Vua Minh Mệnh với việc bảo vệ biển đảo Miền Trung
Bạn đang xem tài liệu "Vua Minh Mệnh với việc bảo vệ biển đảo Miền Trung", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
vua_minh_menh_voi_viec_bao_ve_bien_dao_mien_trung.pdf
Nội dung text: Vua Minh Mệnh với việc bảo vệ biển đảo Miền Trung
- Tạp chí Khoa học xã hộiL ỊCHViệt Nam, SỬ -số KH 3(100ẢO) - 201CỔ6 - DÂN TỘC HỌC Vua Minh Mệnh với việc bảo vệ biển đảo Miền Trung Trần Thị Thanh Huyền * Tóm tắt: Việc bảo vệ, giữ gìn an ninh biển đảo là vô cùng quan trọng đối với một đất nước ba mặt giáp biển như nước ta. Ý thức được điều đó, trong lịch sử, có nhiều vị minh quân đã đưa ra các biện pháp quan trọng để bảo vệ chủ quyền lãnh hải. Trong thời gian trị vì của vua Minh Mệnh (1820 - 1840), ông đã ban nhiều chính sách để nhằm củng cố và quản lý một cách hiệu quả hệ thống biển đảo đất nước và đã thu được nhiều kết quả tốt. Việc tìm hiểu những chính sách Minh Mệnh đã ban hành và những kết quả mà ông đã thu được đối với hệ thống biển đảo đất nước nói chung và Miền Trung nói riêng sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ về ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo của ông cha. Từ đó, giúp thế hệ những người Việt Nam hiện nay cũng như tương lai có ý thức hơn trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc. Từ khóa: Vua Minh Mệnh; biển đảo; Miền Trung; bảo vệ. 1. Mở đầu sẽ là mối nguy lớn với địa hình hẹp ngang Gia Long khi lên ngôi 1802 đã định đô ở hướng ra biển này.(*) Phú Xuân, Huế. Theo phân tích của Minh Bên cạnh đó, cuối thế kỷ XIX, các nước Mệnh: “lấy hình thế nước ta mà nói, Gia Phương Tây đang tích cực tìm các vùng đất Định thì dòng sông quanh co, Bắc thành thì mới làm thuộc địa, trong đó có Việt Nam. đồng nội bằng phẳng, đều không có chỗ Minh Mệnh rất ý thức được sự nguy hiểm hiểm yếu đáng cậy được. Bình Định địa thế từ việc nhòm ngó của các nước Phương Tây hơi mạnh nhưng lại chật hẹp; Quảng Nam vào nước ta theo đường biển: “Và nơi sung non nước cũng tốt, nhưng lại lệch xiêu; cả yếu thì không nơi nào sánh bằng đảo Sơn đến Quảng Bình, Thanh Hoa đều không Trà, tàu nước ngoài đến nước ta chỉ có nơi phải là chỗ đóng kinh đô được. Tóm lại này có thể đậu được, mà chướng khí rất dữ, không đâu bằng Phú Xuân, đất cát cao giếng độc hơn 10 cái. Trước có tàu Tây sáng, núi sông yên lặng; đường thủy thì có dương tránh gió đến đấy, cuối cùng bị nước Thuận An, Tư Dung là nơi hiểm yếu, đường độc làm hại. Do đấy mà nói rằng người bộ thì có Quảng Bình, Hải Vân, ngăn che ngoại quốc dù có muốn dòm ngó cũng sông lớn quanh quất ở đằng trước, đèo cao không sao làm được. Hơn nữa ta lại giữ giữ ở bên hữu, rồng lượn hổ ngồi, thế khỏe được chỗ hiểm để có thể vận dụng tàu hình mạnh. Đó là trời đất đặt ra để làm chỗ thuyền kia mà” [5, q.2, tr.759]. cho liệt thánh ta đóng đô mà để lại cho con cháu đến ức muôn năm mãi mãi” [5, q.2, (*) Thạc sĩ, Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã tr.759]. Nhưng rõ rằng chúng ta có thế thấy hội Việt Nam. ĐT: 0906656206. được rằng, việc định đô ở Huế thì phía biển Email: tranhuyen.vsh@gmail.com. 56
- Trần Thị Thanh Huyền Như vậy trong suy nghĩ của Minh Mệnh, nhiều quy chế (“Tuần dương chương trình”, kinh đô Huế là nơi có vị trí tốt để xây dựng “tuần thuyền quy thức” và “tuần dương xử thành trì. Nhưng mặt khác ông cũng hết sức phận lệ” ) nhằm mục đích chống cướp lo lắng trước mối đe dọa từ nước ngoài về biển, trạm dương và giữ gìn an ninh cho các tương lai của Việt Nam, nên ông coi cửa loại tàu thuyền hoạt động ven biển. “Vua Thuận An, Tư Dung là nơi xung yếu giữ bảo Bộ Binh rằng: trước đã giáng dụ, hằng gìn cảnh giác cao độ đối với tàu Phương năm thuyền binh ở Kinh đi tuần biển, cứ Tây. Ông luôn luôn cảnh giác và nhắc cận tuần đầu tháng 2 thì phái đi, nay khi trời thần của mình: “Việc trị quốc phải biết lo tạnh sáng, đường biển thuận tiện, chính là xa Người có nước có hai việc sửa đức và thời kỳ thuyền buôn đi lại, phải dự trước thiết hiểm đều không thể thiếu được. Nay việc canh phòng tuần tiễu, cho bờ biển Trẫm đóng tàu bọc đồng là muốn giữ những được nghiêm, cứ từ Thừa Thiên trở vào chỗ yếu hại ven biển, làm xưởng chứa sẵn Nam đến Bình Thuận chia nhau đốc thúc đi đấy, để lúc có việc dùng đến” [5, q.2, tr.758 lại tuần phòng, nếu gặp giặc thì chặn bắt. - 759]. Vì thế, trong thời kỳ này hệ thống Lại truyền chỉ cho các tỉnh Quảng Nam đến biển đảo Miền Trung được Minh Mệnh hết Bình Thuận cũng đều lập tức phái đi tuần sức chú ý. biển, không cứ hạn tháng 2” [5, q.5, tr.242]. 2. Những hoạt động của Minh Mệnh Ý thức coi trọng hải quân của vua Minh trong việc tăng cường bảo vệ hệ thống Mệnh cũng được thể hiện trong hình vẽ về biển đảo. chiếc vạc Cửu Đỉnh được đúc năm 1836 rồi 2.1. Coi trọng thủy quân cất giấu trong hoàng cung Huế. Những hình Ông coi trọng tăng cường quân bị, xây vẽ phản ánh về lực lượng quân sự trên vạc dựng lực lượng hải quân, “lấy thủy quân làm Cửu Đỉnh chủ yếu là hỏa khí và tàu thuyền, trọng” và tự hào về “thủy quân”. Vua Minh những hình vẽ về tàu thuyền chủ yếu bao Mệnh cho rằng: “Binh có thể không sử dụng gồm các tàu trên biển. Để đối phó với bọn trong trăm năm, nhưng không thể không cướp biển, vua Minh Mệnh còn đích thân chuẩn bị trong một ngày” [4, q.14, tr.9]. chỉ đạo xây dựng kế hoạch đóng các loại Trong xây dựng quân đội, cũng như Gia tàu tuần dương cỡ vừa (giữa tàu bọc đồng Long, Minh Mệnh rất coi trọng xây dựng hải lớn) và tàu Ô lê nhỏ (nhanh nhẹn có khả quân. Ông nhấn mạnh: “Nhà nước ở về năng tấn công). Ông cũng ý thức được sự phương Nam, đất nhiều phần biển, thủy quân bất cập của hải triều Nguyễn và chiến pháp là rất quan trọng, chính nên huấn luyện khiến của nó, yêu cầu các đại thần học tập chiến cho thông thuộc biết rõ đường biển thì lúc có thuật đánh thủy của Anh và Mỹ. Trong đó việc mới mong đắc lực” [5, q.4, tr.708]. ông nhận định rằng: “Trong các nước Ông ra sức đẩy mạnh sự nghiệp hàng hải Phương Tây chỉ có Xích Mao và Ma Li Căn của đất nước, khuyến khích đóng các loại giỏi thủy chiến, tàu của họ hoặc thuận chiều tàu thuyền bền chắc, xây dựng thủy quân gió, hoặc ngược chiều gió đều rất nhanh vững mạnh, hết sức quan tâm nền an ninh nhẹn, thật đáng để học tập” [4, q.14, cõi biển và phòng thủ biển. Ông đã ban bố tr.38]. Ông còn yêu cầu Binh Bộ thượng 57
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 thư Trương Đăng Quế đi tham quan đội hải đến các nước Đông Nam Á, hải đảo ở hình thủy chiến của các nước Phương Tây vùng Hạ Châu (Singapore). Ông từng cử và tham khảo để lấy làm biện pháp tập người hàng hải đến Minh Ca ở miền Đông luyện của hải quân” [5, q.5, tr.107]. Ấn Độ (vùng “tiểu Tây Dương”), hình Ông là người rất có ý thức trong việc học thành hiện tượng công cán hải ngoại quy hỏi các công nghệ mới tiên tiến. Nhập khẩu mô lớn liên tục. Theo ghi chép của Đại và thử chế tạo đồ vật của Phương Tây, “học Nam thực lục, từ năm Minh Mệnh thứ 3 tập cái tốt của thiên hạ” với ý thức học tập (1822) đến năm Minh Mệnh thứ 21 (1840), kĩ thuật biển tiên tiến của Phương Tây. Tuy vua Minh Mệnh ít nhất đã cử 30 đợt các Minh Mệnh chưa ý thức được sự biến đổi quan viên văn võ, đi tổng cộng khoảng 60 căn bản và ý nghĩa của nó, nhưng ông đã con tàu/ lượt bọc đồng lớn nhỏ (như các tàu thấy được những tiến bộ về kỹ thuật của “Phấn Bằng”, “Thụy Long”, “Định Dương”, những đồ vật Phương Tây. Ít lâu sau khi “Bình Ba” ) đến vùng Hạ Châu và tiểu ông lên ngôi, ông đã dụ cho cả nước “tìm Tây Dương, Indonesia, Philippines những người Phương Tây cư trú trong nước Ông ý thức được mối đe dọa của Phương Việt Nam, dẫn họ sang kinh đô, cử họ về Tây và tình hình đang thay đổi ở Trung Phương Tây, tìm các loại thợ về Việt Nam Quốc. Ông đưa ra “thuật phòng ngừa người để chế tạo đồ vật” [8, tr.164], và lệnh cho Tây” của mình: “Họ đến cũng không cự, họ thợ Việt Nam học tập kĩ nghệ của họ, chế đi cũng không theo, chỉ đối đãi coi như tạo tàu bọc đồng, chế tạo những đồ vật tinh người Di Địch thôi. Nếu có người Phương xảo. Trong khi lệnh cho thợ Việt Nam Tây sang mậu dịch thì chỉ cho phép họ mậu phỏng theo Phương Tây để chế tạo xe hơi dịch ở những nơi quy định như cảng Đà nước, vua Minh Mệnh hạ dụ cho các đại Nẵng và Sơn Trà, xong thì bảo họ đi, không thần Võ khố rằng: “Vương giả lấy điều hay cho phép họ cư trú trên bờ, cũng không cho của thiên hạ làm điều hay của mình; xe ấy phép nhân dân làm buôn với họ để tránh dẫu là người ngoại Di chế ra, nhưng khéo lạ việc bé xé ra to” [5, q.5, tr.829]. có thể dùng được, bắt chước mà làm cũng 2.3. Tăng cường phòng ngự ở vùng bờ không hại gì; nếu bảo là không cần học của biển Miền Trung họ thì là thô lậu thôi” [5, q.2, tr.520]. Mặc dù trong thời bình nhưng ông luôn 2.2. Thường xuyên cử các đoàn đi hàng ý thức được phần nào nguy cơ nghiêm hải và công cán các nước để tìm hiểu tình trọng từ các nước Phương Tây. Chính vì hình Châu Á thế, ông tăng cường tuyến phòng thủ ở Ông không ngừng tìm hiểu tình hình Miền Trung. Trung Quốc bằng triều cống định kỳ và cử Cảng Đà Nẵng là nơi neo đậu của tàu tàu thuyền sang Quảng Châu và Hạ Môn thuyền Phương Tây sang mậu dịch ở Việt (Trung Quốc). Sau vua Gia Long, vua Minh Nam. Vua Minh Mệnh cho rằng: “Đây là Mệnh tiếp tục đề xướng và ủng hộ sự nơi xung yếu nhất của cõi biển, tàu thuyền nghiệp hàng hải ở hải ngoại, hầu như năm Phương Tây nhất định qua” [5, q.5, tr.103], nào ông cũng cử đội thuyền triều đình hàng cho nên, ông đã cho xây dựng một hệ thống 58
- Trần Thị Thanh Huyền phòng thủ nhiều mặt, nhiều lớp. Lực lượng Mệnh thân hành đi khảo sát thành Điện Hải quân đội bố phòng ở cửa biển Đà Nẵng với 26 quan chức đi hộ tòng để có những cũng được tăng cường theo thời gian. Năm giải pháp tối ưu cho việc phòng thủ cảng 1836, quân số giữ cửa biển Đà Nẵng là 39 Đà Nẵng. Năm 1840, trước những biến người, đặt dưới sự chỉ huy của quan lĩnh động đồn dập ở vùng Biển Đông, Minh binh tỉnh Quảng Nam [2, tr.57]. Quy mô Mệnh càng tăng cường phòng thủ cho hai của hệ thống phòng thủ và sự quan tâm của thành này như thêm các tàu lớn, thêm 500 - triều đình trong việc bố phòng chứng tỏ 600 quân để bảo vệ cho hai thành trên. Ông triều đình Nguyễn rất chú trọng đến cửa liên tục ra các chỉ dụ để nhắc nhở quần thần biển Đà Nẵng, coi đó là quân cảng và trong việc bảo vệ Đà Nẵng. Năm 1840, ông thương cảng hàng đầu của nước ta vào thế ban dụ: “Hai thành An Hải và Điện Hải kỷ XIX. hiện đặt số súng đại bác khá nhiều, cho phái Các đồn lũy ở nội thị Đà Nẵng được ông lấy một viên suất đội ở vệ Cảnh Tất hoặc ở lệnh cho xây lại bằng gạch; đó là các thành doanh Thần Cơ và 20 tên lính ở đội Hộ Vệ, Điện Hải (ở bên trái cửa Đà Nẵng) vào năm Cảnh Tất; cứ mồng 1 tháng 8 đến coi giữ 1823, An Hải (bên phải cửa Đà Nẵng) vào các thành ấy, mỗi tháng một lần thay đổi” năm 1830. Bên cạnh đó, năm 1823, ông tiếp [3, t.2, tr.255]. Những chỉ dụ và việc tăng tục xây dựng pháo đài Định Hải ở phía tây cường lực lượng quân đội, quan chức ở bắc; năm 1840, ông cho xây dựng pháo đài vùng biển Quảng Nam, Đà Nẵng, chứng tỏ Phòng Hải, Trấn Dương ở phía đông bắc. vua Minh Mệnh đã dành sự quan tâm đặc Năm 1829, vua Minh Mệnh ra dụ cho Bộ biệt đối với việc phòng thủ ở cảng Đà Binh rằng: “Pháo đài Trấn Hải ở Kinh sư, Nẵng. Đây là nơi duy nhất vua Minh Mệnh pháo đài Định Hải ở Quảng Nam đều là chỗ tiếp nhận các tàu của Phương Tây ra vào xung yếu, nên dù lúc vô sự, việc canh buôn bán. Để bảo vệ cho Đà Nẵng, còn có phòng cũng không thể bỏ qua. Bộ ấy nên một hệ thống đồn lũy kiên cố như: Hải truyền bảo quan binh trú phòng ở hai pháo Châu, Phương Ninh, Thạc Gián (ở bên trái), đài ấy hết thảy súng đạn, khí giới, quân nhu Hóa Khuê, Mỹ Thị (ở bên phải). Ngoài ra lúc nào cũng dự bị đầy đủ để phòng lúc bất còn một loạt các pháo đài khác để bảo vệ ngờ” [6, t.3, tr.237]. Chỉ huy thành Điện bình yên lãnh thổ, đặc biệt là dọc bờ biển Hải và An Hải là quan thành Thủ úy. Năm Miền Trung. 1822, triều đình bổ nhiệm chức quan Vệ úy Phía bắc Đà Nẵng (từ Hải Vân vào Đà lĩnh 200 biền binh các ban trực đi đến đóng Nẵng) có 7 trạm thông tin cấp báo. Năm giữ đài Định Hải. Năm 1923, vua Minh 1826, Minh Mệnh cho xây dựng Hải Vân Mệnh lại cho phái 20 lính ở các đội cơ binh quan - điểm xung yếu để xây dựng kinh đô hoặc cường tráng, đội nào đủ số thì giao Huế. Năm 1837, Minh Mạng cho xây dựng cho một viên suất đội cai quản binh ấy, đến 10 vọng lâu từ cửa biển Thuận An đến canh giữ ở đài Điện Hải. Đến năm 1930, số kinh thành để cấp báo. Năm 1832, số lính quân của cả hai thành Điện Hải và An Hải thuộc lệ tấn thủ cửa biển Thuận An là 124 là 500 người [2, tr.59]. Năm 1825, Minh người [2, tr.71]. 59
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 Đồng thời, ông coi trọng cải cách binh Mệnh việc thăm dò và khảo sát đo đạc quần chế, yêu cầu thủy quân học tập chiến thuật đảo Hoàng Sa, Trường Sa được nhà nước thủy chiến của Phương Tây, ngày đêm tập tiến hành thường xuyên hơn, có quy mô dượt để tăng sức chiến đấu phòng ngự biển. rộng lớn hơn và cụ thể hơn. Năm 1837, “cấp thêm kính thiên lý cho cửa Đại Nam thực lục cho biết: “Tháng 3, biển Thuận An. Vua sai chọn phái 1 người mùa xuân năm Giáp Ngọ niên hiệu Minh thị vệ hoặc đội Kinh sang, Cảnh tất, Hộ vệ Mệnh thứ 15 (1834), sai Giám thành đội đã quen thạo nom dòm, chỉ đạo cho bọn trưởng Trương Thúc Sĩ cùng thủy quân hơn quản vệ, suất đội tấn thủ, thủ ngự ở cửa biển 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc ấy học tập, cứ mỗi 10 ngày, Bộ Công 1 lần Quảng Ngãi vẽ bản đồ” (Văn bản thứ 5 phái đến sát hạch, nếu chưa hiểu gia một hạn (văn bản Lý Sơn) ghi ngày 15 tháng 4 năm nữa, đến 3 hạn mà không thể am hiểu, thì Minh Mệnh thứ 15 (1834)). Hai năm sau, phạt tội xuy, nếu học đã biết cách, chuẩn cho việc khảo sát quần đảo Hoàng Sa được hằng ngày đến vọng lâu kỳ đài Trấn Hải để Minh Mệnh ra lệnh hết sức cụ thể và với dòm trông, phàm có thuyền công đi ở mặt quy mô lớn hơn. Hơn nữa vua Minh Mệnh biển, hoặc thuyền quân, thuyền buôn của còn cho cắm mốc khẳng định chủ quyền nước ngoài lảng vảng trên mặt biển, tức thì quốc gia: “Tháng giêng mùa xuân năm xét rõ, báo bộ tâu lên, nếu có lầm lẫn để lỡ Bính Thân niên hiệu thứ 17 (1836). Bộ việc, phải trị tội nặng. Lại phái thị vệ hiểu rõ Công tâu: cương giới mặt biển của ta có xứ phép trông, đem cấp cho các tỉnh: Quảng Hoàng Sa rất hiểm yếu. Trước đây, hằng Trị, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Phú Yên, năm thường phái người đi thăm dò khắp nơi Khánh Hòa, mỗi tỉnh một ống, rồi ở lại đấy để thông thuộc đường biển. Xin cho phép từ vài ngày để chỉ bảo cách nom dòm và mở năm nay về sau mỗi khi đến hạ tuần tháng đóng lau chùi” [5, q.5, tr.129]. giêng, tuyển chọn phái biền binh thủy quân Hệ thống phòng thủ biển ở Miền Trung, và Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, đến ngoài hai hệ thống công sự quan trọng hàng thượng tuần tháng 2 thì tới hai tỉnh Quảng đầu của đất nước là Đà Nẵng và Thuận An, Ngãi và Bình Định, theo bốn thuyền thuê còn có các tấn sở ở Tả Trực (Quảng Nam, của dân dẫn đường chở đúng xứ Hoàng Sa, Quảng Ngãi), Hữu Trực (Quảng Trị, Quảng không kể đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, Bình), Tả Kỳ (Bình Định, Phú Yên), Hữu phàm khi đến nơi thì xem xét ngay xứ đó Kỳ (Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa) Tất chiều dài, chiều rộng, chiều cao thế nào chu cả những hệ thống công sự này đều được vi và mực nước biển chung quanh, nông sâu Minh Mệnh thường xuyên đôn đốc và tăng có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế cường hệ thống phòng bị. hiểm trở khó dễ thế nào, phải đo đạc tường 2.4. Thường xuyên đi thăm dò, đo đạc, tận, vẽ thành bản đồ. Lại ghi rõ ngày khởi khảo sát những đảo, quần đảo ở khu vực hành, xuất phát từ cửa biển nào, đi thế nào biển Miền Trung để đến xứ đó, căn cứ vào đường đi ước tính Vào thời Gia Long đã có việc thăm dò bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ, các đảo và quần đảo ở khu vực Miền Trung, chiếu thẳng vào tỉnh hạt nào, đối chếch là đặc biệt là Hoàng Sa. Nhưng đến thời Minh tỉnh hạt nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu 60
- Trần Thị Thanh Huyền dặm, nhất nhất ghi lại, thuyết minh rõ ràng, Sa và đi hiệu lực xây dựng thành Gia Định đem về dâng trình. Nhà vua chuẩn y lời tâu, để chuộc tội, nay được sai phái đi khảo sát sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đem Hoàng Sa. Tuy đã đến khảo sát 11 nơi bãi binh thuyền đi, lại cho mang theo 10 cọc gỗ cát và các đảo, việc đo vẽ bản đồ chưa thật đến đâu thì cắm vào làm mốc. Mỗi cọc gỗ chu đáo nên nhiều lần bị đầy đi làm việc dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc. Trên mặt khổ sai và cũng biết hối cải, vì vậy gia ân mỗi cọc gỗ khắc dòng chữ năm Bính Thân tha cho viên Trương Viết Soái, cho về làm niên hiệu Minh Mệnh thứ 17 (1836), chánh lính ở vệ Giám thành, đợi sau tùy việc sai đội trưởng Suất đội thủy quân Phạm Hữu phái để cho viên đó chuộc lỗi cũ. Hãy tuân Nhật vâng mệnh đến Hoàng Sa đo đạc và lệnh” [9, tr.22]. cắm mốc” [9, tr.144, 146, 148, 150]. 2.5. Thờ cúng thần biển Ngoài ra trong các tài liệu khác của triều Minh Mệnh rất coi trọng hoạt động thờ Nguyễn, đặc biệt là các châu bản ghi chép thần biển, việc cầu mong thần biển phù hộ rất rõ những chuyến đi khảo sát, thăm dò để được mưa thuận gió hòa, bình yên quần đảo Hoàng Sa. Vua Minh Mệnh trực trong hoạt động trên biển, cửa biển thông tiếp đốc thúc thưởng phạt những người chịu suốt và vững chắc về phòng chống biển trách nhiệm đi khảo sát quần đảo này. Châu được coi là công việc hành chính quan bản thứ 2, ngày 13 tháng 7 năm Minh mệnh trọng. Những thần biển thường được thờ thứ 18 (1837) ghi lại: “Thần Hà Duy Phiên, cúng chủ yếu là Nam Hải Long Vương và thần Lý Văn Phúc vâng mệnh truyền dụ: Thái Dương Phu Nhân. trước đây đã phái Thủy sư, giám thành cùng 3. Kết luận binh dân thuyền 2 tỉnh Bình Định, Quảng Thời kỳ Minh Mệnh là thời kỳ đỉnh cao Ngãi đến khảo sát Hoàng Sa nay đã trở về. của hoạt động biển và phát triển sự nghiệp Trừ viên Thủy sư suất đội Phạm Văn Biện biển của Việt Nam. Để xây dựng thủy quân do kinh đô phái đi về quá hạn, viên dẫn hùng mạnh, phát triển hàng hải bảo đảm đường do tỉnh phái đi là Vũ Văn Hùng, vận tải đường thủy ven biển, vua Minh Phạm Văn Sênh, lái thuyền Lưu Đức Trực Mệnh dành sự quan tâm theo dõi đặc biệt tất cả gồm 4 người đã có chỉ trách phạt, cho việc đóng tàu các loại và nâng cao kỹ đánh đòn, còn dân binh cùng đoàn lênh thuật hàng hải. Trong thời kỳ Minh Mệnh, đênh trên biển khơi cũng rất vất vả, nên việc triều đình đóng nhiều tàu biển, đẩy xem xét ban ân binh đinh mỗi viên thưởng mạnh học tập và huấn luyện về kỹ thuật cho 1 tháng lương tiền, dân phu mỗi viên hàng hải đều gắn chặt với những nhận thức thưởng tiền 2 quan, trong đó các viên phu và yêu cầu của Minh Mệnh. Vì thế, mặc dù thuyền do tỉnh sai phái đi cho về quê làm trong thời gian ông trị vì có rất nhiều hoạt ăn, riêng viên Biền chức Giám thành phạm động quấy phá nhưng đất nước vẫn giữ lỗi là Trương Viết Soái trước là Đốc biện nguyên được chủ quyền và yên ổn về mọi trong coi việc luyện thuốc súng đã có sơ mặt. suất mắc lỗi bị xử phạt trảm giam hậu Đối với việc khai thác và thực thi chủ (chém đầu nhưng giam đến mùa thu mới quyền tại quần đảo Hoàng Sa, Minh Mệnh xét xử), năm ngoái được sai phái đi Hoàng đã cho cắm mốc, dựng bia chủ quyền, lập 61
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 miếu thờ và trồng cây tại quần đảo Hoàng mẽ. Với những nỗ lực của mình, Minh Sa. Đây là bằng chứng pháp lý của một Mệnh đã xây dựng được một hệ thống nước đã thực thi chủ quyền trên vùng lãnh phòng thủ biển tương đối tốt và đạt được thổ của mình, là một chủ trương đúng đắn bước tiến mới trong việc khẳng định chủ của triều đình Huế được thực hiện bắt đầu quyền lãnh thổ quốc gia ở quần đảo Hoàng vào năm 1833. Hơn nữa, vua Minh Mệnh Sa. Kết quả đó là sự kết hợp của việc phát đã có bản vẽ tường tận hơn về quần đảo huy thế mạnh dân tộc và việc học tập những Hoàng Sa: “Ngày 1 tháng 7 mùa thu năm tiến bộ từ bên ngoài - đó là điều mà chúng Mậu Tuất niên hiệu Minh Mệnh thứ 19 ta phải học tập. (1838), viên ngoại lang Bộ Công là Đỗ Mậu Thưởng vâng mệnh đi thực hiện công Tài liệu tham khảo vụ ở Hoàng Sa trở về đem bản đồ dâng [1] Phan Thuận An (2009), “Tờ Châu bản thời trình. Nhà vua thấy viên này đi thăm dò Bảo Đại khẳng định Hoàng Sa thuộc chủ nhiều nơi, đo vẽ tường tận, so với phái viên quyền Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch các lần trước thì hơn hẳn. Đỗ Mậu Thường sử, số 9. và những người cùng đi làm việc được [2] Đỗ Bang (2011), Hệ thống phòng thủ miền thưởng thêm quần áo và tiền [5, q.6, tr.355]. Trung dưới triều Nguyễn, Nxb Văn hóa Ý thức về biển của vua Minh Mệnh là sự Thông tin, Hà Nội. phát triển trên cơ sở kế thức ý thức coi [3] Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm Định trọng biển của vua Gia Long, và cũng chịu Đại Nam hội điển sử lệ (bản dịch), t.10, ảnh hưởng của truyền thống coi trọng biển Nxb Thuận Hóa, Huế. và tích cực triển khai hoạt động biển của [4] Quốc sử quán triều Nguyễn (Biên soạn) các chúa Nguyễn vùng Quảng Nam. Biển (1972), Minh Mệnh Chính yếu, q.14, Sài Gòn. đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành [5] Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Đại và phát triển của thế lực cát cứ các chúa Nam thực lục q.2, 3, 4, 5, 6 (bản dịch của Nguyễn. Các chúa Nguyễn rất chú ý triển Viện Sử học), Nxb Giáo dục, Hà Nội. khai hoạt động biển và phát triển sự nghiệp [6] Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mệnh biển. Vua Gia Long nhờ vào biển để phát chính yếu t.1, 2, 3, Nxb Thuận Hóa, Huế. triển thế lực của mình. Thông qua việc bảo [7] Trần Đức Anh Sơn (2014), Hoàng Sa, vệ biển đảo trên toàn cõi nói chung và ở Trường Sa: tư liệu và quan điểm của học Miền Trung nói riêng, chúng ta thấy được giả quốc tế, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. tầm nhìn của vị vua này. [8] Phan Thúc Trực (1965), Quốc sử di biên, Với vai trò vô cùng quan trọng cho việc Đại học Hồng Kông Trung Văn, Sở trấn giữ quốc gia, vào thời Nguyễn hệ thống Nghiên cứu Tân Á. biển Miền Trung được tăng cường bảo vệ [9] Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2014), Một số một cách nghiêm ngặt. Đặc biệt, dưới thời tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam kỳ trị vì của Minh Mệnh, hệ thống phòng đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thủ biển cũng như các hoạt động thăm dò, và các vùng biển của Việt Nam ở Biển hệ thống đảo ở đây được phát triển mạnh Đông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 62
- Trần Thị Thanh Huyền 63



