Bài giảng Pháp luật đại cương - Phạm Anh Tuấn

doc 79 trang hapham 3660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Pháp luật đại cương - Phạm Anh Tuấn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbai_giang_phap_luat_dai_cuong_pham_anh_tuan.doc

Nội dung text: Bài giảng Pháp luật đại cương - Phạm Anh Tuấn

  1. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  2. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Mục lục Trang CHƯƠNG I : ĐẠI CƯƠNG VỀ NHÀ NƯỚC 1 I. BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC KIỂU NHÀ NƯỚC VÀ HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC 8 1. Nguồn gốc, bản chất của Nhà nước8 2. Kiểu Nhà nước và hình thức Nhà nước 10 3. Đặc trưng của Nhà nước. 11 II. Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 12 1. Bản chất của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam 12 2. Chức năng của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 14 III. Bộ máy nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 16 1. Khái niệm, đặc điểm của bộ máy Nhà nước ta 16 2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước 17 3. Hệ thống chính trị của Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam 19 CHƯƠNG II: ĐẠI CƯƠNG VỀ PHÁP LUẬT 21 I. Bản chất và những đặc điểm chung của pháp luật 21 1. Nguồn gốc, khái niệm của pháp luật 21 2. Những đặc điểm chung của pháp luật 23 3. Bản chất và vai trò của pháp luật 23 II. Quy phạm pháp luật 26 1. Khái niệm và những đặc điểm chung của quy phạm pháp luật 26 2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật 26 Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  3. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh III. Quan hệ pháp luật 27 1. Khái niệm quan hệ pháp luật 27 2. Cấu trúc của quan hệ pháp luật 28 IV. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý 28 1. Khái niệm và những dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật 28 2. Trách nhiệm pháp lý 29 V. Pháp chế xã hội chủ nghĩa 31 1. Khái niệm và đặc điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa 31 2. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 32 CHƯƠNG III: HÌNH THỨC PHÁP LUẬT 34 I. Khái niệm hình thức pháp luật 34 II. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc ban hành các văn bản pháp luật của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam 35 1. Khái niệm, đặc điểm của các văn bản quy phạm pháp luật 35 2. Các nguyên tắc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật 36 3. Giám sát, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật 37 III. hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước ta 38 1. Văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ quốc hội 38 2. Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước 38 3. Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ 39 4. Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch 39 5. Văn bản quy phạm pháp luật của toà án nhân dân tối cao 39 Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  4. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh IV. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật và nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật 40 1. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật theo thời gian 40 2. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật theo không gian và đối tượng tác động 41 3. Nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật 41 CHƯƠNG IV: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT 43 I. Hệ thống pháp luật và ngành luật 43 1. Khái niệm và đặc điểm chung của hệ thống pháp luật 43 2. Những căn cứ để phân chia ngành luật 44 II. các ngành luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta 45 1. Luật Nhà nước 45 2. Luật hành chính 46 3. Luật tài chính 46 4. Luật đất đai 46 5. Luật dân sự 46 6. Luật lao động 46 7. Luật hôn nhân và gia đình 46 8. Luật hình sự 47 9. Luật tố tụng hình sự 47 10. Luật tố tụng dân sự 47 11. Luật kinh tế 47 12. Luật quốc tế 47 Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  5. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh III. Hệ thống khoa học pháp lý 48 1. Nhóm các môn khoa học về lý luận và lịch sử 48 2. Nhóm các môn khoa học pháp lý chuyên ngành 48 3. Nhóm các môn khoa học pháp lý quốc tế 48 4. Nhóm các môn khoa học pháp lý thực nghiệm 48 CHƯƠNG V: LUẬT HÀNH CHÍNH 49 I. Khái niệm chung về luật hành chính 49 1. Khái niệm và đối tượng điều chỉnh của luật hành chính 49 2. Hệ thống luật hành chính 50 3. Quan hệ pháp luật hành chính 50 II. Cơ quan hành chính Nhà nước 52 1. Khái niệm và đặc điểm cơ quan hành chính Nhà nước 52 2. Các cơ quan hành chính Nhà nước 52 3. Văn bản hành chính Nhà nước 53 III. Trách nhiệm hành chính 54 1. Vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính 54 2. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính 55 3. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính 55 IV. Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 56 1. Khái niệm 56 2. Thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các vụ án hành chính 56 3. Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 58 Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  6. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh CHƯƠNG VI: LUẬT DÂN SỰ 60 I. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của luật dân sự Việt Nam 60 1. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự 60 2. Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự 60 3. Khái niệm luật dân sự 61 II. Quan hệ pháp luật dân sự 61 1. Khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự 61 2. Các yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự 62 III. quyền sở hữu tài sản thừa kế 63 1. Quyền sở hữu tài sản 63 2. Thừa kế 65 IV. Hợp đồng dân sự 66 1. Khái niệm 66 2. Nội dung của hợp đồng dân sự 67 3. Trách nhiệm dân sự 67 V. chế độ giải quyết các vụ án dân sự (tố tụng dân sự) 68 1. Khái niệm về vụ án dân sự và tố tụng dân sự 68 2. Nguyên tắc của tố tụng dân sự 69 3. Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 70 CHƯƠNG VII: LUẬT HÌNH SỰ 72 I. Khái niệm 72 II. Tội phạm 72 Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  7. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh 1. Khái niệm, dấu hiệu của tội phạm 72 2. Các yếu tố cấu thành tội phạm 74 III. Hình phạt 75 1. Khái niệm hình phạt 75 2. Hệ thống hình phạt 76 IV. Quá trình giải quyết vụ án hình sự (tố tụng hình sự) 76 1. Khởi tố vụ án hình sự 77 2. Điều tra vụ án hình sự 77 3. Quyết định truy tố bị can 77 4. Thẩm quyền và thủ tục xét xử vụ án hình sự 78 Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  8. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh CHƯƠNG I ĐẠI CƯƠNG VỀ NHÀ NƯỚC I. BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC KIỂU NHÀ NƯỚC VÀ HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC 1. Nguồn gốc, bản chất của Nhà nước: Nguồn gốc Nhà nước * Một số quan điểm về nguồn gốc Nhà nước: Lịch sử loài người đã có thời kỳ không có Nhà nước và pháp luật. Nhưng từ khi Nhà nước và pháp luật xuất hiện thì đó là một hiện tượng phức tạp và liên quan chặt chẽ đến lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp và các dân tộc trong xã hội. Giải thích về hiện tượng này có nhiều quan điểm học thuyết khác nhau, chẳng hạn: Thuyết thần học cho rằng: Nhà nước là do thượng đế tạo ra để duy trì một trật tự chung cho xã hội. Do vậy Nhà nước có một quyền lực hết sức to lớn và mang tính vĩnh cửu. Thuyết khế ước xã hội cho rằng: Nhà nước ra đời do bản khế ước (hợp đồng) những thành viên trong xã hội chưa có giai cấp xác lập nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Thuyết tâm lý cho rằng: Nhà nước do tâm lý phụ thuộc vào các thủ lĩnh của bộ lạc. Thuyết bạo lực cho rằng: Nhà nước ra đời do sự đấu tranh giữa các bộ lạc, bộ lạc thắng xây dựng một hệ thống các quy tắc, đó là Nhà nước. Thuyết gia trưởng cho rằng: Nhà nước là kết quả của sự phát triển gia đình và quyền gia trưởng, thực chất là quyền gia trưởng mở rộng. * Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – LêNin về nguồn gốc Nhà nước: Nhà nước là một hiện tượng lịch sử. Nó có quá trình hình thành, phát triển và tiêu vong khi xã hội đã phát triển đạt đến một trình độ nhất định. Khái niệm Nhà nước: Từ việc xem xét nguồn gốc của Nhà nước có thể đi đến một định nghĩa chung về Nhà nước như sau: Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cường chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội, thể hiện và bảo vệ trước hết là lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  9. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh đối kháng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong xã hội XHCN. Bản chất Nhà nước: Khi bàn về vấn đề bản chất Nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – LêNin cho rằng đó là vấn đề mấu chốt, cơ bản trong mọi thời đại, trong toàn bộ nền chính trị, vì nó động chạm đến giai cấp thống trị. Làm rõ bản chất của Nhà nước tức là xác định Nhà nước đó là của ai? Do giai cấp nào tổ chức nên và lãnh đạo ? Phục vụ trước hết cho giai cấp nào ? Đi từ phân tích nguồn gốc Nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác khẳng định rằng: Nhà nước, xét về mặt bản chất, trước hết là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, là bộ máy để duy trì sự thống trị giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác phải được thể hiện trên 3 mặt: Kinh tế ,chính trị, tư tưởng. Muốn đạt được hiệu quả thống trị, giai cấp thống trị không thể không sử dụng Nhà nước như một công cụ sắc bén. Chỉ thông qua Nhà nước, quyền lực kinh tế mới đủ sức mạnh để duy trì được quan hệ bóc lột. Có trong tay công cụ là Nhà nước giai cấp chiếm ưu thế về kinh tế mới bảo vệ được quyền sở hữu của mình, đàn áp được sự phản kháng của giai cấp bóc lột và trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Cũng thông qua Nhà nước, với tư cách là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, giai cấp thống trị tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị của mình, hợp pháp hoá ý trí giai cấp của mình thành ý chí Nhà nước và do đó buộc các giai cấp khác phải tuân theo trật tự phù hợp lợi ích của giai cấp thống trị. Nắm quyền lực về kinh tế và chính trị, bằng con đường Nhà nước, giai cấp thống trị xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị xã hội , buộc các giai cấp khác phải lệ thuộc về mặt tư tưởng. Nhà nước là công cụ sắc bén nhất thể hiện và thực hiện ý chí giai cấp cầm quyền. Nó củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Do vậy, bao giờ Nhà nước cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trong các xã hội bóc lột (chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản) , Nhà nước có bản chất chung là bộ máy đặc biệt nhằm duy trì sự thống trị về chính trị, kinh tế, tư tưởng của thiểu số đối với đông đảo quần chúng lao động, thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột. Trái lại Nhà nước XHCN là bộ máy để củng cố địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp và nhân dân lao động, đảm bảo sự thống trị của đa số đối với thiểu số. Tuy nhiên, một Nhà nước sẽ không thể tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích, nguyện vọng và ý chí của các giai tầng khác trong xã hội. Vì vậy, ngoài tư cách là bộ máy nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, Nhà nước còn là một tổ chức quyền lực công, là phương thức tổ Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  10. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh chức đảm bảo lợi ích chung của xã hội. Trong thực tế Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh nhằm bảo vệ sự ổn định, trật tự xã hội. Đây chính là tính chất xã hội của Nhà nước.Như vậy, việc xác định bản chất của Nhà nước phải được xem xét trên cơ sở đánh giá cơ cấu xã hội, quan hệ giữa các giai cấp trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, trong mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau, Nhà nước mang bản chất khác nhau. 2. Kiểu Nhà nước và hình thức Nhà nước 2.1 Kiểu Nhà nước: * Khái niệm: Bản chất Nhà nước trong những thời kỳ lịch sử khác nhau là rất khác nhau. Để phân biệt chúng, xác định đặc điểm của Nhà nước trong những thời kỳ lịch sử khác nhau, lý luận Mác - LêNin về Nhà nước và pháp luật đưa ra khái niệm kiểu Nhà nước như sau: Kiểu Nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản của Nhà nước thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện phát sinh, tồn tại và phát triển của Nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. * Các kiểu Nhà nước trong lịch sử: Trong lịch sử nhân loại từ khi xuất hiện Nhà nước có giai cấp đã tồn tại bốn kiểu quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng kinh tế): Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn kiểu cơ sở hạ tầng ấy là bốn kiểu Nhà nước: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các Nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản tuy có đặc điểm chung về bản chất, chức năng vai trò xã hội, nhưng xét đến cùng vẫn là Nhà nước bóc lột, được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì và bảo vệ sự thống trị về chính trị và kinh tế của các giai cấp chủ nô, địa chủ phong kiến và tư sản. Còn Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu Nhà nước mới là kiểu Nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người, có sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa, tiến tới xã hội không còn giai cấp và Nhà nước đó là xã hội cộng sản. Sự thay thế kiểu Nhà nước này bằng kiểu Nhà nước khác cũng giống như sự thay thế các hình thức kinh tế xã hội, đó là một quá trình lịch sử phát triển lịch sử tự nhiên. Quá trình đó có những đặc điểm sau: Tính tất yếu khách quan của sự thay thế kiểu Nhà nước khác. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  11. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Kiểu Nhà nước cũ thay thế bằng kiểu Nhà nước mới được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội. Kiểu Nhà nước sau bao giờ cũng hoàn thiện và tiến bộ hơn kiểu Nhà nước trước. Giữa kiểu Nhà nước sau với kiểu Nhà nước trước luôn có tính kế thừa. 2.2 Hình thức của Nhà nước: Hình thức Nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực của Nhà nước, tức là phương thức chuyển ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí Nhà nước. Hình thức Nhà nước do bản chất và nội dung của Nhà nước quy định. Hình thức Nhà nước gồm hai yếu tố: Hình thức chính thể và hình thức cấu trúc: Hình thức chính thể là hình thức tổ chức của các cơ quan quyền lực tối cao, cơ cấu, trình tự thành lập và mối liên hệ của chúng với nhau, cũng như mức độ tham gia của nhân dân vào việc thiết lập cơ quan này. Hình thức cấu trúc Nhà nước: Là sự tổ chức Nhà nước theo các đơn vị hành chính – lãnh thổ và tính chất quan hệ giữa các bộ phận cấu thành Nhà nước, giữa các cơ quan Nhà nước ở Trung ương với các cơ quan Nhà nước ở địa phương. 3. Đặc trưng của Nhà nước. Mặc dù có sự khác nhau về bản chất nhưng mọi Nhà nước đều có những đặc trưng chung (dấu hiệu) để nhận biết và phân biệt giữa tổ chức Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội khác. Có thể thấy Nhà nước có 5 dấu hiệu đặc trưng sau: Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có bộ máy chuyên thực hiện cưỡng chế và quản lý những công việc chung của xã hội. Nó không còn hòa nhập với dân cư mà hầu như tách khỏi xã hội. Quyền lực chính trị công cộng này là quyền lực chính trị chung, mà quyền lực của chủ thể này là giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị. Để thực hiện quyền lực và quản lý xã hội, Nhà nước phải có một lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Lớp người này được tổ chức thành các cơ quan Nhà nước và hình thành bộ máy cường chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị. Nhà nước có lãnh thổ, phân chia và quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ. Không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống , nghề nghiệp hoặc giới tính. Việc phân chia này quyết định phạm vi tác động của Nhà nước trên quy mô rộng lớn nhất và dẫn đến việc hình thành các cơ quan quản lý trong bộ máy Nhà Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  12. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh nước. Đây là dấu hiệu cơ bản đã làm xuất hiện chế định quốc tịch – là chế định quy định sự phụ thuộc của một vào một Nhà nước và một lãnh thổ nhất định. Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Nhà nước là một tổ chức có quyền lực, có chủ quyền quốc gia (các tổ chức xã hội khác không có) mang nội dung chính trị – pháp lý, được thể hiện ở quyền tự quyết của Nhà nước về chính sách đối nội và chính sách đối ngoại, không phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài, Chủ quyền quốc gia là thuộc tính không thể tách rời Nhà nước và có tính tối cao. Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công dân. Tất cả các quy định của Nhà nước đối với mọi công dân được thể hiện trong pháp luật do Nhà nước ban hành. Trong xã hội chỉ có Nhà nước mới có quyền ban hành pháp luật. Các tổ chức xã hội khác không có quyền này. Và cũng chính Nhà nước đảm bảo cho pháp luật được thực thi trong cuộc sống. Nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc. Chỉ có Nhà nước mới có quyền đặt thuế và thu thuế vì Nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách đại biểu chính thức của toàn xã hội. Những đặc trưng trên nói lên sự khác nhau giữa Nhà nước và tổ chức chính trị xã hội khác, đồng thời nêu rõ bản chất của Nhà nước trong xã hội có giai cấp. Những đặc trưng trên làm cho Nhà nước trở thành một tổ chức đặc biệt, giữ vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị, có thể tác động một cách toàn diện, mạnh mẽ và có hiệu quả nhất đối với đời sống xã hội, thể hiện và thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị một cách tập trung nhất. II. NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1. Bản chất của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam thuộc kiểu Nhà nước XHCN. Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới, có bản chất khác với bản chất của các Nhà nước bóc lột. Bản nất của Nhà nước XHCN do cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của quyền lực chính trị của Chủ nghĩa xẫ hội quy định: “ Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân được cụ thể bằng những đặc trưng sau: * Nhân dân là chủ thể tối cao của Nhà nước: Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  13. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay là Nhà nước do dân mà nòng cốt là do liên minh công-nông-trí thức tự tổ chức thành, tự mình định đoạt quyền lực Nhà nước. Quyền lực Nhà nước Việt Nam không phụ thuộc vào một cá nhân, một nhóm người nào mà thuộc về toàn thể nhân dân. Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân”. Ngoài ra, nhan dân còn thực hiện quyền lực Nhà nước của mình thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, hoặc trực tiếp trình bày các yêu cầu kiến nghị của mình đối với các cơ quan Nhà nước. * Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam là biểu hiện tập trung của khối đoàn kết các dân tộc anh em: Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam là vấn đề có tính lịch sử, truyền thống lâu dài, chính là nguồn gốc sức mạnh của Nhà nước. Ngày nay đặc tính dân tộc ấy lại được tăng cường và nâng cao nhờ khả năng kết hợp thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính thời đại. Điều 5 của Hiến pháp Việt Nam năm 1992 khẳng định: “ Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ lẫn nhau giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình ” * Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong các mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân: Trước đây, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân là mối quan hệ lệ thuộc, người dân bị lệ thuộc vào Nhà nước, các quyền tự do dân chủ bị hạn chế, người dân chỉ thấy nghĩa vụ và bổn phận mà không được quyền đòi hỏi. Ngày nay, khi quyền lực thuộc về nhân dân, mối quan hệ giữabộ máy Nhà nước và công dân đã thay đổi. Đồng thời công dân cũng tự giác thực hiện mọi nghĩa vụ trước Nhà nước. Về phần mình, Nhà nước XHCN cũng tôn trọng các quyền tự do dân chủ của công dân, ghi nhận đảm bảo cho các quyền đó được thực hiện đầy đủ. Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân được xác lập trên cơ sở tôn trọng các lợi ích giữa các bên. Luật pháp không chỉ quy định địa vị pháp lý của công dân mà còn Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  14. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh buộc các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng và đưa ra các đảm bảo thực tế cho các quyền ấy, tránh mọi nguy cơ bị xâm hại từ phía các cơ quan Nhà nước, các nhà chức trách. * Tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế – xã hội: Dân chủ hoá đời sống văn hoá - xã hội không chỉ là nhu cầu bức thiết của thời đại mà còn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc, nảy sinh từ bản chất dân chủ của Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam trong các điều kiện hiện nay. Tại điều 5 của Hiến pháp năm 1992 của Nhà nước ta đã nêu rõ: “ Nhà nước phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”. Bản chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ phản ánh trong các chính sách, đường lối đối nội, mà còn thể hiện trong chính sách đối ngoại. Chính sách và hoạt động đối ngoại của Nhà nước ta thể hiện khát vọng hoà bình của nhân dân ta, thể hiện mong muốn hợp tác trên tinh thần hoà bình, hữu nghị, cùng có lợi với tất cả các quốc gia với phương châm: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới ”. Điều này đã được khẳng định tại điều 14 của Hiến pháp nước ta năm 1992: “ Nước cộng hoà XHCN Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên toàn thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, tăng cường đoàn kết hữu nghị, và quan hệ hợp tác với các nước XHCN và các nước láng giềng, tích cực ủng hộ và góp phần vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ tiến bộ xã hội ”. Để có thể đáp ứng đầy đủ các nhu cầu, đòi hỏi thuộc về bản chất của Nhà nước “ của dân, do dân và vì dân ” Nhà nước Việt Nam cần đổi mới nhiều mặt, cải tổ sâu sắc từ cơ cấu tổ chức đến hình thức và phương pháp hoạt động, phù hợp với các quy định của pháp luật để từng bước xây dựng và phát triển thành Nhà nước pháp quyền – một loại hình thức Nhà nước với bản chất nhân đạo, dân chủ và vận hành có trật tự, kỷ cương dưới tính tối cao của luật pháp. 2. Chức năng của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cũng như các Nhà nước khác, Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam có hai chức năng cơ bản: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  15. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh * Các chức năng đối nội: Chức năng kính tế: Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, chức năng kinh tế của Nhà nước có sự khác nhau nhất định nhưng bao giờ nó cũng là chức năng cơ bản, quan trọng nhất của nước ta. Chức năng kinh tế của Nhà nước Việt Nam có những nội dung chủ yếu sau đây: Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt; tạo môi trường kinh doanh cho cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân phát triển; phát triển đa dạng kinh tế tư bản Nhà nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển. + Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Chức năng xã hội: Là toàn bộ các mặt hoạt động của Nhà nước nhằm tác động vào các lĩnh vực cụ thể của xã hội. Trong điều kiện đất nước đang chuyển sang cơ chế thị trường chức năng xã hội của Nhà nước ta hướng vào những mục tiêu cơ bản sau đây: Xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Coi trọng việc phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giải quyết việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo, thực hiện các chính sách xã hội để bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng. Chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Chức năng đảm bảo sự ổn định an ninh – chính trị, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội. Giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước, giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc những thành quả của cách mạng, phục vụ sự nghiệp xây dựng tổ quốc luôn là một chức năng quan trọng của Nhà nước ta. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  16. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Nhà nước quy định các quyền tự do, dân chủ của công dân, xác lập cơ chế bảo vệ và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo ra các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội để công dân thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các quyền tự do, dân chủ của mình, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của công dân. Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội là một trong những đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp đổi mới, Nhà nước đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, tiến hành các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa tội phạm, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. * Các chức năng đối ngoại Hoạt động đối ngoại của Nhà nước ta là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc tạo ra các điều kiện quốc tế thuận lợi . Hoạt động đối ngoại của Nhà nước ta trong điều kiện hiện nay bao gồm: Bảo vệ vững chắc Nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa mọi nguy cơ xâm lăng từ các quốc gia bên ngoài. Thiết lập, củng cố và phát triển các mối quan hệ và sự hợp tác với tất cả các nước có chế độ chính trị – xã hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Thiết lập và tăng cường các nỗ lực chung trong cuộc đấu tranh vì một trật tự thế giới mới, vì sự hợp tác bình đẳng và dân chủ, vì hoà bình và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. III. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1. Khái niệm, đặc điểm của bộ máy Nhà nước ta Khái niệm bộ máy Nhà nước: Bộ máy Nhà nước là hệ thống các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương được tổ chức theo những nguyên tắc thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước. Như vậy, bộ máy Nhà nước không phải là một tập hợp đơn giản các cơ quan Nhà nước, mà là một hệ thống thống nhất các cơ quan có mối liên hệ ràng buộc qua lại chặt chẽ với nhau vận hành một cách nhịp nhàng. Đặc điểm của bộ máy Nhà nước: Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  17. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Một là: việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước dựa trên những nguyên tắc chung thống nhất mà nguyên tắc cơ bản bao trùm là nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nghĩa là, nhân dân có toàn quyền quyết địnhmọi công việc của Nhà nước và xã hội, giải quyết tất cả mọi công việc có liên quan đến vận mệnh quốc gia, đời sống chính trị, văn hoá, tư tưởng của đất nước và dân tộc. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua hệ thống cơ quan Nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra, đứng đầu là Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất và Hội đồng nhân dân – cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Hai là: Các cơ quan trong bộ máy Nhà nước đều mang tính quyền lực Nhà nước, đều có quyền nhân danh Nhà nước để tiến hành các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Tính quyền lực Nhà nước thể hiện ở chỗ các cơ quan quyền lực Nhà nước đều có một phạm vi thẩm quyền được pháp luật quy định. Tuỳ thuộc vào vị trí của cơ quan đó trong bộ máy Nhà nước . Ba là: Đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước là những người hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, là công bộc của nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. 2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước: Nguyên tắc tổ chức và hoạt động bộ máy Nhà nước là những tư tưởng chỉ đạo làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Những nguyên tắc đó được quy định trong Hiến pháp năm 1992, đó là: Nguyên tắc “quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều 2: Đây là đặc điểm cơ bản của bộ máy Nhà nước Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, khác với nguyên tắc phân quyền trong các Nhà nước tư sản. Quyền lực Nhà nước bao gồm: Quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Ba lĩnh vực quyền lực đó là một khối thống nhất được nhân dân trao cho Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Tuy nhiên ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp có sự phân công rõ ràng và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta. Sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho bộ máy của Nhà nước hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn, Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  18. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững bản chất tốt đẹp của một Nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân. Trong Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “ Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (điều 4). Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở chỗ Đảng đặt ra đường lối, chính sách, chủ trương, thông qua đó Nhà nước thể chế hoá các đường lối, chính sách của Đảng vào việc tổ chức và hoạt động của mình. Tuy nhiên Đảng lãnh đạo Nhà nước song Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý của Nhà nước. Việc thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào hoạt động của bộ máy Nhà nước là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Nguyên tắc này không những có ý nghĩa trong việc tạo điều kiện phát huy trí tuệ của nhân dân vào công việc quản lý Nhà nước mà còn là phương tiện hữu hiệu để ngăn chặn tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng của cá nhân và tổ chức trong bộ máy Nhà nước. Nhân dân tham gia vào quản lý Nhà nước thông qua các tổ chức chính trị – xã hội của mình như: Mặt trận tổ quốc, tổ chức công đoàn, hội phụ nữ Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý Nhà nước được quy định trong điều 53 của Hiến pháp năm 1992: “ Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân ”. Nguyên tắc tập trung dân chủ – kết hợp đúng đắn tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh tổ chức và hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước ta. Thực hiện quyết định này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước có nghĩa là kết hợp sự chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất của Trung ương và cơ quan Nhà nước cấp trên với sự tự chủ năng động, sáng tạo của địa phương và cơ quan Nhà nước cấp dưới. Cơ quan Nhà nước ở Trung ương quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng của cả nước, cơ quan Nhà nước ở địa phương tự quyết định và chịu trách nhiệm về những vấn đề cụ thể ở địa phương. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn được thể hiện trong cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của mỗi cấp trong bộ máy Nhà nước cũng như trong việc kết hợp hoạt động của tập thể với trách nhiệm của cá nhân. Nguyên tắc này được quy định trong điều 6 Hiến pháp năm 1992: “Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  19. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Nguyên tắc pháp chế XHCN: Đây là nguyên tắc đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước phải tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế XHCN có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cho sự hoạt động bình thường của bộ máy Nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội. Nguyên tắc pháp chế XHCN được quy định trong điều 12 Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. 3. Hệ thống chính trị của Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam: 3.1 Khái niệm hệ thống chính trị: Hệ thống chính trị là tổng thể các thiết chế chính trị tồn tại và hoạt động trong mối liên hệ hữu cơ với nhau nhằm tạo ra một cơ chế thực hiện quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị của nước ta bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam, mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội như: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam 3.2 Nhà nước Việt Nam trong hệ thống chính trị: Nhà nước là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, là biểu hiện tập trung quyền lực của nhân dân và là công cụ hữu hiệu nhất để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình. Vai trò, vị trí của Nhà nước là do Nhà nước có những điều kiện sau đây: Nhà nước là người đại diện chính thức của mọi giai cấp , mọi tầng lớp trong xã hội. Điều đó cho phép Nhà nước thực hiện triệt để các quyết định, chính sách của mình đối với xã hội. Nhà nước là chủ thể của quyền lực chính trị, Nhà nước có một bộ máy chuyên làm chức năng quản lý, có hệ thống lực lượng vũ trang và bộ máy cưỡng chế để duy trì trật tự xã hội mà không một tổ chức nào có được. Nhà nước sử dụng pháp luật Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  20. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, đảm bảo cho các chủ trương, chính sách đó được triển khai rộng rãi và thống nhất trên quy mô toàn quốc. Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Đó là quyền tối cao của Nhà nước trong lĩnh vực đối nội và đối ngoại của đất nước. Điều này giúp cho Nhà nước kết hợp các quan hệ trong nước và quan hệ quốc tế một cách thống nhất. Nhà nước là chủ sở hữu lớn nhất đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu và quan trọng của đất nước. Với tư cách đó, Nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo điều kiện cho sự vận hành của bộ máy Nhà nước và đảm bảo cho các tổ chức xã hội hoạt động. 3.3 Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị: Hệ thống chính trị của mỗi nước đều có các Đảng chính trị và các tổ chức xã hội hoạt động, nhưng thường có một chính đảng cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo. Hệ thống chính trị nước ta chỉ tồn tại một chính đảng, đó là Đảng cộng sản Việt Nam – lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước và xã hội. Đây là điều khác biệt với hệ thống chính trị của nhiều nước trên thế giới, nơi tồn tại chế độ đa đảng.Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của hệ thống chính trị, là hạt nhân bảo đảm sự thống nhất của hệ thống đó. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử do: Đảng cộng sản là lực lượng chính trị tiên tiến nhất được vũ trang bằng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mac – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Với những tri thức khoa học đó, Đảng đề ra những đường lối, chính sách phát triển xã hội phù hợp với quy luật và có đầy đủ khả năng để tổ chức thực hiện thành công đường lối, chính sách đó. Bằng thực tiễn đấu tranh kiên cường, với những hy sinh và cống hiến lớn laocho dân tộc, Đảng đã củng cố được lòng tin của tuyệt đại đa số nhân dân. Do đó, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị có cơ sở vững chắc về tình cảm và tinh thần mà các tổ chức khác không thể nào có được. Là một chính đảng kiên trì đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã có uy tín quốc tế lớn và được sự đoàn kết, giúp đỡ của các quốc gia và dân tộc trên thế giới. 3.4 Các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị: Các tổ chức chính trị xã hội như: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam , Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  21. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Hội cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức tập hợp rộng rãi những thành viên trên cơ sở có sự đồng nhất về những phương tiện nhất định, có vai trò quan trọng trong việc tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục các thành viên của tổ chức mình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. CHƯƠNG II ĐẠI CƯƠNG VỀ PHÁP LUẬT I. BẢN CHẤT VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA PHÁP LUẬT 1. Nguồn gốc, khái niệm của pháp luật: 1.1. Nguồn gốc của pháp luật: Trong bất cứ một xã hội nào, để xã hội có thể tồn tại và phát triển thì các quan hệ giữa người với người – quan hệ xã hội phải tuân theo những nguyên tắc chung nhất định. Những quy tắc chung ấy tồn tại trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đới sống Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  22. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh xã hội: Trong sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng, trong sinh hoạt chính trị, xã hội, nghệ thuật, tôn giáo, gia đình, Người ta gọi đó là các quy tắc xử sự chung. Nhưng trong các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội loài người, những quy tắc xử sự chung ấy hình thành theo những cách khác nhau và biểu hiện dưới những hình thức khác nhau. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, khi xã hội phân chia thành giai cấp, chưa có sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn người, thì các quy tắc xử sự chung ấy hình thành một cách tự phát, xuất phát từ nhu cầu, lợi ích chung của cả cộng đồng và cũng là lợi ích của mỗi thành viên cộng đồng. Hình thức tồn tại của ác quy tắc xử sự chung ấy là các phong tục, tập quán hoặc dưới hình thức các lễ nghi tôn giáo và được đảm bảo thực hiện bằng sự tự giác của mỗi người và bằng uy tín tự nhiên của các thủ lĩnh cộng đồng. Khi xã hội cộng sản nguyên thuỷ tan vỡ, xã hội có giai cấp xuất hiện – một xã hội mà có sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các nhóm, các tập đoàn người, thì mâu thuẫn giai cấp và sự đấu tranh giữa các giai cấp với nhau ngày càng trở nên gay gắt. Trong điều kiện đó để giữ cho xã hội trong vòng trật tự nhất định phải có một giai cấp nắm trong tay những lực lượng chủ yếu, những của cải vật chất chủ yếu của xã hội, tổ chức nên cần phải có một thiết chế đặc biệt với những công cụ đặc biệt, thiết chế đó chính là Nhà nước. Khi có bộ máy Nhà nước trong tay giai cấp đó trở thành giai cấp thống trị xã hội. Để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp thống trị thông qua Nhà nước đặt ra những quy tắc ứng xử mới và dùng sức mạnh quyền lực của Nhà nước bắt buộc mọi người trong XH phải tuân theo và khi đó pháp luật đã xuất hiện trong đời sống xã hội. Như vậy, một loạt quy tắc xử sự mới ra đời, đó là quy tắc pháp luật – là quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước. Càng ngày pháp luật càng trở thành một công cụ đắc lực để thực hiện sự thống trị giai cấp, một yếu tố không thể thiếu được để đảm bảo trật tự, ổn định xã hội. 1.2. Khái niệm pháp luật. Khởi đầu các quy tắc xử sự của pháp luật chủ yếu được hình thành bằng việc Nhà nước thừa nhận các phong tục, tập quán đã có sẵn trong xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Sau này, pháp luật được Nhà nước trực tiếp đặt ra và ban hành để toàn xã hội thực hiện. Do vậy, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo lập trật tự, ổn định cho sự phát triển của xã hội. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  23. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh 2. Những đặc điểm chung của pháp luật. Pháp luật ra đời và phát triển với tính cách là một hiện tượng xã hội hiện thực, khách quan. Cho nên cũng giống như các hiện tượng xã hội khác pháp luật có những đặc điểm riêng của mình. Đặc điểm của pháp luật là những tính chất, dấu hiệu riêng biệt, đặc điểm của pháp luật nhằm để phân biệt pháp luật với các hiện tượng xã hội khác. Có nhiều cách để phân loại và xác định đặc điểm của pháp luật, song nhìn chung pháp luật có các đặc điểm cơ bản sau đây. Tính giai cấp (tính ý chí): pháp luật bao giờ cũng là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Pháp luật trước hết và luôn luôn là hệ thống các quy tắc xử sự thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền trong xã hội. So với các bộ phận khác thuộc thượng tầng kiến trúc xã hội có các giai cấp như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật Thì tính giai cấp của pháp luật được thể hiện một cách mạnh mẽ, trực tiếp, rõ ràng và sâu sắc. Pháp luật của mỗi Nhà nước đều chỉ rõ chuyên chính với ai ? Dân chủ với ai ? Bảo vệ cái gì ? Và xoá bỏ cái gì ? Tính quy phạm phổ biến: Tính quy phạm là đặc trưng vốn có của mọi pháp luật. Bởi pháp luật là hệ thống các quy tắc mang tính chất mẫu mực, khuôn thước cho mọi người trong cách xử sự, chính thông qua những khuôn mẫu, những mô hình xử sự chung đó mà người ta “đo” được hành vi của mình, người ta biết được mình có thể và không cần phải làm gì, không được làm gì và phải làm như thế nào ? Tính bắt buộc chung: Pháp luật là những quy tắc chuẩn mực về ứng xử của giai cấp thống trị, cho nên pháp luật mang tính bắt buộc chung. Điều đó thể hiện ở chỗ: việc thực hiện pháp luật không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của mỗi người. Khi pháp luật được Nhà nước đặt ra thì dù muốn hay không muốn tất cả mọi người trong trường hợp đó đều phải chấp hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để, không phân biệt giữa người này hay người khác. Tính được đảm bảo bằng Nhà nước: Khác với các quy phạm xã hội khác, pháp luật do Nhà nước ban hành và vì vậy được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Điều này có nghĩa là Nhà nước đã trao cho các quy phạm pháp luật tính quyền lực bắt buộc với mọi cơ quan, tổ chức và công dân. Có như vậy pháp luật mới trở thành các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung và pháp luật mới thực sự là công cụ hữu hiệu có trong tay Nhà nước để Nhà nước quản lý và điều hành mọi quan hệ, hoạt động của xã hội. 3. Bản chất và vai trò của pháp luật. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  24. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh 3.1 Bản chất của pháp luật. Từ những nghiên cứu trên cho thấy: Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của sự phát triển đến một trình độ nhất định của xã hội. Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau. Vì vậy bản chất của pháp luật tương đồng với bản chất của Nhà nước. Bản chất của pháp luật trước hết thể hiện ở tính giai cấp của nó. Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở chỗ: Pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, mà nội dung ý chí đó được quy định của điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị, do nằm trong tay quyền lực của Nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua Nhà nước để thực hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất thành ý chí của Nhà nước. Ý chí đó được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Tính giai cấp của pháp luật còn được thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong xã hội có giai cấp, sự điều chỉnh của pháp luật trước hết nhằm mục đích điều chỉnh mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Mặt khác nhằm hướng các mối quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu nhất định, theo một trật tự xã hội phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Suy cho cùng pháp luật chính là công cụ thể hiện sự thống trị của giai cấp. Tuy nhiên, pháp luật là một hiện tượng luôn mang tính giai cấp nhưng bên cạnh đó pháp luật còn mang tính xã hội. Bởi vì pháp luật chính là bản thân của đời sống xã hội được nâng lên thành luật. Hay nói cách khác pháp luật xuất hiện từ xã hội, từ nhu cầu của xã hội và pháp luật lại quay lại phục vụ xã hội- pháp luật là công cụ để tổ chức giao lưu mối quan hệ giữa con người với con người. Và với tính cách là những quy tắc xử sự trong xã hội, pháp luật và thực trạng của hệ thống pháp luật còn là kết quả của quá trình “chọn lọc tự nhiên”, là biểu hiện của nền văn hoá và văn minh của xã hội. Pháp luật khi ghi nhận những khuôn mẫu hành vi mang tính phổ biến, khách quan thì đồng thời cũng có nghĩa là pháp luật mang tính quy luật và phản ánh chân lý khách quan. Với ý nghĩa đó, pháp luật là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các quá trình xã hội đưa đến cho con người những lượng thông tin nhất định về các giá trị và yêu cầu của xã hội. Cùng với tính giai cấp và tính xã hội, pháp luật còn chứa đựng trong mình tính dân tộc. Bất kỳ pháp luật của Nhà nước nào cũng được xây dựng trên nền tảng dân tộc thấm nhuần bản sắc dân tộc, phản ánh những phong tục tập quán, đặc điểm lịch sử, trình độ văn minh và văn hoá của dân tộc. Chính vì vậy mỗi một quốc gia đều có một hệ thống pháp luật riêng của mình, thể hiện những bản sắc dân tộc mình, và đó cũng Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  25. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong các yếu tố, điều kiện đảm bảo tính gần gũi của pháp luật, khiến cho mọi người dễ dàng chấp nhận và tuân thủ. 3.2. Vai trò của pháp luật. Với tư cách là yếu tố điều chỉnh mối quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội. Để thấy được vai trò đặc biệt quan trọng của pháp luật đó ta có thể xem xét mối quan hệ giữa pháp luật với các lĩnh vực của đời sống xã hội: Pháp luật đối với kinh tế: Pháp luật đóng vai trò là phương tiện hàng đầu của quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế, pháp luật xác định vị trí bình đẳng của các cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh, tạo lập các hành lang pháp lý để cho các cá nhân, tổ chức đó hoạt động. Đồng thời, với tư cách là chủ thể quản lý, Nhà nước dựa vào các chuẩn mực đó mà điều khiển các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thông qua pháp luật, Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành đạt hiệu quả. Pháp luật củng cố và bảo vệ những nguyên tắc vốn có của nền kinh tế thị trường như: Tính quy định của lợi ích, nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản xuất, đảm bảo tôn trọng sự cạnh tranh, tính trách nhiệm cao của người sản xuất kinh doanh. Pháp luật đối với xã hội: Là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật trước hết là một trong những yếu tố đảm bảo và bảo vệ sự ổn định của xã hội. Một mặt pháp luật ghi nhận và thể chế hoá các quyền con người, quyền công dân và đảm bảo về mặt pháp lý cho các quyền đó được thực hiện. Mặt khác do ghi nhận một cách chính thức các giá trị mà con người có, con người cần và con người ủng hộ mà pháp luật trở thành phương tiện để các thành viên của xã hội có điều kiện để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Các vấn đề như phúc lợi xã hội, an toàn tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm, tự do, bình đẳng và công bằng đều gắn liền với sự điều chỉnh của pháp luật. Chính vì vậy pháp luật là phương tiện không thể thiếu cho sự tồn tại và ổn định của xã hội. Pháp luật đối với hệ thống chính trị: Trong quan hệ Đảng lãnh đạo, pháp luật là phương tiện thể chế hoá đường lối lãnh đạo của Đảng, làm cho đường lối đó có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên quy mô toàn xã hội. Đồng thời pháp luật là phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối của mình trong thực tiễn, Vì vai trò quan trọng như vậy, một mặt đòi hỏi chất lượng cao của các đường lối và mặt khác, đòi hỏi chất lượng cao của việc thể chế hoá để đảm bảo có hiệu quả. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  26. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Đối với Nhà nước pháp luật là phương tiện tổ chức và hoạt động của chính mình, là sự ghi nhận về mặt pháp lý, trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân công dân, là phương tiện quản lý có hiệu lực đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Hơn bất kỳ phương tiện nào, pháp luật là phương tiện chứa đựng trong mình nó sự kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế, giữa tập trung và dân chủ, giữa năng động sáng tạo với kỷ cương và kỷ luật. Do đó, khi thực hiện các chức năng của mình, Nhà nước không thể không sử dụng phương tiện là pháp luật. Đối với tổ chức chính trị – xã hội, pháp luật là phương tiện đảm bảo cho quần cúng nhân dân lao động tham gia vào quản lý Nhà nước, quản lý xã hội thông quan các tổ chức chính trị – xã hội của mình. Pháp luật là yếu tố thể chế và phát triển nền dân chủ đảm bảo cho tất cả các quyền lực Nhà nước về nhân dân. Nhân dân dựa vào pháp luật làm phương tiện chống lại những hành vi lộng quyền, bạo lực trực tiếp không có tổ chức. Như vậy, từ sự phân tích ở trên cho thấy: Pháp luật là công cụ thực hiện đường lối chính sách của Đảng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động và công cụ quản lý chủ yếu của Nhà nước. II. QUY PHẠM PHÁP LUẬT. 1. Khái niệm và những đặc điểm chung của quy phạm pháp luật. 1.1. Khái niệm và quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật là những quy tác xử sự trong các trường hợp cụ thể, có tính bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, do Nhà nước đặt ra và được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. 1.2 Những đặc điểm cơ bản của quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị (lực lượng cầm quyền). Quy phạm pháp luật là quy tắc của hành vi có tính bắt buộc chung phổ biến đối với tất cả mọi người tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra và được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Quy phạm Nhà nước có tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức. 2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  27. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Cơ cấu (cấu trúc) của quy phạm pháp luật được hiểu là sự cấu tạo bên trong, là các bộ phận hợp thành của quy phạm pháp luật. Thông thường quy phạm pháp luật được hợp thành với ba bộ phận: Giả định, quy định, chế tài: Giả định: Là phần mô tả những tình huống thực tế, khi mà tình huống đó xảy ra cần phải áp dụng quy phạm pháp luật đã có. Nó thường nêu lên trong những trường hợp nào, đối tượng nào thì thuộc phạm vi điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Giả định là một bộ phận không thể thiếu của quy phạm pháp luật vì: nếu thiếu phần giả định thì không biết được chủ thể phải áp dụng quy phạm là ai, và khi ở những điều kiện nào, hoàn cảnh nào thì phải xử sự theo đúng quy định của pháp luật. Quy định: Là phần nêu rõ nội dung cụ thể của các xử sự buộc chủ thể phải tuân theo khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã nêu ra trong phần giả định. Quy định là bộ phận chủ yếu của quy phạm pháp luật. Nó thể hiện một cách trực tiếp, bản chất và giá trị xã hội của pháp luật, mang tính quy định bắt buộc của Nhà nước. Chế tài: Là phần nêu lên những biện pháp tác động mà Nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với những chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã nêu ở phần quy định. Chế tài chính là hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm pháp luật, nó thể hiện rõ thái độ của Nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật đồng thời nó cũng chính là biểu hiện cụ thể của tính cường chế của pháp luật. III. QUAN HỆ PHÁP LUẬT 1. Khái niệm quan hệ pháp luật Xã hội là tổng thể các quan hệ phức tạp, đa dạng nảy sinh giữa con người với con người và các quan hệ đó gọi là các quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng các quy phạm xã hội khác nhau như: quy phạm pháp luật, quy phạm đạo đức, các tín đồ tôn giáo, phong tục tập quán. Trong xã hội có Nhà nước, các quan hệ xã hội quan trọng được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật. Kết quả cuối cùng của sự điều chỉnh ấy là các chủ thể trong quan hệ xã hội buộc phải cõ những xử sự nhất định phù hợp với các quy phạm pháp luật mà họ trở thành những chủ thể mang các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Khi các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật tác động, điều chỉnh chính là các quan hệ pháp luật. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  28. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Như vậy, quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh, trong đó các bên tham gia có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. 2. Cấu trúc của quan hệ pháp luật Bất cứ một quan hệ pháp luật nào cũng bao gồm có ba yếu tố Chủ thể, Khách thể và Nội dung: Chủ thể của quan hệ pháp luật: Là những cá nhân hay tổ chức dựa trên cơ sở của các quy phạm pháp luật mà tham gia vào các quan hệ pháp luật trở thành người mang các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Khách thể của quan hệ pháp luật: Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội thông qua việc đọng vào hành vi xử sự của con người trong các quan hệ ý chí cụ thể. Vì vậy, có thể nói khách thể cảu quan hệ pháp luật là hành vi xử sự của các chủ thể. Khách thể của quan hệ pháp luật nên lên vị trí, ý nghĩa của quan hệ pháp luật được pháp luật bảo vệ, đồng thời cũng thể hiện thái độ của Nhà nước đối với khách thể của quan hệ pháp luật bị xâm phạm. Nội dung của quan hệ pháp luật: Một trong những yếu tố cơ bản của quan hệ pháp luật là nội duyng của nó. Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể. Quyền pháp lý là mức độ, khả năng được phép xử sự của các chủ thể được Nhà nước quy định và bảo vệ. Nghĩa vụ pháp lý là cách xử sự của Nhà nước bắt buộc chủ thể trong quan hệ phải tiến hành nghĩa vụ của mình nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của các chủ thể khác và được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. IV. VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ 1. Khái niệm và những dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Vi phạm pháp luật là một loại sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý. Nó có những dấu hiệu cơ bản sau: Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  29. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Thứ nhất: Vi phạm pháp luật luôn là hành vi xác định của các chủ thể pháp luật. Bởi vì các quy định của pháp luật được Nhà nước đặt ra là để nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể pháp luật. Hành vi đó có thể là xử sự của con người được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Thứ hai: Vi phạm pháp luật không những là hành vi xác định của con người mà hành vi đó phải trái với các quy định của pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp với quy định của pháp luật như không thực hiện những gì mà pháp luật yêu cầu hoặc sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn mà pháp luật cho phép. Thứ ba: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng hành vi trái pháp luật đó phải chứa đựng lỗi của chủ thể của hành vi. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật phải xem xét cả mặt chủ quan của hành vi, tức là xác định lỗi của học, biểu hiện trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi đó. Trạng thái tâm lý có thể là cố ý hay vô ý. Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác định hành vi vi phạm pháp luật và lỗi cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật. Thứ tư: Hành vi trái pháp luật đó do chủ thể có năng lcự hành vi thực hiện. Người có năng lực hành vi là người có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi, việc làm của mình và chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện. 2. Trách nhiệm pháp lý Trong đời sống xã hội ở những lĩnh vực khác nhau, thuật ngữ “trách nhiệm” được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong lĩnh vực hoạt động xã hội, chính trị, đạo đức, thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu theo nghĩa tích cực – là bổn phận, vai trò. Theo nghĩa này thuật ngữ trên thường được sử dụng trong quan hệ gia đình, bạn bè, quan hệ với tập thể, nhân dân tổ quốc nói chung hoặc rộng ra là cộng đồng nhân loại. Trong lĩnh vực pháp lý “trách nhiệm” được sử dụng theo hai nghĩa: nghĩa vụ và trừng phạt: Theo nghĩa nghĩa vụ là muốn nói đến những điều mà pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và tương lai. Theo nghĩa trừng phạt được hiểu là hậu quả bất lợi (sự phản ứng mang tính chất trừng phạt của Nhà nước) mà cá nhân hoặc tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện hay thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ được giao. Theo nghĩa này thì trách nhiệm chỉ áp dụng đối với những hành vi đã được thực hiện mà vi phạm vào những quy định của Nhà nước. Theo nghĩa trừng phạt, trách nhiệm có một số đặc điểm sau: Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  30. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Cơ sở thực tế của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật, điều đó có nghĩa là trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng đối với các chủ thể có lý trí và tự do ý chí, là các chủ thể nhận thức được hành động của mình và đủ điều kiện lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp với những các xử sự mà pháp luật quy định nhưng vẫn làm trái điều đó. Trách nhiệm pháp lý chứa đựng yếu tố sự lên án của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Thông qua việc thực hiện các chế tài trong quy phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý trên liên quan trực tiếp với cưỡng chế Nhà nước. Bởi vì khi có vi phạm pháp luật xảy ra thì lúc đó giữa chủ thể vi phạm pháp luật và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ xuất hiện một loạt các quan hệ, trong đó có việc cơ quan Nhà nước xác định biện pháp cưỡng chế và áp dụng biện pháp đó đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nghĩa là Nhà nước (thông qua cơ quan, Nhà nước có thẩm quyền) mới có thẩm quyền xác định một cách chính thức hành vi nào là hành vi vi phạm pháp luật và dụng biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể gây ra vi phạm đó. Như vậy trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa Nhà nước (thông qua cơ quan có thẩm quyền) có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế có tính chất trừng phạt đối với chủ thể vi phạm và chủ thể đó có nghĩa vụ gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra. Tương ứng với các loại vi phạm pháp luật thì có các loại trách nhiệm pháp lý sau: Trách nhiệm pháp lý hình sự: Là laọi trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc do toà án nhân danh Nhà nước áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội. Trách nhiệm pháp lý dân sự: Là laọi trách nhiệm pháp lý do toà án áp dụng đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm pháp luật dân sự. Trách nhiệm pháp lý hành chính: Là loại trách nhiệm pháp lý do cơ quan quản lý Nhà nước áp dụng đối với mọi chủ thể khi họ vi phạm hành chính. Trách nhiệm kỷ luật: Là loại trách nhiệm pháp lý do thủ trưởng cơ quan áp dụng đối với cán bộ, công nhân viên của cơ quan, xí nghiệp mình khi họ vi phạm vàp nội quy, quy chế của cơ quan và pháp luật của Nhà nước. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  31. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh V. PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Khái niệm và đặc điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa. 1.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để quản lý xã hội, Nhà nước sử dụng tổng hợp các phương thức, các công cụ khác nhau như giáo dục thuyết phục, văn hoá, nghệ thuật. Nhưng phương thức quản lý cơ bản bao trùm nhất lên tất cả các quan hệ xã hội là quản lý bằng pháp luật, tức là thiết lập nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều 12, Hiến pháp năm 1992 của nước ta nêu rõ: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Pháp chế là vấn đề không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Trong xã hội ta, pháp chế đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ và củng cố chế độ xã hội, chế độ Nhà nước, đảm bảo các mục đích của sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Có thể định nghĩa pháp chế như sau: Pháp chế xã hội chủ nghĩa là phương thức quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với xã hội, biểu hiện ở việc thực hiện nghiêm chỉnh và triệt để trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước, của cán bộ, công chức Nhà nước các cấp, của các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, của mọi công dân đối với pháp luật được Nhà nước ban hành. Như vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa bao hàm trong bản thân nó có hai nội dung co bản: Một là: Nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn chỉnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật. Hai là: Phải có cơ chế và biện pháp trong tổ chức thực hiện để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và triệt để. Nếu thiếu một trong hai nội dung trên đều không thể thiết lập được nền pháp chế trong xã hội. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  32. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh 1.2 Đặc điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp chế xã hội chủ nghĩa nước ta có đặc điểm là có tính thống nhất cao. tính thống nhất đó biểu hiện trước hết ở sự thống nhất chặt chẽ, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các quy phạm pháp luật, giữa các văn bản pháp luật với nhau cũng như ở tính thống nhất đồng bộ của toàn bộ hệ thống pháp luật. Điều đó đòi hỏi các cơ quan Nhà nước các cấp phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật trong hoạt động luật pháp, lập quy. Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa còn thể hiện ở việc thống nhất mọi pháp luật đã ban hành trong phạm vi cả nước, Nhà nước không thể chấp nhận tình trạng pháp chế ở địa phương này khác với pháp chế ở địa phương khác, cùng một văn bản pháp luật nhưng lại được mỗi nơi, mỗi cấp, mỗi ngành áp dụng khác nhau. Cho nên mọi văn bản pháp luật đang có hiệu lực phải được thực hiện và ý thức pháp luật của các chủ thể trong việc thực hiện pháp luật trong xã hội là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá mức độ của pháp chế ở nước ta hiện nay. 2. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Tăng cường pháp chế là tăng cường quản lý mọi hoạt động của xã hội không để một lĩnh vực nào thiếu sự điều chỉnh của pháp luật hoặc không được pháp luật điều chỉnh tới. Để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có hiệu quả cần phải có nhiều biện pháp khác nhau, kết hợp và thực hiện đồng bộ với nhau, cụ thể: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế: Đây là biện pháp cơ bản, bao trùm, xuyên suốt quá trình củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế được thể hiện ở những mặt sau: Đảng đề ra chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược toàn diện về công tác pháp chế. Trong từng thời kỳ, Đảng đề ra những phương hướng về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật, chống vi phạm pháp luật. Đảng đề ra những phương hướng chỉ đạo, kiểm tra giám sát các hoạt động của nhà trường trong công tác pháp chế. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa: Thường xuyên tiến hành hệ thống hoá pháp luật. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  33. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng thành pháp luật. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật: Đẩy mạnh công tác nghiêm cứu khoa học pháp lý, giải thích pháp luật để làm rõ nội dung, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ trình độ, phẩm chất chính trị và khả năng công tác, sắp xếp vào các cơ quan làm công tác pháp chế, pháp luật. Tăng cường công tác kiểm tra hoạt động của các cơ quan, đặc biệt là các cơ quan làm công tác bảo vệ pháp luật: Thường xuyên tổ chức kiểm tra hoạt động của các cơ quan đặc biệt là các cơ quan làm công tác bảo vệ pháp luật. Phải kết hợp với sự chỉ đạo của Đảng, sự chủ động sáng tạo của các cơ quan có thẩm quyền và sự tham gia của quần chúng. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  34. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh CHƯƠNG III HÌNH THỨC PHÁP LUẬT I. KHÁI NIỆM HÌNH THỨC PHÁP LUẬT Pháp luật luôn luôn là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, nhưng ý chí của giai cấp thống trị chưa phải là pháp luật. Muốn trở thành pháp luật, ý chí đó phải được biểu hiện dưới những hình thức cụ thể nhất định, thông qua những hành vi đặc biệt của Nhà nước. Trong khoa học pháp lý người ta gọi hình thức biểu hiện đó là hình thức pháp luật . Hình thức pháp luật là cách thức thể hiện ý chí của giai cấp thống trị mà thông qua đó ý chí trở thành pháp luật. Hình thức pháp luật chính là biểu hiện bên ngoài của pháp luật, thông qua những biểu hiện bên ngoài đó người ta nhận biết đó là quy phạm pháp luật. Hay nói cách khác hình thức pháp luật chính là khái niệm chỉ ranh giới tồn tại của pháp luật trong hệ thống các quy phạm của xã hội, là phương thức tồn tại, là dạng thực tế của pháp luật. Trong lịch sử đã tồn tại ba hình thức pháp luật: Tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Tập quán pháp: là phong tục tập quán trong xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị được Nhà nước thừa nhận biến chúng thành quy tắc xử sự chung được đảm bảo thi hành bằng sức cưỡng chế của Nhà nước. Như vậy, với tập quán thì cơ sở hình thành pháp luật là phong tục tập quán, những phong tục tập quán có lợi cho giai cấp thống trị và được giai cấp thống trị nâng lên thành luật. Tập quán được sử dụng chủ yếu trong Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến và một số Nhà nước tư sản. Tiền lệ pháp: là hình thức Nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan hành chính hoặc cơ quan xét xử cấp trên khi giải quyết các vụ việc cụ thể, làm cơ sở để áp dụng, giải quyết các trường hợp tương tự. Văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định trong đó có chứa các quy tắc sử dụng chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  35. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật tiến bộ và hoàn thiện ở mức độ cao so với tập quán và tiền lệ pháp. Nó có thể hiện cao độ ý chí của giai cấp thống trị, thể hiện bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa, nó là cơ sở tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức pháp luật cơ bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. II. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NGUYÊN TẮC BAN HÀNH CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM. 1. Khái niệm, đặc điểm của các văn bản quy phạm pháp luật. 1.1. Khái niệm: Theo Điều 1 luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội thông quan ngày 12/11/1996 được sửa đổi bổ sung theo luật ngày 16/12/2002 thì văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2. Đặc điểm: Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau đây: Phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành với những hình thức do pháp luật quy định. Trình tự thủ tục ban hành văn bản được quy định chặt chẽ trong luâtn ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Nội dung của văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung. Quy tắc xử sự chung là những chuẩn mực mà mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tuân theo khi tham gia quan hệ xã hội. Được quy tắc đó điều chỉnh. Nó được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng và có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc ở từng địa phương. Nhà nước đảm bảo việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật bằng các biện pháp thích hợp như: Tuyên truyền, giáo dục-thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế và trong trường hợp cần thiết là biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  36. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện nay của Nhà nước ta bao gồm ba nhóm: Thứ nhất: Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, bộ luật, nghị quyết. Văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh, nghị quyết. Thứ hai: Văn bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác ở Trung ương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội như: Lệnh, quyết định của chủ tịch nước. Quyết định, nghị định của chính phủ, quyết định, chỉ định của thủ tướng chính phủ. Quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ Thứ 3: Văn bản do hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân ban hành để thi hành văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên như: Quyết định của hội đồng nhân dân, quyết đinh, chỉ thị của uỷ ban nhân dân. 2. Các nguyên tắc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật: Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là một trong những hoạt động quản lý quan trọng của các cơ quan Nhà nước. Để đảm bảo cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được thể hiện đúng đắn ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải dựa trên những nguyên tắc chỉ đạo thống nhất. Trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có những nguyên tắc cụ thể sau: Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật đều phải phù hợp với Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp. Đây là nguyên tắc cao nhất phải tuân thủ khi ban hành các quy phạm pháp luật. Để đảm bảo tham gia ý kiến rộng rãi trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Căn cứ vào tính chất và Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  37. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh nội dung quy định trong dự án, dự thảo, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền dự án phải tạo điều kiện để mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội khá, tổ chức kinh tế, cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Đảm bảo cụ thể, dễ hiểu của văn bản quy phạm pháp luật. Nguyên tắc này đảm bảo cho các văn bản quy phạm pháp luật dễ đi vào thực tế đời sống xã hội, có hiệu lực và thi hành ngay. Tránh tình trạng chung chung, câu chữ khó hiểu và quy định không mang tính cụ thể. Bảo đảm tính ổn định của văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vốn đa dạng, phong phú nhưng phải dự đoán được xu hướng phát triển của các quan hệ đó trong một thời kỳ phát triển nhất của một đất nước. Đồng thời những quy phạm pháp luật khi đã ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phải được ổn định trong thời gian nhất định. Hạn chế việc vừa mới ban hành đã chỉnh sửa, gây khó khăn cho việc áp dụng các văn bản đó trong thực tiễn, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và của công dân. 3. Giám sát, kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. Giám sát, kiểm tra các văn bản quy phạm pháp luật và kiểm tra việc tuân theo pháp luật đối với văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động không thể thiếu được của các cơ quan Nhà nước nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ, thủ tướng chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thâmt quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội thuộc lĩnh vực hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội phụ trách. Chính phủ: Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân tỉnh. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  38. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Bộ tư pháp: Giúp chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về những nội dung có liên quan đến ngành, lĩnh vực mình phụ trách. III. HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TA 1. Văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ quốc hội: Văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội: Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước. Có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản của nước ta như: Bản chất, hình thức của Nhà nước, chế độ chính trị, kinh tế, xã hội của Nhà nước và địa vị pháp lý của công dân. Hiến pháp được Quốc hội ban hành và sửa đổi. Luật (đạo luật): Là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị sau Hiến pháp. Luật quy định các vấn đề cơ bản, quan trọng thuộc các lĩnh vực đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của nhân dân. Văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện chờ Quốc hội xem xét, quyết định ban hành thành luật. Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành để giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, giám sát việc thi hành hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật. 2. Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước. Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, người thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại, Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, luật quy định. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  39. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Lệnh của Chủ tịch nước ban hành để công bố hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội hoặc pháp lệnh, nghị quyết của uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố tình trạng khẩn cấp, tổng động viên hoặc động viên cục bộ trong những trường hợp cần thiết. Quyết định là văn bản của Chủ tịch nước để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do hiến pháp, luật quy định. 3. Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ bao gồm quyết định, nghị định của Chính phủ bao gồm: Quyết định, Chỉ định của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. 4. Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch là văn bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phối hợp với các tổ chức chính trị – xã hội ban hành để hướng dẫn thi hành những vấn đề có liên quan đến quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức đó. Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch bao gồm: Thông tư liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ để hướng dẫn thi hành luật; thông tư liên tịch giữa toà án nhân dân tối cao với viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật. Trong hoạt động tố tụng: nghị quyết thông tư liên tịch giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị-xã hội để hướng dẫn thi hành những vấn đề pháp luật quy định về việc tổ chức chính trị – xã hội đó tham gia quản lý Nhà nước. 5. Văn bản quy phạm pháp luật của toà án nhân dân tối cao Văn bản quy phạm pháp luật của toà án nhân dân tối cao, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân. Nghị quyết của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao được ban hành để hướng dẫn các toà án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử. Quyết định, chỉ thị, thông tư của chánh án toà án nhân dân tối cao ban hành để thực hiện việc quản lý về tổ chức, đối với các toà án nhân dân địa phương và toà án quân sự. Quyết định, chỉ thị, thông tư của viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định các biện pháp để đảm bảo việc thực hiện, nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  40. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh nhân dân các cấp và những vấn đề thuộc thẩm quyền của viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nghi quyết của hội đồng nhân dân quy định về những vấn đề, về các biện pháp đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh hiến pháp, pháp luật ở địa phương và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Quyết định, chỉ thị của uỷ ban nhân dân được ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước cấp trên và thi hành nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp. IV. HIỆU LỰC CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật theo thời gian. Hiệu lực theo thời gian của văn bản quy phạm pháp luật được xác định từ thời điểm phát sinh hiệu lực đến khi chấm dứt hiệu lực của văn bản. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được xác định căn cứ vào các hình thức văn bản do các cơ quan Nhà nước khác nhau ban hành. Luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của uỷ ban thường vụ Quốc hội có hiệu lực thi hành kể từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh công bố, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác. Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước có hiệu lực kể từ ngày đăng báo, trừ trường hợp văn bản đó quy định ngày có hiệu lực khác. Văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ, thủ tướng, thủ tướng chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, toà án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao và các văn bản quy phạm pháp luật liên tịch có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng công báo hoặc có hiệu lực muộn hơn nếu được quy định tại văn bản đó. Đối với văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ, thủ tướng chính phủ quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, thì văn bản đó có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn. Những trường hợp văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn phần hoặc một phần trong các trường hợp sau đây: Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  41. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Được thay thế bằng một văn bản mới của chính cơ quan Nhà nước đã ban hành văn bản đó. Bị huỷ bỏ hoặc bãi bỏ bởi một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp một văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy định chi tiết hoặc hướng dẫn được giữ lại toàn phần hoặc một phần, vì còn phù hợp với quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới. 2. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật theo không gian và đối tượng tác động: Phạm vi áp dụng theo không gian của văn bản quy phạm pháp luật có thể là trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia ở một địa phương hoặc trong một vùng nhất định. Đối tượng tác động của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm cá nhân, tổ chức và những quan hệ xã hội mà văn bản đó điều chỉnh. Hiệu lực theo không gian và đối tượng của văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc vào thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản đó. Theo quy định hiện hành của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương có hiệu lực trong phạm vi cả nước và áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam trừ trường hợp có quy định khác. Văn bản của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân ban hành có hiệu lực trong phạm vi địa phương đó. Văn bản quy phạm pháp luật cũng có hiệu lực đối với cơ quan, tổ chức, người nước ngoài ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. 3. Nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm có hiệu lực, văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản quy định có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, hoặc áp dụng văn bản mà trong đó có quy định việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  42. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một vấn đề, cùng một cơ quan ban hành mà có các quy định khác nhau thì áp dụng quy định của văn bản ban hành sau. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật mới không quy trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ nhàng hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  43. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh CHƯƠNG IV HỆ THỐNG PHÁP LUẬT I. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VÀ NGÀNH LUẬT 1. Khái niệm và đặc điểm chung của hệ thống pháp luật. 1.1. Khái niệm Hệ thống pháp luật là cơ cấu bên trong của pháp luật, thể hiện sự thống nhất nội tại của các quy phạm pháp luật và sự phân chia một cách khách quan các quy phạm pháp luật trong hệ thống ấy thành các ngành luật và chế định pháp luật phù hợp với tính chất, đặc điểm của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Như vậy, hệ thống pháp luật được hiểu là chỉnh thể bao gồm các bộ phận có liên quan mật thiết với nhau, được sắp xếp theo một trình tự logíc, khách quan và khoa học. Hệ thống pháp luật là phạm trù thể hiện cấu trúc bên trong và hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật. Cấu trúc bên trong: Là mối liên hệ bên trong giữa các ngành luật gọi là hệ thống các ngành luật, hệ thống các ngành luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất và phối hợp với nhau, được phân chia thành các ngành luật, chế định pháp luật và cá quy phạm pháp luật ở ba cấp độ khác nhau: Quy phạm pháp luật: Là những quy tắc xử sự trong các trường hợp cụ thể do Nhà nước quy định có tính chất bắt buộc chung. Đây là bộ phận nhỏ nhất của hệ thống, mang tính cụ thể cũng như tính khái quát. Các bộ phận khác của hệ thống pháp luật đều được hình thành do sự kết hợp của các quy phạm pháp luật. Ý chí của Nhà nước thể hiện trong pháp luật và được mô hình hoá bởi các quy phạm pháp luật. Chế định pháp luật: Là một nhóm những quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại có liên hệ mật thiết với nhau. Ngành luật: Bao gồm các chế định pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội có chung một tính chất. Dựa vào tính chất giống nhau, gần gũi mà có thể xếp các nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất thành một ngành luật và trở thành đối tượng điều chỉnh chung của ngành luật. Dựa vào đối tượng điều chỉnh của một Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  44. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh ngành luật để tiến hành hệ thống hoá các quy phạm pháp luật thành các hệ thống pháp luật theo từng ngành, thuận tiện cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật. Hình thức biểu hiện bên ngoài (hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật) của pháp luật được thể hiện thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Mỗi loại văn bản có giá trị pháp lý cao thấp khác nhau nhưng đều thuộc vào những ngành luật nhất định. 1.2. Những đặc điểm chung của hệ thống pháp luật. Là một hệ thống thể hiện ý chí của Nhà nước, của giai cấp cầm quyền cho nên pháp luật ở mọi quốc gia không phải được sắp xếp theo một cách ngẫu nhiên, tuỳ tiện mà được sắp xếp theo một trình tự rất chặt chẽ do những yếu tố khách quan quy định. Dưới góc độ đó, hệ thống pháp luật có một số những đặc điểm sau: Tính thống nhất và tính hài hoà: Các quy phạm pháp luật không mâu thuẫn với nhau mà tồn tại theo thứ bậc và phối hợp chặt chẽ với nhau. Các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp và không được trái với các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành. Nhiều quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp dưới là sự cụ thể hoá các quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp cao hơn. Sự phân chia hệ thống pháp luật thành các bộ phận cấu thàn: Với tư cách là một hệ thống pháp luật được chia ra các yếu tố cấu thành là các ngành luật, chế định pháp luật. quy phạm pháp luật. Đặc điểm này là tất yếu bởi vì: tổng thể các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong mỗi lĩnh vực như thế lại có các nhóm quan hệ xã hội có tính độc lập tương đối với nhau. Chính sự hình thành những lĩnh vực và nhóm quan hệ xã hội đã quy định sự phân chia hệ thống pháp luật ra các bộ phận cấu thành. Tính khách quan: Tính khách quan của hệ thống pháp luật liên hệ chặt chẽ với các đặc điểm trên và được thể hiện ở chỗ: sự hình thành các bộ phận cấu thành của nó được tồn tại trong thực tế khách quan. Không thể đặt ra, sắp xếp các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật, ngành luật một cách chủ quan không tính đến hoặc không nghiên cứu đầy đủ cơ cấu và sự phát triển các quan hệ xã hội đang tồn tại trên thực tế khách quan, bởi các quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của pháp luật. 2. Những căn cứ để phân chia ngành luật. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  45. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Xác định các căn cứ để phân định hệ thống pháp luật thành các ngành luật khác nhau là một vấn đề khoa học thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý. Do vậy, muốn phân biệt ngành luật này với ngành luật khác thì dựa vào hai căn cứ chủ yếu cơ bản sau: Đó là đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Đối tượng điều chỉnh: Đây là căn cứ chủ yếu để phân định hệ thống pháp luật thành ác ngành luật khác nhau. Mỗi ngành luật chỉ điều chỉnh cấc quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực của đời sống xã hội. Vậy, phạm vi các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực được quy phạm pháp luật của một ngành luật điều chỉnh là đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Phương pháp điều chỉnh: Đó là những biện pháp, cách thức mà Nhà nước sử dụng để tác động vào cách xử sự của các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Cách thức tác động ấy thể hiện chủ yếu ở cách thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ. Mỗi ngành luật khác nhau đối tượng điều chỉnh có các đặc điểm khác nhau và phương pháp điều chỉnh của chúng cũng rất khác nhau. Như luật hành chính áp dụng phương pháp quyền uy, mệnh lệnh, nhưng luật dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội lại áp dụng phương pháp thoả thuận. Với các căn cứ trên, việc phân định quy phạm pháp luật thuộc ngành luật này hay ngành luật khác không phải là sự ngẫu nhiên, tuỳ tiện mà hoàn toàn có cơ sở khoa học. Trong các căn cứ trên thì đối tượng điều chỉnh của ngành luật là căn cứ chủ yếu có tính chất quyết định, còn phương pháp điều chỉnh là căn cứ có tính chất bổ trợ do đặc điểm của đối tượng điều chỉnh quyết định. II. CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TA Theo các căn cứ nêu trên thì hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay có những ngành luật cơ bản sau: 1. Luật Nhà nước (còn gọi là Hiến pháp). Là ngành luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản về tổ chức quyền lực Nhà nước về chế độ chính trị, về chế độ kinh tế, văn hoá-xã hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quy định tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước trong bộ máy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  46. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh nghĩa Việt Nam. Đây là ngành luật được coi là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tất cả các ngành luật khác đều được hình thành trên cơ sở những nguyên tắc của luật Nhà nước và không trái với Hiến pháp. 2. Luật hành chính Là ngành luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các Quốc hội xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành điều hành của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội. 3. Luật tài chính Là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Bao gồm các chế định sau: luật ngân sách Nhà nước, chế định thu, chi ngân sách Nhà nước, chế định về tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm thương mại, tín dụng và thanh toán. 4. Luật đất đai Là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình quản lý vag sử dụng đất đai, khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất, mặt khác cũng quy định chế độ quản lý, sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. 5. Luật dân sự Là ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản dưới hình thức hành hoá tiền tệ và một số quan hệ nhân thân dựa trên nguyên tắc: tự định đoạt, bình đẳng quyền khởi tố dân sự và trách nhiệm vật chất của các bên tham gia quan hệ đó. Nội dung luật dân sự bao gồm các chế định quy định về: quyền sở hữu, hợp đồng dân sự, quyền thừa kế, quyền tác giả, quyết phát minh sáng chế. 6. Luật lao động Là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động. Các quy phạm pháp luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động góp phần thúc đẩy sản xuất xã hội. 7. Luật hôn nhân và gia đình Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  47. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh Là ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ. Như điều kiện kết hôn, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Nhằm mục đích đảm bảo hôn nhân tự do, tiến bộ, đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, bảo vệ lợi ích của bà mẹ trẻ em, chăm sóc, giáo dục con cái. 8. Luật hình sự Là ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật quy định hành vi nào là tội phạm, mục đích hình phạt, điều kiện áp dụng hình phạt và mức độ hình phạt đối với người có hành vi phạm tội. 9. Luật tố tụng hình sự Là ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc điều tra, xét xử là kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử những vụ án hình sự. 10. Luật tố tụng dân sự Là ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa các cơ quan xét xử, viện kiểm sát nhân dân các cấp, đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, xét xử các vụ tranh chấp dân sự. Các quy phạm pháp luật của tố tụng dân sự quy định thẩm quyền, trình tự thủ tục xét xử và những vấn đề khác nhằm giải quyết đúng đắn việc tranh chấp dân sự. 11. Luật kinh tế Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, luật kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của các loại doanh nghiệp ký kết hợp đồng kinh tế, về phá sản doanh nghiệp, về giải quyết các tranh chấp kinh tế. 12. Luật quốc tế Là tổng thể các quy phạm pháp luật được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa các quốc gia với nhau nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các nước trong quá trình đấu tranh và hợp tác lẫn nhau. Luật quốc tế bao gồm hai bộ phận: Công pháp quốc tế và Tư pháp quốc tế. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  48. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh III. HỆ THỐNG KHOA HỌC PHÁP LÝ Hệ thống khoa học pháp lý là tổng thể các môn khoa học có đối tượng nghiên cứu là vấn đề Nhà nước và pháp luật, trong đó mỗi môn khoa học nghiên cứu một mặt, một khía cạnh hoặc một số mặt, một số khía cạnh của vấn đề, giữa hệ thống khoa học pháp lý và hệ thống pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Hệ thống khoa học pháp lý có thể chia thành các nhóm sau: 1. Nhóm các môn khoa học về lý luận và lịch sử Gồm các môn lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, lịch sử Nhà nước và pháp luật. Nhóm các môn khoa học này nghiên cứu nguồn gốc, bản chất, quy luật phát sinh, phát triển của Nhà nước và pháp luật, lịch sử các Nhà nước và pháp luật, đưa ra những khái niệm, phạm trù, nguyên tắc làm cơ sở cho việc nghiên cứu Nhà nước và pháp luật nói chung và là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu các môn khoa học pháp lý khác. 2. Nhóm các môn khoa học pháp lý chuyên ngành Gồm các môn khoa học có đối tượng nghiên cứu là các ngành luật trong hệ thống pháp luật như môn luật dân sự, môn luật hình sự, môn luật lao động. Như vậy, có bao nhiêu ngành luật thì có tương ứng các môn khoa học pháp lý chuyên ngành. 3. Nhóm các môn khoa học pháp lý quốc tế Gồm các môn khoa học pháp lý nghiên cứu pháp luật quốc tế, môn khoa học pháp lý nghiên cứu pháp luật của một quốc gia. 4. Nhóm các môn khoa học pháp lý thực nghiệm Gồm các môn khoa học pháp lý nghiên cứu các vấn đề có tính chất “kỹ thuật” như: môn tội phạm học, môn giám định y khoa, môn tâm lý tư pháp. Thành tựu của các môn khoa học này phục vụ cho việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật, đặc biệt là việc giải quyết đúng đắn các vụ án hình sự, dân sự. Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương
  49. Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp Khoa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh CHƯƠNG V LUẬT HÀNH CHÍNH I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ LUẬT HÀNH CHÍNH 1. Khái niệm và đối tượng điều chỉnh của luật hành chính 1.1. Khái niệm Với nghĩa là một ngành luật thì “luật hành chính” là một ngành luật về quản lý Nhà nước. “Quản lý Nhà nước” ở đây được giới hạn trong hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan Nhà nước. Do vậy, luật hành chính là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Luật hành chính cũng giống như các ngành luật khác có đối tượng điều chỉnh riêng và phương pháp điều chỉnh riêng. 1.2. Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan Nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quan hệ xã hội mà luật hành chính điều chỉnh có thể chia thành bốn nhóm sau: Các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động chấp hành và điều hành của cơ quan quản lý Nhà nước. Các quan hệ trong hoạt động chấp hành, điều hành hình thành trong hoạt động xây dựng tổ chức công tác nội bộ của các cơ quan quản lý Nhà nước. Các quan hệ xã hội mang tính chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động xây dựng và tổ chức công tác của các cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử, cơ quan quyền lực. Những quan hệ xã hội mang tính chấp hành, điều hành phát sinh trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước không thuộc hệ thống cơ quan quản lý và hoạt động Tổ chính trị – pháp luật Th.s Phạm Anh Tuấn Tập bài giảng Pháp luật Đại cương