Bài giảng Nhập môn Xã hội học (Phần 2)

pdf 120 trang hapham 1200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Nhập môn Xã hội học (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_nhap_mon_xa_hoi_hoc_phan_2.pdf

Nội dung text: Bài giảng Nhập môn Xã hội học (Phần 2)

  1. Chương V XÃ HỘI HOÁ I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI HOÁ 1. Bản chất con người Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau. Xã hội học quan niệm con người là đơn vị cơ bản cấu thành xã hội, là đơn vị nhỏ nhất của hệ thống xã hội, là sinh vật có tư duy, sống theo tổ chức xã hội. Trước hết, con người là sinh vật cao cấp nhất hành tinh, có bản năng sinh tồn và duy trì nòi giống. Gọi là bản năng vì nó hình thành một cách tự nhiên hợp quy luật trong quá trình tiến hoá lâu dài của nhân loại, nằm trong vô thức của con ng ười. Bản năng sinh tồn dễ dẫn đến tính tham lam, ích kỷ Bản năng duy trì nòi giống kích thích cảm giác và nhu cầu gắn bó với người khác giới. Học thuyết phân tâm học của S. Freud (n hà tâm lý học - y học người Áo, 1856-1939) đã quá nhấn mạnh đến bản năng sinh tồn của con người. Luận điểm cơ bản của S. Freud tách con người thành ba khối, gồm có: “Cái ấy” (cái vô thức) , “cái tôi” v à “cái siêu tôi”. Trong đó: - Cái vô thức bao gồm các bản năng vô thức như ăn uống, tình dục, tự vệ. Trong đó, bản năng t ình dục giữ vai trò trọng tâm, quyết định toàn bộ đời sống tâm lý và hành vi của con người. - Cái tôi - con người thường ngày - con người ý thức, tồn tại theo nguyên tắc hiện thực. Cái tôi ý thức là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài của cái lõi , hạt nhân bên trong là “cái ấy”. - Cái siêu tôi là cái siêu phàm, “cái tôi lý t ưởng” không bao giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép. Như vậy, phân tâm học đã đề cao một cách thái quá cái bản năng vô thức, dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất x ã hội lịch sử của con người. Hơn thế nữa, con người là một thực thể xã hội và văn hoá. Con người được xã hội truyền lại nền văn hoá xã hội và đã biến mình thành con người xã hội. E. Durkheim cho rằng xã hội tạo nên bản chất con người khi ông nói; “Xã hội là nguyên lý giải thích cá thể”. Con người là 86
  2. một tồn tại “giao lưu” chứ không phải là một tồn tại xã hội hành động. Quá trình xã hội hoá cá thể là quá trình giao lưu ngôn ngữ, giao lưu tinh thần giữa người này với người khác để lĩnh hội các “biểu tượng xã hội”, các tập tục, lề thói tạo ra hành vi xã hội. Karl Marx lại nói: “Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng, tồn tại với từng cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con ng ười là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Là một sinh vật, con người mang bản năng sinh tồn và chịu sự chi phối của quy luật cạnh tranh sinh tồn. L à con người xã hội, con người mang bản thể xã hội và chịu sự chi phối của quy luật cộng đồng. Do vậy, con người luôn sống trong sự pha trộn của bản năng sinh tồn với bản thể xã hội để phát ra hành vi. Trong cuộc sống thường ngày, mỗi người luôn phải đối mặt với hai dạng hành vi nằm trong bản thể của chính mình là hành vi bản năng và hành vi ý thức. Trong đó: - Hành vi bản năng (hành vi vô thức) là hành vi sơ đẳng thấp nhất thoả mãn nhu cầu sinh học. Đây là hành vi bẩm sinh do bản năng sinh tồn của con người chi phối. - Hành vi ý thức (hành vi trí tuệ) là hành vi có suy nghĩ, có tính toán trước theo mục đích đã được đề ra, là hành vi do ý thức của con người chi phối. Một vấn đề nữa thường được người ta bàn đến là con người tâm linh, một thực thể vô cùng phức tạp, đa dạng, vô tận. Trong tâm linh con người luôn có sự pha trộn của vô thức, tiềm thức và ý thức. trong đó, lớp sâu nhất là vô thức, nó có nguồn gốc từ rất sâu, rất xa x ưa đến với con người hiện tại bằng di truyền, hoặc có thể do (có một số ý kiến chưa được công nhận) kiếp trước (kiếp luân hồi) tái hiện. Tâm linh con người phức tạp như vậy, nên con người thường cần đến một chỗ dựa tinh thần như tôn giáo, sự say mê, một chủ nghĩa, hay đơn giản, tìm ở người khác sự đồng cảm. Ý thức là cái hiện hữu thường trực trong tâm linh con ng ười. Nó dẫn dắt, chi phối trong đời sống con ng ười. Tuy vậy, ý thức là một phạm trù vô cùng phức tạp. Ý thức không hoàn toàn tách rời vô thức và tiềm thức. Con người luôn tự vấn mình, đánh giá mình và những người xung quanh để quyết định hành vi và luôn bị giằng xé bởi các mâu 87
  3. thuẫn, bởi sự đấu tranh nội tâm và ngoại cảnh để định hướng về sự làm người. Từ ý thức, con người luôn thấy mình là tổng hoà của bản năng, lý trí và tâm linh. Dù tự giác hay không, có ý chí quyết thắng trở ngại để tự khẳng định mình hay không, thì ý thức vẫn phải luôn là động lực sống của mỗi người. Trong xã hội, con người chịu trách nhiệm đối với hành vi xã hội của chính mình. Do đó, gia đình và xã hội phải có những định hướng đúng để làm cơ sở cho mỗi cá nhân lựa chọn hành vi của mình. Nếu không có những định hướng đúng đó, mỗi cá nhân dễ bị lầm lạc trong đường đời, trở thành tốt hơn thì khó, nhưng trở thành xấu hơn thì dễ. Như vậy, nói đến con người là nói đến nhân cách mà mỗi cá nhân tạo dựng được cho mình trong quá trình xã hội hoá. Xã hội hoá đã biến các cá thể (cá thể sinh học) thành các cá nhân (thực thể xã hội) và thành nhân cách (con người xã hội). Mỗi người muốn có nhân cách lớn trong xã hội phải chịu khó học tập, chịu sự giáo dục x ã hội, tự rèn luyện bản thân và phải hoạt động đem lại lợi ích cho cộng đồng v à bản thân. 2. Những quan niệm về xã hội hoá Từ khi chào đời, con người đã bắt đầu đối diện với thế giới xã hội, ít nhất thể hiện ở những hậu quả đối với h ành vi của con người cũng như các thực tế khác mà con người gặp phải. Các cá nhân được xã hội, mà trong đó cá nhân đang sống và nhóm xã hội mà cá nhân là thành viên, nhào nặn. Sở dĩ như vậy là vì thế giới xung quanh mỗi cá nhân, bao gồm cả thế giới x ã hội, quy định những hành vi của cá nhân, ép buộc cá nhân h ành động theo khuôn mẫu nhất định. Berger, nhà xã hội học người Anh đã từng nói: “Xã hội thâm nhập chúng ta cũng mạnh như vây bọc chúng ta. Chúng ta lệ thuộc v ào xã hội chủ yếu thông qua sự đồng cảm chứ không phải bị chinh phục. Chúng ta bị mê hoặc bởi bản chất xã hội của riêng chúng ta. Những bức tường xã hội, có sẵn từ trước khi chúng ta ra đời, đã vây bọc chúng ta, nhưng cũng được chính chúng ta xây dựng nên. Chúng ta sẽ bị giam cầm với chính sự hợp tác của chúng ta” . Như vậy, theo Berger, cá nhân có cả hai vai trò với xã hội xung quanh cá nhân đó là xây dựng xã hội 88
  4. và tuân thủ những quy định của xã hội. Từ đó, dễ nhận thấy bản chất vừa tuân thủ, vừa sáng tạo của cá nhân trong x ã hội. Khái niệm xã hội hoá hiện nay được dùng với hai nội dung chính là: - Thứ nhất, xã hội truyền lại những gì cho mỗi cá nhân trong xã hội và tạo ra nhân cách của cá nhân đó ra sao? - Thứ hai, cá nhân thể hiện vai trò của mình đối với xã hội và hoà nhập vào xã hội như thế nào? Hiện nay, có khá nhiều quan niệm về x ã hội hoá khác nhau do xuất phát từ cách nhìn nhận bản chất con người khác nhau. Có thể dẫn ra ba quan niệm cơ bản sau đây: - Quan niệm thứ nhất không đề cập đến tính chủ động sáng tạo cá nhân trong quá trình thu nhận kinh nghiệm xã hội. Theo quan niệm này, các cá nhân dường như bị gò vào các chuẩn mực khuôn mẫu mà không thể chống lại được. Nói cách khác, mỗi cá nhân bị x ã hội mặc cho một chiếc áo văn hoá phù hợp với từng nơi, từng thời điểm, từng giai đoạn của cuộc sống nhưng cá nhân lại không có quyền lựa chọn, thậm chí chính mình. + Thuyết X (Douglas Mc Gregor, nhà quản lý người Mỹ) cho rằng hầu hết mọi người vẫn thích bị chỉ huy nhiều h ơn, chứ không muốn gánh vác trách nhiệm, và muốn được an phận là trên hết. Với triết lý này, con người bị thúc đẩy bởi tiền bạc, bổng lộc v à sự đe doạ trừng phạt. Do vậy ông chủ trương giám sát chặt con người bằng các quy định. + Một số nhà triết học phương Đông cổ đại cũng cho rằng con người bản chất là tham lam, độc ác và tàn bạo (Nhân chi sơ, tính bản ác - Tuân Tử). Từ quan niệm đó, họ chủ trương phải giám sát chặt chẽ con người bằng các quy định xã hội. - Quan niệm thứ hai khẳng định tính tích cực sáng tạo, chủ động của cá nhân trong quá trình xã hội hoá. Theo thuyết này, cá nhân không chỉ tiếp thu những kinh nghiệm x ã hội mà còn tham gia vào quá trình tạo ra các kinh nghiệm xã hội. + Thuyết Y (Douglas Mc Gregor, nhà quản lý người Mỹ) cho rằng, về bản chất, con người không lười biếng, không đáng ngờ vực. 89
  5. Con người có thể tự định hướng và sáng tạo trong công việc nếu được thúc đẩy hợp lý. Do vậy, ông chủ trương tạo ra các điều kiện để thúc đẩy tính độc lập tự chủ và sáng tạo ở con người. + Một số nhà triết học phương Đông cổ đại cũng chủ trương “Nhân chi sơ, tính bản thiện” (Mạnh Tử), tức là con người sinh ra vốn thiện, trong trắng, thánh thiện. Con ng ười trong xã hội bộc lộ những bản chất tham lam, bạo lực, lười nhác là do xã hội gây ra. Chủ trương của các nhà hiền triết này là lấy giáo dục xã hội làm nền tảng để tạo ra và giữ gìn cái trong trắng và thánh thiện. “Khi ngủ ai cũng như lương thiện, tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền. Hiền dữ đâu phải là tính sẵn; phần nhiều do giáo dục mà nên” (Hồ Chí Minh). - Quan niệm thứ ba cho rằng con người có cả hai mặt thụ động, lười nhác, tham lam lẫn chủ động, sáng tạo v à tích cực. Xã hội, một mặt, truyền lại cho cá nhân những khuôn mẫu v à chuẩn mực trong hành vi; song mặt khác, cũng tạo điều kiện cho cá nhân phát huy tính chủ động, sáng tạo và tích cực trong việc xây dựng xã hội văn minh, lành mạnh. Từ tất cả những vấn đề đã dẫn trên, xã hội học thống nhất xác định khái niệm xã hội hoá như sau: “Xã hội hoá là quá trình mà qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hoá của x ã hội như các khuôn mẫu xã hội, quá trình mà nhờ nó, cá nhân đạt được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử phù hợp với vai trò xã hội của mình, hoà nhập vào xã hội”. Như vậy, thực chất, quá trình xã hội hoá là quá trình tạo ra nhân cách cho mỗi con ng ười trong xã hội. 3. Cơ chế xã hội hoá a. Cơ chế định chế Cơ chế định chế là cơ chế mà xã hội truyền lại những chuẩn mực, khuôn mẫu bắt buộc cho mỗi cá nhân. Cá nhân phải trải qua quá trình học hỏi, thực hành và thực hiện chúng trong cuộc sống. Con người học được các tri thức khoa học, những kỹ năng lao động nhất định mà xã hội đạt được. Đồng thời, cá nhân còn học được kinh nghiệm của những người đi trước để vận dụng vào cuộc sống của bản thân cá nhân đó. b. Cơ chế phi định chế 90
  6. Cơ chế phi định chế là cơ chế mà trong đó, mỗi cá nhân học được ở xã hội những điều cần thiết một cách tự nhi ên. Cơ chế phi định chế được thực hiện thông qua hai phương thức là bắt chước và lây lan. - Phương thức bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các h ành động, hành vi, cách thức tư duy và ứng xử của một người hay một nhóm người nào đó. Như là một phương thức tiếp thu các kinh nghiệm xã hội, bắt chước được các cá nhân dùng để lựa chọn những hành động, hành vi mà cá nhân đó cho là đúng đắn và thích thú. - Phương thức lây lan là quá trình và cách thức truyền các hành vi xã hội từ cá nhân này sang cá nhân khác một cách tự nhiên. Lây lan khác bắt chước ở chỗ, các hành vi xã hội được lan truyền ngay cả khi cá nhân không có ý định bắt chước hay học tập. Sự lan truyền hành vi xã hội từ cá nhân này sang cá nhân khác trong những điều kiện nhất định là cách mà nhiều người học được những kinh nghiệm trong ứng xử x ã hội. 4. Vai trò của xã hội hoá Kết quả của xã hội hoá là nhân cách của mỗi cá nhân được tạo ra. Mỗi thế hệ người đều trải qua những giai đoạn nhất định của x ã hội hoá để đạt được khả năng, năng lực hoạt động nhằm thể hiện vai tr ò của chính cá nhân đó trong xã hội. Trong xã hội hiện đại, hoàn thiện nhân cách của con người là cả một quá trình dài suốt cuộc đời của con người đó. Sự hoàn thiện nhân cách phụ thuộc vào quá trình giáo dục xã hội. Quá trình giáo dục là quá trình tác động đến con người của toàn bộ hệ thống các mối quan hệ xã hội với mục đích chuyển tải kinh nghiệm xã hội. Do đó, các cá nhân có thể thu nhận đ ược những kinh nghiệm ở mọi nơi, trong mọi nhóm xã hội khác nhau. Trong trường hợp này, khái niệm xã hội hoá rất gần gũi với khái niệm giáo dục. Xã hội hoá còn tạo nên sự hoàn thiện, phát triển nhân cách của mỗi cá nhân, vì rằng, mỗi cá nhân thể hiện vai tr ò của mình trong xã hội trong những điều kiện chủ động, sáng tạo để xây dựng x ã hội. Quá trình đó giúp cá nhân nâng cao chất lượng hành vi xã hội của mình, tham gia góp phần sáng tạo cho xã hội. 91
  7. Như vậy, con người không chỉ tiếp thu một cách thụ động những kinh nghiệm xã hội để tạo nên nhân cách mà còn sáng tạo những cái mới, tiến bộ hơn để xây dựng xã hội ngày càng tươi đẹp. Đây chính là quá trình phát triển nhân cách của cá nhân từ thấp đến cao, từ ch ưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Quá trình hoàn thiện nhân cách diễn ra trong những điều kiện x ã hội nhất định. Vì vậy, cần phải tạo ra môi trường xã hội lành mạnh và định hướng xã hội một cách rõ ràng trong môi trường đó nhằm tác động tích cực và có ý thức vào quá trình xã hội hoá. II. MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI HOÁ Môi trường xã hội hoá là nơi cá nhân thực hiện một cách thuận lợi các tương tác xã hội của mình nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội. Dù có bản chất xã hội và tiền đề tự nhiên tốt, con người vẫn không thể trở thành một nhân cách hoàn thiện nếu không được đặt trong một môi trường xã hội thích hợp. Môi trường xã hội hoá chính là vườn ươm của nhân cách và cũng là ngả đường rộng mở để những kinh nghiệm xã hội có thể đến với các cá nhân. 1. Gia đình Gia đình là nhóm xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân trong mọi xã hội thường phải phụ thuộc vào. Gia đình là môi trường xã hội hoá có tầm quan trọng vô cùng to lớn. Con người, từ khi chào đời cho đến khi đi hết chặng đường đời đều gắn bó với gia đình của mình. Trong mỗi gia đình đều tồn tại và phát triển một “tiểu văn hoá”. Tiểu văn hoá này được xây dựng trên nền tảng của văn hoá chung nhưng với đặc thù riêng của từng gia đình. Các tiểu văn hoá được tạo thành bởi nền giáo dục gia đình, truyền thống gia đình, lối sống gia đình Các cá nhân sẽ phải nhận những đặc điểm của tiểu văn hoá n ày. Những kinh nghiệm sống, các quy tắc ứng xử sự v à các giá trị đầu tiên mà cá nhân nhận được chính là từ các thành viên trong gia đình như cha, mẹ, ông, bà, anh, chị Khi trưởng thành, mỗi cá nhân lại tạo ra gia đình mới, tức là tạo ra một tiểu văn hoá mới có những đặc điểm ri êng của nó, trong đó, có sự pha trộn giữa văn hoá chung của xã hội, tiểu văn hoá gia đình của cha mẹ và sự sáng tạo của chính cá nhân tạo dựng tiểu văn hoá mới. Nh ư 92
  8. vậy, gia đình như một môi trường xã hội hoá. Cần tiếp cận quá trình xã hội hoá trong môi trường gia đình trên ba khía cạnh sau: - Thiết chế gia đình là những quy định trong hành vi và lối sống, nhằm tạo ra sự thống nhất các hành động trong gia đình. - Giáo dục gia đình là sự truyền lại những tri thức và tình cảm đúng, đẹp cho mỗi cá nhân nhằm tạo ra tri thức cao h ơn và hành vi đúng trong mỗi cá nhân. - Hành vi của mỗi người lớn trong gia đình thể hiện nhân cách của người đó. Những hành vi này sẽ được truyền lại cho các thế hệ sau bằng cách bắt chước và lây lan. Chính vì vậy, người lớn trong gia đình phải là tấm gương mẫu mực trong hành vi để các thành viên nhỏ tuổi noi theo. 2. Nhà trường Nhà trường là nơi chủ yếu chịu trách nhiệm hình thành cho trẻ em tri thức khoa học, các giá trị, chuẩn mực văn hoá m à xã hội mong đợi. Trong xã hội công nghiệp, nhà trường quan trọng đến mức mà tuyệt đại đa số trẻ em trước khi trưởng thành, hội nhập vào guồng máy lao động và hoạt động xã hội đều phải được thông qua đào tạo trong nhà trường. Xã hội hoá trong nhà trường thường hướng vào những vấn đề cơ bản sau đây: - Giáo dục tri thức trang bị cho người học các tri thức của nhân loại về tự nhiên, xã hội, con người và những kỹ năng khác trong hoạt động nhận thức, lao động của mỗi cá nhân. Nhờ đó, cá nhân có đ ược bản lĩnh và năng lực làm việc cao. - Giáo dục nhân cách cho người học thông qua việc định hướng sự lựa chọn các hành vi xã hội, các chuẩn mực, các khuôn mẫu x ã hội để cá nhân tự lựa chọn và thể hiện hành vi của mình sao cho hợp logic nhất trong những trường hợp và hoàn cảnh xã hội nhất định. - Hoạt động của nhà trường là những hoạt động có tổ chức theo những quy định của xã hội. Những hoạt động này nhằm tạo cho người học những cảm nhận về cá nhân v à tập thể. Qua đó, rèn luyện ý thức, trách nhiệm của cá nhân đối với tập thể v à cộng đồng. - Hành vi của người thầy cô được coi là chuẩn mực và gương mẫu, mà mỗi người học cần phải noi theo. Đặc biệt ở các lớp học nhỏ, 93
  9. khi cá nhân mới chập chững hoà nhập xã hội lần đầu tiên thông qua nhà trường, thì hành vi của người thầy có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của người học. 3. Các nhóm xã hội Nhóm xã hội mà mỗi cá nhân đang sống và hoạt động cùng với nó, có chức năng cơ bản là thoả mãn nhu cầu giao tiếp, nhu cầu giải trí giữa các cá nhân. Trong thực tế, các quan hệ giữa các cá nhân trong nhóm xã hội là tác nhân quan trọng ảnh hưởng nhiều đến quá trình xã hội hoá. Quan hệ bạn bè là quan hệ bình đẳng, cùng vị thế xã hội nên các cá nhân thường chia chia sẻ thái độ, tâm t ư và cảm xúc với nhau. Tác động của nhóm nhiều khi mạnh mẽ tới mức lấn át cả ảnh h ưởng của gia đình và nhà trường. Quan hệ đồng nghiệp là quan hệ của những người cùng hoạt động chung trong một nhóm lao động nào đó. Mối quan hệ này vừa mang tính tổ chức, vừa mang tính đồng cảm nghề nghiệp. Trong quan hệ n ày người ta có thể chia sẻ tình cảm, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau và trao đổi kinh nghiệm với nhau trong hoạt động. Quan hệ đồng sở thích là quan hệ theo một sở thích hoặc quan điểm nào đó. Quan hệ này giúp cho mỗi cá nhân tìm được sự hướng thú trong hoạt động và sự đồng cảm trong cuộc sống. Các nhóm xã hội tham gia vào các quá trình xã hội hoá chủ yếu qua các phương diện sau: - Quy chế của nhóm là những quy định mà nhóm đặt ra cho mỗi thành viên để đảm bảo và duy trì hoạt động nhóm. Quy chế của nhóm có tính bắt buộc đối với các thành viên của nhóm vì vậy nó chi phối rất lớn đến hành vi của mỗi cá nhân. - Hành vi đồng lứa là một loại hành vi ở một lứa tuổi hay dạng hoạt động nào đó. Hành vi đồng lứa do sự bắt chước và lây lan tạo nên, nó cố kết các thành viên vào trong nhóm và tạo ra sức mạnh của nhóm. - Các kinh nghiệm xã hội được các thành viên truyền cho nhau trong quá trình hoạt động và tạo ra sức mạnh chung của nhó m. Các thành viên tham gia vào nhóm sẽ được truyền lại những kinh nghiệm có 94
  10. tính chất đặc thù riêng của nhóm đó và giúp họ tạo dựng kinh nghiệm cho mình. 4. Thông tin đại chúng Thông tin đại chúng là thiết chế sử dụng những phát triển kỹ thuật ngày càng tinh vi của công nghiệp vào phục vụ sự giao lưu tư tưởng, những mục đích thông tin, giải trí v à thuyết phục tới đông đảo khán thính giả bằng phương tiện báo chí, truyền hình, phát thanh, quảng cáo Các sản phẩm của thông tin đại chúng đ ã trở thành một phần liên kết với sinh hoạt hàng ngày của đại đa số các thành viên trong xã hội. Truyền thông chiếm tỷ lệ khá cao trong quỹ thời gian rảnh của mọi người và cung cấp cho mọi người bức tranh về hiện thực xã hội trong phạm vi rộng lớn. Với tính phổ quát cao như vậy, nên thông tin đại chúng có rất nhiều tiềm năng tạo nên những môi giới xã hội có tính chất chiến lược. Truyền thông đại chúng là trung tâm trong việc cung cấp những ý tưởng và hình ảnh con người sử dụng để giải thích và hiểu một số lớn kinh nghiệm hàng ngày của họ. Thông tin đại chúng tiêu biểu cho một kênh được thiết chế hoá để phân phối tri thức xã hội và do đó, nó tiêu biểu cho một công cụ mạnh mẽ của kiểm soát xã hội. Trong quá trình xã hội hoá, truyền thông đại chúng luôn có tính hai mặt. Một mặt, nó nâng cao ý nghĩa của các giá trị, các chuẩn mực văn hoá cũng như các tri thức khoa học đa dạng và bổ ích thông qua các chương trình giáo dục, những nội dung được truyền đi. Mặt khác, các phương tiện truyền thông có thể làm biến dạng, méo mó hoặc sai lệch việc tiếp nhận các giá trị thông tin qua các ch ương trình có thể là không lành mạnh do sự thiếu thận trọng của nh à sản xuất chương trình. Trong một số trường hợp, các giá trị thông tin tỏ ra không ph ù hợp với giá trị, chuẩn mực văn hoá chung v à đối ngược trực tiếp với những gì đã được dạy trong nhà trường và trong gia đình, cản trở quá trình xã hội hoá tích cực đối với cá nhân. Nh ư vậy, nảy sinh đòi hỏi cấp bách trong thời đại ngày nay là sự kiểm duyệt có định hướng thông tin đại chúng để loại bỏ những lệch lạc trong nhận thức xã hội của con người. III. PHÂN ĐOẠN XÃ HỘI HOÁ 1. Vấn đề phân đoạn xã hội hoá 95
  11. Thời điểm để tính quá trình xã hội hoá là vấn đề được bàn bạc và thảo luận rất nhiều. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này. S. Freud thì cho rằng quá trình xã hội hoá chủ yếu diễn ra từ khi đứa trẻ sinh ra cho đến khi hết quá tr ình trưởng thành về tình dục tức là khoảng 13-16 tuổi. Tuy nhiên, nhiều người khác lại cho rằng quá trình xã hội hoá kéo dài đến hết đời người. Như vậy, vấn đề ở đây là cần phải xác định thời điểm bắt đầu v à kết thúc của quá trình xã hội hoá. Phần lớn các nhà xã hội học đều cho rằng quá trình xã hội hoá bắt đầu từ khi con người sinh ra, còn thời điểm kết thúc của quá trình xã hội hoá thì chưa thống nhất. Có nhà xã hội học cho rằng quá trình xã hội hoá kết thúc khi cá nhân trưởng thành về phương diện sinh lý, có người lại cho rằng quá trình này kết thúc khi cá nhân hết khả năng lao động. Theo G. Brim, quá trình xã hội hoá kéo dài hơn cả đời người, nghĩa là nó bắt đầu khi con người chưa thật sự sinh ra và chỉ kết thúc khi con người qua đời. G. Brim nhấn mạnh rằng x ã hội hoá ở trẻ em và người lớn có sự khác nhau ở những điểm c ơ bản sau: - Người lớn thường thay đổi hành vi của mình ở các quá trình xã hội hoá; trong khi đó, trẻ em lại tạo lập và thu nhận lấy các giá trị căn bản. - Người lớn có thể phán xét, đánh giá về các giá trị, chuẩn mực m à họ cần phải tuân theo; còn trẻ em thì thông thường chỉ tiếp nhận một cách thụ động. - Quá trình xã hội hoá của người lớn đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Thông thường, trẻ em ngoan sẽ tuân theo sự chỉ dẫn của ng ười lớn; còn người lớn sẽ phải suy tính, xem xét cái g ì có lợi nhất, cái gì ít có hại nhất thì họ mới làm. - Quá trình xã hội hoá ở người lớn được thiết kế nhằm giúp cá nhân có thể có được những kỹ năng nhất định; còn xã hội hoá ở trẻ em liên quan nhiều đến các động cơ hành động. Một số nhà xã hội học nghiên cứu quá trình xã hội hoá ở người lớn đã cho rằng đây là quá trình thích ứng của cá nhân với các khủng hoả ng bất ngờ và khủng hoảng có thể biết trước. Trong quá trình thích ứng, người lớn lựa chọn hành vi này hay hành vi khác đều có tính toán một 96
  12. cách cẩn thận và sau quá trình thích ứng là những kinh nghiệm xã hội mà họ đã học được. 2. Các giai đoạn của quá trình xã hội hoá Phân đoạn quá trình xã hội hoá có thể được tiến hành với nhiều cách khác nhau và dựa trên nhiều căn cứ khác nhau. Hiện nay, vấn đề phân đoạn xã hội hoá chưa có sự thống nhất về quan điểm. Vì vậy, tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu mà xã hội học có thể giới thiệu một số cách phân đoạn xã hội hoá tiêu biểu như sau: a) Phân đoạn quá trình xã hội hoá của G. H. Mead Theo G. H. Mead (1863-1931), nhà xã hội học người Mỹ, thì kết quả của quá trình xã hội hoá là một nhân cách gồm hai thành phần của cái tôi, cụ thể là cái tôi chủ động “I” và cái tôi bị động “Me” được hình thành. Quá trình này trải qua ba giai đoạn sau: - Giai đoạn bắt chước: Đây là giai đoạn mà con người sao chép hành vi của người khác một cách bị động hoặc chủ động. - Giai đoạn đóng vai: Đây là giai đoạn mà con người đã nhận thức được những hành vi tương ứng với vai trò xã hội nhất định, đặc biệt là các vai trò trong phạm vi quan sát được. Đây là giai đoạn giúp con người hiểu được những suy nghĩ và hành động của người khác khi họ thực hiện vai trò của mình; phân tích và phán xử hành vi của họ để tạo thành kinh nghiệm xã hội cho cá nhân mình. - Giai đoạn trò chơi: Đây là giai đoạn mà con người phải biết được sự đòi hỏi không phải chỉ một cá nhân n ào đó, mà là của cả xã hội nói chung. Giai đoạn này giúp con người thấy rõ được cái tôi chủ động, cái tôi bị động và cái chúng ta; phân biệt rõ mình, người khác và cộng đồng. Đây là cơ sở để con người hoà chung vào đời sống cộng đồng. b) Phân đoạn quá trình xã hội hoá của G. Andreev Nhằm mục đích nghiên cứu các hoạt động của con người trong xã hội, G. Andreev đã phân chia quá trình xã hội hoá thành ba giai đoạn như sau: - Giai đoạn trước lao động bao gồm toàn bộ thời kỳ từ lúc con người sinh ra cho đến khi anh ta bắt tay v ào lao động. Giai đoạn này lại có hai giai đoạn nhỏ, đó là: 97
  13. + Giai đoạn trẻ thơ là giai đoạn mà đứa trẻ tiếp thu một cách thụ động, máy móc các hành vi của người khác và là giai đoạn vui chơi hết sức hồn nhiên của trẻ. Giai đoạn này từ lúc trẻ sinh ra cho đến khi trẻ đi học. + Giai đoạn đi học là giai đoạn trẻ tiếp nhận tri thức và các kỹ năng lao động. Ở giai đoạn này, trẻ đã bắt đầu tiếp nhận các hành vi có mục đích, có ý thức. Trẻ càng lớn thì càng bộc lộ hành vi tiếp nhận một cách có chọn lọc để tự hình thành cho mình năng lực hành vi riêng. - Giai đoạn lao động bắt đầu từ khi cá nhân tham gia v ào hoạt động lao động và kết thúc khi không tham gia lao động nữa (thông thường là nghỉ hưu). Trong giai đoạn này, cá nhân vừa tiếp thu kinh nghiệm xã hội, vừa tích luỹ kinh nghiệm cá nhân, vừa bộc lộ năng lực, hành vi trong các hoạt động thường nhật của mình. Giai đoạn này được đánh giá là vô cùng quan trọng trong quá trình xã hội hoá bởi một số lý do sau: + Con người tiếp thu, củng cố, phát triển các tri thức, kinh nghiệm xã hội để nâng cao năng lực hành vi cá nhân. + Lao động giúp con người hiểu rõ được cái tôi và cái chúng ta để từ đó sống hoà nhập vào cộng đồng xã hội. + Lao động là quá trình thể hiện năng lực hành vi cá nhân có ích cho xã hội và tham gia đóng góp, xây dựng xã hội phát triển. + Lao động giúp thể hiện rõ vai trò của cá nhân trong xã hội, là cơ sở để đánh giá và củng cố năng lực hành vi cá nhân. - Giai đoạn sau lao động là giai đoạn khi cá nhân kết thúc quá trình lao động của mình và về nghỉ hưu, hưởng thụ thành quả lao động. Hiện nay, có hai quan niệm trái ng ược nhau về giai đoạn sau lao động, cụ thể: + Quan niệm thứ nhất cho rằng khái niệm x ã hội hoá hoàn toàn không có ở giai đoạn này vì các chức năng xã hội của nó bị thu hẹp lại. Nghĩa là không có chuyện người già tiếp thu kinh nghiệm xã hội, hay thậm chí, sản xuất ra nó. + Quan niệm thứ hai lại khẳng định khác hẳn về vấn đề x ã hội hoá ở giai đoạn sau lao động khi chủ tr ương cần phải nhìn nhận một cách tích cực đối với quá trình xã hội hoá ở giai đoạn này, vì rằng xã hội hiện 98
  14. đại với những tiến bộ y học vượt bậc cũng như nhiều tiến bộ trong các lĩnh vực khác đã không ngừng kéo dài tuổi thọ của con người, đồng thời cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhằm phát huy tính tích cực của người già. Công bằng mà nói, nhiều người già ở giai đoạn sau lao động vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc tái tạo các kinh nghiệm x ã hội, các giá trị, chuẩn mực cho các thế hệ sau. c) Phân đoạn quá trình xã hội hoá của các nhà triết Trung Quốc cổ đại - Các nhà triết học Tung Quốc cổ đại dựa vào năng lực hành vi xã hội của cá nhân để chia quá trình xã hội hoá thành ba giai đoạn như sau: - Giai đoạn vị thành niên là giai đoạn mà nhân cách của trẻ đang hình thành, bắt đầu từ lúc sinh ra và đến dưới 18 tuổi. Trong giai đoạn này, cá nhân tiếp thu tri thức, kinh nghiệm xã hội để tạo nhân cách riêng cho mình. Ở giai đoạn này, trẻ chưa tự lập được trong cuộc sống. Vì vậy, trẻ chưa phải chịu trách nhiệm xã hội đối hành vi của mình. Do đó, vai trò của gia đình và nhà trường là hết sức quan trọng trong việc định hình nhân cách cho trẻ. - Giai đoạn thành niên từ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi. Trong giai đoạn này, nhân cách của cá nhân tiếp tục được củng cố và phát triển. Cá nhân phải tự chịu trách nhiệm về các hành vi xã hội của bản thân. Năng lực hành vi xã hội của cá nhân đang phát triển theo chiều rộng, tức l à cá nhân vẫn đang tiếp tục học tập để tiếp thu tri thức cũng nh ư kinh nghiệm nhằm ngày càng mở rộng sự hiểu biết của bản thân v à nâng cao dần năng lực hành vi cá nhân. - Giai đoạn tự lập trong cuộc sống bắt đầu từ năm 30 tuổi cho đến khi cá nhân đi hết đường đời của mình. Trong giai đoạn này, nhân cách của cá nhân vẫn tiếp tục không ngừng đ ược củng cố và phát triển; năng lực hành vi xã hội đã có sự phát triển sâu sắc. Con người có thể tự lập hoàn toàn trong suy nghĩ và hành động. Trong giai đoạn nay, cá nhân bộc lộ tính độc lập, tự chủ và sáng tạo ở mức độ cao nhất, do vậy, khả năng cống hiến cho xã hội rất lớn. Việc phân đoạn quá trình xã hội hoá theo quan niệm này giúp thấy rõ trách nhiệm xã hội và vai trò xã hội của cá nhân trong suốt cuộc đời của cá nhân đó. Ở giai đoạn thành niên, cá nhân có năng lực hành vi 99
  15. pháp luật độc lập. Về phương diện tổ chức, ở giai đoạn vị thành niên và ngay cả ở giai đoạn thành niên, cá nhân còn phụ thuộc. Còn giai đoạn tự lập thì cá nhân có vai trò lãnh đạo xã hội (bậc thấp là lãnh đạo tác nghiệp, bậc cao là lãnh đạo chiến lược). IV. VỊ TRÍ, VỊ THẾ VÀ VAI TRÒ XÃ HỘI Có thể coi quá trình xã hội hoá cá nhân như một quá trình học hỏi để thực hiện các vai trò mà cá nhân cần phải thực hiện. Thực ra thì xã hội hoá là cơ chế xâm nhập vào quan hệ giữa con người và xã hội. Mọi xã hội đều có cấu trúc phức tạp bao gồm vị trí, vị thế, vai tr ò xã hội khác nhau được liên kết với nhau thông qua các quan hệ x ã hội, tương tác xã hội. Điều đó quy định quá trình cá nhân gia nhập vào xã hội và thực hiện những hành động nhất định để “sản xuất” và “tái sản xuất” cấu trúc xã hội. Bởi vậy, để gia nhập vào xã hội một cách tích cực, có ý nghĩa, mỗi cá nhân phải ý thức rõ vị trí, vị thế, vai trò xã hội của mình. 1. Vị trí xã hội Vị trí xã hội của các cá nhân chính là vị trí tương đối của cá nhân trong cấu trúc xã hội, trong hệ thống các quan hệ x ã hội. Vị trí xã hội được xác định trong sự đối chiếu v à so sánh với vị trí xã hội khác. Sự tồn tại vị trí xã hội của các cá nhân phụ thuộc chủ yếu v ào sự tồn tại của các vị trí khác cũng như tuỳ thuộc vào các mối quan hệ xã hội. Đó thường là vị trí của những người thân trong phạm vi không gian x ã hội như gia đình, nhóm bạn bè, cơ quan, quan hệ cộng tác Một cá nhân có thể có nhiều vị trí x ã hội khác nhau. Sở dĩ có thực tế này là do: - Cá nhân đó tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội cùng một lúc. - Dựa vào những đặc điểm vốn có của cá nhân nh ư giới tính, chủng tộc, gia đình, dòng họ, nơi sinh - Dựa vào những đặc điểm cá nhân thông qua quá tr ình không ngừng phấn đấu mà có như nghề nghiệp, học vấn Bản chất của vị trí xã hội là bình đẳng vì chưa có sự tham gia đánh giá của xã hội về nó. Điều này có nghĩa là vị trí xã hội của một cá nhân chưa cung cấp thông tin về thứ bậc cao thấp của cá nhân đó trong x ã hội. 2. Vị thế xã hội 100
  16. Vị thế xã hội của mỗi cá nhân chính là địa vị và thứ bậc của cá nhân đó trong cơ cấu tổ chức xã hội được xã hội thừa nhận ở từng thời kỳ nhất định. Vị thế xã hội được thể hiện thông qua ba đặc trưng cơ bản là quyền lực xã hội, quyền lợi xã hội và trách nhiệm xã hội. - Quyền lực xã hội là quyền lực của một vị thế xã hội nào đó được xã hội thừa nhận để thực hiện vai tr ò của mình trong xã hội. Có hai loại quyền lực xã hội cần lưu ý, đó là: + Thứ nhất, quyền lực xã hội được trao do những quy định về quyền hạn của mỗi vị thế xã hội cụ thể. Loại quyền này được thể chế hoá một cách cụ thể, rõ ràng và là cơ sở pháp lý cho mỗi vị thế xã hội phát huy vai trò của mình trong xã hội. + Thứ hai, quyền lực xã hội do nắm giữ được những cái được coi là quý hiếm trong xã hội như tiền, vàng, tri thức Những cái đó sẽ mang lại quyền lực xã hội cho cá nhân nào sở hữu chúng. Trong trường hợp này, cá nhân có thể đạt được địa vị cao trong xã hội. Loại quyền lực này không được trao cho mà được xã hội thừa nhận. - Quyền lợi xã hội là những điều kiện vật chất và tinh thần mà mỗi vị thế xã hội có được từ chính xã hội. Những quyền lợi đó là tiền lương, tiền thưởng, các thu nhập khác, những điều kiện ưu tiên về vật chất và tinh thần. - Trách nhiệm xã hội là những quy định của xã hội đối với kết quả cũng như hậu quả của việc thực hiện quyền lực x ã hội ở mỗi vị thế xã hội nhất định. Trách nhiệm xã hội là cơ chế ràng buộc, giám sát các hoạt động của quyền lực trong x ã hội để định hướng những hoạt động đó mang lại lợi ích cho xã hội. Vị trí cao thấp của quyền lực, quyền lợi v à trách nhiệm sẽ tạo ra thứ bậc khác nhau của vị thế xã hội. Thứ bậc của vị thế xã hội tạo ra các phạm vi có hiệu lực của từng vị thế xã hội chi phối lẫn nhau trong hệ thống tổ chức xã hội. Trong việc phân loại vị thế xã hội có nhiều quan điểm khác nhau và tuỳ thuộc vào mục tiêu nghiên cứu của mỗi nhà xã hội học. Hiện nay, có một số cách phân loại vị thế xã hội như sau: - Phân loại theo hệ thống tổ chức xã hội: 101
  17. + Hệ thống vị thế xã hội trong hệ thống tổ chức nhà nước được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức hệ thống nh à nước. + Hệ thống vị thế xã hội trong hệ thống tổ chức đoàn thể được quy định trong điều lệ hoặc quy chế hoạt động của các tổ chức đó. + Hệ thống vị thế xã hội trong các tổ chức kinh tế v à dịch vụ xã hội được quy định trong các văn bản pháp quy về tổ chứ hoặc quy chế hoạt động của các tổ chức đó. Đặc biệt, trong các tổ chứ c này còn có hệ thống chức danh và tiêu chuẩn chức danh nhằm cụ thể hoá v à chi tiết hoá các vị thế xã hội của từng loại lao động. - Phân loại theo quyền lực: + Vị thế xã hội lãnh đạo là các vị thế xã hội có quyền lực chi phối đến những vị thế xã hội thấp hơn, phụ thuộc vào vị thế lãnh đạo đó. + Vị thế xã hội bị lãnh đạo là các vị thế xã hội chịu sự chi phối bởi quyền lực của vị thế xã hội cao hơn. • Cần lưu ý rằng, với cách phân loại như trên thì tất cả các vị thế xã hội trung gian vừa là vị thế lãnh đạo, vừa là vị thế bị lãnh đạo. Đó là quan hệ chi phối lẫn nhau của các vị thế x ã hội. - Phân loại theo tài sản, thu nhập và tri thức: • Tầng lớp thượng lưu; • Tầng lớp trung lưu; • Tầng lớp lao động bình dân; • Tầng lớp lao động nghèo khổ. Trong thực tế có nhiều con đường để mỗi cá nhân có thể phấn đấu giành lấy vị thế xã hội cho mình. Có một số con đường mà nhiều cá nhân đã lựa chọn và đã đi thành công, cụ thể: - Tu thân, lập nghiệp là con đường cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong tất cả các xã hội. - Do quá khứ để lại như cha truyền con nối hoặc sự sắp đặt của ông cha. - Do cơ may trong cuộc sống đem lại. 102
  18. - Do thủ đoạn, âm mưu hại người nhằm chiếm đoạt vị thế xã hội không thuộc về mình. Mỗi xã hội đều có những cơ chế sắp đặt vị thế xã hội, tức là mỗi cá nhân có được vị thế xã hội bằng các cơ chế nhất định. Hiện nay, đang tồn tại ba cơ chế sắp đặt vị thế xã hội chủ yếu sau đây: - Cơ chế tiến cử là cơ chế, trong đó một cá nhân được một cá nhân khác hay một tổ chức đề bạt với cấp trên bổ nhiệm vào một vị thế xã hội nào đó. - Cơ chế bầu cử là cơ chế, trong đó cộng đồng lựa chọn một cá nhân hoặc một nhóm người lãnh đạo cộng đồng bằng các hình thức bỏ phiếu lựa chọn. - Cơ chế thi cử là cơ chế, trong đó người được bổ nhiệm vào một vị thế xã hội nào đó phải trải qua một kỳ thi giám định khả năng làm việc hoặc qua một hội đồng giám định khả năng l àm việc. Trong bất kỳ một xã hội nào cũng cùng lúc sử dụng cả ba cơ chế đó, song thiên hướng sử dụng cơ chế ở các loại vị thế xã hội khác nhau có sự khác nhau tuỳ thuộc vào bản chất của xã hội đó và tuỳ thuộc vào ưu nhược điểm của mỗi loại cơ chế. 3. Vai trò xã hội Vai trò xã hội là mô hình hành vi xã hội được xác lập một cách khách quan căn cứ vào đòi hỏi của xã hội đối với từng vị trí, vị thế nhất định; để thực hiện quyền lực và trách nhiệm tương ứng với các vị trí, vị thế đó. Như vậy, vai trò xã hội thể hiện những đòi hỏi của xã hội đối với các vị thế xã hội. Những đòi hỏi này được xác định căn cứ vào các chuẩn mực, giá trị xã hội. Trong các xã hội khác nhau, các chuẩn mực và giá trị xã hội không thể đồng nhất với nhau. Ngay trong một x ã hội, quyền hạn và trách nhiệm của các vị thế xã hội, những mô hình hành vi được mong đợi trong các nhóm xã hội cũng khác nhau. Mỗi nhóm cũng có thể đặt ra những đòi hỏi về các hành vi khác nhau từ một vị thế xã hội. Vì vậy, vị trí xã hội thể hiện như một hình thái của hành vi xã hội. Với vị trí là người cha, cá nhân phải thể hiện tổ hợp các h ành vi cho thấy rằng cá nhân đó là người cha trong gia đình. 103
  19. Trong thực tiễn xã hội học, các nhà nghiên cứu thường phân định hai dạng hành vi trong vị trí xã hội là hành vi mong đợi và hành vi không mong đợi. Trong đó: - Hành vi mong đợi là hành vi phát ra đúng với những chuẩn mực hành vi của vị trí xã hội. Đạo làm con phải phát ra những hành vi lễ phép, kính trọng, yêu thương và hiếu thảo với cha mẹ. Tất cả những hành vi đó đều được gọi là các hành vi mong muốn. - Hành vi không mong đợi là hành vi phát ra không theo đúng chuẩn mực hành vi của vị trí xã hội. Loại hành vi này lại thường biểu hiện dưới hai dạng là hành vi không mong đợi tích cực và hành vi không mong đợi tiêu cực, cụ thể như sau: + Hành vi không mong đợi tích cực là những hành vi chứa đựng những giá trị cao đẹp của xã hội cũng như sự tiến bộ xã hội. Hành vi không mong muốn tích cực hàm chứa lòng bác ái, cao thượng của con người. + Hành vi không mong đợi tiêu cực là những hành vi không mong muốn đe doạ làm suy đồi, huỷ hoại những giá trị cao đẹp của x ã hội hoặc là hành vi thể hiện thói hư tật xấu trong xã hội mà xã hội phải loại trừ. Có hai loại vai trò xã hội cần được phân biệt một cách rõ ràng là vai trò hình thức và vai trò cá nhân. - Vai trò hình thức là vai trò xã hội do quyền lực của vị thế xã hội tạo ra. Trong vai trò hình thức, mô hình hành vi mong đợi của vị thế xã hội được giới hạn bởi phạm vi quyền lực của vị thế đó. - Vai trò cá nhân là vai trò xã hội do uy tín cá nhân tạo ra. Uy tín cá nhân phụ thuộc vào năng lực hành vi xã hội của mỗi cá nhân, nó chứa đựng những tri thức, kỹ năng lao động, đạo đức, t ình cảm, sự đoàn kết, yêu thương lẫn nhau Mỗi cá nhân ở vị thế xã hội nào đó thông thường đều có cả hai vai trò như đã nêu. Tuy nhiên, có những cá nhân chỉ có vai trò hình thức mà không có vai trò cá nhân. Điều đó cho thấy, tuy ở cùng một vị thế xã hội do các cá nhân chiếm giữ khác nhau có vai trò xã hội không giống nhau. Có cá nhân thể hiện vai trò xã hội rất tốt, có nhiều đóng góp quý báu cho xã hội; nhưng cũng có những cá nhân thể hiện vai tr ò xã hội của mình rất thấp, làm huỷ hoại cả một tập thể. 104
  20. Mỗi cá nhân ở một vị thế xã hội nhất định bộc lộ vai trò của mình ra xã hội rất đa dạng và phức tạp. K. Merton, nhà xã hội học người Mỹ đã đề xuất một hệ vai trò và T. Parsons phân thành các d ạng cơ bản. Theo T. Parsons, có năm dạng vai trò như sau: - Một số vai trò xã hội đòi hỏi sự kiềm chế tình cảm khi thực hiện, trong khi một số khác thì không. - Một số vai trò xã hội dựa trên vị trí, vị thế xã hội đã có sẵn. - Một số vai trò xã hội được xác định hẹp, còn một số khác lại được xác định rộng. - Một số vai trò xã hội đòi hỏi các cá nhân có thái độ ứng xử đối với mọi người theo quy tắc chung. Ngược lại, một số vai trò khác đòi hỏi phải đối xử với người khác theo cách đặc thù vì những quan hệ đặc biệt với họ. - Các vai trò xã hội khác nhau có động cơ khác nhau. Trong xã hội hiện đại, khi các cá nhân tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội, họ sẽ có những đòi hỏi riêng. Những đòi hỏi này ở một số vai trò có thể phối hợp được với nhau, nhưng cũng có những đòi hỏi hoàn toàn trái ngược nhau, thậm chí mâu thuẫn, xung đột với nhau. Trong từng thời điểm cụ thể, các cá nhân thường phải lựa chọn vai trò xã hội để thực hiện. Việc lựa chọn n ày hoàn toàn không dễ dàng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng thần kinh, một căn bệnh phổ biến trong xã hội hiện đại (hội chứng stress). Đó l à hiện tượng căng thẳng và xung đột vai trò. Để thoát khỏi tình trạng này, các cá nhân thường giải quyết theo một trong các cách sau đây: - Các vai trò xã hội quan trọng, cấp bách hơn thường được ưu tiên thực hiện trước. Đây là cách phổ biến nhất. - Trong trường hợp mức độ quan trọng các vai tr ò như nhau thì cá nhân thường tuân theo tính hợp pháp của vai tr ò vào thời điểm đó. Vai trò hợp pháp là vai trò mà cá nhân cần phải thực hiện tại thời điểm đó theo quy định hoặc yêu cầu của xã hội. - Khi đòi hỏi giữa các vai trò xung đột nhau nhưng ở khía cạnh nào đó vẫn có thể dung hoà được và xã hội cũng có thể tạo điều kiện cho sự dung hoà đó thì các cá nhân có xu hướng phối hợp các vai trò với nhau. 105
  21. Trong xã hội hiện đại, xung đột vai trò xã hội biểu hiện rõ nét nhất ở người phụ nữ. Phụ nữ, thông thường phải đảm nhận vai trò kép, vừa tham gia công tác xã hội, vừa làm công việc gia đình. Vì vậy, trong khi thực hiện vai trò xã hội của mình, người phụ nữ thường gặp phải những xung đột vai trò không dễ giải quyết. 106
  22. Chương VI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI I. KHÁI NIỆM ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Khái niệm và ý nghĩa nghiên cứu đời sống xã hội Mục tiêu cơ bản của sự biến đổi và phát triển xã hội là hướng tới một xã hội công bằng, văn minh, phồn vinh v à hạnh phúc cho nhân dân. Đời sống xã hội phản ánh mối quan hệ tác động qua lại giữa x ã hội và con người nhằm mục đích mang lại hạnh phúc cho con ng ười. Nhiều nhà xã hội học tiếp cận đời sống xã hội ở những khía cạnh riêng rẽ của phạm trù này. Họ hướng sự nghiên cứu vào những vấn đề đơn lẻ đó để thấy rõ bản chất của đời sống xã hội ở từng mặt tác động tới cuộc sống của con người. Những nghiên cứu về giáo dục xã hội, môi trường, dân số, thất nghiệp, việc làm, những lệch chuẩn (hay các khuyết tật xã hội), y tế, lối sống và các bất bình đẳng, tất cả đều là những tiếp cận về đời sống xã hội. Đời sống xã hội là tổng thể các hiện tượng phát sinh do sự tác động lẫn nhau của các chủ thể xã hội và cộng đồng tồn tại trong những không gian và thời gian nhất định, là tổng thể hoạt động của xã hội nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Đời sống của cá nhân trước hết phụ thuộc vào chính cá nhân đó như sức khoẻ, trí tuệ, nhân cách, tính cần c ù, bền bỉ trong học tập và lao động cũng như những đặc điểm tâm lý cá nhân; thứ nữa, phụ thuộc v ào môi trường và hoàn cảnh xã hội như gia đình, láng giềng, nhà trường, cơ quan, nhóm bạn, các tổ chức xã hội, chế độ, chính sách và pháp luật, sự phát triển kinh tế xã hội và các điều kiện sống, làm việc. Đời sống xã hội là tổng hoà đời sống của cá nhân, đồng thời l à một hệ thống các quan hệ tương tác phức tạp của cá nhân, gia đình, các nhóm xã hội trong quá trình phát triển xã hội. Trong xã hội, mỗi cá nhân luôn phát ra các tín hiệu về nhu cầu của mình. Những nhu cầu đó là những đòi hỏi của mỗi cá nhân nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình. Xã hội thấy được những nhu cầu này nhằm hướng hoạt động xã hội để thoả mãn các nhu cầu đó. 107
  23. Theo A. Maslow, nhà quản trị học người Mỹ, con người thường phát ra năm nhu cầu cơ bản như sau: - Nhu cầu sinh tồn (nhu cầu sinh lý) là những đòi hỏi về vật chất nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình. Đó là nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại Đây là nhu cầu đầu tiên đảm bảo sự sinh tồn cho mỗi cá nhân. Nhu cầu này là động lực mạnh mẽ cho hoạt động. Để thoả m ãn nhu cầu này, xã hội phải tạo ra các hoạt động sản xuất và phục vụ nhằm tạo ra thu nhập cho con người. - Nhu cầu an ninh là nhu cầu về sự bình an, ổn định trong cuộc sống. Mọi người đều mong muốn thoát khỏi những rủi ro trong cuộc sống như tai nạn, chiến tranh, dịch bệnh, sự bấp b ênh về kinh tế Sự mất an toàn trong cuộc sống dễ dẫn đến tâm trạng hoang mang, bất ổn trong cuộc sống của mỗi cá nhân, thậm chí, có thể mang lại bất hạnh cho con người. Do đó, các cá nhân, các tổ chức v à toàn thể xã hội phải luôn quan tâm tới việc bảo đảm sự chắc chắn trong đời sống xã hội như quốc phòng, an ninh, y tế, bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội - Nhu cầu xã hội (nhu cầu giao tiếp): Con người có nhu cầu quan hệ và chung sống với người khác. Bản năng bầy đàn luôn thúc đẩy con người cố kết lại trong một nhóm xã hội nào đó (kết bạn, nhóm bạn). Bản năng xã hội thúc đẩy con người tham gia xây dựng cộng đồng x ã hội văn minh, lành mạnh, để đảm bảo phồn vinh hạnh phúc cho mỗi cá nhân. Vì vậy, nhu cầu xã hội phát ra dưới dạng hội nhập cuộc sống, đó là sự kết bạn, sự hoà nhập của mỗi cá nhân vào cộng đồng, sự đảm bảo các nhu cầu về niềm tin, lý tưởng và giá trị xã hội. Để thoả mãn các nhu cầu xã hội, phải xây dựng nền văn hoá l ành mạnh bao gồm những kết tinh truyền thống văn hoá lâu đời của dân tộc, phải định h ướng các giá trị xã hội phù hợp với thời đại và truyền thống, phải tạo ra bầu không khí tâm lý xã hội lành mạnh để tạo nên sự đồng cảm của mỗi cá nhân, phải hoàn thiện các mối quan hệ xã hội, lành mạnh hoá các hoạt động xã hội. - Nhu cầu tôn trọng là những đòi hỏi về nhận biết dưới dạng mình nhận biết về người khác và người khác nhận biết về mình. Hai động cơ liên quan tới nhu cầu tôn trọng là quyền lực và uy tín. + Quyền lực là nguồn làm cho một người có thể đem lại sự bằng lòng từ hoặc tới các ảnh hưởng khác. Đó là tiềm năng ảnh hưởng của một người. 108
  24. + Uy tín là khả năng thu phục được người khác thông qua hành vi của mỗi cá nhân. Có hai loại uy tín l à uy tín hình thức và uy tín cá nhân. Uy tín hình thức do do quyền lực, địa vị đem lại. Uy tín cá nhân l à uy tín của riêng cá nhân. Loại uy tín thứ hai rất quan trọng. Mỗi cá nhân trong xã hội muốn gây ảnh hưởng đối với người khác thông qua việc sử dụng quyền lực và uy tín. Vì vậy, xã hội phải tạo ra hệ thống tiêu chuẩn giá trị nhất định để làm căn cứ đánh giá đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý, hiệu quả hay không hiệu quả, tốt hay xấu của các h ành vi và hoạt động xã hội. - Nhu cầu tự khẳng định mình là những đòi hỏi của cá nhân đối với những vấn đề có liên quan đến khả năng trong việc bộc lộ vai tr ò của cá nhân trong xã hội. Như vậy, cá nhân trong xã hội luôn đòi hỏi tạo ra cho mình năng lực hành vi nhất định và môi trường thể hiện rõ năng lực hành vi đó. Hai động cơ chủ yếu liên quan đến nhu cầu tự khẳng định mình là năng lực và thành tích. + Năng lực là tổng thể những thuộc tính độc đáo của cá nhân ph ù hợp với nhu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, đảm bảo việc hoàn thành với kết quả cao trong lĩnh vực hoạt động đó. Trong quá tr ình xã hội hoá, cá nhân luôn tạo ra cho m ình năng lực nhất định. Đây là yếu tố cơ bản để đảm bảo đời sống của cá nhân. Đ òi hỏi của mỗi cá nhân là xã hội phải tạo điều kiện cho cá nhân h ình thành và phát triển năng lực của mình. + Thành tích là kết quả của mỗi cá nhân trong việc bộc lộ năng lực hoạt động của mình. Nhu cầu về thành tích là một nhu cầu thuộc về bản năng của con người, là nhu cầu khẳng định cái tôi trong xã hội của mỗi cá nhân. Nhu cầu thành tích là động lực thúc đẩy cá nhân trong hoạt động, đồng thời là động lực thúc đẩy cá nhân vươn lên đạt năng lực làm việc cao hơn. Nhu cầu thành thích đòi hỏi hai mặt đối với xã hội. Một mặt, đòi hỏi xã hội phải có hệ thống tiêu chuẩn để đánh giá thành tích của mỗi cá nhân một cách khách quan. Mặt khác, đ òi hỏi xã hội phải tạo môi trường thuận lợi để mỗi cá nhân bộc lộ hết khả nă ng của mình. Nghiên cứu đời sống xã hội cho thấy rõ sự phát triển của xã hội ở mức độ nào đó trong việc đảm bảo sự phồn vinh và hạnh phúc cho nhân dân, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa con ng ười và xã hội trong việc đảm bảo đời sống cho họ. Đời sống x ã hội là bằng chứng hiển 109
  25. nhiên để kiểm định tính chất đúng đắn của đ ường lối và các chính sách kinh tế, văn hoá, xã hội. Nó có vai trò to lớn đối với sự phát triển ổn định của xã hội. Đời sống xã hội còn đảm bảo sức khoẻ, sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, đảm bảo cho sự hoạt động có hiệu quả của mỗi cá nhân, cho sự phát triển to àn diện của mỗi cá nhân trong xã hội. 2. Những chỉ tiêu đánh giá đời sống xã hội Để có thể so sánh đời sống xã hội, các nhà xã hội học và thống kê xã hội thống nhất một số chỉ tiêu phản ánh đời sống xã hội như sau: - Chỉ tiêu phản ánh mức sống: + Thu nhập bình quân đầu người; + Diện tích nhà ở bình quân đầu người; + Mức tiêu dùng một số loại hàng hoá có giá trị như TV, xe máy, tủ lạnh - Chỉ tiêu dịch vụ xã hội: + Số bác sỹ trên một vạn dân; + Số giường bệnh trên một vạn dân; + Số trẻ em đi học trên tổng số trẻ em trong độ tuổi đi học; + Số người có trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp trên một vạn dân; + Tỷ lệ mù chữ trong dân cư Xã hội học có thể sử dụng các chỉ tiêu trên để so sánh đời sống giữa vùng này với vùng khác, giữa nước này với nước khác. II. CÁC YẾU TỐ CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Sản xuất và dịch vụ xã hội Sản xuất và dịch vụ xã hội là nền tảng cơ bản đảm bảo đời sống xã hội, đảm bảo sự phát triển của xã hội. Sản xuất và dịch vụ xã hội tạo ra của cải vật chất và dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, đồng thời còn tạo ra thu nhập của cá nhân người lao động. Sản xuất và dịch vụ xã hội là môi trường hoạt động lao động cơ bản của con người trong xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu về kinh tế và xã 110
  26. hội cho rằng cách mạng khoa học kỹ thuật l à động lực vô cùng to lớn thúc đẩy nền sản xuất và dịch vụ xã hội. Đặc biệt, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã mở ra kỷ nguyên mới cho nhân loại, điển hình như công nghệ thông tin (Information Technology, Информационная Технология) đã và đang không ngừng phát triển rộng khắp trên toàn thế giới, kết nối toàn cầu bằng mạng thông tin có sức mạnh ghê gớm, đó là Internet. Hệ thống thương mại điện tử (E- Trade hoặc E-Commerce) và nhà nước điện tử (E-Gorvenment) đã và đang thúc đẩy sản xuất và dịch vụ xã hội một cách mạnh mẽ. Kinh tế tri thức đang dần trở thành một phạm trù thiết yếu có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội một cách toàn diện. Sự phát triển của sản xuất và dịch vụ xã hội không hề phẳng lặng mà trải qua nhiều bước thịnh suy nhất định. Có thể tạm sử dụng khái niệm chu kỳ kinh doanh (Business Cycle) để chỉ sự thăng trầm n ày. Chu kỳ kinh doanh gồm có giai đoạn mở rộng (Expansion period) và giai đoạn suy thoái (Recession period). Trong giai đoạn suy thoái, trong nền kinh tế xảy ra hàng loạt các vấn đề nghiêm trọng như lạm phát gia tăng, tỷ lệ thất nghiệp cao, sức sản xuất v à dịch vụ giảm mạnh, hàng hoá bị tồn kho nặng nề dẫn đến nhiều hệ luỵ xấu cho xã hội. Chu kỳ kinh doanh dường như là một tất yếu đối với tất cả các nền kinh tế. Do sự tác động của quá trình phát triển sản xuất và dịch vụ đến đời sống xã hội không mang tính một chiều mà đa chiều, đa dạng và vô cùng phức tạp. Một vấn đề nữa có liên quan đến sự phát triển của sản xuất và dịch vụ là cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu ngành thể hiện qua tỷ trọng các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. C ơ cấu ngành liên quan mật thiết đến phân công lao động xã hội. Vì vậy, mỗi sự điều chỉnh đều dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực n ày. Dù còn tồn tại những bất ổn nhất định, nh ưng sự phát triển của sản xuất và dịch vụ vẫn mang lại những thay đổi tích cực v à có ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống xã hội. Cụ thể: - Sự phát triển của sản xuất và dịch vụ đã làm cho xã hội ngày càng trở nên văn minh hơn; con người ngày càng hưởng được nhiều sản phẩm và dịch vụ, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của mình. Nói cách khác, sản xuất và dịch vụ đã và đang không ngừng nâng cao mức sống cho xã hội. 111
  27. - Sự phát triển của sản xuất và dịch vụ đã làm cho phân công lao động xã hội ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Nhiều đô thị lớn, các khu công nghiệp và các trung tâm tâm thương mại, tài chính, dịch vụ hình thành đã làm cho đời sống xã hội phát triển càng lúc càng phong phú và đạt đến trình độ cao. - Tuy nhiên, sự phát triển của sản xuất và dịch vụ cũng dẫn tới quá trình phân hoá xã hội, nhiều khi hết sức mạnh mẽ, khoảng cách gi àu nghèo tăng lên, nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp bị phá vỡ từng mảng lớn, cơ cấu gia đình, giai cấp và nhóm xã hội thay đổi sâu sắc. - Sự phát triển của sản xuất và dịch vụ đã tác động mạnh đến các di sản lịch sử xã hội của một dân tộc. Một mặt, nó tạo điều kiện vật chất để củng cố, phát triển và nâng lên tầm cao mới giá trị của các di sản, truyền thống dân tộc đã được kết tinh qua bề dày lịch sử. Mặt khác, nó góp phần xoá bỏ thói quen sản xuất manh mún, t ư tưởng lạc hậu như gia trưởng, độc đoán, cục bộ địa phương, cha truyền con nối - Sự phát triển của sản xuất và dịch vụ đã tạo ra thu nhập cao cho mỗi cá nhân, giúp họ không những thoả m ãn những nhu cầu ngày càng cao của mình, mà con không ngừng phát triển và hoàn thiện nhân cách. 2. Giáo dục và đào tạo Với tư cách một thiết chế xã hội, giáo dục và đào tạo ra đời, tồn tại và phát triển nhằm thực hiện chức năng truyền đạt những hệ thống tri thức, kinh nghiệm, giá trị đã được tích luỹ trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại để giúp cá nhân chuẩn bị các yếu tố thể chất v à tinh thần cần thiết cho hoạt động xã hội và sự hoà nhập vào cộng đồng. Thiết chế giáo dục còn tham gia vào quá trình kiểm soát xã hội, điều chỉnh hành vi cá nhân cũng như các mối quan hệ xã hội khác. Như vậy, chức năng chủ yếu của giáo dục v à đào tạo là nâng cao dân trí, phát triển nhân tài cho đất nước. Hệ thống giáo dục và đào tạo bao gồm một hệ chỉnh thể của các tiểu hệ thống từ giáo dục mầm non đến giáo dục phổ thông v à đào tạo nghề với nhiều hình thức khác nhau như chính quy, mở rộng, hệ vừa học vừa làm, đào tạo từ xa; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục cộng đồng, hệ thống trường công, trường dân lập và trường tư thục 112
  28. Hệ thống giáo dục và đào tạo phân định rõ chức năng và nhiệm vụ cho các tiểu hệ thống trên căn bản của mối quan hệ logic giữa các tiểu hệ thống. Xã hội luôn đóng vai trò quyết định đối với giáo dục và đào tạo. Xã hội làm sản sinh và thay đổi cơ cấu và nội dung của giáo dục và đào tạo. Chính vì vậy, giáo dục phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, x ã hội và có tính lịch sử và tính giai cấp. Thông qua việc cung cấp tri thức cho người học, giáo dục và đào tạo góp phần thúc đẩy quá trình thay đổi, phát triển cơ cấu xã hội. Khi tiếp cận vấn đề giáo dục và đào tạo, xã hội học tập trung sự chú ý vào năm điểm cơ bản sau đây: - Giáo dục và đào tạo với tư cách là thiết chế giáo dục thực hiện chức năng xã hội hoá cá nhân. + Giáo dục và đào tạo quyết định nhân cách của mỗi cá nhân thông qua việc hình thành năng lực nhận thức, năng lực lao động v à năng lực hành vi ở mỗi cá nhân. Như vậy, sản phẩm của giáo dục và đào tạo là những con người có nhân cách hoà nhập vào xã hội. + Chất lượng giáo dục và đào tạo là năng lực nhận thức, lao động và hành vi của mỗi cá nhân tồn tại trong x ã hội. Trong xã hội hiện đại, chất lượng nhân cách phụ thuộc rất nhiều v ào mức độ mở rộng diện giáo dục hiện nay và nâng cao chất lượng giáo dục. Vấn đề này lại liên quan tới trình độ phát triển của xã hội và mức độ đầu tư của nhà nước và xã hội đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo. - Nghiên cứu các bất bình đẳng trong giáo dục và đào tạo. Các nhà xã hội học xác định sự bất bình đẳng trong giáo dục và đào tạo là cơ hội tiếp nhận giáo dục và đào tạo xã hội không như nhau. Có cá nhân có nhiều cơ hội, song cũng có cá nhân có rất ít c ơ hội. Nguyên nhân là do vấn đề đẳng cấp xã hội, việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và phân phối thu nhập, vấn đề lịch sử và chính trị cũng như vấn đề năng lực của mỗi cá nhân. Bất bình đẳng trong giáo dục và đào tạo thể hiện ở những điểm sau đây: + Bất bình đẳng xảy ra ở các giai cấp trong x ã hội; + Bất bình đẳng xảy ra ở các đẳng cấp kinh tế v à xã hội; + Bất bình đẳng xảy ra ở các khu vực đô thị v à nông thôn; 113
  29. + Bất bình đẳng xảy ra ở các dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, giới tính, nghề nghiệp và chế độ đãi ngộ, truyền thống văn hoá gia đình và cộng đồng. + Nghiên cứu bất bình đẳng trong giáo dục và đào tạo giúp xã hội hoạch định các chính sách xã hội nhằm tạo ra cơ hội như nhau cho mỗi cá nhân tiếp nhận giáo dục và đào tạo xã hội. - Nghiên cứu các chính sách về giáo dục v à đào tạo để thấy rõ sự tác động của chính sách đó trong thực tiễn . Bất luận các quan điểm giai cấp khác nhau, tất cả các cộng đồng quốc gia phát triển tr ên thế giới đều ưu tiên chính sách về giáo dục và đào tạo. Các chính sách về giáo dục và đào tạo gồm có ba loại chủ yếu sau đây: + Luật giáo dục quy định cụ thể hệ thống giáo dục quốc gia v à cơ chế hoạt động của hệ thống đó. + Quy chế hoạt động của các cơ sở giáo dục và đào tạo. + Các chính sách xã hội hoá giáo dục và đào tạo như chính sách ưu tiên về ngân sách giáo dục, chế độ, c ơ hội tiếp nhận giáo dục, nghĩa vụ của người học. Chính sách giáo dục được thực thi luôn kéo theo sự biến đổi tích cực cũng như tiêu cực. Việc điều chỉnh chính sách v à thay đổi các chính sách là tất yếu để đi đến việc tạo ra các c ơ hội như nhau trong tiếp nhận giáo dục xã hội của mỗi cá nhân. - Nghiên cứu và thấm nhuần nguyên lý giáo dục để làm định hướng hoạt động chung cho toàn bộ hệ thống giáo dục. Khi tổ chức hoạt động cụ thể của hệ thống giáo dục, cần phải tuân thủ những nguyên lý giáo dục sau: + Dạy người rồi mới dạy nghề. Đây là nguyên lý giáo dục kết hợp giáo dục nhân cách và giáo dục tri thức, kỹ năng lao động. Sản phẩm của giáo dục là những con người có nhân cách và tri thức nhất định. Khi cá nhân đang định hình nhân cách, thì giáo dục phải hướng vào giáo dục nhân cách để tạo ra một công dân tốt. Khi nhân cách đ ã hình thành thì giáo dục hướng vào củng cố và phát triển nhân cách. Như vậy, nhân cách luôn là nội dung cần hết sức chú ý trong giáo dục x ã hội + Phải phối hợp chặt chẽ và có hiệu quả giáo dục gia đình, giáo dục trong nhà trường và xã hội. 114
  30. + Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục. Gia đình, nhà trường và xã hội tuy có những vai trò khác nhau nhưng bổ sung cho nhau trong giáo dục v à đào tạo. Như vậy, sự kết hợp thường xuyên giữa gia đình, nhà trường và xã hội sẽ tạo nên môi trường thống nhất trong giáo dục. + Phải dạy kiến thức một cách toàn diện. Trong xã hội hiện đại ngày nay, con người luôn tiếp xúc với văn minh khoa học công nghệ phát triển ngày càng cao. Vì vậy, con người cần phải có đủ tri thức để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Những tri thức đó phải toàn diện để tránh sự khập khiễng, méo mó về kiến thức v à kỹ năng sống, làm việc của mỗi cá nhân. + Phải chú trọng đào tạo nhân tài cho đất nước. Đất nước hưng thịnh là nhờ các nhân tài. Các nhân tài phải được coi là vốn quý của đất nước. + Vì vậy, hệ thống giáo dục phải xây dựng đ ược cơ chế hợp lý trong việc phát hiện và đào tạo nhân tài cho đất nước; phải có đầu tư thích đáng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo để thực sự cho ra đời những nhân tài góp sức xây dựng xã hội thịnh vượng. + Phải coi trọng và chú trọng ngành sư phạm và đội ngũ giáo viên. Sản phẩm của giáo dục là những con người có nhân cách, có năng lực lao động để xây dựng xã hội. Chất lượng con người được đào tạo ra phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở vật chất đầu tư cho giáo dục và đội ngũ giáo viên. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai của dân tộc. - Hệ thống nhà trường trong giáo dục và đào tạo hiện nay gồm hai hệ thống cơ bản là: + Hệ thống trường phổ thông gồm các cấp tiểu học, trung học c ơ sở, phổ thông trung học. Đây là hệ thống trường học nhằm giáo dục tri thức phổ thông, cơ bản cho từng cá nhân. + Hệ thống trường dạy nghề gồm các trung tâm dạy nghề, tr ường công nhân kỹ thuật (trung học nghề), trung học chuy ên nghiệp, cao đẳng và đại học. Hai hệ thống trường trên cho thấy quá trình chuyển từ cấp thấp lên cấp cao và quy định đầu vào của các cấp thoả đáng tránh được sự lãng phí cho xã hội. 3. Văn học nghệ thuật 115
  31. Trong đời sống xã hội, văn học nghệ thuật có vai tr ò hết sức to lớn đối với con người. Nó tác động vào ý thức hệ tư tưởng, tinh thần và tình cảm của con người. Văn học nghệ thuật từ trước đến nay phản ánh thế giới hiện thực vừa được điển hình hoá cao độ, vừa được cá thể hoá sâu sắc các cảnh đời, các trạng thái tâm hồn con ng ười bằng các hình tượng văn học nghệ thuật và các hình thức, phương pháp phản ánh cực kỳ đa dạng và phong phú. Văn học nghệ thuật gồm rất nhiều bộ môn nh ư thơ văn, sân khấu, hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc, điện ảnh Tất cả các bộ môn văn học nghệ thuật đều hướng vào việc khắc hoạ cuộc sống bằng các biểu tượng, biểu đạt và thủ pháp nghệ thuật mang tính khái quát, dẫn dắt các hành vi xã hội hướng theo để học hỏi cũng như có năng lực phê phán. Ngoài ra, các bộ môn văn học nghệ thuật còn tạo dựng những đam mê nghệ thuật chân chính, khắc hoạ các giá trị tinh thần đích thực vừa có chức năng giáo dục, vừa có chức năng giải trí cho đời sống con người. Trong đó: - Chức năng giáo dục của văn học nghệ thuật thể hiện ở chỗ nó khắc hoạ cuộc sống bằng các hình tượng nghệ thuật và chỉ ra giá trị đích thực của cuộc sống, từ đó hướng hành động xã hội của mỗi cá nhân đến việc tạo nên tính nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo trong đời sống của cá nhân đó. Nói cách khác, nghệ thuật giáo dục con người bằng hình tượng cái đẹp và khát vọng vươn tới cái đẹp. Văn học nghệ thuật chăm sóc v à chắp cánh cho tâm hồn con người bằng cảm thụ nghệ thuật và chuyển tải phạm trù Chân - Thiện - Mỹ vào cuộc sống, hướng con người vào sự hoàn thiện chính mình và cộng đồng, vào sự hoà quyện giữa cá nhân và cộng đồng để tạo nên một xã hội lý tưởng, xã hội hạnh phúc và phồn vinh. - Chức năng giải trí của văn học nghệ thuật được thể hiện bằng việc thông qua các hình tượng nghệ thuật, cách điệu, trang phục, ánh sáng và âm thanh mang lại cho công chúng thưởng thức nghệ thuật những cảm giác thú vị, tiếng cười hồn nhiên, vui vẻ và triết lý sâu sắc trong cuộc sống. Nó giúp mỗi người thấy được sự đa dạng, phong phú, tính thi vị của cuộc đời và toại nguyện được lý tưởng của mỗi người. Mỗi dân tộc đều có nền văn học nghệ thuật đậm đ à bản sắc của dân tộc mình. Nó phản ánh cuộc đấu tranh sinh tồn của chính dân tộc đó và các quan hệ xã hội mang sắc thái riêng của mình. Tinh hoa của mỗi 116
  32. dân tộc được văn học nghệ thuật chắt lọc v à truyền lại cho đời sau, trở thành những giá trị tinh thần to lớn của mỗi dân tộc. Đồng thời, văn học nghệ thuật cũng chắt lọc những cái đẹp, tinh hoa của nền văn minh nhân loại, gắn bó với hình ảnh cụ thể của dân tộc tạo nên nền văn học nghệ thuật tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 4. Y tế và bảo hiểm xã hội a) Y tế xã hội Y tế xã hội là hệ thống các tổ chức nhằm ngăn ngừa bệnh tật v à chữa trị cho nhân dân. Y tế xã hội đáp ứng nhu cầu đảm bảo sức khoẻ cho nhân dân nhằm góp phần đem lại hạnh phúc cho mọi ng ười. Y tế xã hội còn góp phần vào công tác kế hoạch hoá dân số, mang lại văn minh cuộc sống cho mỗi gia đình. Y tế xã hội gồm hai hệ thống, đó là: - Y tế dự phòng có chức năng ngăn ngừa và loại trừ bệnh tật trong dân cư, cụ thể là phát hiện, ngăn chặn và đi đến tiêu diệt các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, tiêm chủng nhằm phòng bệnh cho dân, tiến hành các hoạt động vệ sinh công cộng, vệ sinh khu vực dân c ư, giáo dục y tế trong dân. Y tế dự phòng có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó vừa ngăn ngừa bệnh tật, vừa giúp nhân dân hiểu đ ược văn minh của tổ chức cuộc sống, giúp người dân có cuộc sống khoẻ mạnh và hạnh phúc. - Y tế điều trị có chức năng chữa bệnh mang lại cuộc sống v à sức khoẻ cho nhân dân. Đây là một hệ thống lớn bao gồm các bệnh viện, các cơ sở điều trị. Nếu hệ thống này phát triển mạnh sẽ mang lại sự yên tâm, ổn định trong đời sống nhân dân. Xem xét hai hệ thống y tế, xã hội cần quan tâm đến một số vấn đề sau đây: - Quan tâm phát triển và mở rộng cả hai hệ thống y tế trên, cần đầu tư thích đáng nhằm đảm bảo tính hiệu quả. Cần phải l ưu ý rằng, hệ thống y tế dự phòng chỉ có sử dụng ngân sách chứ không có thu ngân sách cho nên phải chi tiêu ngân sách cho y tế dự phòng thật hiệu quả. - Quan tâm đến sự kết hợp chặt chẽ giữa y học hiện đại với y học dân tộc. - Cần có những chính sách và giải pháp hữu hiệu nhằm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng trong hoạt động y tế do nhiều yếu tố tác động 117
  33. không mong muốn như đẳng cấp xã hội, điều kiện kinh tế, thành thị, nông thôn, dân tộc, tôn giáo - Cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế hoạt động của y tế, các chính sách về y tế, cơ chế đảm bảo quyền lợi y tế của nhân dân. - Đặc biệt cần quan tâm đến vấn đề y đức trong y tế. Phải tuyệt đối thực hiện tôn chỉ của ngành, của người thầy thuốc là “Lương y như từ mẫu”. b) Bảo trợ và bảo hiểm xã hội Bảo trợ xã hội là hoạt động trợ giúp có tính chất nhân đạo của nhà nước và các tổ chức từ thiện cho những ng ười gặp sự cố trong cuộc sống. Bảo hiểm xã hội là đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải biến cố l àm giảm hoặc mất khả năng lao động cũng như khi mất việc làm bằng cách hình thành và sử dụng quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của ng ười lao động và người sử dụng lao động, nhằm đảm bảo sự an to àn đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã thông qua Công ước số 102 năm 1992 với những quy phạm tối thiểu về bảo hiểm x ã hội, trong đó quy định hệ thống gồm chín chế độ bảo hiểm l à: - Chăm sóc y tế; - Trợ cấp ốm đau; - Trợ cấp tuổi già; - Trợ cấp gia đình; - Trợ cấp thai sản; - Trợ cấp tàn tật; - Trợ cấp tai nạn lao động; - Trợ cấp cho những người còn sống sau tai nạn; - Trợ cấp bệnh nghề nghiệp. Trong xã hội, hoạt động bảo trợ và bảo hiểm xã hội mang tính tất yếu thể hiện ở tính bất ổn định của cuộc sống do h àng loạt các sự kiện 118
  34. có thể gây ra sự cố như bệnh tật, tai nạn, thiên tai, hoả hoạn Những sự cố trong cuộc của mỗi con người và hoạt động của mỗi tổ chức luôn đòi hỏi có sự trợ giúp của cộng đồng để họ có thể trải qua những giai đoạn sóng gió đó. Sự phát triển của bảo trợ và bảo hiểm xã hội nói lên vai trò của cá nhân đối với cộng đồng và của cộng đồng đối với cá nhân. V ì vậy, tham gia bảo trợ và bảo hiểm xã hội là trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân. Bảo trợ và bảo hiểm xã hội có vai trò rất to lớn đối với xã hội thể hiện ở các điểm sau: - Sự phát triển của bảo trợ và bảo hiểm xã hội đã tạo ra cảm giác bình yên và ổn định cho nhân dân. Đây là nhu cầu rất lớn trong đời sống của mỗi cá nhân. - Sự phát triển của bảo trợ và bảo hiểm xã hội giúp cho những người gặp sự cố trong cuộc đời sớm hội nhập trở lại với cuộc sống b ình thường của cộng đồng và của bản thân mình. - Bảo trợ và bảo hiểm xã hội thực hiện vấn đề an sinh xã hội, bảo đảm an toàn xã hội cho mỗi người. 5. Môi trường sinh thái Môi trường là tập hợp tất cả các điều kiện cần thiết cho con người tồn tại và phát triển cả ở hiện tại và trong tương lai. Từ rất lâu trong lịch sử, con người đã biết được vũ trụ là sự tồn tại trong mối liên hệ mật thiết giữa trời, đất và con người (Thiên - Địa - Nhân). Sinh thái là mối quan hệ biện chứng giữa tất cả các h ình thái của cuộc sống và hoàn cảnh tự nhiên. Nhà sinh thái học quan tâm đến việc con người làm ảnh hưởng đến môi tường tự nhiên như thế nào và ngược lại môi trường tự nhiên ảnh hưởng như thế nào đến con người. Các nhà xã hội học nghiên cứu môi trường sinh thái bao gồm cả môi tr ường tự nhiên và xã hội tạo nên hệ sinh thái. Hệ sinh thái là sự tương tác một cách phức hợp giữa môi trường tự nhiên và xã hội. Hệ sinh thái được hình thành do toàn bộ các hình thái cuộc sống nằm trong môi trường. Cuộc sống của thảo mộc, động vật, con người và xã hội là một phần của hệ sinh thái. Hệ sinh thái có thể tồn tại ở bất kỳ quy mô n ào trong sự phụ thuộc tương hỗ tồn tại giữa các yếu tố với nhau đ ược gọi là cân bằng sinh thái. 119
  35. Sự cân bằng sinh thái đã được hình thành từ lâu trong lịch sử, nhưng dưới tác động của cuộc cách mạng kỹ thuật, con ng ười đã phá vỡ thế cân bằng vốn đã hết sức mong manh. Thảm hoạ của môi trường sinh thái được thể hiện ở những điểm sau đây: - Thứ nhất, tình trạng mất cân bằng thảm thực vật trên trái đất dẫn đến sự biến động thời tiết mạnh mẽ. Các hiện t ượng thời tiết khắc nghiệt và khó lường như elnino, lanina, hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ô zôn, lũ lụt, hạn hán đã gây thảm hoạ vô cùng lớn cho đời sống. - Thứ hai, các hiện tượng ô nhiễm môi trường nước, không khí đã tác động trực tiếp đến môi trường sống. - Thứ ba, các chất thải độc hại khó tiêu huỷ đang ảnh hưởng nguy hại đến cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. - Thứ tư, hiện tượng sa mạc hoá, xói mòn đang làm thu hẹp sự sống trên nhiều vùng của trái đất. - Thứ năm, sự huỷ diệt nhiều loài sinh vật đã dẫn đến hiện tượng khan hiếm thực phẩm tự nhiên, gây biến động bất lợi ở nhiều yếu tố sinh học. - Thứ sáu, hiện tượng sử dụng hoá chất độc hại ng ày càng phổ biến và sử dụng các hiện tượng đột biến gien đã gây ra nhiều bệnh tật, ngộ độc, thay đổi hệ di truyền. Như vậy, sự mất cân bằng sinh thái nghi êm trọng dẫn đến nguy cơ diệt vong của các loài sinh vật, trong đó có cả con người. Vì vậy, cả nhân loại phải nỗ lực để cứu vãn tình thế. Hội nghị môi trường thế giới năm 1998 đã thống nhất kêu gọi nỗ lực của tất cả các quốc gia, cả nhân loại cần phải thực hiện ngay các giải pháp cấp bách để cứu trái đất Các giải pháp đó là: - Phục hồi toàn bộ thảm thực vật trên toàn cầu nhằm lấy lại yếu tố cân bằng sinh thái tự nhiên bằng cách trồng cây xanh ở mọi chỗ có thể trồng được, đặc biệt là phục hồi toàn bộ số rừng tự nhiên đã bị phá huỷ. - Ngăn chặn và đi đến chỗ loại bỏ hoàn toàn các chất độc hại gây ô nhiễm môi trường bằng cách xử lý các chất thải tr ước khi thả vào môi trường tự nhiên, hạn chế sử dụng các hoá chất độc hại trong nông nghiệp; 120
  36. - Bảo tồn và phục hồi một số loài động thực vật quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng. - Thống nhất các quan điểm để đưa ra các quy định chung nhằm từng bước phục hồi lại cân bằng hệ sinh thái. Trong thời đại ngày nay, vấn đề môi trường sinh thái không bó hẹp trong phạm vi của riêng quốc gia nào, mà là vấn đề toàn cầu. Cải thiện môi trường sinh thái đòi hỏi sự nỗ lực chung của mọi quốc gia. 6. Dân số - lao động - việc làm Dân số - lao động - việc làm là ba vấn đề liên quan chặt chẽ với nhau và tác động rất lớn đến đời sống xã hội. Các nhà xã hội học quan tâm đến mối quan hệ giữa dân số, lao động và việc làm với xã hội. Nghiên cứu vấn đề dân số trong xã hội, trước hết, phải hiểu rõ một số khái niệm cơ bản như quy mô dân số, tỷ suất sinh thô, tỷ suất tử thô, tỷ lệ tăng dân số c ơ học, mật độ dân cư, cơ cấu dân số. Một vấn đề quan trọng mà các nhà xã hội học cần quan tâm về quan hệ dân số và xã hội là các lý thuyết về thay đổi dân số. Có hai lý thuyết cơ bản sau đây: - Thuyết nhân mãn của Malthus: Malthus đưa ra quan điểm dân số gia tăng theo cấp số nhân, trong khi đó lương thực gia tăng theo cấp số cộng. Hệ quả là xuất hiện tình trạng thiếu hụt lương thực và ông tiên đoán rằng dân số và nguồn cung cấp sẽ được tái tạo quân bình nhờ hệ quả của chiến tranh, nạn dịch và nạn đói. Lý thuyết này có ý nghĩa đối với thời kỳ cổ xưa, còn giai đoạn hiện nay nó không còn ý nghĩa nữa trước sự can thiệp ngày càng chủ động của con người vào quá trình sinh sản và ngày càng tạo ra năng suất cây trồng và vật nuôi cao. - Thuyết quá độ dân số đã giúp hiểu rõ bản chất của sự thay đổi dân số. Thuyết này đưa ra ba giai đoạn phát triển dân số như sau: + Giai đoạn 1 là giai đoạn cả tỷ suất sinh và tử đều cao dẫn đến quy mô dân số ổn định, nó điển hình cho khu vực chậm phát triển của thế giới; + Giai đoạn 2 là giai đoạn tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp dẫn đến dân số tăng khá nhanh; 121
  37. + Giai đoạn 3 là giai đoạn dân số trở lại ổn định với tỷ suất sinh v à tử đều thấp, giai đoạn này diễn ra ở các xã hội công nghiệp và đô thị hoá cao. Tiếp đến, trong nghiên cứu vấn đề dân số, xã hội học cần quan tâm đến vấn đề di dân. Di dân là sự di chuyển dân số từ một nơi này đến một nơi khác. Hiện nay người ta thường quan tâm đến hai loại di dân l à di dân nội bộ và di dân quốc tế. Vấn đề di dân có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của x ã hội, nó tạo cơ hội xây dựng cuộc sống ở những n ơi tốt hơn của những người di cư. Song thực tế vấn đề di dân tự do là một vấn đề cần đặc biệt quan tâm vì nó gây ra những phiền phức rất lớn cho xã hội, nhất là tình trạng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị. Vì vậy, các nhà xã hội học cần phải có quan điểm r õ ràng trong việc nghiên cứu hiện tượng di dân tự do này. Hiện nay, xã hội học còn phải quan tâm đến di dân quốc tế. Đây l à nhu cầu thực tế của phân công lao động quốc tế. Di dân quốc tế thể hiện ở hợp tác lao động quốc tế v à di dân tự do. Ngoài ra, xã hội học cần quan tâm các chính sách dân số. Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại hai loại chính sách dân số l à hạn chế sự gia tăng dân số và ngược lại, khuyến khích gia tăng dân số. - Chính sách hạn chế gia tăng dân số bao gồm các quy định số con hợp lý trong gia đình và các giải pháp can thiệp vào quá trình sinh sản nhằm hạn chế số con. - Chính sách khuyến khích sinh sản bao gồm các cung cấp về vật chất nhằm khuyến khích có nhiều con v à hạn chế sự can thiệp vào quá trình sinh sản nhằm tạo ra số con nhiều h ơn. Tốc độ tăng dân số cao, quy mô dân số lớn là những vấn đề hết sức phức tạp của các nước chậm phát triển. Những vấn đề phức tạp đó thể hiện ở các điểm sau: - Thứ nhất, do tốc độ tăng dân số cao, quy mô dân số lớn dẫn đến tốc độ gia tăng và quy mô nguồn lao động ngày càng lớn đã gây ra sứ ép rất lớn về việc làm. Nếu xã hội không đủ lượng đầu tư giải quyết 122
  38. việc làm cho số lao động gia tăng này sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp triền miên và đó là gánh nặng vô cùng lớn cho xã hội. - Thứ hai, dân số tăng nhanh đòi hỏi giáo dục cũng tăng nhanh theo, đặc biệt là giáo dục nghề phải mở rộng quy mô đào tạo để đáp ứng nhu cầu. Nếu đầu tư giáo dục hạn chế sẽ dẫn đến chất lượng nguồn lao động không cao ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế. - Thứ ba, dân số tăng nhanh dẫn đến sức ép mạnh về lương thực, thực phẩm, chăm sóc y tế, văn hoá v à tất yếu làm giảm chất lượng đời sống của nhân dân. 7. Lối sống - trào lưu - thị hiếu a) Lối sống Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về lối sống v à mỗi quan điểm đều có luận cứ riêng của mình, cụ thể: - Quan điểm hành vi cho rằng lối sống là những hình thức cố định điển hình của hoạt động sống cá nhân và tập đoàn của con người, những hình thức ấy nói lên đặc điểm về giao tiếp, hành vi và tư duy của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động chính trị, xã hội, sinh hoạt và giải trí. - Quan điểm triết học cho rằng lối sống là một phạm trù triết học lý giải một phương thức hành động, một trạng thái sinh tồn của con người. Có thể xem lối sống như một phương thức tồn tại của một cá nhân hay của một nhóm xã hội mang tính lịch sử cụ thể. Lối sống mang nội dung hành xử của con người theo những tiêu chuẩn đạo đức, luật pháp của một chế độ chính trị nhất định, tập quán và truyền thống văn hoá của dân tộc. Nó phản ánh những sở thích cá nhân, tạo ra cho mỗi người một nhân cách. Khái quát hai quan điểm trên, xã hội học nhận thấy biểu hiện cơ bản của lối sống là những nhận thức (quan điểm cá nhân) về vấn đề lao động, tiêu dùng, quan hệ xã hội trong điều kiện cụ thể của x ã hội hiện đại và thể hiện ra ngoài là những hành vi xã hội. Như vậy, có thể thống nhất khái niệm lối sống nh ư sau: Lối sống là tập hợp có hệ thống những đặc điểm c ơ bản, đặc trưng cho các hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập đo àn xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. 123
  39. Lối sống phụ thuộc vào thời đại mà cá nhân đang sống với những điều kiện vật chất tinh thần nhất định. Những quy định của thời đại nh ư luật pháp, chính sách, cơ chế kinh tế xã hội đã tạo nên tư duy và hành động của mỗi cá nhân trong xã hội và quyết định lối sống của cá nhân đó. Ngoài ra, lối sống còn được quy định bởi di sản của lịch sử, đó l à các giá trị truyền thống đã tạo nên những khuôn mẫu trong hoạt động hàng ngày đang chi phối hành vi của mỗi cá nhân. Lối sống còn bắt nguồn từ mặt bằng văn hoá. Với mặt bằng văn hoá cao, con người sống có đạo đức, có nhân cách, có bản lĩnh vững vàng hơn; tôn trọng các tiêu chuẩn xã hội lành mạnh. b) Trào lưu Một bộ phận, một yếu tố nào đó của lối sống nảy sinh và phát triển đã lôi cuốn được đông đảo công chúng không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo thì được gọi là trào lưu. Trào lưu có thể đại diện cho một tư tưởng mới, một xu thế lành mạnh, một yếu tố tiến bộ trong lối sống. Nh ưng trào lưu cũng có thể phản tiến bộ, phản văn hoá. Để có trào lưu đòi hỏi phải có lực lượng đi tiên phong, đề xướng và khuếch trương trong cuộc sống. Sức lôi cuốn của trào lưu phụ thuộc vào tính hấp dẫn của vấn đề được đề xướng và đáp ứng của công chúng. Trào lưu liên quan đến những yếu tố thuộc về ý thức hệ, tư tưởng của con người. Vì vậy, trào lưu có tính bền vững nhất định và thường để lại những dấu ấn lớn trong lối sống. Nếu tr ào lưu được tất cả cộng đồng chấp nhận và tuân thủ thì trào lưu trở thành một yếu tố không thể thiếu của lối sống. Trào lưu làm thay đổi bộ mặt đời sống của xã hội, làm phong phú lối sống và làm cho con người đạt được trình độ văn minh cao hơn. Trào lưu phụ thuộc trước hết vào trình độ văn minh của xã hội. Trình độ văn minh giúp con người hiểu được cái mới, sáng tạo cái mới, đồng thời cũng giúp họ hiểu được sự lạc hậu của cái cũ đang k ìm hãm văn minh, loại bỏ nó và vươn tới cái đẹp. Trào lưu còn phụ thuộc vào sự giao thoa lối sống giữa các v ùng, các dân tộc, các giai cấp và mỗi cá nhân. 124
  40. c) Thị hiếu Thị hiếu là một kiểu cách, một mô hình trong lối sống lôi cuốn được một số đông người theo nó trong một khoảng thời gian nhất định . Thị hiếu khác trào lưu ở chỗ thị hiếu chỉ là yếu tố sở thích không liên quan đến ý thức hệ và không có tính bền vững, vì vậy, không để lại dấu ấn trong lối sống. Thị hiếu thương gắn liền với sở thích hàng ngày trong đời sống vật chất, lao động nghệ thuật, cách điệu của h ành vi, mô hình ứng xử trong cuộc sống. Do đó, thị hiếu làm cho lối sống phong phú hơn, đa dạng hơn vừa mang lại cảm hứng cuộc sống của cá nhân. Thị hiếu thường có hai cấp độ, đó là: - Thị hiếu chọn lọc là thị hiếu của những người hiểu được cái đẹp và biết vận dụng cái đẹp để làm phong phú cuộc sống. Đây là thị hiếu có chất lượng cao. - Thị hiếu không chọn lọc là thị hiếu của những người có tư tưởng a dua đua đòi mà không hiểu bản chất của cái đẹp, cái tốt. Thị hiếu n ày có thể khai thác một cách dễ dàng qua quảng cáo và lan truyền trong dân cư. Thị hiếu phụ thuộc vào trình độ văn hoá của xã hội. Những người có trình độ văn hoá cao thường có nhận thức trong cuộc sống cao. V ì vậy họ thiên hướng theo thị hiếu chọn lọc. Những ng ười có trình độ văn hoá thấp thường chạy theo thị hiếu không chọn lọc. Thị hiếu cũng phụ thuộc vào sự khác biệt về điều kiện kinh tế văn hoá, xã hội của mỗi dân tộc, giai cấp, và cá nhân nó thể hiện qua hoàn cảnh gia đình mức sống, môi trường hoạt động. Thị hiếu còn phụ thuộc vào giao lưu kinh tế văn hoá xã hội giữa các vùng các dân tộc. Đây là quá trình chắt lọc lấy cái đẹp của cuộc sống. Cuối cùng, thị hiếu phụ thuộc vào truyền thống văn hoá xã hội của dân tộc. Các quan niệm hành vi, cách điệu trong cuộc sống có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của thị hiếu. 8. Khuyết tật xã hội (hành vi lệch chuẩn) 125
  41. Trong đời sống xã hội người ta nhận thấy rằng không phải tất cả các cá nhân, các nhóm xã hội đều tuân thủ những gì gọi là quy định xã hội. Trong mọi lúc, mọi nơi, ở mọi khía cạnh, xã hội luôn xảy ra những hành vi không đúng với quy định đã dẫn đến làm ảnh hưởng tới đời sống của người này, người khác hoặc một bộ phận dân cư. Về nguyên tắc, muốn xây dựng một xã hội văn minh lành mạnh thì phải loại trừ toàn bộ các hành vi lệch chuẩn để hướng hoạt động của xã hội vào sự đồng cảm với nhau để xây dựng cuộc sống chung. Hành vi lệch chuẩn (hay khuyết tật xã hội) là những hành vi trái với những quy tắc sống tồn tại trong văn hoá, l à những hành vi đi chệch khỏi các quy tắc, các chuẩn mực của x ã hội hay nhóm xã hội, là các thói hư, tật xấu tồn tại trong nhân dân làm ảnh hưởng tới cuộc sống của mọi người. Những hành vi đó thường là nghiện ngập ma tuý, rượu chè, cờ bạc trộm cướp, bạo hành, mại dâm, mê tín dị đoan, tham ô, tham nhũng Những hành vi đó không những làm suy đồi đạo đức, nhân cách của những người thực hiện nó mà còn gây ra những hậu quả lớn cho xã hội, ảnh hưởng tới cuộc sống của nhiều người khác. Đại bộ phận các hành vi lệch chuẩn đều được các xã hội quan niệm thống nhất và xác định một cách rõ ràng. Song có một số hành vi lệch chuẩn chỉ mang tính chất t ương đối theo phạm vi của dân tộc, các nhóm xã hội. Ở dân tộc này, nhóm xã hội này cho là lệch chuẩn nhưng ở dân tộc khác, nhóm xã hội lại cho là bình thường. Thí dụ quan hệ tình dục giữa người da trắng với người da đen được coi là bình thường ở nhiều nước nhưng ở Nam Phi thì đây là một tội ác, sự loạn luân ở xã hội Ai Cập cổ đại được coi là hành vi giữ gìn dòng dõi trong khi đó ở các nước khác cho là hành vi đồi bại, nói tục, văng bậy ở nhóm ng ười lao động chân tay họ cho là bình thường, nhưng ở giới trí thức thì đây là hành vi xấu không thể chấp nhận được. Vì vậy, khi xem xét đến một số hành vi lệch chuẩn, cần chú ý phân định rõ ràng các hành vi có tính chất tương đối đó. Tại sao những người trong xã hội lại có hành vi lệch chuẩn đó? Đây là câu hỏi đã được đặt ra từ lâu đối với xã hội loài người và các nhà 126
  42. khoa học cũng đã có nhiều trường phái khác nhau lý giải để trả lời câu hỏi đó. Xã hội học có thể đề xuất ba cách giải thích nh ư sau: - Giải thích trên cơ sở sinh học: Các nhà sinh học hướng vào cấu trúc sinh học của có thể để lý giải theo các thuyết sau: + Lý thuyết về loại cơ thể: Cesare Lombroso, người Italy thế kỷ XIX cho rằng kẻ phạm tội không có sự ho àn thiện về mặt sinh học như những người bình thường. Về mặt sinh học, kẻ phạm tội giống sinh vật hơn là người bình thường. Những người với quai hàm và xương cánh tay rất dài, xương ngón tay ngón chân to bè và b ộ răng bất bình thường thì thường có khả năng hành vi lệch chuẩn cao. + William Sheldon, nhà nhân chủng học người Mỹ lại chia ra ba kiểu cơ thể: • Thứ nhất: Tròn, béo, mềm; • Thứ hai: Lực lưỡng, cơ bắp; • Thứ ba: Mỏng manh, yếu ớt, gầy. + William Sheldon cho rằng kiểu cơ thể lực lưỡng, cơ bắp có khả năng hành vi lệch chuẩn cao vì họ thuộc loại cơ thể dễ bị kích động, dễ dàng nổi nóng, dễ bị rơi vào trạng thái thần kinh căng thẳng. + Lý thuyết về nhiễm sắc thể thì cho rằng ở con người bình thường, nam giới có cặp nhiễm sắc thể XY, nữ giới có cặp nhiễm sắc thể XX. Ở những người có nhiễm sắc thể XYY thường là những người có hành vi lệch chuẩn cao. - Giải thích trên cơ sở tâm lý: + Lý thuyết phân tâm học của Sigmund Freud đã chia nội tại con người thành ba phần là; bản năng, bản ngã, và siêu ngã. Bản năng tượng trưng cho phần vô thức và phi xã hội của cá nhân, bản ngã biểu hiện phần ý thức có lý trí của cá nhân, c òn siêu ngã biểu hiện phần giá trị văn hoá với chức năng như là lương tâm của cá nhân. + Trường phái phân tâm học cho rằng h ành vi lệch chuẩn là kết quả khi mà cá nhân nào đó có phần bản năng mạnh, trội lên đến mức mà phần bản ngã và siêu ngã không thể kiểm soát được hành vi của họ. Nhà tâm lý học hành vi Eysenck cho rằng những hành vi lệch chuẩn là sản phẩm của tính dễ tiếp thu của cá nhân đối với một quá 127
  43. trình chi phối về mặt tâm lý và do đó người có tính dễ tiếp thu thường có khả năng hành vi lệch chuẩn cao. Hành vi lệch chuẩn là một sản phẩm của sự bất lực tâm lý của cá nhân do không đáp ứng đ ược sự đào tạo của xã hội qua thời kỳ thơ ấu và thời niên thiếu. - Giải thích trên cơ sở xã hội học: + Các lý thuyết xã hội coi hành vi lệch chuẩn như kết quả từ xã hội. Họ cho rằng những hành vi lệch chuẩn đó là do khiếm khuyết văn hoá và cơ cấu xã hội sinh ra. Những ảnh hưởng của môi trường không lành mạnh trong xã hội, những yếu kém của tiểu văn hoá gia đ ình và giai cấp đã khiến cho một số người dính líu đến hành vi lệch chuẩn. + Lý thuyết nhóm khác biệt của Edwin Sutherland cho rằng điều đầu tiên phải hiểu cho đúng như thế nào là lệch chuẩn và cần phải hiểu sự lệch chuẩn này có biến đổi khác nhau từ nhóm người này sang nhóm người khác. Hầu hết các cá nhân đều có cả hai thứ trong tự thân l à lệch chuẩn và không lệch chuẩn. Cá nhân sẽ phô diễn cả hai trong nhóm x ã hội nào đó. Và như vậy ở nhóm xã hội nào đó cá nhân sẽ có hành vi lệch chuẩn. + Lý thuyết phi quy tắc của Robert K. Merton cho rằng h ành vi lệch chuẩn như là kết quả của hoạt động trong trạn g thái không quy tắc, không nguồn gốc đưa đến là mong đợi văn hoá không tồn tại trong quan hệ xã hội. - K. Merton đưa ra bốn kiểu hành vi lệch chuẩn là: + Sáng kiến là hành vi vượt ra ngoài quy định để đạt được điều gì đó; + Chủ nghĩa nghi thức là hành vi cố bám lấy nguyên tắc và thủ tục cứng nhắc dẫn đến hậu quả tai hại; + Chủ nghĩa thoát ly là hành vi thoát ra khỏi mục tiêu và phương cách để đạt được mục tiêu; + Nổi loạn là hành vi cá nhân bác bỏ cả mục tiêu và phương cách đạt được mục tiêu. - Lý thuyết điều tiết của T. Hirsch cho rằng trong xã hội tồn tại mối quan hệ giữa cá nhân và quy ước xã hội. Một khi cá nhân tiếp thu tốt các quy ước xã hội sẽ giảm thiểu sự lệch hướng khỏi quy ước đó. 128
  44. - Lý thuyết gán nhãn cho rằng hành vi của một cá nhân lệch chuẩn hay không là do sự phản ứng của cá nhân khác nhiều h ơn là tự thân hành vi đó biểu hiện, và các cá nhân khác gán cho anh ta cái nhãn là lệch chuẩn. - Lý thuyết xung đột cho rằng trong một thể chế x ã hội, người ta phải thiết lập các luật lệ và phương thức bảo vệ quyền lợi riêng của giai cấp này hay giai cấp khác cũng như duy trì trật tự xã hội. Cùng một hành vi lệch chuẩn như nhau nhưng gán nhãn cho các cá nhân thuộc nhóm giai cấp có địa vị thấp bao giờ cũng dễ d àng hơn cho các cá nhân ở giai cấp có địa vị cao. Theo Karl Marx thì hành vi lệch chuẩn sẽ xuất hiện nhiều h ơn cùng với sự xung đột quyền lợi giữa các giai cấp trong xã hội. 129
  45. Chương VII SỰ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI I. KHÁI QUÁT VỀ SỰ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI 1. Khái niệm biến đổi xã hội Mọi xã hội đều không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ có tính tương đối và nhiều khi chỉ là sự ổn định bề ngoài, có tính tạm thời mà thôi. Đối với xã hội hiện đại, sự biến đổi càng rõ ràng và diễn ra nhanh hơn. Sự biến đổi xã hội không phải là điều mới mẻ, mà là vấn đề diễn ra một cách thường xuyên và hợp quy luật biến đổi và phát triển của sự vật. Hiện nay tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về sự biến đổi x ã hội. Theo cách hiểu rộng nhất, biến đổi xã hội là sự thay đổi so sánh giữa tình trạng hiện tại của xã hội cũng như của các bộ phận, yếu tố cấu thành xã hội so với tình trạng cũ hay trong quá khứ. Trong phạm vi hẹp, xã hội học cho rằng biến đổi xã hội chính là sự biến đổi về cấu trúc xã hội (hay tổ chức xã hội của nó) và sự biến đổi này ảnh hưởng sâu sắc đến mọi thành viên của xã hội. Tuy nhiên, đó chỉ là hai trong rất nhiều quan niệm về sự biến đổi x ã hội. Đề cập đến sự biến đổi xã hội là đề cập đến sự thay đổi, nhưng không phải sự thay đổi nào cũng được gọi là biến đổi xã hội, mà chỉ những thay đổi có ảnh hưởng sâu sắc tới đông đảo cá nhân trong xã hội, hay sự thay đổi của các cơ cấu tổ chức, các tầng lớp xã hội mới được gọi là biến đổi xã hội. Sự biến đổi xã hội không chỉ diễn ra ở tầm vĩ mô, m à cả ở tầm vi mô, không chỉ trong lĩnh vực kiến trúc thượng tầng, mà cả ở nền sản xuất vật chất hay là cơ sở hạ tầng. Sự biến đổi xã hội không chỉ diễn ra theo chiều hướng tiến bộ, mà có thể diễn ra theo chiều hướng thụt lùi. Như vậy, có thể thống nhất khái niệm về sự biến đổi x ã hội như sau: Biến đổi xã hội là một quá trình, qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian. Theo quan điểm triết học, mọi sự vật và hiện tượng đều biến đổi và không ngừng phát triển, đứng yên chỉ là hình thức tồn tại nhất thời 130
  46. của vận động. Xã hội cũng vậy, luôn vận động, phát triển v à biến đổi xã hội là một tất yếu khách quan. Vấn đề l à mức độ, quy mô và phạm vi biến đổi mà thôi. Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng của biến đổi xã hội, xã hội học có thể chia thành hai cấp độ biến đổi như sau: - Những biến đổi vĩ mô là những biến đổi diễn ra và trải rộng trên một phạm vi lớn, trong đó, chúng diễn ra trong những thời kỳ d ài. Sự biến đổi vĩ mô có thể không nhận thấy đ ược vì nó diễn ra hết sức chậm chạp so với đời sống của con người. - Một thí dụ về sự biến đổi vĩ mô l à quá trình hiện đại hoá, đó là quá trình các xã hội trở nên khác nhau bên trong nhiều hơn, như sự thay đổi các thiết chế xã hội giản đơn bằng các các thiết chế xã hội phức tạp hơn. - Những biến đổi vi mô là những biến đổi nhỏ, nhanh, được tạo ra bởi những quyết định, những hành vi trong quan hệ tương tác của con người trong đời sống hàng ngày. 2. Đặc điểm của biến đổi xã hội Sự biến đổi xã hội có những đặc trưng cơ bản sau: - Sự biến đổi của xã hội là kết quả của những hoạt động tích cực và sáng tạo của con người. Thông qua mọi hoạt động vật chất cũng như tinh thần, thông qua lao động sáng tạo, con ng ười đã làm thay đổi môi trường tự nhiên, đồng thời cũng làm thay đổi cả môi trường xã hội, làm xã hội biến đổi. - Sự biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến nhưng nó diễn ra không giống nhau cả về nhịp độ, tốc độ, quy mô, không gian v à thời gian giữa các xã hội. + Sự biến đổi của mỗi bộ phận, mỗi th ành phần của cơ cấu xã hội cũng diễn ra với nhịp độ, tốc độ khác nhau trong những không gian v à thời gian cụ thể nhất định. + Mỗi xã hội đều biến đổi theo thời gian, nh ưng do các điều kiện khác nhau nên các xã hội biến đổi theo nhịp độ nhanh chậm khác nhau. Tốc độ của sự biến đổi gia tăng khi khoa học kỹ th uật phát triển. 131
  47. + Sự biến đổi xã hội ở các nước có nền khoa học công nghệ cao diễn ra nhanh hơn, sâu sắc hơn, có phạm vi không gian rộng lớn hơn các nước có nền khoa học kỹ thuật kém phát triển. + Trong quá trình biến đổi xã hội thì sự biến đổi trong cơ sở hạ tầng diễn ra nhanh hơn và đóng vai trò quyết định quá trình biến đổi của kiến trúc thường tầng. + Trong quá trình biến đổi xã hội các yếu tố văn hoá vật chất biến đối nhanh hơn các yếu tố văn hoá tinh thần. - Sự biến đổi xã hội khác biệt về thời gian và ảnh hưởng đối với đời sống xã hội. + Có những biến đổi chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn v à không có ảnh hưởng lâu dài. Nhưng cũng có những biến đổi diễn ra trong một thời kỳ dài có thể trong nhiều thế kỷ, nhiều thế hệ. + Những ảnh hưởng của sự biến đổi xã hội phụ thuộc vào tính chất, mức độ và phạm vi của bản thân sự biến đổi đó. + Sự biến đổi xã hội vừa có thể có những ảnh hưởng tích cực, vừa có thể có những ảnh hưởng tiêu cực đối với đời sống xã hội. + Bên cạnh những thay đổi về mặt kỹ thuật, Sự biến đổi xã hội còn đưa đến những thay đổi về chuẩn mực, h ành vi xã hội liên quan đến hành vi của giới, hành vi của chủng tộc, hành vi của nhóm xã hội. - Sự biến đổi xã hội vừa có tính kế hoạch vừa có tính phi kế hoạch. + Đây là tính hai mặt của quá trình biến đổi xã hội. Nói cách khác, những biến đổi xã hội do con người tạo ra đều xuất phát từ tính tự giác, chủ động của con người, vì vậy, nó hoàn toàn có thể kiểm soát được. + Tuy nhiên sự biến đổi xã hội không chỉ do tính tự giác của con người quyết định, mà nhiều khi nó còn diễn ra một cách tự phát, bị động và nằm ngoài tầm kiểm soát của xã hội. - Sự biến đổi xã hội diễn ra một cách thống nhất giữa biến đổi kinh tế với những biến đổi khác của x ã hội. + Xã hội là một hệ thống phức tạp, các yếu tố của đời s ống xã hội không ngừng tác động qua lại lẫn nhau, chi phối lẫn nhau. Trong đó sản xuất và dịch vụ là cơ sở của đời sống xã hội quyết định các mặt khác của đời sống xã hội như chính trị, tư tưởng, văn hoá. 132
  48. + Sự biến đổi xã hội bắt đầu từ sự biến đổi của sản xuất. Khi kinh tế thay đổi thì mọi mặt khác của đời sống xã hội cũng thay đổi theo. Ngược lại, khi các yếu tố khác của đời sống x ã hội biến đổi cũng dẫn đến sự thay đổi trong kinh tế. + Vì vậy, giải quyết các vấn đề kinh tế không thể tách rời những vấn đề xã hội và ngược lại, không thể giải quyết các vấn đề x ã hội mà thiếu đi nền tảng kinh tế. - Trong quá trình biến đổi xã hội tất yếu xảy ra các xu hướng trái ngược nhau. + Sự biến đổi xã hội là một quá trình phức tạp và đầy mâu thuẫn. Bất kỳ một giai đoạn phát triển nào của xã hội cũng đều chứa đựng những xu hướng trái ngược nhau. Khi xã hội càng phát triển, các cấu trúc và quan hệ xã hội càng trở nên phức tạp thì các xu hướng đó càng trở nên phức tạp hơn. + Trong quá trình biến đổi xã hội, khi khắc phục được mâu thuẫn này lại nảy sinh mâu thuẫn khác, phát triển mặt n ày, lại có thể hạn chế mặt khác. - Quá trình biến đổi xã hội có tính kế thừa + Trong quá trình biến đổi xã hội, các thế hệ loài người kế tiếp nhau một cách liên tục. Mỗi thế hệ đều có sự kế thừ a những thành tựu về kinh tế, khoa học, văn hoá của các thế hệ tr ước. + Kế thừa và biến đổi là hai mặt không thể tách rời nhau trong đời sống xã hội. Kế thừa diễn ra trong tất cả các mặt của đời sống x ã hội. Tuy nhiên, trong mỗi lĩnh vực thì kế thừa có những đặc thù riêng và diễn ra theo nhiều chiều hướng khác nhau, có thể là tự phát, hoặc cũng có thể là tự giác thông qua hoạt động của các chủ thể x ã hội vì những mục đích xã hội nhất định. 3. Một số khái niệm liên quan a) Biến cố xã hội Biến cố xã hội là những sự kiện xã hội xảy ra có thể đem lại hoặc không đem lại một sự thay đổi nào đó trong đời sống xã hội. Biến cố xã hội có thể tác động mạnh mẽ, hoặc không tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Trong trường hợp sau, biến cố xã hội vẫn 133
  49. có thể dẫn đến những thay đổi nhưng chỉ là những thay đổi có tính chất bộ phận của tổng thể xã hội, hoặc thậm chí không dẫn đến sự thay đổi nào cả. Còn biến đổi xã hội thì luôn luôn dẫn đến sự thay đổi có tính cơ cấu của xã hội, thay đổi đặc trưng của xã hội. b) Tiến bộ xã hội Biến đổi xã hội có thể diễn ra theo nhiều chiều h ướng khác nhau, hoặc là đi lên, hoặc là dậm chân tại chỗ, hoặc là thậm chí thụt lùi. Biến đổi xã hội chỉ là kết quả của sự tác động của nhiều biến cố x ã hội hay sự kiện xã hội dẫn đến thay đổi đặc trưng hoặc cấu trúc xã hội. Bản thân sự biến đổi xã hội chưa nói lên giá trị mà đơn thuần chỉ là sự mô phỏng nền văn hoá hay cấu trúc xã hội. Xã hội luôn mong đợi những biến đổi có lợi cho nhiều ng ười. Do đó việc đánh giá sự biến đổi xã hội thường là hướng vào những giá trị mà những sự biến đổi đó đem lại. Những biến đổi x ã hội như vậy được gọi là tiến bộ xã hội. Như vậy, tiến bộ xã hội là sự vận động, biến đổi có ý thức theo chiều hướng tích cực và được sự mong đợi của xã hội. c) Tiến hoá xã hội - Vận dụng thuyết tiến hoá của Charles Darwin (1809 -1882) nêu ra trong lĩnh vực sinh học, các nhà nghiên cứu xã hội như nhà nhân chủng học người Mỹ H. Morgan (1818-1881), nhà triết học và xã hội học người Anh H. Spencer (1820-1903) сho rằng xã hội cũng như giới sinh vật đều tiến hoá theo một quy luật nhất định, đó l à chuyển từ cái thuần nhất đơn giản sang cái không thuần nhất phức tạp, thông qua phân hoá để đạt tới sự thống nhất. Quá trình tiến hoá có thể được chia thành ba hình thái, cụ thể: - Tiến hoá vô cơ (vũ trụ, trái đất); - Tiến hoá hữu cơ (sinh học); - Tiến hoá siêu hữu cơ (xã hội, đạo lý và nhân cách). Tiến hoá xã hội là phạm trù tiến hoá siêu hữu cơ. Cùng với tiến hoá xã hội còn có một hình thức biến đổi xã hội khác là cách mạng xã 134
  50. hội. Giữa hai hình thức tiến hoá này có sự khác biệt về tốc độ và sự chuyển hoá về chất. Trong xã hội học hiện đại, người ta thường dùng khái niệm thay thế cho khái niệm tiến hoá xã hội, đó là khái niệm “phát triển”. Mặc dù khái niệm phát triển chưa được hiểu một cách thống nhất, nhưng có thể áp dụng khái niệm phát triển do Liên hợp quốc đưa ra như sau: “Phát triển là một quá trình, trong đó toàn thể loài người áp dụng những công cụ hiện đại của khoa học và công nghệ vào những mục tiêu của mình, qua những thời kỳ khác nhau và có tính không thể đảo ngược được của quá trình đó”. II. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI 1. Quan điểm của các nhà xã hội học không tưởng Những đại diện tiêu biểu cho các nhà xã hội học không tưởng là H. Saint-Simon (1760-1825), S. Furie (1772-1837) và R. Owen (1771- 1858) cho rằng xã hội biến đổi qua những giai đoạn khác nhau v à tuân theo những quy luật nhất định. Những biến động xã hội thay thế xã hội cũ sự lạc hậu bằng xã hội mới văn minh hơn. Đó là một xã hội lý tưởng, là một tất yếu của lịch sử mà nguyên nhân cơ bản là sự tác động tích cực của tri thức khoa học, của tôn giáo và đạo đức (H. Saint - Simon), hoặc là do xung đột xã hội và cách thức giải quyết xung đột đó (F. Furie). Theo họ, cần thiết phải thực hiện việc cải cách x ã hội từ trên xuống theo những thiết chế mà họ nghĩ ra để thực hiện sự bình đẳng và công bằng xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, loài người chưa thể xây dựng được một xã hội như vậy vì những điều kiện tiền đề cho xã hội đó chưa sẵn sàng. 2. Quan điểm của thuyết tiến hoá về xã hội Thuyết tiến hoá ban đầu do Charles Darwin n êu ra trong lĩnh vực sinh học. Theo ông, giới sinh vật tồn tại v à phát triển dựa vào những nhân tố như biến dị, di truyền và chọn lọc tự nhiên. Thuyết tiến hoá quan niệm sự tiến hoá l à quá trình vận động đi lên của các giống loài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp tuân theo những trình tự tất yếu. 135
  51. Từ mô hình của quá trình tiến hoá tự nhiên đó, các nhà xã hội học đã áp dụng vào việc lý giải quá trình biến đổi xã hội và phát triển thành lý thuyết tiến hoá xã hội. Lý thuyết này xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX với ba đại biểu xuất sắc là A. Comte, H. Spencer và E. Durkheim. Theo A. Comte, xã hội biến đổi qua ba giai đoạn kế tiếp nhau lần lượt là: - Giai đoạn thần học (giai đoạn định hình xã hội, con người bất lực trước thế giới tự nhiên). - Giai đoạn siêu hình (giai đoạn hình thành tôn giáo với niềm tin vào Chúa và các đấng cứu thế toàn năng). - Giai đoạn thực chứng (giai đoạn khoa học - trí tuệ, tri thức khoa học là động lực, sức mạnh và duy trì hoạt động xã hội). Sự biến đổi và phát triển của xã hội trải qua ba giai đoạn nêu trên theo phương thức tiến hoá dần dần, không phải bằng đấu tranh x ã hội với các bước nhảy vọt mà bằng khoa học và trí tuệ. H. Spencer xây dựng lý thuyết thống nhất về sự tiến hoá theo công thức chuyển từ cái thuần nhất đơn giản sang cái không thuần nhất phức tạp, thông qua phân hoá để đạt tới sự thống nhất. Theo ông, tiến hoá xã hội cũng tuân thủ một quy luật nh ư tiến hoá cơ thể và khi phân loại tiến hoá thành tiến hoá vô cơ, tiến hoá hữu cơ và tiến hoá siêu hữu cơ, ông đã xếp xã hội học vào tiến hoá siêu hữu cơ, là cơ thể đặc biệt của xã hội. 3. Quan điểm của học thuyết Mác - Lênin Không có một học thuyết nào giải quyết triệt để, khoa học và toàn diện về lịch sử hình thành và phát triển xã hội bằng học thuyết Mác - Lênin, theo đó, sự phát triển của xã hội loài người cũng giống như lịch sử của tự nhiên, trải qua các giai đoạn khác nhau theo quy luật từ thấp đến cao. Trong các xã hội có giai cấp thì lịch sử của sự phát triển chính l à lịch sử đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là các cuộc cách mạng xã hội. Kết quả của các cuộc cách mạng đó sự xuất hiện của h ình thái kinh tế - xã hội cao hơn. 136
  52. Xã hội phát triển hoặc là tuần tự hoặc là nhảy vọt qua các hình thái mà động lực quyết định sự tồn tại, biến đổi và phát triển xã hội là đời sống vật chất của xã hội thông qua phương thức sản xuất. Trong mỗi phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố đóng vai trò quyết định. 4. Các quan điểm hiện đại a) Quan điểm tổng hợp Hầu hết các quan điểm hiện đại đều n hấn mạnh yếu tố giai cấp, các hình thức xung đột trong mỗi xã hội. Các quan điểm đó cho rằng sự tương tác phức tạp của nhiều yếu tố bên trong cũng như bên ngoài đã tạo ra sự biến đổi xã hội, mặc dù ảnh hưởng của từng yếu tố có thể khác nhau trong những đi ều kiện và hoàn cảnh xã hội nhất định. Các yếu tố đó là: - Môi trường vật chất bao gồm những biến động lớn và biểu hiện bất lợi của môi trường sinh thái do những nguyên nhân từ phía con người, là động lực tiềm ẩn làm thay đổi môi trường vật chất trong tương lai, là động lực của sự biến đổi xã hội. - Công nghệ: + Công nghệ là tổng thể chung các phương pháp gia công, chế tạo, làm thay đổi trạng thái, tính chất, hình dáng nguyên liệu hay bán thành phẩm trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. + Công nghệ còn là sự áp dụng kiến thức trong thực tiễn, l à tri thức ứng dụng. Nó có sức mạnh đối với sự biến đổi x ã hội ngay từ khi công cụ lao động đầu tiên được con người tạo ra. + Ngày nay, công nghệ thông tin, kỹ thuật laser, công nghệ biến đổi gien trong công nghệ sinh học đang tạo ra sức mạnh vô c ùng to lớn thúc đẩy sự biến đổi xã hội, đồng thời còn giúp giám sát và quản lý xã hội một cách hiệu quả. - Dân số và lao động: + Sức ép về dân số và lao động cũng là vấn đề quan trọng dẫn đến sự biến đổi xã hội. + Sự gia tăng dân số và lao động, sự thay đổi về quy mô, về mật độ dân số, về sự di động dân số v à lao động theo lãnh thổ, theo ngành, 137