Tâm lý học và bệnh lý

pdf 8 trang hapham 3000
Bạn đang xem tài liệu "Tâm lý học và bệnh lý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftam_ly_hoc_va_benh_ly.pdf

Nội dung text: Tâm lý học và bệnh lý

  1. TÂM LÝ HỌC VÀ BỆNH LÝ Mục tiêu học tập 1.Xác định được mối quan hệ giữa tâm lý và bệnh lý 2.Trình bày được mối quan hệ giữa tâm lý và bệnh lý I.KHÁI NIỆM 1.Tâm lý học và y học cĩ mối liên hệ mật thiết với nhau. Phải chăng sự phát hiện vi khuẩn gây loét và dùng thuốc hợp lý sẽ miễn cho Bác sĩ quan tâm đến tâm lý của bệnh nhân. Cắt hết cơn đau dạ dày là thầy thuốc đã làm hết nhiệm vụ hay chưa? Cĩ thể nĩi rằng nếu thầy thuốc chỉ biết nắm vững các yếu tố sinh bệnh lý, dược lý mà khơng hề nghĩ đến những yếu tố tâm lý xã hội cũng là lạc hậu vì đã bỏ qua những yếu tố quan trọng giúp việc chữa trị một cách tối ưu. Y học ngày nay rất phát triển : +Sự phát triển về kỹ thuật y học để tìm ra yếu tố sinh bệnh lý +Hướng tiến bộ thứ hai là chăm sĩc và phịng ngừa ngồi phạm vi cơ thể bằng cách tìm hiểu những tác động nhiều mặt trong cuộc sống con người. Đi sâu vào sinh lý đồng thời cũng phải điều tra kỷ về tâm lý xã hội giúp cho việc chữa trị tốt nhất cho người bệnh. 2.Các mặt cần tìm hiểu ở một con người Tìm hiểu một con người cần nhìn về 3 mặt: - Sinh lý (S): Con người là một sinh vật cần tìm hiểu về sinh lý : ăn uống, khơng khí, vận động, tính dục và giao tiếp với người khác. Tuổi tác và giới tính, quá trình trưởng thành qua các lứa tuổi - Xã hội(X): Con người là mối tổng hịa các quan hệ xã hội, thành phần vị trí , vai trị trong xã hội quyết định nhiều đặc điểm. Cần tìm hiểu nhiều mặt như những hoạt động cơ bản: Lao động, học tập, vui chơi - Xuất xứ và sinh sống trong mơi trường tự nhiên nào, mơi trường xã hội nào, Giai cấp, dân tộc, tơn giáo, quan hệ quốc tế, những sự di chuyển mơi trường. Gia đình nơi cư trú, nơi làm việc -Tâm lý(T):Ở mỗi người đều cĩ một cái tâm với cơ cấu và cơ chế hoạt động nhất định. Những cơ cấu và cơ chế tâm lý cơ bản: +Cảm giác, tri giác, nhận thức +Tập luyện, học tập, trí nhớ, thĩi quen, nếp sống +Trí lực, biểu tượng, suy luận, học vấn. +Tín ngưỡng, tơn giáo, đạo lý. +Khả năng thích nghi với biến động mơi trường, biến cố cuộc sống +Động cơ, cảm xúc, tình cảm
  2. +Những rối nhiễu tâm lý và cơ chế rối nhiễu ấy. Và dĩ nhiên trước đĩ thầy thuốc đã đánh giá sức khỏe chung, thể tạng con người rồi kết hợp với mọi thơng tin và tổng hợp lại để đánh giá nhân cách tình trạng của đương sự Về xã hội thì hiểu được những cơ cấu và biến động lớn, nhận ra những nhĩm dân cư cĩ nguy cơ cao. Hiểu rõ những nét lớn về các mơi trường lao động khác nhau nhất là trong các ngành mà kỹ thuật cơng nghiệp thường xuyên bị thay đổi Ba yếu tố này tác động lẫn nhau , khĩ để phân biệt mặt nào là quyết định và quan trọng nhất. Ví dụ: Một em bé chưa biết đi thì trăm sự đều phải nhờ vào người lớn, khi biết đi đã tự mình làm một số việc tức là quan hệ xã hội đã thay đổi, và từ đĩ nảy sinh ra ý muốn tự lập, tức là tâm lý đã thay đổi. Nên tìm hiểu cả 3 mặt S, X, T một cách tồn diện, khơng thể nĩi mặt nào là quan trọng hơn mặt nào. Trong một trường hợp cụ thể cần phân tích cả 3 mặt rồi từ đĩ xác định vai trị của từng mặt quan trọng đến mức nào và từ đĩ vận dụng những biện pháp. Chẳng hạn khi cần cấp cứu phải mỗ khơng cần nĩi gì đến tâm lý xã hội, khi mỗ xong rồi vào giai đoạn phục hồi sức khỏe, lại phải đặt vần đề trở lại với nghề nghiệp cũ hay phải thay đổi nghề nghiệp? đây là lĩnh vực tâm lý xã hội. Làm nghề thầy thuốc, cũng như dạy học, lãnh đạo, tổ chức, tơn giáo là tìm cách tác động trực tiếp lên con người, cần cĩ một cách nhìn tồn diện, nếu khơng sẽ khơng tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc. Cĩ thể phát họa mối quan hệ S,X.T như sau: S X T Ba mặt cĩ quan hệ tác động qua lại.Khi chữa bệnh nên nghĩ đến cả 3 mặt. Cĩ khi chỉ tác động lên S là chủ yếu, chưa cần chú ý T và X, trong trường hợp khác phải chú ý cả 3 mặt. Ví dụ: - Một ca loét dạ dày thủng, phải mỗ cấp cứu, lúc ấy đảm bảo điều kiện S là chủ yếu ( gây mê, vơ trùng ) nhưng sau đĩ cần X và T. Chẳng hạn bệnh nhân này vì hồn cảnh làm việc khơng phù hợp, mâu thuẫn cơ quan, gia đình Cần được giúp đỡ để giải tỏa tâm lý ấy. -Khi đưa ra những chương trình tiêm chủng, sinh đẻ cĩ kế hoạch cần phải tìm hiểu đặc điểm tâm lý dân cư từng địa phương, nếu khơng kết quả sẽ rất hạn chế.
  3. Tĩm lại thầy thuốc cần tìm hiểu khơng chỉ những ca bệnh mà phải tìm hiểu những người bệnh. +Tìm hiểu người bệnh đang mong ước gì, chờ đợi gì ở thầy thuốc và bệnh viện giúp đỡ họ, trong cuộc sống cĩ vấp váp gì, khổ tâm gì? +Thầy thuốc và cán bộ y tế cĩ nhiệm vụ gĩp phần với gia đình và xã hội để tạo điều kiện tối ưu cho cuộc sống của người bệnh chứ khơng đơn giản chỉ kê đơn hay làm phẫu thuật xong là hết bổn phận. +Đặc biệt trong những trường hợp bệnh mãn tính người bệnh khơng chỉ dựa vào thuốc men mà cần một chổ dựa tinh thần, vì vậy thầy thuốc khơng chỉ tác động bằng thuốc men, kỹ thuật mà bằng tấm lịng của người thầy thuốc: Lời nĩi, cử chỉ của thầy thuốc đều tác động sâu sắc tới tâm lý người bệnh. Ngược lại bệnh nhân cũng tác động lên tâm lý của thầy thuốc, nhiều khi gây ra những phản ứng bất lợi. Thầy thuốc và y tá phải hiểu để tránh những phản ứng bất lợi ấy. +Tổ chức và những quy định trong các bệnh viện, cơ sở y tế, tác phong cán bộ, nhân viên đều tác động đến tâm lý người bệnh. Thường phải kiểm tra để xem cĩ phù hợp với tâm trạng các bệnh nhân hay khơng. +Y học ngày càng chuyên sâu, dường như mỗi thầy thuốc chỉ thấy một khía cạnh mà quên mất tồn bộ con người. Tâm lý phải trở thành những khoa học cơ bản của Y học. Thầy thuốc phải đồng thời là một nhà tâm lý học. II. MỐI QUAN HỆ TÂM VÀ THỂ 1.Những quan niệm về tâm và thể Con người là một thể thống nhất gồm thể và tâm, đĩ là 2 vấn đề khơng tách rời theo quan điểm của y học cổ truyền. - Nhưng với sự phát triển của vật lý cơ học và hĩa học, thì thể chất được xem như là chiếc máy cĩ thể giải thích được mọi hiện tượng bình thường hay bệnh lý giúp giải thích được mọi hiện tượng đến tầm tế bào phân tử. - Đối với hiện tượng tâm lý cĩ hai thái độ: +Hoặc xem là những hiện tượng phụ khơng cần quan tâm đến +Hoặc xem là thể chất và tâm lý tách rời nhau khơng ảnh hưởng lẫn nhau. Trong y học cả 2 suy nghĩ trên dẫn đến chỉ tập trung cho tìm ra những nguyên nhân thực thể mà bỏ qua những hiện tượng tâm lý và cho là vơ hình. - Những quan niệm trên trái ngược với nhận xét mỗi hiện tượng tâm lý, đặc biệt là những cảm xúc mạnh hay kéo dài tác động rõ rệt đến tình trạng thể chất và ngược lại và nhất là những thầy thuốc theo xu hướng này bao giờ cũng vấp phải những bệnh chứng mà khơng thể nào tìm ra vết tích thể chất và thường cho rằng: +Đến một lúc nào đĩ sẽ tìm ra những thương tổn rõ rệt +Hoặc cho là bệnh tưởng tượng, bệnh chức năng, khơng chết ai. Trong y học xuất hiện từ bệnh thần kinh (neurosis) đây là một khái niệm mơ hồ, chỉ những cái gì khơng rõ. "Neurosis" trở thành một cái sọt để chứa mọi hiện tượng bệnh lý khơng cĩ tổn thương thực thể, và từ đĩ thầy thuốc khơng cần quan tâm đến. Điển hình là những ca
  4. hysteria: Liệt tay chân, triệu chứng khơng ăn khớp với một khu vực nhất định liên quan đến một dây thần kinh nào, tiến triển bất thường, trong chốc lát cĩ thể lành hẳn. Trong những năm qua Y học cũng như tâm lý học cĩ những tiến bộ đáng kể, tạo điều kiện để hiểu rõ thêm hiện tượng tâm và thể làm cho y học cĩ thể bao hàm được cả những tri thức sinh lý và tâm lý thành một khoa học thống nhất về con người. Những phương pháp phân tích tâm lý nhờ các test, phân tâm học, nhân chủng học kết hợp với tốn học thống kê làm cho tâm lý học ngày càng xích gần các khoa học thực nghiệm. Trên cơ sở ấy y học ngày nay khơng chỉ khẳng định chung mối quan hệ tâm - thể mà tìm cách xác định trong mỗi bệnh chứng, mỗi ca bệnh, phần nào thuộc về thể chất, phần nào thuộc về tâm lý, lúc nào cần tác động lên thể chất hay tâm lý. 2.Mối quan hệ tâm- thể Tác động sinh lý của những cảm xúc làm chấn động hệ thần kinh thực vật và nội tiết đã được phân tích rõ: Nhịp tim và thở nhanh, tăng huyết áp, dạ dày ruột ngừng co bĩp Đối chiếu với những phản ứng của động vật , ví dụ con mèo khi gặp con chĩ thù địch, con vật hoặc chiến đấu hoặc bỏ chạy ( To fight or to flight) tức là cĩ những hoạt động dùng sức, vận dụng cơ bắp ở cường độ cao. Chiến đấu xong hoặc chạy thốt nguy cơ, các hoạt động sinh lý, tim phổi trở lại bình thường sau một thời gian ngắn. Trong thời cổ xưa con người cũng tương tự như vậy. Nhưng trong xã hội văn minh thì khác, trong những tình huống như vậy do nhiều nguyên nhân tâm lý xã hội gây ra, thường ít đấm đá hay chạy trợn mà ngược lại nhiều khi bên trong sục sơi mà bên ngồi thơn thớt nĩi cười. Huyết áp tăng, co mạch, trương lực cơ tăng lên nhưng khơng cần dùng đến, phải nén lại. Tình huống gây ra cảm xúc qua rồi nhưng hậu quả sinh lý vẫn kéo dài một thời gian lâu mới ổn định lại được. Khơng lạ gì nếu cảm xúc quá mạnh hoặc cứ liên tiếp, hết bực bội này đến bực bội khác, hoạt động của một bộ phận nào đĩ bị rối nhiễu mà gây ra đủ loại chứng bệnh ở bộ phận này hay bộ phận khác. Trong trường hợp kéo dài thành mãn tính, thầy thuốc và bệnh nhân tập trung chăm chữa chứng bệnh thực thể, uống thuốc đau dạ dày, nhức đầu, táo bĩn Nhưng rồi chứng bệnh lại tái phát, chđay chữa lung tung. Căn nguyên tâm lý xã hội sẽ gây ra một số bệnh chứng, bệnh chứng ở mỗi người một khác nhau, cũng cĩ người khơng sinh bệnh, những bệnh chứng này phải kết hợp điều trị tâm lý. Nhưng điều khĩ hiện nay đa số thầy thuốc ít quan tâm đến tâm lý xã hội, đẩy bệnh nhân vào con đường thuốc men, xét nghiệm, tốn kém nhưng bệnh khơng lành tạo ra tâm lý lo hãi và những bệnh tật mà trước đây khơng cĩ, gọi là bệnh y sinh Nĩi chung tâm - thể cĩ mối liên quan, để xác định bệnh chứng tâm - thể cĩ các tiêu chuẩn sau: - Một hay nhiều căn nguyên tâm lý đĩng vai trị hiện căn hay khởi căn - Bệnh nhân cĩ một kiểu nhân cách riêng, ví dụ bệnh nhân loét dạ dày, hen đi đơi với một cá tính đặc biệt. - Dùng tâm pháp cĩ tác dụng rõ ràng. Trong nhiều trường hợp việc uống thuốc hay tập thể dục tưởng như là tác động về sinh lý nhưng thực chất là tác động về tâm lý: ví dụ những câu nĩi cĩ tác động tâm lý: đây là thuốc mới từ Pháp gởi về, đây là một thuốc gia truyền
  5. Ở trẻ em rất hay gặp bệnh chứng tâm thể như khi phản ứng với một người nào đĩ liền co thắt thực quản nơn ọe; thầy thuốc, bố mẹ tìm cách đổi thức ăn là lạc hướng mà đơi lúc chỉ thay đổi người khác cho ăn là hết. Ở người lớn với nhiều tiền căn tạo ra một tiền sử phức tạp, cuộc sống xã hội rối ren, thì căn nguyên tâm lý khĩ phát hiện và gỡ rối hơn. Với kinh nghiệm lâm sàng và một số trắc nghiệm tâm lý, theo dõi lâu dài cũng dễ nhận ra một số bệnh chứng tâm - thể thường gặp. Nhưng ở những bệnh mãn tính tâm lý là phương thức tối ưu để giải tỏa, khi bệnh nhân khơng đủ nghị lực thì thầy thuốc là chổ dựa, thầy thuốc cần ý thức về vai trị của mình đừng quá lạm dụng thuốc men, xét nghiệm hiện đại mà cần ám thị cho bệnh nhân, nhưng khơng thể xem thường bảo bệnh nhân là bệnh tưởng và hắt hủi người bệnh. 3.Tâm lý học và bệnh lý Trên cơ sở 2 phần tách biệt của con người "thể " và "tâm" . Cĩ thể nĩi sau một thời gian dài cĩ xu hướng xem nhẹ cái tâm, thì cuối thế kỷ 20, y học hiện đại quay về với luận điểm thể với tâm là một, con người là một khối tồn vẹn, phải quan tâm đến những yếu tố tâm lý trong lý luận y học cũng như trong thực tiễn. Cĩ xu hướng người thầy thuốc tương lai khơng những nắm vững kiến thức y học hiện đại mà phải nắm vững kiến thức tâm lý. Điều trị bệnh tật dựa vào tâm lý, sinh lý như thế nào là vấn đề được bàn cãi gay gắt khi đặt ra những câu hỏi: - Cĩ thật những bệnh tật chỉ do những căn nguyên tâm lý gây ra khơng? Dựa trên tiêu chuẩn nào để xác định? - Những yếu tố tâm lý tác động như thế nào để gây bệnh, cơ chế chữa bênh theo tâm lý liệu pháp là gì? Cuộc tranh cãi vẫn cịn gay gắt vì những người đề xuất khái niệm y học tâm- thể đều thuộc trường phái phân tâm học. Đối với các trường phái khác, thì phân tâm học cĩ những nhược điểm cơ bản: + Những khái niệm đưa ra đúc rút từ lâm sàng nhưng khơng cĩ cơ sở thực nghiệm nào cả. + Phân tâm học khơng chú ý hồn cảnh xã hội hiện hữu của bệnh nhân, chỉ biết và mơ tả những cơ cấu và cơ chế nội tâm như là một cuộc sống tách rời xã hội và phân tâm học cũng khơng gắn liền với những tiến bộ của khoa học khác. - Một số tiêu chuẩn bệnh lý tâm - thể + Cĩ căn nguyên tâm lý + Bệnh nhân thường cĩ một tính cách nhất định, phân tích nhân cách cĩ thể giúp cho chẩn đốn. + Những phương pháp trị liệu tâm lý cĩ tác dụng chữa bệnh. 4.Stress và bệnh tâm thể 4.1.Khái niệm Khái niệm yếu tố tâm lý thúc đẩy hoặc gây ra bệnh bắt nguồn từ xưa. Gần đây Alexander(1950): ơng đưa ra các yếu tố tâm lý liên quan đến 7 thực thể bệnh lý: Loét dạ dày tá tràng, Viêm loét đại tràng, ưu năng giáp, viêm ruột non cục bộ, viêm đa khớp dạng thấp, tăng huyết áp vơ căn và hen phế quản. Người ta cho rằng mỗi xung đột là cơ sở cho
  6. mỗi bệnh kể trên. Theo Dunbar xung đột khơng mang tính đặc hiệu, thay vì nhân cách là yếu tố quan trọng về bệnh căn. Tuy vậy cả 2 tác giả đều thống nhất là yếu tố tâm lý đặc hiệu gây ra hoặc là bản chất của các bệnh đặc hiệu. Chúng ta thấy rằng một số bệnh chịu ảnh hưởng tâm lý dễ dàng hơn các bệnh khác, những kích thích tâm lý tùy cường độ mà tác động đến bệnh. Yếu tố gien và kinh nghiệm sống của từng người sẽ làm thay đổi tác động của các yếu tố căn nguyên.Yếu tố thời gian hoặc giai đoạn phát triển cũng ảnh hưởng đến vai trị kích thích tâm lý xã hội đối với bệnh. 4.2.Bệnh nhiễm trùng : Một hiện tượng tâm thể. Vai trị tâm lý trong bệnh nhiễm trùng khơng phải là mới. Dubos(1955) nhấn mạnh rằng: Tác nhân nhiễm trùng riêng mình nĩ khơng đủ gây ra bệnh, mà phải xem xét nhiều yếu tố khác nữa như là: Tính miễn dịch, tình trạng dinh dưỡng của vật chủ, sự hiện diện của các bệnh khác và đủ các loại yếu tố gien học. Tuy nhiên cần nhấn mạnh liều lượng tác nhân gây bệnh cĩ ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong việc hiểu mối liên quan giữa tác nhân nhiễm trùng với mơ hình tâm sinh học xã hội của người bệnh. Ví dụ liều virus thấp khơng gây bệnh trong bất kỳ tình huống nào. Trái lại liều cao thì gây bệnh. 4.3.Bệnh nhiễm trùng hơ hấp ở trẻ em và ảnh hưởng của điều kiện gia đình. Trong hơn một nửa số bệnh nhiễm trùng hơ hấp (NTHH) người ta hồn tồn khơng tìm được nguyên nhân vi sinh. Ngược lại 30% học sinh cĩ liên cầu A nhưng bệnh lại khơng xuất hiện, và 3/4 số trẻ trước khi tới trường cĩ nhiễm Mycoplasma pneumoniae mà khơng cĩ triệu chứng và 42 % nuơi cấy đường hơ hấp trên của trẻ khỏe mạnh lại phân lập được phế cầu. Ngồi ra chưa cĩ cách lý giải thỏa đáng nào cắt nghĩa sự thể một số trẻ cĩ bẩm chất dễ mắc NTHH và mắc bệnh nặng và người ta tìm đến ảnh hưởng tâm lý xã hội đối với các đứa trẻ này. Nhiều cơng trình nghiên cứu của W.Thomas Boyce và cộng sự (Đại học tổng hợp Bắc 1977), Heisel J.S và cộng sự 1973, cuối cùng đưa ra kết luận rằng: - Các đứa trẻ sống trong gia đình cĩ lề thĩi nghiệt ngã thì dễ bị stress nếu xảy ra một biến cố nghiêm trọng và trái lại cuộc sống hàng ngày thoải mái thì lại cĩ tác dụng bảo vệ khi cĩ những biến cố khủng hoảng tiếp theo.Liệu cĩ cơ chế nào hình thành giữa các biến cố tâm lý học và quá trình phát sinh bệnh. 4.4 Bệnh đau đầu tái diễn tuổi thanh thiếu niên Người ta ước lượng ở tuổi 15 cĩ tới 75% số trẻ em sớm muộn cũng phải qua đau đầu. Cĩ nhiều giả thuyết giải thích cơ chế bệnh sinh đau đầu nhưng chưa cĩ giả thuyết nào hồn tồn thuyết phục cả . Trong bệnh sinh nhức đầu thì tiền sử gia đình nhức đầu, các yếu tố nội tiết và tiết chế đĩng vai trị ít hơn so với đau nữa đầu, mà các yếu tố tâm lý xã hội lại tỏ ra quan trọng hơn. Sau khi loại trừ nguyên nhân thực thể ( U não, viêm xoang, ) thì việc đánh giá đầy đủ các khía cạnh tâm lý xã hội, sẽ là một cố gắng đem lại kết quả. Một số yếu tố liên quan cĩ thể là vấn đề trong gia đình, lo hãi, trầm nhược Song quan trọng hơn vẫn là tìm các tác nhân stress từ mơi trường hay nội tâm. Một số trường hợp cĩ thể chỉ định liệu pháp tâm lý và tân dược, song đem lại hiệu quả nhiều hơn là trị liệu tâm lý như thư giãn, tự ám thị, kỹ năng ứng phĩ với stress. III. MƠI TRƯỜNG XÃ HỘI VÀ BỆNH LÝ 1.Sức khỏe và bệnh tật các nước phát triển và kém phát triển
  7. Từ sau những năm 50 giữa các nước phát triển và các nước kém phát triển cĩ sự khác biệt về sức khỏe và bệnh lý về số lượng cũng như chất lượng. Đặc điểm tình hình sức khỏe nước phát triển kém phát triển Tử vong chung 1% 2% tử vong do tai nạn 80% 15-20% Tử vong tim mạch 50% 10% Tử vong nhiểm trùng và KST 1-3% 30% Tử vong trẻ em 6% Tử vong do SD D & nhiểm trùng 50% / tổng số tử vong Tỷ lệ sinh đẻ <2% 5% Tỷ lệ người già trên 60 20% 5% 2. Bệnh tật liên quan với sự phát triển xã hội Ở nước ta hiện nay tồn tại hai mơi trường kinh tế xã hội, vừa lạc hậu với những bệnh suy dinh dưỡng, nhiễm trùng, ký sinh trùng, vừa hiện đại với những bệnh văn minh khác. Cĩ những khu ở nhiều thành phố bao gồm cả 2 loại mơ hình bệnh tật hiện đại và lạc hậu. Bệnh lý ở vùng Đồng Tháp Mười khác với bệnh lý ở thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội Bệnh lý của những gia đình khá giả khác với những gia đình nghèo khổ sống khu ổ chuộc, dọc rạch nước. Người thầy thuốc chữa bệnh khơng thể khơng biết đến vấn đề tâm lý xã hội của vùng mình đang hành nghề, tiến bộ y học phải hướng về hai mặt về khoa học tự nhiên hiện đại, và khoa học xã hội. 3.Điều kiện xã hội và tình hình sức khỏe Đại đa số học giả đều cơng nhận cuộc sống hiện tại tạo ra nhiều stress làm cho con người khơng cịn thích nghi với mơi trường nữa. Theo Selye định nghĩa stress là phản ứng khơng đặc hiệu của cơ thể đối với những kích thích bên ngồi. Bất kỳ kích thích nào đều gây ra những phản ứng đặc hiệu và khơng đặc hiệu, cĩ những stress gây tổn hại, cĩ stress khơng gây tổn hại. Thần kinh con người bị tác động đến mức cao độ, cái tâm của con người bị xáo động, khĩ mà giữ cân bằng: Con người hiện đại phải lao tâm nhiều hơn lao lực và từ lao tâm dẫn đến tâm bệnh hoặc bệnh tâm thể. Như vậy một bệnh chứng là tổng hợp của các yếu tố gây stress do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, khác nhau ở những người khác nhau, lúc này, lúc khác, thành thử cần nghiên cứu các yếu tố tạo tiền đề để bệnh phát ra và tiến triển. Cơ chế sinh bệnh sau stress là rối loạn nội tiết. Theo học thuyết Selye trước nhiều loại kích thích khác nhau, cơ thể thích nghi tốt nhất hay mất cân bằng, trên cơ sở đĩ để tìm ra các biện pháp điều trị và phịng bệnh, làm sao để giảm đi các stress. Selye cũng
  8. khẳng định vai trị chủ yếu của hệ thần kinh, đặc biệt của thần kinh giao cảm trong các phản ứng khơng đặc hiệu của cơ thể.