Tài liệu Vi sinh vật nhiễm tạp trong lương thực - Thực phẩm

pdf 117 trang hapham 1780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Vi sinh vật nhiễm tạp trong lương thực - Thực phẩm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_vi_sinh_vat_nhiem_tap_trong_luong_thuc_thuc_pham.pdf

Nội dung text: Tài liệu Vi sinh vật nhiễm tạp trong lương thực - Thực phẩm

  1. GS.TS.NGUYỄN THỊ HIỀN (CHỦ BIÊN), GS.TS. PHAN THỊ KIM, TS TRƯƠNG THỊ HÒA,Th.S. LÊ THỊ LAN CHI, VI SINH VẬT NHIỄM TẠP TRONG LƯƠNG THỰC - THỰC PHẨM Đại Học Bách Khoa Hà Nội Hà Nội 2009 3
  2. LỜI CẢM ƠN Chúng tôi chân thành cám ơn: - Ban giám hiệu Trường Đại học Bách khoa Hà nội . - Bộ môn Công nghệ Sinh học Thực phẩm, Viện Công nghệ Sinh học Thực phẩm đã tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành cuốn sách này để phục vụ sinh viên và các đối tượng chuyên ngành liên quan. - Hội Khoa học Kỹ thuật An toàn Thực phẩm Việt nam, đặc biệt là GS. TS. Phan Thị Kim, cục trưởng Cục Quản lý Chất lượng Vệ sinh An toàn Thực phẩm Việt nam đã tham gia biên soạn và hiệu đính cuốn sách này.PGS.TS. Trương Thị Hòa. Viện Công nghiệp Thực phẩm là hững nguwoif tham gia tích cực cho cuốn sách này hoàn chỉnh dần. - PGS. Lê Ngọc Tú, Đại học Bách khoa Hà nội đã tham gia đóng góp ý kiến và hiệu đính cho cuốn sách. - Các cán bộ Bộ môn Dinh dưỡng Thực phẩm, Viện Công nghệ Thực phẩm. - Các bạn đồng nghiệp và các em sinh viện năm thứ 4, thứ 5 Ngành Công nghiệp Thực phẩm đã tham gia đóng góp ý kiến cho cuốn sách hoàn chỉnh hơn. - Nhà xuất bản Nông Nghiệp đã cho in cuốn sách này từ 2003 phục vụ Sinh viên và Học viên cao học - Cùng nhiều độc giả quan tâm cuốn sách này mấy năm nay. Thay mặt Các tác giả. GS. TS. Nguyễn Thị Hiền 4
  3. LỜI TỰA Vi sinh vật nhiễm tạp trong lương thực thực phẩm là một vấn đề nghiêm trọng và cấp bách ở khắp mọi nơi trên thế giới, đặc biệt đối với Việt Nam. Ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng , giảm bệnh tật và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm thì mọi người dân, đầu tiên phải là những doanh nghiệp sản xuất, chế biến, dịch vụ thực phẩm; các cán bộ làm trong ngành phải nắm vững những kiến thức cơ bản thuộc lĩnh vực này. Qua quá trình công tác và giảng dậy lâu năm trong ngành CNTP, chúng tôi thấy rõ rằng trong chuyên ngành này, kiến thức về vi sinh vật nhiễm tạp , nguồn gốc gây mất an toàn vệ sinh thực phẩm, gây ngộ độc thực phẩm còn bị hạn chế. Vì vậy chúng tôi mong muốn cung cấp một số phần tư liệu phục vụ cho công tác chuyên môn, nâng cao kiến thức cho cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho sản xuất thực phẩm . Cuốn sách này cũng có thể xem như tài liệu tra cứu cho bạn đọc khi cần tra cứu để hiểu biết những kiến thức đại cương nhất về vi sinh vật, đặc biệt là từng chủng vi sinh vật có hại khi nhiễm vào các sản phẩm thực phẩm. Bởi vì mỗi chủng vi sinh vật chúng tôi đều cố gắng nêu đầy đủ về đặc tính chung của chúng, các bệnh chính do chính nó gây nên, các loại thực phẩm hay bị nhiễm tạp và biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn Đây là môt vấn đề rất phức tạp và phong phú, nên trong khuôn khổ cuốn sách này chúng tôi chỉ chọn lọc một số phần cơ bản nhất. Các bạn đọc có thể tra cứu thêm các tài liệu tham khảo ở phần cuối cuốn sách. Chúng tôi mong rằng tài liệu này có ích cho các bạn đọc trên mọi miền đất nước. Chúng tôi dã sửa chữa và diều chỉnh thêm một số kiến thức cập nhật cho Sinh viên học va cán bộ liên quan tham khảo tốt nhất trong lĩnh vực Vi sinh vật và bảo dảm Vệ sinh an toàn Thực phẩm hiện nay Đại Học Bách Khoa Hà Nội Hà nội, năm 2009 Thay mặt các tác giả GS.TS. Nguyễn Thị Hiền 5
  4. CHƯƠNG 1: HÌNH THÁI CẤU TẠO , SINH SẢN CỦA VI SINH VẬT 1.1. Vi khuẩn 1.1.1. Hình thái và kích thước Theo hình dáng bên ngoài vi khuẩn được chia làm các loại: cầu khuẩn, trực khuẩn, phẩy khuẩn và xoắn khuẩn. 1.1.1.1. Cầu khuẩn Cầu khuẩn là loại vi khuẩn có dạng hình cầu nhưng cũng có nhiều loại không hẳn hình cầu, thí dụ như hình ngọn nến như phế cầu khuẩn. Kích thước của cầu khuẩn thường thay đổi trong khoảng (0,5 - 1) µm (1 micromet = 10-6m). Tùy theo từng loài mà chúng có những dạng khác nhau. Đặc tính chung của cầu khuẩn : - Tế bào hình cầu có thể đứng riêng rẽ hay liên kết với nhau. - Có nhiều loài có khả năng gây bệnh cho người và gia súc. - Không có cơ quan di động. - Không tạo thành bào tử. - Cầu khuẩn thường không có tiên mao và không có khả năng di động. Một số Chi (Giống) cầu khuẩn đặc trưng: Hình vẽ ở phụ lục 1 * Monococcus - đơn cầu khuẩn: Thường đứng riêng rẽ từng tế bào một, đa số thuộc loại hoại sinh. Chúng thường có ở trong đất, nước và không khí. * Diplococcus - song cầu khuẩn: Phân cách theo mặt phẳng xác định và dính với nhau thành từng đôi một. Một số có khả năng gây bệnh như giống Neisseria - gây bệnh lậu; Meningitidis gonorrhoeae - gây bệnh về não * Tetracoccus - tứ cầu khuẩn: Thường liên kết với nhau thành từng nhóm 4 tế bào một. Chúng thường gây bệnh cho người và một số gây bệnh cho động vật. * Streptococcus - liên cầu khuẩn: Chúng phân cắt nhau theo một mặt phẳng xác định và dính với nhau thành từng chuỗi dài. * Sarcina phân cách theo 3 mặt phẳng trực giao nhau, tạo thành những khối từ 8 - 16 tế bào hoặc nhiều hơn. Trong không khí chúng ta thường gặp một số loài như Sarcinalutea, Sarcina auratiaca. Chúng thường nhiễm vào các môi trường tạo màu vàng. * Staphilococcus - tụ cầu khuẩn: Thường liên kết với nhau thành những đám trông như chùm nho. Chúng phân cách theo một mặt phẳng bất kỳ sau đó dính vào nhau thành từng đám như chùm nho. 1.1.1.2. Trực khuẩn Trực khuẩn là tên chung chỉ tất cả các vi khuẩn có hình que. Kích thước thường từ (0,5- 1,0) x (1- 4) µm. Thường gặp các loài trực khuẩn sau: * Bacillus: Trực khuẩn Gram +, sinh bào tử. Chiều ngang của bào tử không vượt quá chiều ngang của tế bào vì thế khi tạo thành bào tử tế bào không thay đổi hình dạng, chúng thường thuộc loài hiếu khí hoặc kỵ khí không bắt buộc. * Bacterium: Trực khuẩn Gram −, không sinh bào tử. Thường có tiên mao mọc xung quanh tế bào người ta gọi là chu mao. Các giống Samonella, Shigella, Erwina, Serratia đều có hình thái giống Bacterium. 6
  5. * Pseudomonas: Trực khuẩn Gram −, không sinh bào tử, có một tiên mao (hoặc một chùm) ở một đầu. Chúng thường sinh ra sắc tố. * Corynebacterium: Không sinh bào tử, hình dạng và kích thước thay đổi khá nhiều. Khi nhuộm màu tế bào thường tạo thành các đoạn nhỏ bắt màu khác nhau. Trực khuẩn bạch cầu bắt màu ở hai đầu làm tế bào có hình dạng giống quả tạ. * Clostridium: Thường là trực khuẩn Gram +, sinh bào tử. Kích thước vào khoảng (0,4 - 1) x (3 - 8) µm, chiều ngang của bào tử thường lớn hơn chiều ngang của tế bào, do đó làm tế bào có hình thoi hay dùi trống. Chúng thường thuộc loại kỵ khí bắt buộc. Có nhiều loài có ích, thí dụ như loài cố định nitơ, một số loài khác gây bệnh như vi khuẩn uốn ván 1.1.1.3. Phẩy khuẩn Phẩy khuẩn là tên chung chỉ các vi khuẩn hình que uốn cong giống như dấu phẩy. Giống điển hình là giống Vibrio. Một số giống phẩy khuẩn có khả năng phân giải xenllulo hoặc có khả năng khử sunfat. 1.1.1.4. Xoắn khuẩn Xoắn khuẩn có hình cong, xoắn, gồm tất cả các vi khuẩn có hai vòng xoắn trở lên. Là loại Gram +, di động được nhờ có một hay nhiều tiên mao. Đa số chúng thuộc loại hoại sinh, một số rất ít có khả năng gây bệnh (Sp.minus). Kích thước thay đổi (0,5 - 3,0) x (5 - 40) µm. 1.1.2. Cấu tạo tế bào 1.1.2.1. Vỏ nhày và lớp dịch nhày (Giáp mạc) Nhiều loài vi khuẩn được bao bọc phía ngoài một lớp vỏ nhày hoặc một lớp dịch nhày. Vỏ nhày gồm có hai loại: - Vỏ nhày lớn: Có chiều dày khoảng 0,2 µm. Vì thế có thể thấy được qua kính hiển vi thường. - Vỏ nhày nhỏ: Có kích thước nhỏ hơn 0,1 µm. Muốn thấy rõ phải dùng kính hiển có độ phóng đại hàng ngàn lần. Thành phần hóa học của vỏ nhày thay đổi tùy loài vi khuẩn. Trong phần lớn các trường hợp chúng được cấu tạo chủ yếu bằng các hợp chất hydratcacbon phức tạp. Cũng có khi chúng còn chứa cả nitơ. Vỏ nhày chứa đến 98% nước. 1.1.2.2. Thành tế bào Phía trong lớp vỏ nhày là lớp thành tế bào. Thành tế bào có kích thước khác nhau tùy loại. Nói chung vi khuẩn Gram + có thành tế bào dày hơn, thường khoảng (14 - 18) nm (1 nanomét = 10-9 m). Trọng lượng có thể chiếm tới 10 - 20% trọng lượng chất khô của tế bào. Vi khuẩn Gram - có thành tế bào mỏng hơn khoảng 10 nm. 1.1.2.3. Màng nguyên sinh chất Dưới thành tế bào là màng nguyên sinh chất. Màng nguyên sinh chất thường dày 50 - 100 A0 (1 ăngxtron = 10-10 m) và chiếm khoảng 10 - 15% trọng lượng chất khô của tế bào. 1.1.2.4. Tế bào chất Đây là thành phần chính của tế bào vi khuẩn. Nó là khối keo bán lỏng chứa 80 - 90% nước. Thành phần chủ yếu là phức chất lipoprotein. Thể keo của tế bào chất khác với thể keo khác là chúng có tính chất dị thể (các keo có bản chất và kích thước khác nhau phân tán trong tế bào chất). Thường tế bào còn non thì tế bào chất đồng nhất chúng bắt màu giống nhau khi nhuộm màu. Khi tế bào già do xuất hiện không bào và các thể vùi làm tế bào chất có dạng lổn nhổn. 1.1.2.5. Nhân tế bào vi khuẩn 7
  6. Thường thuộc dạng nhân phân tán. Nhân không có thành nhân và không có nhân con. Nhân tế bào vi khuẩn chỉ bao gồm thể axit nucleic và protein dạng kiềm bao bọc xung quanh. Đây là nơi tham gia nhiều phản ứng hóa sinh quan trọng và là nơi điều khiển mọi hoạt động sống của tế bào. 1.1.2.6. Riboxom Đây là cơ quan bao gồm 2 tiểu thể được dính kết tạo thành chuỗi nhỏ axit nucleic (ARN) và chúng là nơi sản xuất cho tế bào protein và các chất hoạt động sinh học. Trong riboxom có 40 - 60% là ARN và 60 - 40% là protein. 1.1.2.7. Tiên mao và khả năng di động của vi khuẩn Ở một số vi khuẩn có khả năng phát triển một hoặc nhiều sợi nhỏ phía ngoài tế bào, người ta gọi chúng là tiên mao. Tiên mao làm nhiệm vụ giúp tế bào vi khuẩn chuyển động. Đây là những sợi nguyên sinh chất rất mảnh có chiều rộng vào khoảng 0,01 - 0,15 µm, chiều dài khoảng 80 - 90 µm. Tùy số lượng và vị trí tiên mao mà người ta chia ra những dạng sau: * Đơn mao: có một tiên mao thường nằm ở một đầu của vi khuẩn. * Hai tiên mao: mỗi tiên mao nằm ở một đầu của vi khuẩn. * Chùm tiên mao: có thể có nhiều tiên mao phát triển ở một đầu tế bào. Cũng có thể có nhiều tiên mao phát triển xung quanh tế bào vi khuẩn. 1.1.2.8. Bào tử và sự hình thành bào tử Trong giai đoạn phát triển một số loài vi khuẩn có khả năng sinh bào tử. Bào tử thường gặp ở 2 giống trực khuẩn Gram + là Bacillus và Clostridium. Quá trình tạo bào tử: Lúc đầu lớp nguyên sinh chất trong tế bào được sử dụng. Tế bào chất và nhân tập trung lại tại một vị trí nhất định trong tế bào. Tế bào chất tiếp tục được cô đặc lại và tạo thành tiền bào tử. Tiền bào tử bắt đầu được bao bọc dần bởi các lớp màng. Tiền bào tử phát triển và trở thành bào tử. Cấu tạo bào tử: Ngoài cùng của bào tử là một lớp màng. Dưới lớp màng là vỏ. Các lớp vỏ bào tử có cấu tạo không giống lớp màng tế bào. Vỏ bào tử có nhiều lớp, có tác dụng ngăn chặn sự thẩm thấu của nước và các chất hòa tan trong nước. Dưới lớp vỏ là lớp màng trong bào tử và trong cùng là một khối tế bào chất đồng nhất. Thường thường mỗi tế bào có một bào tử. Tuy nhiên một số trường hợp có thể có hai hoặc nhiều bào tử. Bào tử của tế bào có thể sắp xếp ở những vị trí khác nhau, có thể ở giữa tế bào, hoặc ở 2 đầu tế bào hoặc ở 1 đầu tế bào. Nhiêm vụ của bào tử: - Chúng có khả năng chịu đựng được các điều kiện bất lợi bên ngoài vì thế chúng có khả năng bảo vệ tế bào khỏi tác động của điều kiện bên ngoài. - Khi gặp điều kiện thuận lợi chúng lại phát triển thành một tế bào mới. Do đó chúng tham gia quá trình duy trì sự sống. Khi bào tử nở thì bào tử sẽ hút nước và bị trương lên, sau đó vỏ của chúng bị phá hủy và bào tử nảy mầm phát triển thành tế bào mới. Quá trình này mất khoảng 5 phút. 1.1.3. Sinh sản của vi khuẩn Vi khuẩn thường sinh sản theo một số cách sau: 1.1.3.1. Sinh sản vô tính 8
  7. Sinh sản vô tính là quá trình tự phân đôi tế bào. Lúc đầu phần giữa tế bào dần dần thắt lại, nhân phân ra làm đôi và kết quả là tế bào bị tách thành hai tế bào riêng biệt. Đây là cách sinh sản hết sức nhanh, chỉ trong vài chục phút đã có một thế hệ mới ra đời. 1.1.3.2. Sinh sản hữu tính Sinh sản hữu tính là quá trình tiếp hợp. Hai tế bào tiếp xúc với nhau, giữa nơi tiếp xúc này xảy ra hiện tượng trao đổi nhân tố di truyền và sau đó tế bào mới lại bắt đầu giai đoạn vô tính. 1.2. Nấm men 1.2.1 Hình thái và kích thước tế bào Nấm men thuộc thể đơn bào. Chúng phân bố rộng rãi khắp mọi nơi. Đặc biệt chúng có mặt nhiều ở vùng đất trồng nho và những nơi trồng hoa quả. Chúng còn có trong các trái cây chín, nhụy hoa, không khí và cả nơi sản xuất rượu vang. 1.2.1.1. Hình dạng nấm men Nấm men thường có hình dạng khác nhau. Thường chúng có hình cầu, elip, bầu dục và cả hình dài. Một số loài nấm men có tế bào hình dài nối với nhau thành dạng sợi gọi là khuẩn ty hay khuẩn ty giả. Hình dạng của chúng hầu như không ổn định. Nó phụ thuộc tuổi nấm men và điều kiện nuôi cấy. Ví dụ Sacch.ceriviseae có hình bầu dục nếu nó ở môi trường dày và giàu dinh dưỡng. Trong điều kiện yếm khí thì thấy có hình tròn ngược lại trong điều kiện hiếu khí tế bào dài hơn. 1.2.1.2. Kích thước tế bào nấm men Tế bào nấm men thường có kích thước rất lớn, gấp 5 -10 lần tế bào vi khuẩn. Trung bình có chiều dài 9 -10 µm, chiều rộng 2 - 7 µm, kích thước này cũng thay đổi. Sự không đồng đều thấy ở các loài khác nhau, ở các lứa tuổi khác nhau và trong các điều kiện nuôi cấy khác nhau. 1.2.2. Cấu tạo tế bào Tế bào nấm men cũng như nhiều loại tế bào khác được cấu tạo chủ yếu từ các phần cơ bản sau: Thành tế bào, màng nguyên sinh chất, nhân, các cơ quan con khác 1.2.3. Sinh sản của nấm men 1.2.3.1. Sinh sản bằng cách nảy chồi Đầu tiên hạch dài ra và hạch bắt đầu thắt lại ở chính giữa. Tế bào mẹ bắt đầu phát triển một chồi con. Hạch một phần chuyển vào chồi và một phần ở tế bào mẹ. Đồng thời một phần nguyên sinh chất cũng chuyển sang chồi con. Chồi con lớn dần, khi gần bằng chồi mẹ nó được tách ra sống độc lập. Một tế bào mẹ tạo một lần được một chồi con, cũng có thể một lần tạo được hai hay nhiều chồi con. Sự sắp xếp chồi con trên tế bào cũng không nhất thiết ở một nơi nhất định. Thời gian cần thiết kể từ lúc chồi mới hình thành tới lúc tế bào này phát triển và bắt đầu tạo tế bào mới gọi là chu kỳ phát triển của nấm men. 1.2.3.2. Sinh sản bằng cách phân đôi Thường gặp ở giống Shizosaccharomyces. Lúc đầu tế bào dài ra và từ từ thắt lại ở chính giữa. Nơi thắt này nhỏ dần, nhỏ dần và tới khi đứt hẳn tạo thành 2 tế bào con. 1.2.3.3. Sinh sản bằng bào tử và sự hình thành bào tử Nhiều loài nấm men có khả năng sinh bào tử. Nấm men thường tạo bào tử sau 5-10 ngày nuôi cấy trong môi trường thạch mạch nha. Bào tử thường nằm trong những bào tử túi. Bào tử túi thường có hình dạng khác nhau. Túi có thể sinh ra theo một trong ba cách sau: 9
  8. a) Tiếp hợp đẳng giao: hai tế bào nấm men giống nhau tiếp hợp với nhau tạo thành. b) Tiếp hợp dị giao: do hai tế bào nấm men có hình thái kích thước không giống nhau tiếp hợp với nhau mà tạo thành. c) Sinh sản đơn tính: tạo thành bào tử trực tiếp từ tế bào riêng lẻ không thông qua tiếp hợp, bào tử này sau khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ phát triển thành tế bào mới. Tế bào này tiếp tục nảy chồi. 1.3. Nấm mốc 1.3.1. Hình thái Nấm mốc là tên chung chỉ tất cả những vi sinh vật không phải là nấm men cũng không phải là các nấm mũ lớn. Chúng phân bố rộng rãi trong thiên nhiên. Nấm mốc không phải là loại động vật cũng không phải thực vật. Nó không có diệp lục tố, không có khả năng tự tổng hợp các chất dinh dưỡng cho chính bản thân. Chúng chỉ phát triển được trên những thức ăn có sẵn. Nó là loại sinh vật phát triển thành hình sợi phân nhánh. Những sợi này phát triển thành từng đám chằng chịt người ta gọi là khuẩn ty hay hệ sợi nấm khi phát triển trên môi trường đặc, thường phân ra 2 loại rõ rệt khuẩn ty khí sinh và khuẩn ty dinh dưỡng. Hai loại khuẩn ty này đóng vai trò và nhiệm vụ khác nhau. Khuẩn ty dinh dưỡng làm nhiệm vụ như chiếc rễ của cây xanh, còn khuẩn ty khí sinh lại đóng vai trò sinh sản là chủ yếu. Nấm mốc không di chuyển được. Nấm mốc hoàn toàn hiếu khí, chúng chỉ phát triển trong điều kiện thóang khí. So với vi khuẩn, nấm mốc chịu được nhiệt độ và độ axit thấp hơn. Đây là đặc điểm cơ bản cần thiết trong quá trình phân lập nấm mốc. Nấm mốc có nhiều màu sắc khác nhau. Có nấm mốc màu đỏ như loài Neospora Crassa, có loài màu đen như Aspergillus niger, màu xám như A.usamii, màu trắng xám như Mucor hay Rhizopus và lại có những loài có màu xanh như Penicillium. Về hình thái của khối bào tử cũng có nhiều kiểu khác nhau. Có loài bào tử mọc xung quanh như thể hình chai, tạo thành một khối cân đối, có loại phân nhánh như chiếc chổi, có loài như trái bưởi bị đốt cháy đen vỏ (Mucor, Rhizopus). 1.3.2. Cấu tạo Nấm mốc có cấu tạo đặc biệt hoàn toàn khác với vi khuẩn và nấm men. Có loại nấm mốc có vách ngăn, loại không có vách ngăn. 1.3.3. Sinh sản của nấm mốc 1.3.3.1. Sinh sản sinh dưỡng Theo kiểu này cũng có nhiều kiểu khác nhau: a) Phát triển bằng khuẩn ty Từ những đoạn khuẩn sợi nấm riêng rẽ có thể phát triển thành khuẩn ty. Trong lòng khuẩn ty này xuất hiện một hay nhiều tế bào hình cầu có màng dày bao bọc, bên trong có nhiều chất dự trữ. Khi gặp điều kiện thuận lợi khối tròn này tiếp tục phát triển thành những sợi nấm mới. b) Sinh sản bằng hạch nấm Hạch nấm là một khối có hình tròn không đều, màu tối. Bên trong là một tổ chức sợi xốp và thường có màu trắng. Hạch nấm có thể giúp cơ thể nấm sống trong những điều kiện khó khăn, khi gặp điều kiện thuận lợi chúng lại phát triển. 1.3.3.2. Sinh sản vô tính 10
  9. Sinh sản vô tính là hình thức sinh sản chủ yếu bằng bào tử. Các bào tử có thể được tạo thành do sự cắt đoạn của các sợi nấm hoặc bằng cách nảy chồi và đồng thời từ bản thân. Các bào tử này có khả năng nảy chồi sinh ra bào tử tiếp theo. Bào tử có thể tạo thành bằng cách ngăn vách với tế bào ngay khi tế bào mới hình thành thì không có khả năng sinh ra được những bào tử tiếp theo. Bào tử của nấm mốc có thể là bào tử kín như những loài Mucor hay Rhizopus cũng có thể là bào tử trần. Phần lớn không có đuôi mà chỉ là một khối hình tròn. Hiện nay người ta phát hiện một số loài nấm mốc sinh bào tử trần (trên bề mặt cá) có 1 hoặc 2 đuôi. Những nấm mốc này bơi lội trong nước và bám vào xác cá, tôm chết, sau đó phát triển thành nấm mốc. 1.3.3.4. Sinh sản hữu tính a) Đối với nấm mốc trắng sinh bào tử kín (Mucor, Rhiropus) Hai sợi nấm gần nhau đều phình to ra một đoạn ngắn, phát triển dần dần chạm nhau. Mỗi nhánh của sợi nấm kéo dài ra và tiếp tục châu đầu vào nhau, vẫn cách nhau một đoạn ngắn. Rồi hai nhánh này tạo thành một khối xù xì màu nâu nhạt, sau đó biến thành màu đen và trên đó phát triển thành một sợi mới. b) Đối với các nấm thuộc lớp nấm túi (Ascomycetes) Cơ quan sinh bào tử là những túi bào tử và bào tử được bọc trong đó gọi là bào tử túi. Thường mỗi túi có 8 bào tử. 1.4. Virut 1.4.1. Hình thái và kích thước Virut có kích thước vô cùng nhỏ bé không thể trông thấy được qua kính hiển vi thường. Chúng không có cấu tạo tế bào, thành phần hóa học chỉ bao gồm protein và axít nucleic. Virut chỉ chứa ADN hoặc ARN. Chúng không có khả năng sinh sản trong môi trường dinh dưỡng tổng hợp. Virut là loài ký sinh nội bào, một số có khả năng tạo thành tinh thể. Virut có nhiều hình dạng khác nhau, virut của động vật và của vi khuẩn có hình cầu, hình trứng (virut đậu gà), hình hộp vuông hay hình chữ nhật (đậu bò) hay hình tinh trùng (Phazơ), hình quả đấm hay hình gậy. Virut của thực vật có hình cầu hay hình que (virut đốm lá thuốc lào). 1.4.2. Cấu tạo Hầu như toàn bộ virut có cấu tạo hết sức đơn giản. Tế bào của chúng chỉ được tạo thành từ vỏ protein và lõi là axít nucleic. Vỏ protein của virut có cấu tạo đặc biệt, các phân tử protein có phân tử lượng 18 000 - 38 000 tập hợp thành một đơn vị mà trong một số trường hợp gọi là capsome. Các đơn vị hình thái ấy lại lên kết với nhau tạo thành vỏ capxit. Có 3 kiểu vỏ là xoắn, khối và hỗn hợp. 1.5. Xạ khuẩn Xạ khuẩn là loài vi sinh vật đơn bào, phân bố rộng rãi trong thiên nhiên. Có đặc điểm chung như sau: - Xạ khuẩn có kích thước tương đối nhỏ bé tương đương với kích thước vi khuẩn. - Nhân của xạ khuẩn cùng loại với nhân của vi khuẩn nghĩa là chưa có nhân phân hóa rõ rệt. - Màng của xạ khuẩn không chứa xenluloza hay kitin. - Sự phân chia tế bào của xạ khuẩn theo kiểu amitoz (phân bào vô ty) - Xạ khuẩn không có giới tính. 11
  10. Khuẩn ty của xạ khuẩn trông giống khuẩn ty của nấm mốc, phân nhánh và không có vách ngăn. Khuẩn ty của xạ khuẩn mỏng hơn của nấm mốc, đường kính khoảng 0,5 - 1,5 µm (của nấm mốc 5 µm). Khuẩn ty của xạ khuẩn bao gồm nhiều khuẩn ty và tạo thành búi. Khi xạ khuẩn già chúng thay đổi hình dạng rõ rệt, các sợi ròn hơn và có thể gãy thành từng đoạn có kích thước khác nhau. Ở môi trường rắn, khuẩn lạc của xạ khuẩn có thể bao trùm môi trường. Ở môi trường lỏng chúng tạo thành hình bông và khi già thì tạo kết tủa lắng xuống. Trong môi trường thạch chúng phân hóa thành khuẩn ty cơ chất và khuẩn ty khí sinh. Ở nhiều loài xạ khuẩn, khuẩn ty khí sinh phát triển thành hình phóng xạ tạo thành nhiều vòng tròn đồng tâm. Còn khuẩn ty cơ chất đâm sâu vào môi trường tùy theo từng loài với mức độ khác nhau. Thành phần hóa học của khuẩn ty cơ chất và khuẩn ty khí sinh không giống nhau. Chỉ có khuẩn ty khí sinh mới nhuộm màu còn khuẩn ty cơ chất không nhuộm màu (phụ thuộc thành phần lipit). Khuẩn ty cơ chất không chứa lipit. Ngược lại khuẩn ty khí sinh lại chứa lipit. So với khuẩn ty cơ chất, khuẩn ty khí sinh chứa nhiều axít nucleic và enzim hơn đồng thời hoạt tính các enzim cũng mạnh hơn. Xạ khuẩn có tính phân nhánh. Đầu tiên trên bề mặt sợi xuất hiện một mấu lồi, sau đó mấu lồi lớn lên thành chồi. Chồi được kéo dài ra hình thành sợi rồi từ đó phát triển thành nhánh mới. Khuẩn lạc của xạ khuẩn thường chắc, xù xì và có dạng dạ, dạng vôi, dạng nhung tơ hay dạng màng dẻo. Kích thước khuẩn lạc thay đổi theo từng loài và từng điều kiện cụ thể. Xạ khuẩn có thể tạo thành khuẩn lạc với những màu sắc khác nhau như màu đỏ, màu da cam, màu vàng lam, hồng, nâu, tím. Khuẩn lạc có 3 lớp, lớp ngoài gồm các sợi bện chặt nhau, lớp trong tương đối xốp hơn, còn lớp giữa có cấu trúc tổ ong. 1.6. Vi tảo Vi tảo là tảo hiển vi có sắc tố quang hợp. Vi tảo đơn giản nhất là cơ thể đơn bào. Có thể có tiên mao như Chlamydomonas, Peridium và Euglena (tảo mắt), hoặc không có tiên mao như Chlorella (tảo lục), Diatomat (tảo cát). Các vi tảo thường gặp hơn là những cơ thể đa bào hoặc tập hợp đơn bào, như các tập đoàn Volvox, Pediastrum, Scenendesmus thuộc nhóm Archethalle. Phức tạp hơn có bộ phận bám dính và bộ phận dựng đứng như các sợi mảnh phân nhánh hoặc không (có thể có vách ngăn tạo thành các tế bào tương đối độc lập hoặc không có vách ngăn như một ống cộng bào). Những tảo này sinh sản bằng cách chia tế bào ở giữa hoặc bằng cách rụng tế bào ở đầu cùng (Sphacelaria, Ectocarpus ). Sự sinh sản hữu tính của chúng bằng tiếp hợp đẳng giao (hai giao tử bằng nhau) hoặc dị giao (hai giao tử khác nhau). 1.7. Động vật đơn bào Toàn bộ động vật được chia thành hai mức độ tổ chức: Động vật đơn bào (Protozoa) và động vật đa bào (Metazoa), theo phân giới truyền thống thì đó là hai giới phụ: Subkingdom. Động vật đơn bào (đôi khi người ta gộp vào nhóm này cả những động vật hiển vi dạng sợi nhiều nhân) là những cơ thể đơn bào nhân chuẩn, thường dinh dưỡng hữu cơ, một số nhỏ quang dưỡng. Những động vật đơn bào đầu tiên đã được Leeuwenhoek A.V. phát hiện từ thế kỷ 17, nhưng được Joblot L. và nhiều tác giả khác nghiên cứu vào thế kỷ 18. Theo hệ thống phân loại hiện nay thì động vật đơn bào gồm các nhóm trình bày trong bảng 1.1. 12
  11. Bảng 1.1: Một số nhóm động vật đơn bào và tính chất của chúng Nhóm Tính chất đặc trưng Nơi sống Ví dụ Mastigophora Một hoặc nhiều tiên mao, Nước ngọt, kí sinh trên Trypanosoma, tế bào có thể chia dọc. động vật Giardia, Leishmania Sarcodina Dạng Amip, giả túc, không Nước ngọt và mặn, kí Amoeba, Entamoeba có tiên mao, chia đôi sinh trên động vật Sporozoa Thường bất động, một số Kí sinh sơ cấp trên plasmodium (gây có thể trườn bò, chia đôi, động vật chân đốt, tác bệnh sốt rét cơn kí sinh động vật, sâu bọ nhân truyền bệnh kí Malaria) Toxoplasma sinh Cnidospora Hình thành chuỗi bào tử Kí sinh trên động vật Nosema gây bệnh nhờ sợi phìng to ra và cắt có xương và không tầm gai (Pðbrina) khúc xương Bảng 1.2: So sánh một số tính chất của nhóm vi sinh vật Tính chất Vi khuẩn Nấm Tảo Động vật Ghi chú đơn bào Loại tế bào nhân sơ nhân chuẩn nhân chuẩn nhân chuẩn Kiểu dinh hóa dị dưỡng hóa dị dưỡng quang tự hóa dị tính chất của dưỡng (một số hữu cơ dưỡng dưỡng hữu số đông quang cơ dưỡng) Đa bào, đơn đơn bào đa bào (trừ nấm một số đơn đơn bào bào men) bào và một số đa bào Cách sắp riêng lẻ, một đơn bào, sợi đơn bào tập riêng lẻ, tập xếp tế bào số hình thành không vách hợp sợi và hợp tập hợp ngăn (cộng bào bắt đầu hình - Coenocystic) thành mô và sợi có vách ngăn Phương hấp thụ hấp thụ quang hợp, hấp thụ, tính chất số pháp thu hấp thụ thực bào đông nhận thức ăn Tính chất phân bào vô bào tử hữu tính sắc tố quang chuyển đặc trưng tơ (trực phân) và vô tính hợp và sắc động tố hỗ trợ Thành tế Murein hemixelluloza xelluloza không có bào và kitin hoặc lipoproteit pH tối ưu 6,5 - 7,5 3,8 - 5,6 gần trung trung tính tính chất số tính đông Nhu cầu O2 kị khí đến hiếu khí hiếu khí hiếu khí tính chất số hiếu khí đông 13
  12. Chất dự trữ các loại glucogen tinh bột glucogen và chính polysacarit nhiều loại polysacarit Số loài hiện 4 000 80 000 (tất cả 15 000 (chỉ 30 000 (chỉ biết giới nấm) tính tảo đơn tính động bào) vật đơn bào) CHƯƠNG 2: CÁC QUÁ TRÌNH SINH LÝ CỦA VI SINH VẬT 2.1. Quá trình dinh dưỡng của vi sinh vật 2.1.1. Thành phần hóa học của vi sinh vật - Các loài vi sinh vật khác nhau có thành phần hóa học khác nhau. Ngay cả trong cùng một loài vi sinh vật, các cá thể khác nhau thành phần hóa học của chúng cũng khác nhau. - Biểu hiện sự khác nhau ở lứa tuổi nuôi cấy hay chu kỳ sống khác nhau, ở tế bào non khác tế bào già. - Điều kiện nuôi cấy khác nhau, trạng thái hô hấp, nhiệt độ, pH, thành phần môi trường nuôi cấy khác nhau dẫn tới thành phần chất khác đi. Thành phần hóa học chung của vi sinh vật được biểu hiện như sau: Thành phần cơ bản trong tế bào vi sinh vật là nước. Nước chiếm 75 - 85% so với trọng lượng chung, còn lại chất khô không quá 15 - 25%. Các chất khóang chiếm từ 2 - 14% trọng lượng khô, còn lại là chất hữu cơ. Các chất hữu cơ cũng khác nhau rõ rệt: trung bình cacbon chiếm 46 - 50%, ôxy 30%, nitơ 7 -14%, hydro 6 - 8% trọng lượng chất khô. Các nguyên tố tro đáng kể nhất là phôtpho, đôi khi chúng chiếm 1/2 toàn bộ chất tro trong tế bào. Sau đó đến kali, magiê, natri, lưu huỳnh, canxi, clo, sắt. 2.1.2. Yêu cầu về thành phần dinh dưỡng của vi sinh vật Môi trường dinh dưỡng của vi sinh vật bao gồm nhiều thành phần dinh dưỡng cần thiết khác nhau. Thành phần các chất tùy thuộc nhu cầu của từng loài, từng yêu cầu nghiên cứu. Thí dụ có loài cần nhiều gluxit nhưng lại cần ít protit. Có loài cần ít gluxit mà lại cần nhiều protit. Có loài trong quá trình phát triển của chúng không thể thiếu chất kích thích sinh trưởng. Nhìn chung các nguyên tố không thể thiếu trong quá trình sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật là C, H, O, N. Ngoài ra chúng còn cần thêm nguyên tố S và P, một số nguyên tố vi lượng như Fe, Cu, Mg, Mn, Zn, K, Ca, Cl, Bo, I. Vì thế trong thành phần dinh dưỡng không thể cung cấp đơn thuần một số chất nào đó hoặc một nhóm nguyên tố nào đó mà phải đảm bảo đầy đủ thành phần tối thiểu các chất. Thông thường cần cung cấp các chất cơ bản sau: 2.1.2.1. Nitơ Vi sinh vật cần nitơ ở nhiều dạng khác nhau. Một số loài có khả năng nhận nitơ từ không khí nên không cần cung cấp nitơ trong quá trình nuôi cấy, còn đại đa số vi sinh vật trong thiên nhiên không có khả năng này. Nguồn nitơ có 2 dạng: * Nguồn nitơ hữu cơ: Có thể cung cấp protit hoặc axit amin. Protit khi cho vào môi trường, vi sinh vật không đồng hóa được ngay mà cần phải thủy phân thành các peptit ngắn và axit amin. Vi sinh vật chỉ có thể đồng hóa được polypeptit không quá 5 axit amin. 14
  13. Phần lớn các loài vi sinh vật không có khả năng đồng hóa D axit amin. Các axit amin dạng D thường gây độc hại cho tế bào. Trong các nhóm vi sinh vật chỉ có nấm mốc là chứa enzim Raxemaza, enzim này có khả năng chuyển hóa axit amin dạng D sang dạng L dễ đồng hóa. * Nguồn nitơ vô cơ: Bao gồm các loại muối amôn, urê, muối nitrat. Các loại này thích hợp với các loại tảo, nấm mốc, xạ khuẩn, không thích hợp với nấm men và vi khuẩn. Loài vi sinh vật nào có khả năng hấp thụ nitơ không khí thì người ta chi cần cung cấp không khí vào môi trường nuôi cấy. 2.1.2.2. Cacbon Vi sinh vật cần cacbon để làm bộ xương tổng hợp các chất khác nhau trong cơ thể. Nguồn cacbon được tổng hợp từ các nhóm chất cơ bản sau: * Từ các chất hữu cơ có nguồn gốc gluxit. Thí dụ như các loại đường và các loại bột. Vi sinh vật đồng hóa được cả dạng D của đường. Điều lưu ý là các loại đường khi thanh trùng ở nhiệt độ cao thường dễ bị caramen hóa và làm chua môi trường. * Từ các axit hữu cơ như axit lactic, xitric, tactric. Các hợp chất chứa nhiều nhóm metyl (−CH3), metylen (−CH2) vi sinh vật đồng hóa kém hơn. Vi sinh vật có khả năng sử dụng cả CO2 để làm khung cacbon cho nó. Đối với các hợp chất có phân tử lớn như tinh bột, xenluloza, muốn đồng hóa được, vi sinh vật phải chuyển chúng thành đường nhờ các enzim tương ứng. Nồng độ thích hợp để nuôi vi khuẩn và xạ khuẩn là 0,05 - 0,2%, với nấm mốc và nấm men là 3 -15%. 2.1.2.3. Chất khóang và các chất sinh trưởng Các chất khóang cần với số lượng rất nhỏ. Tuy số lượng cần ít nhưng các chất khóang lại rất quan trọng vì chúng giữ pH môi trường ổn định, tham gia vào các coenzim (như sắt, đồng, kẽm, mangan, magie ). Bảng 2.1: Nhu cầu muối khóang đối với một số vi sinh vật Loại muối Nồng độ cần thiết khóang Đối với vi khuẩn Đối với nấm và xạ khuẩn K2HPO4 0,2 - 0,5 1 - 2 KH2PO4 0,2 - 0,5 1 - 2 MgSO4.7H2O 0,1 - 0,2 0,2 - 0,5 MnSO4.7H2O 0,005 - 0,01 0,02 - 0,1 FeSO4.7H2O 0,005 - 0,01 0,05 - 0,2 Na2SO4 0,001 - 0,005 0,01 - 0,02 ZnSO4.7H2O 0,02 - 0,03 CoCl2 0,03 0,06 CaCl2 0,01 - 0,03 0,02 - 0,1 CaSO4 5H2O 0,001 - 0,005 0,001 - 0,05 Riêng các chất kích thích sinh trưởng, người ta quan tâm nhiều đến biotin khi nuôi cấy nấm men và nuôi cấy các chủng tạo axit amin. 2.2. Quá trình hô hấp của vi sinh vật Quá trình hô hấp là một biểu hiện cơ bản của sự sống. Nhờ có hô hấp mà sinh vật mới phát triển và sinh sản được. 15
  14. Hô hấp là một quá trình hết sức phức tạp, nó xảy ra theo hai chiều hướng. Xảy ra trong điều kiện có ôxy và không có ôxy, vì vậy người ta phân ra làm 2 loại: hô hấp yếm khí và hô hấp hiếu khí 2.3. Phân loại vi sinh vật theo kiểu hô hấp Tùy theo kiểu hô hấp các loài vi sinh vật có những đặc tính khác nhau. Dựa vào mối quan hệ với ôxy người ta chia ra những nhóm vi sinh vật sau: 2.3.1. Nhóm vi sinh vật hiếu khí Bao gồm nấm mốc, tảo và một số vi khuẩn. Các loài vi sinh vật này trong quá trình phát triển chúng cần phải được cung cấp oxy. Lượng oxy cần thiết tùy loài vi sinh vật hoặc ở những thời kỳ sinh trưởng khác nhau. Có loài cần nhiều oxy, có loài trong khi phát triển cần oxy ở thời kỳ còn non bằng nhu cầu oxy ở giai đoạn già, lại có loài cần nhiều ở giai đoạn trưởng thành. Tất cả đều phụ thuộc vào hệ enzim oxy hóa khử của chúng. 2.3.2. Nhóm vi sinh vật yếm khí Bao gồm những vi sinh vật phát triển không cần sự có mặt của oxy không khí như Clostridium. Quá trình chuyển hóa các chất trong điều kiện yếm khí gọi là quá trình lên men. Qua quá trình lên men hydro tách ra cơ chất được chuyển tới chất nhận cuối cùng là chất hữu cơ. Lên men là một quá trình oxy hóa khử sinh học nghĩa là oxy hóa khử có enzim xúc tác, vì thế mà quá trình lên men là quá trình có thể điều hòa được. Mặt khác lên men là một quá trình trao đổi chất, qua đó cung cấp năng lượng và nguyên liệu để tạo nên các cấu tử của tế bào. Trong trao đổi chất, một số chu trình phản ứng có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là chu trình Embden-Meyerhof-Pasnas và chu trình Krebs. Mặt khác chúng ta thấy các chất khí chuyển hóa theo chu trình Crebs thì năng lượng được chuyển hóa hoàn toàn. Ngoài năng lượng được chuyển hóa ra qua chu trình Krebs bộ xương cacbon cũng được giải phóng để làm nguyên liệu cho quá trình tổng hợp sau này. 2.3.3. Nhóm vi sinh vật Hiếu khí tùy tiện Ngoài 2 nhóm trên còn có một nhóm vi sinh vật trong điều kiện có hoặc không có không khí cũng phát triển được. Thuộc nhóm này điển hình là nấm men. Trong điều kiện có không khí chúng sẽ chuyển hóa để cung cấp năng lượng và bộ xương cacbon để xây dựng cơ thể và phát triển nhanh hơn. Trong điều kiện không có oxy thì xảy ra hiện tượng lên men để chuyển đường thành rượu và các sản phẩm khác và bvaanx phát triển được nhưng tốc độ chậm hơn nhiều trong diều kiện có dủ oxi không khí. 2.3.4. Nhóm vi sinh vật yếm khí tùy tiện Ngoài 3 nhóm trên còn có một nhóm vi sinh vật trong điều kiện có hoặc không có không khí cũng phát triển được. Trong điều kiện không có oxi không khí chúng phát triển nhanh hơn. Trong điều kiện có oxy thì vẫn phát triển được nhưng tốc độ chậm hơn nhiều và có khi oxi không khí còn là chất độc dối với nó . 2.3.5 .Nhóm Vi hiếu khí. Đây là nhóm Vi sinh vật chỉ cần một lượng oxi không khí rát nhỏ cũng đủ cho nó phát triển tốt 16
  15. Chương 3: ẢNH HƯỞNG CÁC ĐIỀU KIỆN KHÁC NHAU ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA VI SINH VẬT Trong quá trình phát triển và sinh sản vi sinh vật chịu tác động của nhiều yếu tố bên ngoài, các yếu tố đó là: các yếu tố lý học, hóa học và sinh học. 3.1. Ảnh hưởng của các yếu tố lý học 3.1.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ Mỗi vi sinh vật phát triển trong một khoảng nhiệt độ nhất định. Ngoài khoảng nhiệt độ đó vi sinh vật sẽ bị hạn chế sự phát triển. Trong nhiều tài liệu cho thấy rằng nhiều vi sinh vật có thể phát triển trong khoảng nhiệt độ dài 18 - 1400C. Tùy theo mức độ chịu nhiệt của chúng mà người ta có một số khái niệm như sau: - Nhiệt độ tối ưu: tại đó vi sinh vật phát triển thuận lợi nhất. - Nhiệt độ cao nhất: là mức độ giới hạn tối đa. Ở đó vi sinh vật vẫn phát triển nhưng hết sức chậm và yếu. Nếu quá giới hạn đó thì vi sinh vật sẽ bị tiêu diệt. - Nhiệt độ thấp nhất: là mức độ nhiệt độ thấp nhất mà vi sinh vật vẫn tồn tại, phát triển rất yếu. Nếu thấp hơn mức độ đó vi sinh vật sẽ bị tiêu diệt. Phần lớn vi sinh vật gây bệnh phát triển tốt ở nhiệt độ 35 - 370C. Một số nấm men và nấm mốc nuôi cấy trong phòng thí nghiệm phát triển tốt ở 26 - 320C. Nhiệt độ thường gây cho vi sinh vật những chiều hướng sau: - Nhiệt độ thấp, thường không gây chết vi sinh vật ngay mà tác động lên khả năng chuyển hóa các hợp chất, làm ức chế hoạt động các enzim, thay đổi khả năng trao đổi chất của chúng. Vì thế ở nhiệt độ thấp vi sinh vật mất khả năng phát triển và sinh sản, thậm chí có thể bị chết. Khả năng gây chết của chúng hết sức từ từ chứ không xảy ra đột ngột như ở nhiệt độ cao. Dựa vào đặc tính này người ta cất giữ thực phẩm, bảo quản giống vi sinh vật ở nhiệt độ thấp. - Nhiệt độ cao, thường gây chết vi sinh vật một cách nhanh chóng. Đa số vi sinh vật bị chết ở 60 - 80oC. Một số khác chết ở nhiệt độ cao hơn. Đặc biệt bào tử có khả năng tồn tại ở nhiệt độ lớn hơn 1000C. Nhiệt độ cao thường gây biến tính protit, làm hệ enzim lập tức không hoạt động được, vi sinh vật dễ bị tiêu diệt. Lợi dụng đặc điểm này người ta sử dụng nhiệt độ cao để sấy khô thực phẩm, thanh trùng, khử trùng dụng cụ, môi trường nuôi cấy. 3.1.2. Ảnh hưởng của độ ẩm Độ ẩm không khí, độ ẩm vật liệu hay độ ẩm môi trường cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và sinh sản của vi sinh vật. Đa số vi sinh vật phát triển tốt ở độ ẩm môi trường lớn hơn 20%. Nếu hạ thấp độ ẩm sẽ làm rối loạn quá trình sinh lý bình thường của vi sinh vật. Độ ẩm là một trong những yếu tố làm cho vi sinh vật tiếp nhận thức ăn dễ dàng. Nhờ có độ ẩm tốt mà các chất dinh dưỡng dễ thâm nhập vào cơ thể, các hệ enzim thủy phân mới hoạt động được. Nếu độ ẩm quá thấp xảy ra hiện tượng thay đổi trạng thái dẫn tới vi sinh vật không phát triển được. Lợi dụng đặc điểm này người ta tiến hành các phương pháp sấy khô, phơi khô để làm giảm độ ẩm nguyên liệu, làm khô không khí để hạn chế sự phát triển của vi sinh vật hay để những vật liệu cần bảo quản ở nơi khô ráo. 3.1.3. Ảnh hưởng của ánh sáng Ảnh hưởng của ánh sáng mặt trời chiếu rọi xuống đất, những vi sinh vật phát triển trên bề mặt đất đều bị tiêu diệt trừ những vi khuẩn tự dưỡng quang năng. Thông thường chúng bị tiêu diệt rất nhanh trong vài phút đến vài giờ. Các vi sinh vật gây bệnh thường nhạy cảm với ánh sáng hơn những vi sinh vật gây thối. 17
  16. Tác dụng chiếu sáng phụ thuộc bước sóng của tia sáng. Bước sóng càng ngắn, khả năng tác dụng quang hóa càng mạnh, càng làm vi sinh vật dễ bị tiêu diệt. Lợi dụng đặc tính này, người ta thường phơi nắng các dụng cụ cần bảo quản, một mặt làm giảm độ ẩm, một mặt tiêu diệt những vi sinh vật trên bề mặt. Một điều cần chú ý là nhiều người tắm nắng quá lượng, đã làm hệ vi sinh vật trên da bị tiêu diệt lại có tác dụng hại cho sức khỏe. 3.1.4. Ảnh hưởng của tia tử ngoại Tia tử ngoại có khả năng tiêu diệt vi sinh vật rất nhanh. Chính vì thế mà ngày nay người ta sử dụng tia tử ngoại như một trong những phương thức tiệt trùng trong nghiên cứu hay sản xuất. 3.1.5. Ảnh hưởng của tia phóng xạ, tia Rơnghen Tia phóng xạ và tia Rơnghen trong khi chiếu xạ mặc dù trong thời gian rất ngắn cũng đủ làm ức chế và tiêu diệt vi sinh vật. Mặt khác cũng có nhiều vi sinh vật có khả năng bền vững với điều kiện chiếu xạ này. 3.1.6. Ảnh hưởng của chất hòa tan (áp suất) Nồng độ hòa tan thường gây áp suất thẩm thấu lên màng tế bào vi sinh vật. Ở đây thường xảy ra 2 trường hợp: - Trường hợp thứ nhất: chất hòa tan trong môi trường quá cao, trong tế bào vi sinh vật xảy ra hiện tượng tách nước ra ngoài môi trường. Vì thế tế bào bị mất nước hay teo (co) nguyên sinh chất. Vì thế làm thay đổi khả năng trao đổi chất của tế bào, làm tế bào dễ bị chết. - Trường hợp thứ hai: tế bào vi sinh vật có khả năng thích ứng với điều kiện áp suất thẩm thấu ở môi trường thay đổi. Trong điều kiện đó xuất hiện sự tích lũy trong dịch bào những muối khóang hoặc là những chất hòa tan làm điều hòa áp suất ở trong và ở ngoài tế bào. Đây là hiện tượng tự điều chỉnh áp suất của vi sinh vật. Ứng dụng hiện tượng này người ta muối dưa, cà, rau quả và muối thịt hoặc ngâm đường. Đa số vi sinh vật gây thối bị ức chế ở nồng độ muối 5 -10%. Vì thế ở nồng độ muối này có khả năng bảo quản một số thực phẩm, trong thực tế người ta dùng nhiều hơn. Thịt thường với nồng độ 30%, dưa chuột 12 - 15%, cá 20%, còn đối với nồng độ đường cao hơn có thể tới 40%. Một số vi sinh vật khác có khả năng tồn tại ở nồng độ 80%. 3.2. Ảnh hưởng của các yếu tố hóa học Các chất hóa học tác dụng lên vi sinh vật khác nhau hoàn toàn khác nhau. 3.2.1. Ảnh hưởng của nồng độ ion hydro (pH) Phản ứng pH môi trường tác động trực tiếp lên vi sinh vật. Ion hydro nằm trong thành phần môi trường làm thay đổi trạng thái điện tích của thành tế bào. Tùy theo nồng độ của chúng mà làm tăng hay giảm khả năng thẩm thấu của tế bào đối với những ion nhất định. Mặt khác chúng cũng làm ức chế phần nào các enzim có mặt trên thành tế bào. Sự phát triển của vi sinh vật chịu ảnh hưởng rất nghiêm ngặt đối với pH của môi trường. Đối với vi khuẩn thuận lợi nhất là chúng phát triển trong môi trường trung tính hoặc kiềm yếu. Đối với nấm men và nấm mốc thì phát triển ở môi trường axit yếu. Nếu nồng độ ion hydro trong dung dịch vượt quá mức độ bình thường đối với vi sinh vật nào đó thì sự sống bị ức chế. Sự thay đổi pH môi trường có thể gây ra thay đổi kiểu lên men hay đặc tính lên men. Trong điều kiện phòng thí nghiệm phần lớn chúng ta sử dụng những môi trường có pH đối với vi khuẩn 7 - 7,6; đối với nấm men và nấm mốc 3,0 - 6,0. 18
  17. Bảng 3.1: Ảnh hưởng pH đối với một số vi sinh vật Loài vi sinh vật pH môi trường Độ axit tối thiểu Tối ưu Kiềm tối đa Saccharomyces 4 5,8 6,8 cerevisiae Streptococcus lactic 4,0 - 5,1 7,9 Lactobacterinus casei 3,0 - 3,9 − 7,1 E. coli 4,4 6,5 - 7,8 7,8 Clostr.amylobacter 5,7 6,9 - 7,3 Vi khuẩn gây thối Bac.mesentericeus 5,8 6,8 8,5 Clostr.putrifilum 4,2 7,5 - 8,5 9,4 Vi khuẩn cố định đạm Aztobacter chrococcum 5,6 6,5 - 7,8 8,8 - 9,2 Vi khuẩn nitrat Nitrosomonas 3,9 7,7 - 7,9 9,7 Nitrosobacter 3,9 6,8 - 7,3 13,0 Nấm mốc 1,2 1,7 - 7,7 9,2 - 11,1 Ứng dụng ảnh hưởng của pH, người ta sử dụng trong sản xuất cũng như trong phân lập chọn giống vi sinh vật chủ yếu là tạo điều kiện cho vi sinh vật có lợi phát triển và ức chế hoạt động của các vi sinh vật có hại. Ví dụ: ngâm dấm, dầm dấm đó là một cách bảo quản. 3.2.2. Ảnh hưởng của chất độc, các chất diệt khuẩn Nhiều chất độc hóa học có khả năng tiêu diệt vi sinh vật. Khả năng tác dụng này có một ý nghĩa rất lớn trong kỹ thuật vi sinh vật học. Cơ chế tác dụng của chúng rất khác nhau, nói chung không đồng nhất, nó phụ thuộc bản chất hóa học của chất diệt vi sinh vật, phụ thuộc từng loài vi khuẩn. Ví dụ: este, cồn, dung dịch kiềm yếu tác dụng làm tan chất lipoit có trong thành phần tế bào. Muối kim loại nặng, kẽm, axit, foocmalin làm đông tụ protein, làm thay đổi thành phần bào tương của vi sinh vật. Axit nitric, clo, bột clo, permaganat kali, các chất hữu cơ ôxy hóa mạnh có khả năng phá hủy hẳn tế bào vi sinh vật, còn các chất khác như glyxerin, nồng độ đường và nồng độ muối cao gây áp suất thẩm thấu. Các chất được ứng dụng trong kỹ thuật để tiêu diệt vi sinh vật gọi là chất diệt khuẩn. Hoạt tính diệt khuẩn của các chất hóa học phụ thuộc trước tiên vào cấu tạo, nồng độ chất, thời gian tác dụng của nó đối với vi sinh vật, loại vi sinh vật, thành phần hóa lý của môi trường và nhiệt độ của môi trường đó. Các chất diệt khuẩn được ứng dụng trong công nghiệp thực phẩm phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Có tác dụng diệt khuẩn mạnh ở nồng độ nhỏ; - Có khả năng tan trong nước; - Chất diệt khuẩn không được có mùi, vị và không gây độc hại cho người; - Bền vững trong bất kỳ điều kiện bảo quản nào; - Không gây tác dụng phá hủy dụng cụ chứa cũng như thiết bị kỹ thuật. Đối với vật dụng diệt khuẩn ẩm thì dùng chất hóa học ở dạng dung dịch, huyền phù hay bột, còn chất khí thì dùng dạng khí hoặc hơi. Một số chất hóa học thường dùng để diệt khuẩn được trình bày dưới đây. 19
  18. a) Kiềm và muối - NaOH 0,1% với pH =10, trong nồng độ này vi sinh vật bị tiêu diệt trong 1 - 2 phút ở nhiệt độ 400C . Không dùng cho thiết bị bằng nhôm. 0 - Na2CO3 1% hay 0,5% với nhiệt độ 55 C. b) Halogen và các dẫn xuất - Clo là chất diệt khuẩn mạnh. Nó có thể sử dụng ở dạng nước hay dạng khí. Tác dụng của chúng lên tế bào dinh dưỡng, lên bào tử không đồng đều. Nồng độ rất nhỏ cũng đủ tiêu diệt vi sinh vật. Khả năng tác dụng của clo lên trực khuẩn đường ruột được trình bày trong bảng3.2. - Bột CaOCl2 là dạng hypoclorit, thường sử dụng với nồng độ 2%. - Antifocmin: thường sử dụng nhiều trong sản xuất bia. Antifocmin được điều chế từ 3 thành phần bột Cl, Ca(OH)2, NaOH. Bảng 3.2: Khả năng tác dụng của clo lên vi sinh vật Thời gian tương tác Lượng vi sinh vật trong 1ml nước phụ thuộc nồng độ (phút) Cl (mg/l) 0,5 1,0 2,0 4,0 0 1 800 000 1 800 000 180 000 1 800 000 1 13 900 1 940 350 185 2 6 000 970 24 8 5 4 500 640 15 5 c) Hợp chất kim loại nặng Thường sử dụng nhiều là thủy ngân, đồng và bạc. Chúng ở dạng các hợp chất hữu cơ hay vô cơ. Các chất này chủ yếu là làm đông tụ protein của vi sinh vật. o - HgCl2 thường được sử dụng ở trạng thái dung dịch 1 /oo. Ở nồng độ này sẽ tiêu diệt hết tế o bào dinh dưỡng trong vòng 1 - 30 phút, nồng độ 2 /oo tiêu diệt bào tử vi sinh vật. - Các hợp chất bạc: thường sử dụng nhiều dạng khác nhau. Trong y học người ta sử dụng AgNO3. Trong công nghiệp thực phẩm người ta sử dụng một số hợp chất khác của bạc với nồng độ 1/109. - Phênol và những dẫn xuất của chúng: thường sử dụng rất nhiều dẫn xuất khác nhau của phênol như axit cacbolinic (C6H5OH) 1%. Ở nồng độ này phần lớn những tế bào dinh dưỡng bị tiêu diệt sau 5 -10 phút. Trong dung dịch 2-5% tiêu diệt nhiều tế bào gây bệnh. d) Các chất khí: rất nhiều chất khí có khả năng tiêu diệt vi sinh vật - Foocmalin: tác dụng lên các nhóm amin và làm biến tính protit vi sinh vật. Nồng độ 5% tiêu diệt bào tử sau 30 phút; 2% sau 60 phút; 1% sau 2h. Để diệt khuẩn thường sử dụng dung dịch 2% điều chế từ dung dịch 40% foocmalin. - Ngoài ra người ta còn hay sử dụng SO2 và một số khí khác trong công nghiệp đồ uống. 3.2.3. Ảnh hưởng của các sản phẩm trao đổi chất Đồng hóa và dị hóa là 2 quá trình không thể thiếu trong quá trình sinh trưởng và phát triển của mọi loài vi sinh vật. Do quá trình dị hóa mà nhiều sản phẩm trao đổi chất của chúng có tác dụng ngược lại quá trình đồng hóa. Các sản phẩm trao đổi chất thường có tác dụng rất độc hại đối với vi sinh vật. Bình thường các vi sinh vật lấy các chất dinh dưỡng trong môi trường đồng thời thải các chất cặn bã ra xung quanh. Các chất thải này một mặt gây ức chế các quá trình hấp thụ thức ăn của vi sinh vật. Các sản phẩm trao đổi chất bao bọc xung quanh tế bào tạo một lớp làm cho các chất dinh dưỡng không chui được vào trong tế bào. Mặt khác chính các sản phẩm trao đổi chất này gây tác động ức chế sinh tổng hợp các hệ enzim và làm ức chế hoạt động của enzim. Hiểu được tác dụng này cần phải cải tiến các phương pháp nuôi 20
  19. vi sinh vật để thu sinh khối mà các sản phẩm trao đổi chất ít gây độc đối với vi sinh vật. Các biện pháp đó có thể là: - Khuấy trộn: làm cho các thành phần trao đổi chất không bám xung quanh tế bào, không ức chế hoạt động của vi sinh vật. - Thổi khí cũng có tác dụng tương tự, đồng thời đẩy nhanh các chất khí độc hại ra khỏi môi trường. - Tiến hành nuôi cấy liên tục làm thay đổi thành phần môi trường nuôi cấy, làm giảm nồng độ các chất thải của vi sinh vật trong môi trường. 3.3. Ảnh hưởng của các yếu tố sinh học Ngoài tác dụng của các yếu tố bên ngoài, bản thân giữa các vi sinh vật cũng có tác dụng qua lại. Sự tác dụng này xảy ra muôn hình muôn vẻ, từ đó tạo ra các mối liên hệ. 3.3.1. Quan hệ cộng sinh Quan hệ cộng sinh là hiện tượng trong cùng một môi trường có 2 hay nhiều cá thể của 2 hay nhiều loài cùng sinh trưởng, cùng phát triển, cùng sinh sản mà không gây ảnh hưởng xấu lẫn nhau. Ví dụ: Vi khuẩn họ đậu, nấm men và vi khuẩn lactic. Vi khuẩn lactic làm axit hóa môi trường tạo điều kiện thuận lợi cho nấm men phát triển. Nấm men phát triển làm giàu các chất trong môi trường cho vi khuẩn phát triển, trong các chất đó đáng lưu ý nhất là vitamin và các hợp chất chứa nitơ. 3.3.2. Quan hệ đối kháng Quan hệ đối kháng là hiện tượng mà trong cùng một điều kiện môi trường có một loài vi sinh vật này trong quá trình sinh trưởng và phát triển lấn át loài khác, tiêu diệt loài khác. Ví dụ một số vi sinh vật tạo thành chất kháng sinh tiêu diệt loài khác. 3.3.3. Quan hệ kí sinh Quan hệ kí sinh là mối quan hệ giữa 2 cơ thể sống, một loài này sống bám vào loài khác. Loài này phát triển lên sẽ làm loài kia bị tiêu diệt. Ví dụ như virut đối với các sinh vật khác, thực khuẩn thể, virut của động vật và thực vật. 21
  20. Chương 4 : SỰ PHÂN BỐ VI SINH VẬT TRONG THIÊN NHIÊN 4.1. Hệ vi sinh vật không khí Bản thân không khí không phải là môi trường thuận lợi cho vi sinh vật phát triển. Sở dĩ như vậy vì: - Thứ nhất: Không khí rất nghèo chất dinh dưỡng, các chất có trong không khí không thích hợp cho vi sinh vật phát triển. Một mặt do thành phần các chất đó không đầy đủ cho sự phát triển của vi sinh vật, mặt khác các chất này có khi còn là chất độc đối với vi sinh vật nữa. - Thứ hai: Không khí luôn bị ánh sáng mặt trời chiếu sáng. Trong ánh sáng có nhiều tia sáng có khả năng tiêu diệt vi sinh vật, vì thế lượng vi sinh vật bị tiêu diệt cũng nhiều. - Thứ ba: Độ ẩm trong không khí thay đổi luôn luôn. Phần lớn độ ẩm này không đủ đảm bảo cho vi sinh vật phát triển. Trong không khí ở đâu ta cũng thấy nhiều vi sinh vật, cả tế bào vi sinh vật, cả bào tử vi sinh vật. Sở dĩ trong không khí có nhiều vi sinh vật khác nhau vì vi sinh vật không khí có nhiều nguồn gốc khác nhau. Trong đó vi sinh vật được đưa vào chủ yếu từ đất do cát bụi tung lên; do hoạt động sống của con người và động vật; do hoạt động chiến tranh vi trùng Ngoài ra còn phụ thuộc nhiều nguyên nhân khác nữa như núi lửa, thác lũ tung bọt nước vào không khí, hoạt động động đất, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp Trong không khí người ta thấy có bào tử nấm mốc, tế bào nấm men, bào tử và tế bào vi khuẩn. Số lượng chủng loại hoàn toàn không giống nhau trong những địa phương và mùa khác nhau. Tất cả những điều này phụ thuộc các yếu tố sau: 4.1.1. Khí hậu trong năm Thường vào mùa đông, lượng vi sinh vật hầu như ít nhất so với các mùa khác trong năm. Ngược lại lượng vi sinh vật nhiều nhất vào mùa hè. Có lẽ do độ ẩm không khí, nhiệt độ cao, gió mưa, do các hoạt động khác của thiên nhiên. Theo kết quả nghiên cứu của Omelansku lượng vi sinh vật trong các mùa thay đổi như sau (số lượng trung bình trong 10 năm) Bảng4.1. Lượng vi sinh vật trong 1m3 không khí Mùa Vi khuẩn Nấm mốc Mùa đông 4305 1345 Mùa xuân 8080 2275 Mùa hè 9845 2500 Mùa thu 5665 2185 Ngoài sự phụ thuộc khí hậu các mùa, số lượng vi sinh vật còn phụ thuộc mưa và các yếu tố khác. Trong mùa hè gió nhiều thì vi sinh vật trong không khí càng lắm. Ngược lại nếu gió càng ít thì lượng vi sinh vật thấy càng ít. Lượng vi sinh vật khi có mưa bao giờ cũng nhiều hơn sau khi trời tạnh. Vì trong thời gian mưa hạt mưa cuốn theo vi sinh vật rơi xuống đất làm không khí trở nên hoàn toàn trong sạch cả về bụi và về lượng vi sinh vật. 4.1.2. Vùng địa lý - Lượng vi sinh vật gần khu quốc lộ có nhiều xe qua lại bao giờ cũng nhiều vi sinh vật trong không khí hơn vùng nơi khác. - Không khí vùng núi và vùng biển bao giờ cũng ít vi sinh vật hơn vùng khác. Đặc biệt trong không khí ngoài biển lượng vi sinh vật rất ít. 22
  21. - Ngoài ra nó còn phụ thuộc chiều cao lớp không khí. Không khí càng cao so với mặt đất, lượng vi sinh vật càng ít. Kết quả nghiên cứu được chỉ rõ trong bảng4.2. Bảng4.2. Lượng vi sinh vật trong một lít không khí Độ cao (m) Lượng tế bào 500 2,3 1000 1,5 2000 0,5 5000 - 7000 Lượng vi sinh vật ít hơn 3 - 4 lần 4.1.3. Hoạt động sống của con người Con người và động vật là một trong những nguyên nhân gây nạn ô nhiễm không khí. Ví dụ như trong giao thông, vận tải, trong chăn nuôi, trong sản xuất công nông nghiệp, do bệnh tật hoặc do các hoạt động khác của con người và động vật mà lượng vi sinh vật tăng hay giảm. Bảng 4.3 là kết quả thí nghiệm tại một nhà máy bánh mỳ thấy rằng lượng vi sinh vật trong 1 m3 không khí Bảng 4.3.Lượng VSV trong các phân xưởng SX khác nhau Phân xưởng Nấm mốc Vi khuẩn Bột 4250 2450 Nhào bột 700 360 Lên men 650 810 Nuôi nấm men 410 720 Tạo hình 830 1160 Nướng bánh 750 950 Bảo quản 2370 1410 Kết quả chung cho thấy khu vực sản xuất khác nhau cho thấy lượng vi sinh vật trong không khí cũng khác nhau. Bảng 4.4. Lượng vi sinh vật có trong 1 m3 không khí ở các vùng khác nhau Nơi lấy mẫu Lượng vi sinh vật Nơi chăn nuôi 1 000 000 - 2 000 000 Khu cư xá 20 000 Đường phố 5 000 Công viên trong thành phố 200 Ngoài biển 1 - 2 4.1.4. Vấn đề chống nhiễm vi sinh vật - Các sản phẩm thực phẩm hoặc các vật liệu dễ nhiễm phải hạn chế hoặc tuyệt đối (nếu có thể) cách li với không khí. Các dây chuyền sản xuất thực phẩm càng được cơ giới hóa kín càng tốt. - Trong phòng chế biến và bảo quản phải làm cho không khí thóang bằng cách thông gió, hút bụi. - Trong nuôi cấy hiếu khí phải thổi khí vô trùng bằng cách cho không khí qua bộ lọc khí, qua bông hoặc permenganat kali, hoặc qua đèn tử ngoại - Tránh tiếp xúc với người bệnh vì vi sinh vật có thể qua hô hấp. 23
  22. 4.2. Hệ vi sinh vật đất Khác với không khí, đất là môi trường thuận lợi cho hầu hết các vi sinh vật phát triển. a) Đất chứa đủ các chất dinh dưỡng như nguồn nitơ, cacbon, vi lượng, độ ẩm và pH thích hợp. Ngoài ra hàm lượng các chất dinh dưỡng lại được làm giàu thêm khi xác động thực vật rơi xuống. Vì thế mà vi sinh vật sinh sản và phát triển nhanh chóng trong đất. b) Các tia phóng xạ qua lớp không khí xuống, đất sẽ hấp thụ trên bề mặt chúng. Các tia phóng xạ không còn tác dụng hủy diệt tế bào vi sinh vật, vì thế vi sinh vật phát triển không bị tác nhân vật lí này gây cản trở. c) Độ ẩm trong đất đủ đảm bảo cho vi sinh vật phát triển. Nước trong đất hòa tan nhiều chất dinh dưỡng có lợi cho vi sinh vật phát triển. Nói chung lượng vi sinh vật trong đất không đồng đều ở những khu vực khác nhau, chiều dày đất khác nhau. Có nơi thấy nhiều vi sinh vật, có nơi thấy ít vi sinh vật. Mặt khác số lượng loài hay thành phần vi sinh vật cũng không đồng đều, có nơi chỉ thấy phát triển nhiều nấm men, có nơi thấy phát triển nhiều vi khuẩn và ngay trong nhóm vi khuẩn có nơi phát triển nhiều loài hoại sinh, loài gây bệnh, nơi khác lại thấy ít. Trong đất thường gặp các loài như B.mycoides, B.subtilis, B.mensentricus, Cl.sporogenes, Cl.putrin, Cl.perfringenes, Micrococcus albus. Có nhiều loài vi khuẩn tham gia chuyển hóa nitơ trong thiên nhiên, nhiều loài gây bệnh. Ngoài ra ở các vùng trồng nho, trồng cây ăn quả thấy nhiều nấm mốc, nấm men. Số lượng và thành phần vi sinh vật trong đất thay đổi khá nhiều. Trước hết số lượng và thành phần vi sinh vật trên bề mặt đất rất ít do ngay trên bề mặt đất độ ẩm không phải là thích hợp cho vi sinh vật phát triển, hơn nữa bề mặt đất lại bị mặt trời chiếu rọi nên vi sinh vật dễ bị tiêu diệt. Số lượng và thành phần vi sinh vật thấy nhiều hơn khi chiều sâu đất 10 - 20 cm so với bề mặt. Ở tầng lớp này độ ẩm vừa thích hợp, các chất dinh dưỡng tích lũy nhiều, không bị tác dụng của ánh sáng mặt trời nên vi sinh vật phát triển nhanh. Các quá trình chuyển hóa quan trọng trong đất chủ yếu xảy ra trong tầng đất này. Số lượng và thành phần vi sinh vật sẽ giảm đi khi độ sâu của đất hơn 30 cm và sâu 4 - 5m hầu như rất ít (trừ trường hợp đất đó có mạch nước ngầm). Rõ ràng là vi sinh vật ở tầng đất này phải là loài yếm khí đồng thời phải chịu được áp suất lớn mới phát triển được. Mặt khác do ở lớp đất này hầu như các chất hữu cơ rất hiếm. Bảng 4.5. Lượng vi khuẩn trong đất xác định theo chiều sâu đất Chiều sâu đất Vi khuẩn Xạ khuẩn Nấm mốc Rong tảo (cm) 3 - 8 9 750 000 2 080 000 119 000 25 000 20 - 25 2 179 000 245 000 50 000 5 000 35 - 40 570 000 49 000 14 000 500 65 - 75 11 000 5 000 6 000 100 135 - 145 1 400 − 3 000 − Số lượng và thành phần vi sinh vật trong đất còn thay đổi tùy theo chất đất. Ở nơi đất nhiều chất hữu cơ, giàu chất mùn có độ ẩm thích hợp vi sinh vật phát triển mạnh. Ví dụ ở đầm lầy, đồng nước trũng, ao hồ, khúc sông chết, cống rãnh, Còn ở những nơi đất có đá, đất có cát số lượng và thành phần vi sinh vật ít hơn. Lợi dụng sự có mặt của vi sinh vật trong đất mà người ta phân lập, tuyển chọn, đồng thời duy trì những chuyển hóa có lợi phục vụ cho cuộc sống. 4.3. Hệ vi sinh vật nước 24
  23. Nước nguyên chất không phải là nguồn môi trường thuận lợi cho vi sinh vật phát triển. Vì nước nguyên chất không phải là môi trường giàu dinh dưỡng. Trong nước có nhiều chất hữu cơ và muối khoáng khác nhau hòa tan. Những chất hòa tan này rất thuận lợi cho vi sinh vật sinh trưởng và phát triển. Vi sinh vật trong nước được đưa từ nhiều nguồn khác nhau: - Từ đất do bụi bay lên, nguồn nước này chủ yếu bị nhiễm vi sinh vật trên bề mặt. - Từ nước mưa sau khi chảy qua những vùng đất khác nhau cuốn theo nhiều vi sinh vật nơi nước chảy qua. - Từ nước ngầm hoặc nguồn nước khác qua những nơi nhiễm bẩn nghiêm trọng. Số lượng và thành phần vi sinh vật thấy trong nước mang đặc trưng vùng đất bị nhiễm mà nước chảy qua. 4.3.1. Hệ vi sinh vật các nguồn nước a) Nước phun hay nước máy Loại nước này hầu như được giải phóng hoàn toàn vi sinh vật do quá trình xử lý sơ bộ trước khi sử dụng. Lượng vi sinh vật chỉ tăng khi đường ống hỏng hay đường ống lâu ngày không tu sửa, rong rêu phát triển. b) Nước mạch Loại nước này chứa rất ít vi sinh vật, vì khi chúng chảy qua nhiều lớp đất cát đóng vai trò như một màng lọc, lọc các chất bẩn và vi sinh vật. c) Nước khí quyển (nước mưa) Thường chứa rất ít vi sinh vật. Lượng vi sinh vật nhiều ở lớp nước mưa và tuyết đầu tiên, càng về sau lượng vi sinh vật càng ít dần. d) Băng: Là loại nước chứa ít vi sinh vật, hầu như vô trùng. e) Nước bề mặt (hồ, sông, biển) Vi sinh vật nhiễm vào các loại nước ao, hồ, sông, biển có thể do bụi đưa vào, do nước chảy từ những nơi khác đến, cũng có thể do bản thân nước chứa nhiều chất hữu cơ mà vi sinh vật tham gia phân hủy và phát triển làm ô nhiễm nước. f) Nước ao hồ (nước không lưu thông) Nước ao hồ thường chứa nhiều vi sinh vật nhất. Ở đây gặp hầu hết các thành phần vi sinh vật. Chúng tham gia mọi quá trình chuyển hóa trong nước vì thế nước có mùi khó chịu, có màu xấu. g) Nước sông, biển Loại nước này có ít hơn đặc biệt nước biển, hàm lượng vi sinh vật không nhiều, vì bản thân nước biển có chứa hàm lượng muối đáng kể đủ ức chế một số vi sinh vật khác phát triển. Mặt khác không khí trên biển cũng rất ít vi sinh vật nên ít khả năng nhiễm vi sinh vật từ không khí. 4.3.2 Yêu cầu nước dùng Nước không thể thiếu được trong hoạt động sống của tất cả mọi loài. Nước được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, đáng kể nhất là dùng trong công nghiệp chế biến và nước dùng trong sinh hoạt. Vì thế nước phải đảm bảo một số yêu cầu sau: - Không chứa vi sinh vật gây bệnh - Lượng vi sinh vật chung không quá 100 khuẩn lạc/ml 25
  24. - Phải có chỉ số coli và chuẩn độ coli xác định. Nếu có coli tức là nguồn nước này bị nhiễm phải có biện pháp khắc phục. Người ta xét chất lượng nước theo chỉ số coli (là số trực khuẩn coli có trong 1 lít nước) Bảng 4.6. Chất lượng nước Loại nước Tổng số vi sinh vật Chỉ số coli Kết luận hiếu khí/1ml VN Nga VN Nga Đã sát trùng 100 100 = 100 > 20 Tạm dùng 1000 100 Không dùng Nước chưa sát 100 -1000 20 -1000 Dùng được trùng = 1000 = 10 Tạm dùng 1000 1000 4.3.3. Những phương pháp làm sạch nước a) Phương pháp hóa học và cơ học, kết tủa - Xây các bể dài khác nhau, cho nước chảy với tốc độ vừa phải. Nước chảy chậm, trọng lượng hạt lớn lắng xuống đáy, các hạt này có theo vi sinh vật. Phương pháp này cũng làm giảm 75% vi sinh vật. - Làm keo tụ: dùng một số chất làm keo tụ các thành phần trong nước lại tạo huyền phù kết tủa xuống đáy sau 6 giờ. Phương pháp này làm giảm 90% vi sinh vật. - Lọc: qua các màng cát, đường kính cát khoảng 0,35 - 0,55 mm, độ dày lớp cát 0,7m. Qua 10 tới 12 phút thì vi sinh vật sẽ được giữ lại tạo thành váng. - Dùng các hợp chất Clo: CaOCl2, Ca(OCl)2, Pitchclo, Percloron, NaOCl, Clo lỏng. Thường xảy ra 2 trường hợp: 1. Nếu gặp môi trường nước có pH axit chúng sẽ bị phân tích thành oxy tự do. 2. Khi nước có pH kiềm hoặc trung tính chúng sẽ phân tích thành oxy tự do và HOCl HOCl là chất không bền vững, chúng lại bị phân tích thành các sản phẩm sau: Ca(OCl)2 + H2O → Ca(OH)2 + 2HOCl 2HOCl ↔ H2O + OCl2 OCl2 ↔ O3 + Cl2 Ozon và Clo sẽ tác dụng trực tiếp lên bào tương vi sinh vật và sẽ tiêu diệt chúng. Sự tác dụng đó có hạn chế ở chỗ là chúng chỉ tác dụng lên cơ quan hữu tính mà không tác dụng lên cơ quan bào tử vi sinh vật, vì thế nước khi xử lý bằng Clo không được hoàn toàn vô trùng mà còn bào tử vi sinh vật. Tùy loại nước mà người ta cho hàm lượng clo nhiều hay ít, trung bình khoảng 0,2 - 0,3 mg/l, thời gian tiếp xúc khoảng 2giờ. Đặc điểm nữa là tác dụng clo lên vi sinh vật phụ thuộc nhiều vào pH nước. Nếu là kiềm thì sẽ giảm tác dụng rõ rệt vì thế nếu pH = 8 - 10 thì cho 0,4mg/l; pH >10 cho trên 0,8mg/l. Clo có thể bị mất tác dụng nếu có khả năng tương tác với thành phần vô cơ và hữu cơ có trong nước, vì thế cần làm sạch cơ học trước. b) Xử lí bằng tia tử ngoại Phương pháp này có ưu điểm là không làm mất tính chất của nước, không tạo mùi vị lạ, tiêu diệt hoàn toàn vi sinh vật kể cả tế bào hữu tính và bào tử của chúng. 26
  25. Tia tử ngoại thường có bước sóng 3300 - 4000 Ao và tác động sinh học là 2000 - 2900 Ao. Đặc biệt chúng có khả năng tiêu diệt mạnh nhất ở bước sóng 2537 Ao. Thường người ta cho nước chảy từ trên xuống theo hình xoắn xung quanh đèn tử ngoại. Ngoài ra người ta còn dùng sóng siêu âm để làm sạch nước. 27
  26. Chương 5: VI SINH VẬT TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI VÀ CÁC LOẠI NHIỄM ĐỘC THỰC PHẨM DO VI SINH VẬT 5.1. Vi sinh vật trong đời sống con người Phần lớn vi sinh vật đóng góp đáng kể trong cộng đồng thế giới nhằm đảm bảo cân bằng sinh thái cho cơ thể sống và các hóa chất cho môi trường. Các loại vi sinh vật trong sông, biển, ao, hồ giúp phân hủy các hợp chất hữu cơ thải ra từ các hoạt động sống, từ các hoạt động công nghiệp cũng như từ các dây chuyền sản xuất thực phẩm. Các vi sinh vật của đất giúp phân hủy rác thải và tham gia quá trình cố định nitơ từ không khí tạo nên các hợp chất hữu cơ để hoàn trả lại các chất hóa học cho đất, nước và không khí. Một số loại vi sinh vật và tảo đóng vai trò quan trọng trong quá trình quang hợp và quá trình tái tạo lại thức ăn và ôxy, điều này rất quan trọng cho cuộc sống trên trái đất. Loài người và động vật sống phụ thuộc vào lượng vi khuẩn trong đường ruột, bởi chúng giúp cho quá trình tiêu hóa thức ăn và tổng hợp nên một số vitamin cần thiết cho quá trình trao đổi chất và tạo nên vitamin K cho quá trình đông máu. Người ta áp dụng vi sinh vật rất nhiều trong lĩnh vực công nghiệp. Vi sinh vật được sử dụng tổng hợp nên các sản phẩm hóa học công nghiệp như axeton, các axit hữu cơ, các enzim, các loại rượu và nhiều loại thuốc. Trong công nghiệp thực phẩm thường sử dụng vi sinh vật trong các quá trình sản xuất dấm, rau quả muối chua, dưa góp, nước uống có rượu, nước mắm, nước chấm, bánh mỳ, bơ sữa chua, phomat, mỳ chính, rượu vang v.v Ngày nay, người ta còn ứng dụng vi sinh vật trong công nghệ di truyền tạo ra các giống vi sinh vật có khả năng tổng hợp nên các chất có khả năng điều trị bệnh quan trọng như: insulin, hocmôn sinh trưởng và các chất kích thích. 5.2. Tác hại của vi sinh vật Mặc dù số loài vi sinh vật gây bệnh không nhiều bằng số loài vi sinh vật có lợi, nhưng trên hiểu biết thực tế thì sự gây hại của chúng cũng rất to lớn. Chúng ta biết rằng vi sinh vật có ở hầu hết mọi nơi. Từ xa xưa khi chưa có kính hiển vi, các nhà khoa học chưa hiểu biết nhiều về vi sinh vật, đã có hàng triệu người chết do mắc bệnh dịch lây truyền mà không biết nguyên nhân, sự hư hỏng thực phẩm không được kiểm tra thường xuyên, không có vacxin hay thuốc kháng sinh chống nhiễm bệnh. Ngày nay các nhà khoa học đã nghiên cứu và điều chế được các loại vacxin phòng chống nhiễm nhiều bệnh bảo vệ có hiệu quả cho con người, vật nuôi và bảo quản thực phẩm. 5.3. Nhiễm độc từ thực phẩm và nhiễm độc tố từ vi sinh vật Quá trình nhiễm độc từ thực phẩm là do các loại vi sinh vật nhiễm tạp vào thực phẩm gây độc cho người sử dụng thực phẩm đó. Khi một loại vi sinh vật gây bệnh phát triển trên cơ thể chủ nó tạo ra các độc tố tương ứng. Các loại bệnh tật gây ra do cơ chế này thường gây ngộ độc đường ruột, sốt cao, tiêu chảy, kiết lị Cơ chế khác gây nhiễm độc do vi sinh vật tạo độc tố lên thực phẩm trong quá trình phát triển bao gồm một số loại bệnh: độc thịt, than, thương hàn, phó thương hàn, ung thư, độc tố vi nấm Các loại nhiễm độc thực phẩm chính trình bày ở bảng 5.1 và 5.2 28
  27. Bảng 5.1. Các loại nhiễm độc thực phẩm do vi khuẩn và độc tố hay gặp Tác nhân gây độc Một số loại thực Triệu chứng Thời gian Biện pháp hại độc tố vi nấm phẩm nhiễm lâm sàng bắt đầu ủ ngăn chặn và vi khuẩn bệnh Tác động gây Lượng nhỏ ung thư ngay Các loại hạt ngũ gây ung thư khi bị nhiễm Aflatoxin cốc bị mốc, đặc gan; lượng một lượng Loại bỏ biệt là lạc, đậu lớn gây tổn ban đầu xác không sử thương gan định và tác dụng nặng động lên cả động vật - Sữa, kem trứng; Mắc bệnh: -Nhiễm khuẩn -Các loại thực Co thắt, bị sau 8-16 giờ Bacillus cereus phẩm từ bột ngũ chuột rút, nôn Kéo dài: hơn Bảo quản cốc như bánh mì, mửa, tiêu 1 ngày lạnh bánh bao chảy Cứng họng, Quy trình khó nuốt, Mắc bệnh: đóng chai -Bệnh Botulism Các loại thực nhìn mờ ảo, sau 2giờ ăn phải vô trùng, bại liệt, độc thịt phẩm đóng hộp tê liệt bộ máy Kéo dài: đun sôi kỹ hô hấp hàng tuần trước khi ăn uống Ngứa ngáy, Mắc bệnh: Không ăn và Khi có loại độc tố phát ban; sau 2giờ chế biến loại Ciguatera chất tích tụ người khó Kéo dài: tới cá vùng nhiệt chịu, sốt cao, 2 tuần đới bị nhiễm khó thở Đau thắt Mắc bệnh: Ergotism Các loại hạt bị mốc vùng bụng; sau 1 - 2 giờ Loại bỏ gây ảo giác Kéo dài: hàng tháng Kéo màng ở Mắc bệnh: Ngộ độc methyl, Các loại cá nước mắt, nhìn mờ sau 1 tuần Không thải thủy ngân ngọt và nước mặn ảo, tê liệt, ngớ Kéo dài: có chất chảy vào ngẩn, hôn mê thể bị bệnh nguồn nước kinh niên Nôn mửa, Mắcbệnh: Ngộ độc nấm ăn Loài Amanita hoại thư gan, sau 1 ngày Không ăn ngộ độc thần Kéo dài: tới loại nấm độc kinh 10 ngày Các loài nhuyễn Khó chịu, Mắc bệnh: Không ăn các Ngộ độc các loài thể vùng thủy triều ngứa ngáy,sốt sau 1giờ Kéo loại nhuyễn nhuyễn thể lên màu đỏ phát ban, khó dài: tới 12 giờ thể vùng thủy thở triều đỏ Ngộ độc Hợp chất giống Scombroid ở cá histamine do loại vi Đau đầu, co biển khuẩn Proteus phát gân, viêm Sau vài phút Bảo quản triển trong một số thanh quản, đến 1 giờ lạnh cá ăn loại cá như cá thu, viêm ruột 29
  28. cá ngừ Ngộ độc do vi Thực phẩm có áp Buồn nôn, Mắc bệnh: Bảo quản khuẩn suất thẩm thấu cao, nôn mửa, tiêu khoảng 1ngày lạnh thực Staphylococcus không nấu kỹ trước chảy Kéo dài: 1-3 phẩm khi ăn ngày Bảng 5.2. Nhiễm độc do nấm mốc Hội chứng Nấm Cơ chất Độc tố Động vật cảm thụ chủ yếu gây bệnh Hạt có dầu và Lợn, trâu bò, ngựa, Bệnh độc tố Aspergillus khô dầu, hạt, Các aflatoxin cừu, vịt con, gà tây, gan flavus bột, ngỗng, trĩ, gà giò, chó, khỉ, người. Penicillium Lạc, gạo, hạt, Bệnh độc tố citrinum, ngô, đại mạch, Xitrinin Lợn, người thận Penicillium lúa mì, cỏ lùng viridicatum Nước quả, rơm Fusarium rạ, ngũ cốc, nhất Xuất huyết sporotri là kê (sau mùa Fusariogenin Người chioides đông) Aspergillus Hạt đang ủ mầm, Bệnh độc tố clavatus, mạch nha, ngũ Clavaxin Trâu bò, người, vật thần kinh Aspergillus cốc nuôi trong nhà oryzae 5.4. Kiểm tra chất lượng thực phẩm 5.4.1. Tính chất của vi sinh vật Hàng ngày chúng ta ăn một lượng lớn vi sinh vật có trong thực phẩm. Thường thì các vi sinh vật là những cơ thể sống không nhìn thấy được bằng mắt thường, kích thước bé hơn 5,0 µm. Một số các vi sinh vật này là vi sinh vật gây bệnh - nguyên nhân gây ra các căn bệnh. Để ngăn chặn các hoạt động của vi sinh vật gây bệnh, trước hết cần phải biết rõ tính chất của chúng ở trong thực phẩm. Các vi sinh vật này có mặt ở khắp mọi nơi và sinh sản rất nhanh, số lượng tăng gấp đôi trong thời gian chưa đến 30 phút trong những điều kiện lý tưởng. Đặc biệt là các vi khuẩn sinh sản rất nhanh trong khoảng 1 giờ số lượng tăng gấp đôi. Một vài nấm mốc số lượng cũng tăng nhanh trong nhiều giờ. Thực phẩm con người ăn là môi trường đặc biệt cho các vi sinh vật nói chung. Cũng như con người các vi sinh vật cũng có sự ưu tiên đối với thực phẩm không nhiễm tạp một dạng duy nhất. Vấn đề đặt ra là hạn chế sự sinh trưởng của vi sinh vật trong thực phẩm như thế nào? Nói thì đơn giản nhưng để thực hiện được điều đó thì rất khó: đó là thực hiện bằng cách ngăn chặn sự có mặt của chúng và phá hủy chúng trước khi tiêu thụ thực phẩm. Có 5 phương pháp hạn chế sự có mặt của vi sinh vật ở trong thực phẩm đó là dựa vào nhiệt độ, độ ẩm, pH, chất ức chế hóa học và áp suất. Kiểm tra nhiệt độ là phương pháp được sử dụng nhiều nhất. Chính vì lý do đó mà các thực phẩm dễ hư hỏng được bảo quản ở nhiệt độ thấp, thường là 40C. Xung quanh nhiệt độ 40C, nhiều vi khuẩn gây bệnh vẫn sinh sản phát triển được nhưng với tốc độ chậm hơn. Một cách chắc chắn để ngăn chặn sự sinh sản của vi sinh vật là giảm nhiệt độ của thực phẩm đến dưới điểm lạnh đông (-180C). Trong điều kiện này vi sinh vật ngừng phát triển nhưng vẫn sống sót. Các vi khuẩn Gram + khả năng chống chịu tốt hơn so 30
  29. với vi khuẩn Gram −. Ngược lại, các loại giun và các động vật nguyên sinh bị phá hủy khi tiến hành lạnh đông hoàn toàn thực phẩm. Các vi sinh vật thường bị phá hủy bởi nhiệt nhất là nhiệt độ cao trên 600C. Chính điều này thường được sử dụng để loại bỏ các vi sinh vật nhiễm tạp (ví dụ như thanh trùng sữa bằng phương pháp Pasteur). Cũng có những vi sinh vật sinh sản bào tử chống lại nhiệt độ đó là các giống: Clostridium botulinum, Cl.Perfingens và Bacillus cereus. Một vài vi khuẩn như Staphylococcus aureus và Listeria monocytogens cơ thể chỉ bị thương nhẹ mà không bị phá hủy bởi nhiệt hay quá trình lạnh đông. Các vi sinh vật này rất khó phát hiện thấy. Các vi khuẩn này hình thành bào tử nên cũng khó biến đổi với các phương pháp trên. Độ ẩm của thực phẩm được biểu hiện bởi hoạt độ của nước (Aw). Các vi sinh vật ưa nước và thực phẩm chứa nhiều nước 0 < Aw < 1 (Aw = 1 khi nước nguyên chất, tinh khiết) phần lớn các vi sinh vật đòi hỏi Aw = 0,95 cao cho sự sinh sản phát triển. Một vài vi khuẩn chịu đựng được Aw = 0,9 và cũng có những trường hợp ngoại lệ (ví dụ như Aw = 0,83 đối với S. aureus). Các loại nấm mốc cũng rất thích hợp với độ ẩm nhưng phần lớn chịu đựng được độ ẩm khá thấp ví dụ như một vài loài có thể sinh sản ở Aw = 0,60. Xác định pH cũng là một cách để kiểm tra. Phần lớn các vi sinh vật không sinh sản trong các thực phẩm có môi trường axit mà pH = 4 - 4,5. Nhiều vi sinh vật không sống sót được trong các thực phẩm chứa nhiều muối hay đường saccaroza. Ngược lại việc ức chế này cũng đưa ra những lợi thế cho các vi sinh vật tận dụng thời cơ chịu đựng được các điều kiện khắc nghiệt này.Ví dụ như Salmonella sống tốt trong những thực phẩm khô như sôcôla và sữa bột, Staphylococcus aureus có thể sinh sản tốt trong các thực phẩm ướp muối như phomát và jambon, nấm mốc sinh sản được trong các thực phẩm có môi trường axit như các loại hoa quả Việc sử dụng chất ức chế hóa học là có lợi nhưng chỉ có thể áp dụng trong một loại thực phẩm. Nhiều trường hợp sử dụng để ngăn chặn một cách chọn lọc sự sinh sản của vi sinh vật gây bệnh như Clostridium botulinum (sử dụng NaNO2) hay chống lại nấm mốc. Sự có mặt hay không của không khí cũng gây thuận lợi hay khó khăn cho một vài vi sinh vật. Phần lớn chúng được kiểm tra ở công nghệ bao gói bằng cách giảm lượng O2 trong bao bì và thêm các khí khác vào. Sử dụng vi sinh vật cũng có thể loại bỏ được vi sinh vật gây bệnh, ví dụ như vi khuẩn Gram − đặc biệt là Salmonella choleraesuis rất nhậy cảm với tia phóng xạ. Tuy nhiên còn có nhiều phương pháp gây ức chế và phá hủy các vi sinh vật mà với phạm vi cuốn sách này chúng tôi không giới thiệu ở đây. 5.4.2. Tầm nghiêm trọng của nhiễm độc vi sinh vật Sự nhiễm độc gây ra bởi vi sinh vật được coi là quan trọng nhất, kế đến là ô nhiễm cá hóa chất độc hại có trong thực phẩm hay ô nhiễm từ ngoài vào thực phẩm Theo thông báo của Cục Quản lý chất lượng vệ sinh an toàn Thực phẩm - Bộ Y tế về tình hình ngộ độc thực phẩm cho biết trong năm 1999 có 327 vụ, năm 2000 có 213 vụ, trong 6 tháng đầu năm 2001 đã có 167 vụ. Số người mắc tương ứng là 7576, 4233 và 2482, trong đó số người chết là 71, 59 và 47. Nguyên nhân do vi sinh vật là 32,8 - 48,3%, do thực phẩm ô nhiễm hóa học 11 - 17,4%, do chất độc tự nhiên trong thực phẩm 6,4 - 34,1%, chủ yếu do ăn cá nóc, nấm độc. Ngoài ra có 12 - 34% vụ ngộ độc không xác định được nguyên nhân. Từ năm 1997 - 2000 tình hình 5 bệnh chủ yếu do thực phẩm ô nhiễm gây ra như sau: Bảng 5.3 Bệnh chủ yếu do ô nhiễm VSV vào Thực phẩm Bệnh Tổng cộng Tả Thương hàn Lỵ trực Lỵ Amip Tiêu chảy Số mắc 605 66 776 193 750 142 833 3 833 216 4 287 180 Số chết 4 59 28 3 116 213 31
  30. 5.4.3. Nguồn gốc nhiễm bệnh Phần lớn nơi xảy ra ngộ độc là các nhà ăn tập thể, tiệc cưới, liên hoan bữa ăn tại gia đình, trong đó có 5% gây bởi sản phẩm thực phẩm sản xuất công nghiệp. Các nguyên nhân gây bệnh chủ yếu sau: 1. Việc làm lạnh không tốt các sản phẩm thực phẩm 2. Việc tiêu thụ sản phẩm tươi sống 3. Thực phẩm quá thời hạn bảo quản 4. Nhiễm từ tay người bệnh 5. Thực phẩm chưa chín hoàn toàn 6. Sử dụng các nguyên liệu đã bị nhiễm bẩn 7. Thiết bị làm việc không đảm bảo vệ sinh 8. Sử dụng các thiết bị đã bị nhiễm bẩn. Những vấn đề này rất nghiêm trọng đối với các nước đang phát triển vì ở đây thiếu điều kiện vệ sinh với trang thiết bị cũ kỹ, thiếu nước sạch Các vi sinh vật gây bệnh trước hết do nhiễm từ môi trường, sau đó từ con người và các loài động vật. Chủ yếu do các nguyên nhân sau đây: 1. Từ phân người và động vật 2. Từ nước mũi và nước miếng của người mang mầm bệnh 3. Từ tay người đã mắc bệnh 4. Từ đất , bùn, nước bề mặt 5. Từ nước biển . . . 5.4.4. Căn bệnh Con đường xâm nhập dễ nhấtcủa vi sinh vật gây bệnh là qua ăn uống. Chúng có thể lây truyền từ chính thực phẩm, từ tay người bệnh hoặc từ phân người. Chúng ta phân biệt 2 kiểu bệnh: nhiễm trùng và nhiễm độc. Khi nhiễm trùng, những vi sinh vật sống (ví dụ Virut viêm gan A) theo đường máu và chiếm cứ một số cơ quan. Khi với một sự nhiễm độc, độc tố được tạo thành từ trước trong thực phẩm và được tiêu thụ trực tiếp mà không đủ số vi sinh vật cần thiết (ví dụ Staphylococcus aureus) hoặc là vi sinh vật tạo các độc tố trong ruột không chiếm giữ các mô (ví dụ Clotridium perfringens). Mối hiểm nguy đối với sức khỏe từ các vi sinh vật (có khả năng chống chọi, dính bám, kháng thể và sinh độc tố) là rất cao. Đặc biệt đối với trẻ em và người già thì bệnh càng nặng hơn bởi vì trong dạ dày ít axit hơn. Những chất lỏng như nước, sữa chảy qua ruột non tương đối nhanh nên chúng ít bị ảnh hưởng bởi độ axit trong dạ dày. Vi sinh vật cũng có thể được bảo vệ bởi chính thực phẩm đó (ví dụ các chất béo) để chống lại axit của dạ dày, ví dụ Salmonella bị nhiễm từ sôcôla hay Listeria monocitogenes từ phomat, bột mịn vẫn có thể sống sót. Với những người bị suy yếu hệ thống miễn dịch, vi sinh vật càng dễ xâm nhiễm và sinh sản nhanh chóng, do vấn đề vệ sinh sức khỏe. Hơn nữa bệnh tiêu chảy của những người du lịch là rất nghiêm trọng những người ở các nước công nghiệp khi họ đến các nước nhiệt đới, ở đó vi khuẩn luôn luôn có nhiều (bảng V.4). Liều lượng vi khuẩn trung bình có thể gây bệnh cho người tùy thuộc vào loài vi khuẩn. Có sự liên hệ giữa vi sinh vật, độ axit của dạ dày và liều lượng gây bệnh. Với lượng vi khuẩn 32
  31. lớn, liều lượng nguy hiểm là rất cao khoảng 106 tế bào, có nghĩa là nhiễm trùng, nhiễm độc tố giả định bỏ qua nhiều trong thao tác sản xuất thực phẩm. Sự kéo dài của căn bệnh cũng khác nhau (bảng5.1) xuất phát từ thời điểm xuất hiện triệu chứng chính ví dụ những nguyên nhân do ký sinh trùng (virut, nguyên sinh động vật, bọ) thường kéo dài hơn các loài vi sinh vật khác. Nguyên nhân chủ yếu gây bệnh viêm màng ruột thường do nhiễm vi sinh vật từ thực phẩm. Nó không nghiêm trọng và chỉ kéo dài vài ngày. Người ta ước tính có khoảng 1/2 số người bị tiêu chảy là do nhiễm vi sinh vật có trong thực phẩm. Trái lại, một số bệnh rất nghiêm trọng trên hết là những bệnh do độc tố tạo ra rất cao (ví dụ Clostridium botulinium và Alexandrium spp) hay khi vi sinh vật lây lan sang các cơ quan khác ngoài ruột (ví dụ Listeria monocytogenes và E.coli 0157:H7). Một số vi sinh vật (ví dụ Giardia lamblia và Trichinella spp) gây bệnh rất khó chữa mà không hề có triệu chứng. Đối với phần lớn vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm, triệu chứng bệnh biến đổi nhanh sau vài ngày hay vài giờ, điều đó có nghĩa là nhiều trường hợp không cần sử dụng thuốc. Bảng 5.4. Vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm được biết đến như là kẻ lợi dụng và tấn công trẻ em, người trưởng thành đang bị ốm, người già Vi khuẩn Aeromonas hydrophyla Plesiomonas shigelloides Campylobacter jejuni Salmonella spp Clostridium botulinum Shigella spp E. coli Staphylococcus aureus Listeria monocytogenes Streptococcus spp Nguyên sinh động vật Crytosporidium parvum Toxophasma gondii Bảng 5.5. Vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy ở người du lịch Vi khuẩn Aeromonas hydrophyla Salmonella spp Campylobacter jejuni Shigella spp E. coli Vibrio cholerac Plesiomonas shigelloides Vibrio parahaemlyticus Virut Roravirut Virut Norwalk Nguyên sinh động vật Cryptosporidium parvum Giardian lamblia Entamoeba histolytia 5.4.5. Số vi sinh vật gây nguy hiểm đối với cuộc sống Số lượng các vi sinh vật gây bệnh là số trường hợp nhiễm độc từ thực phẩm do vi sinh vật rất khó đánh giá. Như là một số vi khuẩn gây bệnh hiếm thường khó nhận dạng qua các phương pháp phân tích, rất khó phân lập hay điều kiện nuôi cấy đặc biệt. Một số vi sinh vật gây bệnh rất nguy hiểm đối với sức khỏe nhưng hiếm khi lây lan bởi thực phẩm hay nước, ví dụ như virut viêm gan A. Trong phần này, chúng tôi giới thiệu một bảng thống kê hàng năm (bảng5.6) của Canada về những vi sinh vật gây bệnh thường gặp nhất ở Bắc Mỹ và Canada. Người ta ước 33
  32. tính tần suất gây nhiễm độc thực phẩm và mức độ nguy hiểm của nó trong cuộc sống. Các vi sinh vật chính đã được ký hiệu bằng những mã (code). Bảng 5.6. Danh mục vi sinh vật gây bệnh có trong thực phẩm, mức độ nguy hiểm đối với sự sống (% tử vong tùy theo số trường hợp) Vi sinh vật Canada Mỹ Mức độ nguy hiểm đối với cuộc sống Vibrio vulnificus 60 ⊗⊗⊗ Clostridium botulinum 17 7,5 ⊗⊗⊗ Listeria monocytogenes 12,5 21,3 ⊗⊗⊗ Toxophasma gondii 15 ⊗⊗⊗ E. coli 0157:H7 7 2 ⊗⊗⊗ Salmonella tiphy 6 6 ⊗⊗⊗ Vibrio spp 1 ⊗⊗ Alexandrium spp 1,5 0,7 ⊗⊗ Trichinella spp 1 0,9 ⊗⊗ Teania spp 1 0,01 ⊗⊗ Gambierdiscus toxicus 0,5 0,6 ⊗⊗ Brucella spp 0,5 ⊗⊗ Virut viêm gan A 0,3 ⊗⊗ Shigella spp 0,2 0,125 ⊗⊗ Salmonella choeraesuis 0,1 0,1 ⊗⊗ E. coli 0,1 ⊗⊗ Campylobacter jejuni 0,1 0,05 ⊗⊗ Stophylococcus aureus 0.08 0.045 ⊗ Bacteries diverses 0,05 1 ⊗ Clostridium perfringens 0,03 1 ⊗ Streptococcus spp 0,03 ⊗ Yerinia enterocolitea 0,025 ⊗ Bacillus cereus 0,01 0,02 ⊗ Nấm mốc và nấm men 0,01 0,02 ⊗ Histanines 0,01 0,001 ⊗ Giardian lamblia 0,0001 0,001 ⊗ Virut Norwalk 0,0001 ⊗ 1. Tuân theo ký hiệu của Todd (1989) ⊗⊗⊗ rất nguy hiểm, trên 2% tử vong; ⊗⊗ nguy hiểm (0,1 - 2% tử vong); ⊗ nguy hiểm (dưới 0,1% tử vong). 2. Phần trăm dựa trên 50 trường hợp xảy ra so với những trường hợp bệnh có tỷ lệ chết rất ít, 0,001% tử vong. 3. Phần trăm dựa trên 2063 trường hợp xảy ra so với những trường hợp bệnh khác ít xảy ra và chỉ với 0,0001% tử vong. 4. Vibrio cholerac và Vibrio parahaemolyticcus. 5. Họ vi khuẩn Enteracolitica. 5.5. Kiểm tra vi sinh vật trong sản phẩm thực phẩm 5.5.1. Lựa chọn các thông số đo lường và các tiêu chuẩn 34
  33. Trong công nghiệp tự động hóa, người ta chỉ tính đến hiệu quả do đó cần phải tuyển chọn các số liệu phân tích mang đầy đủ các thông tin đóng vai trò chính là các chỉ số chất lượng. 5.5.1.1. Các chỉ số chất lượng vệ sinh - Tổng số vi sinh vật hiếu khí: lấy 10g thực phẩm, đồng nhất mẫu, pha loãng mỗi mẫu nuôi cấy 3 đậm độ, mỗi đậm độ trên 2 đĩa thạch. Đọc khuẩn lạc sau 48 giờ ở 300C (chỉ tính kết quả ỏ những đĩa có dưới 300 khuẩn lạc). Chỉ tiêu này phản ánh độ sạch của thực phẩm cho thấy quá trình sản xuất, xử lý nhiệt đã đủ chưa. Người ta thường phát hiện vi sinh vật gây bệnh trong những trường hợp có tổng số vi sinh vật hiếu khí cao thường là 106- 107 tb/g. Trong các thực phẩm nhiễm độc, số lượng vi sinh vật sinh độc tố thường lớn, ít nhất là 105 tb/g trừ trường hợp Salmonella thì ngưỡng gây độc có thể giảm xuống một vài đơn vị. - Vi khuẩn đường ruột: người ta có thể dùng chỉ số tổng số vi khuẩn đường ruột, chỉ số vi khuẩn coli hoặc số lượng vi khuẩn coli có trong phân, chính xác hơn là số E. coli. Xác định số lượng Salmonella cũng cần thiết đối với một vài sản phẩm thực phẩm. - Staphylococcus: vì thực phẩm là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của chúng, người ta có thể đếm được số lượng Staphylococcus khá dễ dàng. Bất cứ chỉ số nào trong 3 chỉ số trên đều có thể được sử dụng để đánh giá chính xác mức độ vệ sinh sức khỏe, hay ít ra là để kiểm tra thực tế sản xuất trong điều kiện này thì sự đánh giá số lượng tổng số vi sinh vật hiếu khí là thích hợp nhất cho kiểm tra công nghiệp. 5.5.1.2. Các chỉ số chất lượng cảm quan và khả năng bảo quản Trong những yếu tố liên quan về thời gian bảo quản thực phẩm, số lượng vi sinh vật tổng số cũng mang lại nhiều thông tin: sự hư hỏng chỉ xuất hiện khi vi sinh vật tổng số lớn từ 106- 108 tb/g. Nói chung hệ vi sinh vật tổng số được cấu thành từ tập hợp các vi sinh vật có khả năng gây hư hỏng. Tuy nhiên sự đánh giá tổng thể hệ vi sinh vật phải được thực hiện trong những điều kiện cho phép đánh giá có hiệu quả số vi sinh vật gây hư hỏng, nghĩa là trong các điều kiện thực tế của thực phẩm .Ví dụ như các thực phẩm được bảo quản lạnh thì sự đánh giá số vi sinh vật psychrotrophe (vi sinh vật ưa lạnh) rất quan trọng, cũng vậy đối với các thực phẩm đã qua xử lý nhiệt và bị hư hỏng do Clostridium, hệ vi sinh vật có ý nghĩa là các vi sinh vật mà người ta đếm được trong điều kiện hiếu khí sau khi gia nhiệt ở 800C trong 10 phút. 5.5.1.3. Các tiêu chuẩn . Các tiêu chuẩn về vi sinh vật bao gồm các chỉ tiêu, các tiêu chuẩn kỹ thuật, các chỉ định - Một chỉ tiêu vi sinh vật là qui định có tính quy chế chỉ số vi sinh vật tối đa cho phép của một số loài vi sinh vật với một phương pháp đếm nhất định trong một thực phẩm xác định. - Một tiêu chuẩn kỹ thuật là một qui định có tính bản chất nhưng được xác định bởi hợp đồng giữa người mua và người bán. - Một chỉ định là một chỉ dẫn cũng có tính bản chất nhưng không có tính qui chế hợp pháp, không theo hợp đồng và cũng không có tính cưỡng bức như các điều kiện trước. Thường nó là một bước chuẩn bị để xác định một tiêu chuẩn. - Một giới hạn là một chỉ dẫn cũng có tính bản chất nhưng được xác định để phục vụ sự kinh doanh của xí nghiệp. 5.5.2. Những phương pháp phân tích Các kỹ thuật cổ điển thường dài dòng và nhàm chán nhưng kết quả không đáp ứng được yêu cầu, chậm tiến vì nguyên tắc cơ bản dựa vào sự đánh giá số vi sinh vật không theo kịp sự thay đổi theo chiều tiến bộ và cơ khí hóa. 35
  34. Người ta có thể tự hỏi liệu có phương pháp khác nhưng có ý nghĩa hơn không. Thật vậy khả năng một thực phẩm ban đầu rất bổ dưỡng trở nên nguy hiểm hoặc hư hỏng không phụ thuộc vào số lượng vi sinh vật mà là các tính chất khác của vi sinh vật như: tỷ lệ tăng trưởng, tốc độ sinh độc tố, sự phân giải protein cũng như môi trường của chúng. Vì vậy sự đánh giá về chất lượng thực phẩm có thể dựa vào khả năng tạo sản phẩm của hệ vi sinh vật hoặc thời gian cần thiết để chúng tạo ra sự thay đổi sinh hóa đặc biệt là những thay đổi không có lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Phương pháp cổ điển dùng metylen xanh, nhưng sự lựa chọn các thông số đặc trưng cho sự chuyển hóa bất lợi còn quan trọng hơn sự tạo ra nội độc tố ở các vi sinh vật gây bệnh, như tạo ra NH3, axeton, hoặc pyruvat, sự thay đổi màu sắc hoặc độ nhớt thể hiện có mầm mống vi sinh vật gây hỏng sản phẩm. 5.5.3. Khai thác các kết quả kiểm tra Các kết quả phân tích phải được giải thích một cách khách quan nghĩa là đưa ra các chỉ số có thể sử dụng cho những sự so sánh khách quan. Các chỉ số này phải thống nhất với các qui luật về xác xuất, có thể chứa đựng một giả thiết. Hiệu quả trong phân tích định lượng và đo lường có thể được sử dụng để đánh giá khách quan các nguy cơ trong các quyết định cuối cùng, các bước kiểm tra tiếp theo. Sự đánh giá các nguy cơ này đã được thực hiện, nó còn sử dụng các thông tin phụ để làm tăng độ nhậy và chính xác của phép kiểm tra. Các kết quả kiểm tra phải được so sánh với các giá trị tham chiếu, đó là các yếu tố chủ yếu của kế hoạch kiểm tra. 5.5.3.1. Lựa chọn các giá trị tham chiếu Vấn đề là thiết lập một quy chế hay kiểm tra chính các điểm tham chiếu phải thoả mãn các điều kiện sau: * Tính chính xác rõ ràng của các điểm tham chiếu: - Xác định và mô tả các điều kiện sản xuất và thao tác bằng tay của sản phẩm thực phẩm. - Việc sử dụng hiệu quả một thao tác chế tạo được xác định bởi các chuyên gia. * Tính đặc trưng của điểm tham chiếu: - Lấy mẫu theo một sơ đồ thích hợp và hoàn toàn xác định. * Tính tin cậy của các điểm tham chiếu: - Phân tích các mẫu chuẩn bằng các phương pháp chuẩn mà được sử dụng cho các phân tích sau này. * Tính hiệu lực của các điểm tham chiếu: Xác định các thông số công hiệu của sự phân bố các phép đo được thực hiện trong các điều kiện trước. Ở giai đoạn này, sự thiết lập các điều kiện tham chiếu được thể hiện bằng số, tính bằng CFU ( Colonie Forming Unit.- Số khuẩn lạc) trên thạch agar được xác định bằng thống kê và thể hiện chỉ số chỉ vượt quá 5 lần trên 10 trong điều kiện thực tế sản xuất tốt. Trong tình trạng sản xuất và nguy cơ xác định, phụ thuộc vào phương pháp vi sinh vật được sử dụng, đặc biệt chú ý là độ chính xác của nó (các số liệu thu được), tính chính xác (xác định theo kinh nghiệm bằng sự nhiễm tạp nhân tạo) và độ nhậy của nó (có thể phát hiện một số lượng nhỏ trong điều kiện bình thường). 5.5.3.2. Lựa chọn các mức kiểm tra 36
  35. Tính thực tế của các mục đích kiểm tra đòi hỏi phải so sánh các mục tiêu mang tính thống kê của các điểm tham chiếu trên với các mục tiêu kinh tế, thương mại, vệ sinh, sức khỏe. Tập hợp các mục tiêu này cho phép tối ưu các giới hạn lựa chọn trong phạm vi của kế hoạch lấy mẫu đối với kiểm tra thông thường. Hệ thống thông thường nhất được xây dựng dựa trên sự đánh giá vi sinh vật tổng số phân loại thành 3 vùng trong đó có 2 giới hạn được xác định. Mô hình dùng cho trường hợp giá trị hệ số φ M thì không có giá trị nào có thể chấp nhận, sản phẩm không được chấp nhận. Các giới hạn n và N chia đồ thị thành 3 vùng. - Vùng xanh: sản phẩm chấp nhận được - Vùng vàng: sản phẩm có thể chấp nhận. Giới hạn có thể chấp nhận được xác định bởi tỷ lệ tối đa có thể chấp nhận các mẫu có chỉ số > n. - Vùng đỏ: sản phẩm có mức độ nguy hiểm cao, chỉ để loại bỏ sự lựa chọn n và N được thiết lập khi xem xét các mục tiêu khác nhau - Kỹ thuật và thương mại (tính chất của thực phẩm, điều kiện bảo quản, bao gói sản phẩm, phân phối sản phẩm, thời hạn sử dụng). - Thống kê (các tính chất của sự phân bố các chỉ số nhiễm tạp, hệ số thay đổi của phương pháp phân tích, phương pháp lấy mẫu) - Vệ sinh sức khỏe và kỹ thuật (khoảng giữa φ và M, yếu tố làm tăng mức độ nguy hiểm) 5.5.3.3. Phân tích các dữ liệu Xem xét các sai số của phép đo và lấy mẫu, so sánh các dữ liệu kiểm tra cho phép quyết định sáng suốt, khách quan: chấp nhận hay loại bỏ một lô sản phẩm. Với mục đích này người ta xây dựng các chỉ số xuất phát từ sự phân bố các kết quả đo. Ví dụ trong phương pháp DYETT (1970) sắp xếp các mẫu thành 4 vùng dựa vào tính toán một trong các chỉ số này. Các giới hạn n1, n2, n3 được thiết lập theo kinh nghiệm xuất phát từ các điểm tham chiếu đối với các mẫu chuẩn như sau: 75% số mẫu nhỏ hơn n1, 95% số mẫu <n2 và 100% số mẫu nhỏ hơn n3. Mỗi mẫu được cho điểm theo thang điểm dùng cho phân loại ở bảng 5.6. Bảng 5.6. Thang diểm dùng cho phan loại nhiễm tạp Loại Điểm 3 Điểm 2 Điểm 1 Điểm 0 Tổng số Mẫu Số mẫu 75 20 5 0 100 chuẩn điểm trọng 225 40 5 0 270 Mẫu lượng 78 18 3 1 100 kiểm tra 234 36 3 0 273 Tổng số điểm của một mẫu hay trong một loạt mẫu là chỉ số nhiễm tạp. Tất cả các nguyên tắc của các sơ đồ kiểm tra dựa trên các test không tham số cũng được sử dụng (6 giá trị liên tục của chỉ số nhỏ hơn giá trị chuẩn, 6 sự giảm hay tăng hiệu lực là có ý nghĩa, 7 rất có ý nghĩa). Các test phân tích thường xuyên cho phép xác định chỉ số mức báo động và hành động cùng đóng vai trò với các mức tương đương dựa trên các test tham số Xác định một chỉ số xuất phát từ những dữ liệu kinh nghiệm đã tạo sự dễ dàng thích ứng với mọi hoàn cảnh. Các giới hạn của các loài phải được kiểm tra lại theo định kỳ để bảo đảm tính hiệu quả cho các chỉ số. Điều này được thực hiện bằng cách gộp các kết quả kiểm tra với mẫu chuẩn hoặc làm lại mẫu chuẩn mới. Việc kiểm tra các mẫu chuẩn rất cần thiết khi chất lượng sản phẩm chỉ rõ số lượng vi sinh vật tăng gần đến giá trị tối đa của nó. 37
  36. Một chỉ số như vậy làm gia tăng giá trị cho toàn bộ quá trình kiểm tra. Sự không lệ thuộc của quyết định về chất lượng với các mục tiêu kiểm tra làm cho các thông tin được dùng để phát hiện ra các khuynh hướng có ý nghĩa vì vậy còn dùng để kiểm soát sản phẩm. 5.5.4. Phân tích toàn diện Những hệ thống như vậy có thể áp dụng được cho nhiều điểm sản xuất khác nhau, đáng chú ý là đối với các nguyên liệu đầu, các điểm sản xuất quyết định sản phẩm cuối cùng ở đầu ra dây chuyền hoặc sau một thời gian bảo quản nào đó. Thông thường cùng một kiểu chỉ số ở nhiều điểm khác nhau cho phép đối chiếu nó theo thời gian, vì vậy dễ dàng phát hiện ra các nguyên nhân của sự bất thường ngẫu nhiên. Điều đó là do nguyên tắc khử với cùng vùng tần suất. Không cần thiết phải lấy mẫu ở các điểm kiểm tra khác nhau . Các hệ thống này cho phép phát hiện những sự khác biệt khá lớn vẫn còn phải tập hợp các thông tin khác cho phép đưa ra các nguyên nhân của các sai biệt đã ghi nhận được. 5.5.5. Hệ thống HACCP (ICMSF, 1988) Khái niệm HACCP gần như một hệ thống nhận dạng đánh giá và kiểm soát các nguy cơ, được đề xuất lần đầu tiên vào năm 1971 tại một hội nghị về an toàn và chất lượng thực phẩm ở Mỹ. Hệ thống này mang lại ưu điểm thuận lợi hơn so với hệ thống truyền thống. Dưới đây trình bày về những nét chính của hệ thống và những ứng dụng của nó đã được giới thiệu trong cuốn sách của ICMSF (1988) Hệ thống HACCP bao gồm các bước sau: 1. Nhận dạng các nguy hiểm, đánh giá tầm quan trọng của nó và khả năng xảy ra đối với từng giai đoạn sản xuất, chuyển đổi, phân phối và chuẩn bị thực phẩm. Người ta biết rằng do nguy cơ toàn bộ sự nhiễm tạp không chấp nhận được hay là toàn bộ sự phát triển hoặc sống sót không thể chấp nhận được của vi sinh vật ảnh hưởng đến sự an toàn hay tình trạng hư hỏng cũng như toàn bộ quá trình tạo sản phẩm hoặc kéo dài không thể chấp nhận được của sự chuyển hóa không mong muốn ở vi sinh vật (độc tố, enzim, amin v.v ) 2. Xác định các điểm (vị trí, thao tác, quy trình hay phương pháp thực hiện) ở cấp độ mà từ đó có thể kiểm soát các nguy cơ (Critical control points, CCPs) bởi một tác động thích đáng với một hay nhiều yếu tố nguy hiểm có thể phân biệt 2 kiểu CCPs những điểm mà có thể kiểm soát toàn bộ nguy hiểm và những điểm chỉ có thể giảm đến tối thiểu. 3. Các tính chất kỹ thuật cho biết nếu cấp độ CCPs được xác định thì mối nguy hiểm liên quan đến một quá trình xác định sẽ kiểm soát được. Các tính chất này là giới hạn về chuyên môn của các đặc tính có bản chất vật lý (nhiệt độ), hóa học (nồng độ muối) hay sinh học (nồng độ một loài vi sinh vật xác định) 4. Thiết lập và sử dụng các thủ tục cho phép bảo đảm quá trình diễn ra với cấp độ của CCPs đã được kiểm soát. Các thủ tục này phải được lựa chọn để có các tác động đúng lúc cần thiết, trước hoặc trong quá trình có liên quan 5. Sử dụng toàn bộ tác động thực sự cần thiết khi các kết quả kiểm tra chỉ ra một lỗi cần thiết kiểm soát ở mức độ của một CCPs xác định. 6. Kiểm tra việc sử dụng các thông tin bổ sung thu được để đảm bảo rằng hệ thống HACCP hoạt động hiệu quả. 5.5.6. Kết luận 38
  37. Thông thường trong các xí nghiệp, hệ thống kiểm tra phải được giảm bớt các khâu kiểm tra theo quy định và tiến đến một hệ thống mà các công tác theo quy định sẽ hạn chế việc kiểm tra bản thân sản phẩm để chuyển toàn bộ vào việc giám sát hệ thống đang dùng để đảm bảo chất lượng và tính không gây độc của sản phẩm. 39
  38. CHƯƠNG 6: CÁC LOẠI VI SINH VẬT CHỈ THỊ HAY GẶP TRONG THỰC PHẨM NHIỄM TẠP Đặc tính chung Vi khuẩn, tiếng Hylạp là bacteria, có nghĩa là hình que. Kích thước của sinh vật từ 0,1- 10 µm (1 µm =10-6 m). Hơn 90% các vụ nhiễm độc, nhiễm khuẩn từ thực phẩm có nguồn gốc vi sinh vật đều gây ra bởi vi khuẩn. Chính vì vậy mà nhóm vi sinh vật này được nghiên cứu nhiều nhất. Bệnh thương hàn quan trọng hơn tất cả các bệnh nhiễm độc nhiễm khuẩn khác hợp lại. 3/4 trường hợp được báo cáo là do Salmonella choleraesuis, Cl.perfringens và Staphylococcus aureus. Điều đó nói lên rằng những vi sinh vật này thường có mặt trong thức ăn. Tồn tại khoảng 16 loài vi khuẩn hay gặp trong thực phẩm. Một cách đáng ngạc nhiên, một vài loài vi khuẩn có dạng chịu được điều kiện nhiệt độ và môi trường không thuận lợi. Dạng này được gọi là bào tử, loại này rất khó loại bỏ khỏi thực phẩm. Những loài tạo bào tử chủ yếu là Cl.perfringens, Bacillus cereus và Cl.botulinum. Một vài loài vi khuẩn được biết đến bởi độc tố của chúng. Ví dụ Staphylococcus aureus (độc tố bền nhiệt) và Clostridium botulinum (độc tố kém bền nhiệt). Phần lớn các vi khuẩn gây bệnh được truyền qua bởi thực phẩm gây ra rối loạn tiêu hóa khi chúng qua dạ dày và ruột. Viêm thành ruột gây ra tiêu chảy lỏng hay đặc, có khi có máu. Một vài loài còn đi qua thành ruột và làm nhiễm trùng các cơ quan khác. Chính vì vậy nó gây ra những tổn thất nghiêm trọng thậm chí gây chết người. Nó có thể làm tổn thương tới hệ thần kinh ví dụ như khi bị nhiễm khuẩn Listeria monocytogenes. Một vài loài vi khuẩn thường gặp lây truyền qua đường hô hấp, nhưng cũng có thể có trong thực phẩm một cách ngẫu nhiên, có thể do quá trình sản xuất. Có loài gây bệnh cho động vật, nhưng cũng có thể gây mệt nhọc cho người gọi là bệnh động vật và bệnh cho người. Vì vậy, những vi sinh vật này có thể ở trong cơ thể hoặc trong phân động vật mắc bệnh rồi lây truyền tới công nhân các nhà máy sản xuất thịt, từ đó lây truyền sang người tiêu thụ thịt sống hoặc thịt chưa đủ chín. Sữa các con vật bị mắc bệnh cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh cho con người ngay cả khi lượng vi khuẩn nhiễm đã giảm đi rất nhiều, từ khi có qui chế về thanh trùng Pasteur sữa. Nhiều bệnh lây lan bởi vi khuẩn trong sữa chưa thanh trùng phần lớn trước năm 1940 thì ngày nay đã biến mất như bệnh thương hàn (do Salmonella typhi), bệnh nhiễm khuẩn do liên cầu khuẩn như sốt phát ban (Streptococcus pyogenes), bệnh bạch hầu (Coryne-bacterium diphtherie), bệnh lao (Mycabacterium bovis), sốt Haverhill (Streptobacillus moniliformis) và sốt Q (Coxiella burnetii). Sau đây là những loài thường gặp nhất. 6.1. Vi khuẩn 6.1.1. Salmonella choleraesuis 6.1.1.1. Khái quát chung Salmonella là vi sinh vật gây bệnh thường gặp trong thực phẩm. Nó gây ra nhiễm độc thực phẩm từ phân động vật, đôi khi từ phân người. Người ta gặp chủ yếu trong sản phẩm thực phẩm động vật như thịt, trứng và sản phẩm sữa. Nhiều vấn đề nảy sinh ra từ sự nhiễm tạp chồng chéo giữa thực phẩm tươi sống và thực phẩm chín, nhất là loài vi khuẩn mạnh hơn các vi khuẩn khác. Vi khuẩn này chịu được sự mất nước và sinh sản ở nhiệt độ của tủ lạnh (5 - 120C), chỉ với một lượng nhỏ vi khuẩn trong cơ thể đã có thể nhiễm bệnh. Việc vệ sinh cá nhân, cũng như nấu chín kỹ thực phẩm và bảo quản ở nhiệt độ thích hợp sẽ loại bỏ phần lớn các vấn đề nhiễm tạp. 40
  39. - Salmonella là loại vi sinh vật thường gặp nhất trong thực phẩm. Người ta đánh giá rằng Salmonella gây ra hơn 25% các vụ nhiễm độc, nhiễm khuẩn thực phẩm và 66% trường hợp tử vong. Về mặt lịch sử, vi khuẩn này thường được phân loại theo địa danh, con người hoặc động vật hoặc tên bệnh. Nó tạo nhiều kháng thể nên người ta dùng làm tiêu chuẩn phân loại chính xác (theo Kauffmann-White). Hiện nay tồn tại hơn 2000 loại vi khuẩn, phần lớn các nhiễm độc thực phẩm gây nên từ 100 trong số đó. Salmonella choleraesuis được chia làm 7 nhóm nhỏ theo tính kháng nguyên của nó. Mới đây người ta đề nghị lấy tên là Salmonella euterica. Nhóm phụ thứ nhất (Salmonella choleraesuis Subsp choleraesuis) tập hợp hầu hết những loài liên quan tới người và động vật có xương sống máu nóng (99,5% các chủng). Toàn bộ loài Salmonella đều có khả năng gây bệnh. Vào đầu thế kỷ, người ta đã quan sát thấy bệnh do nhiễm loài sérovas typhi, nhưng ngày nay hầu như biến mất nhất là từ khi phát minh ra phương pháp thanh trùng Pasteur. Ngày nay, “sérovas” enteritidis hay gặp nhất và số lượng rất nhiều. 6.1.1.2. Đặc tính - Thuộc họ Enterobacteriaceae, vi khuẩn này có dạng hình que thẳng, nhỏ, kích thước (0,7- 1,5) µm x (2 - 5) µm, Gram −, yếm khí tùy tiện. Nó mang tên nhà vi khuẩn học người Mỹ Daniel Elmer, người đã đặc trưng hóa nhóm vi khuẩn liên quan tới bệnh dịch tả lợn hoặc dịch hạch lợn (S.choleraesuis). - Nhạy cảm với quá trình thanh trùng Pasteur và tia bức xạ. - Bị ức chế ở nồng độ muối 3,5%, môi trường pH < 4 - 4,5 và bởi hệ vi khuẩn lactic. - Sinh sản ở nhiệt độ 5 - 120C, nhưng một vài chủng ở nhiệt độ dưới 50C. Nuôi cấy dễ dàng và tăng trưởng nhanh trong môi trường đơn giản, nhưng môi trường này phải đủ chất dinh dưỡng, với hoạt độ nước Aw = 0,93. Vi khuẩn này không gây mùi vị khó chịu cho thực phẩm. - Sống tốt ở môi trường bên ngoài, có thể sống được cả với điều kiện bảo quản, ướp muối, ít nước. Nó có khả năng chịu được kháng sinh. 6.1.1.3. Các bệnh do vi khuẩn gây ra Đó là bệnh thương hàn, nhiễm độc do thực phẩm nhiễm khuẩn gây ra. Ở nhiều nước bệnh này bắt buộc phải khai báo. Có 3 dạng chính của bệnh: * Do vi khuẩn vào dạ dày, triệu chứng xuất hiện sau 8 - 24 giờ, bị tiêu chảy kéo theo co thắt bụng, sốt, buồn nôn, nhức đầu, bệnh kéo dài từ 2 tới 3 ngày. Bên trong ruột non, vi khuẩn thâm nhập dần dần vào tế bào và sinh sản ở đó. Nhiều vi khuẩn chết tạo độc tố nội bào. Các hiện tượng này gây ra sự tách chiết dịch ruột non gây tiêu chảy. Nếu bị thường xuyên thì không nên dùng kháng sinh bởi Salmonella có thể phát sinh khả năng chịu kháng sinh đồng thời lại loại bỏ các vi sinh vật cạnh tranh nó. Như vậy, ta đã tạo ra loại vi khuẩn không mang bệnh và làm kéo dài bệnh cho người. Bệnh kéo dài trong nhiều tuần nên bị mất nước rất nhiều, cần tiếp nước để hồi phục. Vi khuẩn có thể phá hủy ruột rất mạnh, nó có thể tấn công vào các cơ quan khác (tim, não, lá lách, tụy tạng ), nó có thể đi theo máu và giải phóng độc tố nội bào nhưng rất hiếm. Loại bệnh này rất nghiêm trọng có thể gây chết người, kéo dài 1 - 4 tuần. Cần đưa bệnh nhân đi bệnh viện và uống thuốc kháng sinh đặc hiệu. Rất hiếm khi bệnh xuất hiện dưới dạng sốt viêm ruột cấp tính, bệnh thương hàn gây bởi Sérovar typhi. Tên của bệnh này xuất xứ từ việc nhầm tên với bệnh đậu lào gây ra do Rickettsia prowazekii. Điều quan trọng là bệnh thương hàn hủy hoại con người sau một thời gian ủ bệnh dài (khoảng 2 tuần). Khi phát bệnh kéo dài tới 2 - 4 tuần gây sốt cao, yếu toàn thân, đau đầu, đôi khi bị tiêu chảy có máu. Bệnh có thể gây chết người nếu không điều trị kịp thời. Vi khuẩn này chịu được các điều kiện môi trường bất lợi, dễ lây lan, nhất là do nước 41
  40. không qua xử lý Clo, hoặc bởi động vật thân mềm và những thực phẩm nhiễm từ người mang vi khuẩn (có thể là người bệnh hoặc người có vi khuẩn nhưng vẫn khỏe - khoảng 3% người mắc bệnh). Bệnh cận thương hàn gây ra bởi Sérovar paratyphi cũng giống bệnh thương hàn nhưng triệu chứng bắt đầu từ tiêu chảy nhẹ và xuất hiện sau 2 - 14 ngày. Tùy chủng và tùy người bệnh, số vi khuẩn gây bệnh có từ 101 đến 107. Đặc biệt lượng tế bào gaya bệnh có thể ít hơn đối với trẻ nhỏ và người già. 6.1.1.4. Thực phẩm hay lây nhiễm - Các sản phẩm thịt nói chung, nhất là thịt gia cầm và thịt lợn. Bệnh thương hàn coi như bệnh động vật bởi Salmonella gây bệnh cho động vật. Tất cả các thức ăn tươi sống có nguồn gốc động vật đều có thể là nguồn vi khuẩn Salmonella. Vi khuẩn này sống tự do trong ruột động vật và có trên lông. Gia cầm có nhiều Salmonella nhất, tiếp theo là các động vật nuôi trong nhà và động vật hoang (vẹt, rùa, chó, ếch, chim mông biển, loài gặm nhấm, rắn). Vi khuẩn này có thể có trong thành phần dẫn xuất các chất từ động vật như gelatin hoặc nước bọt. Nước bọt động vật bị nhiễm bởi côn trùng, loài gặm nhấm, chim hoặc các sản phẩm thịt nhiễm khuẩn gây nhiễm vào thực phẩm dành cho người. Ngoài ra có thể bị nhiễm từ người khỏe mạnh có mang vi khuẩn này. Vì lí do bị ức chế bởi pH < 4 và có mặt vi khuẩn lactic nên các sản phẩm lên men ít bị nhiễm. - Trứng và các sản phẩm trứng ví dụ như bột nhào, nước sốt mayonaire, protit đông tụ tách từ sữa. Như chúng ta đánh giá, gia cầm là nguồn mang nhiều Salmonella, nên trứng của nó cũng bị nhiễm vì vi khuẩn này có thể xuyên qua vỏ trứng và sinh sản trong lòng đỏ trứng. Trường hợp này không áp dụng được kiểu thanh trùng Pasteur, những món trộn với mayonaire phải kiểm tra kỹ. - Các sản phẩm sữa như sữa không thanh trùng, phomát từ sữa tươi, kem chất béo sữa, và các sản phẩm từ sữa nói chung được chế biến từ các nông trại mà bò cái, các thiết bị đều có thể gây nhiễm vào nguyên liệu, tạo môi trường thuận lợi cho Salmonella, và từ đó gây nhiễm độc cho sản phẩm sữa. Nếu tiến hành axit hóa chậm thì vi khuẩn dễ dàng sinh sản trong phomát nhưng nó bị phá hủy với pH < 4,5 (độ pH Anh). Những sản phẩm có sữa phải được giám sát chặt chẽ bởi chúng không được thanh trùng nữa, vì vậy nếu có Salmonella trong sữa bột thì chúng vẫn có thể sinh sản được bởi chúng có khả năng tồn tại ở điều kiện khô hạn và lây nhiễm sang các sản phẩm khác. Đối với cacao và socola: Cacao được rang còn socola được thanh trùng Pasteur đủ để tiêu diệt Salmonella, cũng có thể sau khi đã thanh trùng còn sót Salmonella trong socola. Có trường hợp nhiễm từ chất béo của sữa nhưng phần lớn là từ trứng tươi bổ sung vào các đồ ăn. - Nước bị nhiễm bởi do rải phân súc vật và các đồ biển tươi sống hoặc chưa đủ chín, đặc biệt là động vật thân mềm, 2 mảnh vỏ ở các nước đang phát triển, nước nông nghiệp. Trước kia, loài Sérovar typhi nhiễm nhiều nhất vào động vật thân mềm, nước không qua xử lý Clo, hay phân người bị thương hàn. - Gia vị: do rải phân súc vật đã bị nhiễm Salmonella tạo nguồn nhiễm nguy hiểm. - Hoa quả và rau xanh: có thể bị nhiễm khi rửa bằng nước đã bị nhiễm khuẩn hoặc bởi người rửa mang vi khuẩn. Salmonella sinh sản tốt trong quả dừa và có thể chịu được nhiệt độ khi thanh trùng pasteur không đầy đủ hoặc bị nhiễm sau khi thanh trùng. Hoặc có thể bị nhiễm từ nước táo không thanh trùng. - Sản phẩm ngũ cốc: từ đậu tương, cỏ linh lăng, ngũ cốc chế biến và các món khai vị, bánh mì, bột đậu tương có thể là nguồn Salmonella do bị nhiễm từ khi trồng do bón phân và khi sản xuất mà ngâm trong thời gian dài ở nhiệt độ thường. Nếu dùng những sản phẩm này ngay mà không xử lý nhiệt thì có nguy cơ bị nhiễm Salmonella. Trường hợp ngũ cốc được chế biến và các món khai vị, có thể sẽ bị nhiễm bởi trứng, sữa, vitamin, chất ngọt và chất tạo màu. 42