Bài giảng Bệnh truyền nhiễm - Phan Văn Chinh

pdf 75 trang hapham 1890
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Bệnh truyền nhiễm - Phan Văn Chinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_benh_truyen_nhiem_phan_van_chinh.pdf

Nội dung text: Bài giảng Bệnh truyền nhiễm - Phan Văn Chinh

  1. 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM KHOA CHĂN NUÔI THÚ Y TS. PHAN VĂN CHINH BÀI GIẢNG MÔN HỌC BỆNH TRUYỀNNHIỄM (Dành cho sinh viên ngành chăn nuôi Thú y) Qũy thời gian 4 học trình Huế, 2006 BĂI MỞ ĐẦU 1. Vị trí và nhiệm vụ môn học 1.1 Vị trí môn học Đây là môn học chính của ngành Thú y. Trong thực tiễn dù ít hay nhiều, dù một lần hay nhiều lần, tất cả chúng ta ngồi đây, cũng đã từng được chứng kiến hoặc đã nghe, biết về một bệnh truyền nhiễm nào đó đối với gia súc hoặc gia cầm, người. Nếu ai đã từng được chứng kiến theo dõi một ổ dịch khi xáøy ra, thì chắc chắn rằng sẽ hiểu được sâu sắc tác hại của dịch bệnh. Cho nên trong quá trình phấn đấu đưa chăn nuôi nước ta trở thành ngành chính. Chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, khó khăn của chúng ta không những về mặt kỹ thuật, chăn nuôi phát triển theo lối công nghiệp xí nghiệp. Những kinh nghiệm đó đối với nước ta đã có phần tích lũy bước đầu.
  2. 2 Thức ăn là một vấn đề phải giải quyết lớn trong chăn nuôi. Nhưng đến nay hầu như chúng ta đã giải quyết tốt, các cơ sở sản xuất các håüp tác xã cũng đã tự túc được thức ăn tinh, xanh trên đất 5% giành cho chăn nuôi. Nhà nước cũng đã có những nhà máy chế biến thức ăn hỗn hợp. Do vậy cái lo ngại nhất trong chăn nuôi là tình hình dịch bệnh xáøy ra. Vô luận sau này chúng ta ra công tác ở nông trường, hợp tác xã, trên địa bàn cấp huyện hay giáo viên ở một trường cao đẳng hoặc đại học, dù ở đâu chúng ta cũng có thể gặp và đều phải giải quyết, mặc dù đồng chí là kỹ sư chăn nuôi. Do vậy mà muốn phòng trừ dịch bệnh không xáøy ra trong một trại chăn nuôi. Chúng ta phải nắm được những kiến thức của môn học này. Tại sao? Chúng ta lại cho là môn học chính không phải là ý muốn thế nào được thế nấy, mà đây là vị trí của nó đóng một vai trò lớn trong sản xuất, vãö lý luận nó là môn tổng hợp có liên quan đến nhiều môn học khác. Làm thế nào để dịch bệnh không thể xáøy ra? Phương châm cơ bản của công tác phòng chống là; Phòng bệnh hơn chữa bệnh; hơn ở chỗ nào? Khi dịch bệnh xáøy ra bước đầu ta phải giải quyết hàng loạt vấn đề. Để thực hiện bao vây vùng dịch (vấn đề liên quan đến đời sống nhân dân). Ngoài ra đầu tư vật lực. Tiêm phòng. Kiểm soát sát sinh. Xử lý, điều trị. Gia súc chết hàng loạt phải khôi phục lại. Một số bệnh lây sang người như bệnh Nhiệt thán, Lao, Burcenllosis, Leptospirosis. Công tác đối ngoại, đối nội là không cho dịch bệnh lây lan, chúng ta cần thấy rằng, những tác hại lớn của dịch khi xáøy ra, để biết được sự quyết định của nó trong sự thành công, hay thất bại trong chăn nuôi, cũng từ đó mà xác định nhiệm vụ môn học: 1.2 NHIỆM VỤ MÔN HỌC Học là để phục vụ, không phải học để đối phó, muốn phục vụ được tốt phải nắm được quy luật dịch bệnh. 1.2.1.Nghiên cứu quy luật khách quan chung của bệnh truyền nhiễm, từ đó rút ra biện pháp chung phòng chống bệnh truyền nhiễm. 1.2.2 Nghiên cứu qui luật riêng của bệnh truyền nhiễm, mà rút ra biện pháp riêng phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Xuất phát từ hai nhiệm vụ trên mà chúng ta đi sâu vào hai phần chính của môn học: 1.2.2.1. Dịch tể học Nhằm giải quyết những cơ sở lý luận về dịch tế học, quy luật phát triển, lây lan, ngừng, tắt, giải quyết học thuyết về truyền nhiễm (Mét nhi cốp). Sau khi nghiên cứu quy luật phát triển của bệnh, đòi hỏi phải đề ra phương pháp giải quyết bệnh, có tính chất bao trùm nguyên tắc phòng ngừa và tiêu diệt bệnh truyền nhiễm. 1.2.2.2. Phân chuyên khoa Nhằm giải quyết từng bệnh cụ thể ở các loại gia súc. Mặc dù trong trường hợp nào phần lý luận (dịch tể học). Và phần chuyên khoa, thực tiễn của môn học không thể tách rời nhau mà nó bổ sung, hỗ trợ cho nhau để nó phát triển không ngừng. Nó là một thể hoàn chỉnh thống nhất trong toàn bộ môn học. 1.3. Liên quan tới các môn học khác Là một môn chuyên khoa nên nó liên quan rất lớn tới các môn học khác, cụ thể là: 1.3.1. Vi sinh vật (vi trùng) Môn vi sinh vật nghiên cứu chủ yếu về nguyên nhân gây bệnh, mối liên quan giữa mầm bệnh và cơ thể. Nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh về các mặt hình thái, nuôi cây, nhuộm màu, sức đề kháng, phân lập và những đặc tính khác. Còn bệnh truyền nhiễm dựa trên những cơ sở, tài liệu thu được của môn vi sinh vật mà phát triển, cho nên muốn học tốt môn bệnh truyền nhiễm, phải học tốt môn vi sinh vật. Nói như vậy không phải là môn bệnh truyền nhiễm là một bộ phận của vi sinh vật, mà thực tiễn về lịch sử môn bệnh truyền nhiễm có từ lâu, sớm hơn môn vi sinh vật rất nhiều. Cho đến bây giờ, giải quyết về mặt lây lan và quy luật phát triển của nó, một số bệnh cũng còn chưa rõ nguyên nhân. Nhưng bệnh truyền nhiễm đã giải quyết được về mặt lây lan và quy luật phát triển của nó. Phương pháp nghiên cứu của môn vi sinh vật, cũng khác môn bệnh truyền nhiễm và dịch tể học. Nội dung công tác và những tài liệu thu được cũng phong phú hơn nhiều, nó có tính chất toàn diện. 1.3.2 Môn chẩn đoán lâm sàng và điều trị học Hai môn này cũng giúp cho việc tìm hiểu, tổng hợp, phân tích, các tình trạng rất phức tạp, có ý nghĩa rất lớn về mặt chẩn đoán.
  3. 3 Ví dụ: Suyễn lợn có triệu chứng đặc thù là ho, thở, căn cứ vào đó mà định bệnh chính xác. Mỗi bệnh truyền nhiễm ngoài những đặc tính chung (sốt, bỏ ăn, ) còn biểu hiện những triệu chứng riêng. Dịch tả lợn, điểm xuất huyết ở ngoài da, ở những nơi ít lông. Đóng dấu lợn da có những đám xuất huyết đỏ, có hình thù rõ ràng, mắt âoí, Phó thương hàn ỉa chảy, phân vàng. Căn cứ vào đặc thù đó giúp ta định bệnh rõ ràng. 1.3.3. Môn sinh lý bệnh và giải phẫu bệnh Hai môn này nghiên cứu quá trình phát sinh bệnh lý, những biến đổi bên trong của tổ chức. Ví dụ thể Negri ở bệnh chó Dại, nốt loét ở ruột bệnh Dịch tả lợn, hạt lao trong bệnh Lao, van tim sần sùi ở bệnh Đóng dấu lợn mãn tính. Nắm được kiến thức của hai môn học này giúp ta làm sáng tỏ, giải thích cơ chế phát sinh một cách tường tận. Sự biến đổi tổ chức giúp cho ta rất lớn trong xác định bệnh. 1.3.4. Môn vệ sinh gia súc Giải quyết nhân tố truyền lây, tăng sức đề kháng không đặc hiệu cho cơ thể con vật. 1.3.5. Môn thống kê Môn thống kê, giúp ta tính toán những số liệu để nhận định tác hại và diễn biến của bệnh. 1.4. Yêu cầu của môn học này Phải ôn lại kiến thức môn vi sinh vật và các môn liên quan; về lý luận nắm được quy luật căn bản về dịch bệnh một cách hệ thống, chắc chắn cụ thể là quy luật phát triển của bệnh truyền nhiễm và lý luận về phòng trừ bệnh truyền nhiễm. Nắm được tình hình dịch bệnh, biết điều tra tính nguy hiểm và quy luật dịch tể học. Biết chẩn đoán và phân biệt cách phòng trừ thích hợp cho từng ca bệnh. Về thực tiễn; có khả năng độc lập điều tra dịch bệnh, biết tổng hợp phân tích nhận định về bệnh, xây dựng quy trình Thú y cho một trại chăn nuôi, có khả năng chẩn đoán và sơ bộ kết luận bệnh. Biết cách giải quyết khi bệnh xáøy ra, xử lý thích đáng khi bệnh lây lan, cho nhiều loại gia súc và người. 1.5. Phương pháp học So sánh, đối chiếu với mô hình, liên hệ với thực tiễn, giải quyết trong thực tiễn, phát huy nỗ lực bản thân, đào sâu suy nghĩ, phương pháp kiểm tra qua tiêu bản. Chæång 2 NHIỄM TRÙNG 2.1 Khái niệm về nhiễm trùng Nhiễm trùng là một hiện tượng vi sinh vật phức tạp, xáøy ra khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể gia súc, trong những điều kiện nhất định của ngoại cảnh. Sau khi xâm nhập vào cơ thể gia súc, mầm bệnh có tác động nhiều mặt vào cơ thể. Để phản ứng lại, cơ thể đã chiến đấu với mầm bệnh trong quá trình bệnh tiến triển. Kết quả của nhiễm trùng có thể gây thành bệnh, có những biểu hiện đặc trưng cho bệnh. Trong thời kỳ mà khoa học phát hiện được nhiều loại mầm bệnh, đặc biệt là thời kỳ Pasteur. Khi nói đến nhiễm trùng người ta chỉ chú trọng đến vai trò của mầm bệnh. Costeur coi cơ thể gia súc như một môi trường dinh dưỡng, mà mầm bệnh có thể tự do sinh sôi nảy nở. Cock, nhà bác học Đức nổi tiếng, người đặt nền móng cho học thuyết về vai trò chủ đạo của vi khuẩn, trong các bệnh truyền nhiễm cho rằng, vấn đề đầu tiên của quá trình bệnh truyền nhiễm là vi khuẩn độc gây ra, những bệnh nhất định, trong mọi điều kiện của ngoại cảnh và coï thể súc vật. Dựa vào học thuyết trên, nhiều nhà bác học ở thời kỳ trước, khi xác định bệnh truyền nhiễm chỉ coi trọng vai trò vi khuẩn, mà không đánh giá đúng vai trò của cơ thể và ngoại cảnh, có ảnh hưởng đến cơ thể và vi khuẩn. Vì vậy họ đã ra những biện pháp phiến diện để phòng chống bệnh truyền nhiễm, nhưng chỉ chú ý đến biện pháp tiêm phòng và tiêm phòng trong ổ dịch, để tạo miễn dịch cho gia súc. Nhận thức trên do đã tách hẳn vai trò của cơ thể đối với mầm bệnh, cho nên không giải thích được hiện tượng trong thực tế là: Trong một ổ dịch có con mắc bệnh, con không mắc bệnh, con mắc bệnh nặng, con mắc bệnh nhẹ, con lành bệnh, con chết. Nhận thức trên cũng không dựa vào đặc tính cơ bản của sinh vật, là tính phản ứng đối với mọi kích thích. Nhận thức đó dẫn đến những biện pháp phiến diện trong việc phòng chống dịch bệnh. Vai trò to lớn là sức đề kháng của cơ thể. Nhiều nhà bác học đã chứng minh, vai trò chủ động của cơ thể trong quá trình nhiễm trùng và đã tìm ra mọi biện pháp, để tăng sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật. Tạo điều kiện thuận lợi cho cơ thể và bất lợi đối với mầm bệnh, là biện pháp ngăn chặn nhiễm trùng hoặc giảm nhẹ sự tiến triển của quá trình nhiễm trùng đó. MétnhiCốp, lần đầu tiên đã đưa ra một khái niệm đúng đắn về nhiễm trùng. (Nhiễm trùng là cuộc đấu tranh giữa hai sinh thể hữu cơ). Nhiễm trùng là trạng thái đặc biệt của cơ thể, là kết quả xáøy ra khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể, gặp những điều kiện thuáûn lợi để phát triển, sinh säi náøy nåí và phát huy tác hại của nó. Đồng thời kích thích
  4. 4 cơ thể, làm cơ thể thông qua hệ thống thần kinh trung ương điều tiết, huy động mọi khả năng bảo vệ của cơ thể, để chống đỡ và điều tiết mầm bệnh. Hiện tượng đấu tranh giữa cơ thể và mầm bệnh xáøy ra trong điều kiện nhất định của ngoại cảnh, nên nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố ngoại cảnh. Sự thống nhất của các mâu thuẫn đó, sự ảnh hưởng qua lại của các nhân tố, dẫn đến kết quả là hiện tượng nhiễm trùng. Sau Métnhicốp, Paplop cuîng xem sự nhiễm trùng là một hiện tượng sinh vật học phức tạp, bắt đầu bằng cuộc đấu tranh giữa cơ thể bị xâm nhiễm và mầm bệnh. Paplop cho rằng (nếu bị một kích thích cơ giới vượt quá cường độ bình thường, thì dù nóng lạnh, hoặc sự xâm nhập của vi sinh vật gây bệnh, thì tự nhiên về bề mặt cơ thể bắt đầu một cuộc đấu tranh hết sức mãnh liệt, giữa tác nhân kích thích cơ thể) 2.2. Điều kiện gây nhiễm trùng Muốn gây ra hiện tượng nhiễm trùng, mầm bệnh cần có những điều kiện sau: 2.2.1. Tính gây bệnh Tính gây bệnh phụ thuộc về bản chất của quá trình tự nhiên thu được. Độc lực phụ thuộc vào tyïpe, cơ thể động vật, ngoại cảnh, ứng dụng để chế Vaccine. Cũng không nên lẫn lộn giữa tính gây bệnh và độc lực. Độc lực không phải là đặc trưng chung và sẵn có của vi sinh vật, mà nó chỉ là tính chất riêng của từng tyïpe, và có thể thay đổi, về nội dung tính chất đó. Đồng thời căn cứ vào độc lực khác nhau để chế Vaccine, ví dụ: Newcastle hệ 1,2, lợn Đóng dấu VR, VR2. Vì vậy độc lực cũng nói lên mức độ cụ thể và khả năng gây bệnh. Một vi trùng nếu có tính gây bệnh, nhưng độc lực yếu thì cũng không gây bệnh được. Cho nên độc lực không những phụ thuộc vào bản chất của mầm bệnh, mà còn phụ thuộc vào cơ thể và nhiều nhân tố khác, ví dụ: có thể có miễn dịch cao khi vi trùng có độc lực mạnh xâm nhập cũng không gây được bệnh. 2.2.2. Số lượng Số lượng ít bệnh Dịch tả lợn, Tụ huyết trùng; số lượng nhiều: bệnh Loét da quăn tai. 2.2.3. Đường xâm nhiễm Đường xâm nhiễm phụ thuộc vào loại vi trùng. Bệnh Suyễn lợn đường xâm nhập chủ yếu là đường hô hấp. Nhiệt thán nhiều đường xâm nhập chủ yếu là da, hô hấp, tiêu hóa. Nếu bắt mầm bệnh đi con đường khác hoàn toàn mới lạ đối với nó thì ngược lại có thể gây nên miễn dịch. Phản ứng cơ thể - dị ứng quá mẫn. Ảnh hưởng của môi trường tự nhiên xã hội. Vị trí xâm nhiễm khác nhau cũng biểu hiện mức độ bệnh khác nhau, ví dụ: bệnh Dại. 2.2.4. Khả năng xâm nhiễm Biểu hiện các mặt sau: - Sức chống chọi với ngoại cảnh tốt. - Tốc độ sinh sản trong cơ thể nhanh. - Số lượng xâm nhập vào cơ thể. -có một hay nhiều đường xâm nhập. - Ý nghĩa xác định phạm vi, vị trí tiêu độc. 2.3. Đặc tính bệnh truyền nhiễm 2.3.1. Khái niệm về bệnh truyền nhiễm Vi sinh vật gây bệnh sau khi xâm nhập vào cơ thể, không nhất thiết biểu hiện hình thức bệnh truyền nhiễm. Nhưng ngược lại khi đã nói tới bệnh truyền nhiễm thì tất yếu phải có hiện tượng nhiễm trùng. Do vậy bệnh truyền nhiễm có bốn đặc tính chính. 1. Tất cả những bệnh do vi sinh vật gây nên. 2. Có thời kỳ nung bệnh, có triệu chứng lâm sàng. 3. Có tính chất lây lan. 4. Đại đa số sau khi khỏi bệnh có tính chất miễn dịch. Bốn đặc điểm trên có liên quan mật thiết với nhau, đặc biệt nhấn mạnh hai đặc điểm 1 và 3.
  5. 5 2.3.2. Đặc điểm của bệnh truyền nhiễm Bệnh truyền nhiễm tuy biểu hiệ muôn hình muôn vẻ khác nhau. Nhưng có cùng chung một đặc điểm, căn cứ vào đặc điểm đó, cho phép chúng ta phân biệt được với các bệnh truyền nhiễm khác. 2.3.2.1. Đặc điểm cơ bản có 4 đặc điểm 1, Mầm bệnh: Vi trùng, Virus, Xoắn trùng. 2, Rickettsia, trung gian giữa Vi khuẩn và Virus. Mycoplasma (PPLO) vi trùng nhóm gây bệnh phổi gia súc. 3, Nấm. 4, Nguyên trùng; Lê dạng trùng; Tiên mao trùng; Biên trùng. 2.3.2.2 Đặc điểm diễn biến của một ổ dịch Trong thời gian xảy ra dịch, nếu không có sự can thiệp của con người gia súc chết nhiều, nên có sự can thiệp để giảm tỷ lệ chết. 2.3.2.3 Đại đa số bệnh truyền nhiễm đều có tính miễn dëch Khả năng miễn nhiễm có thể kéo dài một năm hoặc suốt đời. 2.3.2.4. Đặc điểm bệnh trong ổ dịch Các đặc điểm triệu chứng bệnh của động vật đều giống nhau. Qua những đặc điểm trên chúng ta cần nhận thức rằng. Không phải bất cứ lúc nào, bệnh nào cũng có những đặc điểm đó. * Cần nắm vững 4 đặc điểm trên để làm tốt công tác phòng, chống các bệnh truyền nhiễm. Chủ yếu dựa vào điều tra, phạm vi điều tra rộng hẹp, thời điểm điều tra. Điều tra sớm hay muộn là do người điều tra quyết định. Phương pháp điều tra, là phương pháp đúng đắn nhất, vì có những bệnh có khả năng làm ở phòng thí nghiệm. Nhưng không có phương pháp điều tra quan sát thì chưa chắc đã đúng, ví dụ như Dịch tả lợn ở Cao Bằng chẳng hạn. 2.3.3. Bệnh tiến triển theo bốn thời kỳ 1. Thời kỳ nung bệnh. 2. Tời kỳ tiền phát. 3. Thời kỳ toan phát. 4. Thời kỳ cuối bệnh. Chú ý khi mua con vật về phải cách ly, nếu không khó chẩn đoán. (Thải trùng – cách ly - chẩn đoán tốt). Con mang trùng cần cách ly một thời gian để giải phóng dịch. Con bệnh ở 4 thời kỳ trên đều là nguồn bệnh do vậy cần phải cách ly triệt để. * Tiêu chuẩn lành bệnh để nhập đàn là: khỏi triệu chứng, hết bệnh tích, không mang trùng, hết thời gian cách ly cần thiết, không tái phát bệnh. Chæång 3 QUÁ TRÌNH SINH DỊCH 3.1. Nguồn bệnh 3.1.1 Khái niệm Muốn biết thế nào là nguồn bệnh ta đi sâu nghiên cứu hai quan điểm sau: Gramasipxki cho rằng: nguồn bệnh là nới cư trú và sinh sản thuận lợi mà từ đó trong những điều kiện nhất định, sẽ xâm nhập vào cơ thể bằng cách này, hay cách khác để gây bệnh. Nguồn bệnh phải là nơi tạo điều kiện cho mầm bệnh tồn tại mãi mãi, tồn tại khá lâu, nhưng không có điều kiện thuận lợi để nó tồn tại lâu dài. Nước, đất không thể coi là nguồn bệnh, mà chỉ là môi trường chứa mầm bệnh tạm thời. Nhiều loài mầm bệnh tồn tại trong nước, đất lâu (Nhiệt thán sống ở trong đất rất lâu với hình thức nha bào). Nhưng nguồn bệnh chính vẫn là súc vật mắc bệnh, vì có chúng thì đất, nước mới có nguồn bệnh và nguồn bệnh mới tồn tại mãi mãi trong thiên nhiên. Có nhận thức đúng đắn về nguồn bệnh mới tác động đúng vào khâu chủ yếu, vào quá trình sinh dịch để dập tắt nhanh chóng. Theo quan điểm trên đây, thì nguồn bệnh phải là con vật đang mắc bệnh, hoặc đang mang
  6. 6 mầm bệnh. Cơ thể bị bệnh là điều kiện duy nhất cho mầm bệnh sinh sống và phát triển, vì ở đây có nhiều điều kiện thuận lợi. 3.1.2. Phân loại nguồn bệnh (nguồn dịch) Có thể phân chia nguồn dịch thành hai loại: 3.1.2.1 Con vật đang mắc bệnh Gia súc, gia cầm, dã thú mắc bệnh ở các thể khác nhau. Người mắc bệnh cũng là nguồn bệnh. Gia súc gia cầm là nguồn bệnh nguy hiểm, vì trong khi mắc bệnh cơ thể chứa một lượng mầm bệnh và độc tố cao nhất có thể bài ra ngoài bằng nhiều đường. Một số triệu chứng như đi tháo, ho rất thuận lợi cho gieo rắc nguồn bệnh ra ngoài môi trường, trong nhiều bệnh con ốm ở thời kỳ nung bệnh là nguy hiểm nhất. Lỡ mồm long móng, Dịch tả lợn, Viêm phổi truyền nhiễm, Dại. Con ốm mang mầm bệnh và bài xuất ra ngoài một thời gian trước khi xuất hiện triệu chứng lâm sàng. Thế nhưng dã thú, gậm nhấm là nguồn bệnh rất nguy hiểm đối với gia súc. Về dịch tể học, những con mắc bệnh nhẹ nguy hiểm hơn con mắc bệnh nặng, vì chúng thường khó được phát hiện dễ bị bỏ qua, coi thường vì vậy nó có khả năng tiếp xúc với con khỏe nên bệnh dễ lây hơn. 3.1.2.2 Con vật mang trùng Gia súc, gia cầm, dã thú và ngay cả người đang mang trùng. Hiện tượng mang trùng bao gồm: Gia súc, gia cầm, dã thú, con người sau khi mắc bệnh khỏi có miễn dịch, hoặc không có miễn dịch, nhưng có mang trùng (Lepto) gọi là con lành bệnh mang trùng, cũng có thể con vật đang lành bệnh nhưng mang trùng và bài xuất ra ngoài trong một thời gian (Dịch tả lợn). Hoặc có thể chưa mắc bệnh nhưng mang mầm bệnh trong cơ thể, trường hợp này gọi là con khỏe mang trùng (Đóng dấu lợn, Tụ huyết trùng, Phó thương hàn), côn trùng được coi là nguồn bệnh, khi chúng có khả năng truyền bệnh từ đời này qua đời khác. Hiện tượng mang trùng rất nguy hiểm về mặt dịch tể học, động vật mang trùng (Âoïng dấu lợn, Tụ huyết trùng, Phó thương hàn), côn trùng được coi là nguồn bệnh, khi chúng có khả năng truyền bệnh từ đời này qua đời khác. Hiện tượng mang trùng rất nguy hiểm về mặt dịch tể học, động vật mang trùng thường làm lây lan bệnh lớn hơn cả bản thân con vật, trong một số bệnh truyền nhiễm. Động vật mang trùng có khả năng quyết định trong việc làm mầm bệnh phát sinh. 3.2. Nhân tố truyền lây 3.2.1 Các nhân tố trung gian truyền lây Chúng ta đã biết rằng bệnh truyền nhiễm có thể lây trực tiếp từ con ốm sang con khỏe, như khi cọ xát, khi giao phối, khi bú, khi bị cắn, nhưng cũng có những bệnh lây gián tiếp, không qua nhân tố trung gian truyền bệnh như: không khí, thức ăn, nước uống, đất Nhân tố trung gian. Là khâu thứ hai của quá trình sinh dịch, nó đóng vai trò chuyển mầm bệnh từ nguồn bệnh tới gia súc cảm thụ. Muốn lan truyền từ cơ thể ốm sang cơ thể khỏe, mầm bệnh thường phải sống một thời gian. Thời gian đó dài hay ngắn phụ thuộc vào mầm bệnh, loại nhân tố trung gian truyền lây. Điều kiện khí hậu, thời tiết, nói chung mầm bệnh sẽ không sinh sản ở đó và sau một thời gian nhất định sẽ bị tiêu diệt. Các nhân tố trung gian truyền bệnh. Cơ học, bao gồm thức ăn nước uống, vì nó là nhân tố phổ biến nhất và đại đa số các bệnh truyền nhiễm đều lây bằng đường tiêu hóa, thông qua thức ăn, nước uống. Thức ăn, nước uống bị ô nhiễm là do chất bài tiết của con vật có bệnh thải ra (phân, nước tiểu, đờm ). Do đất bị ô nhiễm, do dụng cụ chế biến thức ăn, do gia súc gia cầm khác mang tới. Nước uống; nước tắm rửa rất cần thiết cho đời sống hàng ngày của gia súc. Nhưng nước bị ô nhiễm là nguyên nhân phát sinh ồ ạt các bệnh truyền nhiễm, ví dụ: Dịch tả trâu, bò, Dịch tả lợn, Lở mồm long móng. Tóm lại: mức độ ô nhiễm của nước phụ thuộc vào thành phần và điều kiện vệ sinh của đất ở nơi đó. Nước tự làm sạch do tác dụng ánh sáng mặt trời, do sự chuyển động và các chất hữu cơ được pha loãng. Do đó Vi khuẩn trong nước bị tiêu diệt. Ngoài ra nước còn có loại nguyên sinh động vật thực bào làm cho nước sạch. 3.2.2. Đất Đất đóng vai trò quan trọng trong việc làm lây lan bệnh, có những vùng đất thường xuyên chứa mầm bệnh. Đất bị ô nhiễm là do chất bài tiết của con bệnh, chất thải của cống rãnh, chất thải của các nhà máy chế biến thú sản, lò sát sinh, vật chết chôn trên đất, từ đất mầm bệnh qua vết thương hoặc qua thức ăn nước uống ngay trong đất. Nha bào nhiều loại vi khuẩn như Nhiệt thán, Ung khí thán, Uốn ván tồn tại khá lâu trong đất. Có thể coi đất là môi trường sống tự nhiên của các loài đó và thường gây ra bệnh thổ nhưỡng. 3.2.3 Không khí
  7. 7 Mầm bệnh có thể tồn tại trong không khí, mầm bệnh dính vào bụi khi quét dọn chuồng trại, cọ chải cho gia súc hay dính vào bọt nước hoặc khi gia súc kêu ho, hắt hơi. Giọt nước thường chứa nhiều mầm bệnh nhưng không tồn tại được lâu và không đi được xa, nhưng nó vào khí quản thì nó tồn tại trong phế quản. Phương thức truyền bệnh qua bụi dài hơn, nguy hiểm hơn trong các loài mầm bệnh sống lâu trong ngoại cảnh, trực khuẩn Lao. Nó là nhân tố duy nhất truyền bệnh bằng đường hô hấp. 3.2.4 Côn trùng Côn trùng bao gồm nhiều loại cụ thể là ruồi, muỗi, rận, ve, là hãút sức nguy hiểm trong việc truyền bệnh, khác với những nhân tố trên, chúng là những nhân tố truyền bệnh sống, nên chúng chủ động mang mầm bệnh đi khắp nơi. Chúng truyền bằng hai phương thức: cơ học và sinh học. 3.2.5 Cơ học Những sinh vật trên chỉ vận chuyển mầm bệnh một cách máy móc từ chỗ này sang chỗ khác, ruồi mang mầm bệnh chân voi. 3.2.6 Sinh học Mầm tồn tại sinh sản trong sinh vật nung bệnh, khi đã mang mầm bệnh đó từ cơ thể truyền bệnh suốt cả đời nó: chấy, rận chứa mầm bệnh sốt phát ban. Cũng có loài phải trải qua nhiều giai đoạn trong cơ thể sinh vật mang bệnh rồi mới truyền bệnh (muỗi Anophen). Lớp nhện và lớp tiết túc bao gồm rất nhiều loài, trong đó ruồi nhà có thể mang vi khuẩn Nhiệt thán, Lao, Xoắn khuẩn, Dịch tả lợn, Lở mồm long móng và những mầm bệnh này, cũng có thể sống được ở trong cơ thể người 16 ngày. Ruồi trâu hút máu gia súc truyền bệnh Nhiệt thán, Tiên mao trùng, Lepto. Muỗi truyền sốt rét cho người, bệnh bầm huyết cho ngựa. Muỗi, ruồi trâu, ruồi nhà chứa vi khuẩn Brucella và có thể truyền bệnh cho đời sau. 3.2.7 Các loại động vật khác Tất cả các loại động vật khác không cảm thụ, hoặc ít cảm thụ đều là những nhân tố trung gian truyền bệnh, gia cầm, chim, truyền bệnh Nhiệt thán, Âoïng dấu lợn, Dịch tả lợn. Các loại thú chó, cáo truyền bệnh Dại, Lở mồm long móng, Sẩy thai truyền nhiễm, loại gậm nhấm không những là nguồn dịch thiên nhiên, đồng thời nó cũng là nguồn bệnh. Trong các loại động vật chú ý loài chim, bởi vì chúng có đôi cánh nên bay xa và truyền lây xa. Người cũng mang nhiều loại bệnh, nhất là người trực tiếp với gia súc, công nhân, cán bộ Thú y. 3.2.8 Dụng cụ và đồ vật Tất cả các dụng cụ và đồ vật cho gia súc trong chăn nuôi đều có thể truyền bệnh. Sản phẩm gia súc. Sản phẩm gia súc có thể trở thành nguy hiểm cho người và gia súc. Thịt gia súc ốm là nguyên nhân gây bệnh, sữa, da, xương, lông, sừng, móng cũng là nguyên nhân gây bệnh. Tóm lại, nhân tố trung gian truyền bệnh có rất nhiều loại bệnh truyền từ con ốm sang con khỏe, bằng nhiều đường thông qua nhân tố trung gian; có khi phải qua một chuỗi nhân tố trung gian. Vậy nhân tố này hết sức quan trọng, chúng ta phải tìm cách phòng, chống và phá hủy nhân tố đó. 3.2.9 Động vật cảm thụ Động vật cảm thụ là khâu thứ ba không thể thiếu được của quá trình sinh dịch, có nguồn bệnh và có nhân tố trung gian truyền bệnh thuận lợi, nhưng cơ thể động vật không cảm thụ với bệnh (do miễn dịch), thì bệnh không thể phát sinh. Vậy sức cảm thụ của súc vật đối với bệnh sẽ là điều kiện bắt buộc, để dịch phát sinh và phát triển. Sức cảm thụ phụ thuộc vào sức đề kháng (miễn dịch đặc hiệu và không đặc hiệu) của chúng. Vì vậy làm tăng sức đề kháng không đặc hiệu, vệ sinh, nuôi dưỡng, chăm sóc, phòng bệnh và sức đề kháng đặc hiệu là tiêm phòng. Đó là những biện pháp chủ động, tích cực nhằm xóa bỏ khâu thứ ba của quá trình sinh dịch, làm cho dịch không phát sinh. 3.3 Cơ chế và phương thức truyền bệnh 3.3.1 Cơ chế truyền bệnh Có nguồn bệnh, nhưng không có những điều kiện thuận lợi, để mầm bệnh lây từ nguồn bệnh sang động vật cảm thụ, thì dịch chưa thể phát sinh. Mầm bệnh lan truyền từ cơ thể ốm sang cơ thể khỏe. Không những là điều kiện cần thiết của quá trình sinh dịch, mà còn cần thiết cho sự tồn tại của mầm bệnh trong thiên nhiên. Mầm bệnh lây từ cơ thể ốm sang cơ thể khỏe do những quy luật nhất định chi phối. Gramasepxki gọi đó là quy luật truyền bệnh, hay cơ chế truyền bệnh.
  8. 8 Cơ chế truyền bệnh của Gramasepxki gồm: * Nơi cư trú đầu tiên của mầm bệnh. Nơi cư trú đầu tiên ảnh hưởng đến việc bài xuất của mầm bệnh ra ngoài. Nếu nơi cư trú đầu tiên là phổi, thì mầm bệnh bài xuất ra ngoài bằng đường hô hấp: bệnh Lao. Nếu nơi cư trú là đường tiêu hóa thì bài tiết qua phân, nước tiểu, nước bọt: Virus Dại. Vậy tóm lại nơi cư trú đầu tiên có tính chất chuyển biến đối với từng loại mầm bệnh. * Nơi cư trú đầu tiên của mầm bệnh ảnh hưởng đến cách bài mầm bệnh ra ngoài cơ thể. Nếu đường bài xuất là đường tiêu hóa, thì nơi mầm bệnh tồn tại sẽ là thức ăn, nước uống. Bệnh ở phôi nơi bài xuất mũi gồm: đờm, dịch mũi. Bệnh ở ruột bài xuất ra ngoài , phân, nước tiểu. Nếu là ở máu do côn trùng hút. * Cách bài mầm bệnh ra ngoài cơ thể, quyết định sự tồn tại của mầm bệnh ở ngoại cảnh. Nếu đờm, nước dải, nước bọt mầm lưu lại ở không khí, nếu theo phân thì lưu lại ở đất, nước, vỏ cây. Nơi cư trú đầu tiên của mầm bệnh quyết định phương thức bệnh xâm nhập vào cơ thể con vật khỏe, bệnh Lao khi ho vào không khí thì mầm sẽ trở về phổi. 3.3.2 Phương thức truyền lây 3.3.2.1 Phương thức trực tiếp Mầm bệnh truyền từ con ốm sang con khỏe, không qua nhân tố trung gian như: cắn liếm, giao cấu, bú thấy rõ ở Lỡ mồm long móng. Nếu sức đề kháng yếu, thấy rõ tính chất lây lan dây chuyền của con vật. 3.3.2.2 Phương thức gián tiếp Thông qua nhân tố trung gian truyền lây, loại vật mang ký sinh trùng đường máu, mầm bệnh có sức đề kháng tương đối cao ở ngoại cảnh dịch càng kéo dài, ồ ạt, ác liệt, ầm ỉ, dịch có tính địa phương. Sức đề kháng yếu thời gian sống ngoại cảnh ngắn, dịch phát triển ồ ạt và lan rộng biểu hiện rõ ràng. Cơ chế truyền lây của Gramasepxki có bốn phương thức: + Truyền theo đường hô hấp: Nơi cư trú đầu tiên là phổi. Đường truyền lây là không khí – thông qua mũi miệng. + Truyền theo đường tiêu hóa: Nơi cư trú đầu tiên là ruột - mầm bài ra ngoài theo phân, thức ăn nước uống, đất. Đường này là từ phân vào miệng. + Truyền theo đường máu: Nơi cư trú đầu tiên là máu, mầm bệnh từ máu súc vật ốm ra ngoài nhờ côn trùng trung gian hút máu – vi trùng sống trong côn trùng, rồi từ côn trùng đi vào gia súc khỏe, khi côn trùng đốt. Đường truyền: Máu Côn trùng hút máu Máu. Truyền qua da niêm mạc: Do có nhiều nơi cư trú đầu tiên, nên có nhiều đường truyền bệnh và nhiều loại nhân tố trung gian truyền bệnh. Dựa vào các phương thức truyền bệnh trên, người ta có thể phân loại bệnh truyền nhiễm theo các nhóm bệnh nhất định, và có các biện pháp phòng trừ hữu hiệu. 3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sinh dịch Quá trình sinh dịch chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, các yếu tố đó tác động rất nhiều khâu của quá trình sinh dịch, ảnh hưởng đến quá trình đó làm gia súc có nhiều tính chất khác nhau. 3.4.1 Các nhân tố thiên nhiên Các nhân tố thiên nhiên bao gồm, đất đai, khí hậu thời tiết, ánh sáng và cả những nhân tố vũ trụ mà ta chưa nghiên cứu đến. Các yếu tố không những ảnh hưởng đến sự sống, sự hình thành và phát triển của các loài gia súc, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, sức sản xuất cũng như sự phát triển của các loài bệnh tật. về mặt bệnh tật, các nhân tố thiên nhiên có lợi hoặc không có lợi đến ảnh hưởng các khâu của quá trình sinh dịch như sau: 3.4.1.1 Ảnh hưởng đến nguồn bệnh
  9. 9 Quá trình làm tăng hoặc giảm nguồn bệnh, tăng hoặc giảm sức đề kháng của cơ thể. Nếu là gia súc, gia cầm thiên nhiên ảnh hưởng đến thức ăn, nước uống, phương thức chăn nuôi ảnh hưởng sức đề kháng, làm dịch dễ hoặc khó phát sinh. Do đó làm tăng hoặc giảm nguồn bệnh. Nếu là côn trùng, dã thú chịu ảnh hưởng của thiên nhiên càng rõ, vì thiên nhiên quyết định vùng cư trú, sự phát triển về loài, về số lượng, về sự hoạt động của chúng. Điều kiện thiên nhiên còn thông qua nguồn bệnh, mà ảnh hưởng đến mầm bệnh, càng rõ khi nó bài xuất mầm bệnh ra ngoài (tăng giảm số lượng, phân tán rộng hay hẹp). 3.4.1.2 Ảnh hưởng đến nhân tố trung gian truyền bệnh Đối với nhân tố trung gian không phải là sinh vật: đất, nước, dụng cụ đồ vật, thì ảnh hưởng đến đièu kiện thiên nhiên, đến vùng cư trú, đến sinh sản và phát triển về loài, về số lượng, về sự hoạt động của chúng và đến sự tăng giảm của bệnh. 3.4.1.3 Ảnh hưởng đến gia súc cảm thụ Yếu tố thiên nhiên như: khí hậu, ánh sáng, ẩm độ thường xuyên tác động đến cơ thể súc vật, làm tăng hoặc giảm sức đề kháng, mức sinh sản thấp, cao, mức tập trung, hoặc sơ tán đối với mức cảm thụ trong đàn thay đổi. Điều kiện và mức độ lây lan thay đổi. Tóm lại: Thiên nhiên nhiệt đới ở nước ta tạo nên đặc điểm riêng biệt về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, không khí, đất và nước. Đã ảnh hưởng đến từng mùa, từng vùng đối với sức khỏe, sức sinh sản, đối với sự lây lan và phát sinh bệnh truyền nhiễm ở nước ta. Chú ý cần hiểu biết sâu sắc những ảnh hưởng của các yếu tố thiên nhiên, khắc phục những yếu tố có hại, phát huy những yếu tố có lợi, nhằm đảm bảo cho công tác phòng trừ bệnh được tốt. 3.4.2 Nhân tố xã hội Bệnh Truyền nhiễm là một hiện tượng sinh vật xâm nhập vào cơ thể. Nhưng dịch bệnh lại xáøy ra trong một xã hội nhất định, nên đó là một hiện tượng xã hội và chịu ảnh hưởng quyết định của các nhân tố xã hội. Điều kiện ăn ở, đời sống vật chất, trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật, tập quán xã hội, hoạt động kinh tế, các tai biến xã hội. Như chiến tranh, nạn đói, nạn dịch bệnh của người, đều ảnh hưởng đến một cách trực tiếp tới gia súc. Mọi điều kiện sinh hoạt đều phụ thuộc vào chế độ xã hội. Chừng nào con người bị áp bức, bóc lột, trình độ văn hóa, kinh tế còn thấp kém, đời sống vật chất của nhân dân lao động còn hạn chế, thì tình hình dịch bệnh còn phát triển nhiều. Lịch sử thế giới cũng như nước ta đã chứng minh điều đó ví dụ: Nước Nga ở chế độ Sa hoàng dịch bệnh nặng nhất là bệnh dịch trâu, bò, bệnh này chỉ mới thanh toán được khi nước Nga xô viết được thành lập. Thời Pháp thuộc ở Đông Dương Dịch tả trâu, bò (1932) 140000 con chiếm 5%. Năm 1960 miền Nam hiện vẫn còn bệnh dịch tả, sau ngày giải phóng bệnh này vẫn còn lưu lại ở một số vùng. Vậy, muốn thanh toán dịch tận gốc, phải giải quyết vấn đề xã hộI, từ chỗ khống chế bắt buộc, đến tiêu diệt hoàn toàn. 3.5 Tính quy luật của dịch Như trên chúng ta đã biết, các nhân tố thiên nhiên, và xã hội kết hợp với đặc tính của mầm bệnh chi phối quá trình sinh dịch, làm cho dịch biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: 3.5.1 Dịch lẻ tẻ Số con phát bệnh lẻ tẻ trông thời gian dài. Một vài con mắc bệnh từ chuồng này rồi lây lan sang chuồng khác: Tụ huyết trùng, Uốn ván, gây thủy thuîng ác tính. 3.5.2 Dịch địa phương Dịch phát ra giới hạn trong một địa phương, một vùng không lan rộng, ví dụ: bệnh Nhiệt thán. 3.5.3 Dịch Bệnh phát ra và lây lan rộng ở một số nơi trong một thời gian ngắn, phạm vi ngắn có thể là một huyện, có khi là một tỉnh và khi có nhiều tỉnh: Dịch tả lợn. 3.5.4 Dịch lớn Bệnh phát ra ồ ạt, lan tràn nhanh rộng trong thời gian ngắn, lan trong tỉnh hoặc có khi lan ra cả nước, có khi lan ra nhiều nước như: bệnh Dịch tả trâu, bò, bệnh Lỡ mồm long móng. Tóm lại, cách phân ra các loại dịch trên chỉ là tương đối. Nhưng các yếu tố thiên nhiên, xã hội cũng tạo cho dịch có những tính chất sau:
  10. 10 3.6 Tính chất vùng Do điều kiện thức ăn, nước uống, chăn nuôi, yếu tố thiên nhiên: do tập quán, do loại nhân tố trung gian, ở trong vùng nhất định, nên dịch bệnh có tính chất vùng. Liên hệ nước ta thấy có ba vùng rõ rệt. 3.6.1 Vùng núi Khí hậu tốt, nhiều cỏ thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi gia súc lớn, nhưng cũng là vùng thuận lợi cho côn trùng phát triển, ruồi trâu, ruồi vàng, bò chét Nhiều bệnh ký sinh trùng đường máu xảy ra như: Tiên mao trùng, Lê dạng trùng. Có nhiều dã thú nên nó là nguồn dự trữ dịch bệnh: bệnh Dịch tả trâu, bò, bệnh Dịch tả lợn. 3.6.2 Vùng trung du Là vùng thường xáøy ra bệnh ký sinh trùng đường máu như: Lê dạng trùng, Huyết bào tử trùng. 3.6.3 Vùng đồng bằng Là vùng phát triển gia súc, gia cầm nhiều, nhưng cũng là nơi thường xuyên xảy ra các bệnh như: Newcastle, Nhiết thán, Tụ huyết trùng, Lợn đóng dấu. Bởi vì ở đó là những vùng ẩm thấp, lầy lội, nhiều phù sa ven sông. 3.7. Tính chất mùa Mùa ảnh hưởng đến chất lượng cây cỏ, số lượng và chất lượng thức ăn, các nhân tố trung gian truyền bệnh. Tùy theo mùa mà thay đổi, về loài, về số lượng về sự hoạt động. Mùa ảnh hưởng đến chức năng sinh lý, sức đề kháng của cơ thể gia súc, ảnh hưởng đến sự tồn tại của mầm bệnh trong gia súc, ngoại cảnh. Hoạt động xã hội, lễ tiết có tính chất mùa cũng làm cho dịch bệnh có tính chất mùa. Ở nước ta cũng nhìn thấy rõ bệnh phát ra hai mùa rõ rệt. 3.7.1 Mùa mưa Từ tháng sáu đến tháng mười âm lịch, khí hậu ấm áp, mưa nhiều thuận lợi cho cây trồng, rau cỏ phát triển, gia súc được ăn no đủ, nhưng cũng là mùa thuận lợi cho một số bệnh phát triển. Ví dụ bệnh Tụ huyết trùng phát triển nhanh chóng trong đièu kiện ẩm ướt, nha bào Nhiệt thán do mưa đã đưa từ trong lòng đất lên trên mặt đất. Các côn trùng cũng từ đó mà phát triển nhanh, tạo điều kiện xúc tác cho mầm bệnh sinh sản. Tiên mao trùng và nhiều bệnh không truyền nhiễm khác như: Lợn con đi phân trắng, chướng hơi, nghẽn dạ lá sách, say nắng, cảm nóng. 3.7.2 Mùa khô Từ tháng mười đến tháng hai năm sau, thường về mùa này cây cối cằn cỗi gia súc thiếu ăn. Mầm bệnh giữ được độc lực ngoài thiên nhiên, đồng thời cũng là mùa gia súc làm việc nhiều, trong điều kiện mưa phùn gió bấc, nên đó là điều kiện cho các loài Virus phát triển. Ví dụ bệnh Dịch tả trâu, bò, Dịch tả lợn, Newcastle, Tụ huyết trùng gà, Nhiệt thán, do thiếu cỏ phải gặm sát miệng, vì vậy miệng bị xây xát bệnh dễ nhiễm. Mưa phùn ẩm ướt, độ ẩm cao làm giảm sức đề kháng của cơ thể, bệnh dễ trỗi dậy, Lợn đóng dấu, vi khuẩn tăng độc lực, đồng thời sinh sản nhanh. 3.8 Tính chu kỳ Một số bệnh truyền nhiễm sau một thời gian lại xáøy ra gọi là tính chu kỳ của dịch, thời gian đó thường 3-5 năm. Sau một trận dịch số gia súc còn sống sót được miễn dịch, tính cảm thụ giảm tới mức thấp nháút, nhưng sau do mua thêm, sinh sản thêm, do đàn gia súc hết miễn dịch, đến một thời gian nào đó tính cảm thụ tăng đến mức cao nhất dịch phát ra. 3.9 Nguồn dịch thiên nhiên Theo Paplopxki (1938): nguồn dịch ở trong thiên nhiên, ở những vùng nhất định là những vùng chưa có dấu chân của người và gia súc, rừng núi âm u, mầm bệnh tồn tại nhiều nhất là ở loài gậm nhấm; thường thấy ở trong đàn thú rừng chết nhiều; thường là khi vật đói ăn, thời tiết thay đổi nó biểu hiện ở thể ẩn hoặc thể mang trùng theo dây chuyền: Dã thú – côn trùng – môi giới hút máu thú rừng. Mầm có thể truyền ra ngoài theo ngoại cảnh: Thú rừng - ngoại cảnh – thú rừng. Chæång 4. PHÒNG CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM 4.1 Nguyên lý phòng chống Bệnh truyền nhiễm xáøy ra được là do 3 khâu của quá trình sinh dịch:
  11. 11 - Nguồn bệnh - Các nhân tố trung gian truyền lây - Động vật cảm thụ. Ba khâu này liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu thiếu một trong ba khâu hoặc thiếu sự liên hệ chặt chẽ giữa hai trong ba khâu, thì dịch không thể xảy ra được. Nguồn dịch là khâu đầu tiên và chủ yếu và là xuất phát điểm của quá trình sinh dịch. Nhân tố trung gian truyền lây, nối nguồn bệnh tới cơ thể cảm thụ làm cho quá trình sinh dịch được thuận lợi. Trên cơ sở đó công tác phòng chống là nhằm cắt đứt mối liên hệ giữa các khâu với nhau, chỉ cần 1 hoăc 2 khâu làm cho quá trình sinh dịch không thể thực hiện được. Đó là nguyên lý cơ bản của phòng chống bệnh truyền nhiễm. 4.2 Phòng bệnh truyền nhiễm Ý nghĩa: Các biện pháp phòng dịch nhằm chủ động tấn công mầm bệnh khi dịch chưa xảy ra. Các biện pháp bao gồm nhiều mặt, nhiều khâu cùng một lúc. 4.2.1 Biện pháp đối với nguồn bệnh Phát hiện sớm, chủ động tấn công tích cực, phát hiện bằng vi trùng học bằng cách xét nghiệm các chất thải, các chất bài tiết. Nhưng không chắc chắn vì vật bài tiết định kỳ cho nên phải tiêm qua động vật khỏe, có thể dùng phương pháp huyết thanh học, nhưng phương pháp thường không ổn định, chắc chắn nhất là chẩn đoán bằng phương pháp chẩn đoán dị ứng, đối với các bệnh có phản ứng dị ứng như: bệnh Lao, Tỵ thư, Sẩy thai truyền nhiễm, Bạch lỵ gà, Mycoplasma. Phải áp dụng biện pháp: cách ly triệt để những con vật ốm, những con vật mang trùng, những con vật mới mua về. Điều trị dự phòng những con vật mang trùng, nhất là những gia súc quý, đắt tiền. Song cũng có một số con tæû nhiên lành bệnh, ví dụ như ở bệnh sẩy thai truyền nhiễm, một số con mang trùng nhưng chưa có biện pháp tốt để phát hiện, như bệnh Dịch tả trâu, bò, lợn. Cần có biện pháp giải quyết ngay khi con vật ốm. Đối với dã thú, côn trùng phải tìm cách tiêu diệt tận gốc. 4.2.2 Biện pháp đối với nhân tố trung gian Đối với nhân tố trung gian, phải làm cho nhân tố trung gian không còn mang mầm bệnh, hoặc tiêu diệt mầm bệnh đối với nhân tố đó bằng các đường. Bệnh lây qua dường tiêu hóa: giữ vệ sinh ăn uống, cấm chăn thả ở những nơi thường xuyên có nhiều mầm bệnh, bãi chăn có nhiều vũng nước, cấm chăn thả xung quanh nhà máy thuộc da, loì sát sinh, nhà máy chế biến thú sản phẩm. Thực hiện tốt các biện pháp tiêu độc, tiêu diệt côn trùng. Bệnh lây qua đường hô hấp: phải giữ chuồng trại thoáng mát, sạch sẽ tiêu độc khi chưa có dịch, khi đã hết dịch, đó là biện pháp cần thực hiện thường xuyên. Đối với bệnh lây qua đường máu: nhân tố thức ăn, côn trùng nên tiêu diệt, ngăn cản tiếp xúc với gia súc. Đối với bệnh lây qua da, niêm mạc: giữ vệ sinh thân thể gia súc, tắm chải thường xuyên, tiêu độc, tiêu diệt côn trùng, gậm nhấm. Tiêu độc là biện pháp mầm bệnh tồn tại ở ngoại cảnh, tiêu diệt mầm bệnh ngay trên cơ thể gia súc. Có thể tiêu độc trước khi có dịch. Đó là biện pháp thường xuyên, ngay cả trong khi có dịch cũng như sau khi hết dịch. Đối tượng tiêu độc chuồng trại, sân chơi, bãi chăn, dụng cụ chăn nuôi, dụng cụ cày kéo, yên cương, dụng cụ vận chuyển nói chung, là những dụng cụ thường xuyên tiếp xúc với con vật. Những nơi thường tập trung gia súc, những nơi tập trung nguyên liệu của gia súc, các xí nghiệp chế biến, những nơi lưu giữ, những dụng cụ thường dùng hàng ngày. 4.3 Các phương pháp tiêu độc 4.3.1 Tiêu độc bằng vật lý Vật lý, hóa học, cơ giới, nhiệt sinh vật, số lượng bệnh ở ngoại cảnh, những chất thích hợp cho sự tồn tại của mầm bệnh, bao gồm việc quét dọn hàng ngày, nạo vét cống rãnh. Thực hiện trước các biện pháp tiêu độc khác, luôn luôn mở rộng chuồng trại lấy ánh sáng mặt trời: biện pháp dùng lửa đốt, dùng lửa ngọn đèn xì, dùng nước sôi đều có thể tiêu diệt các loại vi trùng không nha bào. Nếu vi trùng có nha bào thì phải đun sôi trong vòng 30 phút trở lên mới tiêu diệt được, 1- 2% xút đun sôi trong vòng 1-2 giờ, tiêu diệt hết tất cả các loại mầm bệnh. Ngoài ra còn dùng hơi nước dưới áp lực cao, dùng không khí sấy khô trong các lò sấy, hay đun cách quãng để tiêu diệt mầm bệnh. 4.3.2 Tiêu độc bằng các chất hóa học 4.3.2.1 Tác dụng của hóa chất Hóa chất có tác dụng làm cho sự kết tủa, phân ly hoặc phá hủy Protein, hay biến chất của các chất độc, đối với mầm bệnh. Thường dùng các chất đảm bảo các yêu cầu: có khả năng diệt nhiều loài mầm bệnh, ít độc đối với người và gia
  12. 12 súc, dễ hòa tan trong nước, không làm hỏng dụng cụ, dễ sử dụng, rẻ tiền. Thường ở 3 dạng: dung dịch, bột, khí. Dạng dung dịch là dạng để lâu bằng cách chùi, rửa, ngâm, tắm, thường là muối kim loại nặng, kiềm, toan, vô cơ hoặc hữu cơ. Các hợp chất clo dùng để xông chuồng, phòng thí nghiệm, các hợp chất lưu huỳnh, vôi bột, xút ăn da dùng tiêu độc các bệnh do Virus. Xút có tác dụng thủy phân Protide, Gluxit, phá hủy Lipit. Dung dịch 2-4% để tiêu độc chuồng trại. Dung dịch 1% tắm cho gia súc. Khi mắc bệnh Lở mồm lông móng cho thêm 5-10% NaCl diệt nha bào. Chú ý khi dùng tích tụ nhiều Amoniac, cho nên phải để chuồng thoáng trước khi cho gia súc vào. 4.3.2.2 Tác dụng của vôi Vôi là loại dụng rộng rãi, nó phân hủy được Protein, tế bào vi khuẩn, diệt được trứng ruồi nhặng, nhưng không diệt nha bào, dùng dạng sữa 10-20% dùng để quét trần hoặc quét các chuồng trại 3 lần cách nhau 3 giờ. Sữa vôi thêm NaOH 1% hoặc Formol 3% hoặc Clorua vôi 0.5% đến 2% tăng cường diệt trùng. Sữa vôi để ngoài tác dụng với CO2 biến thành Cacbonat Ca2CO3 mất tác dụng. 4.3.2.3 Tác dụng của nước tro Nước tro chủ yếu là Cacbonat kali K2CO3 trong nước sẽ cho KOH. K2CO3 + H2O 2KOH + CO2↑ KOH có tác dụng tiêu độc như các chất khác, nên thường dùng nước tro nóng 10% cho 0,5% NaOH có tác dụng mạnh, nhưng để lâu thì mất tác dụng. 4.3.2.4 Tác dụng của Acide sulfuric Acide sulfuric H2SO4 nó có khả năng cướp nước của nguyên sinh chất tế bào, hão tan và phân giải Protide thành Anbumol pepton, Acide amin. Acide sulfuric tác dụng diệt trùng mạnh 2-3% tiêu độc đất, phân, nền chuồng nhất là các vùng thường có nha bào Nhiệt thán. 4.3.2.5 Tác dụng của Acide fenic Acide fenic C6H5OH có khả năng tan trong protide ít, nên thấm sâu vào tế bào, không nên dùng trong chuồng nuôi bò sữa, vì nó dễ hấp thụ vào sữa. 4.3.2.6 Tác dụng của Acide clo Acide Clo Cl2 trong dạng khí dễ tiêu độc chuồng, có thể đóng kín được, cũng có thể dùng trong dạng nước: Cl2 + H2O HCl + HClO HClO HCl + O2 Trong nước HClO và HCl sẽ tác dụng thải Clo, khi Clo tác dụng với Protein tạo nên Protide. 4.3.2.7 Tác dụng của Formol Formol HCHO: trong nước khí Formol dễ hút tác dụng diệt trùng mạnh, thấm sâu làm biến đổi cấu trúc phân tử tế bào. Thường dùng dung dịch 1% dùng 2-5% rửa chuồng, ở dạng khí 25ml/m3. Ngoài ra còn Iode, Crezol, Crezil, Lygol. 4.3.3 Phương pháp tiêu độc 4.3.3.1 Tiêu độc chuồng trại Đối với tiêu độc cơ giới trước khi tiêu độc hóa học, thường dùng sữa vôi 10-20%, Clorua vôi 4-20%, Formol 2-5%, NaOH 4-5%, Crezol 0.5-3%, Crezin 3-5%, Acide fenic 2-5%, cũng có thể dùng nước sôi dội rữa, sau đó quét hoặc rắc vôi. 4.3.3.2 Tiêu độc phương tiện vận chuyển Phương tiện vận chuyển như ô tô, tàu xe, thuyền quét dọn phân tập trung lại, rữa phương tiện, nguyên liệu nghi hoặc mắc bệnh, dùng nhiệt sinh vật để tiêu độc. Nếu có nha bào thì phải đốt hoặc dùng chất sát trùng mạnh. 4.3.3.3 Tiêu độc nước Nước: có biện pháp tiêu độc nghiêm khắc bằng Clo hoặc Clorua vôi, trước khi dùng thì phải khử chất hữu cơ trong nước. 4.3.3.4 Tiêu độc đất
  13. 13 Đất: dùng Clorua vôi dung dịch nóng 10%, Acide sulfuric, Xút 10% để tiêu độc, chuồng gà vịt, tiêu độc thường xuyên bằng Clorua vôi 10%, sữa vôi 2%, KOH 1%. 4.3.3.5 Tiêu độc lò ấp Tiêu độc lò ấp: dung dịch 1% KOH hoặc Formol. Nếu là dụng cụ rẽ tiền thì có thể hủy, đốt. Nếu là dụng cụ kim khí, thì khi dùng phải đun sôi 100oC trong 30 phút mới dùng. 4.3.3.6 Tiêu độc nhiệt sinh vật Tiêu độc diệt sinh vật: phương pháp này dùng chủ yếu là tiêu độc phân bằng cách làm lên men 70-75oC kéo dài 10-15 ngày, nó có tác dụng diệt phần lớn nha bào, ấu trùng và trứng giun sán. Ngoài ra còn một số côn trùng, đồng thời cũng là nguồn bệnh, khoảng hơn 50 loài. Dựa vào đặc điểm sinh lý, sinh thái, tìm cách hạn chế sự sinh sản của nó và tìm cách tiêu diệt. Nói tóm lại giữ vệ sinh thức ăn, nước uống, phát quang bụi rậm, tiêu diệt côn trùng, gậm nhấm là biện pháp dùng thường xuyên để tiêu diệt mầm bệnh. 4.3.3 Biện pháp đối với gia súc cảm thụ Các biện pháp đối với gia súc cảm thụ, đã được vạch ra trong các đường lối và nghị quyết, trong các điều lệ Thú y và đã được cụ thể hóa nhanh chóng trong công tác phòng chống bao gồm: 4.3.4.1 Vệ sinh phòng bệnh Gồm vệ sinh ăn uống, vệ sinh chuồng trại, vệ sinh chăn thả, vệ sinh thân thể, vệ sinh dụng cụ, vệ sinh khi thai thác và vệ sinh khi sinh sản, vệ sinh phòng bệnh có tác dụng tấn công bệnh, ở ngoại cảnh và trên thân thể gia súc, làm tăng sức khỏe, chống bệnh tật. 4.3.4.2 Cải tiến kỹ thuật chăn nuôi Bên cạnh ăn uống, phối hợp khẩu phần xây dựng chuồng trại hợp lý, chọn lọc cải tạo giống, cơ giới hóa chăn nuôi. 4.3.4.3 Tiêm phòng Tiêm phòng là biện pháp tích cực vì làm cho cơ thể tự sản sinh, hay tiếp nhận những chất kháng trùng, giúp cho cơ thể chống đỡ có kết quả, phòng các bệnh trong thời gian nhất định, tiêm phòng có ý nghĩa rất lớn đối với những bệnh, mà mầm bệnh tồn tại trong thiên nhiên lâu dài như: bệnh Nhiệt thán. Hay trong cơ thể gia súc khỏe, bệnh Âoïng dấu lợn, bệnh Tụ huyết trùng, có rất nhiều con mang trùng, có nhiều nhân tố trung gian truyền bệnh. Trong nghị quyết của Đảng cũng đã đề cập đến vấn đề này. “Gây phong trào vệ sinh phòng bệnh cho gia súc ở nông thôn, kết hợp với việc phòng bệnh cho gia súc rộng rãi, chữa bệnh kịp thời” Vậy tiêm phòng là một biện pháp kỹ thuật không thể thiếu được, trong lúc tình hình nước ta, bệnh dịch còn nghiêm trọng, công tác vệ sinh phòng bệnh chưa thực hiện tốt. Vì vậy việc tiêm phòng phải thưc hiện khi chưa có dịch, bằng các loại Vaccine. Phương pháp đưa Vaccine vào cơ thể nhằm tạo miễn dịch chủ động cho gia súc. Các đợt tiêm chính vào tháng 8. 9. 10, riêng Khu 4 và các tỉnh miền Nam tùy theo tình hình mưa lũ, mà lùi lại hoặc tiêm trước. Đồng bằng thường tiêm từ tháng 2. 3. 4. Miền núi thường tiêm từ tháng 8. 9. 10. Đặc biệt cần tiêm nhiều lần trong năm, tiêm nhắc lại hoặc tiêm vét. Kế hoạch tiêm phòng. Căn cứ vào số đợt tiêm, số lượng gia súc, loại bệnh, mà dự trữ Vaccine và các loại thuốc khác. Kế hoạch cán bộ. Phải có kế hoạch số người phục vụ pha chế, vận chuyển thuốc, theo dõi gia súc, tổ chức một đợt tiêm, nhanh gọn trong một thời gian nhất định. 4.4 Các biện pháp phòng, trị bệnh truyền nhiễm 4.4.1 Các biện pháp phòng Các biện pháp phòng chống bệnh truyền nhiễm được thực hiện tại ổ dịch, thường nhằm mục đích tiêu diệt bệnh. Đồng thời không cho ổ dịch lan rộng thành nhiều ổ dịch khác, biện pháp bao gồm: Phát hiện bệnh – Tiêu diệt nguồn bệnh – Tiêu diệt nhân tố trung gian. Làm tăng sức đề kháng cơ thể. Các biện pháp phải làm khẩn trương thì mới dập tắt được ổ dịch. 4.4.2 Khái niệm về ổ dịch
  14. 14 Trong ổ dịch là phạm vi nguồn bệnh đang phát triển và khu vực xung quanh mầm bệnh có thể lan tới. Các yếu tố của quá trình sinh dịch. Nguồn bệnh. Nhân tố trung gian. Gia súc cảm thụ. Vậy định nghĩa ổ dịch Gramasepxki nói: (Phàm nới nào có nguồn bệnh. Trong tình hình cụ thể bệnh truyền nhiễm phát sinh, reo rắc mầm bệnh ra ngoại cảnh và sinh vật xung quang, thì đó gọi là ổ dịch). Ổ dịch cũ là nơi trước mắt không có súc vật mắc bệnh, nhưng mầm bệnh có thể tồn tại ở ngoại cảnh và trong súc vật mang trùng. Nên mầm bệnh có điều kiện phát sinh. Đối tượng con vật ốm, có ổ dịch tiềm tàng là hiển nhiên. Con vật nghi lây, vật có tiếp xúc con ốm, do chăm sóc chung, nhốt chung. Vậy con vật nghi lây phải coi như con ốm. Tóm lại: tiêu diệt một ổ dịch bao gồm: biện pháp đối với nguồn bệnh (ốm, nghi lây) và biện pháp đối với nhân tố trung gian. 4.4.3 Biện pháp đối với nguồn bệnh Con ốm: phải phát hiện sớm, nhanh chóng chính xác, dùng mọi biện pháp chẩn đoán, con nghi cũng phải có kết luận sơ bộ, tiến hành phòng dịch lây lan. Nguyên tắc: một con vật sốt, chưa rõ nguyên nhân phải nghi là mắc bệnh truyền nhiễm phải cách ly. Thà chẩn đoán nhầm một bệnh không truyền nhiễm, thành một bệnh truyền nhiễm, con hơn là nhầm một bệnh truyền nhiễm thành một bệnh không truyền nhiễm. Điều trị triệt để để vật chóng lành, tránh hiện tượng mang trùng, tránh biến chứng, lây lan. Nếu thấy không chữa khỏi phải xử lý, giết, luộc, chôn tùy theo loại bệnh. Đối với con nghi lây phải điều tra con tiếp xúc, cách ly điều trị dự phòng con nghi. 4.4.4. Các biện pháp chẩn đoán - Chẩn đoán lâm sàng, dựa vào triệu chứng để định bệnh. Chẩn đoán dịch tể, tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện phát sinh. Chẩn đoán giải phẩu bệnh lý (đại thể và vi thể). Chẩn đoán xét nghiệm (Vi khuẩn học, Huyết thanh học, Sinh vật học). - Chẩn đoán dị ứng, bệnh Brucenlle, Lao, Tỵ thư, Bạch lỵ gà. Đối với nhân tố trung gian thì phải tiêu độc, tiêu diệt. Cắm biển có dịch, không mua bán, không đưa động vật ra vào ổ dịch. Khi người ra vào vùng dịch phải sát trùng cẩn thận. Cấm mổ thịt bừa bãi. Mà phải xử lý đúng luật lệ Thú y hiện hành. Tóm lại: Tiêu độc trong toàn bộ ổ dịch, gia súc cảm thụ phải tiêm phòng, tiêm bao vây, chống dịch xung quanh và vùng bị uy hiếp. Ngoài ra, là vùng an toàn đều phải tiêm phòng Vaccine đồng thời kiểm kê phân loại gia súc. 4.4.5. Một số quy định của luật Thú y Tuyệt đối phải thi hành luật lệ Thú y, do Chính phủ ban hành 1993, 2000 bao gồm 5 phần với 23 điều. Phần 1.3 điều gồm nguyên tắc chung, mục đích nội dung. Phần 2.10 điều phòng dịch ở các cơ sở tập trung và gia đình, lò mổ cơ sở chế biến. Quy định việc xuất nhập vận chuyển, mua bán trâu, bò. Phần 3.4 điều chống bệnh truyền nhiễm cần phải công bố dịch quy định chế độ báo cáo quyền hạn. Phần 4.2 điều, quy định việc xử lý các trường hợp vi phạm. Phần 5.4 điều, quy định trách nhiệm ngành bộ liên quan. 4.4.6. Khi có dịch Phải khai báo dịch là nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi người công dân, bằng mọi phương tiện với chính quyền và chuyên môn gần nhất. Uỷ ban nhân dân xã nhận được tin phải báo lên Uỷ ban nhân dân huyện, huyện cử cán bộ chuyên môn trực tiếp xuống cơ sở phòng chống, đồng thời cử người báo lên tỉnh và Sở Nông nghiệp vaì Phaït triãøn Näng thän, sau khi đã xác định và công bố dịch, đồng thời Uỷ ban nhân dân tỉnh phải kịp thời báo cáo lên Bộ Nông nghiệp vaì Phaït triãøn Näng thän. 4.4.7 Việc công bố dịch Tên dịch, vùng có dịch. Thành lập ban chống dịch bao gồm. Chính quyền địa phương. Công an. Đại diện phòng chăn nuôi Thú y. Đại diện tổ chức đoàn thể. Đại diện cơ sở có dịch, xã, huyện, tỉnh. Khi đã công bố dịch phải kèm theo biện pháp cụ thể. 4.4.8 Công bố hết dịch Ban chống dịch đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh công bố, khi đã có đủ 3 điều kiện sau. Sau khi con chết hoặc con lành bệnh cuối cùng 15 ngày đến 1 tháng, mà không có con nào mắc bệnh hoặc chết. Khi đàn gia súc trong ổ dịch đã được tiêm phòng, có miễn dịch. Đã tiến hành tổng tiêu độc trong ổ dịch, điều trị triệt để. 4.5. Chữa bệnh Truyền nhiễm 4.5.1. Ý nghĩa
  15. 15 Tiêu diệt nguồn bệnh làm cho con vật chóng lành, không biến thành con vật mang trùng, hạn chế lây lan, làm giảm thiệt hại về kinh tế, có tác dụng chống và phòng triệt để. Nguyên tắc: chữa kịp thời và đúng bệnh. Chữa toàn diện kết hợp nhiều biện pháp, dùng thuốc kết hợp chăm sóc nuôi dưỡng, Đông Tây y trị căn nguyên cùng với trị triệu chứng. Kết hợp nâng cao sức đề kháng của con vật. Những bệnh của động vật lây sang người không có thuốc đặc hiệu, không nên chữa như: bệnh Tỵ thư. Phải có quan điểm kinh tế trong khi chữa bệnh. 4.5.2. Các phương pháp 4.5.2.1. Hộ lý Theo dõi con vật về mạch, tim, tần số hô hấp và những chuyển biến thất thường. Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, khi cần bổ sung nước sinh lý. Dùng kháng huyết thanh tiêu diệt mầm bệnh hoặc trung hoà độc tố. Ngoài ra, có hợp chất muối khoáng, protide có tác dụng kích thích nâng cao sức đề kháng không đặc hiệu của cơ thể. Cũng có thế dùng kháng huyết thành hay γ- Globulin hoặc máu con ốm khỏi bệnh tiêm cho con lành. 4.5.2.2. Cách dùng Tiêm dưới da, khi cần tiêm tĩnh mạch, nhưng phải là huyết thanh cùng loài, liều chữa gấp 2 liều phòng. Nguyên tắc: dùng sớm, dùng đúng bệnh, chữa bệnh cấp tính dùng liều cao ngay từ đầu. Nếu bệnh chưa chuyển, dùng lần 2, nhưng phải đề phòng tai biến. 4.5.2.3. Huyết thanh khác loài Huyết thanh chứa nhiều Albumin dị loài, tai biến sớm, choáng, hay xảy ra sau khi tiêm huyết thanh lần 2, hay tiêm tĩnh mạch, vật thường biểu hiện khó thở, huyết áp giảm, nhiệt độ giảm, vật run sùi bọt mép, cơ co giật, thở nhanh thậm chí có khi chết. Tai biến muộn: ít nguy hiểm, xáøy ra chậm, thường từ 6-12 giờ, chỗ tiêm ngứa, nóng, sốt mình nổi ban, kéo dài vài giờ, có khi một vài tuần vật có thể khỏi. Nếu không khỏi thường xáøy ra biến chứng. 4.5.2.4. Đề phòng tai biến Trước khi tiêm lần 2 phải giải mẫn, theo phương pháp Bret liều nhỏ 0,5-1ml tiêm dưới da 1-2 giờ sau đó mới tiêm thử lượng huyết thanh còn lại. Tốt nhất lần 2 cách lần 1 không quá 3-4 ngày. Nếu quá phải giải mẫn. Chú ý: sản xuất huyết thanh phải tinh khiết, hâm nóng 58oC trước khi dùng. 4.5.2.5. Cấp cứu khi choáng Dùng Adrenalin 1% tiêm bắp; Ephedrin 5%, dung dịch Cloruacanxi 10% tiêm tĩnh mạch. Ngoài ra, thêm Cafein, dầu long não, Vitamin các loại, để vật nơi thoáng, yên tĩnh, tránh nóng cho vật. Cấp cứu: dùng Coctizon Pritinison, Ephedrin, Cafein benzoat. 4.5.3. Dùng kháng sinh Việc dùng kháng sinh hầu hết phổ biến và rỗng rãi trong bệnh truyền nhiễm, nó có tác dụng hãm trùng và diệt trùng, nhưng tuìy theo các mầm bệnh khác nhau, có cơ chế khác nhau. Kháng sinh có tác dụng chọn lọc đến quá trình trao đổi chất của Vi trùng. Ngoài ra, kháng sinh còn kích thích sinh trưởng, kích thích thực bào, tăng tiết mạnh đường tiêu hoá, vật ăn ngon dễ tiêu, ức chế được Vi trùng gây bệnh, làm tăng Vi trùng có lợi cho cơ thể. 4.5.3.1. Penicilline Penicilline: Liều thấp có tác dụng hãm trùng. Liều cao có tác dụng diệt trùng, có nhiều loại nhưng chủ yếu là G, P, X. Tốt nhất loại G nó còn gây rối loạn Acide amin trong tế bào vi khuẩn, khi tiêm bắp nó vào máu rồi vào các tổ chức và hầu hết được bài qua thận. Chú ý: thuốc dễ bị dị ứng và dễ bị vi trùng quen thuốc. Thuốc có tác dụng tốt với vi trùng Gram dương như: Liên cầu trùng, Tụ cầu trùng, bệnh Nhiệt thán, Ung khí thán, Uốn ván, Tác dụng âm đối với: Nấm, vi trùng Lao. 4.5.3.2. Streptomycine Streptomycine có tác dụng tốt với vi trùng Gram âm như: bệnh Tụ huyết trùng, Phó thương hàn, E-coli, Brucella. Đối với vi trùng Gram dương như: bệnh Âoïng dấu lợn. Đối với xạ khuẩn, Vi trùng kháng quang như: bệnh Lao khi, tiêm bắp nó vào máu, nhanh chóng vào tổ chức thấm vào cả bào thai, nó ra ngoài chậm hơn, chủ yếu vẫn qua thận. Chú ý: thuốc có dị ứng. Vi trùng kháng thuốc làm tổn thương thần kinh trung ương, dễ gây ngộ độc và làm chết. 4.5.3.3. Nhóm Tetracillin, Clotetracilline, Biomycine, Auremycine, Oxytetracilline Các thuốc này có tác dụng dược lý giống nhau, kích thích sinh trưởng, kháng trùng mạnh, uống vào không bị phá huỷ, dễ hấp thụ và phân phối đều. Nếu liều cao gây rối loạn tiêu hoá. Tetracillin: Hấp thụ nhanh, tác dụng nhanh, Nguyên tắc: Do độc tính kháng sinh, một lúc tiêu diệt nhiều Vi trùng, giải phóng nhiều độc tố, làm giảm số lượng kháng nguyên, giảm phản ứng miễn dịch cơ thể. Tiêu diệt vi khuẩn có lợi trong cơ thể thường gây nên dị ứng. Nên phải dùng đúng bệnh, đúng liều, đúng lứa tuổi. Có thể dùng lần 2 nhưng liều giảm dần. Có thể kết hợp nhiều loại kháng sinh, nhưng phải nuôi dưỡng tốt và dùng thêm các thuốc trợ sức. 4.5.3.4. Sunfamit
  16. 16 Sunfamit làm rối loạn quá trình chuyển hoïa, có tác dụng hãm trùng. Đa số hấp thụ qua đường tiêu hoïa, có tác dụng tốt đối với các loại Vi trùng Gram dương, Gram âm, Virus, Vi khuẩn đường ruột. Nếu dùng liều cao từ đầu, cho uống nhiều nước, uống kèm Natribicabonat. 4.5.3.5. Proteine Khi đưa Proteine vào cơ thể nó kích thích không đặc hiệu, làm cho con vật khó chịu, thân nhiệt tăng, hồng cầu bạch cầu tăng, hoạt động màng lưới nội mô tăng thúc đẩy quá trình trao đổi chất, quá trình lên men tăng, hình thành viêm cục bộ, giúp cơ thể thanh toán viêm. Bệnh lý, máu đi qua nơi viêm do khả năng hấp thu máu tăng cường, nên nó mang theo phần lớn mầm bệnh và độc tố, vì thế bị tiêu diệt nhanh hơn. Gồm: Máu, huyết thanh, lòng trắng trứng và các tổ chức khác. 4.5.3.6. Dùng hoá dược Hoïa dược chủ yếu là dùng để chữa triệu chứng, có một số dùng để chữa nguyên nhân như: bệnh ký sinh trùng đường máu. Có một số miễn dịch hoïa học trong thời gian nhất định. Vì vậy, phải tiêm khi chưa có bệnh. Âiãöu trị tác dụng mạnh hơn. Tiêm nhiều đường cần tránh khi tiêm qua mạch máu. Nâng cao sức đề kháng cho con vật theo dõi chăm sóc. Dùng Vacccine chủ yếu là để phòng, ngoài ra còn dùng để chữa. Cùng với hoïa dược, còn dùng một số biện pháp như sau: 4.5.3.7 Kiểm dịch Đối với gia súc, gia cầm, súc sản và nhiều loại động vật khác, khi chúng xuất nhập cần được kiểm dịch. 4.5.3.8. Kiểm dịch đối ngoại Được thực hiện ở các hải cảng, sân bay, cửa khẩu. Đối tượng da, lông, sừng, móng chỉ được phép xuất khi đã có phiếu kiểm dịch của cơ quan sở tại. Cơ quan của ta kiểm tra xác minh tại chỗ. Bao vây, cách ly nghiêm ngặt, kiểm tra các giấy tờ cần thiết và kiểm tra gia súc khi chưa có miễn dịch, hoặc chưa đủ thời gian miễn dịch, hoặc đã quá thời gian miễn dịch. 4.5.3.9. Kiểm dịch nội địa Chủ yếu ở các trạm đặt trên các đường chính. Tiêm phòng theo tuyến, số gia súc phải đảm bảo theo điều lệ Thú y. Khi phát hiện có dịch không được váûn chuyển mà phải dừng lại. Không được tiếp xúc với vật ở khu vực đi qua, không mua thêm bán bớt. Không được mổ thịt. Vận chuyển phải được vệ sinh, cần thiết phải được tiêu độc các nơi tập trung. Phải kiểm tra giấy tờ và tiêm phòng triệt để, kiểm tra các loại sản phẩm, khám sống trước và sau khi giết mỗ. Quản lý tình hình dịch. Phải nắm vững có dịch gì, xáøy ra vào mùa nào, thiệt hại ra sao, các biện pháp tiêm phòng thực hiện thế nào? Vệ sinh phòng bệnh, điều tra dịch tể, nắm quy luật dịch ngăn chặn lây lan. + Xây dựng khu an toàn dịch Là khu vực rộng hẹp, ở đó kông xảy ra một hoặc nhiều bệnh truyền nhiễm, làm cơ sở để xây dựng khu an toàn dịch trong cả nước. Biện pháp kỹ thuật chăn nuôi Thú y phải đạt kết quả cao, phải xây dựng thành quy trình, tiêu chuẩn có tổ chức. Kiểm tra đôn đốc thực hiện. Xây dựng quy hoạch thông qua lãnh đạo. Xây dựng mạng lưới Thú y từ thôn xã, từ trung ương đến địa phương. Trạm Thú y tỉnh. Chữa tại chỗ và lưu động, chẩn đoán xét nghiệm, đào tạo cán bộ kiểm dịch, kiểm soát sát sinh. Trạm huyện: Chữa bệnh tại chỗ hoặc lưu động, chẩn đoán xét nghiệm sơ bộ, quản lý dịch, tổ chức tiêm phòng, kiểm dịch, huấn luyện cán bộ cho xã. Ban chăn nuôi Thú y xã, xây dựng tủ thuốc Thú y xã, chỉ đạo thực hiện công tác ở xã. Ban chăn nuôi Thú y hợp tác xã. Thực hiện các công tác Thú y ở xã, hợp tác xã. Cán bộ Thú ý xã và vệ sinh viên các đội sản xuất phải có tủ thuốc Thú y riêng của xã, hợp tác xã. Tóm lại: Những biện pháp trên nhằm phòng và chống dịch triệt để, nhằm tăng số lượng và chất lượng đàn gia súc. Chæång 5. MIỄN DỊCH HỌC CÁC HỆ THỐNG MIỄN DỊCH CỦA CƠ THỂ GIA SÚC 5.1. Miễn dịch hoüc là gì? Miễn dịch tiếng Latinh là Immunitas có nghĩa là không phải nạp thuế hoặc được giải phóng khỏi một nhiệm vụ nào đấy, là khả năng của cơ thể không cảm thụ đến với một tác nhân có hại nào đó cho cơ thể, (trong đó có vi sinh vật gây bệnh) ở một mức độ nhất định, tính miễn dịch là do toàn bộ cơ thể, sự thích ứng của cơ thể, tạo thành dưới sự điều khiển của thần kinh trung ương.
  17. 17 Nói về miễn dịch, trước đây người ta chỉ nhìn về mặt kháng thể và thực bào. Ngày nay, người ta nhìn rộng hơn. Miễn dịch bao gồm cả cơ thể đối với Vi sinh vật gây bệnh, chứ không phải chỉ riêng kháng thể với bạch cầu, bao gồm cả tác động của hệ thống thần kinh trung ương. Phản ứng bảo vệ của hệ thống nội bì màng lưới, sự che chở của da niêm mạc, hệ thống lâm ba. Những chất thiên nhiên tiêu diệt khuẩn, kiềm chế Vi khuẩn như Enzym trong nước mũi, nước bọt, nước mắt, vị toan của máu, tác động của Vi sinh vật đường ruột, niêm mạc của da, đối kháng chống lại Vi khuẩn. Học thuyết phản xạ của Páp lốp không những có thể ứng dụng đối với các hiện tượng sinh lý của toàn bộ cơ thể. Mà đối với sự miễn dịch của cơ thể, cũng có một ý nghĩa trọng đại. Nói như thế có nghĩa là: sự hình thành miễn dịch cũng chịu sự chi phối của quy luật cơ bản của hệ thống thần kinh. Vì vậy, vị trí của miễn dịch học là rất quan trọng đối với động vật. 5.2. Các trung tâm miễn dịch và các tế bào có thẩm quyền miễn dịch 5.2.1. Đặc tính miễn dịch Theo học thuyết của Páp lốp, thì tính miễn dịch của cơ thể động vật phát sinh như sau: Sau khi Vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào cơ thể, sẽ làm biến đổi hoàn toàn cảnh nội bộ cơ thể. Thậm chí còn phá hoại trạng thái thăng bằng. Để khôi phục lại trạng thái cân bằng đã bị phá huíy và để tiêu diệt Vi khuẩn xâm nhập cơ thể. Để đạt được mục đích gây bệnh, Vi khuẩn trong cơ thể bắt đầu hoặc động bài tiết những sản vật chuyển hoá. Các khí quan nội tạng cũng tiết ra những chất để hỗ trợ cơ thể tiếnh hành đấu tranh, đồng thời còn sản sinh ra kháng thể, để phát huy tác dụng tiêu diệt và trung hoìa Vi khuẩn gây bệnh. 5.2.2. Thần kinh Thần kinh trung ương làm nhiệm vụ điều tiết và huy động tất cả các lực lượng có thể điều tiết được như: da, niêm mạc, máu hạch lâm ba, phủ tạng. Bạch cầu đơn nhân to (Limphoxit) tế bào nội mô của các xoang, đại thực bào và tế bào Platmoxit, Platmoxit sản sinh kháng thể, tiêu thực bào bạch cầu đa nhân trung tính, tế bào sơn, tổ chức (Histiôsit) các tế bào Kupfeur. 5.2.3. Da Da có nhiều chức năng quan trọng, đảm bảo sự liên hệ qua lại của cơ thể với bên ngoài, giữ cho các bộ phận bên tỏng khỏi bị tác động bởi bên ngoài, da còn tham gia vào điều hoìa thân nhiệt, làm nhiệm vụ hô hấp và ngăn chặn sự xâm nhập của Vi khuẩn. Nó không những là bức thành đối với Vi khuẩn mà cong có tác dụng diệt nhiều loại Vi khuẩn. Da lành ngăn chặn đại đa số vi khuẩn gây bệnh trừ một số ít có thể xuyên qua như: Lepto, Brucenlla, Nấm lông, Nấm da. Thí nghiệm Bacterium prodigiosus lên da người khoíe mạnh vi khuẩn bị tiêu diệt nhanh (sau 20 phút chỉ có 1% so với ban đầu) da có tác dụng diệt khuẩn nhờ các chất tiết của da. Như mồ hôi, chất nhờn, lớp sừng của da có phản ứng toan, làm trở ngại sự sinh sản, cũng như loại mầm bệnh từ Nấm Trycophyton, Microsporum tế bào chất ở thượng bì luôn luôn cuốn theo nhiều mầm bệnh. Da lành, sạch có chức năng bảo vệ nhiều hơn da bẩn. Trong quá trình nhiễm trùng da nhạy cảm với mầm bệnh và độc tố, với những giai đoạn nhất định, dễ dẫn đến các phản ứng dị ứng trong một số bệnh truyền nhiễm. Như vậy, da đóng một vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của cơ thể và ảnh hưởng rõ rệt đến toàn bộ trạng thái cơ thể. Khi chức năng của da bị rối loạn, thì ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể. Vì thế, cần phải bảo vệ da để tăng sức đề kháng. 5.2.4. Niêm mạc So với da, thì niêm mạc mắt, mồm, mũi, đường sinh dục dễ thích ứng với mầm bệnh hơn. Nhiều mầm bệnh dễ phát hiện trên niêm mạc và xuyên vào cơ thể là do khả năng thấm hút của niêm mạc cao, do các nếp nhăn, do ẩm, bóng tối, độ nhiệt của niêm mạc thích ứng với Vi trùng. Niêm mạc đường hô hấp có lông, di động nó cùng với chất nhầy giữ bụi và tống ra ngoài bằng sự hắt hơi, bằng nhu động co thắt của phế quản. Niêm mạc tiết ra niêm dịch làm rữa trôi và tiêu diệt mầm bệnh. Dịch mũi có khả năng diệt Vi khuẩn làm tan Virus. Nước mắt, nước bọt, đờm, sữa, máu có chất Lizozym làm tan nhiều loại mầm bệnh. Nhất là các loại Cầu khuẩn, đơn cầu, Liên cầu khuẩn, dung huyết màng não. Cũng như da khả năng tự vệ của niêm mạc phụ thuộc vào tuổi, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc, thời tiết và các chế độ khác 5.2.5. Dịch tiết của các tuyến Khi qua đường tiêu hoá, mầm bệnh do các chất ở đường tiêu hoá tiêu diệt. Dịch vị dạ dày diệt nhiều loại Vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Tuy nhiên, trong dịch vị dạ dày, trực khuẩn Lao và nhiều loại Vi khuẩn có nha bào có thể sông được. Nước mật có khả năng kìm hãm Vi khuẩn đường ruột. Cấy chuyền liên tục nhiều lần vào môi trường có dịch mật, sẽ làm giảm sức đề kháng của Vi khuẩn Lao. Làm giảm độc lực Vi khuẩn lợn Âoïng dấu, diệt Virus Dịch tả trâu,
  18. 18 bò, Viêm não tuíy truyền nhiễm ngựa. Ngoài ra, dịch tá tràng, chất bại tiết đường sinh dục, chất Lactinin trong sữa cũng có tác dụng diệt trùng. Nước bót có chất Parotin làm tăng sinh niêm mạc, tăng cường sức bảo vệ niêm mạc. 5.2.6. Gan - Lách - Thận Gan: đảm bảo nhiều chức năng sinh lý quan trọng của cơ thể, là một khí quan đắc lực chống mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể. Paplốp đã xem gan như một vệ sỹ đáng tin cậy. Gan có chức năng giải độc và ngăn chặn mầm bệnh. Tế bào Kupfơ của gan có khả năng thực bào. Lách: là khí quan quan trọng nhất của hệ thống nội bì màng lưới. Nó cũng là một bộ phận ngăn chặn sự xâm nhập của mầm bệnh. Thí nghiệm cho biết: Nếu cắt bỏ lách chó thì khả năng âãö kháng đối với Vi khuẩn Nhiệt thán giảm đi rất nhiều. Hơn 80% Vi khuẩn gây bệnh được giữ lại ở gan, lách. Theo Kuzunốc, khi chống lại căn bệnh, lượng máu ở lách tăng cao, vô số bạch cầu đa nhân thẩm xuất. Tế bào màng lưới nội bì tăng sinh hoạt động thực bào tăng. Thận: cũng là tổ chức bảo vệ cơ thể. Nhiều mầm bệnh hoặc chất thải của chúng có thể được đưa về thận để giải độc, sau đó được bài xuất ra ngoài. 5.2.7. Hệ lâm ba Mầm bệnh khi xuyên qua da và các niêm mạc thì gặp hệ lâm ba, một hàng rào phòng ngự nữa của cơ thể. Hạch lâm ba vừa là hàng rào bảo vệ chống nhiễm trùng nói chung (chức năng miễn dịch không đặc hiệu). Vừa tham gia vào sản xuất kháng thể (chức năng miễn dịch đặc hiệu). Trong nhiều bệnh truyền nhiễm, các hạch lâm ba dưới hàm và vùng hầu sưng to như: bệnh Tỵ thư, Tụ huyết trùng, Ung khí thán, Nhiệt thán ở lợn. Chính là do khả năng bảo vệ của hạch lâm ba. Mầm bệnh đi qua bị giữ lại ở các xoang, rồi từ đó bị các tế bào màng lưới nội bào thực bào và bị chất Lizozym của hạch tiêu diệt. Trong bệnh Tỵ thư của ngựa không thấy Vi khuẩn trong máu là do hạch tiêu diệt. Tuy nhiên, nó ít có tác dụng với Virus. Có ý kiến cho rằng: Virus có thể sinh sản ngay trong hạch lâm ba. 5.2.7.1. Viêm Khi bị một kích thích, cơ thể thường phát sinh phản ứng viêm trong một mức độ nhất định, phản ứng này có tác dụng bảo vệ cơ thể. Quá trình viêm giữ mầm bệnh trong khu vực bị viêm, không cho chúng lan rộng vào máu và các bộ phận khác trong cơ thể. Tế bào ở chỗ viêm tăng sinh, làm thành một hàng rào ngăn cản không cho mầm bệnh và độc tố lan rộng. Tổ chức viêm bài tiết chất có Cotacine làm giãn nở và làm tăng tính thẫm lậu của mao quản, làm cho bạch cầu đa nhân dễ xuyên mạch, để làm nhiệm vụ thực bào. Kháng thể ở chỗ viêm có khả năng làm ngưng kết Vi khuẩn. Chỗ viêm có thể lôi cuốn mầm bệnh làm suy yếu và tiêu diệt. Tuy nhiên, ở các ổ viêm cũng có tác dụng có hại như, các dịch viêm có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ con vật. 5.2.7.2. Thực bào Thực bào cũng là một phản ứng tự vệ của cơ thể. Mét Nhi Cốp người đầu tiên nghiên cứu hệ thống thực bào và đề xướng học thuyết miễn dịch thực bào đã xác định rằng: Khi Vi khuẩn gây bệnh cũng như các vật lạ khác xâm nhập vào cơ thể đều bị bạch cầu chiếm đoạt, tiêu diệt và làm tiêu tan. Mét Nhi Cốp phân biệt hai loại: đại thực bào, tiểu thực bào. Thực bào là một hiện tượng đề kháng tự nhiên, chống nhiễm trùng có tính chất hoàn toàn của tế bào và là yếu tố đề kháng không đặc hiệu của cơ thể. Thực bào cũng là giai đoạn đầu tiên của phản ứng miễn dịch và sự hình thành kháng thể đặc hiệu. Vì sự vây bắt Vi khuẩn là tiền đề cho sự hình thành phản ứng tế bào đặc hiệu của các tế bào nhân và truyền thông tin đến các tế bào có nhiệm vụ tổng hợp kháng thể. 5.2.8. Miễn dịch dịch thể Miễn dịch dịch thể là phản ứng do các yếu tố dịch thể. Trước hết là các kháng thể hay Gamaglobulin của huyết thanh gây nên. Các kháng thể này phản ứng trực tiếp với chúng có biểu hiện của phản ứng kết tủa. Trong trường hợp khác kháng nguyên có ở bề mặt tế bào, ví dụ: tế bào hồng cầu hay Vi khuẩn thì các tế bào này sẽ bị ngưng kết với huyết thanh mang kháng thể tương ứng. Sau lần tiếp xúc đầu tiên với kháng nguyên, cơ thể đã có thể phản ứng bằng sự hình thành kháng thể. Nếu cơ thể có dịp tiếp xúc lần hai với kháng nguyên đó, thì đáp ứng lần này sẽ mạnh hơn và lâu hơn lần trước nhiều. Kháng thể sẽ hình thành nhiều và liên tục trong thời gian dài, trong nhiều tháng, nhiều năm. Ở đây, có sự tham gia của trí nhớ miễn dịch, mà chủ yếu là các tế bào Lym phô nhỏ. Trong đó, kháng thể là yếu tố miễn dịch đặc hiệu của dịch thể. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều yếu tố kháng khuẩn không đặc hiệu của dịch thể, trong đó quan trọng là bổ thể và Propecdin. Nó có nhiều trong huyết thanh tươi của máu người và nhiều loài động vật, nhưng có nhiều nhất là chuột lang. 5.2.9. Bổ thể
  19. 19 Bổ thể là một phức hợp bao gồm 4 thành phần, C1, C2, C3, C4. Hoạt tính của bổ thể xuất hiện khi kết hợp với kháng thể đặc hiệu, cùng với sự có mặt của các ion Mg++ và Ca++. Do khả năng làm tan một số loài Vi khuẩn và các tế bào nên người ta còn gọi nó là Anfalizyn. Bổ thể có cấu tạo Glubulin và Muxin là một chất không bền bị phá huíy ở 560C trong vòng 30 phút. Ngoài ra còn bị phá huíy dưới ánh sáng tia cực tím, dung dịch Acide và kiềm. Năm 1954, nhà sinh hóa học Mỹ Phicome phát hiện huyết thanh người và động vật có chất diệt khuẩn mới, có bản chất Protein gọi là Propecdin. Bằng con đường nhân tạo, người có thể nâng sức đề kháng này ở động vật, bằng cách đưa vào cơ thể huyết thanh chæïa nhiãöu Propecdin của một con vật khác. Táút caí các chất laìm giaím Propecdin trong maïu nhæ chaíy maïu, choaïng, ung thæ, chiãúu tia phoïng xaû. Âäöng thåìi cuîng laìm giaím sæïc âãö kháng tæû nhiãn của cơ thể đối với bãûnh truyền nhiãùm . 5.3. KHÁNG NGUYÊN VÀ KHÁNG THỂ 5.3.1. Kháng nguyên Khái niệm chung: Kháng nguyên Angtigen là do viết tắt từ chữ Anticomatogen. Tức là sinh ra kháng thể từ chữ Hy Lạp Anti là kháng lại, coma là cơ thể, genan là sinh ra, là các chất khi đưa vào cơ thể sản sinh kháng thể. Kháng thể kết hợp với kháng nguyên, sinh ra phản ứng miễn dịch đặc hiệu. Trong miễn dịch học, chất được gọi là kháng nguyên, trước hết là các chất lạ (chất khác loài) đối với cơ thể. Khäng phải bất kỳ chất lạ nào cũng là kháng nguyên. Tất cả các Protein của động vật, thực vật, vi sinh vật ở trạng thái keo đều có tính chất khác nhau. Các chất độc thực vật (Abin, Robin, Crotin, Rixin, Curxin). Các chất độc động vật (nọc rắn, nọc ong, nọc nhện), các men, các phân tử và các cơ quan tæì tế bào (nhiễm sắc thể, Riboxom) đều mang tính chất kháng nguyên khá mạnh. Một số Polisacarit vi sinh vật, các phức hợp Protein với Lipit, Protein với Polisacarit cũng có khả năng kích thích cơ thể để tạo ra kháng thể. Đồng thời các chất trên đây, khi xâm nhập vào cơ thể tự nó cũng đủ gây ra các kháng thể và tạo ra phản ứng miễn dịch, được gọi là kháng nguyên hoàn toàn hay kháng nguyên thực. Một số chất khi đưa vào cơ thể nó không gây kháng thể, nhưng nó có bề mặt đặc biệt, nên có thể kết hợp với kháng thể có sẵn thì được gọi là kháng nguyên không hoàn toàn hay Hapten. Khi Hapten kết hợp với Protein sẽ trở thành kháng nguyên hoàn toàn. 5.3.2. Khả năng sinh miễn dịch của kháng nguyên 5.3.2.1. Vật lý (phân tử lượng) Nói chung các phân tử lượng có khối lượng thấp (Acide amin, các đường), thường không có khả năng sinh miễn dịch. Trường hợp của đường với phân tử lượng 100.000 không sinh được miễn dịch. Nhưng với phân tử lượng cao hơn 600.000 có khả năng sinh miễn dịch, một số trường hợp của Amin cũng thế. Tuy vậy có ngoại lệ. Glucagon hormol tuíy, phân tử lượng chỉ 3.800. 5.3.2.2. Hóa học Cấu trúc hóa học không phải là tiêu chuẩn tuyệt đối, về khả năng sinh miễn dịch của kháng nguyên. Nhưng trong thực tế có các chất hoá học này, có nhiều tính kháng nguyên hơn các chất hoá học kia. Qua thí nghiệm cho thấy: Các Protein hầu hết đều sinh ra miễn dịch, trừ một số ít ví dụ như: Zelatin rất dễ bị phá huíy bởi phân hóa tố. Vì vậy, nếu đưa vào bằng đường tiêu hoïa thì rất dễ mất tác dụng. Các Lipit nói chung không có tính kháng nguyên. Các Polisacarit tính kháng nguyên không đồng đều mà phụ thuộc vào từng cá thể, ví dụ: Polisacarit của bệnh viêm phổi (Diplococcus pneumoniae) có tính kháng nguyên với người, nhưng không có tính kháng nguyên với thỏ thí nghiệm. Những Polisacarit tự nhiên có tính kháng nguyên như: Dextran (Poliglucoza), các Levan (Pructoza), các Polisacarit của Vi khuẩn, các chất đặc hiệu của nhóm máu. Các Acide nucleic ở dạng nguyên không có tính kháng nguyên. Bằng cách đó người ta có thể chế tạo được một số kháng thể kháng ADN, kháng ARN. Người có thể phát hiện kháng thể, kháng ADN ở người trong một số trường hợp bệnh lý. Tóm lại, cấu trúc hóa học không quyết định khả năng miễn dịch, nhưng tính cứng rắn và cấu tạo không gian bền vững của phân tử, có ảnh hưởng đến khả năng sinh miễn dịch, bằng cách tăng tính cứng rắn, có nghĩa là tăng tính kháng nguyên. 5.3.2.3. Khả năng ngoại lai Muốn có được tư cách kháng nguyên trên một cơ thể nhất định, một phân tử phải là ngoại lai đối với cơ thể đó, tức là không được giống với bất cứ một phân tử nào của cơ thể đó. Điều kiện này là hết sức cần thiết cho kháng nguyên. Cũng do định luật này, một cơ thể không bao giờ tổng hợp kháng thể chống lại những thành phần của bản thân nó, trường hợp tự miễn dịch là quá trình không bình thường, do cơ thể có những rối loạn về bệnh lý. Vậy, mỗi cơ thể được đặc trưng
  20. 20 bởi những kháng nguyên riêng của mình. Nhưng nếu cùng một loại thì có thể có một số phần tử kháng nguyên giống nhau. Đó là các đồng kháng nguyên. Ngược lại các loài, giống nhau thì rất hiếm, khi có những kháng nguyên giống nhau (dị kháng nguyên). 5.3.2.4. Khả năng về cơ thể Một kháng nguyên thường không kích thích được mọi cơ thể, với một mức độ đồng đều hệt như nhau, mặc dù chúng thuộc cùng một loài, trong một nhóm người, nhóm gia súc. Thế nào cũng có một số không hình thành kháng thể. Mặc dù kháng nguyên có đầy đủ tư cách sinh miễn dịch. Sự trả lời miễn dịch của từng cơ thể, đối với kích thích của kháng nguyên, phụ thuộc vào sự có mặt trong cơ thể. Một gen đặc biệt gọi là gen phát hiện, có khả năng phát hiện được các kháng nguyên đó. Như vậy, một chất bất luận chất hóa học thế nào. Muốn gây được miễn dịch cho một cơ thể thì phải ngoại lai đối với cơ thể đó. Phân tử của nó phải lớn và đủ cứng rắn, phải có được gen phát hiện ra những đặc điểm của nó. 5.3.3. Tính đặc hiệu của kháng nguyên Tính đặc hiệu của kháng nguyên là khả năng thúc đẩy cơ thể tổng hợp kháng thể tương ứng, kháng thể tương ứng này chỉ kết hợp với bất cứ kháng nguyên nào khác. Kết quả thực nghiệm cho thấy, bản chất phân tử kháng nguyên không phụ thuộc vào một, hay nhiều điểm nào nhất định ở bề mặt. Mặt chính là vì một vị trí hoặc nhiều vị trí kháng nguyên. Còn gọi cách khác là kiểu cách giống nhau hoặc khác nhau, người ta dùng danh từ đơn giá hoặc đa giá. Klan xtainơ (Karlland steiner) đã tiến hành thí nghiệm nổi tiếng, gắn các hóa chất khác nhau vào một phân tử Protein nhất định vào cho thấy các Acide amin hay nhóm chức phân phối trên bề mặt kháng nguyên. Đã tạo nên nhóm quyết định, cũng chính nhóm này đảm bảo sự liên kết đặc hiệu, giữa kháng nguyên và kháng thể. Như vậy, mỗi kháng nguyên bao gồm một số thành phần. Chất cao phân tử cơ bản mang tính kháng nguyên. Một hay nhiều nhóm phân tử nhỏ xác định tính đặc hiệu mà chúng gọi là nhóm quyết định. Nếu kháng nguyên chỉ có một nhóm quyết định thì trong cơ thể chỉ xuất hiện một dòng kháng thể, liên kết đặc hiệu về mặt hóa học với nhóm đó. Nhưng nếu kháng nguyên mang nhiều nhóm quyết định khác nhau, thì nói chung có thể sẽ tạo thành các kháng thể khác nhau, tương ứng với từng nhóm quyết định, có bao nhiêu nhóm quyết định, thì có bấy nhiêu loài kháng thể. Một phân tử kháng nguyên, thậm chí không lớn lắm cũng có thể kết hợp với vài phân tử kháng thể. Hóa trị kháng nguyên tương ứng với kháng thể mà kháng nguyên có khả năng kết hợp (Số lượng này là tối đa trong vùng thừa kháng thể và có thể xác định được trong chất kết tủa). Hoïa trị kháng nguyên phụ thuộc vào phân tử lượng của chúng. Chẳng hạn, Ovanbunin với phân tử lượng 40.000 có hóa trị là 5. Tyroglobulin với phân tử lượng 650.000 có hóa trị là 40, Hêmoxiamin với phân tử lượng là 6.500.000 có hóa trị là 75. Tuy nhiên, đối với các Protein có kích thước trung bình thì có hóa trị từ 5 đến 15. 5.3.4. Phân loại kháng nguyên Căn cứ vào đặc tính vật lý hóa học có thể phân biệt hai loại kháng nguyên: - Kháng nguyên hoàn toàn hay kháng nguyên thực. - Kháng nguyên không hoàn toàn hay Hapten. 5.3.4.1. Kháng nguyên hoàn toàn Kháng nguyên hoàn toàn, đưa đến sự xuất hiện kháng thể trong cơ thể, gây miễn dịch cho con vật. Trong ống nghiệm cùng với kháng thể tương ứng gây ra phản ứng đặc hiệu như: ngưng kết, kết tủa. Kháng nguyên hoàn toàn cấu tạo bằng chất Protit như: Nucleoproteit trong thân Vi khuẩn Nhiệt thán, hợp chất Gluxit, Lipit, Polypeptit kháng nguyên Samonella. 5.3.4.2. Kháng nguyên không hoàn toàn Kháng nguyên không hoàn toàn, bán kháng nguyên, tự thân không đưa đến sản sinh kháng thể trong cơ thể. Nhưng cũng có thể cùng kháng thể, chỉ bằng cách tiêm toàn bộ vi khuẩn cho con vật, sinh ra phản ứng trong ống nghiệm. Ví dụ: Kháng nguyên thân O của Vi khuẩn Gram + Pneumococcus là chất đa đường. Pholysacarit một mình nó không sản sinh ra kháng thể. Trong thân Vi khuẩn bán kháng nguyên. Trong đó, phân tử đa đường sinh ra phản ứng đặc hiệu, còn phân tử Protein sinh ra kháng thể. Nếu tiêm bán kháng nguyên với chất lòng trắng trứng, thêm chất bổ trợ Protein thì có thể làm cho cơ thể sinh kháng thể. Bây giờ kháng nguyên mới có đặc tính của một kháng nguyên hoàn toàn. Căn cứ vào sự phân phối kháng nguyên trên thân thể thì thấy tế bào Vi khuẩn có chưa rất nhiều kháng nguyên khác nhau. Trong thân Vi khuẩn có rất nhiều Protein có kháng nguyên, có thể hình thành kháng thể. Nhưng không quan
  21. 21 trọng, về phương diện miễn dịch học. Vì kháng thể sản sinh ra không gây miễn dịch trên cơ thể Vi khuẩn. Chỉ có một số kháng nguyên có khả năng gây miễn dịch. Như kháng nguyên bao học bề mặt Vi khuẩn thành một lớp đệm. Đó là kháng nguyên thân hay kháng nguyên O và kháng nguyên bao bọc bề mặt của lông Vi khuẩn di động. Đó là kháng nguyên lông hay kháng nguyên H. VK VK Kháng nguyên H Người ta bắt đầu dùng hai từ O và H để chỉ hai loại kháng nguyên này. Từ thí nghiệm Vay (Weil), Felix (1917) từ canh trùng già có thể phân biệt hai loại khuẩn lạc trên mặt thạch. Một loại thuộc chủng Vi khuẩn di động, có tính di động mạnh, nhanh chóng lan tràn trên mặt thạch, thành màng thành fím liên tục gọi là kháng nguyên H (Hauch). Loại không lan tràn dài, không hình thành màng fím liên tục, khuẩn lạc đứng rieng lẻ cách nhau xa gọi là O (Ohne), có nghĩa là không có fím. Kháng nguyên H không chịu được nóng, bị nhiệt độ 700C và cồn phá hoại, nhưng nó lại đề kháng với Formol. Kháng nguyên O không chịu được nóng, bị diệt ở nhiệt độ 1000C nhưng bị Formol tiêu diệt, nhưng lại có sức đề kháng với cồn. Hai loại kháng nguyên này sinh ra hai loại kháng thể khác nhau. Phải dùng những phương pháp đặc biệt, mới chế riêng từng loài được. Đun nóng 1000C diệt H lấy O. Ngoài ra, còn có kháng nguyên vi, không chịu được nóng bị diệt ở 600C trong 30 phút, hay Acide fenic phá huíy. Muốn có kháng nguyên vi thì cấy vi khuẩn trên thạch, với huyết thanh kháng H để tiêu diệt kháng nguyên H. Kháng nguyên vi là một hợp chất Gluxit, Lipit, Polypeptit có đặc tính kiềm chế sự ngưng kết O. Kháng nguyên Forman (Forman) là kháng nguyên tạp loài, cho nhiều loài vật khác nhau. Ở trong hồng cầu cừu, trong gan chuột lang, trong thận, óc ngựa, chó, dê, gà, mèo, hổ, có đặc tính khi đem tiêm cho thỏ thì hình thành kháng thể dung hồng cầu cừu, Vi khuẩn bệnh kiết lỵ, bệnh Phó thương hàn cũng có. Những loại không có Forman như: người, thỏ, bò mới có thể sản sinh kháng thể tương ứng, sau khi tiêm kháng nguyên này. 5.3.5. Kháng thể 5.3.5.1. Khái niệm chung Kháng thể là những Globulin xuất hiện trong máu động vật. Khi đưa kháng nguyên vào cơ thể. Nó có khả năng liên kết đặc hiệu với các kháng nguyên đã kích thích sinh ra nó. Từ khoảng thế kỷ 19, người ta đã bắt đầu biết rằng, trong huyết thanh của các động vật được miễn dịch, có kháng thể và đã chứng minh được sự xuất hiện các phản ứng kết tủa, ngưng kết, kết hợp bổ thể. Từ 1935, Tiselius đã phân loại Globulin huyết thanh ra ba nhóm: Anpha, Beta và Gamaglobulin và thấy đa số là Gamaglobulin, ông đã tìm thấy ở người có năm loại Globulin miễn dịch: Ig, IgG, IgM, IgA, IgI và IgE. Ig do viết tắt từ chữ (Immunglobulin). Theo quyết định của tổ chức y tế thế giới (OMS) họp ở Pra Ha 1964. Nó khác nhau về hàm lượng trong huyết thanh, về hoạt tính miễn dịch, trọng lượng và cấu trúc phân tử. 5.3.5.2 Caïc Globulin miãøn dëch (IgG) Nếu dùng Pagain cho tác dụng IgG thì có thể làm cho kháng thể mất đi 40% khối lượng phân tử. Tuy nhiên, vẫn không làm cản trở gì tới chức năng kết hợp với kháng nguyên tương ứng. Như vậy, Pagain làm tách rời một mảnh Protein ra khỏi phân tử kháng thể, mảnh này chính là những đoạn Cacboxit cuối của hai chuổi nặng dính liền với nhau bởi một hoặc nhiều cầu Disunfit. Mảnh này được gọi là F (Fragment Cristallisable), có thể kết tinh mảnh F không mang tính chất kháng thể. Phần còn lại có chức năng kháng thể thực sự, tức là chức năng kết hợp với kháng nguyên tương ứng. Phần còn lại những đoạn Amin cuối của hai chuổi nặng cộng với hai chuổi nhẹ, được đặt tên là F(ab)2 (Fragmentantibody) bằng mảnh kháng thể. F(ab)2 có thể tách ra hai mảnh nhỏ: F(ab) giống nhau. Mỗi F(ab) gồm đoạn Amin cuối của chuổi nặng, (còn gọi là fd) cọng với chuổi nhẹ. Về chức năng kháng thể F(ab)2 là kháng thể nhị giá, tức là còn có khả năng kết tủa kháng nguyên tương ứng. Nhưng F(ab) chỉ còn tính chất một kháng thể đơn giá, tức là kết hợp với kháng nguyên tương ứng. Nhưng không kết tủa được kháng nguyên tương ứng đó. Nếu dùng Pepsin cho tác dụng trên IgG thì có thể làm cho kháng thể mất đi 30% khối lượng phân tử. Các chuỗi nặng bị phá từ đoạn Cácboxin cuối, trở thành nhiều Peptít nhỏ, chỉ còn lại phân tử IgG là mảnh F(ab)2 có chức năng một kháng thể nhị giá F(ab)2 lớn hơn (ab)2 một chút, có thể tách F(ab)2 thành ra hai mảnh nhỏ F(ab)2 giống nhau. Mỗi mảnh có chức năng kháng thể đơn giá. Hai vị trí kháng thể có cùng một tính đặc hiệu, các cầu di Sunfit nối liền các chuổi nặng và các chuổi nhẹ, không phải là cầu nối duy nhất, giữa các thành phần khác nhau của phân tử. Mà thật ra còn cầu nối Hydro nữa, vì tác nhân khử không bao giờ làm cho phân tử hoàn toàn tan rã. Chuổi nhẹ cấu tạo bởi 214 Acide amin, chuổi nặng 450 Acide amin. Mỗi chuổi có một phần không ổn định.
  22. 22 Các Globulin miễn dịch A(IgA) cũng tương tự như trong IgG, ngoài trường hợp có trong huyết thanh, còn có cả trong dịch ngoại tiết, sữa non, nước giãi, dịch tiết đường hầu, dịch tiết đường ruột, nước mắt. Ngoài ra, IgA còn có một kiểu cách kháng nguyên. Đặc biệt một mảnh phụ gọi là T (Transport) bằng mảnh vận chuyển, bản chất hóa học của nó là Glucopeptit, giúp vận chuyển IgA từ huyết thanh tới dịch ngoại tiết hoặc ngược lại. Nó được tiết ra từ tương bào vào thẳng các dịch ngoại tiết. Tương bào nằm trong các lớp sâu của niêm mạc. Các Globulin miễn dịch M(IgM) có năm vị trí kháng thể có tính chất đặc hiệu. Mỗi vị trí được sắp xếp trên một cánh của hình sao năm cánh (nhìn qua kính). Các cầu Âisunfit giữ vai trò chủ yếu trong việc nối liền các vị trí kháng thể đó. Vì phân tử IgM rẫt dễ bị tan rã, sau khi cho tác dụng bởi các tác nhân khử. Các Globulin miễn dịch D và E (IgD và IgE) là các kháng thể phản vệ (Reagin). 5.3.5.3. Giả thuyết hình thành kháng thể Có nhiều giả thuyết muốn giải thích cơ chế tổng hợp các Gamaglobulin có thể chia ra: Thuyết thông tin và thuyết chọn lọc. 5.3.5.4. Các giả thuyết thông tin Thuyết khuôn mẫu trực tiếp Haurovit - Paoling (Haurowitz Pauling) kháng nguyên là mô hình (khuôn) cần thiết cho sự tổng hợp Globulin kháng thể tương ứng. Kháng nguyên có tác dụng hướng dẫn quá trình tổng hợp Gamaglobulin rập khuôn theo kiểu cách kháng nguyên (Pauling). Như vậy, trong suốt quá trình tổng hợp kháng thể, bao giờ kháng nguyên cũng phải có thường trực trong tế bào thẩm quyền miễn dịch. Ưu điểm của thuyết khuôn trực tiếp, là giải thích được tính đặc hiệu, tính đa dạng của kháng thể. Nhưng nó vấp phải khó khăn là không giải thích được các hiện tượng dung nạp miễn dịch, không sinh kháng thể chống lại kháng nguyên bản thân. Trí nhớ miễn dịch, tạo nhiều kháng thể khi đưa kháng nguyên lần thứ hai. Tại sao kháng thể vẫn tiếp tục tạo thành khi kháng nguyên đã mất đi. 5.3.5.5. Thuyết mô hình gián tiếp Bơcnet và Fennơ (Burnet - Fenner). Trên cơ sở sữa đổi thuyết trực tiếp của Paoling. Năm 1949 Bơcnét và Fenner đã đưa ra ý kiến. Kháng nguyên là mô hình khuôn, khi vào nhân tế bào có thẩm quyền miễn dịch, sẽ gây nên những biến đổi có tính chất di truyền. Những biến đổi này động chạm đến ADN và gắn chặt với cơ chế di truyền của tế bào. Do đó, quyết định sự hình thành kháng thể mang thông tin và tính chất kháng nguyên. Vì vậy, kháng nguyên không nhất thiết phải luôn luôn có mặt trong các tế bào có thẩm quyền miễn dịch. Đặc tính của sự tào thành Anfaglobulin miễn dịch sẽ truyền lại cho thế hệ con cháu. Điều làm cho người ta băn khoăn là kháng nguyên phải gây nên những biến đổi mức độ ADN, nghĩa là gây đột biến tế bào. Điều này chưa ai nhìn thấy. Hơn nữa, một Protein kháng nguyên, cũng không gây nên những biến đổi trên cấu trúc bền vững của phân tử ADN đến như vậy. 5.3.5.6. Các thuyết chọn lọc Thuyết chọn lọc tự nhiên của Jecnơ. Kháng nguyên không còn là mô hình (khuôn) cần thiết cho sự hình thành kháng thể mà chỉ coi như là một tác nhân kích thích các tế bào có thẩm quyền miễn dịch, nói cho đúng là những Clon của tế bào có thẩm quyền miễn dịch, các Clon này đã được quy định sẵn. Mỗi Clon chỉ có khả năng tiếp nhận sự kích thích của một kháng nguyên (nói cho đúng của một kiểu cách kháng nguyên). Khi kháng nguyên kích thích các Clon đó sẽ được nhân lên gấp bội và tổng hợp ra kháng thể. Những sự kích thích này xáøy ra ở thời kỳ tiền sinh (Thời kỳ phôi thai) thì Clon bị kích thích, sẽ không tiếp tục tồn tại nữa. Do đó, hình thành miễn dịch dung nạp suốt đời đối với kháng nguyên đó. 6. ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH VÀ BIỆN PHÁP GÂY MIỄN DỊCH 6.1. Đáp ứng miễn dịch Tổ chức khoa học của hạch bạch tuyết có thể thay đổi trong quá trình đáp ứng miễn dịch. Nội dung thay đổi tuỳ cách đáp ứng miễn dịch. Đáp ứng dịch thể, hình thành kháng thể hoàn toàn, đáp ứng tế bào sản xuất các Lympho bao mẫn cảm, giữ vai trò chủ chốt trong các hiện tượng quá mẫn, kiểu chân hoặc bằng cả hai cách. Trước lúc đáp ứng miễn dịch. Hạch bạch huyết gồm một thảm dày đắc các Lympho bào nhỏ ở trạng thái nghỉ. Trong đáp ứng dịch thể: ở chu vi là những cơ cấu hình tròn, tức là các nang Lympho: bao gồm các Lympho bào nhỏ ở giữa màu sáng, các Lympho bào non và các nguyên bào (Blast). Miễn dịch từ các tế bào này sẽ hình thành các tương bào, các tương bào có chức năng tiết ra kháng thể, nằm rãi rác trong vùng tủy của hạch bạch huyết. Trong đáp ứng tế bào, ở vùng chu vi (vùng cận voí) có một loại Limpho bào nhỏ, đặc biệt trong đáp ứng bằng cả hai cách cùng xáøy ra một lúc. Đại thực bào tham gia vào đáp ứng miễn dịch, bằng cách bắt kháng nguyên từ bên ngoài và truyền thông tin kháng nguyên cho các tế bào Lympho có thẩm quyền miễn dịch.
  23. 23 6.2. Hiện tượng tăng mẫn cảm 6.2.1. Tăng mẫn cảm tức thì Trạng thái mẫn cảm (hoặc phó mẫn cảm) có sẵn trước khi bị nhiễm trùng, do cơ thể trước kia đã tiếp xúc với mầm bệnh này (mẫn cảm) hoặc với một mầm bệnh khác (phó mẫn cảm), triệu chứng xẩy ra ở thời kỳ khởi phát của bệnh thì thường xẩy ra ác tính (tức thì). 6.2.2. Tăng mẫn cảm muộn 6.3. Gây miễn dịch chủ động tiếp thu được 6.3.1. Miễn dịch chủ động tự nhiên Sau khi cơ thể chiến thắng bệnh tật, bằng sức lực của chính bản thân mình, miễn dịch chủ động tự nhiên, xuất hiện khi cơ thể đã bị nhiều tác nhân gây bệnh. Loại miễn dịch này có thể kéo dài rất lâu, có khi suốt đời. Chẳng hạn, có ai đã từng mắc bệnh đậu mùa, hay sởi thì sẽ không bao giờ lo mắc lại nữa. Ngoài ra, do quá trình tiếp xúc, cơ thể có thể nhiều lần bị nhiễm một lượng nhỏ các tác nhân gây bệnh như: Bạch hầu, ho gà, vv Nên dần dần cũng được miễn dịch với các bệnh đó, mặc dù chưa bao giờ thấy các triệu chứng của bệnh. 6.3.2. Miễn dịch chủ động nhân tạo Sau khi đưa Vaccine vào cơ thể, trong huyết thanh sẽ xuất hiện kháng thể đặc hiệu chống lại Vi khuẩn gây bệnh ấy. Đấy là một hình thức tập duyệt, để nếu có thể lại một lần nào đó bị nhiễm chính Vi khuẩn gây bệnh đó thì nó sẽ (nhớ lại), cơ chế miễn dịch. Hiện tượng đó gọi là trí nhớ miễn dịch và nhanh chóng tạo ra một lượng kháng thể khá lớn để tiêu diệt. Mặc dù lần sau Vi khuẩn gây bệnh có sức độc mạnh hơn thế nữa, thì cơ thể cũng sẽ tự tránh được cho mình khỏi bị mắc bệnh, bằng những cơ chế quen thuộc như: chủng Âậu, tiêm phòng Lao, Thương hàn, Bại liệt. 6.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch Tính miễn dịch thiên nhiên tiếp thu được của cơ thể bị nhiều yếu tố chi phối. Các yếu tố đó có thể là yếu tố bên trong, cũng có thể là yếu tố bên ngoài. 6.3.4. Yếu tố bên trong Thể chất và loại hình thần kinh. Thể chất là một tổng hợp, các đặc điểm và hình thái sinh lý trong hoạt động sống của cơ thể, làm cho tính phản ứng của cơ thể đối với nhiễm trùng mạnh hay yếu. Loại hình thần kinh quyết định thể chất, con trạng thái mẫn cảm hoặc phó mẫn cảm được hình thành trong quá trình nhiễm trùng, do chính mầm bệnh gây ra (mẫn cảm) hoặc do Vi khuẩn bội nhiễm. Hoặc Vi khuẩn thứ xuất gây ra (phó mẫn cảm). Triệu chứng thường xuất hiện trong quá trình tiến triển của bệnh (mẫn cảm muộn). Kháng nguyên vào lần thứ hai sẽ tác động đến kháng thể cố định bên trong. Hoặc trên mặt của tổ chức mẫn cảm, quá trình này kích thích các tế bào gây rối loạn chức năng, làm tổn thương thực thể ở các tế bào, phá hủy những tế bào này, làm cho nó tiết ra các chất trung gian như: Histamin, Acetylcholine. Những chất này kích thích cơ trơn làm giảm hoặc tăng tính thẩm lậu mao quản, tăng bại tiết dịch thể các tuyến. Những Vi khuẩn này tuy bản thân độc lực yếu, nhưng có thể gây những tổn thương rất nặng trên một cơ thể mẫn cảm. Loại hình thần kinh khác nhau, mạnh hay yếu, thăng bằng hay không thăng bằng, linh hoạt hay lầm lỳ, tạo sức đề kháng cho cơ thể, như khả năng sản xuất kháng thể, khả năng thực bào đều khác nhau. Trên thực nghiệm người ta thấy rằng. Loại có loại hình thần kinh mạnh và thăng bằng, huyết thanh có hiệu giá ngưng kết cao đối với trực trùng lỵ, hơn loại có loại hình thần kinh yếu. 6.3.4.1. Tuổi Tuổi cũng là một yếu tố quyết định sức đề kháng với bệnh tật. Gia súc non nói chung, sức đề kháng yếu hơn gia súc trưởng thành. Vì ở con non, cơ thể chưa phát triển đầy đủ, loại hình thần kinh chưa hoàn thiện, cơ năng bảo vệ cơ thể chống nhiễm trùng chưa kiện toàn. Các phản ứng ngăn chặn, chống nhiễm trùng con non còn quá yếu. Hoạt động sinh lý có những đặc điểm riêng, làm cho mầm bệnh dễ xâm nhập hơn gia súc trưởng thành. Qua thí nghiệm, người ta thấy: thỏ non, chó, chuột non cảm thụ với Vi khuẩn bệnh Nhiệt thán, hơn loại trưởng thành. Bệnh Phó thương hàn, bệnh Iả phân trắng thường mắc ở gia súc non. Song, cũng có những bệnh con non được thừa hưởng sự miễn dịch từ mẹ truyền sang hoặc qua sữa đầu, qua bào thai trong thời gian 6 đến 8 tuần sau khi đẻ. Vì vậy, tiêm phòng tốt nhất cho con mẹ, đã giúp cho con non khi ra đời có sức đề kháng tốt. Thông thường, ở con trưởng thành hệ thần kinh và các cơ năng tự vệ đã được phát triển, được kiện toàn. Nên tính phản ứng được tăng cường, sức đề kháng mạnh, ở gia súc già, mọi cơ năng đều hoạt động kém, tính phản ứng, sức đề kháng giảm, bệnh xẩy ra không điển hình nhưng rất trầm trọng.
  24. 24 6.3.4.2. Giống Người ta theo dõi và thấy rằng: tính cảm thụ đối với bệnh của giống cái, kém hơn giống đực. Tuy nhiên, đặc điểm cấu tạo của giống cái và cách sử dụng gia súc cái không hợp lý, là nguyên nhân làm chúng mắc một số bệnh. 6.3.5. Yếu tố bên ngoài 6.3.5.1. Dinh dưỡng Sức đề kháng phụ thuộc vàp chế độ dinh dưỡng. Râyxle, nhà chuyên môn nổi tiếng về chữa bệnh dinh dưỡng, ông cho rằng: Mức độ cảm thụ của cơ thể đối với nhiều bệnh truyền nhiễm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện dinh dưỡng. Trong khẩu phần thức ăn, nếu thiếu Protide, Lipide, Gluxide, muối khoáng và Vitamin. Thì sẽ làm cho sức đề kháng của cơ thể, tính miễn dịch bị giảm đi rõ rệt. Dinh dưỡng không những về mặt chất, mà về mặt lượng cũng đều rất quan trọng. Ngay cả phương pháp cho ăn đối với gia súc non, việc sæí duûng thức ăn hợp với lứa tuổi cũng ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trường, phát triển bình thường của chúng. Cho ăn thiếu thốn, làm giảm sức đề kháng, nếu gia súc bị đói thì kháng thể hình thành kém. 6.3.5.2. Protide là yếu tố quan trọng Dự trữ Protide là hàng rào tự vệ của cơ thể, chống nhiễm trùng, vì Globulin là tiền thân của kháng thể, được tổng hợp từ Acide amin. Sự hình thành kháng thể và phản ứng Platmoxit đối với kích thích của kháng nguyên, phụ thuộc vào chất Protide đưa vào cơ thể. Khi đói Protide, cường độ tạo kháng thể giảm, gia súc dễ mắc bệnh viêm phổi, bệnh Phó thương hàn, Sẩy thai truyền nhiễm. Vậy, lượng Protide đầy đủ trong khẩu phần thức ăn thì gia súc có sức đề kháng tốt. Nhưng nếu nhiều quá sẽ làm tăng lượng vi khuẩn đường ruột, làm giảm khả năng tự vệ của đường ruột và sẽ bị phân huíy thành Acide sunfuaric. Sunfuaric trạng thái Acide hoá sẽ làm giảm tính diệt trùng. Đồng thời, Acide thừa kết hợp với Canxi, Photpho làm xương bị hao mòn, dẫn đến còi xương, làm giảm sức đề kháng của cơ thể. 6.3.5.3. Vitamin Vitamin là những hợp chất hữu cơ. Khi vào cơ thể, chủ yếu theo đường thức ăn. Vitamin không có giá trị nhiệt lượng và xây dựng tế bào tổ chức. Nhưng với một lượng rất nhỏ, nó đóng vai trò kích thích sinh vật trong trao đổi chất, trong tất cả quá trình sống của cơ thể. Nó có tác dụng trong đề phòng bệnh lý (thiếu B1). Tham gia vào quá trình trao đổi chất. Đảm bảo sự hoạt động điều hòa của cơ quan nội tạng, làm cho cơ thể phát triển bình thường, chóng hồi phục sức khoẻ sau khi khỏi bệnh. Thức ăn có đủ Vitamin làm tăng sức đề kháng cho cơ thể đối với nhiễm trùng. Vì vậy, các loại Vitamin A, B, C, D là rất cần thiết cho cơ thể. - VitaminA Thiếu VitaminA, cơ thể mệt mỏi, kém ăn, sức bảo vệ niêm mạc bị giảm sút, chất nhầy mất tác dụng diệt trùng. Gia súc non yếu ớt, da khô, lông xù, khả năng động hớn, khả năng rụng trứng, khả năng sản sinh tinh trùng giảm. - Vitamin B Vitamin B, làm tăng cường sức chịu đựng của cơ thể đối với nhiễm trùng. Vì nó đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa tế bào, quá trình oxy hóa của cơ thể ảnh hưởng đến chức năng tiết dịch của dạ dày, chức năng tạo máu, hô hấp và trong hoạt động thần kinh. - Vitamin C Vitamin C, làm tăng khả năng làm việc, làm hồi phục tế bào nhanh chóng, tăng cường hoạt động thực bào, tăng cường khả năng sản xuất kháng thể và trung hòa độc. Thiếu C, con vật kém sữa, thiếu máu, kém ăn - Vitamin D Vitamin D tham gia vào quá trình trao đổi khoáng, điều chỉnh hấp thu Canxi, Photpho của cơ thể để tạo xương. - Muối khoáng Muối khoáng cũng đóng vai trò quan trọng, đối với sức đề kháng và chống đỡ bệnh tật. Thiếu khoáng làm rối loạn quá trình khử độc, rối loạn trao đổi nước, giảm tác dụng bảo vệ áp suất thẩm thấu của tế bào, gây nhiều biến đổi khác, làm giảm sức đề kháng. Muối Canxi, Photpho tham gia vào việc hình thành và phát triển mô xương. Muối Natri và Kali bảo đảm áp suất thẩm thấu trong tế bào và trao đổi nước, vệ sinh gia súc, vệ sinh chuồng trại, thức ăn nước uống, đảm bảo nhiệt độ, độ ẩm. Ánh sáng mặt trời, tiêu diệt được nhiều loại Vi sinh vật gây bệnh. 6.3.6. Vaccine: (Jenner - 1896)
  25. 25 Ông đã chũng đậu một đứa trẻ, bằng mụn đạu của người vắt sữa bị đậu bò và sau đó đưa trẻ không mắc bệnh đậu nữa. Như vậy là ông đã đưa vào cơ thể một loại kháng nguyên, lấy từ Vi sinh vật gây bệnh, đã được bào chế đến mức không còn khả năng gây bệnh hay chỉ gây bệnh nhẹ, không ảnh hưởng đến sức khoẻ, làm cho người, vật được tiêm chủng tự tạo ra miễn dịch và không mắc bệnh khi tái phát. 6.3.6.1. Nguyên tắc sử dụng Vaccine Vaccine phải được tiêm phòng rộng rãi. Thời gian cần tiêm chủng, tiêm khi dịch chưa xáøy ra. Phải tiêm liên tục và đúng kỳ hạn. Tiêm chủng đúng đối tượng. Các đường đưa Vaccine vào cơ thể: Tiêm dưới da, tiêm trong da, châm nhiều mũi, rạch ngoài da, phương pháp khê dung, nhỏ mắt, mũi, cho uống, trộn vào thức ăn khi dùng. 6.3.6.2. Bảo quản Vaccine Vacccine là một sinh vật phẩm, dễ bị hỏng và nhiễm khuẩn. Vì vậy, phải bảo quản ở nhiệt độ râm mát (từ 0-100C), không có ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp. 6.3.6.3. Các phản ứng do Vacccine gây ra Đa số Vaccine được dùng không gây ra tai biến gì nguy hiểm, nhưng cũng có một số Vaccine khi đưa vào cơ thể, gây nên phản ứng một số cơ quan nhất định. B, C, G gây loét nơi tiêm, chủng đậu muộn gây viêm não. Vì vậy, sau khi tiêm cần theo dõi con vật, nếu có tai biến xử lý được kịp thời. 6.3.6.4. Tiêu chuẩn Vaccine Vaccine phải được an toàn (vô khuẩn: nghĩa là không lẫn tạp khuẩn). Vaccine phải được thuần khiết (không có lẫn kháng nguyên khác loài) Vaccine phải không độc. 6.3.6.5. Hiệu lực Vaccine Thời gian miễn dịch, mức độ miễn dịch tuỳ thuộc từng loài kháng nguyên. Nhưng khi gây bệnh bằng tiêm Vaccine mới sản xuất cho con vật. Sau đó, gây bệnh thực nghiệm, con vật không mắc bệnh là Vaccine đạt tiêu chuẩn. Hoặc lấy huyết thanh của vật đã miễn dịch bằng Vaccine đem tiêm cho con vật khác, rồi gây bệnh thực nghiệm, vật không mắc bệnh là Vaccine miễn dịch tốt. 6.3.7. Các hình thức Vaccine 6.3.7.1. Vaccine chết (vô hoạt) Vaccine chết, các Vi sinh vật dùng làm Vaccine được nuôi cấy trong môi trường thích hợp, để làm tăng độc lực của các nhân tố lý, hóa học để tiêu diệt vi sinh vật, các vi sinh vật bị chết nhưng vẫn giữ được tính kháng nguyên (Formol - Fenon), nhiệt độ, tia tử ngoại, siêu âm) bệnh Tu huyết trùng trâu, bò, lợn, bệnh Ung khí thán. 6.3.7.2. Vaccine sống (Vaccine nhược độc) Vaccine sống, dùng Vi Khuẩn hoặc Virus đã được làm yếu đi đến mức không gây nguy hiểm cho cơ thể, nhưng vẫn 0 miễn dịch tốt, nuôi cấy trong điều kiện bất lợi, Nhiệt thán ở 42 C hoặc trong môi trường có thêm CO2, nuôi Vi khuẩn Lao trong môi trường có mặt bò, Vaccine Dịch tả trâu, bò qua thỏ, Dịch tả lợn qua bê. Tiếp đời qua trứng như: Newcastle, Dịch tả vịt, Âáûu gà. 6.3.7.3. Giải độc tố (Anatocine) Giải độc tố: Dùng độc tố của Vi khuẩn đã được giải độc như: giải độc tố Uốn ván dùng Formol giải độc, trực khuẩn bạch hầu, giải độc tố mất độc tính, nhưng còn tính gây miễn dịch. 6.3.7.4. Vaccine hấp phụ hay Vaccine kháng nguyên Vaccine hấp phụ hay Vaccine kháng nguyên, dùng kháng nguyên chiết xuất từ Vi khuẩn, đã loại hết tạp chất và hấp phụ trên hoá chất như Anbumin phốt phát. Canxi phốtphat. Loại này gây nhiều bệnh trong cùng một thời gian nhất định. 6.3.7.5. Vaccine đơn giá và Vaccine đa giá - Vaccine đơn giá: Vaccine là một Vi sinh vật. Do đó, chỉ kích thích cơ thể sinh ra kháng thể chống lại một bệnh.
  26. 26 - Vaccine đa giá: Vaccine đa giá là người ta hỗn hợp nhiều loại kháng nguyên khác nhau thành một thứ Vaccine, với điều kiện là các loại kháng nguyên này không ức chế lẫn nhau: Uốn ván, Ho gà, Bạch hầu, Sởi với Ho gà. - Vaccine chủ yếu là phòng. Nhưng cũng có loại dùng điều trị như Vaccine Dại. Vaccine Tụ cầu: gồm hai loại tự liệu và trị liệu. Tự liệu là lấy chính Tụ cầu gây bệnh cho người đó để sản xuất Vaccine điều trị cho người đó, Vaccine trị liệu có thể dùng nhiều giống khác nhau. 6.3.7.6. Cách dùng Vaccine Tất cả Vaccine đều phải qua kiểm dịch, có số kiểm dịch ghi trên nhãn. Chai có nhãn rõ ràng, ghi rõ cơ quan sản xuất, nơi sản xuất, ngày sản xuất, liều lượng, thời hạn dùng. Thuốc khi dùng không kết tủa, không đóng váng, không hôi thối, khi lắc phải tan đều. Chai dùng phải nguyên vẹn, không có vết rạn nứt, nút chai không hở, không chảy ra ngoài, không dùng thuốc đã mở sẵn, Vaccine phải dùng hết trong ngày, không dùng Vaccine dỡ của ngày hôm trước, khi dùng lắc kỹ cho đều, đặc biệt đối với Vaccine keo phèn và phủ tạng. Khi sử dụng phải sát trùng nút cao su và cổ chai bằng Iode hoặc cồn 700C. Khi tiêm Vaccine sống, nếu có rơi vãi ra ngoài thì phải sát trùng. Tiêm đúng liều đã ghi trên nhãn, hoặc chỉ dẫn của chuyên môn. Tuyệt đối không dùng liều tuỳ tiện, không tiêm vào mạch máu, kiểm tra gia súc trước khi tiêm, nếu sốt phải điều trị khỏi mới được tiêm. Theo dõi gia súc sau khi tiêm. Có một số Vaccine có phản ứng ví dụ như: Nhiệt thán, khi tiêm xong một lúc vật sốt cao, niêm mạc tụ máu, bỏ ăn không nên điều trị bằng Penicilline, mà dùng các chất trợ tim mạch. Nếu gia súc không bớt thì mới dùng Penicilline. Sau khi tiêm 10 đến 14 ngày thì có miễn dịch, trừ một vài Vaccine sống nhược độc miễn dịch có sớm hơn. Thời gian miễn dịch dài hay ngắn tuỳ loài Vaccine, tình hình sức khoẻ con vật, vật yếu miễn dịch ngắn. 6.4. Miễn dịch thụ động Miến dịch thụ động tiếp thu được sau khi cơ thể chiến thắng bệnh tật bằng tác dụng từ bên ngoài đưa vào. 6.4.1. Miễn dịch qua mẹ Trẻ sơ sinh, gia súc sơ sinh tiếp thu được miễn dịch qua sữa mẹ, thông qua nhau hay sữa đầu, gia súc non nhận được kháng thể từ người mẹ. Do đó, có sức đề kháng với các tác nhân gây bệnh. Miễn dịch này tương đối ngắn, thí dụ trẻ sơ sinh dưới 6 tháng, ít bị Sởi, Âậu mùa hay Bạch hầu. Nhưng sau 6 tháng thì dễ bị nhiễm bệnh, vì tính miễn dịch bị giảm đi, nên dễ bị cảm nhiễm với bệnh. 6.4.2. Huyết thanh miễn dịch Huyết thanh miễn dịch hay kháng huyết thanh, chứa sẵn kháng thể đặc hiệu, nên khi tiêm vào cơ thể gây miễn dịch thụ động ngay, nhưng không kéo dài 2 đến 3 tuáön. Kháng huyết thanh được bào chế từ những động vật to cùng loài với loại vật cảm thụ bệnh, để tránh phản ứng quá mẫn và để có lượng huyết thanh lớn, người ta thường dùng ngựa để sản xuất. Đưa vào động vật các tác nhân gây bệnh, vi sinh vật hoặc độc tố của nó để gây miễn dịch. Sau khi trong máu động vật, có độ kháng thể cao, người ta lấy máu đó, chắt lấy huyết thanh, loại bỏ Proteine không đặc hiệu. 6.4.3. Đối tượng sử dụng Huyết thanh chỉ dùng cho những con vật đã nhiễm Vi sinh vật hay nhiễm độc cấp tính, phải đưa ngay kháng thể, để trung hòa tác nhân gây bệnh. Khi dùng huyết thanh thường phối hợp với kháng sinh để tiêu diệt nguồn bệnh. Dùng Vaccine để gây miễn dịch chủ động tiếp theo, nhằm có tác dụng bảo vệ lâu dài và vững chắc. 6.4.4. Liều lượng Tuỳ theo lứa tuổi, tuỳ theo mức độ của bệnh mà dùng các liều lượng huyết thanh khác nhau. Nhưng tiêm ít lần với liều cao. Huyết thanh được tính bằng đơn vị kháng độc tố UA (Unite antoxique) là lượng kháng độc tố nhỏ nhất, có khả năng trung hòa được một đơn vị độc tố. Phòng ngừa tai biến bằng cách: hỏi xem đã tiêm lần nào chưa. Làm phản ứng thoát mẫn, pha huyết thanh với dung dịch NaCl 0,85%, tiêm 1/10ml vào trong da, chờ 30 phút, không có mẫn đỏ ở chỗ tiêm khi đó mới tiêm cả liều. Nếu có mẫn đỏ mà yêu cầu tiêm thç tiêm dần từ 0,5ml đến 1ml, 2ml cách nhau 2-3 giờ tiêm 1 lần và cứ như thế cho đến hết liều chỉ định. Nhưng phải trợ tim và chống truỵ tim mạch đột ngột. Bệnh huyết thanh thường xáøy ra khi dùng lần 2, cũng có khi là huyết thanh khác loài. Để tránh được tai biến này, người ta tiêm huyết thanh đã xử lý bằng cách đun nóng ở 560C trong vòng 30 phút. Đồng thời sử dụng huyết thanh đã