Tập bài giảng Lý luận và pháp luật về thanh tra
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tập bài giảng Lý luận và pháp luật về thanh tra", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
tap_bai_giang_ly_luan_va_phap_luat_ve_thanh_tra.pdf
Nội dung text: Tập bài giảng Lý luận và pháp luật về thanh tra
- HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TẬP BÀI GIẢNG LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA CHỦ BIÊN: PGS.TS. LÊ THỊ HƯƠNG TS. NGUYỄN THỊ PHƯỢNG TẬP THỂ TÁC GIẢ PGS.TS. LÊ THỊ HƯƠNG TS. NGUYỄN THỊ PHƯỢNG TS. NGUYỄN BÁ CHIẾN TS. PHAN THỊ THANH THỦY THS. NGUYỄN THỊ ANH THƯ THS. ĐINH VĂN MINH THS. BÙI THỊ HUỆ THS. BÙI THỊ THANH THÚY GV. NGUYỄN THỊ THỤC HÀ NỘI, 02/2011 1
- HƯỚNG DẪN GIẢNG DẠY MÔN HỌC: LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐẠO TẠO CỬ NHÂN HÀNH CHÍNH (HỆ CHÍNH QUY VÀ HỆ VỪA HỌC VỪA LÀM) A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU 1. Mục đích: Cung cấp cho người học những kiến thức lý luận về thanh tra và pháp luật về thanh tra ở VN và một số nước trên thế giới để làm cơ sở phương pháp luận cho học viên tiếp tục nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra trong các lĩnh vực QLNN cũng như xu hướng phát triển của nó trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập ở VN Yêu cầu: Kết thúc môn học, người học phải: - Về kiến thức: nắm vững được những tri thức khoa học về: - Về kỹ năng: người học có được các kỹ năng: + Phân tích, đánh giá, nhận diện bản chất và những mối liên hệ cơ bản của thanh tra trong hoạt động tổ chức quyền lực NN ở VN; + Giải quyết những vấn đề có tính lý luận ở tầm vĩ mô về phân công, phân cấp trong việc thực hiện quyền lực NN giữa các cơ quan trong BMNN các cấp trong đó có HTTTNN; + Vận dụng các kiến thức đã học để làm rõ chức năng, vai trò và xu hướng phát triển của thanh tra trong điều kiện hiện nay. - Về thái độ, tư tưởng: người học có + Thái độ, tư tưởng, quan điểm duy vật biện chứng về thanh tra và cách thức tổ chức và hoạt động đặc thù của ngành thanh tra trong BMNN ở VN. + Nâng cao ý thức pháp luật của người học; + Chủ động nghiên cứu sâu hơn các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của thanh tra trong QLHCNN trên các lĩnh vực của ĐSXH. B. THỜI LƯỢNG 1. Tổng thời gian: 3 đvht (45 tiết) 2. Thời gian thuyết trình lý thuyết: 35 tiết 2
- 3. Thời gian thảo luận, làm bài tập tình huống (nếu có), làm việc nhóm trên lớp có sự hướng dẫn của giảng viên: 9 tiết 4. Thời gian kiểm tra học trình: 1 tiết C. PHÂN BỔ THỜI GIAN Chương 1 NHƯNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA Chương 2 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC THANH TRA Chương 3 HỆ THỐNG THANH TRA VIỆT NAM Chương 4 TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT THANH TRA Chương 5 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tổng thuật kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ trọng điểm: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra. Chủ nhiệm đề tài: Quách Lê Thanh, Tổng Thanh tra Chính phủ, Hà Nội tháng 5/ 2006 ; 2. Mô hình tổ chức cơ quan thanh tra qua các thời kỳ (trích từ cuốn 60 năm thanh tra Việt Nam – con số và sự kiện, tạp chí Thanh tra, Hà Nội 2005; 3. Báo cáo tổng quan: Tổ chức và hoạt động của các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát của các nước trên thế giới. Chủ nhiệm: Trần Đức Lượng; chủ biên: Nguyễn Văn Kim, Hà Nội tháng 10/ 2001. 4. Những điểm mới về tổ chức và hoạt động thanh tra theo Luật Thanh tra năm 2004: PGS.TS Bùi Xuân Đức, tạp chí Quản lý Nhà nước (72 VB) 6. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ngành thanh tra trong cơ chế thị trường định hướng XHCN: Tạp chí thông tin khoa học thanh tra và chống tham nhũng. 3
- 7. “Lịch sử và truyền thống ngành thanh tra Việt Nam”: Báo cáo tổng thuật kết quả nghiên cứu. Đề tài khoa học cấp bộ ; chủ nhiệm: TS. Vũ Phạm Quyết Thắng - Hà Nội Tháng 12/2005. 8. Luật Thanh tra 2004, 2010 và các văn bản hướng dẫn 9. Luật Phòng, chống tham nhũng 10. Luật Khiếu nại, tố cáo 11. Một số tài liệu khác do giảng viên cung cấp 4
- MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG LỜI NÓI ĐẦU CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THANH TRA 1 Khái niệm và đặc điểm của thanh tra a Khái niệm b Đặc điểm của thanh tra 2 Vai trò và ý nghĩa của công tác thanh tra a Vai trò của thanh tra b Ý nghĩa của thanh tra 3 Hình thức và phương pháp thanh tra a Hình thức thanh tra b Phương pháp thanh tra 4 Công cụ thanh tra a Văn bản pháp luật b Kế hoạch thanh tra c Hồ sơ, tài liệu về vụ việc d Biên bản, mẫu văn bản trong quá trình thực hiện thanh tra 5 Mối quan hệ và sự khác biệt giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra, giám sát II HOẠT ĐỘNG THANH TRA 1 Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thanh tra 2 Các giai đoạn trong hoạt động thanh tra a Chuẩn bị thanh tra b Tổ chức thực hiện thanh tra c Kết thúc thanh tra III ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TRA 1 Mục đích và yêu cầu đánh giá kết quả hoạt động thanh tra a Mục đích đánh giá kết quả hoạt động thanh tra b Yêu cầu đánh giá kết quả hoạt động thanh tra 2 Căn cứ đánh giá kết quả hoạt động thanh tra a Mục đích của hoạt động thanh tra b Yêu cầu của hoạt động thanh tra c Nội dung đã thực hiện của hoạt động thanh tra 5
- d Thời hạn của hoạt động thanh tra đ Hiệu quả, tác động của hoạt động thanh tra e Quy định của pháp luật, quy chế hoạt động thanh tra 3 Đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra a Về ưu điểm, nhược điểm b Về chất lượng c Về hiệu quả d Về tác động IV SỰ THAM GIA CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀO HOẠT ĐỘNG THANH TRA 1 Cơ sở pháp lý cho việc tham gia của các tổ chức xã hội, phương tiện thông tin đại chúng vào hoạt động thanh tra 2 Phương pháp, hình thức huy động sự tham gia của xã hội vào hoạt động thanh tra 3 Mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với các các cơ quan truyền thông trong quá trình thực hiện công tác thanh tra CHƯƠNG 2 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔN G TÁC THANH TRA I NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC THANH TRA 1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra a Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công tác thanh tra b Mục đích của công tác thanh tra 2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân a Tư tưởng Hồ Chí Minh về người khiếu nại và việc khiếu nại b Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo c Tư tưởng Hồ Chí Minh về ý nghĩa, vai trò của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu. a Tư tưởng Hồ Chủ tịch về chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu b Tư tưởng Hồ Chí Minh trong chỉ đạo công tác phòng, chống tham ô, lãng phí 4 Tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu cầu đối với cán bộ thanh tra a Cán bộ thanh tra phải có năng lực, kinh nghiệm và uy tín 6
- b Cán bộ thanh tra phải có đạo đức cách mạng, phải gương mẫu c Cán bộ thanh tra phải cố gắng học tập, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, nghiệp vụ, chuyên môn II HỌC TẬP VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC THANH TRA, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÁN BỘ THANH TRA VIÊN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1 Học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra 2 Học tập, vận dụng các quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 3 Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu 4 Học tập, vận dụng các yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ thanh tra trong giai đoạn hiện nay CHƯƠNG 3 HỆ THỐNG THANH TRA VIỆT NAM I HỆ THỐNG CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC 1 Khái niệm và đặc điểm a Khái niệm b Đặc điểm 2 Chức năng của cơ quan thanh tra nhà nước 3 Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước a Thanh tra Chính phủ b Thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ ( gọi chung là Thanh tra Bộ) c Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Thanh tra tỉnh) d Thanh tra sở đ Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là thanh tra huyện) 7
- II CƠ QUAN ĐƯỢC GIAO THỰC HIỆN CHỨC NĂNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH 1 Khái niệm 2 Tổ chức và hoạt động III THANH TRA NHÂN DÂN 1 Khái niệm 2 Nhiệm vụ, quyền hạn a Nhiệm vụ của Ban thanh tra nhân dân b Quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân 3 Tổ chức và hoạt động a Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn b Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước IV THANH TRA VIÊN 1 Khái niệm 2 Tiêu chuẩn của thanh tra viên a Tiêu chuẩn chung của thanh tra viên b Tiêu chuẩn cụ thể của từng ngành thanh tra 3 Trách nhiệm của thanh tra viên 4 Đạo đức thanh tra a Khái niệm và đặc điểm b Vai trò của đạo đức thanh tra c Tiêu chuẩn đạo đức thanh tra viên CHƯƠNG 4 TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT THANH TRA Ở VIỆT NAM I SƠ LƯỢC VỀ PHÁP LUẬT THANH TRA Ở VIỆT NAM TRƯỚC 1945 II QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT THANH TRA TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY 8
- 1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 a Giai đoạn từ 1945 đến 1954 b. Giai đoạn từ 1954 đến 1975 2 Giai đoạn từ năm 1975 đến 1989 3 Giai đoạn từ 1990 đến 2003 4 Giai đoạn từ 2004 đến nay a Luật Thanh tra 2004 b Luật Thanh tra 2010 Chương 5 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI I. MÔ HÌNH TỔ CHỨC THANH TRA CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1 Thanh tra Quốc hội trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước 2 Thanh tra, giám sát hành chính a Về cơ cấu tổ chức b Về chức năng, nhiệm vụ c Quyền hạn của cơ quan Thanh tra, giám sát hành chính d Về hoạt động của cơ quan Thanh tra và giám sát hành chính 3 Thanh tra chuyên ngành a Về tổ chức của Thanh tra chuyên ngành b Chức năng, nhiệm vụ c Quyền hạn của Thanh tra chuyên ngành d Hoạt động của Thanh tra chuyên ngành II HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1 Hoạt động của Thanh tra Thụy Điển 9
- a Cơ quan thanh tra Thụy Điển b Nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra Quốc hội 2 Hoạt động của Thanh tra Đan Mạch a Cơ quan Thanh tra Quốc hội b Nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra Quốc hội 3 Hoạt động của Thanh tra Trung Quốc a Cơ quan giám sát và giám sát viên b Về chức năng và nhiệm vụ của cơ quan giám sát hành chính c Quyền hạn của cơ quan giám sát 4 Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Hàn Quốc (BAI): a Cơ quan thanh tra của Hàn Quốc b Phạm vi và nhiệm vụ hoạt động của Thanh tra Hàn quốc 5 Tổ chức và hoạt động của thanh tra Philippin a Về tổ chức cơ quan Thanh tra Philippin b Về thẩm quyền thanh tra của cơ quan Thanh tra 10
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ THANH TRA 1. Khái niệm và đặc điểm của thanh tra a. Khái niệm Theo tiếng Latinh, thanh tra có nghĩa là "nhìn vào bên trong", chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một đối tượng nhất định; Theo Từ điển tiếng Việt, "Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp"; Theo Từ điển pháp luật Anh- Việt, thanh tra là "sự kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra"; Theo Từ điển Luật học, thanh tra "là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định". Với những nghĩa trên đây, thanh tra bao hàm trong đó nghĩa kiểm soát nhằm xem xét và phát hiện, ngăn chặn những gì trái với qui định. Ngoài ra, thanh tra còn được hiểu là sự xem xét, kiểm soát, kiểm tra thường xuyên, định kỳ nhằm rút ra những nhận xét, kết luận cần thiết để kiến nghị với các cơ quan nhà nước nhằm khắc phục những nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Hoạt động thanh tra do cơ quan Thanh tra nhà nước thực hiện. Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. 11
- Bộ máy tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ của thanh tra nhà nước sẽ được nghiên cứu kỹ ở chương 3. b. Đặc điểm của thanh tra * Tính quyền lực nhà nước Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra gắn bó chặt chẽ với tính quyền uy - phục tùng - một đặc tính quan trọng của quản lý nhà nước. Quyền lực nhà nước, trên thực tế luôn thuộc về một tổ chức nhất định, không thể có quyền lực nếu không gắn với một tổ chức cụ thể. Nói về quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Đối với các quốc gia trên thế giới, chủ thể tiến hành thanh tra luôn là cơ quan nhà nước, dù mô hình tổ chức thanh tra có khác nhau. Vì vậy, thanh tra phải được nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý, bởi theo Lênin, thanh tra mà thiếu quyền lực là thanh tra suông. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra được thể hiện ở những mặt sau đây: - Ra các quyết định bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng bị thanh tra về những vấn đề đã bị thanh tra phát hiện và xử lý; - Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra; yêu cầu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật; - Trong những trường hợp cần thiết, trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Ngoài ra, tính quyền lực nhà nước của thanh tra còn được cụ thể hoá ở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức thanh tra; phương thức tiến hành thanh tra; xử lý kết quả thanh tra; trong mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối tượng thanh tra cũng như trong sự phối hợp giữa các tổ chức thanh tra nhà nước theo cấp hành chính và theo ngành, lĩnh vực. Hoạt động thanh tra đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, có như vậy mới phát huy hiệu quả của thanh tra. * Tính khách quan Bản chất của thanh tra là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân nhằm đưa ra kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý vi phạm góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công 12
- dân. Vì thế, hoạt động thanh tra phải mang tính khách quan. Tính khách quan của hoạt động thanh tra được biểu hiện ở chỗ mọi hoạt động thanh tra đều dựa trên cơ sở pháp luật và phải tuân theo pháp luật. Pháp luật về nguyên nghĩa là ý chí của giai cấp cầm quyền (ý chí nhà nước). Nhà nước đặt ra pháp luật và pháp luật là công cụ để nhà nước thực hiện quản lý xã hội. Theo đó, mọi hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động của thanh tra nói riêng đều phải dựa trên cơ sở pháp luật, bởi nếu hoạt động thanh tra mà không dựa trên cơ sở pháp luật thì nó sẽ mất đi tính công minh, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước. * Tính độc lập tương đối Tính độc lập tương đối là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ quan quản lý nhà nước tự tiến hành, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan chuyên trách. Vì vậy, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, ngoài việc đảm bảo sự phối kết hợp nhịp nhàng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, hoạt động thanh tra còn có tính độc lập tương đối trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Điều này được thể hiện ở chỗ, các tổ chức thanh tra được phép tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội theo thẩm quyền đã được pháp luật qui định. Trên cơ sở kết quả thanh tra, ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các qui định của pháp luật về thanh tra, chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình. Tính độc lập của thanh tra chỉ là tương đối bởi vì, hoạt động thanh tra ngoài việc căn cứ vào pháp luật, chính sách hiện hành còn xuất phát từ thực tế cuộc sống, phải đặt sự vật, hiện tượng trong sự phát triển biện chứng với quan điểm khoa học, khách quan, lịch sử, cụ thể. Tính độc lập của hoạt động thanh tra cũng khác với tính độc lập trong xét xử của toà án bởi vì: - Thanh tra xem xét mọi việc không chỉ căn cứ vào tính hợp pháp mà còn căn cứ vào tính hợp lý; Trong khi đó hoạt động xét xử của toà án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. - Không phải mọi hoạt động thanh tra đều mang tính tài phán; còn hoạt động của toà án đều mang tính chất tài phán (xét xử). - Trong hoạt động thanh tra, về nguyên tắc, người có quyền quyết định cuối cùng trong việc xử lý kết quả thanh tra là thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; Còn trong hoạt động xét xử, người có thẩm quyền quyết định cuối cùng là Hội đồng xét xử. * Thanh tra luôn gắn với quản lý nhà nước 13
- Quản lý nhà nước và thanh tra có điểm chung là nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng quản lý. Hơn nữa, với tư cách là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, thanh tra gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước. Về vấn đề này, Lênin đã viết: "Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ không phải là hai". Như vậy, quản lý nhà nước và thanh tra có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thanh tra chỉ xuất hiện khi có nhà nước và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra.Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (thể hiện ở việc xác định đường lối, chủ trương, qui định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra; sử dụng các kết quả, thông tin từ phía các cơ quan thanh tra). Hơn nữa, hoạt động chấp hành của quản lý nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình chấp hành các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về mặt cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh thanh tra chỉ là phương tiện, công cụ để quản lý nhà nước. Ngoài ra, với tư cách là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị ràng buộc, chế ước bởi quản lý nhưng đồng thời lại tác động trở lại, góp phần điều chỉnh cách thức, phương pháp quản lý của chủ thể quản lý. Nhờ có thanh tra mà mục đích của quản lý được đảm bảo. Thực tế cho thấy rằng, một thể chế hành chính và cơ chế quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ và kém hiệu quả nếu thiếu thanh tra. Hoạt động có tính hiệu quả của thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tuỳ tiện, thiếu kỷ cương trong hoạt động của bộ máy nhà nước. 2. Vai trò và ý nghĩa của công tác thanh tra a. Vai trò của thanh tra Thanh tra là nội dung không thể thiếu của quản lý nhà nước, là giai đoạn cuối cùng trong chu trình quản lý, có vai trò kiểm định, đánh giá hiệu quả của quản lý nhà nước. Qua thanh tra để có các kiến nghị khắc phục những sơ hở, yếu kém, đề xuất những biện pháp đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý, sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm quản lý tốt hơn, hiệu quả hơn. Chính vì vậy, trong hoạt động quản lý nhà nước phải có thanh tra và thanh tra phải phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước. Ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó phải có thanh tra. Quản lý nhà nước mà không có thanh tra sẽ dẫn tới quan liêu và xa rời thực tiễn. Thanh tra làm cho chu trình quản lý nhà nước được khép kín, các hoạt động ban hành và tổ chức thực hiện quyết định quản lý được gắn bó chặt chẽ hơn, từ việc xem xét, đánh giá, kiểm chứng việc thực hiện các chủ trương, chính sách của đối tượng bị quản lý, đến việc đề xuất các biện pháp hoàn thiện chủ trương, chính sách, nâng cao hiệu quả quản lý của chủ thể. Đó là quy trình, quy luật tất yếu trong bất cứ hoạt động quản lý của Nhà nước nào. Để thực 14
- hiện đổi mới kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia thì vai trò của công tác thanh tra ngày càng cần thiết và quan trọng để quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò này được thể hiện ở các nội dung sau: - Thứ nhất, thanh tra là phương thức bảo đảm trật tự, kỷ cương trong quản lý, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với chức năng giám sát hoạt động của các đối tượng bị quản lý, bao gồm giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật, chức trách, nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước và công chức nhà nước; việc chấp hành chính sách, pháp luật của các tổ chức, cá nhân và các đối tượng khác chịu sự quản lý của Nhà nước; thanh tra kịp thời phát hiện những sai phạm và có biện pháp xử lý. Với chức năng, nhiệm vụ xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định hoặc hành vi hành chính của cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, cũng như trách nhiệm và quyền hạn được giao; kết luận và xử lý kịp thời những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước góp phần bảo đảm trật tự kỷ cương trong quản lý, làm trong sạch bộ máy nhà nước Trong điều kiện nước ta thực hiện quá trình đổi mới mà trọng tâm là đổi mới về kinh tế thì vai trò của công tác thanh tra ngày càng cần thiết và quan trọng để quản lý nền kinh tế thị trường hoạt động ngày càng có hiệu quả . - Thứ hai, việc thanh tra còn nhằm mở rộng và bảo đảm cho quyền dân chủ của nhân dân được thực thi một cách nghiêm minh. Theo lý thuyết, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, cho nên Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người dân, tạo mọi điều kiện cho họ thực hiện các quyền về dân chủ - chính trị của mình như: quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quyền tự do lập hội, tự do ngôn luận, quyền khiếu nại, tố cáo Do đó, pháp luật Việt nam không chỉ ghi nhận các quyền của cong dân mà còn ghi nhận các cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện như quyền kiểm tra, giám sát thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước do mình bầu ra, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp mà mình là thành viên và các Ban Thanh tra nhân dân Mặt khác, việc xem xét, kết luận và kiến nghị giải quyết khiếu nại, tố cáo, các tổ chức Thanh tra giúp Đảng và Nhà nước phát hiện kịp thời những vi phạm của cán bộ, công chức, loại trừ những biểu hiện quan liêu, cửa quyền, mất dân chủ, thiếu công bằng, xa rời lợi ích của nhân dân, từ đó có các biện pháp xử lý, khắc phục, góp phần xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, hoạt động Thanh tra còn nhằm tìm ra những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, phát hiện những nội dung chưa phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan, từ đó có các biện pháp sửa đổi, bổ sung, khắc phục kịp thời có ý nghĩa tích cực trong việc củng cố trật tự, kỷ cương, hoàn thiện cơ chế quản lý. Tuy nhiên, cũng phải hiểu rằng chỉ phát hiện, 15
- tìm kiếm sai phạm, sơ hở, yếu kém trong quản lý thì chưa đủ, mà Thanh tra còn phải phát hiện và khẳng định, đồng thời tạo điều kiện cho những nhân tố mới, cơ chế mới nảy sinh phát triển. Có như vậy thì hiệu quả công tác quản lý mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn. - Thứ ba, khi xem xét vai trò của thanh tra trong các giai đoạn lịch sử cho thấy, vai trò quan trọng nữa của thanh tra là nhằm thực hiện tham mưu cho các cấp chính quyền trong giải quyết khiếu nại hành chính, nhất là trong việc thực hiện nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc các cấp, các ngành trong việc tiếp công dân, nhận các khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo và thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và quản lý nhà nước từ sau khi đổi mới đến nay, Quốc Hội đã ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo vào năm 1998 và tiếp tục sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004, năm 2005 nhằm điều chỉnh một cách toàn diện về khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho phù hợp hơn với thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố cáo và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Như vậy, vai trò của thanh tra trong hoạt động quản lý nhà nước ngày càng có sự điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển ở nước ta hiện nay, nhất là trong điều kiện chúng ta thực hiện Chương trình cải cách bộ máy nhà nước, trong đó có các cơ quan thanh tra. Tuy nhiên, trên thực tế có những cơ quan thanh tra nhiều khi không đưa ra được những kết luận như yêu cầu của xã hội vì cách làm còn mang tính “chiếu lệ”, chưa thiết thực, và thiếu khách quan; mặt khác do thành viên của Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên còn chưa được chọn lọc kỹ càng, chưa bao gồm những người đủ đức đủ tài để đưa ra những kết luận có sức thuyết phục cao, khiến cho cơ sở được thanh tra phải “tâm phục khẩu phục”. Thực tế những năm vừa qua cho thấy nhiều tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân công dân đã từng lập nhiều thành tích, được tặng thưởng nhiều huân chương, thậm chí được phong danh hiệu anh hùng nhưng sau đó ít lâu lại mắc những sai phạm nghiêm trọng bị đưa ra truy tố và xử lý trước pháp luật. Nếu việc thanh tra những cơ sở này được làm tốt thì đã giúp cho người lãnh đạo tránh được những sai phạm dẫn tới hậu quả đáng tiếc về sau. Từ những bài học kinh nghiệm thực tế đó, muốn nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra thì trước hết cán bộ thanh tra phải công tâm và có năng lực, có cách làm thích hợp, khách quan, trung thực, không vì đánh giá cao thành tích, mà xem nhẹ những thiếu sót, khuyết điểm và ngược lại. Đi đôi với việc kiểm tra, giám sát thường xuyên, còn cần thanh tra bất thường, không cần thiết phải thông báo cho cơ sở biết trước để bảo đảm tính khách quan của thanh tra. b. Ý nghĩa của thanh tra 16
- Theo quy định tại Điều 2 Luật Thanh tra 2010 thì mục đích của hoạt động thanh tra là:“phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.’’. Như vậy, hoạt động thanh tra là nhằm điều chỉnh cách thức, phương pháp quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước, với ý nghĩa là bảo vệ mục đích của quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho công dân thực hiện tốt các quyền của mình trên thực tế. Hoạt động thanh tra được thực hiện bởi chủ thể quản lý nhà nước - nhân danh quyền lực nhà nước . Điều này nhằm xác nhận về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra được coi là công cụ có hiệu quả của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng của quản lý. Do đó, quyền lực của thanh tra là một bộ phận không thể thiếu của quyền lực nhà nước, chỉ có thông qua hoạt động thanh tra, quyền lực nhà nước mới được thực hiện, nền dân chủ nhân dân mới được bảo đảm. Chính vì vậy, mục đích hàng đầu của thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan nhà nước, của tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó, quá trình thanh tra cũng tạo ra những yếu tố tích cực, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, trong chính sách, pháp luật, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp khắc phục kịp thời, kể cả các biện pháp nhằm sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách, quy định hiện hành và việc ban hành mới những quy định cần thiết, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, hoàn thiện chính sách, pháp luật, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước Ví dụ, thông qua hoạt động thanh tra trong công tác tiếp dân, các cơ quan tiếp nhận khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thanh tra nhằm xem xét ra quyết định, kết luận giải quyết hoặc trả lời cho công dân biết theo đúng thời hạn quy định của pháp luật. Đồng thời, công tác tiếp dân cũng nhằm hướng dẫn người dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật và cũng là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một kênh thông tin quan trọng để kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ. Muốn vậy người lãnh đạo qua công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ nắm bắt được đầy đủ thông tin, kiểm tra, đánh giá chính xác cán bộ của mình. Bên cạnh đó, việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng là một kênh thông tin để đánh giá tính khả thi của các chính sách, hiệu quả quản lý nhà nước. Đánh giá chính sách là việc xem xét, nhận định về giá trị các kết quả thu được khi thực thi chính sách. Đánh 17
- giá chính sách được tiến hành trên cơ sở một chính sách đã được hoạch định, thực thi và có sự phản ánh kết quả trở lại. Trên cơ sở các thông tin thu được qua việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lý có được các thông tin về kết quả triển khai thực hiện các mục tiêu của chính sách, có căn cứ để xác định xem việc tồn tại chính sách có hợp lý hay không, kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách và tìm kiếm các biện pháp quản lý thích hợp và hiệu lực để thực thi chính sách đó. Hoạt động tiếp công dân của cơ quan thanh tra còn tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do, dân chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc, xung đột trong xã hội, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền tự do, dân chủ tạo nên một xã hội hài hòa, xã hội công dân. 3. Hình thức và phương pháp thanh tra a. Hình thức thanh tra Hình thức thanh tra là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động thanh tra. Có nhiều hình thức thanh tra khác nhau, điều này phụ thuộc vào các cách phân loại khác nhau hay còn gọi là phụ thuộc vào các căn cứ phân loại khác nhau. * Căn cứ vào phạm vi, quy mô của cuộc thanh tra có: Thanh tra diện rộng, thanh tra diện hẹp. - Thanh tra diện rộng Thanh tra diện rộng là hình thức thanh tra thường được áp dụng khi tiến hành thanh tra một cơ quan, một ngành hay một lĩnh vực quản lý để đánh giá kết quả hoạt động một cách tổng thể, toàn diện trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật hoặc cơ chế quản lý để phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai phạm, đổi mới hoạt động nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước của cơ quan, một ngành hay lĩnh vực đó. Thanh tra diện rộng là hình thức thanh tra có phạm vi, quy mô rất rộng lớn. Cho nên, để bảo đảm hoạt động thanh tra có hiệu quả, cơ quan thanh tra cấp trên phải thực hiện sự chỉ đạo thống nhất về mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, lực lượng và thời gian thực hiện thanh tra. Thanh tra diện rộng có tác dụng không chỉ để chấn chỉnh, đổi mới trực tiếp một cơ quan, một ngành hay một lĩnh vực mà còn có tác dụng rất quan trọng để các cơ quan, người có thẩm quyền chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô. - Thanh tra diện hẹp (chuyên đề, vụ việc) 18
- Thanh tra diện hẹp là hình thức thanh tra chỉ tập trung vào một chuyên đề hoặc một vụ việc cụ thể nhất định nào đó để phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai phạm trong chuyên đề, vụ việc đó nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước của cơ quan, của ngành, lĩnh vực. Khác với thanh tra diện rộng, thanh tra chuyên đề, vụ việc có phạm vi, quy mô hẹp hơn và có đối tượng, nội dung cụ thể, rõ ràng hơn, tính chất của vụ việc rõ hơn. Vì thế, cơ quan (người có thẩm quyền thanh tra) cũng dễ dàng hơn trong việc xác định trọng tâm, trọng điểm cần thanh tra và thời gian thanh tra cũng thường ngắn hơn. * Căn cứ vào chương trình thanh tra có: Thanh tra theo kế hoạch; thanh tra thường xuyên, thanh tra đột xuất. - Thanh tra theo kế hoạch Là hình thức thanh tra được tiến hành theo kế hoạch đã được phê duyệt. Kế hoạch thanh tra là văn bản xác định nhiệm vụ chủ yếu về thanh tra của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra trong 01 năm do Thủ trưởng cơ quan thực hiện chức năng thanh tra xây dựng để thực hiện Định hướng chương trình thanh tra và yêu cầu quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Kế hoạch thanh tra cần được dựa trên các căn cứ sau: + Yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cấp, ngành cần tiến hành thanh tra để phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp, ngành đó; + Những vấn đề bất cập, bức xúc mà quá trình thanh tra trong kỳ kế hoạch trước đã phát hiện nhưng chưa được giải quyết hoặc chưa được giải quyết dứt điểm; + Những vấn đề do đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân; đơn kiến nghị, đề nghị của các cơ quan, tổ chức chuyển đến nhưng chưa được giải quyết dứt điểm vào kỳ kế hoạch trước. Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp có trách nhiệm phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra. Thanh tra theo kế hoạch có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi để đoàn thanh tra có sự chuẩn bị một cách tốt nhất cho việc thanh tra về lực lượng tiến hành, thời gian, tài liệu liên quan, thu thập thông tin, khảo sát thực tế nhằm bảo đảm cho cuộc thanh tra đạt hiệu quả cao nhất. - Thanh tra thường xuyên: được tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành - Thanh tra đột xuất 19
- Thanh tra đột xuất là hình thức thanh tra được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định. Thanh tra đột xuất thường gắn với những vấn đề cấp thiết, bức xúc nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai phạm để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. * Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của hoạt động thanh tra có: Thanh tra kinh tế - xã hội; thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra công vụ. - Thanh tra kinh tế - xã hội Là hình thức thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai phạm để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế và xã hội. Thanh tra kinh tế - xã hội được thực hiện là do: + Yêu cầu, nhiệm vụ của quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội; + Đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân về vấn đề kinh tế - xã hội; + Yêu cầu, kiến nghị, đề nghị của cơ quan, tổ chức. - Thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo Là hình thức thanh tra được tiến hành đối với cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai phạm trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cá nhân, cơ quan, tổ chức và nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Thanh tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có thể tiến hành đối với một hoặc một số hoặc tất cả các nội dung của quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo như: công tác tổ chức tiếp công dân; tiếp nhận và xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo và công tác quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo. - Thanh tra công vụ Thanh tra công vụ là hình thức thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật luôn luôn gắn liền với cơ quan, người có thẩm quyền để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, sai phạm của đối tượng quản lý nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. 20
- Bất kỳ cơ quan, người có thẩm quyền quản lý nào đều cần có kế hoạch thanh tra đối tượng quản lý trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Ngoài kế hoạch đã được xác định, cơ quan, người có thẩm quyền quản lý có thể tiến hành thanh tra đột xuất nếu thấy cần thiết hoặc là trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền do đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân; yêu cầu, kiến nghị của cơ quan, tổ chức. b. Phương pháp thanh tra Phương pháp thanh tra là cách thức, biện pháp mà cơ quan, người có thẩm quyền sử dụng để thực hiện hoạt động thanh tra nhằm đạt được mục đích đề ra. Việc sử dụng cách thức, biện pháp để thực hiện hoạt động thanh tra tuỳ thuộc vào đặc điểm, tính chất của vụ việc, của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng của thanh tra; đồng thời còn tuỳ thuộc vào khả năng nghiệp vụ của cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra. trong hoạt động thanh tra thường sử dụng các phương pháp chủ yếu sau đây: * Thu thập thông tin, hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan Đây là phương pháp không thể thiếu đối với cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh tra. Phương pháp này bao gồm các công việc sau đây: - Nghiên cứu văn bản pháp luật: là phương pháp rất cần thiết, vì văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý để thực hiện giám sát, kiểm tra, thanh tra. Nếu không nghiên cứu văn bản pháp luật thì không xác định được hoạt động của đối tượng giám sát, kiểm tra, thanh tra đúng hay sai và không đưa ra được kết luận cần thiết về vụ việc được giám sát, kiểm tra, thanh tra. Nghiên cứu văn bản pháp luật đòi hỏi phải nắm được tinh thần, nội dung và ý nghĩa của văn bản, của từng chương, mục, điều, khoản. - Nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan: là phương pháp cũng rất cần thiết, vì hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan chính là những dữ liệu về vụ việc được giám sát, kiểm tra, thanh tra. Nghiên cứu hồ sơ, tài liệu và các giấy tờ liên quan giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền giám sát, kiểm tra, thanh tra biết được nội dung vụ việc để từ đó đối chiếu với các quy định của pháp luật có liên quan. * Nghiên cứu, so sánh, thống kê các dữ liệu Nghiên cứu, so sánh, thống kê các dữ liệu để phát hiện những nội dung hợp lý, bất hợp lý, logic, phi logic , từ đó yêu cầu đối tượng thanh tra giải trình (có thể bằng văn bản hoặc trực tiếp). * Thu thập ý kiến từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức 21
- Chủ thể thanh tra không chỉ thu thập thông tin, tài liệu từ đối tượng thanh tra mà cần thu thập thông tin, tài liệu từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Bởi vì, những cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có thể có những thông tin, tài liệu rất giá trị về vụ việc được thanh tra. Để thực hiện tốt điều này, chủ thể thanh tra cần tạo lập mối quan hệ tốt, sẵn sàng lắng nghe những ý kiến từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, chủ thể thanh tra cũng cần chắt lọc được những thông tin, tài liệu thu thập được, vì không phải mọi ý kiến từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức đều đúng và khách quan. * Tham vấn ý kiến của các nhà chuyên môn Chủ thể thanh tra không thể am hiểu tường tận mọi lĩnh vực được thanh tra. Vì vậy, để làm cho hoạt động thanh tra đạt hiệu quả, rất có thể chủ thể thanh tra phải tham vấn ý kiến của các nhà chuyên môn. Ý kiến của các nhà chuyên môn sẽ làm cho chủ thể thanh tra hiểu được nguyên lý, bản chất của vụ việc. * Thuyết phục đối tượng thanh tra tích cực hợp tác với chủ thể thanh tra Sự hợp tác của đối tượng thanh tra là yếu tố quan trọng để cuộc thanh tra có hiệu quả. Trường hợp khá phổ biến là đối tượng thanh tra không thực sự hợp tác, không muốn hợp tác, thậm chí tìm mọi biện pháp để đối phó với việc thanh tra. Vì vậy, chủ thể thanh tra có nhiệm vụ thuyết phục sự hợp tác tích cực của đối tượng thanh tra. Chủ thể thanh tra cần làm cho đối tượng thanh tra hiểu rõ rằng mục đích của cuộc thanh tra là cùng với đối tượng thanh tra chấn chỉnh những bất cập, hạn chế trong quản lý nhà nước để nâng cao hiệu quả của quản lý. Sự hợp tác của đối tượng thanh tra bao giờ cũng được đánh giá cao hơn là không hợp tác và là tình tiết để xem xét giảm trách nhiệm của đối tượng thanh tra. * Chất vấn đối tượng thanh tra Chất vấn đối tượng thanh tra là phương pháp mà chủ thể thanh tra lấy thông tin về vụ việc bằng cách đặt ra câu hỏi để đối tượng thanh tra trả lời. Đồng thời thông qua chất vấn, chủ thể thanh tra cảm nhận, đánh giá thái độ của đối tượng thanh tra để góp phần làm cho cuộc thanh tra đạt hiệu quả. Những yêu cầu đặt ra để việc chất vấn có hiệu quả là: - Chủ thể thanh tra phải nắm chắc những vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn được thanh tra. - Chủ thể thanh tra phải tìm hiểu, nghiên cứu kỹ về vụ việc được thanh tra. 22
- - Chủ thể thanh tra phải có phương pháp (nghệ thuật) đặt câu hỏi thích hợp. - Chủ thể thanh tra phải lựa chọn thời gian thích hợp để chất vấn đối tượng thanh tra. * Xử lý kịp thời, đúng pháp luật những hành vi gây cản trở đến hoạt động thanh tra Đây là phương pháp không thể thiếu trong trường hợp có hành vi gây cản trở hoạt động thanh tra. Chủ thể thanh tra cần áp dụng những biện pháp cần thiết mà pháp luật cho phép để làm cho cuộc thanh tra đạt hiệu quả. Những biện pháp cần thiết được áp dụng như: xử phạt vi phạm hành chính; yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép được cấp hoặc sử dụng trái pháp luật 4. Công cụ thanh tra Công cụ thanh tra là những phương tiện mà chủ thể thanh tra sử dụng để thực hiện hoạt động thanh tra mà nếu thiếu những công cụ này thì hoạt động thanh tra không thể đạt kết quả. Các loại công cụ thanh tra bao gồm: a. Văn bản pháp luật Văn bản pháp luật là công cụ rất quan trọng của hoạt động thanh tra. Bởi vì đây là cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động thanh tra. Nếu không có văn bản pháp luật thì không thể thực hiện hoạt động thanh tra; không thể đưa ra được kết luận đúng sai về vụ việc. b. Kế hoạch thanh tra Kế hoạch thanh tra là những chương trình hành động cụ thể của cơ quan, người có thẩm quyền thanh tra đã được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt, thông qua. Công cụ này vừa là nhiệm vụ vừa mang tính chất định hướng cho hoạt động của chủ thể thanh tra. c. Hồ sơ, tài liệu về vụ việc Đây cũng là công cụ không thể thiếu của hoạt động thanh tra. Hồ sơ, tài liệu về vụ việc giúp cho chủ thể thanh tra hiểu được nội dung, bản chất của vụ việc để từ đó đưa ra những kết luận và quyết định hoặc đề nghị biện pháp xử lý thích hợp. Chủ thể thanh tra cần thu thập đầy đủ hồ sơ, tài liệu về vụ việc bằng cách: yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp; đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; trực tiếp khảo sát, nghiên cứu; d. Biên bản, mẫu văn bản trong quá trình thực hiện thanh tra Việc thanh tra cần được ghi thành biên bản hoặc ra những văn bản nhất định để bảo đảm giá trị pháp lý của hoạt động thanh tra đã thực hiện. Vì vậy, chủ thể thanh tra cần sử dụng biên bản, những mẫu văn bản đã được xác định. 23
- 5. Mối quan hệ và sự khác biệt giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra, giám sát Xuất phát từ nguyên tắc mang tính bản chất của nhà nước ta là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của mình. Quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia nhưng có phân công phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vì vậy trong cơ chế hoạt động của mình, các cơ quan nhà nước ngoài việc phải thường xuyên tự kiểm tra hoạt động của mình còn phải chịu sự giám sát, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan khác trong, ngoài hệ thống và sự giám sát của nhân dân. Giám sát là khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan tư pháp, các tổ chức xã hội và mọi công dân nhằm đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Như vậy, hoạt động giám sát chủ yếu được thực hiện ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc; hoạt động này được tiến hành bởi Quốc Hội, HĐND các cấp, các cơ quan tư pháp và toàn thể nhân dân thông qua hoạt động thực hiện chức năng, thẩm quyền do pháp luật qui định. Kiểm tra là khái niệm rộng, được hiểu theo hai góc độ: Thứ nhất, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới (trong mối quan hệ trực thuộc) nhằm xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp dưới khi thấy cần thiết hoặc trong trường hợp cần kiểm tra một vấn đề cụ thể nào đó. Vì vậy khi tiến hành kiểm tra, cơ quan cấp trên hoặc thủ trưởng cơ quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế kỷ luật, biện pháp bồi thường thiệt hại vật chất hoặc áp dụng các biện pháp tác động tích cực với đối tượng bị kiểm tra như động viên khen thưởng về vật chất hoặc tinh thần. Thứ hai, kiểm tra là hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội như kiểm tra của Đảng, kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội đối với hoạt động hành chính nhà nước. Hoạt động kiểm tra này ít mang tính quyền lực nhà nước và không trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế mà chỉ áp dụng các biện pháp tác đông mang tính xã hội. Từ quan niệm trên, cụ thể là các mối quan hệ giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra, giám sát như sau: Thứ nhất, nhà nước tự kiểm soát hoạt động của mình bằng các hình thức: - Các cơ quan quyền lực nhà nước giám sát hoạt động của các cơ quan hành pháp, tư pháp; 24
- - Cơ quan tư pháp kiểm soát cơ quan hành pháp; - Cơ quan hành pháp tự kiểm soát thông qua hoạt động kiểm tra nội bộ; thanh tra, kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới; thanh tra việc thực hiện pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân Thứ hai, nhân dân giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua hệ thống cơ quan dân cử, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng; giám sát trực tiếp ở cơ sở thông qua tổ chức thanh tra nhân dân, qua hoạt động khiếu nại, tố cáo Từ sự phân tích trên đây, có thể nhận thấy rằng: hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra có mối quan hệ ràng buộc, tương hỗ, phối hợp với nhau khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên có thể phân các hoạt động này thành hai loại: - Hoạt động kiểm tra, thanh tra trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước: đó là hoạt động kiểm tra của cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới; là hoạt động thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ, Tỉnh, Huyện) và hoạt động thanh tra chuyên ngành; - Hoạt động giám sát từ bên ngoài hướng vào các cơ quan hành chính nhà nước: đó là hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên; hoạt động giám sát của nhân dân đối với bộ máy hành chính nhà nước. Bên cạnh mối quan hệ tác động đó hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát có những điểm khác biệt cơ bản - Về chủ thể Chủ thể thanh tra có phạm vi hẹp hơn và mang tính chuyên trách chủ yếu được thực hiện bởi các cơ quan thanh tra và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra. Chủ thể kiểm tra có phạm vi rộng hơn và thường gắn với sự kiểm tra của nhà quản lý đối với đối tượng quản lý. Chủ thể giám sát rộng hơn nữa bao gồm: hệ thống cơ quan quyền lực, tổ chức Đảng, tổ chức chính trị xã hội và toàn thể nhân dân. - Về hoạt động Hoạt động của thanh tra được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định và mang tính nghiệp vụ cao. Hoạt động giám sát được thực hiện thường xuyên liên tục bằng rất nhiều hình thức khác nhau. Hoạt động kiểm tra cũng được thực hiện thường xuyên liên tục và thường là đơn giản hơn thanh tra II. HOẠT ĐỘNG THANH TRA 25
- 1. Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thanh tra Nguyên tắc trong hoạt động thanh tra là những tư tưởng chủ đạo, những tiêu chuẩn hành động mà các cơ quan nhà nước, các tổ chức, công dân cũng như đối tượng của thanh tra phải tuân theo trong quá trình thanh tra. Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra chỉ đạo và chi phối các mối quan hệ trong thanh tra nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh tra đạt được mục đích đề ra.Theo điều 7 Luật Thanh tra 2010 xác định nguyên tắc hoạt động thanh tra bao gồm: “ Tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời. Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra”. Như vậy, quy định trên là những tư tưởng chỉ đạo làm nền tảng cơ bản, mang tính xuyên suốt đối với hoạt động thành tra được quy định trên cơ sở kế thừa và phát huy những nguyên tắc của hoạt động thanh tra đã được Đảng và Nhà nước xác định từ trước tới nay. Theo đó, các nguyên tắc cơ bản của thanh tra bao gồm: a. Bảo đảm pháp chế trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của hoạt động thanh tra Một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc pháp chế là nhằm bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt đối, không có một thực thể nào đứng trên pháp luật hay đứng ngoài pháp luật. Nguyên tắc pháp chế phải được thể hiện ở việc chấp hành pháp luật cả từ phía các cơ quan nhà nước và từ phía các cá nhân, tổ chức là đối tượng chịu sự quản lý của Nhà nước. Yêu cầu trước tiên đối với hoạt động thanh tra là phải tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này thể hiện quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”. Thanh tra là công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước, vì về mặt lý thuyết “Ở đâu có quyền lực thì ở đó có thanh tra”. Vì vậy, hoạt động thanh tra phải được tiến hành trước hết bởi các quy định của pháp luật; phải tuân thủ các quy định của pháp luật - Luật Thanh tra và các văn bản pháp luật có liên quan. Thanh tra viên và những người có thẩm quyền không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn cho đối tượng bị thanh tra. Trường hợp các hành vi thanh tra vượt quá phạm vi, thẩm quyền cho phép trong quyết định thanh tra hoặc cố ý kết luận sai sự thật, xử lý vụ việc 26
- trái pháp luật, bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật đều không phù hợp với nguyên tắc này. Để bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, nội dung của hoạt động thanh tra phải bảo đảm việc tuân thủ đúng quy định của pháp luật có liên quan: - Hoạt động thanh tra phải được thực hiện theo phương thức thành lập Đoàn thanh tra hoặc thông qua thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập. - Thời hạn mỗi cuộc thanh tra phải tuân thủ trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Đó là mỗi cuộc thanh tra không quá 30 ngày, trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày. - Người có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch thanh tra hàng năm và quyết định các cuộc thanh tra cụ thể. - Đoàn thanh tra có Trưởng đoàn và các thành viên hoạt động theo nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định. Như vậy, bảo đảm việc tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, về nguyên tắc hoạt động của Thanh tra là không được vi phạm những điều cấm của pháp luật khi thanh tra, kiểm tra, bảo đảm cho đối tượng bị thanh tra nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, không phải lúc nào, ở đâu pháp luật cũng được thực thi nghiêm chỉnh. Sự vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là một vấn đề thực tế cần được giải quyết một cách liên tục, nhanh chóng. Để giải quyết, Nhà nước đã áp dụng các biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế hanh vi của đối tượng vi phạm, cho nên mọi biện pháp thực hiện đều cần đến công tác thanh tra. Chỉ có qua thanh tra mới có thể đánh giá được một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đó chấp hành pháp luật như thế nào, có vi phạm pháp luật hay không, vi phạm ở mức độ nào Từ đó mới có thể đề ra những biện pháp xử lý thích hợp. Do vậy, thanh tra chính là phương thức bảo đảm pháp chế, ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. b. Bảo đảm tính chính xác, khách quan, trung thực của hoạt động thanh tra Khi xem xét vai trò của thanh tra trong mối quan hệ với kiểm tra, giám sát thực hiện quyền lực nhà nước và vai trò của thanh tra trong phòng, chống tham nhũng và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã cho thấy: 27
- Thứ nhất, thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, đó là hoạt động tự kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật và các quyết định quản lý trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước các cấp, trên cơ sở hệ thống Thanh tra được tổ chức theo mô hình: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện. Ngoài ra có các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Vì vậy, hoạt động Thanh tra luôn gắn với cơ quan quản lý nhà nước, cho nên đối tượng thanh tra rộng hơn và trực tiếp hơn so với đối tượng của từng chủ thể kiểm tra, giám sát. Thứ hai, hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra là nhằm hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động kiểm tra, giám sát. Qua đó phát hiện các vi phạm để xử lý theo thẩm quyền của mình và phục vụ cho hoạt động kiểm tra, giám sát nói chung của xã hội. Chính vì vậy, thanh tra được coi là “tai mắt” của cấp trên, có vai trò như một bộ phận của quản lý nhà nước. Vì thế hoạt động thanh tra là nhằm điều chỉnh cách thức, phương pháp quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước, bảo vệ mục đích của quản lý nhà nước nên được thực hiện bởi chủ thể quản lý nhà nước - nhân danh quyền lực nhà nước. Điều này cũng nhằm xác nhận về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức Thanh tra, do đó, Thanh tra được coi là công cụ có hiệu quả của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng của quản lý. Khi một cơ quan cấp trên ban hành một chủ trương, chính sách nào đó, thanh tra sẽ giúp cơ quan này biết được việc triển khai thực hiện chủ trương, chính sách đó ở cấp dưới, mà còn biết được tình hình những sơ hở, khiếm khuyết hoặc những nội dung quản lý của đại phương chưa sát với chủ trương, chính sách đó cũng như tình hình thực tế ở địa phương; đồng thời thanh tra còn giúp cho địa phương kịp thời sửa chữa uốn nắn nếu làm sai hoặc làm chậm. Vì vậy, những thông tin thanh tra cung cấp cho cơ quan cấp trên, cho người lãnh đạo đòi hỏi có độ chính xác, trung thực cao cũng như tính khách quan của đời sống xã hội. Tuy nhiên, để những thông tin có độ chính xác đó, đòi hỏi thái độ của người thanh tra viên phải có tính cẩn trọng, tỉ mỉ khi xem xét một cách thấu đáo và đánh giá vụ việc thanh tra một cách khách quan, trung thực mà không thể áp đặt ý chí chủ quan của mình vào việc kết luận vụ việc thanh tra. Theo Hồ Chủ Tịch: “Thái độ của người cán bộ thanh tra phải cẩn thận. - Nghe không được thiên lệch, nghe một bên, nên nghe người này, nghe người kia. - Phải khách quan. Chớ do ý muốn mà suy đoán chủ quan của mình. - Chống quan liêu: Thanh tra muốn biết, muốn thấy, muốn hiểu rõ sự thật ở cơ quan, ở địa phương nào đấy phải đến tận nơi nghe ngóng, tìm tòi, chịu khó. Quan liêu sẽ không làm được nhiệm vụ 28
- Phải cẩn thận khách quan, điều tra, nghiên cữu kỹ lưỡng, chịu khó”1. Sự phản ánh của thanh tra đòi hỏi tính chính xác, khách quan, song không thể phản ánh một cách đơn giản tình hình vụ việc thực tế, mà sự phản ánh phải mang tính chắt lọc, được xem xét thông qua những phân tích, đánh giá cùng với những kiến nghị đề xuất phù hợp. c. Bảo đảm tính dân chủ, công khai trong hoạt động thanh tra Trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng đã nhấn mạnh việc “định kỳ kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém và thoái hóa”. Nghị quyết cũng xác định một trong những biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng là phải “tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát, bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản công, tài chính đảng, đoàn thể, tài chính các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viện trợ”. Theo đó, việc tiến hành thanh tra phải được thực hiện thường xuyên, công khai, bảo đảm tính minh bạch trong công tác thanh tra, nhất là đối với lĩnh vực tài chính của các cơ quan, tổ chức Đảng, Nhà nước. Tính công khai, minh bạch phải được thể hiện ở những nội dung sau: - Trong quá trình thanh tra, người tiến hành thanh tra phải thông báo cho đối tượng thanh tra về những nội dung thanh tra và kết luận thanh tra; - Phải bảo đảm các quyền của đối tượng thanh tra trong việc giải trình những nội dung liên quan, khiếu nại, tố cáo về quyết định thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra, hành vi của Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên và các thành viên khác của Đoàn thanh tra, Thủ trưởng cơ quan thanh tra ; - Bảo đảm yêu cầu không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Như vậy, nguyên tắc dân chủ, công khai minh bạch là một trong những nguyên tắc nhằm bảo đảm cho hoạt động thanh tra nói riêng, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát nói chung thực hiện được mục đích xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức cũng như cá nhân, nhằm bảo đảm cho hoạt động quản lý nhà nước ngày càng tốt hơn, mà không phải là làm cản trở, đình trệ hoạt động của các cơ quan, tổ chức vị thanh tra. Bên cạnh đó việc xác định nguyên tắc này còn nhằm ngăn ngừa hạn chế tình 1 . Một số văn kiện về công tác thanh tra: Huấn thị của Hồ Chủ Tịch về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc ngày 19/04/1957, tr 7- 10. 29
- trạng thanh tra trùng lặp, kéo dài, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng bị thanh tra. d. Bảo đảm tính trách nhiệm trong việc phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan, cá nhân thanh tra Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý mà thiếu sự thanh tra thì đó chính là nguyên nhân của bệnh quan liêu, dẫn đến tham ô, lãng phí. Ngay từ năm 1945, trong Sắc lệnh số 64-SL của Hồ Chủ Tịch ký ngày 23/11/1945 về thành lập Ban Thanh tra đặc biệt đã có quy định quyền hạn của Ban Thanh tra đặc biệt là: “đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Uỷ ban nhân dân hay của Chính phủ đã phạm lỗi”. Sắc lệnh số 138b-SL ngày 18/12/1949 về việc thành lập Ban Thanh tra Chính phủ có quy định nhiệm vụ của Ban là “thanh tra các nhân viên Uỷ ban kháng chiến hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết”. Tại Sắc lệnh số 261-SL ngày 28/3/1956 về việc thành lập Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ có giao nhiệm vụ “thanh tra việc thực hiện kế hoạch nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước, chống phá hoại, tham ô, lãng phí”. Luật Thanh tra 2010 cũng quy định trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, xử lý kịp thời các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra nhằm thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức cá nhân theo thẩm quyền quản lý Nhà nước; giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo; phòng ngừa và chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về chống tham nhũng; phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật và trong công tác quản lý để kiến nghị với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục hoặc sửa đổi, bổ sung ban hành mới các văn bản pháp luật, góp phần nâng cao quản lý Nhà nước. Luật Thanh tra năm 2010 đã cụ thể hóa trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động thanh tra: - Cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra có trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định về thanh tra, có quyền giải trình về nội dung thanh tra, có quyền và trách nhiệm khác theo quy định khác của pháp luật - Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra phải cung cấp đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh 30
- tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin, tài liệu đã cung cấp; có quyền và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Để thực hiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, pháp luật cũng quy định cơ quan thanh tra trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan công an, Viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Riêng về Thanh tra nhân dân, trách nhiệm của UBND xã, phường, thị trấn. Đặc biệt, Ban Thanh tra nhân dân sẽ do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cùng Chính phủ quy định cụ thể hoạt động, trong đó nói rõ quyền hạn, việc lựa chọn, giới thiệu, bầu, phê chuẩn các Ban Thanh tra nhân dân đối với từng loại hình Thanh tra nhân dân. Như vậy, việc phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi sai phạm của cá nhân, cơ quan có trách nhiệm, của các cá nhân, tổ chức là đối tượng bị quản lý sẽ bảo đảm trật tự, kỷ cương pháp luật trong hoạt động quản lý. Mặt khác, việc tìm ra những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, phát hiện những nội dung chưa phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan, từ đó có các biện pháp sửa đổi, bổ sung, khắc phục kịp thời có ý nghĩa tích cực trong việc củng cố trật tự, kỷ cương, hoàn thiện cơ chế quản lý. Tuy nhiên, việc phát hiện, tìm kiếm sai phạm, sơ hở, yếu kém trong quản lý cũng chưa đủ, mà thanh tra còn phải phát hiện và khẳng định, đồng thời tạo điều kiện cho những nhân tố mới, cơ chế mới nảy sinh phát triển. Có như vậy thì hiệu quả công tác quản lý mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn, điều này được thể hiện ở những nội dung sau: Một là, hoạt động thanh tra (dù được thực hiện bằng phương thức gì, do cơ quan nào tiến hành) phải thể hiện tính kỷ cương pháp luật. Bởi vì, sự hiện diện của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát là nhằm nhắc nhở tới mọi đối tượng chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát rằng: pháp luật phải được tuân thủ. Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát định kỳ, thường xuyên hay đột xuất luôn tạo ra một “sức ép” thường trực lên các đối tượng và nhờ đó đã hạn chế sự vi phạm pháp luật. Vì vậy, thanh tra, kiểm tra, giám sát không chỉ thực hiện chức năng bảo đảm pháp chế mà còn thực hiện chức năng tìm hiểu, giúp đỡ, định hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định của pháp luật, nhất là đối với một Nhà nước chuyển từ mô hình kinh tế tập trung sang Nhà nước đảm nhận vai trò dịch vụ công. Khi đó, các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát sẽ thực sự trở thành một trong những địa chỉ tin cậy của 31
- mọi thành phần kinh tế để có thể nhận được những khuyến nghị, những chỉ dẫn bảo đảm cho hoạt động của mình đúng pháp luật. Hai là, trong quá trình thanh tra, các đánh giá, kết luận và kiến nghị có thể đưa ra những phân tích sâu sắc, đầy đủ nhất các nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất, mức độ của một hành vi vi phạm, song các giải pháp được đưa ra không chỉ hướng vào việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật phát hiện được, mà nó còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật, nhằm ngăn ngừa những phát sinh những vi phạm pháp luật tương tự xảy ra. Ba là, hoạt động thanh tra dù là loại hình nào cũng luôn luôn có tính định hướng và tính xây dựng. Vai trò phòng ngừa của thanh tra được đề cập ở đây là vai trò phòng ngừa mang tính chủ động. Trong rất nhiều trường hợp, thông qua hoạt động thanh tra mà có thể dự báo được một hành vi vi phạm pháp luật sẽ xảy ra trong tương lai nếu không có sự chấn chỉnh, không có sự định hướng lại cho các đối tượng một cách kịp thời. Tóm lại, hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân. Ở nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước. Nhà nước có nghĩa vụ chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, tạo mọi điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Ngoài ra, nhân dân là người giám sát các hoạt động của Nhà nước. Trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật, Nhà nước ta không chỉ ghi nhận mà còn có các cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Việc kiểm tra, giám sát đối với cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước là phương thức thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước do mình bầu ra, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp mà mình là thành viên và các Ban Thanh tra nhân dân; thông qua việc khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 2. Các giai đoạn trong hoạt động thanh tra Hoạt động thanh tra được tiến hành bởi Đoàn thanh tra, thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (gọi tắt là chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra). Hoạt động thanh tra sẽ được tiến hành quan 3 giai đoạn như sau (các giai đoạn này được thể hiện rõ nét hơn qua hoạt động của Đoàn thanh tra): a. Chuẩn bị thanh tra 32
- Đây là giai đoạn trước khi tổ chức thực hiện thanh tra. Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết sẽ góp phần quan trọng làm cho việc thanh tra có hiệu quả và hoàn thành được đúng thời hạn quy định. * Khảo sát, nắm tình hình để quyết định thanh tra Trước khi ra quyết định thanh tra, trong trường hợp cần thiết người ra quyết định thanh tra căn cứ vào yêu cầu của cuộc thanh tra để quyết định việc khảo sát, nắm tình hình đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân được thanh tra (sau đây gọi là đối tượng thanh tra) về một số nội dung như sau: - Mô hình tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra; - Hệ thống các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của đối tượng thanh tra; các thông tin liên quan đến tình hình hoạt động, việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra của các cơ quan chức năng và hoạt động tự kiểm tra, kiểm soát của đối tượng thanh tra; các thông tin liên quan đến các mối quan hệ chủ yếu gắn với tổ chức, hoạt động của đối tượng thanh tra và các thông tin liên quan đến những nội dung dự kiến thanh tra; - Nhận định những vấn đề nổi cộm, có dấu hiệu sai phạm, đề xuất những nội dung cần thanh tra và cách thức tổ chức thực hiện. * Ra quyết định thanh tra Đây là cơ sở pháp lý để tiến hành một cuộc thanh tra. Thẩm quyền ra quyết định thanh tra bao gồm: thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước, thủ trưởng co quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Theo Điều 38 Luật Thanh tra 2010, việc ra quyết định thanh tra phải có một trong các căn cứ sau đây: - Kế hoạch thanh tra; - Theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước; - Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; - Yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng. * Xây dựng và phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra Thanh tra là một trong những hoạt động quan trọng của quản lý nhà nước. Do vậy, cũng như các hoạt động khác, hoạt động thanh tra rất cần được lập kế hoạch chi tiết, rõ ràng để góp phần quan trọng vào việc thực hiện có hiệu quả thanh tra. Đồng thời kế hoạch thanh 33
- tra cũng là cơ sở để người ra quyết định thanh tra theo dõi, kiểm tra tiến độ thực hiện công việc. Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra có trách nhiệm xây dựng dự thảo kế hoạch tiến hành thanh tra gồm các nội dung: mục đích, yêu cầu, nội dung thanh tra, đối tượng thanh tra, thời kỳ thanh tra, thời hạn thanh tra, phương pháp tiến hành thanh tra, tiến độ thực hiện, chế độ thông tin báo cáo, việc sử dụng phương tiện, thiết bị, kinh phí và những điều kiện vật chất cần thiết khác phục vụ hoạt động của Đoàn thanh tra Sau khi kế hoạch thanh tra được người ra quyết định thanh tra phê duyệt, Trưởng đoàn thanh tra tổ chức họp Đoàn thanh tra để phổ biến kế hoạch tiến hành thanh tra được duyệt và phân công nhiệm vụ cho các tổ, nhóm, các thành viên của Đoàn thanh tra; thảo luận về phương pháp, cách thức tổ chức tiến hành thanh tra, sự phối hợp giữa các tổ, nhóm, các thành viên trong đoàn; tổ chức việc tập huấn nghiệp vụ cho thành viên Đoàn thanh tra khi cần thiết. Từng thành viên Đoàn thanh tra xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ được phân công và báo cáo với Trưởng đoàn thanh tra. * Xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra phải xây dựng được đề cương để yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo và làm căn cứ định hướng cho quá trình nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin từ đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; tránh tình trạng lan man, không tập trung vào những nội dung chính.Đề cương có thể bao gồm những nội dung như: - Những kết quả đã đạt được; - Những vấn đề còn chưa đạt được (những hạn chế, bất cập); - Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập; - Những vấn đề liên quan đến đơn, thư khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị của công dân, cơ quan, tổ chức. * Thông báo về việc công bố quyết định thanh tra Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến đối tượng thanh tra về việc công bố quyết định thanh tra ( trừ trường hợp thanh tra đột xuất). Thông báo phải nêu rõ về thời gian, địa điểm, thành phần tham dự buổi công bố quyết định thanh tra. Sự thông báo với đối tượng thanh tra về việc thanh tra là cần thiết để đối tượng thanh tra có sự chuẩn bị, chủ động bố trí thời gian, địa điểm làm việc * Chuẩn bị các điều kiện cần thiết khác 34
- Để thực hiện có hiệu quả việc thanh tra, chủ thể thanh tra cần được chuẩn bị chu đáo các điều kiện cần thiết khác như: - Phương tiện đi lại; - Kinh phí phục vụ thanh tra; - Văn phòng phẩm; - Các loại công văn, giấy tờ liên quan đến thủ tục hành chính; . b. Tổ chức thực hiện thanh tra * Công bố quyết định thanh tra Công bố quyết định thanh tra là nội dung đầu tiên trong việc tổ chức thanh tra. Công bố quyết định thanh tra có ý nghĩa rất quan trọng nhằm: - Khẳng định tính hợp pháp của chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra ; - Thống nhất giữa chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra với đối tượng thanh tra về quan điểm nhận thức, mục đích, yêu cầu và nội dung của cuộc thanh tra; - Xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra và của đối tượng thanh tra; - Xác lập chương trình và mối quan hệ công tác giữa chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra và đối tượng thanh tra. Việc công bố quyết định thanh tra phải được làm thành biên bản. * Thu thập, kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra có quyền yêu cầu đối tượng thanh tra hoặc các cá nhân, cơ quan tổ chức khác cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến nội dung thanh tra. Việc cung cấp hồ sơ, tài liệu được lập thành biên bản giao nhận giữa Đoàn thanh tra và đối tượng thanh tra.Việc quản lý, khai thác, sử dụng thông tin, tài liệu thu thập theo đúng quy định của pháp luật về thanh tra. Trên cơ sở văn bản báo cáo của đối tượng thanh tra và các thông tin, tài liệu đã thu thập được, chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra sẽ tiến hành các biện pháp nghiệp vụ khác nhau để nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh, đánh giá làm cơ sở để xây dựn báo cáo thanh tra và kết luận thanh tra sau này 35
- Trong khi tiến hành thanh tra, nếu phát hiện có sai phạm thì chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra phải tiến hành lập biên bản với đối tượng thanh tra để xác định rõ nội dung, tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, nguyên nhân dẫn đến vi phạm. Đối với Đoàn thanh tra thì hằng ngày trong quá trình thanh tra phải ghi nhật ký thanh tra có chữ ký xác nhận của Trưởng đoàn thanh tra . Nhật ký Đoàn thanh tra là sổ ghi chép những hoạt động của Đoàn thanh tra, những nội dung có liên quan đến hoạt động của Đoàn thanh tra diễn ra trong ngày, từ khi có quyết định thanh tra đến khi bàn giao hồ sơ thanh tra cho cơ quan có thẩm quyền. c. Kết thúc thanh tra Kết thúc thanh tra phải thực hiện các công việc sau: * Báo cáo kết quả thanh tra Sau khi kết thúc việc thanh tra, chủ thể thực hiện thanh tra cần tiến hành việc ra văn bản Báo cáo kết quả thanh tra. Đây là căn cứ để người ra quyết định thanh tra ban hành kết luật thanh tra. Vì vậy báo cáo thanh tra phải bám sát nội dung, kế hoạch tiến hành thanh tra, nêu rõ những nhận xét, đánh giá về từng nội dung đã tiến hành thanh tra; chỉ rõ những vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm đối với những vi phạm; đưa ra những kiến nghị biện pháp xử lý vi phạm; nêu rõ các quy định pháp luật làm căn cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật, tính chất, mức độ vi phạm, kiến nghị biện pháp xử lý vi phạm. * Đưa ra kết luận thanh tra Chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra . Kết luận thanh tra phải có các nội dung sau đây: - Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra; - Kết luận về nội dung được thanh tra; - Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); - Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý. Tuy nhiên, để kết luận thanh tra có đủ cơ sở và có giá trị pháp lý phải bảo đảm những yêu cầu sau: Một là, trước khi trở thành kết luận chính thức phải có văn bản dự thảo kết luận thanh 36
- tra. Văn bản dự thảo này phải được: + Tất cả thành viên đoàn thanh tra thảo luận; + Tổng hợp kỹ những nội dung đã kết luận; + Sự chỉ đạo của người ra quyết định thanh tra; + Các cơ quan chức năng cho ý kiến khi cần thiết. Hai là, việc thảo luận về dự thảo kết luận thanh tra phải được lập thành biên bản. Ba là, trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định thanh tra yêu cầu đoàn thanh tra tiến hành thanh tra bổ sung để làm rõ thêm một số nội dung. Kết quả thanh tra bổ sung phải được báo cáo bằng văn bản, làm cơ sở cho việc ra văn bản kết luận thanh tra. Bốn là, thông báo dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra (nếu cần thiết) để đối tượng thanh tra giải trình và nghe ý kiến các tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng trong cơ quan. Việc giải trình của đối tượng thanh tra phải được thực hiện bằng văn bản và có các chứng cứ để chứng minh cho ý kiến giải trình của mình. Những giải trình và ý kiến này cần được xem xét để có thể bổ sung, hoàn thành dự thảo kết luận thanh tra. Năm là, nội dung kết luận thanh tra phải có chứng cứ và căn cứ pháp lý để bảo đảm tính hợp pháp về nội dung. Ngoài ra, nội dung kết luận thanh tra cần tính đến yếu tố hợp lý. * Công bố kết luận thanh tra Kết luận thanh tra phải được công khai, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Hình thức công khai kết luận thanh tra bao gồm: - Công bố tại cuộc họp với thành phần bao gồm người ra quyết định thanh tra, Đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hoặc tổ chức họp báo; - Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; - Đưa lên trang thông tin điện tử của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành hoặc cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp; - Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra; - Cung cấp theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. * Hoàn tất và bàn giao hồ sơ thanh tra Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ cuộc thanh tra. Hồ sơ cuộc thanh tra phải có những giấy tờ sau: 37
- - Quyết định thanh tra, kế hoạch tiến hành thanh tra, các văn bản bổ sung, sửa đổi quyết định, kế hoạch tiến hành thanh tra, thay đổi, bổ sung Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra (nếu có); - Các biên bản làm việc, biên bản kiểm tra, xác minh; các loại báo cáo, báo cáo giải trình của đối tượng thanh tra, các tài liệu về nội dung, chứng cứ (theo từng nhóm nội dung thể hiện tại kết luận thanh tra). - Báo cáo của đối tượng thanh tra; báo cáo tiến độ, báo cáo thực hiện nhiệm vụ của thành viên Đoàn thanh tra; báo cáo kết quả thanh tra; kết luận thanh tra; - Các văn bản về việc xử lý và các văn bản có liên quan đến các kiến nghị xử lý; - Nhật ký Đoàn thanh tra và các tài liệu khác có liên quan đến cuộc thanh tra. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có kết luận thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm tổ chức bàn giao hồ sơ thanh tra cho cơ quan trực tiếp quản lý Trưởng đoàn thanh tra. Trường hợp vì trở ngại khách quan thì thời gian bàn giao hồ sơ thanh tra có thể kéo dài nhưng không quá 90 ngày. Trong trường hợp người ra quyết định thanh tra không phải là thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lý Trưởng đoàn thanh tra thì Trưởng đoàn thanh tra báo cáo người ra quyết định thanh tra để xin ý kiến chỉ đạo việc bàn giao hồ sơ thanh tra cho cơ quan có thẩm quyền. Việc bàn giao hồ sơ thanh tra phải được lập thành biên bản. 3. Giám sát, kiểm tra hoạt động đoàn thanh tra Hoạt động của đoàn thanh tra cần được giám sát, kiểm tra để góp phần quan trọng vào việc bảo đảm hoạt động của đoàn thanh tra đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, quy trình, thủ tục, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp. Để có cơ sở pháp lý cụ thể cho việc giám sát, kiểm tra hoạt động đoàn thanh tra, Tổng Thanh tra đã ban hành Quy chế giám sát, kiểm tra hoạt động đoàn thanh tra kèm theo Quyết định số 2861/2008/QĐ-TTCP ngày 22/12/2008. a. Giám sát hoạt động đoàn thanh tra - Mục đích giám sát Mục đích của hoạt động giám sát đoàn thanh tra là nhằm theo dõi, đánh giá hoạt động của Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra, chấp hành pháp luật về thanh tra, quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức và ý thức chấp hành kỷ luật của thành viên đoàn thanh tra; nắm bắt kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thanh tra để có biện pháp chấn chỉnh, giải quyết. - Nguyên tắc giám sát 38
- Nguyên tắc giám sát là những tư tưởng chỉ đạo hoạt động giám sát đoàn thanh tra. Hoạt động giám sát đoàn thanh tra phải tuân thủ những nguyên tắc như: bảo đảm chính xác, khách quan, kịp thời; bảo mật thông tin, tài liệu; không can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của đoàn thanh tra. - Người giám sát và người được giám sát Người giám sát là người ra quyết định thanh tra; thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp thành viên đoàn thanh tra; cán bộ, công chức được người ra quyết định thanh tra cử thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động đoàn thanh tra. Người được giám sát là Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra. - Nội dung giám sát Người ra quyết định thanh tra, cán bộ, công chức được cử giám sát thực hiện giám sát hoạt động đoàn thanh tra thông qua việc theo dõi, xem xét, đánh giá các hoạt động sau: việc thực hiện kế hoạch tiến hành thanh tra; việc thực hiện trình tự, thủ tục thanh tra; việc chấp hành quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, ý thức chấp hành kỷ luật của thành viên đoàn thanh tra; việc báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của thành viên đoàn thanh tra; báo cáo kết quả thanh tra của đoàn thanh tra; việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo của đoàn thanh tra; việc xử lý ý kiến khác nhau giữa các thành viên đoàn thanh tra về những vấn đề liên quan đến cuộc thanh tra của Trưởng đoàn thanh tra; việc ghi nhật ký đoàn thanh tra; các kiến nghị, phản ánh từ cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra hoặc từ các nguồn thông tin khác về hoạt động của đoàn thanh tra (nếu có). Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp cán bộ, công chức tham gia đoàn thanh tra giám sát các hoạt động của cán bộ, công chức do mình quản lý thông qua việc theo dõi, xem xét, đánh giá các hoạt động sau: việc thực hiện tiến độ thanh tra; phản ánh, kiến nghị của Trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra hoặc từ các nguồn thông tin khác về việc chấp hành quy tắc ứng xử, ý thức chấp hành kỷ luật thanh tra, việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý trực tiếp (nếu có). - Nhiệm vụ, quyền hạn của người giám sát Trong quá trình giám sát hoạt động đoàn thanh tra, người ra quyết định thanh tra yêu cầu đoàn thanh tra định kỳ báo cáo về kết quả, tiến độ thanh tra và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định pháp luật về thanh tra và Quy chế giám sát, kiểm tra đoàn thanh tra. Việc báo cáo về kết quả, tiến độ thanh tra được thực hiện định kỳ ít nhất 2 lần đối với mỗi cuộc thanh tra. 39
- Thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp cán bộ, công chức tham gia đoàn thanh tra có quyền hạn và trách nhiệm sau đây: nhận quyết định thanh tra; được biết về nhiệm vụ, tiến độ thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp tham gia đoàn thanh tra; yêu cầu cán bộ, công chức thông báo tiến độ thực hiện nhiệm vụ thanh tra; xem xét phản ánh, kiến nghị của trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra hoặc từ các nguồn thông tin khác về việc chấp hành quy tắc ứng xử, ý thức chấp hành kỷ luật thanh tra, việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý trực tiếp để có biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo người ra quyết định thanh tra xử lý; tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ; trường hợp cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý trực tiếp thuộc cơ quan thanh tra nhà nước là trưởng đoàn thanh tra thì ngoài các nhiệm vụ, quyền hạn đó, thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý trực tiếp cán bộ, công chức còn có trách nhiệm giúp người ra quyết định thanh tra đôn đốc tiến độ thực hiện nhiệm vụ của đoàn thanh tra; tham gia ý kiến vào dự thảo báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra khi được người ra quyết định thanh tra yêu cầu. Trong quá trình giám sát hoạt động đoàn thanh tra, cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ giám sát có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: định kỳ yêu cầu đoàn thanh tra báo cáo về kết quả, tiến độ thanh tra để thực hiện việc giám sát; yêu cầu trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Quy chế giám sát, kiểm tra đoàn thanh tra; báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định thanh tra về kết quả giám sát và kiến nghị các giải pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc phát sinh trong hoạt động thanh tra (nếu có); chịu trách nhiệm trước người ra quyết định thanh tra, trước pháp luật về tính trung thực của Báo cáo đó. - Quyền, nghĩa vụ của người được giám sát Trong quá trình giám sát, người được giám sát có các quyền, nghĩa vụ sau đây: định kỳ báo cáo về kết quả, tiến độ thanh tra theo yêu cầu của người ra quyết định thanh tra, cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ giám sát; cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin, tài liệu được quy định tại Điều 8 của Quy chế giám sát, kiểm tra đoàn thanh tra theo yêu cầu của người giám sát; giải trình về những vấn đề có liên quan đến nội dung giám sát; kiến nghị với người giám sát các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của đoàn thanh tra. - Xử lý kết quả giám sát Căn cứ kết quả giám sát, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm xem xét, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc; kiến nghị có liên quan đến hoạt động đoàn thanh tra (nếu có), tạo điều kiện thuận lợi để đoàn thanh tra hoàn thành nhiệm vụ. 40
- Trường hợp có tố cáo hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì người ra quyết định thanh tra quyết định việc kiểm tra hoạt động đoàn thanh tra. b. Kiểm tra hoạt động đoàn thanh tra - Mục đích kiểm tra Mục đích kiểm tra hoạt động đoàn thanh tra là nhằm xem xét, làm rõ việc tố cáo hoặc dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra để xử lý theo quy định của pháp luật. - Nguyên tắc kiểm tra Nguyên tắc kiểm tra là những tư tưởng chỉ đạo hoạt động kiểm tra đoàn thanh tra. Hoạt động kiểm tra đoàn thanh tra phải tuân thủ những nguyên tắc là: bảo đảm chính xác, khách quan, kịp thời; bảo mật thông tin, tài liệu; không can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của đoàn thanh tra. - Người kiểm tra và người được kiểm tra Người kiểm tra là người ra quyết định thanh tra; cán bộ, công chức được người ra quyết định thanh tra cử thực hiện nhiệm vụ kiểm tra hoạt động đoàn thanh tra. Người được kiểm tra là trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra bị tố cáo hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật. - Thời hạn kiểm tra Thời hạn kiểm tra đoàn thanh tra tối đa là 05 ngày làm việc kể từ ngày người được kiểm tra nhận được quyết định kiểm tra. Trong trường hợp nội dung, phạm vi kiểm tra phức tạp, người ra quyết định thanh tra có thể gia hạn kiểm tra. Thời hạn gia hạn không vượt quá thời hạn kiểm tra đoàn thanh tra. - Nhiệm vụ, quyền hạn của người kiểm tra Người ra quyết định thanh tra thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn kiểm tra theo quy định của pháp luật về thanh tra và Quy chế giám sát, kiểm tra đoàn thanh tra. Cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra hoạt động đoàn thanh tra có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: yêu cầu trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm tra;xác minh, kết luận về những nội dung kiểm tra; báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định thanh tra về kết quả kiểm tra; chịu trách nhiệm trước người ra quyết định thanh tra, trước pháp luật về nội dung báo cáo kết quả kiểm tra. - Quyền, nghĩa vụ của người được kiểm tra 41
- Trong quá trình kiểm tra, người được kiểm tra có quyền, nghĩa vụ sau đây: chấp hành quyết định kiểm tra; cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung kiểm tra; giải trình về những vấn đề có liên quan đến nội dung kiểm tra. - Xử lý kết quả kiểm tra Căn cứ kết quả kiểm tra, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm xem xét, xử lý kịp thời kết quả kiểm tra. Trường hợp phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, người ra quyết định thanh tra thay đổi trưởng đoàn thanh tra, thành viên đoàn thanh tra, áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý kỷ luật hoặc chuyển sang cơ quan điều tra để truy cứu trách nhiệm hình sự. III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TRA 1. Mục đích và yêu cầu đánh giá kết quả hoạt động thanh tra a. Mục đích đánh giá kết quả hoạt động thanh tra * Đánh giá kết qủa hoạt động thanh tra để biết được chất lượng, hiệu quả của từng hoạt động thanh tra Cũng như các hoạt động khác, hoạt động thanh tra được các chủ thể có thẩm quyền và toàn xã hội mong muốn thực hiện đạt chất lượng và hiệu quả. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra có thể không đạt được chất lượng, hiệu quả như mong muốn. Cả hai trường hợp này đều cần thông qua đánh giá để biết được kết quả của hoạt động thanh tra có đạt chất lượng và hiệu quả hay không. Nếu kết quả của hoạt động thanh tra đạt chất lượng và hiệu quả thì đó được coi là một kinh nghiệm tốt cần được tiếp tục phát huy. Còn nếu kết quả của hoạt động thanh tra không đạt chất lượng và hiệu quả thì cần rút kinh nghiệm, khắc phục những việc chưa thực hiện được. Thực hiện những điều này để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thanh tra, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Khi đánh giá hiệu quả hoạt động thanh tra cần đối chiếu với mục đích, yêu cầu, nguyên tắc, hình thức, phương pháp, công cụ và các kỹ năng thanh tra để xem có đạt chất lượng và hiệu quả hay không. * Đánh giá kết quả hoạt động thanh tra để biết được tác động của hoạt động thanh tra đối với xã hội Bất kể hoạt động nào đều có tác động ít hay nhiều đối với xã hội. Hoạt động thanh tra là những hoạt động quan trọng của nhà nước, có tác động lớn đối với xã hội. Khi đánh giá tác 42
- động của hoạt động thanh tra cần xem xét cả hai hướng tác động tích cực và tiêu cực trên các phương diện: + Về phương diện chính trị: hoạt động thanh tra có bảo đảm thực hiện được đường lối chính trị hay không, có bảo đảm và thúc đẩy dân chủ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và quyền dân chủ của công dân hay không. + Về phương diện kinh tế: hoạt động thanh tra có góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế hay không ở các khía khía cạnh: - Bảo vệ tài sản của nhà nước, của công dân, cơ quan và tổ chức; - Thúc đẩy hoạt động kinh tế của nhà nước, của công dân và tổ chức phát triển. + Về phương diện xã hội: hoạt động thanh tra có bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của công dân, cơ quan và tổ chức hay không; có góp phần vào việc duy trì trật tự và ổn định các quan hệ xã hội hay không. + Về phương diện pháp luật và quản lý nhà nước - Đối với pháp luật: hoạt động thanh tra có bảo vệ được pháp luật hay không, có góp phần làm cho pháp luật hoàn thiện hay không. - Đối với quản lý nhà nước: hoạt động thanh tra có chấn chỉnh được hoạt động quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước hay không. Khi đánh giá được tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động thanh tra thì có tác dụng làm cho cơ quan, người có thẩm quyền có biện pháp để phát huy hiệu quả tác động tích cực và khắc phục tác động tiêu cực của các hoạt động đó. * Đánh giá kết quả hoạt động thanh tra để thông qua đó đánh giá năng lực, trình độ và ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra Kết quả hoạt động thanh tra phụ thuộc một phần vào năng lực, trình độ và ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Vì vậy, đánh giá kết quả hoạt động thanh tra giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền đánh giá được năng lực, trình độ và ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra để từ đó có biện pháp thích hợp để đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức này. Thực hiện vấn đề này chính là nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra. * Đánh giá kết quả hoạt động thanh tra để thông qua đó tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng, kỷ luật 43
- - Tổng kết rút kinh nghiệm là công việc quan trọng để xem xét những việc đã làm được cũng như những việc chưa làm được và nguyên nhân của nó. Từ đó, cơ quan, người có thẩm quyền rút ra điều cần tiếp tục phát huy và đề ra biện pháp khắc phục những việc chưa làm được. - Khen thưởng và kỷ luật là hai biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra. Tập thể, cá nhân có thành tích trong hoạt động thanh tra cần phải được khen thưởng để ghi nhận, biểu dương, nêu gương thành tích đó và khuyến khích việc thực hiện tốt hoạt động thanh tra. Tập thể, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có vi phạm pháp luật trong hoạt động thanh tra cần phải có hình thức kỷ luật phù hợp để thông qua đó giáo dục, ngăn ngừa, răn đe tập thể, cá nhân khác trong hoạt động thanh tra. Như vậy, đánh giá kết quả hoạt động thanh tra có tác dụng làm cho cơ quan, người có thẩm quyền tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động thanh tra và có hình thức khen thưởng, kỷ luật phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra. b. Yêu cầu đánh giá kết quả hoạt động thanh tra * Bảo đảm tính toàn diện Đánh giá kết quả hoạt động thanh tra phải bảo đảm tính toàn diện, có nghĩa là: - Đánh giá tất cả các khía cạnh, nội dung của hoạt động thanh tra; - Đánh giá tất cả các cá nhân, tập thể trong hoạt động thanh tra. Đó là: + Cá nhân, tập thể là chủ thể thanh tra; + Cá nhân, tập thể là đối tượng thanh tra; + Cá nhân, tập thể liên quan đến hoạt động thanh tra. - Đánh giá cả kết quả đã đạt được cũng như những việc chưa thực hiện được; - Đánh giá cả tác động tích cực cũng như tác động tiêu cực của hoạt động thanh tra. * Bảo đảm tính chính xác Đánh giá kết quả hoạt động thanh tra phải bảo đảm tính chính xác, có nghĩa là: - Đánh giá hoàn toàn dựa trên những kết quả đã thực hiện của hoạt động thanh tra. 44
- - Đánh giá dựa vào những con số, số liệu, tài liệu, kết luận của hoạt động thanh tra mà không được thêm vào hay bớt đi con số, tài liệu, số liệu để đánh giá. * Bảo đảm tính khách quan Đánh giá kết quả hoạt động thanh tra phải bảo đảm tính khách quan, có nghĩa rằng: - Đánh giá được dựa trên và quyết định bởi sự thực khách quan đó là: kết quả của việc thực hiện hoạt động thanh tra. - Cơ quan, người có thẩm quyền đánh giá không được đưa vào những ý kiến đánh giá chủ quan mà không được dựa trên kết quả thực hiện hoạt động thanh tra. * Bảo đảm tính công bằng Đánh giá kết quả hoạt động thanh tra phải bảo đảm tính công bằng, có nghĩa là: - Đánh giá tất cả các cá nhân, tập thể trong hoạt động thanh tra mà không bỏ sót chủ thể nào; - Đánh giá cả mặt tích cực cũng như mặt hạn chế, tiêu cực của tất cả các cá nhân, tập thể mà không thiên vị bất kỳ cá nhân, tập thể nào. Cụ thể là: + Không được chỉ đánh giá mặt tích cực của một cá nhân, tập thể mà không đánh giá mặt hạn chế hoặc tiêu cực của cá nhân, tập thể đó; còn đối với cá nhân, tập thể khác thì chỉ đánh giá mặt hạn chế hoặc tiêu cực mà không đánh giá mặt tích cực của cá nhân, tập thể đó. + Không được đánh giá nhiều mặt tích cực của một cá nhân, tập thể và bớt đi những khía cạnh của mặt tiêu cực hoặc hạn chế của cá nhân, tổ chức đó; còn đối với cá nhân, tập thể khác thì đánh giá nhiều khía cạnh của mặt tiêu cực hoặc hạn chế và bớt đi mặt tích cực của cá nhân, tập thể đó. * Bảo đảm tính công khai, dân chủ Đánh giá kết quả hoạt động thanh tra phải bảo đảm tính công khai, dân chủ, có nghĩa rằng: - Đánh giá thực hiện ở một cuộc họp, cuộc làm việc công khai, không bí mật; - Đánh giá do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành nhưng cần có sự tham gia ý kiến của: + Các cá nhân, tập thể trực tiếp thực hiện thanh tra; + Các cá nhân, tập thể là đối tượng của thanh tra (nếu có thể); + Các cá nhân, tập thể khác có liên quan. 45
- Khi đánh giá kết quả hoạt động thanh tra bảo đảm cả năm yêu cầu đó thì kết quả của việc đánh giá được toàn diện, chính xác, khách quan, công bằng và dân chủ. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng để có những giải pháp thiết thực nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra. 2. Căn cứ đánh giá kết quả hoạt động thanh tra Tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động thanh tra chính là căn cứ mà cơ quan, người có thẩm quyền dựa vào đó để đánh giá một hoạt động thanh tra cụ thể. Việc đánh giá kết quả hoạt động thanh tra thường dựa vào các căn cứ sau: a. Mục đích của hoạt động thanh tra Đây là căn cứ đầu tiên và cũng là căn cứ quan trọng nhất mà cơ quan, người có thẩm quyền dựa vào đó để đánh giá hoạt động thanh tra. Mỗi hoạt động thanh tra cụ thể có những mục đích cụ thể phù hợp với đặc điểm, tính chất của cuộc thanh tra đó. Khi đánh giá kết quả hoạt động thanh tra, cơ quan, người có thẩm quyền nhất thiết phải dựa vào căn cứ này và cần thực hiện các công việc như sau: - Xem lại một cách kỹ lưỡng mục đích được đề ra ban đầu cho hoạt động thanh tra; - Đối chiếu kết quả của hoạt động thanh tra với mục đích được đề ra đó và xác định: + Mục đích đề ra có đạt được hay không; + Mục đích đề ra đạt được như thế nào, có thể ước lượng được bao nhiêu phần trăm; + Nguyên nhân của việc không đạt được mục đích đề ra là gì. b. Yêu cầu của hoạt động thanh tra Mỗi hoạt động thanh tra cụ thể vừa phải bảo đảm những yêu cầu chung vừa phải bảo đảm những yêu cầu riêng. Những yêu cầu của hoạt động thanh tra được bảo đảm hoặc không được bảo đảm đều ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động thanh tra. Vì vậy, cơ quan, người có thẩm quyền cần phải dựa vào đó để đánh giá kết quả hoạt động thanh tra. Khi dựa vào căn cứ này, cơ quan, người có thẩm quyền cần: - Xem lại một cách đầy đủ những yêu cầu đặt ra cho hoạt động thanh tra; - Kiểm tra, đối chiếu xem những yêu cầu nào được bảo đảm thực hiện, những yêu cầu nào không được thực hiện hoặc thực hiện không tốt; - Xác định nguyên nhân chủ quan và khách quan của những yêu cầu không được thực hiện hoặc thực hiện không tốt. c. Nội dung đã thực hiện của hoạt động thanh tra 46
- Mỗi hoạt động thanh tra đều có nội dung của nó. Nội dung của hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra là những công việc cụ thể thuộc vào nội dung vụ việc mà chủ thể thanh tra phải giải quyết. Việc thực hiện nội dung này đúng hay không đúng, tốt hay không tốt đều ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động thanh tra. Vì vậy, cơ quan, người có thẩm quyền cần căn cứ vào nội dung đã thực hiện của hoạt động thanh tra để đánh giá. Cụ thể là: - Xem lại những nội dung công việc mà chủ thể thanh tra phải giải quyết + Những công việc đó là gì? + Công việc nào là trọng tâm? + Mức độ và phạm vi xem xét, giải quyết mỗi công việc là gì? - Xem lại những nội dung công việc mà chủ thể thanh tra đã thực hiện; - Đối chiếu những nội dung công việc đã thực hiện với những nội dung công việc đặt ra phải thực hiện của chủ thể thanh tra. d. Thời hạn của hoạt động thanh tra Thời hạn của hoạt động thanh tra là khoảng thời gian mà chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra phải hoàn thành nhiệm vụ của mình. Khi đánh giá kết quả của hoạt động thanh tra cần căn cứ vào thời hạn của hoạt động thanh tra để xem xét. - Khi hoạt động thanh tra hoàn thành trong thời hạn hoặc trước thời hạn thì được đánh giá cao hơn hoạt động thanh tra mà không hoàn thành nhiệm vụ trong thời hạn quy định (xét ở tiêu chí thời hạn). - Khi đánh giá kết quả của hoạt động thanh tra về mặt thời hạn cần lưu ý đến trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ thanh tra trong thời hạn quy định là do những trở lực khách quan như: xuất hiện vấn đề mới, đối tượng thanh tra tiêu huỷ tài liệu, chứng cứ hoặc bỏ trốn Sự lưu ý trong trường hợp này để việc đánh giá kết quả của hoạt động thanh tra về mặt thời hạn bảo đảm tính toàn diện, khách quan và công bằng. đ. Hiệu quả, tác động của hoạt động thanh tra Khi thực hiện đánh giá kết quả hoạt động thanh tra cần phải căn cứ vào hiệu quả, tác động của hoạt động thanh tra. Cụ thể là: - Xem xét hoạt động thanh tra có đạt hiệu quả hay không, công việc cụ thể nào đạt hiệu quả, công việc cụ thể nào không đạt hiệu quả; hiệu quả đạt được là gì. 47
- - Xem xét tác động của hoạt động thanh tra đối với các khía cạnh: chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật và quản lý nhà nước. Những tác động cụ thể đối với từng khía cạnh là như thế nào. e. Quy định của pháp luật, quy chế hoạt động thanh tra Bất cứ hoạt động nào của nhà nước đều phải được dựa trên cơ sở quy định của pháp luật. Đây là căn cứ để đánh giá hoạt động của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền có hợp pháp hay không. Đồng thời, pháp luật cũng là căn cứ để đánh giá hay kết luận thanh tra có đầy đủ cơ sở pháp lý hay không. Bên cạnh quy định của pháp luật, hoạt động thanh tra còn phải thực hiện theo quy chế hoạt động thanh tra. Quy chế này cũng là cơ sở để đánh giá hoạt động thanh tra đúng quy chế hay là vi phạm quy chế. Vì thế, khi đánh giá kết quả của hoạt động thanh tra cần phải dựa vào cơ sở quy định của pháp luật và quy chế hoạt động thanh tra. 3. Đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra Việc đánh giá kết quả của hoạt động thanh tra phải dựa trên cơ sở những tiêu chí đã được xác định. Để bảo đảm việc đánh giá được toàn diện, khách quan, chính xác, công bằng và dân chủ, trước hết phải đánh giá trên từng tiêu chí đã được xác định. Bởi vì, mỗi tiêu chí phản ánh một khía cạnh, một mặt của hoạt động thanh tra. Đồng thời, mỗi tiêu chí đó có vị trí và ý nghĩa khác nhau đối với hoạt động thanh tra nhưng chúng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Chính vì thế, sau khi đánh giá dựa trên từng tiêu chí, cơ quan, người có thẩm quyền cần tiến hành đánh giá tổng thể hoạt động thanh tra. Khi đánh giá kết quả của hoạt động thanh tra thì cuối cùng phải đưa ra được những kết quả đánh giá ở những khía cạnh sau: a. Về ưu điểm, nhược điểm - Ưu điểm của từng khía cạnh, nội dung hoạt động; - Ưu điểm của toàn bộ hoạt động thanh tra; - Hạn chế của từng khía cạnh, nội dung hoạt động; - Hạn chế của toàn bộ hoạt động thanh tra. b. Về chất lượng 48
- Cơ quan, người có thẩm quyền đánh giá cần đưa ra được kết luận: - Công việc cụ thể nào đạt chất lượng; - Công việc cụ thể nào không đạt được chất lượng. Đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện thanh tra có đạt được chất lượng hay không; - Toàn bộ hoạt động thanh tra đạt chất lượng hoặc không đạt chất lượng; - Các công việc, hoạt động đạt chất lượng ở mức nào: + Đạt chất lượng tốt; + Đạt chất lượng khá; + Đạt chất lượng trung bình. c. Về hiệu quả Cơ quan, người có thẩm quyền đánh giá cần đưa ra được kết luận: - Công việc cụ thể nào có hiệu quả, hiệu quả đó là gì; - Công việc cụ thể nào không có hiệu quả; - Toàn bộ hoạt động thanh tra có đạt hiệu quả hay không? Hiệu quả đạt được là gì? d. Về tác động Cơ quan, người có thẩm quyền đánh giá cần đưa ra kết luận về tác động của kết quả hoạt động thanh tra ở các khía cạnh: * Tác động về chính trị: + Tác động đối với đường lối chính trị như thế nào? - Bảo đảm thực hiện đường lối chính trị; - Góp phần làm hoàn thiện đường lối chính trị. + Tác động đối với việc thúc đẩy dân chủ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước như thế nào? + Tác động đối với việc thúc đẩy quyền dân chủ của công dân như thế nào? * Tác động về kinh tế + Nâng cao hiệu quả kinh tế của cơ quan, tổ chức, công dân; + Hoặc cản trở hoạt động kinh tế của cơ quan, tổ chức, công dân; + Bảo vệ lợi ích kinh tế của cơ quan, tổ chức, công dân. 49