàn cảnh đó khi nghiên cứu, cho nên mới dựa vào tài liệu báo cáo của Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương và tài liệu lưu trữ ở Liên bang Nga để nhận định không đúng rằng, Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai là vợ chồng. Đấy là chưa kể có những người cố tình xuyên tạc, thêu dệt ly kỳ mặt “tình ái” của Hồ Chí Minh với mục đích bôi xấu ông, cho rằng ông chính là người bội bạc; rằng không phải ông là người đấu tranh giải phóng con người, đặc biệt là đấu tranh giải phóng phụ nữ, mà ông chỉ coi phụ nữ chỉ là đồ chơi; rằng, Hồ Chí Minh là con người nói dối, v.v. Tôi nghĩ rằng, nếu Hồ Chí Minh có đến 7 bà vợ và nhiều con như thế thì khi Việt Nam đang có chiến tranh ác liệt như vậy thì nhiều bà vợ chưa đến đất nước chồng mình đã đành, nhưng khi Việt Nam đã hoà bình rồi, khi Hồ Chí Minh đã nằm yên bình trong Lăng ở Ba Đình – Hà Nội rồi nhưng vẫn không có bà vợ nào (nếu còn sống), con cái nào của Hồ Chí Minh đến thăm. Làm gì có. Nhiều người cứ úp úp mở mở, viết và nói cứ lấp la lấp lửng làm ly kỳ hóa cái chuyện vợ con của Hồ Chí Minh. Tôi đồng ý với Sơn Tùng khi đàm đạo với ông về chuyện này. Ông “lý sự” rằng, các ông Trường-Chinh, Phạm Văn Đồng nhà có mấy đời đội mũ cánh chuồn mà khâm phục cái tâm, cái đức của Hồ Chí Minh và được cảm hoá từ nhân cách Hồ Chí Minh thì không phải chuyện vừa; giả sử Hồ Chí Minh là người cứ lăng nhăng, lít nhít về chuyện tình ái thì các ông ấy cạch, không bao giờ đi theo Hồ Chí Minh. Cổ nhân trên thế giới đã nói: Rendez à César ce qui est à César (Hãy trả lại cho Xêda những cái gì thuộc về Xêda). Sự thật bao giờ cũng là sự thật. Tôi tuân theo quan điểm đó khi nghiên cứu, giảng dạy cho anh chị em sinh viên và học viên cao học, nghiên cứu sinh và khi viết cuốn sách này. Hồ Chí Minh có một phong cách viết, nói đơn giản, dễ hiểu, nhưng sâu sắc. Cách viết, cách nói của ông nặng về lối dân giã cũng như bản thân cuộc sống của ông vậy. Hồ Chí Minh không làm bộ làm tịch, không gượng gạo, không làm ra vẻ ta đây gần dân, mà ông gần dân, hiểu dân, vì dân thật: giản dị cả trong lời ăn tiếng nói, trong cuộc sống thường nhật, gần gũi với mọi người chung quanh, nói tiếng nói của người dân bình thường, ăn 18
- miếng ăn như một người dân bình thường, tư duy diễn đạt rõ ràng, v.v. Hồ Chí Minh quen như thế và ông tự nhủ mình nên sống như thế. Trong văn bản tiếng Việt Nam của Hồ Chí Minh, một trong những tác phẩm sớm nhất là trong cuốn Đường cách mệnh (năm 1927), ông viết: “Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ. Chắc có người sẽ chê rằng văn chương cụt quằn. Vâng! Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả. Hơn sáu mươi năm nay, đế quốc chủ nghĩa Pháp đạp lên đầu; hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì giờ đâu rảnh mà vẽ vời, chau chuốt. Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh. Văn chương và hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ: Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh!!!”[15]. Đó thực sự là “tuyên ngôn” về cách viết, cách tuyên truyền của Hồ Chí Minh, dù sau này có thể Hồ Chí Minh có “thì giờ rảnh” để “vẽ vời chau chuốt” nhưng ông không làm như vậy. Hồ Chí Minh viết, nói, tuyên truyền giải thích để cho mọi người, từ nhà bác học cho đến người nông dân mù chữ cũng có thể hiểu được, hiểu được rồi thì hành động theo những điều đã hiểu. Ngay cả viết về những vấn đề xây dựng Đảng, là những vấn đề thuộc về lý luận chính trị, mà ông cũng hay dùng ca dao, tục ngữ để giải thích. Mà ca dao, tục ngữ chính là những lời lẽ của dân gian, là sự tổng kết của người đời, và chính đó là những lời thông thái như nhiều người trên thế giới đã thừa nhận. Hồ Chí Minh dùng cả những mệnh đề Nho giáo mà người Việt Nam đã nghe quen. Hồ Chí Minh thường lẩy Kiều những khi có hoàn cảnh tương thích. Hồ Chí Minh viết về vấn đề gì đó thì thường hay đưa cho một số người gần đó xem, có khi đó là bác lái xe, chị cấp dưỡng, chú cảnh vệ, người làm vườn trong Phủ Chủ tịch, cũng có khi đưa cho đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị này, uỷ viên Trung ương Đảng kia, ông bộ trưởng nọ, ông thứ trưởng kia, v.v. xem để góp ý sửa chữa, bổ sung. Và rồi khi nhận được ý kiến phản hồi thì Hồ Chí Minh không phải cứ là chỉ tiếp thu ý kiến của ông uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ viên Trung ương Đảng, ông bộ trưởng, thứ trưởng hơn là tiếp thu ý kiến của bác lái xe, chị cấp dưỡng, chú cảnh vệ, người làm vườn. Ý kiến của ai thì Hồ Chí Minh cũng tôn trọng như nhau và nhiều khi ông còn tiếp thu nhiều ý kiến của người cán bộ thường, của người dân hơn là tiếp thu ý kiến của các cán bộ cấp cao hoặc những người có trình độ học vấn cao, vì ông tuân theo cái nguyên tắc đại chúng để đi vào lòng mọi người, hơn là chỉ đi vào được một số người[16]. Hồ Chí Minh có lối viết hay xuống dòng, nhiều khi ông không theo một cái luật nào cả, chỉ cốt sao cho ai đọc thì đỡ phải có cảm giác ngồn ngộn chữ. Có lần, Hồ Chí Minh đưa một bài dự thảo của mình mới viết cho ông Nguyễn Khánh Toàn, lúc ấy là Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khoá III, người đã quen biết với Hồ Chí Minh từ hồi hoạt động trong bộ máy Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô (Nguyễn Khánh Toàn thường xưng hô với Hồ Chí Minh là tôi – anh, chứ không gọi là Bác), và nhờ Nguyễn Khánh Toàn góp ý nhân dịp Nguyễn Khánh Toàn có mặt tại nhà sàn của Hồ Chí Minh. Xem xong, Nguyễn Khánh Toàn có ý chê rằng, bài viết có vẻ “khô” quá. Hồ Chí Minh, vốn là một người hóm hỉnh, bèn đưa chiếc bút cho Nguyễn Khánh Toàn và nói rằng: đây, bút đây, chú hãy làm cho nó ướt ướt một tý. Hồ Chí Minh ghét cái thói ba hoa, rỗng tuếch, làm ra vẻ cho oai, theo lối hình thức, ham chuộng hình thức, cái thói hữu danh vô thực, lên mặt dạy đời. Tuyên ngôn của ông là “2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả”, và “đừng vẽ rắn thêm chân”, tức là hãy tôn trọng sự thật. Sự thật có khi trần trụi, có khi mất lòng người này, người khác, nhưng không thể khác được. 19
- Đề cập vấn đề đạo đức Hồ Chí Minh, trong một bài viết của mình, Phó giáo sư Lê Thế Lạng nêu ra một nhận định đúng là: “Hồ Chí Minh thường nói và viết rất dễ hiểu, ai cũng hiểu được. Chỉ có Hồ Chí Minh mới thể hiện được tư tưởng lớn bằng ngôn ngữ đời thường, bình dân hoá lý luận, đưa lý luận vào đời sống dân gian. Cũng vì thế, mỗi tư tưởng Hồ Chí Minh đều hàm chứa nhiều tầng nội dung. Tùy năng lực tiếp cận, từng người nhận thức các tầng nội dung nông, sâu khác nhau. Do đó, dẫn tới điều đặc biệt là không mấy ai hiểu sai và cũng chưa ai có thể nói là đã hiểu hết, loại trừ những kẻ xuyên tạc. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cũng thuộc hiện tượng đó nên vừa dễ hiểu cũng vừa khó hiểu, và cũng dễ mắc sai lầm trong quá trình tìm hiểu: suy diễn áp đặt, thông tục và thiển cận, giáo điều hay hiện đại hoá ”[17]. Ấy thế nhưng xem ra, tôi có cảm tưởng rằng, một số người khi viết về Hồ Chí Minh không theo lối viết giản dị, dễ hiểu như chính bản thân con người Hồ Chí Minh, cuộc đời Hồ Chí Minh. Có không ít người nói và viết về Hồ Chí Minh cứ rối rối thế nào ấy. Chỗ này của Hồ Chí Minh lẽ ra chỉ là thế này, đơn sơ, mộc mạc như thế này thôi thì người ta lại cứ “phóng” lên, có khi rất đại ngôn. Xem ra không phải. Mà có khi lại hiện đại hoá, thái quá. Có khi lại mang dáng ra vẻ là triết học đây, trừu tượng hoá, điều mộc mạc của Hồ Chí Minh phát biểu đấy, nhưng mà lại làm cho ra phức tạp, khó hiểu (phức tạp hoá cái điều đơn giản). Mà như vậy kết quả là chỉ làm cho người đọc đi đến chỗ hiểu sai mà thôi. Có tác giả, tác phẩm tư biện quá, hễ viết thì “nện” những câu, những đánh giá rất cao siêu, từ ngữ hoa lá cành sáo rỗng, rồi ra dáng trừu tượng triết học khó hiểu, thực ra làm cho người đọc hiểu sai về Hồ Chí Minh. Lại nữa. Có không ít người khi viết bài, khi giảng bài, hễ bất kể cái gì của Hồ Chí Minh cũng cứ gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh về ”. Thành ra như vậy lại là tầm thường hoá tư tưởng Hồ Chí Minh. Tôi đã thử thống kê, đã có khoảng hơn 50 cách gọi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về ” rồi. Đã có cả cách gọi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng và chống bão lụt”. Đã có cả cách gọi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người khiếm thị”, v.v. Làm như thế có đúng không và có nên không? Tôi đã xem không ít bức tượng Hồ Chí Minh, nhiều nhất là những bức tượng Hồ Chí Minh bằng thạch cao thường được đặt một cách trang trọng trong phòng họp của các đơn vị, các cơ quan. Rất, rất nhiều bức tượng xem ra không thật giống Hồ Chí Minh lắm. Hao hao, từa tựa Hồ Chí Minh vậy thôi. Một số người đề nghị được vẽ tranh, đắp tượng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không bằng lòng, bảo là nên vẽ tranh, đắp tượng nhân dân chứ ông không có gì đặc biệt cả. Nhưng rồi có lúc cũng phải chiều lòng một vài người. Có lần, một nghệ sĩ cứ mỗi ngày vào nhà sàn 1 tiếng đồng hồ ngắm trực tiếp để đắp tượng Hồ Chí Minh. Một thời gian sau, bức tượng hoàn thành, người nghệ sĩ đó mang bức tượng đến cho Hồ Chí Minh xem. Khi xem bức tượng, Hồ Chí Minh nói đùa rằng: đây là bức tượng em của Hồ Chí Minh. Có nơi dựng tượng Hồ Chí Minh, nhưng éo le thay, lại không giống lắm, nếu bỏ đi thì lại “có chuyện” vì bức tượng đó đã ở tại vị trí ấy từ lâu rồi, người ta đã quen rồi, giờ bỏ đi sao đành. Có người vì vẽ không giống Hồ Chí Minh, đắp tượng không giống Hồ Chí Minh, thì lại ngụy biện rằng, hình của Hồ Chí Minh đã trở thành hình của nước, cho nên chẳng giống lắm thì không sao. Không thể nào biết hết tất cả mọi cái ngóc ngách cuộc đời của một con người. Tự mình biết về bản thân mình còn chưa hết nữa là. Nói vậy, có vẻ cường điệu, nhưng đúng là như thế thật. Khi đau bụng, làm sao mà tự mình biết mình đau vì nguyên nhân gì, mà đau bụng có hàng trăm các nguyên nhân khác nhau. Phải nhờ tới chuyên môn, nhờ tới người trong ngành y. Khi làm việc gì đó bất thường (quá tốt hoặc quá dại dột chẳng hạn), có nhiều khi người đó nghĩ lại không hiểu sao mình lại làm như thế. Xem ra cái tiểu vũ trụ này (con người) cũng là cái khôn cùng không phải dễ gì mà hiểu được, ngay cả về việc lý giải những điều kỳ diệu, kỳ lạ, có vẻ thần bí, ngoại cảm của con người. Chính là như thế cho nên, người ta hay suy diễn không có căn cứ. Bất cứ ai, tôi hay người đang đọc những dòng của cuốn sách này, đều có những điều sâu kín mà hoặc là tự mình không biểu lộ ra, “sống để 20
- bụng, chết mang đi”, hoặc là người khác không biết, hoặc là chính bản thân mình cũng không biết nổi, hiểu nổi. Hồ Chí Minh cũng vậy. Hồ Chí Minh cũng như bao con người khác. Hồ Chí Minh có những điều mà những người chung quanh, và hậu thế không hiểu hết được. Có một lần đến thăm quê của Hồ Chí Minh tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An, tôi có hỏi một chị hướng dẫn viên khu di tích rằng, tại sao sau bao nhiêu năm đằng đẵng xa quê hương, nhưng từ khi về nước rồi (từ năm 1941 đến năm 1969) thì Hồ Chí Minh chỉ về thăm quê có hai lần, trong khi đó ông đến thăm địa phương khác nhiều lần; rằng, tại sao khi về thăm quê, Hồ Chí Minh không đến thắp hương mộ tổ tiên, mộ ông, bà bên nội, bên ngoại, mộ mẹ? (Bà Nguyễn Thị Thanh – chị gái của Hồ Chí Minh — đã đưa hài cốt mẹ mình từ Huế về quê chôn tạm ở vườn nhà và về sau (năm 1942), ông Nguyễn Sinh Khiêm – anh trai của Hồ Chí Minh – đã cải táng hài cốt trên núi Động Tranh thuộc dãy núi Đại Huệ). Tại sao Hồ Chí Minh không đến thắp hương mộ chị, mộ anh mình? Tại sao? Tại sao? Nhiều câu hỏi lắm. Và, không chỉ tôi hỏi. Tôi nhớ là lúc ấy, nhiều người tham quan cũng hỏi. Câu trả lời từ chị hướng dẫn viên thật bất ngờ. Rất lịch sự, chị nhỏ nhẹ nói rằng: chúng tôi tuân thủ phương châm: biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, không được suy diễn lung tung (Chị cho biết thêm, đây là ý của Khổng Tử cách ngày nay hơn hai nghìn năm: Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã. Nghĩa là: Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, chính như thế mới gọi là biết). Và đây cũng là một kinh nghiệm trong nghề hướng dẫn viên: có lần cũng có người hỏi những câu ấy, thì được trả lời là: riêng đối với mộ Cụ Hoàng Thị Loan lúc ấy đường đi lối lại lên mộ khó khăn, không như bây giờ, lúc ấy còn lắm gai góc lắm, cho nên có lẽ Hồ Chí Minh không lên thắp hương cho mộ mẹ mình được. Người tham quan, khi nghe câu trả lời suy diễn đó thì “bật” lại: Gai à? Có gai nữa, Hồ Chí Minh mà đã muốn lên đó thì không có gai nào ngăn nổi; hơn nữa còn các mộ của tổ tiên, ông bà nội ngoại, ở nghĩa trang không có gai? Từ câu chuyện nhỏ trên đây, tôi liên tưởng tới tình hình hiện nay, người ta suy diễn về Hồ Chí Minh quá nhiều, trong suy diễn ấy, có cả sự lợi dụng để xuyên tạc, bôi xấu, hoặc lại sang một cực khác, quá đề cao mà thực ra, nói như ông Việt Phương, không phải để cộng vào mà lại trừ đi của Hồ Chí Minh những điều mà Hồ Chí Minh đang có. KHÔNG THẦN THÁNH HOÁ Việc giải thích điều này có cái khó của nó. Ý dân và lòng dân thì đã phong thánh cho Hồ Chí Minh một cách tự nhiên rồi. Tỷ như ông Sơn Tùng đã viết trong tác phẩm Hoa râm bụt của mình (xuất bản nhiều lần, lần gần đây nhất là Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2007) ở bài “Một bài học làm người”, trang 388: các cụ đồ Nho năm 1947 ở quê ông Sơn Tùng (Diễn Châu, Nghệ An) luận về đôi mắt Hồ Chí Minh rằng, “Mắt Cụ Hồ là thiên nhãn, là lưỡng mục trùng đồng đích thị thánh nhân. Thánh nhân chứ không phải thánh thần”. Các cụ nói rằng, Thánh Gióng trong huyền thoại nhưng mang đầy đủ đức tính Con người. Con người hoàn thiện đều thành thánh. Trần Quốc Tuấn Hưng Đạo Đại Vương là bậc nhân tướng, văn võ song toàn, lúc sống ngài cứu nước hộ dân, khi thác ngài hiển thánh. Đó là đức Thánh Trần, là thánh nhân. Ngày nay, Hồ Chí Minh là vị thánh sống. Dân mình mới thấm thía hơn ai hết nỗi nhục của cái kiếp làm thân trâu ngựa. Dân phong thánh cho người thực sự cứu nước, thương dân chứ đâu phải vua chúa! Vua chúa chỉ nhớ đến dân khi có giặc ngoại xâm, vua chúa thương dân thì ít thấy Tôi đồng ý với Sơn Tùng khi ông viết lại lời các cụ đồ Nho trên đây và lời cảm bình của chính bản thân ông. Đọc hồi ký của một số chính khách, một số nhà hoạt động chính trị, xã hội ở nước ngoài, thấy có một số nhận định liên quan đến Hồ Chí Minh về mặt này. Chẳng hạn, trong hồi ký của mình, Khơrútsốp (Liên Xô) đánh giá rất hay, rất hóm hỉnh, về một số nhân vật hoạt động chính trị trên thế giới, trong đó có đánh giá Phiđen Cátxtrô Rudơ của Cuba và đánh giá Hồ Chí Minh của Việt Nam. Riêng đối với Hồ Chí Minh, tập hồi ký đó đã đánh giá là: “Mỗi lời nói của ông (tức Hồ Chí Minh – MQT) hình như dựa vào niềm tin là: về nguyên tắc, tất cả mọi người cộng sản đều là anh em cùng giai cấp, họ trung thực và 21
- chân thành với nhau. Hồ Chí Minh quả thực là một trong “các vị thánh của chủ nghĩa cộng sản””[18]. Nhưng, giữa vấn đề dân phong thánh cho Hồ Chí Minh hoặc một số người cho là Hồ Chí Minh là ông thánh với vấn đề trong nghiên cứu tránh việc thần thánh hoá Hồ Chí Minh là hai chuyện khác nhau. Thường thì ở đời, ngợi ca thì dễ, chê bai thì khó, vì chê là khó lọt cái lỗ tai con người lắm. Khen đúng, chê đúng mới là điều cần làm. Khi đã thiên lệch, thì có khi người ta khen hết lời, dùng những tính từ đẹp nhất, dùng đại ngôn để gán cho một người nào đó mà mình muốn khen. Cũng có khi thiên lệch thì lúc chê, người ta chê hết lời, bôi đen, nói xấu từ đầu tới chân. Sự thật là tiêu chuẩn cao nhất mà nhà khoa học nói chung cũng như nhà sử học nói riêng phải tôn trọng. Trình bày đúng sự thật như con người Hồ Chí Minh vốn có thì không dễ dàng một chút nào. Trong việc này, tôi không bàn đến người nghiên cứu có trong tay số lượng và chất lượng các tài liệu cần thiết, là bột để “gột nên hồ”, tuy rằng điều này là thực sự cần thiết mà thiếu nó thì nhà khoa học không thể dựng lại được một bức tranh toàn cảnh đúng như nó có. Cái phần quan trọng không kém là nhà khoa học không được tô hồng hay bôi đen sự thật. Đây chính là tư cách đích thực của nhà khoa học mà nếu vi phạm thì người đó không còn là nhà khoa học nữa. Bản chất của cả hai khuynh hướng tô hồng hay bôi đen chỉ là một: đó là sự bóp méo, sự làm sai lệch sự thật lịch sử. Không phải là việc bôi đen có hại hơn việc tô hồng, mà cả hai đều có hại như nhau. Đừng tưởng bất cứ sự ngợi ca nào đều là cộng vào cho Hồ Chí Minh. Sự ngợi ca không có cơ sở chắc chắn, không khoa học, mà tôi gọi đó là sự tô hồng, thì, như đã viết theo lời của ông Việt Phương ở một trang trước của cuốn sách này, đều trừ đi chứ không thể nào là cộng vào cho Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đi vào đời sống tâm linh của nhân dân Việt Nam là bởi cái nhân, cái nghĩa, cái trí, cái dũng, cái liêm, cái tín của ông đã cảm hoá được ý thức văn hoá đa thần của nhiều người Việt Nam. Một cây cổ thụ chẳng hạn, trong ý thức của không ít người, thì ở trong nó, ở gần nó có cái gì đó thần bí của cõi âm, cho nên người ta lập ban thờ, ngày rằm, mồng một nghi ngút khói hương. Người ta tôn thờ Hồ Chí Minh, thắp hương trên bàn thờ, treo ảnh Hồ Chí Minh để thờ, lập đền thờ là lẽ tự nhiên của tâm linh, của thái độ ứng xử của người Việt Nam đối với Hồ Chí Minh. Đó là “văn hoá đền”, văn hoá tâm linh. Đó là sự tự cảm từ mỗi con tim mỗi người, là ý thức cộng đồng với những người đã khuất, mong người đã khuất đi theo người đang sống, chở che, răn dạy những người đang sống. Hồ Chí Minh đi vào lòng người dân không thần bí, không huyền thoại, tuy rằng, nhiều câu chuyện kể về ông có vẻ đượm màu huyền thoại. Hồ Chí Minh hiện hữu như một nhân vật cùng với hiện tại, khi mà con người ta sống, để người ta cầu mong và hành động như ông, vì những điều thánh thiện. Trong nghiên cứu Hồ Chí Minh, điều thích hợp hơn cả là tuân thủ nguyên tắc lịch sử – cụ thể, là xem xét một cách toàn diện các mối liên hệ lịch sử cơ bản. Phải xem xét Hồ Chí Minh trong một chỗ đứng cụ thể và sự phát triển của các quan điểm của ông ra sao. Có người nói với tôi rằng, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ nghiên cứu những hệ thống quan điểm của chính bản thân Hồ Chí Minh mà còn nghiên cứu thông qua cả những quan điểm các học trò của ông: Trường-Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, v.v. giống như đối với học thuyết của Khổng Tử thì không chỉ phát tiết từ Khổng Tử mà còn thông qua các học trò của Khổng Tử. Tôi thì chưa chắc lắm có đồng ý hay không với ý kiến đó, nhưng có một điều chắc chắn là Hồ Chí Minh là một thực thể trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Hồ Chí Minh bị thực tế lịch sử chế định, và chính bản thân ông cũng chế định lại lịch sử. Hồ Chí Minh có những thành công trong cuộc sống nhưng ông cũng có những điểm không thành công, những hạn chế chủ quan. Đúng là nhân vô thập toàn. Bởi vì chính bản thân ông cũng quan niệm: người đời ai cũng có khuyết điểm cả, không nhiều thì ít, không lớn thì bé; trừ khi 22
- người ta nằm trong bụng mẹ và cái lúc người ta nằm trong quan tài, còn lại trong cuộc đời mọi người đều có khuyết điểm. Trong nhiều bài viết về Hồ Chí Minh, tôi thấy nhiều người đã dùng những từ sau đây để đánh giá Hồ Chí Minh: thiên tài, vĩ đại, lỗi lạc, kiệt xuất. Có lẽ bốn “cặp” này là đã đánh giá Hồ Chí Minh ở vào vị trí tột đỉnh rồi, không có từ nào có thể hơn. Đánh giá như vậy, xét về mặt nào đó, là không sai. Tuy nhiên, tôi không thích đại ngôn như vậy. Hãy từ chính bản thân sự việc, con người của Hồ Chí Minh toát lên những từ ngữ của các “cặp” đó. Thần thánh là những “nhân vật” không có thực, nếu có thì từ con người có thực nào đó, người ta đã làm cho linh thiêng con người đó lên (tâm linh hoá), con người đã khái quát, trừu tượng hoá theo cảm nhận riêng. Nếu thần thánh hoá Hồ Chí Minh trong nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp của ông thì rất dễ biến những lời nói, những quan điểm của ông thành những công thức định sẵn, xơ cứng, như giáo lý nào đấy- điều mà Hồ Chí Minh rất kỵ và đã không ít lần nhắc nhở là: đối với bất kỳ điều gì, của ai, của nước nào, cũng phải sáng tạo, phát triển, vận dụng cho phù hợp với từng lúc, từng nơi. Thần thánh hoá là lối nghiên cứu dễ dãi nhất và dẫn đến sai lầm lớn nhất. Cái điều mà nhiều người đã viết Hồ Chí Minh là vĩ đại, là thiên tài, là lỗi lạc, là kiệt xuất hoá ra nhiều khi lại biểu đạt trong những hành động rất bình dị nhưng cũng đầy cảm động mà ông đã làm. Đó là cử chỉ đi dém chăn cho bộ đội ngoài mặt trận để bộ đội có giấc ngủ ngon trong đêm đông. Đó là nỗi nhớ thương đối với đoàn dân công đêm phải ngủ ngoài rừng. Đó là những bữa nhịn ăn để dành gạo cứu những người đang đói khi nước nhà mới giành được độc lập. Đó là những bức thư chia buồn, động viên, những buổi đi thăm các thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước. Đó là những buổi lội ruộng cấy lúa bằng máy cấy thí nghiệm, những buổi tát nước gầu dai, đạp nước gầu guồng chống hạn. Đó là những buổi cùng bà con ngư dân Thanh Hoá kéo rùng đánh cá nhân dịp đi nghỉ ở biển Sầm Sơn. Đó là những buổi lội ruộng thăm bà con nông dân, lấy gang tay ước đo rễ cây lúa. Đó là những buổi trầm ngâm làm thơ khi trăng vào cửa sổ. Đó là hình ảnh ông cầm bó hoa hoặc một bông hoa tặng cho cháu gái và cho khách nước ngoài. Đó là hình ảnh ông chẻ củi, hình ảnh vác cuốc đi tăng gia sản xuất. Đó là hình ảnh ông đang gõ máy chữ tuôn ra những dòng chữ phục vụ cho quốc kế dân sinh (Tôi đồ chừng rằng, nếu ông còn sống đến giờ, chắc chắn là ông sử dụng máy vi tính rất thành thạo). Đó là dáng Hồ Chí Minh cưỡi ngựa hiền, con ngựa do đích thân ông Vi Văn Định chọn cho, thoăn thoắt đi công tác ở chiến khu Việt Bắc. Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh đi bài quyền giản lược, những buổi Hồ Chí Minh tập võ thuật cùng anh em cảnh vệ. Đó là những buổi Hồ Chí Minh đánh bóng chuyền với anh em cơ quan, mà anh em hay đùa ông bằng cách cứ được bóng là bỏ nhỏ tới vị trí ông đang đứng làm cho ông cứ loay hoay hoài trong sân bóng. Đó là hình dáng Hồ Chí Minh lịch thiệp, hào hoa, rất tây, nhanh nhẹn “vít cổ” những người bạn nước ngoài để ôm hôn thắm thiết. 23
- Đó là lần Hồ Chí Minh cầm gậy chỉ bản đồ chiến sự. Đó là dáng hạc của Hồ Chí Minh đích thân đi Chiến dịch Biên Giới năm 1950. Đó là ánh mắt bừng sáng của Hồ Chí Minh khi tiếp các cháu thiếu niên, nhi đồng. Đó là dáng “nhạc trưởng” Hồ Chí Minh hiền hoà cầm đũa chỉ huy dàn nhạc bài “Kết đoàn” ở vườn Bách thảo (Hà Nội) năm 1960. Đó là hình Hồ Chí Minh ngồi khoan thai, đĩnh đạc chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Đó là tiếng nói ấm, vang như tiếng chuông của Hồ Chí Minh khi đọc lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước. Đó là cái nheo mắt nhìn về phương nam xa xôi, là nỗi suy tư, trăn trở của Hồ Chí Minh về miền Nam, ông tự nhận mình là người chưa làm tròn nhiệm vụ đối với đồng bào miền Nam, “đi đến nơi nhưng về chưa đến chốn”. Đó là niềm rạng rỡ trong ánh mắt, nét mặt của Hồ Chí Minh khi nhận được tin chiến thắng miền Nam. Vân vân và vân vân. Tôi cảm thấy rằng, viết về Hồ Chí Minh cũng dễ mà cũng khó. Không biết độc giả có đồng tình với tôi không, chứ thực lòng tôi nghĩ thế. Dễ là bởi vì những điều Hồ Chí Minh sống và làm việc, những điều Hồ Chí Minh nói và viết là những lời lẽ của bình dân. Khó là bởi vì, cuộc đời Hồ Chí Minh chính là phản ánh những điều cao cả qua những cái bình dị. Hồ Chí Minh như mọi người chúng ta mà thôi, nhưng cũng khác chúng ta bởi vì ông làm được tất cả những điều bình dị mà cao cả ấy một cách tự nhiên, hầu như dễ dàng như hít thở khí trời, như sinh ra là để làm những điều như vậy. Hồ Chí Minh là con người bằng xương bằng thịt ở ngay trước mắt chúng ta, ở trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam yêu nước, chứ không phải là điều tưởng tượng, không phải thánh thần quanh quất đâu đây. Một số người nước ngoài, trong đó có cả nhà khoa học và nhà bình luận chính trị, không hiểu được hết tấm lòng người dân Việt Nam yêu nước đối với Hồ Chí Minh. Do đó, trong một số bài viết, trong một số sách của họ viết về Việt Nam, viết về Hồ Chí Minh, có lúc họ thiên về cái ý là ở Việt Nam có sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh. Hiểu sùng bái cá nhân là hiểu theo nghĩa xấu, như ở trên thế giới đã có một số người được sùng bái cá nhân như vậy, rồi thì cuộc đời của họ về sau chẳng ra làm sao cả. Đối với Hồ Chí Minh ở Việt Nam, tuyệt nhiên không có tệ sùng bái cá nhân, không có sự thúc ép của bất kỳ tổ chức nào, mà đó là sự tự thôi thúc của bao con tim, khối óc của đồng bào của mình mà Hồ Chí Minh đã gắn bó. Lòng người khó đo. Đúng như thế. Chẳng có cái thước nào đo được lòng người. Nhưng tấm lòng của nhân dân Việt Nam đối với Hồ Chí Minh thì đã được thử thách qua bao nhiêu năm tháng của cuộc đời, có thể đo được một cách rõ ràng. Vì thế, Hồ Chí Minh đã đi vào cõi bất tử. Nói thế cho có văn có vẻ, nhưng nôm na thì hình ảnh Hồ Chí Minh có trong tấm lòng của những người Việt Nam yêu nước qua các thế hệ kế tiếp nhau. Đặc biệt, Hồ Chí Minh – cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, tác phong của ông — đã trở thành giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam. Mà khi đã trở thành giá trị văn hoá thì chúng thẩm thấu và truyền một cách tự nhiên theo chiều dài sự phát triển của dân tộc. Hơn thế, những giá trị văn hoá đó được bảo tồn và phát huy thêm qua bao nhiêu năm tháng như dòng sữa mẹ nuôi con người ta lớn lên. Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hoá trong tài sản văn hoá của dân tộc. Giá trị đó là bất diệt vì nó có ích, nó thẩm thấu, nâng cao nền văn hoá Việt Nam cả trong tương lai. [1] Đã có nhiều cuộc chạy đua thám hiểm lên mặt trăng. Bắt đầu là cuộc chạy đua chinh phục vũ trụ nhằm phục vụ chiến tranh lạnh, từ năm 1959, giữa Mỹ và Liên Xô. Cho đến 24
- năm 1976, Mỹ và Liên Xô đã phóng 108 thiết bị thăm dò Mặt Trăng, trong đó có 48 lần thành công. Liên Xô đã cho tàu vũ trụ không người lái hạ cánh xuống Mặt Trăng lấy được mẫu đất đá mang về. Trong thời kỳ 1969-1972, Mỹ đã 6 lần đưa 12 người lên Mặt Trăng, lấy về 382 kg đất, trong đó có lần cuối cùng đổ bộ lên Mặt Trăng, 2 nhà du hành vũ trụ Mỹ đã ở trên đó 75 giờ. Cuộc chạy đua thám hiểm Mặt Trăng lần thứ hai bắt đầu từ tháng 9- 2003, với việc phóng tàu thăm dò SMART-1 (Small Mission Advanced Research in Techonoly) của Cơ quan Không gian châu Âu ESA. Cuộc chạy đua lần này không vì mục đích chính trị, và có nhiều nước hợp tác tham gia, trong đó có kế hoạch đưa người trở lại Mặt Trăng để từ đó nghiên cứu trái đất, sao Hoả. Từ năm 1999 trở đi, Đại hội quốc tế thăm dò và sử dụng Mặt Trăng được tiến hành mỗi năm một lần luân phiên ở các nước có tham gia nghiên cứu Mặt Trăng (Theo Hồ Anh Hải: Cả thế giới tiến lên Mặt Trăng, Tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học và Công nghệ), số 18, ngày 20-9-2007, tr. 37 – 41). [2] Nghiên cứu Hồ Chí Minh, Tập 3, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1993, tr. 6. [3] Nguyễn Tiến Năng: Chuyện nhỏ vê một nhân cách lớn, Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 25-2-2001. [4] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, 1990, tr. 60. [5] Ngoài bộ Hồ Chí Minh Toàn tập gồm 12 tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia còn xuất bản Hồ Chí Minh Tuyển tập gồm 3 tập dịp Kỷ niệm lần thứ 112 Ngày sinh của Hồ Chí Minh (5-2002). Hiện nay, ở Việt Nam đang xác minh, thẩm định các văn bản tài liệu nghi là những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh để bổ sung vào bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập. [6] Đó là Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh được biên soạn bởi Hội đồng Trung ương Chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (Ban biên soạn: GS Đặng Xuân Kỳ – Chủ biên; GS Vũ Khiêu; GS Song Thành), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Bộ Giáo dục và Đào tạo có Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh dùng trong các trường đại học và cao đẳng trong cả nước (Tập thể tác giả: GS,TS Mạch Quang Thắng – Chủ biên; PGS Lê Mậu Hãn; PGS,TS Vũ Quang Hiển; TS Phạm Ngọc Anh; PGS,TS Ngô Đăng Tri; PGS,TS Bùi Đình Phong; TS Ngô Văn Thạo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Theo chủ trương biên soạn chương trình, giáo trình mới, cuốn Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh lần sau do các vị sau đây biên soạn: PGS,TS Phạm Ngọc Anh (Chủ biên), GS,TS Mạch Quang Thắng, GS,TS Nguyễn Ngọc Cơ, PGS,TS Vũ Quang Hiển, TS Lê Văn Thịnh, xuất bản năm 2009. ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngay từ nửa cuối những năm 90 thế kỷ XX trở đi, đã biên soạn nhiều tập bài giảng, giáo trình cho các hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị, cử nhân chính trị, cao học. Một số học viện, trường đại học trong và ngoài Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng đã biên soạn giáo trình riêng cho cơ sở đào tạo của mình. [7] Xem Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 (TS Nguyễn Văn Sáu – Chủ biên; GS,TS Mạch Quang Thắng; PGS,TS Nguyễn Khánh Bật; PGS,TS Lê Văn Tích ). [8] Năm 2005, có một đồng nghiệp ở Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) nói với tôi rằng, trên mạng internet có rất nhiều bài viết xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Tôi nói lại rằng, việc xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh không phải đến bây giờ người ta mới làm, mà đã diễn ra từ lâu rồi. Để làm cho người ta hiểu một cách đúng đắn về Hồ Chí Minh, tôi nói với đồng nghiệp của tôi rằng, cách tốt nhất là nên xuất bản cuốn sách viết về tiểu sử Hồ Chí Minh. Tôi biết rằng, vào các năm 1995, 1996, Chương trình khoa học cấp nhà nước giai đoạn 1991 – 1995 KX.02 “Nghiên cứu Hồ Chí Minh” do Giáo sư Đặng Xuân Kỳ lúc đó là Viện trưởng Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm đã có một đề tài nghiên cứu, biên soạn tiểu sử Hồ Chí Minh do Giáo sư Song Thành làm 25
- Chủ nhiệm. Sản phẩm chính của đề tài này là bản “Hồ Chí Minh – Tiểu sử” đã được nghiệm thu; nhưng vì nhiều lý do, mãi cho tới lúc đó, năm 2005, chưa được xuất bản. Ý kiến của tôi là như vậy. Sau đó một thời gian, Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX cho thẩm định lại bản thảo công trình này để xuất bản thành sách. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX giao cho Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) cùng với Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương giải quyết vấn đề này. Sở dĩ như vậy là vì đây là công trình khoa học thuộc Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh quản lý mà Viện này sau đó đã sáp nhập cùng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thành Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Theo đề nghị của Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 19-1-2006, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX đã ra Quyết định số 156-QĐ/TW thành lập Hội đồng thẩm định và xuất bản tác phẩm “Hồ Chí Minh – Tiểu sử”. Cuốn sách “Hồ Chí Minh – Tiểu sử” do Nhà xuất bản Lý luận chính trị (nay là Nhà xuất bản Chính trị – Hành chính) xuất bản đầu tiên theo Giấy phép xuất bản số 48-2006/CXB 01-01/LLCT ngày 12-1-2006 với số lượng 3 000 cuốn, 758 trang khổ 15 cm x 22 cm, bìa cứng, nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2006. Đây là cuốn sách mới nhất về tiểu sử Hồ Chí Minh được viết một cách công phu, tương đối chi tiết tiếp nối cuốn tiểu sử tóm tắt về Hồ Chí Minh trước đây do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương biên soạn và được Nhà xuất bản Sự Thật xuất bản. [9] Theo Bá Ngọc, Trần Minh Siêu: Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2007, tr. 74. [10] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40. [11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 171-172. [12] Theo Vũ Đình Hoè: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá Thông tin, Trung tâm Văn hoá Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 151. [13] Như trên. [14] Nhiều đĩa CD ghi bài hát này có ghi cả tên nhạc sĩ, cả xuất xứ phổ thơ Sơn Tùng. Nhưng, rất lạ là tôi có một đĩa CD “Gửi em chiếc nón bài thơ” do Hồ Gươm Audio video Trung tâm DV CD&VCD sản xuất và phát hành, có tem của Cục biểu diễn nghệ thuật, mã số T13-03, số 02166, thì bài hát “Gửi em chiếc nón bài thơ” lấy làm tên cho cả đĩa CD do NSƯT Duy Thường hát chỉ ghi tác giả Lê Việt Hoà mà không ghi phỏng thơ của Sơn Tùng. [15]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 262. [16] Theo chuyện kể của Việt Phương. [17] Lê Thế Lạng: Mấy vấn đề đặt ra về thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tư tưởng Văn hóa, số 7-2007, tr. 10. [18] N. Khơrútsốp: Hồi ký (xuất bản năm 1971), bản dịch tiếng Việt, lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng thuộc Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 26
- Chương 2: NHẬN THỨC LÀ MỘT QUÁ TRÌNH GS.TS MẠCH QUANG THẮNG Theo dòng thời gian, tôi điểm lại những mốc lớn ghi dấu sự đánh giá về Hồ Chí Minh. Sự ghi dấu này cũng chỉ là tương đối, sự cắt lát, phân chia mốc thời gian có điều gì đó không ổn là do chính nhận thức còn hạn chế của tôi — tác giả của cuốn sách này. I. Yếu tố thứ tư Trong bài viết nhan đề “Ba mươi năm hoạt động của Đảng” cho Tạp chí Những vấn đề hoà bình và chủ nghĩa xã hội, số 2-1960, nhân dịp Kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”[1]. Đó là khái quát của Hồ Chí Minh về ba yếu tố cho sự ra đời và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và, xin thông tin luôn cho độc giả trước khi phân tích: tôi cho rằng, có cả yếu tố thứ tư nữa, đó chính là Tư tưởng Hồ Chí Minh (Sự ra đời và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam = 1. Chủ nghĩa Mác – Lênin + 2. Phong trào công nhân + 3. Phong trào yêu nước + 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh). Ở đây, có hai điều tôi muốn bình luận. MỘT PHÁT KIẾN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ QUY LUẬT HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Nói cho cụ thể hơn nữa thì là: Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề quy luật ra đời của một đảng cộng sản. Điều này thật rõ ràng, bởi vì Hồ Chí Minh là đồ đệ trung thành và là người “học trò nhỏ” của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, về điểm này, Hồ Chí Minh dựa trên luận điểm của chính các ông. Khi bàn về các yếu tố cho sự ra đời của các chính đảng của giai cấp công nhân, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và châu Âu, V.I. Lênin đề cập hai yếu tố: chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân kết hợp chặt chẽ với nhau. Thời kỳ trước khi V.I. Lênin bước vào con đường hoạt động chính trị, thì chúng ta thấy quá trình ra đời của các đảng công nhân diễn ra đúng như thế. C. Mác và Ph. Ăngghen cũng đã tổng kết vấn đề này nói lên quy luật hình thành và phát triển phong trào cộng sản và công nhân, rõ nhất là trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” được hai ông công bố tháng 2 năm 1848. Chủ nghĩa Mác trước hết sinh ra từ bên ngoài giai cấp công nhân, nó không phải là sự phát nguồn từ bản thân phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đối với chủ tư bản. Bản thân phong trào công nhân có phát triển mạnh mẽ đến đâu đi chăng nữa nhưng nếu không được chủ nghĩa Mác – Lênin soi sáng thì giai cấp công nhân cũng không thể nào phát triển lên được từ trình độ “tự phát” lên trình độ “tự giác”, cùng lắm phong trào công nhân chỉ đạt tới “chủ nghĩa công liên” mà thôi. Nói như thế có nghĩa là, với tình trạng như vậy thì phong trào công nhân chỉ dừng lại ở dưới lằn ranh của hình thức đấu tranh kinh tế chứ chưa ý thức được sứ mệnh lịch sử chính trị của mình là giai cấp lật đổ chủ nghĩa tư bản và đồng thời là giai cấp lãnh đạo sự nghiệp xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn: xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đến lượt mình, chủ nghĩa Mác – Lênin không thể nào mang bản chất khoa học và cách mạng được nếu không xâm nhập được vào phong trào công nhân. Chính vì thế, phong trào công nhân trở thành “cái cốt vật chất” của chủ nghĩa Mác – Lênin, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin luôn luôn được nạp thêm năng lượng mới từ cuộc sống, có như thế chủ nghĩa Mác 27
- – Lênin mới có sức sống nội tại vô cùng mạnh mẽ. Trong quá trình đi vào phong trào công nhân, lý luận Mác – Lênin được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển rất phong phú. Chính bản thân C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin luôn luôn tổng kết từ thực tiễn khi đưa lý luận của mình vào phong trào công nhân, từ đó rút ra những vấn đề mới để bổ sung vào kho tàng lý luận của mình. Đây là quá trình biện chứng của sự phát triển. Hai quá trình này là tất yếu và cần thiết như nhau, là hai mặt của quá trình vận động lý luận cách mạng của học thuyết Mác – Lênin. Sự ra đời của một đảng của giai cấp công nhân (và sau này là đảng cộng sản) chính là kết quả tất yếu của sự kết hợp giữa hai yếu tố chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân là quy luật do chính tình hình trên quy định. Từ những điểm bên trên, chúng ta có thể quy vào mệnh đề có tính sơ đồ từ quan điểm Mác – Lênin như sau: Chủ nghĩa xã hội khoa học + Phong trào công nhân = Sự ra đời của đảng cộng sản Trên cơ sở quan điểm trên đây của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã tổng kết dựa chắc vào cả lý luận, nhất là cả thực tiễn của Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn là kết quả của quá trình kết hợp ba yếu tố: 1. Chủ nghĩa Mác – Lênin; 2. Phong trào công nhân; 3. Phong trào yêu nước. Thiếu một trong ba yếu tố đó thì Đảng Cộng sản Việt Nam không thể hình thành được. Đối chiếu với sơ đồ trên đây, trong luận điểm của Hồ Chí Minh nêu năm 1960, Hồ Chí Minh còn đề cập thêm yếu tố thứ ba nữa, đó là Phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là điểm khác, mà là điểm son, là điểm bổ sung sáng tạo, đúng đắn của Hồ Chí Minh so với chủ nghĩa Mác – Lênin về quy luật hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản ở một nước Việt Nam thuộc địa[2] trước đây, và ở một nước Việt Nam kinh tế lạc hậu, đang phát triển hiện nay, cũng như cho cả quá trình phát triển từ nay về sau của dân tộc Việt Nam. Lịch sử Việt Nam cho hay: cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, giai cấp công nhân Việt Nam dần dần hình thành do thực dân Pháp tiến hành hai lần chính sách khai thác thuộc địa. Giai cấp công nhân Việt Nam hình thành không phải từ sự phát triển tự nhiên của chủ nghĩa tư bản Việt Nam mà ra đời trực tiếp từ phương thức sản xất tư bản chủ nghĩa du nhập từ chủ nghĩa thực dân Pháp vào Việt Nam. Lẽ đương nhiên, như phát kiến của chủ nghĩa Mác – Lênin, do nhiều yếu tố, phong trào công nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX đã kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin trong quá trình từng bước một “mà chủ nghĩa Mác – Lênin và ảnh hưởng Cách mạng Tháng Mười đã chọc thủng lưới sắt của thực dân Pháp truyền đến Việt Nam”[3]. Nhưng, vấn đề cần bình luận nhiều là ở chỗ: tại sao Hồ Chí Minh lại đưa thêm yếu tố thứ ba là yếu tố Phong trào yêu nước vào tổ hợp các yếu tố cho sự ra đời và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam? ở châu Âu, phong trào yêu nước có nhiều khi không kết hợp được với phong trào công nhân mà có khi lại xung đột nhau. Vì cớ gì mà Hồ Chí Minh lại kể đến yếu tố này, nó khác với Mác – Lênin? Xin lưu ý tới hai điểm nhấn để thấy rõ cái tầm trí tuệ của Hồ Chí Minh, đồng thời thấy rõ hơn bản lĩnh của ông. Một, xin nhắc lại thời điểm Hồ Chí Minh nêu phát kiến về quy luật hình thành và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam là vào dịp Kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1960. Vào thời gian đó, có tình hình đáng chú ý là trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang có sự bất đồng quan điểm. Mặc dù phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, do sự hoạt động tích cực của Đảng Cộng sản Liên Xô, đã tổ chức được hai cuộc Hội nghị lớn vào năm 1957 và năm 1960 để tập hợp lực lượng đoàn kết quốc tế, thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động nhưng những bất đồng giữa nhiều đảng cộng sản vẫn không giảm và nó kéo dài mãi về sau, dần dần nghiêm trọng hơn, tới mức là có sự xung đột giữa Liên Xô và Trung Quốc Một số đảng cộng sản đả kích lẫn nhau một cách công khai trên nhiều diễn đàn, tập trung nhất là trên hai vấn đề: giáo điều và cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác – Lênin. 28