Bài giảng Xã hội học nghề nghiệp - Trương An Quốc
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Xã hội học nghề nghiệp - Trương An Quốc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
bai_giang_xa_hoi_hoc_nghe_nghiep_truong_an_quoc.pdf
Nội dung text: Bài giảng Xã hội học nghề nghiệp - Trương An Quốc
- 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Trường Đại h ọc Kh oa học Xã hội & Nh ân văn Bài giảng Xã hội học Nghề nghiệp (Sociology of professions) BỘ MÔN LỊCH SỬ, LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHO A XÃ HỘI HỌC Hà Nội 06-2010 1
- 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Bài giảng Xã hội học Nghề nghiệp (SOCIOLOGY OF PROFESSIONS) Người biên soạn: GVC. TS. Trương An Quốc BỘ MÔN LỊCH SỬ, LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHO A XÃ HỘI HỌC Hà Nội 06-2010 2
- 3 MỤC LỤC PHẦN I. Xã hội học nghề nghiệp: một bộ môn khoa học xã hội 5 Chương 1. Xã hội học nghề nghiệp: đối tượng, tiền đề và sự phát triển 5 1. Đối tượng nghiên cứu của XHHNN/ 1/3 8 2. Khái niệm và thuật ngữ/2 3. Những tiền đề của xã hội học nghề nghiệp 14 4. Những nghiên cứu gần đây 20 5. Quan hệ gi ữa lịch sử và xã hội học nghề nghiệp PHẦN II. Xã hội học nghề nghiệp: một số lý thuyết và khái niệm cơ bản Chương 2. Xã hội học nghề nghiệp t ừ tiếp cận chức năng 23 1. Dẫn nhập 23 VD 2. Thuyết chức năng trong XHHNN 25 3. Những đóng góp tiêu biểu Tác giả C arr-Saunder và Wilson (1933): Tác giả Lynn (1963) Tác giả J. S. Mills 4. Phát triển lý luận 32 Những đóng góp của thuyết chức năng Những hạn chế và bất cập Chương 3. Xã hội học nghề nghiệp t ừ tiếp cận tương tác 31. Hughes và khái niệm nhóm việc làm nghề nghiệp 34 311. Những nguyên tắc chung t53 35 312. Về quan hệ ti ểu sử và tương tác 37 VD 32. So sánh/đối chiếu các tiếp cận chức năng và tương tác t80 43 33. Mô hình của Davis Chương 4. T rật tự thương lượng và lý thuyết của BER KER/STRAUSS 44 41. Khái niệm thế giới xã hội t82 45 42. Khái niệm trật tự thương lượng 43. Một số quan điểm khác (tham khảo) 47 50 Chương 5. T ri thức nghề nghiệp 51. T ri thức và tri thức nghề nghiêp 53 52. Đặc tính của tri thức nghề nghiệp 58 53. VD Bài đọc 3
- 4 Chương 6. T ổ chức và hoạt động nghề nghiệp. 74 61. Hoạt động nghề nghiệp 62. 63. B ài đọc 79 PHẦN III Vi ệc làm nghề nghiệp hiện nay: một số vấn đề lý luận và thực tiễn 103 Chương 7. Hội nhập việc làm nghề nghiệp 104 71. Khái niệm chung 106 72. Nghiên cứu trường hợp người tôt nghiệp đại học 73. Bài đọc 107 122 Chương 8. Một số vấn đề về việc làm nghề nghiệp hiện nay 81. ?? 127 82. Một số nghi ên cứu trường hợp 4
- 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT XHHĐC xã hội học đại cương XHHNN xã hội học nghề nghiệp ĐKHC đoàn kết hữu cơ ĐKCG đoàn kết cơ giới TĐTV từ điển tiếng việt PHẦN I. XÃ HỘI HỌC NGHỀ NGHIỆP MỘT BỘ MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI 5
- 6 CHƯƠ NG I. XÃ HỘI HỌC NGHỀ NGHIỆP: ĐỐI TƯỢNG, TIỀN ĐỀ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN 1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học nghề nghiệp Xã hội học nghề nghiệp (XHHNN) là một bộ môn khoa học chuyên ngành, do vậy, nó được xây dựng trên cơ sở những đối tượng chung, quen thuộc của xã hội học đại cương (XHHĐC) và có những đối tượng đặc thù riêng của mình. Về mặt phương pháp luận, XHHNN vẫn cần sử dụng những khuôn khổ lý luận và những phương pháp nghiên cứu chung, phổ biến trong XHHĐC. Tuy nhiên, như một bộ môn khoa học chuyên ngành, nó cần phát triển và có được những điều chỉnh sao cho hiệu quả và phù hợp với các đối tương nghiên cứu riêng, đặc thù. Khi nói đến đối tượng nghiên cứu của xã hội học nghề nghiệp, ta cần phải quay về với đối tượng nghiên cứu của xã hội học nói chung (hay là XHHĐC). Như vậy, nếu nói xã hội học có đối tượng nghiên cứu là các quan hệ giữa con người và xã hội, giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm và giữa các nhóm hay cộng đồng xã hội t hì xã hội học nghề nghiệp sẽ đặc biệt chú ý nghiên cứu cũng chính các quan hệ đó nhưng khi và chỉ khi mà chúng được hình t hành trong (cùng với hoặc thông qua) nghề nghiệp của họ. Thực tế, quan hệ xã hội và quan hệ đồng nghiệp, quan hệ ‘bạn’ và ‘bạn đồng nghiệp’ tất yếu có nhiều điểm tương đồng, trùng lặp do vế sau chỉ là một trường hợp riêng, chỉ là một yếu tố khả dĩ (có khả năng) cấu thành nên vế trước. Song, điều khiến cho người ta quan tâm trước hết có lẽ lại là những khác biệt, những gì không bị bao trùm hay trùng lặp, ở trong mỗi cặp quan hệ như vậy. Điều này có một ý nghĩa lý luận đáng kể bởi với các cặp phạm trù chung/riêng, tổng thể/bộ phận, đại cương/chuyên biệt/chuyên ngành rất cần và có thể được nhận thức/giải mã thông qua việc mô tả, phân định/nhận dạng và phân loại các (cặp) quan hệ đó trong thực tế đa chiều/đa dạng của đời sống xã hội không ngừng biến đổi. Một mặt, tổng thể bộ máy công cụ, hệ thống khái niệm và lý luận chung đã hình thành và phát triển trong xã hội học (đại cương) cần phải đóng vai trò nền tảng và bảo đảm những tiền đề thiết yếu cho việc hình thành, phát triển một bộ môn xã hội học nghề nghiệp chuyên biệt. Nhưng mặt khác, nếu như không tự phát triển được những khái niệm công cụ và hệ thống lý luận riêng của mình, xã hội học nghề nghiệp cũng sẽ không thể trở thành một bộ môn khoa học (chuyên biệt) được. Nhận thức rõ điều này, xuất phát từ thực t ế và nhu cầu xã hội đối với một bộ môn xã hội học chuyên sâu về nghề nghiệp, các nhà xã hội học trong nửa sau thế kỷ XX đã đặc biệt t ập trung các cố gắng của họ nhằm chiếm lĩnh khu vực trung tâm, thiết yếu cho việc phát triển xã hội học, nói chung, và xã hội học nghề 6
- 7 nghiệp, nói riêng như đã được trình bày ở trên. Dưới đây, ta sẽ điểm qua một số những tác giả và tác phẩm kinh điển của giai đoạn này. E. Durkheim Theo tác giả này, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự kiện xã hội. Khi đó, ta có thể nói, xã hội học nghề nghiệp là một bộ môn xã hội học nghiên cứu về các sự kiện nghề nghiệp xã hội. Hơn nữa, nếu nói xã hội tạo ra con người bằng cách tạo ra và duy trì những giá trị, chuẩn mực và khuôn mẫu hành vi xã hội thì, cũng vậy, ta có thể nói: mỗi nghề đều tạo ra con người/chủ thể riêng của nó bằng cách tạo ra và duy trì những giá trị, chuẩn mực và hành vi nghề nghiệp riêng, đặc thù. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh: nếu như trong mỗi xã hội đều có những khác biệt giữa các ngành/nghề thì, tương tự/hơn nữa, cũng sẽ có rất nhiều khác biệt nếu như ta so sánh những người làm cùng một ngành/nghề nào đó ở trong những xã hội khác nhau1. Từ giác độ lý luận, đóng góp lớn của E. Durkheim là việc ông đã đưa ra được những khái niệm công cụ có tính hiệu quả cao như hợp đồng xã hội, đoàn kết xã hội, việc định nghĩa/phân biệt đoàn kết hữu cơ (ĐKHC) và đoàn kết cơ giới (ĐKCG). Như vậy, nếu ĐKCG dựa trên sự tương đồng giữa các chủ thể thì ĐKHC lại dựa trên những khác biệt mang tính bổ sung của chúng. Cặp hai khái niệm này không chỉ cho phép mô tả mà còn cung cấp thêm một phương thức lý giải cho sự vận hành của các quan hệ xã hội, nhất là trong các phạm vi việc làm nghề nghiệp xã hội. Một mặt, tương đồng là cơ sở của ĐKCG, tạo nên sự cố kết ở bên trong một nhóm song cũng chính nó làm gia tăng sự khác biệt của nhóm; mặt khác, khác biệt mang tính bổ sung là cơ sở của ĐKHC, lại cho phép gắn kết những nhóm khác biệt, làm gia tăng hiệu quả hoạt động chung của họ. VD. Nghề thầy thuốc và thầy giáo có những giá trị, chuẩn mực cũng như khuôn mẫu hành vi rất khác biệt so với các ngành nghề khác ở Việt Nam, nhưng điều đó không hẳn đã rõ ràng như vậy ở các xã hội phương tây. Và, ngay ở Việt Nam, trong khi đi từ một xã hội truyền thống sang hiện đại, những yếu tố này cũng đã có rất nhiều biến chuyển và thay đổi theo hướng đi xích lại gần hơn đối với những ngành nghề khác. Nghề dạy học: có những cụm từ nội hàm/ý nghĩa đã/đang thay đổi rất nhiều như quân sư phụ; nhất tự vi sư, bán tự vi sư hay cô giáo như mẹ hiền. Tương tự, ở nghề y có cụm từ lương y như từ mẫu. M. Weber 1 Do vậy, xã hội học nghề nghiệp, núi riêng, và khoa học xã hội, nói chung, không thể là những lĩnh vực có thể nhập hàng « cả gói » từ nước ngoài m ột cách giản đơn thuần túy được. Nên chăng, cần nói tới một qui tr ình chuyển giao, tương tự như chuy ển giao công nghệ, nếu ta kỳ vọng về một bộ m ôn xã hội học nghề nghiệp trong tương lai có cả tính dân tộc và hiện đại (ở Việt Nam ). 7
- 8 Xã hội học là khoa học nghiên cứu về hành động xã hội2. Theo ông, hành động (của con người) tạo ra xã hội. Chính bằng các hoạt động3 của mình, con người tạo ra xã hội. Nếu theo tác giả xã hội được tạo nên do bởi hành động xã hội thì, tương tự, ta cũng hoàn toàn có thể nói rằng: nghề nghiệp (xã hội) được tạo nên do bởi hành động/hoạt động (nghề nghiệp) xã hội. Và do bởi tuyệt đại đa số, ai trong xã hội cũng có một nghề, cho nên, xã hội có thể được xem như là một tổ hợp hay sự tổng hợp của tất cả các ngành nghề hay các nhóm nghề hiện hữu chính ở trong lòng của nó. Hành động được xem là có mục đích/có chủ đích. Một mặt, hành động thường được gắn với những hoạt động tổ chức và mặt khác, tổ chức cũng có khi được xem như một dạng hành động riêng, đặc thù4. VD ở nhà trẻ, trẻ em tham Comment [TAQ1]: gia trò chơi đi thành vòng tròn với sự hướng dẫn của cô giáo. Ta có thể nói về một hình thức tổ chức xã hội, tổ chức này chỉ tồn tại cho tới khi cô giáo nói ‘giải tán’, hoặc khi vòng tròn bất ngờ bị đứt do một đứa trẻ đang đi bị vấp ngã. Thực tế, ở mỗi lĩnh vực hoạt động, như trồng lúa, chăn nuôi hay làm thủ công đều có những qui tắc/qui định riêng giành cho các chủ thể/thành viên của họ, trong quan hệ với nhau in-group cũng như với thành viên của những lĩnh vực hoạt động (nghề nghiệp) khác beetwen-groups. VD. Nghề gia truyền: qui định chỉ được truyền dạy lại cho các thành viên của gia đình/nhằm mục tiêu bảo vệ/duy trì bản quyền/độc quyền sản phẩm của họ. « Truyền nghề trong phạm vi gia đình » hay « gia truyền » là một hành động (nghề nghiệp) xã hội và ta có thể nói : chính nó là một lý do tạo nên « nghề gia truyền ». Nếu hành động đó không còn được tiếp tục thực hiện thì nghề đó cũng sẽ không còn là truyền thống/gia truyền nữa. Như vậy, gia truyền là nghề được và chỉ được truyền dạy trong phạm vi gia đình. Điều này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: « gia truyền » kéo theo hàng loạt quan hệ xã hội khác : hạn chế hôn nhân, thậm chí chỉ giới hạn trong phạm vi một làng/họ tộc hay dòng họ. Đó là hiện t ượng nội hôn và dễ thấy là điều này gắn với một mức độ/buộc phải duy t rì một khoảng cách nhất định giữa bên nội/được phép truyền dạy nghề và bên ngoại/không được phép truyền dạy, dẫn tới kết cục tất yếu là sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái, con dâu và con rể v.v. Tuy nhiên, để có được khoảng tự do cần thiết, người ta có thể tiến hành xây dựng một khái niệm chung về nghề bắt đầu từ ngôn từ/ngôn ngữ đời thường và từng bước sẽ định hình vào những khuôn khổ cần thiết, sao cho phù hợp được 2 Chú ý phân biệt với hành vi : những gì con người biểu hiện ra bên ngoài và có thể quan sát được. 3 Hoạt động [TĐTV, 453] là tiến hành những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm một mục đích nhất định trong xã hội. 4 Xem G. de Terssac [] 8
- 9 với những mục tiêu và phương tiện mà người nghiên cứu có trong tay ở những tình huống/thời điểm cụ thể. 2. Khái niệm và th uật ngữ 21. Khái niệm chung Thế nào là nghề, nghiệp? - Nghề nghiệp là gì? Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường gặp những câu như: - Làm đúng ngành, đúng nghề; đúng ngành nghề đào tạo; - Theo nghiệp bố/theo nghề nghiệp gia đình; - Có công danh sự nghiệp, công thành danh toại. Người ta thường kỳ vọng/muốn có: - Việc làm có tiền đồ, có tương lai nghề nghiệp; - VL cho phép phát huy được sở trường, năng lực của mình; có niềm vui và sự say mê nghề nghiệp; /gắn bó, say mê, ham thích - cái nghiệp văn chương nó thế/ Vậy, nghề là gì? Thế nào là một nghề? Theo Từ điển tiếng việt (TĐTV): 1/ công việc chuyên làm; công việc được một người thực hiện trong một thời gian dài theo sự phân công lao động xã hội (dài như thế nào), tìm thấy trong các cụm từ: nghề nông, nghề buôn bán nhỏ/tiểu thương. 2/ việc làm được thực hiện một cách t hành thạo; thực hiện với chất lượng cao, tìm thấy trong các cụm từ: thành nghề, rất nghề, diệu nghệ/kỹ năng, kỹ xảo cũng t heo Từ điển tiếng Việt thì nghiệp là: 1/ Nghề làm ăn, sinh sống (nghề chủ yếu) 2/ Cách nói khái quát: nghề nghiệp. Mặt khác, trong tiếng Anh và tiếng Pháp, ta có một số nghĩa để so sánh như sau : 1/ Việc làm: emploi; occupation 2/ Nghề, nghề nghiệp: vocation, profession; beruf 3/ Lao động: work; travail Xét về mặt từ nguyên, một số tác giả cho rằng: bởi vì vocation có hai nghĩa: (a) nghề/nghề nghiệp và (b) thiên hướng (VD có thiên hướng về nhạc, hoạ) cho nên nghề/nghề nghiệp có mối liên quan đến thiên hướng. Tương t ự, profession cũng có hai nghĩa: (a) nghề/nghề nghiệp và (b) sự tuyên bố/lời công bố (VD tuyên bố đi theo đạo thiên chúa), do vậy nghề/nghề nghiệp có thể có liên quan đến một sự lựa chọn được công khai tuyên bố. Nếu kết hợp các nghĩa đó lại thì, từ trong xuất xứ của nó, nghề/nghề nghiệp dường như có ý bao hàm cả hai khía cạnh “thiên định” và “nhân định”. 9
- 10 Do tính quốc tế của (bất kỳ) một bộ môn khoa học (nào), ta cần xem xét kỹ hơn việc vận hành/sử dụng những khái niệm/thuật ngữ này trong phạm vi xã hội học nghề nghiệp ở những ngôn ngữ phổ dụng như tiếng Anh và tiếng P háp. 211. Khái niệm nghề nghiệp và xã hội học nghề nghiệp ở Pháp5 (1) Ti ếng Pháp dùng t heo những nghĩa khác nhau: nghề chăm sóc phần hồn (tu sĩ); (l àm) nghề tự do so sánh với nghề (làm) công chức; nghề xét theo chuyên môn (thợ hàn, thợ cơ khí); nghề được ghi trong các giấy t ờ, văn bản hành chính hay các bản kê khai xuất nhập cảnh (thường bao gồm các mục như: họ và tên, nghề nghiệp). (2) Xu thế phát triển lý thuyết : ở Pháp là các bộ môn Xhh Lao động và Xhh Tổ chức l uôn rất mạnh và thể hiên rõ như vốn có t ừ trước ; ngược l ại, ở Anh-Mỹ Xhh Nghề ngiệp luôn tồn tại như một bộ môn riêng, với những hội thảo, ấn phẩm, lý luận và những tranh luận riêng, đặc trưng. Do vậy, ở Pháp, người ta thường nói Xhh nghề nghiệp (kiểu) Anh-Mỹ. (3) Tại các nước anglo-saxon, các văn bản pháp qui thường phân biệt /phân hoá một tổng thể những hoạt động được gọi là nghề nghiệp , những lĩnh vực mà ở đó có mặt những qui tắc (nghề nghiệp) riêng, một mặt cho phép tạo lập nên những hiệp hội tự chủ được thừa nhận, đồng thời l à việc ngăn cản /cấm đoán/ các hoạt động cùng loại đối với những người không phải là thành viên ; mặt khác, các hoạt động còn l ại đều được gọi là việc làm mà những người thực hiện thì chỉ được quyền tạo lập nên /nghi ệp/ công đoàn (4) các nghiên cứu tiên phong về nhóm nghề nghiệp ở Pháp : t rước đó, 1960-70, chỉ có rất ít bài viết nói về xu thế XhhNn Anh-Mỹ, thường phê phán l à chủ yếu. Từ giữa những năm 1980, với các nghiên cứu t iên phong về nhóm nghề nghiệp, không phân biệt mà bao hàm luôn cả việc làm&nghề nghiệp, chị u nhiều ảnh hưởng của trường phái C hicago (Hughes, Becker, Strauss ). Tiếp t heo những bài viêt mang tính tổng hợp, với “cú hích” là một số đặc biệt của tập san Tổng quan Xã hội học (Review Français de Sociologie, 1986), những nhóm nghề đặc biệt đã xuất hiện ngày một nhiều trong các nghiên cứu : hiện tượng các corporation hiện đại (D. Segrestin, 1984) ; người làm công trong các lĩnh vực buôn bán hải sản (C. Paradeise, 1985), hoặc về người l ao động trong các lĩnh vực giao t hông vận tải – 1983. các nghiên cứu nhìn chung đều sử dụng thuật ngữ Xhh các nhóm nghề nghiệp, được t hể chế hoá bởi được dùng làm tên gọi cho một nhóm nghiên cứu mới xuất hiện trong tổ chức Hiệp hội Xhh Quốc tế từ năm 1994. (5) Chú ý những khác biệt về thuật ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Pháp. 212. Trong tiếng Anh Ngay trong phạm vi tiếng / ngôn ngữ Anh-Mỹ, thuật ngữ NN đã có sự khác biệt đáng kể, không t hống nhát về nội hàm của khái niệm, mang những ý nghĩa đôi khi còn trái ngược nhau. Như vậy, có một số hoạt động như việc làm chuyên gia và ki ểm toán trong suốt một thời gian dài, cho t ới t rước Đại chiến thế giới II, không hề được xem l à một nghề. Chỉ bắt đầu từ sau ĐCTGII, lúc đầu là ở Anh và sau đó mới là ở Mỹ mới được xem như một nghề. Một số công việc như việc làm bà đỡ (đỡ đẻ, bà mụ) tuy được thừa nhận ở Anh nhưng lại không được thừa nhận ở Mỹ. 5 Xem C. Dubar và N. Tripier, Sociologie des professions, Armand Colin, Paris, 1998 10
- 11 Một số việc l àm khác, t rong một thời gian dài được gọi là nghề và sau đó l ại không được gọi như thế nữa. Từ những biến động về không gian và t hời gian như vậy, người ta có thể đặt ra câu hỏi: - Đi ều gì làm cho một hoạt động lao động nào đó được gọi là nghề? - Đi ều gì cho phép một nhóm nghề nghiệp (nhóm người cùng l àm một công việc occupational group) nhận được cho các t hành viên của nhóm những đặc quyền đặc lợi gắn với nghề của họ, vị t hế xã hội mà họ có do việc làm, được gọi là nghề? Điều t ất yếu là ý kiến của các nhà xã hội học, từ một phí a và từ phía bên kia, ý kiến của các nhà sử học hay luật học, sẽ khác xa nhau và chính vấn đề nêu đị nh nghĩa thế nào là một nghề sẽ nằm ở tâm điểm của sự bất đồng đó. Trong thực tế, dường như đã có một thời gian, ở Mỹ, người ta đã thừa nhận một định nghĩa “chính t ắc” với 6 nét đặc trưng chung cho tất cả các nghề (Flexner, 1915; Cogan trích dẫn, 1953) như dưới đây: Định nghĩa của Flexner (1915) bao gồm 6 thành tố : (1) Nghề nghiệp là thực hiện những t hao tác trí tuệ gắn với những trách nhiệm lớn của cá nhân; (2) Nền tảng /vật chất của nghề nghiệp được kiến tạo từ khoa học và tri thức lý luận; và nó (3) bao gồm những ứng dụng rất thực tế và hiệu quả và /những cái đó (4) có thể chuyển giao thông qua /quá t rình giảng dạy /kiến thức, kỹ năng đã đúc kết được; (5) Nghề nghiệp có xu thế hướng tới việc tự mình tổ chức thành những hiệp hội; (6) Các thành viên của họ có cùng một động cơ/mục tiêu chung là ‘vì kẻ khác’ (vị tha). Chú ý: như vậy, nếu theo tác giả Flexner thì công tác xã hội không phải l à một nghề do bởi (vào thời của ông) họ không có được một tổ chức nghề nghiệp riêng của mình. Trở l ại ví dụ đã nêu ở trên, trong khi ‘các bà mụ - đỡ đẻ’ được xem là một nghề ở Anh thì lại không được thừa nhận là một nghề ở Mỹ; làm chuyên gia hay kế toán chỉ được t hừa nhận l à nghề tự do sau ĐCTGII, đầu tiên ở A nh và sau đó mới là ở Mỹ. Điều này cho thấy có nhiều những tì nh tiết mang tính địa lý và lịch sử trong các vấn đề /lý luận/ về nghề nghiệp. Từ đó, những câu hỏi được đặt ra: Cái gì làm cho một công việc lao động được thừa nhận là một nghề? Cái gì làm cho một nhóm việc làm trở thành nghề nghiệp, hiểu t heo nghĩa là họ có một (khu vực) địa vị cùng với những quyền lợi và nghĩ a vụ ri êng đặc thù trong xã hội? Câu trả lời xét từ các giác độ lịch sử, pháp lý hay xã hội học hẳn là phải có sự khác biệt, từ đó rõ ràng cần phải đặt ra vấn đề định nghĩa cho thuật ngữ chuyên môn quan trọng này. Xu thế: ngày nay, quan niệm về nghề nghi ệp dựa trên các sự kiện (nghề nghiệp), theo nghĩa mà E. Durkheim đã đưa ra (1902), có vẻ bị lấn lươt bởi quan niệm dựa trên các chức năng/tương tác (nghề nghiệp), nhất là ở Mỹ. Cần chú ý thêm là, ngay những tác giả viết bằng tiếng Pháp cũng nêu ra vấn đề : do tính đa dạng của thực tiễn việc làm nghề nghiệp (về địa lý, lịch sử hay t hiết chế chính trị) mà việc dị ch thuật/chuyển đổi một cụm tư/khái niệm giữa các ngôn ngữ trở nên rất phức tạp. Thực tế, 11
- 12 người t a thường cũng chỉ biểu hiện/chuyển tải được một số ý nghĩ a, một số khía cạnh ri êng nhất định của chúng. Như vậy, trong tiếng Pháp có cụm từ nghề tự do, luật và y được xem là hai nghề tiêu biểu cho nghề tự do. Tuy nhiên, t rong xã hội Mỹ, các nghề này lại được xem như là những nghề tiêu biểu: dù rằng các thành viên ở các nghề này vẫn t iếp tục gắn kết trong các hiệp hội của mình nhưng, đã t ừ rất lâu rồi, họ không còn hành nghề một cách ‘tự do’ nữa; và hơn nữa, nhiều nghề ở Mỹ hiện nay thậm chí hoàn toàn chỉ bao gồm những người ‘làm công ăn lương’ mà thôi. Trong bối cảnh này, có lẽ là thuật ngữ ‘nghề được t hiết lập’ hay ‘nghề được tổ chức’ như kiến nghị của Dubar&Lucas, 1994, t ỏ ra t hích hợp hơn cả mặc dù chúng cũng chỉ phản ánh được một số khía cạnh nào đó nhất định của nghề nghiệp. C ụm từ nghề trí thức có thể là phù hợp trong một số trường hợp, tuy nhiên, lại có một số lĩnh vực hoạt động trí thức chuyên nghiệp, VD như trong lĩnh vực gi ảng dạy ở Pháp, l ại đã không t hành công được trong việc hướng tới một t ổ chức nghề nghiệp. Như vậy, cụm từ ‘nghề trí thức và tự do’, như Kramas đã sử dụng (1991), tỏ ra quá phức t ạp mà cũng vẫn không thể loại trừ được những sự mập mờ, t hiếu chuẩn xác, t ương tự như trong những cụm từ khác được dung như đã nêu ở phần trên. Tuy nhiên, thuật ngữ ‘nghề’ trong các từ điển tiếng Pháp (như Littré, Larousse, Robert), dù cho có những điểm khác biệt, vẫn cho phép ghi nhận được những sự tương đồng, tập trung xung quanh ba ‘khu vực nghĩa’, có 3 ý nghĩa, 3 phạm vi ngữ nghĩa và có 3 cách dùng: (1) Nghề được hiểu như một điều gì đó được tuyên bố, là một thông báo công khai (trước công chúng) và điều này thường gắn với một dạng niềm tin chính trị hay t ôn giáo (như việc tuyên thệ, chấp nhận/theo đạo hay việc tham gia một giáo phái nào đó), tương tự như thuật ngữ vocation trong tiếng Anh hay Beruf trong tiếng Đức. (2) Nghề là công việc hay việc làm mang lại (nguồn) thu nhập. Như vậy, người mẹ làm nội trợ trong gia đình thường bị xem là không nghề nghiệp vì họ không được trả công (bằng tiền, hiện vật); người thất nghiệp cũng vậy, bởi vì tìm việc không thể được xem là việc làm, nhưng ở trường hợp này người ta có thể nói về nghề “gần nhất” (cho tới trước khi bị thất nghiệp) của người đó. (3) Nghề còn có thể được hiểu là một tổng thể, bao gồm tất cả những người cùng đang thực hiện một ‘nghề’, một lĩnh vực việc làm nhất định. Lúc này, ‘nghề’ rất gần với nghĩa là một nhóm xã hội, được xác định t heo những dấu hiệu chung, theo tên gọi của ‘nghề’ đó hoặc là theo hệ thống địa vị nghề nghiệp xã hội mà họ cùng chia sẻ (VD Nghề sản xuất gốm sứ trang trí; kinh doanh vật liệu xây dựng; tổ chức các chủ doanh nghiệp /ngành/ sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng). Dẫu vậy, ta vẫn cần phải nhận ra những thách thức đặt ra cho việc định nghĩa nghề: Dù có liên quan chặt chẽ với xã hội học lao động và xã hội học tổ chức, từ đó có những sự trùng lắp khó tránh, nhưng rất nhiều tác giả vẫn đi đến một mối quan tâm chung là cố gắng trình bày vấn đề nghề/nghiệp dựa trên 3 luận điểm về 12
- 13 nhận thức, tình cảm và cống hiến, hoặc là trên 3 phương diện kinh tế, chính trị và đạo đức/văn hoá như dưới đây: (1) Nghề nghiệp là một trong những hình thức tổ chức xã hội có bề dày lịch sử. Đó cũng là những hình thức phân loại các hoạt động lao động, chúng có vai trò phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước và người lao động. Kể t ừ thời của Durkheim, nghề nghiệp được xã hội học nhìn nhận như những “nhóm trung gian”, có vai trò trung chuyển/kết nối người lao động và Nhà nước của họ. (2) Nghề nghiệp là những hình thức (cho phép) cá nhân tự hoàn thiện, là những khuôn khổ xã hội, một mặt cho phép định vị nhân thân một cách chủ quan và, mặt khác là để biểu thị các giá trị văn hoá và đạo đức xã hội. Xuất xứ tôn giáo của thuật ngữ profession ở phương tây (là nghề nghiệp hay sự tuyên thệ) khiến xhh phải đặt câu hỏi về các ý nghĩa chủ quan của hoạt động lao động, về những liên hệ năng động giữa (lối sống) cá nhân và (đời sống) nghề nghiệp mà, kể từ thời của Max Weber, đã trở thành một trong những vấn đề trung tâm của Xhh. (3) Nghề nghiệp còn là những hình thức liên minh (có tính lịch sử) mà các t ác nhân/chủ thể xã hội sử dụng nhằm để bảo vệ quyền lợi của họ, bằng các biện pháp như khép kín thị trường lao động, bảo vệ độc quyền hoạt động (hành nghề), duy trì một khu vực khách hàng cũng nh ư một kiểu loại việc làm ổn định, có thu nhập cao, được xã hội đánh giá và coi trọng. Tuy nhiên, cũng chính những thách thức kinh tế (này) khiến cho Xhh phải đặt ra câu hỏi về sự phù hợp giữa nghề nghiệp và thị trường, về tương lai của các nghề trong một nền kinh tế thị trường ngày càng duy lý hơn và mang tính toàn cầu nhiều hơn. Từ những thực tế như đã nêu ở trên, xhh nghề nghiệp đặt ra ba mục tiêu nghiên cứu lớn cần hướng tới và để làm được điều này thì cần phải huy động được rất nhiều những nỗ lực chung của nhiều người: (1) nghiên cứu các tổ chức lao động (2) các ý nghĩa mà tác nhân/chủ thể gán cho lao động của mình và (3) các phương thức cơ cấu khác nhau, nhằm kiến tạo hay tái tạo (lại) thị trường lao động. T rong số đó, mục tiêu (3) tỏ ra đặc biệt thiết thực trong bối cảnh chung hiện nay: chẳng hạn, câu hỏi về ảnh hưởng của việc thả lỏng qui chế đối với các hoạt động kinh tế (tác động như thế nào tới công ăn việc làm, nghề nghiệp), câu hỏi về việc du nhập logic thị trường vào phạm vi các hoạt động nghề nghiệp (vốn dựa trên logic cộng đồng), những câu hỏi về nhân thân nghề nghiệp của nhóm những người “làm công ăn lương” ngày một trở nên đông đảo hơn, một trong những hiện tượng xã hội có xu thế ngày càng trở nên phổ biến, đồng thời cũng trở nên phức tạp hơn, đa dạng hơn và đặc biệt là chúng luôn biến động, dường như ngày một nhanh hơn. 213. Xây dựng khái niệm (working concept) 13
- 14 Từ những tiền đề lý luận và thực tiễn được nêu ở trên, ta có thể đưa ra một định nghĩa, ngầm hiểu là nó sẽ còn có t hể được điều chỉnh, nhằm nâng cao tính hợp lý cũng như là hiệu quả. Định nghĩa: Nghề là việc làm, được một người chuyên làm trong một thời gian (tương đối) dài, được người đó thực hiện một cách thành thạo, có chất lượng và có hiệu quả. Thực tế, ở trong định nghĩa này, người ta nhận thây có những yếu tố còn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, khi trả lời các câu hỏi đặt ra như dưới đây, người ta có thể chuyển từ một định nghĩa theo/bằng giá trị (Dv) sang một định nghĩa (Dn) mang tính chuẩn mực về nghề nghiệp: (Dn1) công việc (chủ yếu/chuyên làm) được thực hiện trong một thời gian dài: - Dài là bao lâu? (Dn2) công việc (chủ yếu/chuyên làm) được thực hiện một cách thành thạo : - Thành thạo như thế nào? (Dn3) công việc (chủ yếu/chuyên làm) được thực hiện một cách có chất lượng/hiệu quả: - Chất lượng và hiệu quả đến đâu? Ta chấp nhận định nghĩa Dv với các mức độ đánh giá còn để ngỏ, còn chưa thực sự được làm rõ là nhằm để, một khi cần thiết, khi gặp những đối tượng nghiên cứu cụ thể xác định, chính điều đó sẽ cho ta cơ hội gắn nghề cần mô tả với những khuôn khổ định dạng/thang đo phù hợp, để đánh giá/nói về mức độ chuyên nghiệp (của một nghề, để đi tới một định nghĩa Dn) và/hoặc mức độ thành nghề hay mức độ lành nghề của một người nào đó ở trong nghề này. Chú ý: Với định nghĩa này, một mặt, nghề sẽ bao hàm tất cả các đặc t rưng của việc làm và, hơn nữa, đó còn là những dạng/l oại hình vi ệc làm riêng/đặc thù; mặt khác, quan niệm nghề ở đây chủ yếu chỉ đề cập đến phương di ện ‘hành nghề’ mà ít đề cập đến (quá trì nh/giai đoạn) học/đào tạo (trước khi hành) nghề. Một số câu hỏi có thể đặt ra là: (a) Mô hình đào tạo (đào tạo nghề thường dựa trên một m ô hì nh nghề cụ thể nào đó, với những) sai lệch/tương ứng đến mức độ nào so với nghề thực tế hiện hữu trong xã hội? (b) Ngay cả khi mô hình nghề tỏ ra phù hợp t ốt với t hực tế xã hội thì vẫn còn đó câu hỏi về cách thức đánh giá/xác nhận của (chương trình) đào tạo: Bằng cấp có phản ảnh được một cách khách quan, có phản ánh đúng được (đúng đến đâu?) mức độ tiếp thu, khối l ượng kiến t hức và những kỹ năng hành nghề đã tí ch lũy được của người học? Những câu hỏi rất khó nhưng cũng rất cần phải có được câu t rả lời chắc chắn, một khi xuất hiện nhu cầu tuyển dụng (sắp xếp/trả công cho) lao động. Những khía cạnh cần làm sáng tỏ (những vấn đề đặt ra): 14
- 15 (1) Nghề là một loại hì nh việc làm: Nghề là một loại việc l àm, một phạm vi (những) việc làm. Như vậy, để mô tả một nghề người ta cần phải (a) liệt kê/chỉ ra tất cả những việc l àm hiện có ở trong nghề đó và (b) chứng tỏ rằng những việc làm này t ạo nên được một phạm vi đặc thù riêng của nghề. Hơn nữa, nếu như muốn nói về (các) nghề nghiệp (hiện có t rong) xã hội, người ta cần phải tiến hành phân loại (tổng thể) các việc làm xã hội, để đưa chúng vào những khu vực/phạm vi ri êng và khác biệt với nhau. Những công việc như vậy liệu đã/có thể được ti ến hành thực hiện như t hế nào? (2) Nghề là một thực thể xã hội Có sự sai lệch đáng kể giữa (hệ thống) nghề nghiệp hiện hữu t rong xã hội và (hệ thống) được ghi nhận trong các văn bản chính thức (VD. Tổng cục thống kê, B ộ lao động); gi ữa cách thức và tiêu chí phân loại, một bên là các cơ quan của Việt Nam và, bên kia là các tổ chức quốc tế ; trong nước/nước ngoài (thường rất phức tạp). Làm t hế nào để ghi nhận/phân tích và chỉ rõ được mức độ ảnh hưởng của những sai khác đó. VD việc xây dựng thang/bảng lương trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài dựa trên những tiêu chí gì của việc làm. Nói chung, vấn đề này đòi hỏi phải đề cập t ới các chiều cạnh chính trị, kinh tế, văn hoá của việc làm; chú ý đến “các chiều” như không gian, thời gian hay tính biểu t ượng, và cội nguồn lịch sử như một chiều cạnh riêng, đặc thù (bối cảnh, quá trình hình thành, vận động và phát triển t hông qua nhiều giai đoạn của mỗi ngành/nghề hay vi ệc làm cũng như là những thang/ bảng lương được gắn với chúng). (3) Nghề là một thực thể phát triển Câu hỏi: Khi nào một (phạm vi) việc làm (những việc làm loại gì, phát triển đến mức độ nào thì) có thể được xem như một nghề? Bài tập: Mô t ả một nghề nào đó và (nhất là) làm rõ các đặc trưng của nghề này so với những nghề khác. VD Nghề y/nghề dược, nghề thủ công mỹ nghệ (gia truyền hay truyền thống). 3. Nhữn g tiền đề của XHHNN 31. Sự phát triển của xã hội công nghiệp Máy hơi nước Kỷ nguyên phát triển công nghiệp thường được tính từ khi phát minh ra động cơ chạy bằng hơi nước. MHN đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với xã hội : mở đầu qua strình cơ giới hoá cho lao động, sức máy dần thay thế cho sức lao động nặng nhọc của con người và, đồng thời, đòi hỏi/làm tăng t hêm hàm lượng tri thức, chất trí tuệ trong lao động. MHN là biểu tượng của thành tựu khoa học kỹ thuật : những người được tiếp cận/làm việc với MHN và những người khác. Để làm việc với máy móc/điều khiển được máy móc – phải qua đào tạo, bắt đầu phân hoá lao động có/khôn g được đào tạo;phân biệt lao động giản đơn và lao động kỹ thuật. 15
- 16 Phát triển khoa học và công nghệ/kỹ thuật So sự hoàn thiện máy móc, công cụ lao động ; sự mở rộng phạm vi ứng dụng chúng mà nhu cầu đào tạo tăng lên, để đáp ứng cả về số lượng người lao động và (phân cấp) trình độ học vấn/dầo tạo - chất lượng lao động. Biểu hiện: các trường/lớp dạy nghề; cả đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật. Xuất hiện (hệ thống) các văn bằng, chứng chỉ xác nhận trình độ. Phát triển hệ thống đào tạo Việc truyền dạy nghề theo trường lớp rõ ràng là có tính hệ thống, khoa học, bài bản, qui củ hơn và (lại) được kiểm tra bằng những hình thức thi cử khách quan, chính xác hơn. Đào tạo được thể chế hoá, trở thành những qui trình: qui trình đào tạo, qui trình kiểm tra, đánh giá, sát hạch. Hình thành hệ thống các văn bằng, chứng chỉ nghề nghiệp và tập trung dần vào trong tay nhà nước: vai trò của nhà nước/xã hội trong phát triển nghề nghiệp. Đào tạọ được xã hội hoá: gia đình, hội đoàn nghề nghiệp, nhà nước. 32. Đọc thêm 4. Nhữn g nghiên cứu gần đây 41. Nghiên cứu của Abbott Abbott (Hệ thống nghề nghiệp, 1988): tổng quan các nghiên cứu xhh về NN, tiếp nhận đánh giá một cách phê phán các nghiên cứu này và từ đây kiến nghị/đề xuất mô hình (scheme) lý thuyết của mình về nghề nghiệp. Ông đã có 3 khảo sát /nghiên cứu trường hợp (case studies)/ về việc làm chuyên nghiệp (chuyên gia expert occupation): những việc làm liên quan đến thông t in, luật pháp và các vấn đề săn sóc cá nhân. [ ] Abbott khởi phát từ câu hỏi đậm nét truyền thống xhh của trường phái Chicago: “những người trong nghề đang làm/thực hiện loại lao động gì?”. Tập trung sự chú ý vào chỗ làm (workplace), trước tiên là ở bệnh viện, ông muốn tìm hiểu “xem điều gì đang diễn ra ở đây” (what is going on there). Tầm quan trọng của lao động nghề nghiệp và những đòi hỏi kiên quyết đối với một số loại hình lao động (đó nhất định phải là lao động chuyên nghiệp!) đã hướng Abbott tới kết luận rằng “ sự kiện nền tảng của cuộc sống nghề n ghiệp chính là sự cạnh tranh giữa các nghề (và rằng) tranh luận về quyền tài phán (juridiction)6 là một thực tế và nó có ảnh hưởng quyết định đến quá trình phát triển nghề”. Nói về mối quan hệ có t ính lịch sử như vậy ( ) dường như Abbott cũng chỉ có ý muốn nhấn mạnh các khía cạnh cơ cấu /xã hội, bởi vì ông viết “cuốn sách này (của tôi) được tổ chức theo 6 Giới hạn các quy ền và nghĩa vụ ; quyền hạn, thẩm quyền. Tiền lệ được (một) toà án thừa nhận, tiếp đó, được nâng cấp thành tiêu chuẩn pháp lý để phán xử các hiện tượng tương tự xảy ra kể từ đó về sau. 16
- 17 hướng đi từ tiếp cận cá nhân tới /quan điểm/ tiếp cận hệ thống về nghề nghiệp”, là đúc kết lý luận về hệ thống các quan hệ nghề nghiệp và phân tích ảnh hưởng của các nhân tố tác động từ bên ngoài tới hệ thống này. Tuy nhiên, tác giả Abbott không có ý chỉ ưu tiên nhấn mạnh chủ thể là cá nhân hành động /actor/ hay hệ thống /systeme/, nhấn mạnh hành động /action/ hay cơ cấu /structure/ trong các quan hệ phụ thuộc ở mỗi cặp vi mô - vĩ mô mà có ý muốn kết hợp hài hoà các yếu tố này. Điều chỉnh, thay đổi mô hình lý thuyết /XhhNn lúc này/ là cần thiết bởi, theo ông, tất cả các nghiên cứu XhhNn, một mặt, đều ít nhiều hướng tới chủ đề nghề nghiệp hoá và mặt khác, chỉ bao hàm một phân đoạn nào đó của quá t rình này.Thế nhưng, nghề nghiệp hoá thì bị (người nghiên cứu) hiểu sai lệch (misleading) còn việc (họ) khái quát hoá quá trình từ những phân đoạn riêng lẻ thì lại tỏ ra không t hích hợp về mặt phương pháp luận. Để xây dựng cơ sở lý luận cho việc phê phán này và để thuyết minh cho đề x uất của mình, Abbott đã xếp sắp và phân loại các nghiên cứu Xhh về “nghề nghiệp hoá”/NNH theo hai cách. Đầu tiên, ông chỉ ra rằng các quan niệm về NNH thay đổi tuỳ theo các tiêu chí hình thức được chọn (từ tác giả này đến tác giả khác) và tiếp đó, đã chỉ ra những khác biệt lớn, những khác biệt quan trọng giữa các quan niệm này. Như vậy, Abbott đưa ra ví dụ về những khác biệt xét theo tiêu chí “hình thức” - đặc trưng bởi những tác giả: 1. Nghề nghiệp hóa là một chuỗi kế tiếp các phân đoạn – Wilensky (1964); 2. NNH là một phân đoạn các chức năng - Caplow (1954); 3. Mỗi trường hợp NNH đều là duy nhất – Millerson (1964) ; 4. T ừng giai đoạn NNH kế tiếp cho tới trạng thái bền vững – Larson (1977). Tuỳ theo những khác biệt lớn trong những quan niệm khác nhau về NNH, Abbott đã xếp sắp chúng thành 4 nhóm : t huyết chức năng, thuyết cấu trúc, thuyết độc quyền và thuyết văn hoá. Công việc sắp xếp lại và phân loại như vậy đã thu h út được sự chú ý tới cơ sở lý luận, những điểm tương đồng và khác biệt của các nghiên cứu về nghề nghiệp, về quá trình NNH, và đồng thời kiến nghị một mô hình lý thuyết mới. Lý thuyết này lấy tiêu điểm là lao động. Đó là nội dung LĐ, kiểm soát LĐ và phân hoá LĐ, những nhân tố làm bộc lộ rõ hiện tượng phân công VL trong nội bộ mỗi nghề, trong sự cạnh tranh và xung đột về việc làm với những nghề khác, xung đột và tranh chấp về quyền tài phán (juridiction). Theo Abbott (và Keith M. Macdonald?), hiện tượng trung tâm của đời sống NN chính là mối liên hệ giữa nghề và lao động nghề, liên hệ mà tác giả gọi (theo nội dung) là quyền tài phán. Phân tích sự phát triển NN, theo tác giả, chính là phân tích xem mối liên hệ này được hình thành như thế nào t rong LĐ, nó đã ăn 17
- 18 sâu như thế nào vào trong các cơ cấu xh, chính thức và không chính thức, và để xem diễn biến các liên hệ về quyền tài phán giữa các nghề ảnh hưởng quyết định như t hế nào tới lịch sử phát t riển nghề nghiệp (của những nghề riêng biệt, của những cá nhân/chủ thể ở trong mỗi nghề /individual professions/). Như vậy, Abbott đã tiến hành khảo sát lao động nghề nghiệp và những đòi hỏi của mỗi nghề về quyền tài phán của họ, đẩy lên thêm một bước quan niệm của ông về “hệ thống các nghề”. Từ đó, ông tiến hành khảo sát sự phân hoá tự bên trong của nội bộ mỗi nghề và bối cảnh văn hoá - xã hội của chúng – khởi đầu từ ba nghiên cứu trường hợp (như đã nêu ở trên). 42. Nghiên cứu của Macđonald K.M. Macdonald: Phê phán quan điểm của Abbott, ông cho rằng: 1/ Quan niệm “hệ thống” của Abbott dường như, hoặc là sự biểu hiện của ý niệm hướng đích intentional tiềm ẩn ở bên trong nó (tương tự như “hệ thống pháp lý”), hoặc để chỉ mức độ liên quan và tương tác là đáng kể giữa các thành phần cấu thành hệ thống (tương tự như hệ eco-systeme). Song, chính ra là ở đây lại có sự tương phản: các nghề nghiệp cạnh tranh trên thị t rường nhưng ở đó, một mặt, từng cặp một - chúng có thể hoặc không va chạm với nhau và mặt khác, ở đó có cả cạnh tranh, xung đột và hợp tác, diễn ra một cách phi-hệ thống (non-systematic) với những người ngoài nghề, với khách hàng của họ và với nhà nước. 2/ Về mặt lý luận, khái niệm “hệ thống” thường gắn với cơ cấu và chức năng, những cái mà Abbott đã bỏ qua trước đó, vì cho là chúng không thích hợp. 3/ Khái niệm “hệ t hống nghề nghiệp” - cho dù nó được gắn kết với “quyền tài phán” được (tác giả) nhấn mạnh và gắn với lao động nghề nghiệp, vẫn (dường như) bị tách rời khỏi khía cạnh “giải thích Xhh - aspect of sociological explanation” là cái cốt lõi trong quan niệm của M. Weber, mà cụ thể đó trước hết là những động cơ /motives/ và mục đích /meanings/ của cá nhân/chủ thể hành động /actor/. 43. Nghiên cứu của Burrage (tp.1988; 1990) Một trong những người đã có đóng góp đáng kể, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, vào việc nghiên cứu sự phát triển của việc làm /mang tính/ nghề nghiệp. Trong các nghiên cứu đầu tiên của mình, ông chọn nghề luật và khảo sát mục tiêu mà những nghề này (được xem là khác nhau) đã theo đuổi ở Pháp, Anh và ở Hoa Kỳ. Theo ông, người ta cần phân tích hành vi nghề nghiệp, không phải là bằng cách nắm bắt và xác định động cơ hay lợi ích mà bằng cách quan sát xem họ đã làm gì hay đã cố gắng hành động một cách tập thể như thế nào, căn cứ vào những mục tiêu họ đề ra. VD. Tác giả cho rằng, trong lịch sử nghề luật, ít nhất có bốn mục tiêu (goals) ổn định và là nổi trội hơn cả, đó là: 18
- 19 1/ Kiểm soát các quá trình gia nhập /kết nạp, đào tạo và hành nghề luật; 2/ Khởi thảo, xác lập, phát triển và bảo vệ quyền tài phán (xác định phạm vi, thẩm quyền nghề nghiệp), xác lập phạm vi mà ở đó (chỉ có) họ được phép hành nghề; 3/ Tìm cách áp đặt qui tắc dán nhãn/etiquette/ của họ, áp đặt những giá trị đạo đức /ethics/ và qui tắc ứng xử của riêng họ (nhóm nghề nghiệp) đối với người khác. 4/ Tìm cách bảo vệ và nếu có thể thì cải thiện và nâng cao địa vị xã hội của họ. Những đối tượng - mục tiêu này dường như hoàn toàn tương thích với các phân tích của Larson, ngoại trừ việc ở đây kh“ng hề nhắc đến quyền tự chủ = autonomie còn các mục tiêu kinh tế thì bị /tác giả - Burrage/ loại trừ một cách cố ý. Nhưng, người ta có thể đặt ngay câu hỏi: tại sao họ lại chọn lựa 4 mục tiêu này? Bởi vì, nếu như ý tưởng về độc quyền kh“ng loại trừ khả năng đạt được quyền lực như là mục đích tự thân thì mặt khác, cũng rất khó mà từ chối r”ng nghề luật, cũng như mọi nhóm nghề nghiệp khác, đã và đang vẫn còn quan tâm tới 4 mục tiêu này chính bởi là vì chúng có khả năng bảo đảm sự độc quyền monopoly và bảo vệ tính t ự chủ autonomy để mà (ít nhất có một phần là để mà) khẳng định địa vị kinh tế của họ. Tuy nhiên, việc kh“ng thừa nhận một cách chính thức các chủ đề đó /độc quyền&kinh tế/ kh“ng làm ảnh hưởng tới giá trị các c“ng trình nghiên cứu của Burrage về những thành c“ng và thất bại của nghề luật trong mối tương quan so sánh tình hình ở ba nước Anh, P háp và Hoa Kỳ khi đối chiếu với 4 mục tiêu (goals) mà họ theo đuổi. P hân tích của tác giả đã chỉ ra tầm ảnh hưởng /đối với nghề nghiệp/ của những khác biệt về văn hoá chính trị (political culture) và về kinh nghiệm xã hội rút ra từ thực tiễn cách mạng /tư sản/ diễn ra ở các nước này. Phân tích quá trình theo đuổi mục tiêu, những thành c“ng và t hất bại của nghề nghiệp đặt trong các bối cảnh và điều kiện xã hội khác biệt của ba nước là một sự khẳng định rõ rệt cho luận điểm của tác giả, đồng thời minh hoạ /thuyết minh cho /tiếp cận văn hoá so sánh/, tức là phải đặt nghề nghiệp trong quan hệ chặt chẽ với những khác biệt văn hoá (đặc thù cho mỗi quốc gia). Theo hướng tiếp cận này, tác giả đã đưa ra nhiều dữ liệu chi tiết / / đã chỉ ra r”ng: + cho đến trước thời kỳ cách mạng /t ư sản/, một mặt, nghề luật ở cả 3 nước đã có nhiều nét giống nhau đến ngạc nhiên t rong mục tiêu nghề nghiệp mà họ theo đuổi; họ đã cùng phải đối mặt với một phong trào xã hội, với những cuộc tấn c“ ng có phương châm gần giống nhau l à nh”m thiết lập một trật tự pháp luật mới (new legal order) - cụ thể là “(xã hội có) luật nhưng kh“ng có luật sư”. Nhưng mặt khác, các cuộc tấn c“ng vào giới chức ngành luật lại có khác biệt về hình t hức: những đòi hỏi từ phía cách mạng Pháp l à sự huỷ bỏ toàn bộ các t hiết chế pháp luật hiện hành thời đó - trong khi ở Hoa Kỳ người ta chỉ t huyết phục giới chức ngành luật tạm thời ngừng hoạt động một thời gian; còn ở nước Anh, Nghị viện đã hầu như hoàn t oàn kh“ ng hoạt động. Hậu quả xảy ra đối với các hội đoàn nghề nghiệp ngành luật cũng là khác nhau: ở nước Pháp, các hội đoàn này - ít nhất trong một thời gian ngắn, đã bị triệt tiêu 19
- 20 - còn ở Hoa kỳ, chúng bị khống chế và thậm chí có khi còn bị xoá sổ tới hàng chục năm. Trong khi đó, ở nước Anh, chúng t rải qua các thử t hách một cách bình yên, thậm chí còn được củng cố và trở nên mạnh hơn. Tuy nhận định r”ng cần phải có thêm những điểm bổ sung nhưng nhiều người cũng đồng ý với Burrage và cho r”ng nghiên cứu so sánh (như) của “ng giúp ta hiểu và gi ải t hích được những khác biệt hiện vẫn đang t ồn tại trong nghề nghiệp ở những nước/ cùng với những bối cảnh văn hoá chính trị / khác nhau. Trong một tác phẩm khác, “M“ hình hành động/khung lý t huyết dựa trên hành động xh để nghiên cứu nghề nghiệp”- An actor-based framework for the study of the profession (Burrage et al., 1990), t ác giả đề cập tới bốn (kiểu) actor-hành t hể là người hành nghề, nhà nước, người tiêu dùng và trường đại học. Tuy nhiên, lý thuyết hành động về nghề nghiệp mà “ng (muốn) xây dựng ở đây đã bị phê phán ở một số điểm quan trọng [Macdonald, 19]: 1/ Chân dung người hành nghề chuyên nghiệp, xuất hiện với t ính cách là đối tác cạnh tranh trong m àn kịch xã hội đặc thù (nghề nghiệp) nhưng lại kh“ng được m“ tả với bất kỳ một sự ưu tiên (đặc biệt) nào so với các “ nhân vật” khác, ngoài việc họ được nhắc tới đầu t iên. 2/ Tác gi ả đã kh“ng có sự phân biệt nào giữa những “người hành nghề” bình thường và bộ phận elite lãnh đạo. Thực tế, mối quan hệ giữa họ nhiều khi tỏ ra có ảnh hưởng khá lớn đối với sự phát triển nghề nghiệp. 3/ Tác gi ả chưa có sự nhấn mạnh cần thi ết vai trò của nhà nước (như là nghiên cứu t hực tiễn, kể cả nghiên cứu của chính Burrage cho t hấy); và cũng kh“ng có vai t rò đặc biệt nào giành cho những nghề nghiệp khác (như Abbott đã làm). Những điểm nêu t rên đề cập tới nhu cầu cần thiết phải nhấn mạnh (khía cạnh này hay khía cạnh khác) nhiều hơn là một sự phê phán đối với quan điểm của tác giả mà mấu chốt là: trên con đường theo đuổi các mục tiêu (goals) của mình, nghề nghiệp buộc phải cạnh tranh cùng với những đối tác khác, và đặc biệt, theo như cách nói của Joshnon (1982): “ Professions are a product of state formation”. Theo đó, đối với việc l àm nghề nghiệp, kh“ ng còn gì thiết yếu hơn l à (nền) văn hoá chính trị . Đó cũng chính là cái mà Burrage đã gắng c“ ng chứng tỏ. 44. Nghiên cứu của Halliday Mọi nghề nghiệp, trong khi theo đuổi sự độc quyền và những đặc quyền của mình, buộc phải tham gia vào mối quan hệ đặc thù với nhà nước, nhưng giới chuyên m“n pháp lý/các luật gia - trong mọi khu vực phân c“ng lao động của ngành luật - lại có sự liên quan đặc t hù riêng đối với “cánh tay” toà án của nhà nước, và trong một số trường hợp thì họ hội nhập một cách tự nhiên vào bộ máy nhà nước mà kh“ng có tham vọng riêng biệt. Một tình huống xã hội quá đặc thù mà thực tế là duy nhất như vậy, theo Hallyday, đã khiến cho nhiều nhà XhhNN lập luận theo hướng là giới CM luật kh“ng hề theo đuổi độc quyền nghề nghiệp, kh“ng như những nghề nghiệp khác, và họ rất có thể là những người hoàn toàn chí c“ng v“ tư (vì lợi ích chung entirely public-spirited). 5. Qu an hệ giữa lịch sử và xã h ội học nghề nghiệp 51. Nghiên cứu lịch sử nghề nghiệp (trường hợp ở nước Anh) S1. Các nhà sử học ở Anh dường như luôn có mối quan tâm thường trực đối với vấn đề nghề nghiệp /profession/. Tuy r”ng họ có cho biết /đệ trình/ những bức chân dung nghề nghiệp 20
- 21 được khắc hoạ theo chiều dài thời gian nhưng đó lại là những bức chân dung khá lẻ loi, chỉ liên quan tới một vài nghề hoặc là gắn với chủ đề / khác/ mà họ quan t âm. Chẳng hạn như sự thăng tiến của một vài chính khách, hay của một vài thiết chế nghề nghiệp l ớn như l à ngành luật của Anh quốc. Tuy nhiên, thường khi, họ chỉ m“ tả theo l ối kể chuyện những bước tiến/phát triển của một vài nghành nghề như y học / y tá, y sĩ, hộ lý/ hay ngành c“ng nghệ /chế tạo kính quang học/ cụ thể nào đó. Người t a cũng đã có ghi nhận sự tham gia của những ngành nghề nào đó vào những trào l ưu cải cách xã hội hoặc là ghi nhận sự chống đối lại xu thế cải cách, và hơn nữa là sự tham gia của họ vào/trong những trào lưu cách mạng / c“ng nhân ngành dệt, cơ khí, khai thác mỏ/. S2. Thực tế, cho tới gần đây, đã thấy hì nh thành những mối quan tâm m ới, ngay chính ở các nhà sử học ( thuận lợi hơn/phù hợp hơn với phương tiện và c“ng cụ xhh): nghề nghiệp t ự nó cũng đã trở thành đối tượng/t hành chủ đề nghi ên cứu – chẳng hạn, như + các quá trình đào tạo hay t uyển chọn vào nghề; các thiết chế/hệ t hống điều hành/vận động trong phạm vi nghề nghiệp; + quan hệ của /mỗi/ ngành nghề đối với khách hàng/với người tiêu dùng của họ; + ngành nghề trong mối liên hệ với thi ết chế nhà nước và các thiết chế xã hội khác (ex. vai trò của nhà nước trong việc khởi xướng, trong tiến trình hình t hành một lĩnh vực nghề nghiệp mới hoặc trong việc thiết chế hoá (các hoạt động việc làm/nghề nghiệp)). Có thể xem xét một sơ đồ /gồm các khối/ như sau: NHÀ NƯỚC GIÁO DỤC KINH TẾ TTR LAO ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP TTR TIÊU T HỤ Tuỳ theo từng t rường hợp mà đó có thể là những nhóm-cộng đồng xã hội hay là t hi ết chế xã hội Quan hệ/vấn đề xã hội: cơ cấu (lao động/nghề nghiệp); phân định (nhóm ngành nghề/nhóm người ti êu dùng sản phẩm); giáo dục (thay đổi - đổi mới: cơ cấu l ao động/nhóm ngành nghề mới/định hướng ti êu dùng sản phẩm nghề); S3. Việc xuất hiện những chủ đề nghiên cứu (mới) này có lẽ có thể (một phần) giải thích được, căn cứ vào sự suy giảm/thoái/ chung của các học thuyết (về) lịch sử chính trị (và ), do bởi các thuyết này hay sử dung những quan niệm (concept) có sẵn, ít năng động (cứng nhắc, đã có sẵn); kể cả việc sử dụng những lý luận và kị ch bản xã hội có phần /khu“n sáo và kh“ cứng / mà rất ít quan tâm tới cuộc sống đời t hường của con người/. Nhưng, bất luận vì lý do gì thì những biến đổi (trong nghi ên cứu lịch sử) ở Hoa kỳ và Anh quốc đều hướng tơí cùng mục tiêu, cho dù họ đã trải qua những chặng đường khác nhau. S31. Cho mãi tới sau Thế chi ến II /1945/, các nhà sử học Anh quốc vẫn còn tập t rung nghiên 21
- 22 cứu về sự hình t hành, về hoạt động nội bộ trong các hội đoàn nghề nghiệp cũng như là các thiết chế tương ứng của một vài hội đoàn thực sự/đặc biệt nổi trội /hội đoàn kiểu truyền t hống đặc biệt khép kín = corporation/. T ừ quan niệm đó, họ (thường chỉ) nghiên cứu nhóm tinh hoa /elit e cùng những vấn đề đặt ra cho nhóm đó, nh”m để giúp dỡ/để hiểu được việc điều hành hoạt động của hội đoàn (mà tác gi ả/nhà nghiên cứu quan tâm). Nghi ên cứu lịch sử, như vậy, rất ít hoặc kh“ng quan tâm gì đến các hoạt động tác nghiệp, càng kh“ng chú ý đến những thành viên bình thường của hội đoàn, cũng ít/kh“ng tiến hành so sánh các hội đoàn nghề nghiệp với nhau, kh“ ng chỉ ra được mối liên hệ gi ữa một bên là các biến đổi trong phạm vi nghề nghiệp và bên kia là những biến đổi t rong phạm vi /mở rộng ra/ toàn xã hội, kh“ng đưa ra được những luận cứ/luận chứng có mục tiêu phê phán (ngành-nghề đó). Mục tiêu chính của họ (sử học) /thường/ chỉ là ghi nhận những t hành c“ng/đóng góp của cá nhân/nhóm lãnh đạo hội đoàn : / tức là trả l ời câu hỏi/ họ đã vượt qua cản t rở và giải quyết được những vấn đề then chốt đặt ra cho hội đòan (ntn). Chẳng hạn như câu chuyện (hist ory) của Clark về tì nh yêu l ao động và hoạt động tích cực của người đứng đầu một Vi ện vật lý Hoàng gia /tiểu sử. S4. Vai trò của nghề nghiệp trong nghi ên cứu sử học Tawney (1921) cho rằng nghề nghiệp là cơ sở cho một xã hội xã hội chủ nghĩa lý tưởng (basis of an ideal socialist society) và sau này một số những người khác, dường như kế tục ý tưởng đó của “ ng, đã cố gắng b”ng nhiều cách để chỉ ra/chứng t ỏ vai trò quan trọng của nghề nghiệp đối với /sự phát triển và/ tiến bộ xã hội, với tư cách l à cầu nối giữa tri thức và quyền lực (knowlege and power). Những quan điểm tương tự cũng xuất hiện /ít nhiều/ trong các tác phẩm của Mannheim và Marshall, t uy r”ng Marchall nhấn mạnh nhiều hơn tới vai trò của NgNghiệp với tư cách/như là cái m“i trường trung gian /trung chuyển; trung gian chuyển tiếp = medium/ của các mâu t huẫn gi ai cấp. Sau C hiến tranh thế giới II, Trường Kinh tế London (London School of Economi cs) 52. Xã hội học nghề nghiệp và sử học Tiếp cận sử học có xu thế chung là nghiên cứu những nghề nghi ệp riêng biệt, trong một khoảng t hời gian nhất định nào đó. Trong hướng tiếp cận này cũng có một vài người đã phối hợp với nhau và cùng nhau xem xét nghề nghiệp như những hì nh thái xã hội khác biệt và họ đã cố gắng để nắm bắt ý nghĩa của chúng (nghề nghiệp) đối với xã hội (nước Anh). Các tác giả R eader & Perkin (1960) đã có ý đặt /định vị nghề nghiệp t rong phạm trù cơ cấu xã hội. Holm (1982) l ại xem xét nghề nghiệp như những tầng lớp xã hội khác bi ệt nhau mà cũng chỉ mới hì nh thành gần đây, ở vào thời Augustan England, và chúng đã làm xuất hiện những phương thức t hăng tiến nghề nghiệp mới, những hì nh t hức trung tín (loyalty) m ới và đồng thời là những cung cách hành động khác t rước – như ở các nghiệp đoàn đặc biệt khép kín /kiểu truyền thống (corporation). Theo “ng, việc hì nh t hành nên các tầng lớp nghề nghiệp khác bi ệt đó l à kết quả của việc thiết chế hoá “các ảnh hưởng /của quan niệm/ c“ng dân” t heo tinh thần mới /mà đáng tiếc là “ng đã thất bại, kh“ng /đi sâu/ phân tích được. /p.18/ XHHNN dường như ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các /khảo cứu lịch sử (histori cal investigation). XHHNN thường phải chú ý tới các nguồn tư l iệu/dữ liệu sử học, do bởi – người ta sẽ khó m à hiểu được các thiết chế nghề nghiệp nếu như kh“ng xem xét chúng từ giác độ phát triển lịch sử. Ngoại t rừ, có chăng l à những nghiên cứu thực địa về đời sống lao động nghề nghiệp (field studi e) - có t hể kh“ng nhất thiết cần t ới sử học. Mặc dù như vậy, /thời 22
- 23 gian gần đây/ XHHNN dường như ngày càng đến sát, tiếp cận nhiều hơn với các khảo cứu sử học /inquiries/. Sự kết hợp này thường thấy trong các nghi ên cứu về di động xã hội từ giác độ nhóm (của một nhóm nghề nghiệp hay cả một cộng đồng nghề nghiệp), chẳng hạn nghi ên cứu của Larkin về phân c“ng l ao động trong ngành y, hay của Abbott về sự tranh giành, cạnh tranh quyền t ài phán (juridicti onal rivalries) của (những người hành nghề) nghề luật sư với những nghề khác. Khảo sát mới đây về /m ột số ngành – gồm 7 ngành luật c“ng và 12 ngành luật dân dự - t rong/ nghề luật, cuộc điều t ra này do Hi ệp hội xhh quốc tê tiến hành, cho t hấy rõ mối quan tâm của xhh đối với sử học. Mặc dù mục tiêu chính ở đây l à thu thập dữ liệu xhh về những ngành nghề đương đại / hiện tại/ song hầu như các nghi ên cứu t rường hợp (ở/của) mỗi quốc gia đều đã ít nhiều bắt đầu từ việc đánh giá vai trò, quá trình t ác động và những đóng góp hoặc của nhà nước hoặc của chính ngành nghề đó, hoặc l à cả từ hai phía, xét trong lịch sử phát tri ển của nó. Tuy có sự phát triển nhất định của các hướng nghiên cứu so sánh và của một số nghiên cứu xhh xích lại gần với sử học, song, nghiên cứu nghề nghiệp dường như phải là nơi mút giao tiếp của các khoa nghiên cứu so sánh và sử học. Tuy nhiên, LS và Xhh có những mối quan tâm riêng, những động cơ khác nhau khi nghi ên cứu về nghề nghiệp, và do vậy cũng khác nhau về sự mong đợi /kỳ vọng của mì nh, chẳng hạn câu hỏi - chủ thể có khả năng/có thể hoặc l à sẽ phải phát triển như thế nào. /p.18 53. Tiếp cận đa ngành Đọc tài liệu PHẦN II. XÃ HỘI HỌC NGHỀ NGHIỆP MỘT SỐ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CHƯƠNG 2 XÃ HỘI HỌC NGHỀ NGHIỆP T Ừ TIẾP CẬN CHỨC NĂNG 1. Dẫn nh ập 23
- 24 Tiếp cận chức năng đặc trưng cho giai đoạn phát triển ban đầu của xã hội học nghề nghiêp. Nó phát triển mạnh cho tới cuối những năm 1960 khi thuyết này đạt tới đỉnh cao và hầu như có vai trò thống trị trong xã hội học. Tới mức mà trong một bài phát biểu vào năm 1970, K. Davis - Chủ tịch Hiệp hội xã hội học Mỹ (SAS) đã nói: lúc này, tất cả các nhà xã hội học chúng ta dường như đều là những nhà chức năng luận mất rồi. Điều này trong thực tế có lẽ còn đúng hơn đối với bộ môn XHHNN. Tuy nhiên, đó cũng chính là thời điểm nảy sinh ngày một nhiều hơn những “cố gắng đoạn tuyệt” với xu thế chức năng “truyền thống”: với những Boys in White của Becker, hay Profession of Medecine của Freidson. 21. Khái niệm (thuyết) chức năng - Xã hội là một hệ thống - Nói đến tính thống nhất tức là nói đến tính chỉnh thể của hệ thống này: chỉnh thể là đặc trưng (quan trọng nhất) cho phép phân biệt các hệ thống; hệ thống bao giờ cũng vận động như một chỉnh thể. A. Xã hội là m ột hệ thống A.1. Các khái niệm 1) Hệ thống là một tập hợp các phần tử có liên quan chặt chẽ với nhau để tạo thành m ột chỉnh thể. - Chỉnh thể (TĐTV, 172): Thể, khối thống nhất trong đó các bộ phận có quan hệ chặt chẽ không thể tách rời nhau; - Hệ thống (TĐTV, 435): * tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị cùng loạ i hoặc cùng chức năng, có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất * Tập hợp những tư tưởng, nguyên tắc, qui tắc liên kết với nhau một cách logic, làm thành m ột thể thống nhất. Hệ thống tư tưởng, hệ thống các qui tắc ngữ pháp. * Tính chất có trình tự, có quan hệ logic giữa các yếu tố. Kiến thức thiếu hệ thống - Yếu tố ( TĐTV, 1146): * bộ phận cấu thàn h một sự vật, sự việc, hiện tượng (chỉnh thể, hệ thống). Yếu tố cấu tạo từ. Yếu tố tinh thần * (có nghĩa như) nhân tố, VD con người là y ếu tố quyết định. 2) Hệ thống bao giờ cũng vận động như một chỉnh thể - Chỉnh thể là đặc trưng cơ bản nhất cho phép phân biệt các chỉnh thể với nhau; còn môi trường là cái bên ngoà i chỉnh thể đang xét. - Hệ thống và môi trường có tương tác qua lại: m ôi trường ràng buộc, khống chế hệ thống, hệ thống phải phù hợp với môi trường song cũng có tác động lên m ôi trường - Hệ thống là nó (được phân biệt, không hoà tan) m à cũng không là nó (hoà nhập)? 3) Nhận thức hệ thống: Mô tả hệ thống (m ô hình biểu thị), phân t ích nắm bắt bản chất HT, nắm bắt các qui luật vận động của HT, các QL chi phối hay điều chỉnh vận động của HT - Cấu trúc ( cơ cấu) /lát cắ t tĩnh - Chức năng - Lịch sử (toàn diện?) Phân tích HT = PT (CT, CN, LS) + Siêu HT + Chủ nghĩa cấu trúc, CN chức năng, CN toàn thể thành phần QH: cá nhân/tập thể A.2. Các nguyên lý của HT/ Các nhóm nguyên lý 2.1. Nhóm nguyên lý qui định bản chất của HT - NL tính chỉnh thể: khối thống nhất, không thể tách rời (các phần tử mà không làm thay đổi bản chất của HT) 24
- 25 - NL tính phức thể : tính cơ cấu; đ a cấu trúc, cơ cấu phức tạp; tính phức tạp của HT - tập hợp các loại quan hệ khác nhau + Các quan hệ cấu trúc tương quan cho những yếu tố đặc trưng cho sự tồn tại của HT + Quan hệ chức năng đặc trưng cho hành vi của hệ thống - NL vận động và phát triển, có tính lịch sử: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, chín muồi và tan rã 2.2. Nhóm NL qui định mối quan hệ MT&HT: tương hỗ, qua lại + HT bị môi trường qui định, HT phải thích nghi với MT, phải hoà điệu với các biến đổi của MT + HT tác động ngược lên M T: tích cực - tiêu cực 2.3. Nhóm NL qui định mối quan hệ giữa chủ thể và Ht - như là khách thể + Chủ thể có thể nhận thức HT + CT có thể điều chỉnh được HT + CT có thể thay đổi bản chất HT: phá cũ, xây mới I.3. Phương pháp hệ thống Phương pháp có 3 nội dung: phương châm, phương hướng và phương thức Phương châm và phương hướng nằm trong các nguyên lý? Có ba phương thức lớn: 3.1. Phân tích HT về m ặt c ấu trúc Cấu trúc ( TĐTV, 139): toàn bộ nói chung những quan hệ bên trong gi ữa các thành phần ( ) tạo nên m ột chỉnh thể; Có thể nó i cấu trúc là tổng thể các mối liên hệ g iữa các (nhóm ) yếu tố của Ht (được nhìn nhận, xem xét theo một cách thức nhất định). Nhìn chung, Ht thường có nhiều quan hệ chồng chéo, đa cấu trúc. 3.2. Phân tích HT về phương diện chức năng - các ứng xử của Ht ( trong quan hệ) đối với MT Chức năng ( TĐTV, 201): * Hoạt đông , tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của m ột cơ quan, một hệ cơ quan nào đó trong cơ thể. Chức năng của da là bảo vệ cơ thể, chức năng sinh lí. * Tác dụng, vai tr ò bình thường hoặc đặc trưng của m ột người nào đó, một cái gì đó. Làm đúng chức năng, chức năng giáo dục của gia đình. Phân biệt cấu trúc và cơ cấu !! Cơ cấu-chức năng Từ điển NKV : cơ cấu (gia đình) = ( family) structure Cơ cấu ( TĐTV, 223): Cách thức tổ chức (chủ quan ??) các thàn h phần nhằm thực hiện chức năng c ủa chỉnh thể. Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu tổ chức của quân đội. Chức năng là sự biểu hiện hành vi của H t. Thông thường thì HT nào chức năng ấ y; cấu trúc (cơ cấu) tồn tại là để thực hiện chức năng ( ?); Cấu trúc làm sai chức năng dẫn đến rối loạn HT (Nguyễn Huy Thiệp: "Bố mà thì sẽ loạn cờ" !!) . Hành vi (TĐTV, 424) ( N.K.Viện - action # c omportement?) : Toàn bộ nói chung những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra bên ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định. Hành vi phạm pháp. Hành v i tốt đẹp. Hành động (TĐTV, 423): * Việc làm c ụ thể của con người nhằm một mục đích nhất định. Một hành động dũng cảm. Thống nhất ý chí và hành động. *Làm việc cụ thể nào đó ít nhiều quan trọng, m ột cách có ý thức, có mục đích. Bắt đầu hành động. Giờ hành động đã đến. 3.3. Phân tích lịch sử hệ thống: Quá trinh HT hình thành, phát triển và c huyển hoá 3.4. PT toàn bộ (các chiều) CT, CN và LS. N*2: Cơ cấu của HTXH, ý nghĩa PPL của việc phân tích cơ c ấu XH trong nghiên cứu XHH B.I. CƠ CẤU CỦA HTXH Xã hội là m ột tổng thể, một hệ thống hoàn chỉnh và thống nhất; một chỉnh thể cùng với các thành phần cấu thành và quan hệ tương tác của các thành phần đó; một thực thể lịch sử có bề dày tồn tại, đang vận động và phát triển. 25
- 26 Một HT thường được xét theo 3 chiều: cơ cấu, chức năng và lịch sử. Một hiện tượng XH, hệ thống XH, cùng với các qui luật vận động khách quan có các yếu tố chủ quan, có tác động chủ quan của con người - có tính (lịch sử) xu thế rõ rệt. MAC-LENIN: B.I.1. MÔ HÌNH XÃ HỘI LÀ MỘT MÔ HÌNH CẤU TRÚC /CẮT TNHX - XH là m ột hệ thống, phần tử là những (nhóm) người /tiểu hệ thống - Cấu trúc XH: ( hình thành từ) các quan hệ XH giữa người với người + Cơ cấu (XH) Kinh tế: c ác thành phần kinh tế + Chính tr ị = quyền lực (lập pháp - hành phá p - đoàn thể xã hội) + Văn hoá (uy tín, học vấ n) + Tinh thần (tôn giáo) - Cơ cấu cơ bản: liên quan đến những biến đổi của XH như một thực thể? - XH phân thành các tập đoàn xh khác nhau (các dấu hiệu về cơ cấu) : các giai cấp, các tầng lớp /giai tầng xh, các nhóm khác nhau 2. Thuyết chức n ăng trong XHH NN Thuyết chức năng trong XHH NN thực sự, ngay từ đầu, đã chịu rất nhiều ảnh hưởng của E. Durkheim, đặc biệt là việc ông nhấn mạnh đạo đức nghề nghiệp, gắn liền đạo đức nghề nghiệp với đạo đức xã hội nói chung (những giá trị, chuẩn mực nghề nghiệp hết sức khắt khe, như ý thức phục vụ hay tinh thần vị tha - là những yếu tố đặc biệt nổi t rội). Theo tác giả này, chính phân công lao động và các nhóm việc làm nghề nghiệp là + nền tảng đạo đức của xã hội hiện đại, + chúng nắm giữ những chức năng xã hội quan trọng (nhất) và + có thể là mô hình cho những thiết chế trung gian chuyển tiếp, kết nối từ cấp độ cá nhân (thấp nhất) tới cấp độ nhà nước (cao nhất). Những luận điểm đó đã được nhiều nhà XHH kế tục và phát triển, đặc biệt được phản ảnh trong một tác phẩm mang tính tổng thuật của Johnson (1972). Theo Johnson, những quan điểm chung được họ cùng chia sẻ là: 1/ Thuyết chức năng lấy nghề thủ công làm mô hình cơ sở; 2/ Nghề (t heo thuyết chức năng, do vậy) tồn tại và phát triển cùng với cộng đồng; 3/ Nghề n ghiệp đan xen cùng với lối sống, văn hóa và là yếu tố cấu thành nên cộng đồng; 4/ Nghề n ghiệp góp phần tạo nên (được đồng nhất với) bản sắc chung của cộng đồng. Tuy nhiên, do chứa đựng (quá) nhiều yếu tố bản địa (những đặc trưng đơn lẻ của các làng nghề hay vùng miền) mà dẫn tới, một mặt là sự đa dạng và mặt khác là sự phân tán, những qui gán phi logic/mâu thuẫn nhau. VD các bài viết/trích dẫn sách báo ở Việt nam/nước ngoài. 26
- 27 A Làng nghề làm tương ở Cự Đà Khái niệm Trước hết, để tìm hiểu về làng nghề làm tương ở Cự Đà thì phải hiểu thế nào là nghề truyền thống, thế nào là làng nghề truyền thống? - Làng nghề: là một thiết chế kinh tế- xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa. - Nghề truyền thống: là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền. - Làng nghề truyền thống: là một hoặc nhiều cụm dân cư thôn, ấp, bản, làng, buôm, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các hoạt động n gành nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời trong lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay. Đây là một địa bàn có không gian đại lý nhất định bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính nhằm tạo ra một hoặc một vài sảm phẩm khác nhau, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, văn hóa, xã hội. (Làng nghề, phố nghề Thăng Long – Hà Nội trên đường phát triển,Vũ Quốc Tuấn) A. VD Biên bản phỏng vấn sâu Người phỏng vấn: LLP (Khoa Xhh) Người được phỏng vấn: Đinh Văn T( chủ thương hiệu tương nếp Trọng Tình) Giới tính: Nam Tuổi: 70 tuổi Thời gian phỏng vấn: 9h-11h ngày 2010 Địa đi ểm phỏng vấn: nhà riêng (xóm Ba Giang, thôn Cự Đ à, xã Cự Khê,Thanh Oai , Hà Nội) 27
- 28 H: Cháu chào ông. Cháu được biết nhà mình có nghề làm tương truyền thống rất nổi ti ếng. Cháu đang nghiên cứu về nghề l àm tương ở làng mình. Vậy ông có thể dành chút thời gian cung cấp cho cháu một số thông tin không ạ? Ông có thể vừa làm vừa trả lời cháu cũng được ạ. Đ: Ừ. Cháu cứ hỏi đi. Thế cháu hỏi để viết báo à. Cũng có nhi ều người về đây viết bài lắm. H: Không ạ. Cháu chỉ tìm hiểu để làm bài tập thôi ạ. Ông ơi, nghề làm tương ở làng mình có từ bao giờ ạ. Đ: Nhà ông làm tương cũng lâu lắm rồi nhưng cũng không biết nó có từ khi nào. Chỉ biết khi còn bé tý đã thấy bố mẹ làm tương rồi. Ít nhất nhà tôi cũng có đến năm đời gắn bó và sống với nghề l àm tương. H: Vậy là ông cũng không biết nghề làm tương có t ừ bao giờ. Thế ông làm nghề này đến nay là được bao nhiêu năm rồi ạ? Đ: Tính đến thời điểm này là gần được 50 năm rồi. H: Nghề này là ông được ai truyền cho ạ. Đ: Thì ông cụ truyền lại cho tôi. H: Ông có tính đến việc truyền lại nghề này cho con cháu mình không ạ? Đ: Ông cụ truyền cho tôi thì rồi tôi lại truyền cho con, con tôi lại truyền cho cháu Tôi muốn các cháu vẫn giữ được cái nghề truyền thống của gia đình, dòng họ mình. H: Ông ơi , thế cả dòng họ mình đều làm nghề này ạ? Đ: Ừ , trong dòng họ cũng có nhiều gia đình làm nghề này, chỉ có một số ít gia đình bỏ nghề thôi. H: Vậy, ở làng mình hiện nay còn nhiều dòng họ làm nghề t ương không ạ? Đ: Vẫn còn nhiều nhưng chỉ tập trung vào một số dòng họ chủ yếu thôi. Mà đếm trên đầu ngón tay thì có khoảng 5 dòng họ như Đinh, Vũ, Trị nh, Vương, N guyễn là có nghề l àm tương phát triển nhất. H: Mỗi một dòng họ sẽ có cách làm tương khác nhau hả ông? Đ: Không, ở đây thì vị tương của dòng họ nào cũng giống nhau. Vì tr ước đây thì cả làng đều làm chung nhưng s au này mới chia nhỏ về các dòng họ, gia đình. Tuy nhiên t ất cả các gia đình đều phải làm đúng theo cái chung của cả làng, cái hương vị của cha ông. H: Thế giữa các dòng họ cùng làm nghề t ương trong làng có những hoạt động gì chung không ạ. Đ: Những ngày thường thì nhà nào l àm nhà đấy. N hưng mỗi một dòng họ sẽ tổ chức một ngày để tưởng nhớ tổ ti ên, tưởng nhớ nghề làm tương của dòng họ mình.Còn cả làng sẽ tổ chức một buổi lễ hội hàng năm. Thường thường thì vào tháng giêng sau đợt tết nguyên đán. Trong lễ hội này thì t ất cả các dòng họ sẽ đem sản phẩm tương đến để cúng tổ tiên, trưng bày. Sau đó, thì các dòng họ sẽ cử trưởng họ lên chia sẻ những gì đã làm được trong năm qua. Sau đó, có mời cụ gi à nhất trong làng nên để nhắc lại truyền thồng của làng và dặn dò con cháu về những điều mà con cháu cần phải tuân theo để tránh mất thương hiệu tương mà cha ông để lại. H: Vậy làng mình có một trụ sở chung để giúp đỡ các gia đình, dòng họ trong việc sản xuất tương không ạ? 28
- 29 Đ: Hiện giờ thì chưa. Làng Cự Đà duy trì, phát triển bền bỉ như hôm nay không phải được hỗ trợ đầu ra mà do tự thân những người làm nghề năng động tìm kiếm. Cũng vì vậy mà nghề vẫn còn đến ngày nay. Nhưng sắp tới thì làng cũng dự định thành lập hiệp hội tương Cự Đà. Hi ệp hội này sẽ bắt tay vào xây dựng trang web, logo cho nhãn hiệu tương nếp Cự Đà để bảo vệ quyền lợi cho người sản xuất. H: Vậy hiện giờ nhà mình vẫn tự quảng cáo và tìm đầu ra ạ? Đ: Ừ. Nhà tự t ìm đến các cửa hàng, các siêu thị để giới thiệu sản phẩm. H: Thế ông ơi, nghề l àm tương này có quanh năm hay chỉ theo mùa vụ? Đ:Trước đây, tương được làm theo mùa vụ nên người dân vẫn cấy cày xen kẽ. Nhưng bây giờ t hì tương được làm quanh năm, nên không còn cấy nữa, ruộng cho hoặc bỏ không, tập trung vào sản xuất tương. H: Quá trình sản xuất tương có nhiều công đoạn không ạ? Đ: Làm tương vất vả lắm cháu ạ. Bao nhiêu công đoạn từ việc lựa gạo, đậu rồi đến vi ệc rang, xay , ủ mất nhi ều thời gian lăm mới được mẻ tương ngon. Và không phải ai cũng làm được, phải thật cẩn thận, tỉ mỉ, khéo léo mới làm được t ương ngon, đúng hương vị. H: Nhiều công đoạn vậy, nhà mình có phân chia cho các thành viên trong gia đình không ạ. Đ: Có chứ. Mỗi người một việc mà còn phải thuê thêm người làm nữa. H: Thế ông ơi, nhà mì nh phân công công việc như thế nào ạ? Đ: Những người l àm lâu năm, có nhiều kinh nghiệm và có tay nghề cao thì đảm nhiệm những công việc như chuyên viên kỹ thuật , những công đoạn khó. Như ông, ở tuổi này rồi vẫn tham gia vào hoạt động sản xuất với t ư cách là chuyên vi ên kỹ thuật. Gi à rồi cũng không làm được công việc nặng, bây giờ thì chỉ nhắc nhở, chỉ bảo các cháu thôi. Trong gia đình thì con trai chủ yếu đảm nhận những công việc nặng, công việc liên quan đến máy móc như xay đậu, khuấy tương Còn phụ nữ thì chỉ l àm những công vi ệc nhẹ như rang đậu, rắc muối, ủ tương Và những công việc đóng gói s ản phẩm thì thuê thêm người làm vì cũng không cần tay nghề, ai cũng làm được. Vì một ngày làm rất nhiều nên phải nhờ thêm người, khoảng 6 nhân công một ngày. H: Quá trình làm t ương hi ện nay của nhà mình có thay đổi gì so với trước đây không ạ? Đ: Trước đây, các gia đì nh chỉ làm tương để phục vụ gia đình còn bây gi ờ thì mở rộng sản phẩm ra nhi ều nơi, nhiều tỉnh. Và ngày trước chỉ làm bằng tay nhưng bây giờ thì công nghệ hiện đại có thêm máy xay, máy rang còn đâu các khâu vẫn như vây, không thêm bớt cái gì cả, chất l ượng vẫn như xưa . Nghề cổ truyền các cụ dạy thế nào thì làm vậy. Mình đặt tiêu chuẩn chất l ượng nên hàng đầu, phải giữ nguyên vẹn vị t ương ngon ngọt của các cụ ngày xưa. H: Thế một ngày xưởng sản xuất của nhà mình làm ra được bao nhiêu lít t ương? Đ: Ngày nào cũng vậy, trung bình cũng khoảng 300 lít nhiều hơn trước rất nhiều, quy mô rộng hơn. H: Cháu cảm ơn ông rất nhiều đã cung cấp cho cháu những thông t in rất quan trọng. 29
- 30 B. Làng Nghề Đa Hội Muôn nỗi mưu sinh ND C ậ p nhật 12:33 ng ày 12-11-2008 ND - Nhiều người quan niệm, kiếm được nhiều tiền thì sẽ giàu, cuộc s ống sẽ no đủ, sung sướng. Nhưng không, ở làng luyện thép Ða Hội lại hoàn toàn ngược lại. Họ giàu có nhưng luôn sống trong tiếng ồn, môi trường ô nhiễm, đường sá l ầy lội và nỗi vất vả cứ chồng chất lên vai. Nơi đây cũng rất nhiều người ngoại tỉnh về bán sức lao động, vì thế mà cái nhị p sống cơ cực như ngày một gia tăng. Vất vả l àng thép Hiện nay các làng nghề đang phát triển rất mạnh, nhưng hiếm có l àng nghề nào bảo đảm được vệ sinh môi trường và an toàn lao động. Trong mối lo ấy, tôi tìm về làng t hép Ða Hội, t huộc xã Châu Khê, huyện T ừ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Ðứng ở t hị trấn Từ Sơn, hỏi đến làng Ða Hội chẳng ai lạ lẫm. Họ chỉ ngay vào con đường "khổ ải" dẫn vào làng, cách thị trấn chừng 2 km. Tôi cùng với chiếc xe cà tàng của mì nh tiến vào. Chẳng ngờ "khu công nghiệp" gi àu có mà người ta giới thiệu cho tôi đang phục kích rất nhiều ổ trâu ổ bò. Chiếc xe dã chiến từng theo tôi đi khắp trong nam ngoài bắc l ại có dịp được ngụp lặn trong những vũng nước sâu đen sì trên con đường "độc đạo" vào Ð a Hội. Từ năm 1997 trở lại đây Ða Hội nổi tiếng là làng tỷ phú. Nghề luyện t hép đã mang lại cho người dân ở đây những khoản thu nhập kếch xù mà nhiều người dân nơi khác có nằm mơ cả đời cũng chẳng thấy. Rất nhiều ông chủ sau khi giàu có ở làng "kéo quân" vào Sài Gòn mua đất, đầu tư làm xưởng luyện thép, vì trong đó có nguồn cung cấp sắt thép phế liệu vô cùng dồi dào. Tuy vậy, ở làng người ta vẫn tìm ra những ông chủ có số tài sản l ên đến vài chục t ỷ như bà Nam béo, ông Việt Bầm, anh Nam Tiến Quán nước đầu làng là một trong những địa chỉ cung cấp cho tôi khá nhiều chuyện. C hủ quán là ông già dễ gần, hay chuyện. C hẳng bao lâu tôi đã có thể hỏi ông rành rẽ chuyện mưu sinh ở làng. Ông nói : "Ðấy chú xem, cả làng cứ tấp nập như vậy t ừ ngày này qua ngày khác, từ sáng sớm tới khuya. Có những xưởng người ta còn làm cả đêm nữa". Tôi hỏi: "Nhưng hôm nay có đi ều gì đó hơi buồn thì phải". Ông chủ quán giải t hích: "À, chú cảm t hấy thế thôi. Ðúng là làng có người chết vì ung thư phổi". Quan sát, thấy không khí ngôi làng có vẻ buồn hơn chút ít, nhưng chẳng vì vậy mà thưa thớt những người lao động. Họ vẫn đang cặm cụi làm vi ệc, đánh gỉ sắt, kéo xe, đẩy t han, bốc vác, chuyên chở Cả một không gian đậm đặc một mầu mờ mờ ảo ảo như muốn bốc khói. Dọc hai bên đường, la liệt những đống than, những đống dây thép, những phế liệu chuẩn bị vào lò nấu. Ðặc biệt là có những con người mệt mỏi, dật dờ và nhem nhuốc. Ông hàng nước chỉ t ay về phía những người đang gò lưng kéo t hép bằng xe cải tiến: "Tất cả mọi người trong làng chỉ nhăm nhăm làm kiếm tiền, kể cả ông chủ lẫn người làm thuê. Cho 30
- 31 nên, môi t rường sống bị đầu độc họ cũng t hây kệ, như đó không phải t rách nhiệm của mình. Làng có khoảng 500 hộ dân t hì t ương đương với nó là 500 xưởng. Phần lớn đều chật chội, lại Comment [TAQ2]: phải chứa những cỗ máy kềnh càng. Làm việc nặng nhọc mà bảo hộ lao động không được chú ý đâu chú ạ!". Trên con đường l ầy lội, đầy ổ trâu ổ bò, những chiếc xe ô-tô đủ mọi kích cỡ vẫn ngày ngày ngược xuôi ngụp lặn trong những vũng nước, rù rì tha cái xác nặng nề của mì nh và cõng thêm sắt thép, than, xỉ, đá, cát xây dựng Chúng nhúc nhích từng bước đến tội nghiệp. Ðược bi ết, xưa kia đây là một ngôi l àng có nghề rèn. Do cụ ông tên là Trần Ðức Huệ truyền cho. Khi đó, làng chủ yếu rèn các nông cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Sau l àng đi thu mua sắt vụn, thứ gì đem tận dụng rèn được thì rèn, còn sắt vụn thừa lại bán đi. Cho đến năm 1995, người Trung Quốc "ngửi" thấy Ða Hội có tiềm năng về sắt thép, họ cử người sang tư vấn, dạy cách luyện thép để t hành thép cán, phôi thép và sắt dây như ngày nay. Có "tiền đề" Comment [TAQ3]: này, người dân chớp lấy. Họ ra sức dựng xưởng luyện và trở nên giàu có như ngày nay. Giàu nhưng không sướng "Người dân ở đây có sướng không ạ?"- Tôi hỏi một ông già mà tôi không tiện nhắc t ên. Ông thật thà nói rằng: "Giàu thì có giàu nhưng sướng thì chưa chắc. Lý do thì chú biết đấy, nhìn vào đường sá, không khí. Ðộ này mưa nên đường mới đỡ bụi. Chứ vào độ nắng dài, đường bụi mù mịt đen ngòm. Bởi vậy mà hầu hết người dân đi lại quanh đây phải dùng khẩu trang và đeo kính". Tôi cũng hòa t rong dòng xuôi ngược ấy và chẳng bao l âu từ quần áo đến phương tiện đi lại bị bao phủ một cái mầu sâm sẫm, đen đen và tôi tối đến rợn người. Con người mệt mỏi, cáu gắt, bước đi dật dờ. Dường như họ chỉ biết có mỗi công việc của mình. Rất hiếm tiếng cười nói, tiếng đùa. Chỉ có tiếng ầm ào của xe cộ, tiếng vận hành của máy dậm, máy cắt cùng tiếng quai búa, tiếng sắt gỉ bị nung chảy Từ nơi khác đến, nếu không quen thì sẽ rất khó sống. Âm thanh của ngôi làng cũng chẳng khác gì ti ếng ầm ào ngoài đường phố. Vậy mà người dân ở đây cả đêm l ẫn ngày, sống chung với bẩn, bụi và ồn. Lại nữa, đường lầy lội như vậy, những chiếc xe của làng vẫn ngày đêm nối đuôi nhau hoạt động, mà người ta không nghĩ đến chuyện đầu tư cho một con đường tử tế để Comment [TAQ4]: tiện đi lại và sinh hoạt. Tôi gọi đây là "khu công nghiệp" gi ữa vùng khổ ải. Ai chưa tin tôi, đến thì sẽ biết. Ðổi lại, họ lại no đủ, giàu có. Những ngôi nhà cao tầng sừng sững m ọc lên, xen l ẫn với những ngôi nhà tạm phên li ếp lui cui dành cho người làm thuê. Ðó như một sự thật hiển nhi ên. Dù công việc vất vả, môi trường không bảo đảm, sống tạm bợ t rong các dãy nhà ổ chuột, nhưng được l àm thuê cho các ông chủ làng Ða Hội là mơ ước lớn của nhiều người ở những vùng quê nghèo khó. Ðơn giản là họ bất chấp nhọc nhằn, bất chấp sự ô nhi ễm để có thu nhập cao, hơn hẳn nhi ều nghề khác. Thường một người khỏe mạnh mỗi tháng cũng được sáu t riệu đồng, có anh chịu khó được đến chín triệu đồng mỗi tháng. Nhiều gia đì nh đã "cõng" cả vợ lẫn con đi làm. Ðiều đó khiến dân số của l àng tăng lên vùn vụt. C hả thế mà đi đường, tìm mãi Comment [TAQ5]: không cho ra một người Ða Hội mà chủ yếu là dân t ứ xứ t ụ tập về. Họ được thuê làm công nhân và chủ phân loại họ ra để l àm những công việc khác nhau. 31
- 32 "Quên đời cơ cực" Ðồng tiền đã kéo những người làm thuê đến đây, bắt họ làm việc quần quật trong lò lửa nóng, bắt họ gò lưng kéo xe cải tiến với những khối sắt lớn, chưa kể những ngày mưa phải l ội bì bõm trên con đường lầy lội khủng khiếp. Con đường trục chính song song với sông con của l àng mà t heo người dân cũng đã được đổ đá nhi ều lần, cao hơn t rước đến hơn một mét, nhưng bị xe tải lớn nhỏ "cào" l ên, rồi thành ra lồi lõm. Tăng dân thì phải có nhà ở, vậy nên mỗi nhà chủ lại làm thêm một cái lán tạm để cho công nhân ở. C ho nên, dọc bờ sông có hàng trăm cái nhà t ạm mọc lên. Dăm bảy cọc bê-t ông Comment [TAQ6]: con con và t re nứa đóng xuống l òng sông để tạo "móng nhà". Rồi người ta dùng cót ép, phên nứa để bao bọc chung quanh. Ðoạn sông này di ễn ra những sinh hoạt thường ngày của hàng nghìn người, người ta trút tuốt tuột cặn sắt, xỉ than xuống khiến cho nước s ông biến thành một mầu đen nhờ nhợ, sanh sánh. Nếu một khi nước sông dâng cao, những đồ do con người thải ra sẽ quay trở lại "hành hạ" họ là chắc chắn. Tôi được bi ết ở xóm Ðầm, xưởng của bà Hiền, hiện có 12 công nhân (chín nam, ba nữ) và tất cả họ sống chung trong một cái lán rộng chừng 12 m2, t rung bình mỗi người 1 m2. Hai năm trước, tại xưởng của bà có đôi sống chung như vậy đã "ăn cơm" không cần kẻng. Sau đó phải về quê cưới nhau. Lựa lúc những người l àm thuê này nghỉ ngơi, tôi hỏi một số công nhân, họ cho biết: "Phần lớn dân lao động chúng em đổi bát mồ hôi lấy bát cơm ăn. Ðấy, anh đi khắp xem, chúng em lao động như vậy, tiếp xúc với sắt thép, với l ò luyện vài nghìn độ mà chẳng có l ấy cái gọi là đồ bảo hộ lao động". Một người khác tiết lộ: "Làng này tháng nào chả có vài vụ t ai nạn lao động. Người thì bị sắt đè, người thì bị bỏng, có người thì bị cả đoạn dây thép vừa t rong lò ra còn đỏ cắm vào mặt. Thật kinh khủng!". "Ai cũng biết là cơ cực, là vất vả. Nhưng người lao động vẫn thích làm vi ệc ở đây"- anh Chí, một lao động làm thuê đến từ Hải Dương cho bi ết. Anh tâm sự thêm rằng, có người đã làm đến bảy năm trời và còn chưa có ý định trở về quê hương, có lẽ họ định bám mãi ở mảnh đất này. Cũng bởi vì, họ không ki ếm được một công việc nào cho ra lợi nhuận như thế. Nghề đi bốc vác, đi xây, gánh gạch cũng phải đổ mồ hôi, nước mắt, nhưng thu nhập chỉ bằng phần nhỏ. Ðối với những người làm thuê ở Bắc Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang, Hưng Yên Ða Hội là ngôi làng để họ làm giàu, gửi gắm những ước mơ. Tôi bạo gan nói với họ rằng, hãy cẩn thận với môi trường lao động này, khi mà làng đã có rất nhi ều người mắc các chứng bệnh về đường hô hấp, bệnh ung thư. Dù vậy, dám khẳng định nhiều người sẵn sàng chấp nhận sự đe dọa của bệnh tật, chỉ để có tiền. Mà tiền thì dứt khoát không thể so với mạng sống. Ra khỏi làng thép bằng đoạn đường cũ, gập ghềnh, xóc nảy óc, hì nh ảnh những người lao động lại đập vào mắt, nghĩ thật xót xa. KHÁNH VĂN 2. Nhữn g đúng góp tiêu biểu 21. Tác giả Carr-Saunder và Wilson (1933): 32
- 33 Theo các tác giả Carr-Saunder và Wilson (1933), nghề nghiệp là một trong những thành tố ổn định nhất của xã hội, do bởi + nghề nghiệp được thừa hưởng, duy trì và được chuyển giao theo truyền thống, là cơ sở để + tạo dựng nên lối sống, để + tạo lập nên những cách thức suy nghĩ và phán xử. Nghề nghiệp, do vậy, có thể xem như là thành luỹ thực sự, là những trung tâm “đề kháng”, chống đối lại những thế lực có nguy cơ đe doạ quá trình phát triển yên bình và ổn định xã hội. “Gia đình, nhà thờ, các trường đại học, các hiệp hội trí thức và hơn tất cả là các nghề nghiệp lớn, giống như những bức tường đá mà các thế lực đó không thể xô đẩy được.” 22. Tác giả Lynn (1963) Đi xa hơn, tỏc giả này cho rằng: cỏc thiết chế nghề nghiệp cũn là nhõn tố quan trọng, khụng chỉ đúng vai trũ duy trỡ sự ổn định chung cho toàn xó hội mà, thụng qua cỏc tổ chức và hiệp hội quốc tế, cú thể tạo dựng được những kờnh truyền dẫn, kết nối giới (trớ thức) lónh đạo của nhiều quốc gia. Bằng cỏch đú, nghề nghiệp gúp phần duy trỡ trật tự và sự ổn định chung trờn thế giới. Một số t ỏc giả khỏc thỡ nhấn mạnh cụ thể những chức năng xó hội của nghề nghiệp như: chức năng vị tha (Marshall, 1963), chức năng định hướng cộng đồng (P arsons, 1954) 23. Tác giả J. S. Mills Tiếp tục chủ đề tổ chức quan liêu của M. Weber, tác giả nhận định: bộ máy hành chính quan liêu và bộ máy đi ều hành quản trị (doanh nghiệp) là những thế lực xã hội ngày một trở nên mạnh hơn, và có xu thế phối hợp, kể cả là cấu kết với nhau. Như vậy, nghề nghiệp + ngày một phải đối mặt, va chạm nhiều hơn với thiết chế hành chính + chuẩn hóa và phổ quát hóa tri thức (nghề nghiệp), hai quá trình quan trọng hàng đầu trong nghề nghiệp, ngày càng chịu sự chi phối, can thiệp của phía hành chính và quản trị; + các hình thức tổ chức, hoạt động nghề nghiệp, do vậy, phải đối mặt với/vượt qua được những thách thức lớn từ cả hai phía, để có thể thích nghi và phát triển. 3. Phát triển lý luận 31. Những đóng góp của thuyết chức năng 33
- 34 311. Mô hình nghề nghiệp 1/ Nghề là một nhóm/cộng đồng xã hội, cùng chia sẻ những giá trị chung nhất định, được gắn với/đồng nhất với những giá trị đạo đức (được thừa nhận/xem như nền tảng/đôi khi mang ý nghĩa sống còn) của họ; 2/ Vị trí của nghề được thiết lập trên cơ sở tri thức/kỹ năng chuyên môn của họ, đó không chỉ là tri thức khoa học mà còn là (có thể, trước hết là) kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm trong thực tiễn. 312. Trên bình diện phương pháp luân nghiên cứu, thuyết chức năng có những nét chung đặc trưng như: + tìm cách mô tả, thu thập và đưa ra những nét đặc trưng, có thể được xem là thiết yếu cho mỗi nghề, + hệ thống hóa và hướng tới việc xây dựng những kiểu loại (loại hình) nghề lý tưởng và + thiết lập những thang đo mức độ nghề (chuyên nghiệp). Như vậy, chẳng hạn: - thang có 3 mức, từ chuyên nghiệp, bán Cn đến mức độ không chuyên (của tác giả Etzioni); - thang đo Guttmann áp dụng cho nghề nghiệp (Hickson, Thomas) 32. Những hạn chế và bất cập 321. Về tính hiệu quả 1/ Do hướng sự chỳ ý vào những cộng đồng nghề (chung cho toàn xó hội) mà ớt/khụng cú điều kiện xem xột cỏc nhúm nhỏ/cỏc cỏ nhõn. 2/ Ít hiệu quả trong việc xem xột quỏ trỡnh hỡnh thành và biến đổi của nghề nghiệp, nhất là những nghề nghiệp mới, xuất hiện ngày một nhiều/nhanh hơn trong thực tờ. 3/ Mụ tả, đưa ra những đặc trưng của nghề nghiệp, nhằm phõn loại cỏi tổng thể viờc làm xó hội, vừa phức tạp vừa mập mờ chồng chộo và rất khú phõn định (nhất là nếu lại chỉ chủ yếu dựa vào cỏc tiờu chớ “khỏch quan”). 4/ Cũng như những cỏch tiếp cận vĩ mụ khỏc, ớt/khụng cho thấy chiều ngược lại: t ỏc động của nghề nghiệp đối với xó hội. 322. Về phát triển lý luận Với mục tiờu chủ yếu là phõn loại, đưa tổng thể cỏc việc làm vào những phạm trự nghề nghiệp, nhằm để nhận thức rừ hơn về vai trũ, vị trớ, chức năng 34
- 35 của nghề nghiệp trong xó hội, XHH NN đỏp ứng cho mục tiờu thực tiễn nhiều hơn là phục vụ cho nhu cầu phỏt triển lý luận riờng cho chớnh mỡnh. CHƯƠNG III. XÃ HỘI HỌC NGHỀ NGHIỆP TỪ TIẾP CẬN TƯƠNG TÁC TƯỢNG TRƯNG KHÁI NIỆM NHÓM VLNN VÀ LÝ THUYẾT CỦA E. HUGHES Đại diện cho tiếp cận tương tác, trước hết cần nói tới E. Hughes, những người kế tục ông ( , ) và trường phái Chicago, nói chung. Những tác giả này đã khảo sát nhiều nhóm xã hội rất khác nhau như người gác cổng, nghệ sĩ nhạc jazz, giáo viên, thầy thuốc, võ sĩ đấu boxe. Để phân tích và khái quát/tóm lược nghiên cứu của nhóm tác giả này, ta có thể tiến hành theo 3 bước: (1) xem xét những nguyên tắc chung và những khái niệm cơ sở của họ (2) xem xét đặc thù riêng của thuyết tương tác trong/khi tiếp cận với thực tế nghề nghiệp ; tiếp đó, (bằng cách nào mà họ) thông qua một số (3) nghiên cứu/phân tích trường hợp đưa ra một bộ sáu quan niệm, được họ sử dụng làm cơ sở để khái quát cho trường hợp chung/phân tích về cuộc sống nghề nghiệp : quyền hành nghề (xác nhận/cho phép) ; uỷ quyền ; sự nghiệp (career) ; phân đoạn nghề nghiệp ; thế giới nghề nghiệp ; trật tự (có thể) t hương lượng. 1. Nhữn g nguyên tắc ch ung Cho tới cuối những năm 1940, đầu 1950, xã hội học lao động ‘kinh điển’ về cơ bản chỉ tập trung vào đối tượng lao động trong xí nghiệp công nghiệp, trước hết là công nhân. Khi đó, xã hội học nghề nghiệp chủ yếu vẫn đi theo dòng lý thuyết kế thừa từ T. Parsons. Tuy nhiên, M. Hughes và các cộng sự đã chỉ ra rằng, tiếp cận chức năng, bằng việc thu hẹp đối tượng nghiên cứu, tập trung v ào lao động trong các xí nghiệp công nghiệp và những nghề có cơ sở là đào tạo đại học, đã bỏ qua rất nhiều những hoạt động nghề nghiệp khác hiện hữu trong xã hội. Đặc biệt, Hughes lý luận là lựa chọn có tính ‘ưu tiên’ của các nhà xã hội học thời đó khi họ nghiên cứu về nghề nghiệp đã không hẳn là vô tư, khách quan. Theo Hughes, các nhà chức năng dường như đã bị cuốn hút quá nhiều vào câu chuyện của những người hành nghề chuyên nghiệp (HNCN), về chính bản thân họ. Nghe những câu chuyện đó, nhà xhh lại có xu thế ghi nhận và hiểu chúng như những đồng nghiệp, với tư cách của người ở trong (cùng) nghề. Nghĩa là, nhà xhh cố gắng đặt mình vào vị trí của người HNCN để nghe/hiểu và ghi nhận về nghề đó thông qua hoặc bằng chính lời kể của các ‘đồng nghiêp’. 35
- 36 Hughes cho rằng ở đây đã có sự che đậy trong thái độ, ở người HNCN và ở cả nhà xhh chức năng, khi họ biện minh cho nghề/việc làm mà người ta đang có/chiếm giữ, y hệt như cái cách mà thuyết chức năng thuyết minh về tính ưu việt, về các đặc trưng riêng biệt làm nên tính ‘độc nhất, vô nhị’ của mỗi nghề trong xã hội (VD. nhân viên bưu điện/người tuyển thư). Theo ông, thay vì đi ca ngợi, đi tôn vinh những giá trị được qui gán, xem là ‘đương nhiên’ của nghề, như sự cao quí, uy t ín, sự vô tư và cố gắng chứng minh rằng chúng tỏ ra hết sức phù hợp với các chuẩn mực chủ yếu hiện hành trong xã hội, nhà Xhh có thể tìm được nhiều lợi ích hơn khi xem xét: 1/ Quá trình một cá nhân (nào đó) đến với nghề của họ, để rồi từ đó trở nên một người HNCN, đã diễn ra như thế nào trong thực tế xã hội? 2/ Mô tả các hoạt động thường nhật của những người HNCN; 3/ Mô tả và lý giải những vấn đề cụ thể mà người HNCN phải thường x uyên đối mặt trong nghề nghiệp/việc làm của họ. Hughes đặt ra mục tiêu phương pháp luận: phải tìm được một cách quan niệm và những khái niệm cho phép so sánh, VD (việc làm/lao động của) một người thợ kim khí và một vị giáo sư mà không cần thiêt phải hạ cố đối với người này hay hạ thấp người kia. Nghĩa là, phải tìm ra một bộ khái niệm công cụ tốt, đa năng, đa dụng và ‘phi giá trị’ mà nhờ đó nhà xhh có thể mô tả/đo lường nghề nghiệp một cách rõ ràng, hiệu quả. 2. Về quan hệ tiểu sử và tương tác Nếu đi tiếp con đường của Hughes, người ta có thể đặt câu hỏi: Vậy theo tác giả, đâu là quan điểm cho phép nắm bắt các quá trình, các diễn biến thường nhật cùng những vấn đề đặt ra cho mỗi nghề? Đó phải chăng là quan điểm thừa nhận mặc nhiên sự thống nhất của hai quá trình: quá trình tương tác và quá trình tiểu sử. Nghĩa là, hoạt động nghề nghiệp cần phải được phân tích đồng thời với tư cách là quá trình có tính chủ quan (có ý nghĩa đối với chính bản thân chủ thể, chủ thể ý thức rõ) và quá trình tương tác với những chủ thể khác trong xã hội. 21. Về các tiêu chí phân định/biện minh cho ranh giới VLNN Nếu như thuyết chức năng đặt ưu tiên vào các tổ chức xã hội thì, ngược lại, thuyết tương tác của Hughes lại đặt ưu tiên vào chính hoạt động việc làm/nghề nghiệp, với tư cách là phương tiện thực hiện và phương thức hiện thực hoá mục tiêu của những người HNCN. Theo thuyết này, bản t hân mỗi người HNCN đều ở trong vị trí thuận tiện nhất/tốt nhất để mô tả và phân tích lao động của họ. Chính các diễn biến của (hoạt động) lao động trải dọc theo hành trình tiểu sử, trải qua những giai đoạn 36
- 37 sống khác nhau, sẽ cho phép tìm hiểu/nhận thức về con đường họ đã đi, về cách thức mà cá nhân/chủ thể đã vượt qua từng cung đoạn và đạt được vị thế nhất định, đạt tới những gì như hiện có trong việc làm, nghề nghiệp và cuộc sống hiện nay của họ. Điều thiết yếu, theo Hughes, là phải ‘khôi phục’ lại và mô tả được (từ các phỏng vấn nghiên cứu) hoạt động nghề nghiệp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục và hết sức năng động, trong bối cảnh chung bao hàm đời sống lao động của chủ thể đó, bao gồm : + các thời điểm ‘nhận được’ việc làm, được ‘tham gia’ vào nghề, + các diễn biến chính của hoạt động việc làm nghề nghiệp, + những thời điểm ‘bước ngoặt ’, + những sự kỳ vọng, những thành công và thất bại hay thua thiệt. Tuy nhiên, quan điểm ghi nhận các ý nghĩa chủ quan/đối với chủ thể tự nó là chưa đủ mà nhất thiết phải được kết hợp với quan điểm xem mỗi hoạt động (của cá nhân/chủ thể) như một quan hệ tương t ác, như sản phẩm chung của nhóm (những người cùng tham gia vào hoạt động đó) nhằm đạt tới/tạo nên một ‘trật tự’ nội bộ. Một trật tự như vậy có thể xuất hiện bất ngờ, t ồn tại không lâu, nhưng luôn là cần thiết, nó có ý nghĩa và có vai trò đáng kể. Đó thường là kết cục những hoạt động chung của nhóm (lao động), hoặc nhằm để tôn vinh những (phần) việc (được thực hiện) tốt, hoặc để kiểm soát ‘địa phận’ việc làm nghề nghiệp của họ và cũng là để tránh/hạn chế những cạnh tranh nội bộ. Từ cách tiếp cận này, khác với/vượt qua thuyết chức năng, quan điểm tương tác đã cho phép tác giả tìm ra và ghi nhận được nhiều hình thức tự chủ và những hình thức tự tổ chức trong môi trường nghề nghiệp. Điều này rất có ý nghĩa do bởi môi trường đó thường không chỉ liên quan tới hay thuộc về một nhóm duy nhất. Mỗi nhóm VLNN đều cố gắng ‘thoát khỏi’ sự kiểm soát (VD. từ phía quản lý/cấp trên), thoát khỏi sự thống trị (của) hoặc là sự phụ thuộc (vào) những chủ thể khác. Thực tế, không nhóm nào/không ai có thể hoàn toàn thoát ra được các kiềm chế tình huống nhưng, ngược lại, cũng không ai có thể tước đoạt hết toàn bộ ‘tự do’ hay khống chế hoàn toàn hoạt động của họ. 22. Khái niệm nhóm việc làm nghề nghiệp Hughes nhấn mạnh: Xhh cần nghiên cứu những tương tác năng động, diễn ra ở một nơi (doanh nghiệp, bối cảnh không-thời gian) cụ thể, giữa một bờn là nhóm VLNN được xác định rõ và, bờn kia là tất cả các đối tác của nhóm đó mà người ta có thể quan sát, ghi nhận được. Như vậy, theo tác giả: 37
- 38 1/ Nhóm VLNN không đơn giản chỉ là những người cùng tham gia vào một dạng việc làm/hoạt động (lao động) mà trước hết đó là một nhóm cố kết với nhau thông qua tương tác. Chính các quá trình tương tác đưa họ đến chỗ tự tổ chức, để cùng nhau bảo vệ quyền tự chủ và duy trì các phạm vi việc làm của họ, nhằm cạnh tranh hiệu quả với bên ngoài và nhất là để tránh/hạn chế bớt cạnh tranh trong nội bộ. 2/ Các nhóm VLNN tìm kiếm sự thừa nhận của các đối tác bằng cách phát triển (nghệ thuật) hùng biện, đưa ra những ‘câu chuyện/truyền thuyết/sự huyền bí’ về nghề nghiệp và bằng cách tìm kiếm những bảo hộ/bảo trợ có tính pháp lý. Tất nhiên, một vài nhóm sẽ thành công nhiều hơn so với những nhóm khác và điều đó tuỳ thuộc ở vị trí đặc thù của họ (trong hệ thống), tuỳ thuộc vào khả năng ‘liên kết/tìm kiếm đồng minh’ của họ. Tuy nhiên, tất cả các nhóm đều hướng tới một vị thế được bảo trợ/bảo hộ. VD1-VD3. BT1-BT3. A. Làng l ụa Vạn Phúc A1. Khái niệm Theo Bộ Nông nghiệp và Phát t riển nông thôn đã ban hành Thông tư số 116/2006/TT-B NN ngày 18 tháng 12 năm 2006 quy định nội dung và các tiêu chí công nhận nghề truyền thống, làng nghề truyền thống: Nghề truyền t hống: là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng bi ệt, được l ưu truyền đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mau một, thất t ruyền. Một nghề t ruyền t hống phải đạt ba tiêu chí: nghề đã xuất hiện ở địa phương từ trên 50 năm tính đến t hời điểm đề nghị công nhận, nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc, và nghề phải gắn với nhiều nghệ nhân hặc tên tuổi của làng nghề. Làng nghề truyền thống là làng nghề có truyền thống được hình t hành từ lâu đời và có ít nhất môt nghề truyền thống. Như vậy, làng nghề truyền thống được nhấn mạnh đến yếu t ố của thời gian hình thành và gắn liền với người truyền nghề, ông tổ nghề, và l uôn mang bản sắc văn hóa riêng của dân tộc,cũng như lối sống cộng đồng. Lý thuyết tương tác Các nhà thuyết tương tác cho rằng xã hội được tạo thành từ sự tương tác của vô số các cá nhân, bất kì một hành vi, cử chỉ nào của con người đều có vô số các ý nghĩa khác nhau, hành vi và hoạt động của con người không những phụ thuộc mà còn thay đổi cùng với các ý nghĩa bi ểu trưng, càn nghiên cứu các tương tác xã hội và bi ểu hiện của các tương tác đó. 38
- 39 E. Hugles l à người đầu tiên bắt đầu nghiên cứu nghề nghi ệp qua thuyết tương tác đã xem xét đặc thù của quan hệ tương tác trong những nhóm đó trong hành nghề thực tế của họ và đưa ra được một bộ quan niệm chung làm cơ sở để khái quát nghề( quyền hành nghề, tính ủy quyền, thăng tiến, nghề nghiệp, phân đoạn nghê nghiệp). Theo ông, khi nghiên cứu nghề nghiệp dưới góc độ của thuyết tương tác cần phải tìm hiểu về quá trình của cá nhân đến với nghề và công việc thường nhật của họ, công việc của họ, sự tương tác của cá cá nhận trong nhóm nghề nghiệp. Ông cũng chỉ ra “nhóm nghề nghi ệp không đơn giản chỉ l à những người cùng tham gia vào cùng một dạng việc l àm mà trước hết phải là nhóm cố kết với nhau t hông qua tương tác. Chính quá trình tương tác đưa họ đến chỗ tự tổ chức bảo vệ quyền tự chủ và duy trì các phạm vi việc làm của họ nhằm cạnh tranh hiệu quả với bên ngoài, nhất là hạn chế bớt cạnh t ranh nội bộ. Như vậy, theo thuyết tương t ác, l àng nghề t ruyền thống cần có những nguyên t ắc chung cho cả cộng đồng làng, mối quan hệ của các cá nhân trong cộng đồng đó. Qua đó, t huyết tương tác đi sâu và nghiên cứu cá nhân là nghệ nhân và nhứng hoạt động thường nhật của cá nhân, người làm nghề truyền thống, lối sống và cách ứng xử qua nghề nghiệp mà họ đảm nhiệm. A2. Không gian làng nghề, bố trí không gian trong từng gia đình làm nghề Không gian làng nghề: Làng lụa Vạn Phúc nằm ven đê sông Nhuệ Giang, và tuyến phố Vạn Phúc, cách đường Nguyễn T rãi – Hà Đông khoảng 700m, có diên tích khoảng 1km2. Các xưởng dệt lụa lớn thường tập trung t ại một khu vực nhỏ, nằm gần chợ V ạn Phúc và ngay sát mặt đường phố Vạn Phúc đi vào. Đó cũng l à nơi t ập trung các cửa hiệu bán sản phẩm lụa lớn, sang trọng cho khách nước ngoài. Theo quan sát 1 xưởng lụa có 10 máy dệt, 8 người làm, có 2 nam đang sửa máy dệt, 2 nữ đang dệt, 2 nữ đang thăm go. Đồng thời có 2 nữ vừa dệt vừa chạy ra chạy vào để máy dệt tự động. Quan sát 1 chị đang dệt cho thấy, vì dệt 1 tấm lụa khó nên chị rất tỉ mỉ, chỉnh găng, thay thoi thoăn thoắt. => Đi ều này cho t hấy công việc dệt là công vi ệc khó khăn, cần có độ tỉ mỉ cao, khéo léo, thành thạo. Bố trí không gian trong gia đình làm nghề dệt lụa: hầu hết tại các gia đì nh có xưởng dệt l ớn đều có bố trí kết hợp của hàng bán lụa, và các sản phẩm lụa ở phí a trước nhà, phí a bên trong là xưởng dệt và thường nằm ở bên phí a hiên nhà. 39
- 40 Lối sống của người dân gắn liền với hoạt động dệt lụa, gắn chặt với giá t rị làng nghề, những nét đặc sắc trong họa tiết, hoa văn trên lụa dệt, vẻ đẹp, khéo léo của nghệ nhân dệt lụa ở đây mà không nơi nào có được. A3. Mô tả làng nghề truyền thống: Lụa Vạn Phúc- Hà Đông 3. 1 Quá trình hình thành và phát triển làng nghề: Làng lụa V ạn Phúc vốn có tên Vạn B ảo,đến đời nhà Nguyễn được đổi thành Vạn Phúc. Cách đây khonagr 1200 năm, bà A Lã Thị Nương là vợ của Cao Biên, thái t hú Giao Chỉ từng sống ở trang Vạn Bảo, đã dạy dân cách làm ăn và truyền nghề dệt l ụa. Sau khi bà mất được phong làm thành hoàng làng, bà tổ của nghề dệt l ụa. Lụa Vạn Phúc được giới thiệu lần đầu ra quốc tế tại các hội chợ Marseill e (1931) và Pari s (1932), được người Pháp đánh giá l à loại sản phẩm tinh xảo của vùng Đông Dương t huộc Pháp. Từ 1958 đến 1988, sản phẩm lụa Vạn Phúc hầu hết được xuất sang các nước Đông Âu; từ 1990 xuất khẩu ra nhiều quốc gia trên thế gi ới, thu ngoại tệ về cho Việt Nam. Năm 2009, l àng Vạn Phúc có khoảng 1000 khung dệt, sản xuất nhiều l oại l ụa cung cấp cho t hị trường trong và ngoài nước, trong đó có các loại lụa cao cấp như lụa vân quế hồng diệp, lụa vân lưỡng long song phượng. 3. 2. Quá trình vào nghề của các nghệ nhân và đời sống thường nhật của họ: - Các công đoạn để làm ra tấm vải: + Mua tơ về xe sợi + Nhuộm sợi + Chuẩn bị máy dệt , khung dệt + Thăm go + Sơ lan + Dệt Về nghề dệt lụa và những cá nhân trong nghề: Theo quan sát một số nhà dân làm nghề dệt lụa thì phần lớn những người làm nghề dệt là nữ, tuổi từ khoảng 20 đến 50 tuổi. Họ có thể tham gia vào nghề bất cử ở giai đoạn nào trong quá trình tạo một tấm vải. Một số người không phải là người sinh và lớn l ên ở làng lụa vẫn có thể học nhưng khó khăn hơn những người tiếp xúc từ nhỏ, làm quen với khung cửi và máy dệt như hiện nay. Tôi được tiếp xúc với chị Lan l à người được lớn lên ở làng l ụa. Gia đình chị hiện giờ vẫn đang dệt bán lụa. Chị được học dệt từ khi chị mới 14 t uổi để giúp đỡ mẹ chị dệt vải và bắt đầu dệt thường xuyên khi chị 18 tuổi khi đã nghỉ học. Chị cho rằng học dệt cũng không khó l ắm, 40
- 41 với nhi ều người không sinh ra và lớn lên với nghề dệt lụa cũng có thể học và dệt được, thậm chí cả t hêu. Mọi người phải mua tơ về để xe t ơ và nhuộm. Có thể mua tơ ở Bảo Lộc. Vải cũng có nhi ều loại và giá tiền theo t ừng l oại riêng biệt, đắt nhất là tơ tằm 100%, rẻ nhất là vải lanh vì có pha nhiều sợi hóa chất. Theo tìm hiểu, làng Vạn phúc có chủ tịch làng nghề, có khoảng hơn 30 hộ dệt vải, trong đó có những hộ dệt tại nhà riêng, có những hộ mở xưởng thuê nhân công từ nơi khác hoặc ngay trong làng để dệt và hưởng lương theo sản phẩm, theo tháng. Hiện nay, có một số gia đì nh vẫn có khung cửi nhưng mội gia đì nh đề áp dụng khoa học kĩ thuật, s ử dụng máy để dệt cho nhanh và đỡ vất vả, tuy nhiên, các nghệ nhân cho rằng dệt bằng máy vẫn xảy ra lỗi, tấm vải đôi khi không được mềm mại như khi dệt tay. Các nghệ nhân trong làng vẫn cố gắng truyền nghề cho con cháu bằng cách dệt tay. Dệt lụa khá vất cả, cần sự t ỉ mỉ và chăm chỉ nếu không sẽ hỏng cả 1 tấm vải. Quan sát chị Thường t ại 1 xưởng dệt đầu chợ lụa cho thấy: cả chân và tay đều cần phải nhịp nhàng, khéo léo, không thì tấm sợ sẽ không đều, cần phải chỉnh văng và đưa các thoi có các sợi chỉ màu vào t rong khung máy. Vải được dệt sẽ từ từ đi ra dưới gầm phía dưới văng. Chị cũng cho biết: “ Dệt cũng không vất vả vì có sự t ham gia của máy móc động cơ nhưng cần phải chú ý, đưa thoi vào đều đặn không thì vải sẽ hỏng. Tuy nhiên đối với những tấm vải đơn giản thì cứ để tự nhiên cho máy dệt ”. Từ phỏng vấn và quan sát cho thấy hầu như trong làng đều sử dụng máy để dệt, công việc dệt vải khá vất vả, cả nam và nữ có thể tham gia. Điều này có ảnh hưởng gì đến đời sống thường nhật của họ? Qua phỏng vấn và quan sát được biết, hầu như mọi người không phải dậy sớm nhưng phải đi đúng giờ nếu l àm ở xưởng dệt, mọi người có thể làm thêm gi ờ để có gắng làm cho xong vải mà người mua đã đặt trước. “Nhà cô đôi khi làm đến tận 10h, làm cho kịp gi ao hàng cho người ta. Người t a đã đặt trước rùi. K hi ăn, cũng phải để ý đến máy dệt, còn đưa thoi, chỉnh văng nữa Máy chạy rầm rầm, đau đầu lắm nhưng phải cố. Đó là công việc của mì nh mà.”(cô H, 45 tuổi). Nghề dệt rất vất vả nhưng có sự tham gia của khoa học kĩ thuật, máy móc t hì sự vất vả này có vơi đi phần nào nhưng cũng còn rất vất vả, dệt đã đi vào đời sống, Họ dệt vải nhiều đôi khi gây ra một số bệnh như mỏi lưng, sước tay, khó chịu do âm thanh của máy dệt nhưng thu nhập và số lượng sản phẩm khi có sự tham gia của khoa học kĩ thuật đã tăng lên rất nhiều. 41
- 42 Do làm nghề dệt nên hầu như họ không có nghề nào khác, khi lấy chồng và vợ thì người vợ phải học dệt vải nếu không Về sự truyền nghề, nhiều gia đình t rước đây cũng dệt vải nhưng t rong những năm gần đây, do cơ chế của thị t rường, mọi người không còn giữ nghề truyền thống nữa. Họ cho rằng việc học hành cũng rất quan trọng, con cháu họ nếu học hành, t hi cử đỗ đạt thì sẽ thoát khỏi công vi ệc chân tay này. Tuy nhiên, một số gia đì nh lại cho con học nghề khi còn nhỏ để không làm mất đi cái nghề của cha ông. Nghề được truyền cả khi dệt bằng khung cửi lẫn máy dệt. Người được truyền có t hể được học t ất cả các công đoạn đẻ tạo nên 1 t ấm vả mà cũng có thể được học t ừng công đoạn một. Có người chỉ học gi ỏi và t hành t hạo 1 công đoạn như nhuộm hoặc thêu. Nhưng khi đã dạy hay t ruyền nghề cho ai đều rất công phu, tỉ mỉ, học được những điều cơ bản cũng như nét riêng của nghề truyền thống. “ Cô cho các em đi học hết, chúng nó không phải tham gia bất kì hoạt động nào của vi ệc dệt vải. Đó là công việc của cô và người l ớn. Nhưng các em vẫn biết dệt vì quan sát và cô cũng muốn dạy qua cho các em để khỏi mất nghề nhưng không thành t hạo. Nếu các em không đỗ đạt thì có thể tham gia học nghề sau”.(Cô H, 45 tuổi ). Như vậy, nghề được truyền cho con cháu nhưng không còn được coi t rọng như trước đây. Một số người từ nơi khác đến có t hể học nghề và tùy vào kĩ năng học nghề của họ mà họ có thể biết dệt, nhuộm, thêu Người học dệt không nhất t hiết là người sinh ra và lớn lên trong làng nghề nhưng hầu như những người si nh ra và l ớn lên trong gia đình có truyền thống dệt vải thì đều biết dệt. Về nét riêng của lụa Vạn Phúc: có nhiều loại như l ụa, là, gấm, vóc, vân, the, l ĩnh, bằng, đoạn, sa, kỳ, cầu, đũi. Khổ vải thường là 90-97cm, nổi tiếng nhất trong các loại lụa Vạn Phúc có lẽ l à lụa vân - loại lụa mà hoa văn nổi vân trên mặt lụa mượt. Lụa vân nói riêng và lụa Vạn Phúc nói chung có đặc điểm ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè. Hoa văn trang t rí trên vải lụa rất đa dạng như mẫu Song hạc, mẫu Thọ Đỉnh, mẫu T ứ Quý Lụa Vạn Phúc có độ tinh sảo, mềm mại, óng ả riêng thể hiện tay nghề và nét truyền t hống của các nghệ nhân. Về giá trị chung và sự tương tác của các cá nhân trong cũng một làng nghề: Các gia đình còn làm nghề dệt l ụa có tổ chức làng nghề, chủ tịch làng nghề là nghệ nhân Nguyễn H ữu Chỉnh, có ngày hội làng, thờ cúng thần hoàng làng. Những nét văn hóa này giúp gắn kết những cá nhân và gia đình làm nghề truyền thống với nhau. Họ vui chơi, trao đổi các phương thức sản xuất, các loại vải, các mẫ mã và các đơn đặt hàng. T hông qua giao tiếp và 42
- 43 cùng đạt mục đích chung cho cả hiệp hội làng nghề là các mẫu mã đẹp, đa dạng, các khách hàng, ứng dụng khoa học vào công việc khi ến các cá nhân, nghệ nhân gần gũi nhau hơn. “ Cũng có hội họp suốt chứ cháu. K hi nào có vấn đề nào xảy ra hay có đơn đặt hàng có số lượng l ớn l à trao đổi với nhau để cùng làm, kị p giao hàng chi người ta. Cũng phải trao đổi với nhau về cách t hức thay đổi để có sản phẩm nhanh, đẹp và bền đáp ứng nhu cầu của thị trường và sở t hích của khách hàng. Phải cùng nhau họp bàn đấy ”(Cô H, 45 tuổi, có máy dệt riêng) Mặt khác, các gia đình không có máy dệt có t hể tham gia đi dệt ở những xưởng dệt trong l àng và ăn lương t heo tay nghề, sản phẩm, thời gian làm việc. Họ gắn kết với nhau không chỉ với vai trò là người làm – người chủ mà còn gắn kết với nhau bởi những người ở chung một làng nghề, cùng làm một nghề, cùng phường hội. Làng mở ra một chợ, cửa hàng chuyên bán lụa và vải, quần áo do làng làm nên mà khách hàng ở đâu không chỉ cho những người trong nước mà cả người nước ngoài. Các sản phẩm của làng nghề được bán t rong cả nước và nước ngoài, những nơi có nhu cầu đặt hàng lụa Vạn Phúc. Ngoài ra, lụa còn được bán ở trên phố cổ như Hàng Ngang, Hàng Đào Điểm nổi bật trong quan hệ tương tác gi ữa cá nhân trong cùng một ngành nghề là những nghệ nhân và những người l ão làng, có t ay nghề cao được kính trong và tôn vinh, là người được những cá nhân t rong làng tham khảo ý kiến khi dệt lụa và những quyết đị nh trong làng. 4. Kết luận: Nghề dệt lụa có ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam nhưng lụa Vạn Phúc có một nét đặc trưng rất riêng về mẫu mã, chất lượng, độ tinh xảo và hoa văn. Các cá nhân trong làng nghề được đào tạo một cách công phu, tỉ mỉ mang nét đặc trưng riêng trong dệt và thêu. Tuy nhi ên, nghề nghiệp đã có tác động l ớn đến các cá nhân trong sinh hoạt và đời sống thường nhật. Cá nhân có thể ăn uống không đúng giờ, làm việc vất vả và mệt mỏi. Đồng thời, đi ều này cũng ảnh hưởng đến những mốc quan trọng của cuộc đời như hôn nhân, khi lấy chồng không biết làm nghề khác. Những các nhân trong làng nghề được gắn kết với nhau qua lễ hội t hần hoàng làng, hiệp hội làng nghề, các đơn đặt hàng, thu nhập của mỗi gia đình, cùng sản xuất những sản phẩm chất lượng, độc đáo mang nét riêng biệt của lụa Vạn Phúc. Các cá nhân trong làng nghề tôn trong l ẫn nhau, kính trọng những nghệ nhân, những cá nhân có tay nghề cao t rong làng. 4. Mô hình của Davis 43