Câu hỏi ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh

doc 47 trang hapham 2400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Câu hỏi ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doccau_hoi_on_tap_tu_tuong_ho_chi_minh.doc

Nội dung text: Câu hỏi ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh

  1. Câu1: Trình bày tiền đề tư tưởng lý luận hình thành tư tưởng HCM? Cho biết yếu tố nào quyết định bản chất tư tưởng HCM? Tại sao? Trả lời: Khái quát khái niệm TTHCM, Báo cáo chính trị Đại hội 9 (tháng 4/2001) khẳng định: “TTHCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CMVN, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo CN Mác Lênin, vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, bao gồm: Tư tưởng HCM về dân tộc và Cách Mạng giải phóng dân tộc. Tư tưởng HCM về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Tư tưởng HCM về Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tư tưởng HCM về Đại Đoàn Kết dân tộc. Tư tưởng HCM về Quân sự. Tư tưởng HCM về Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tư tưởng HCM về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Tư tưởng đạo đức HCM. Tư tưởng nhân văn HCM. a.Truyền thống lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam: Là người con ưu tú nhất của dân tộc, Tư tưởng HCM bắt nguồn trước hết từ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; quê hương gia đình. Chủ Nghĩa yêu nước Việt Nam: Tinh thần anh hùng bất khuất trong công cuộc dựng nước và giữ nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử, là nhân tố đứng đầu, là giá trị tinh thần con người Việt Nam, là đạo lý làm người, là niềm tự hào dân tộc, là bản sắc văn hóa tạo thành động lực, thành sức mạnh tồn tại và phát triển của dân tộc suốt 4000 năm. ĐH 2 (2/1957) HCM khẳng định: “Dân tộc ta có một lòng yêu nước nồng nàn, đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Truyền thống đoàn kết tương thân tương ái: Nhân nghĩa, thủy chung, cưu mang đùm bọc, lá lành đùm lá rách, truyền thống này bắt nguồn từ yêu cầu chống thiên tai thường xuyên của dân tộc. Kế thừa nâng cao truyền thống này trong quá trình Cách mạng, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, Đảng viên, Nhân dân ta phải thực hiện bốn chữ: Đồng lòng, Đồng sức, Đồng tình, Đồng minh.
  2. Truyền thống thông minh, sáng tạo, cần cù, nhẫn nại: Trong lao động sản xuất và chống xâm lược Truyền thống hiếu học, cầu tiến, hòa hợp, lạc quan yêu đời: . Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc bắt đầu từ truyền thống quê hương, gia đình. Nghệ Tĩnh, quê hương người là mãnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, là vùng địa linh, nhân kiệt, nơi sản sinh nuôi dưỡng nhiều anh hùng dân tộc như Mai Thúc Loan (chống nhà Đường, xây thành Vạn An 722), Nguyễn Biễu, tướng nhà Trần, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phạm Hồng Thái, Trần Phú; nơi có thành quách, đại vạc, đại huệ do Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương xây dựng, có di tích thành Lục Niên do Lê Lợi xây dựng. Nơi sinh đại thi hào, danh nhân Nguyễn Du, từ 1635 – 1901 có 193 người đậu tú tài, cử nhân, có một Nguyễn Sinh Sắc đậu đại khoa phó bảng. Truyền thống gia đình: Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn trước hết từ truyền thống gia đình bên nội, ngoại, nhất là Tư tưởng, phong cách của Nguyễn Sinh Sắc_ Thân sinh Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu sắc lòng vị tha, nhân hậu, thủy chung cần mẫn của người mẹ, tình yêu thương nhân hậu sâu nặng của ông bà ngoại, Tất cả những nhân cách gần gủi, thân thương đó là tác động mạnh mẽ tới việc hình thành nhân cách Hồ Chí Minh từ tấm bé. b. Tinh hoa văn hóa nhân loại: -Tinh hoa văn hóa phương Đông: Trước hết là Nho giáo: Hồ Chí Minh coi trọng kế thừa và phát triển những mặt tích cực của Nho giáo. Đó là thứ triết học hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, triết lý nhân sinh: tu thân, dưỡng tính, đề cao văn hóa, đạo đức, lễ giáo, nhân nghĩa, Trí, Tín, Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người phê phán những hạn chế, tiêu cực của Nho giáo như tư tưởng đẳng cấp, quân tử, tiểu nhân, chính danh định phận, coi khinh phụ nữ, lao động chân tay, thuế nghiệp doanh lợi, Với Phật giáo, người tiếp thu tư tưởng vị tha, chân, thiện, từ bi, cứu nạn, cứu khổ, thương người như thể thương thân, lối sống đạo đức, trong sạch giản dị, chăm làm điều thiện (không nói dối, không tà dâm, không sát sinh, không trộm cắp, không uống rượu, )
  3. Phật giáo Thiền tông vào Việt Nam đề ra luật chấp tác: Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực, thiền phái Trúc Lâm Việt Nam chủ trương nhập thế gắn với dân chống kẻ thù xâm lược. Người tiếp thu lòng nhân ái, hi sinh cao cả của Thiên chúa giáo. Người tiếp thu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) Chủ Nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách Tam dân thích hợp với ta. Khổng Tử, Giê Su, Mác, Đức Phật, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm đó sao? Các vị ấy đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu các vị ấy còn sống trên cõi đời này, nếu các vị ấy hợp lại một chỗ, tôi tin rằng các vị ấy nhất định sẽ sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân nhất. Tôi nguyện là học trò nhỏ của các vị ấy. -Tinh hoa văn hóa Phương Tây: Xuất thân từ gia đình khoa bảng, tư chất thông minh, trình độ quốc học, hán học vững vàng, người học hỏi không ngừng khi bôn ba năm châu bốn biển, đã thông thái những ngôn ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của nhân loại, người am tường văn hóa Đông, Tây, kim cổ, người tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông Tây. Nguyễn Sinh Sắc (1863 – 1929) 66 tuổi: mồ côi cha lúc 3 tuổi, mồ côi mẹ lúc 4 tuổi, ở với người anh nhà nghèo lao động vất vả. Ông được cụ Hoàng Đường (ông Đồ) ở Hoàng Trù xin về nuôi dạy cho ăn học và gã con gái (Hoàng Thị Loan 1868 – 1901). Ông rất thông minh, có chí lớn học hành vào loại tứ hổ trong vùng (uyên bác bất như San, tài hoa bất như Quý, chường ký bất như Lương, thông minh bất như Sắc: nghĩa là uyên bác không ai bằng Phan Văn San, tài hoa không ai sánh bằng Nguyễn Thúc Quý, tài giỏi không ai qua Trần Văn Lương, thông minh không ai địch nổi Nguyễn Sinh Sắc). Có người gọi ông là “quan phó bảng” Ba mươi (30) năm sống ở nước ngoài, chủ yếu ở Châu Âu, người chịu ảnh hưởng sâu rộng những giá trị văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây. Người tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của đại Cách mạng Pháp ( Khi học ở Vinh, ở Huế, người đã chủ tâm tìm hiểu những tư tưởng này, sau này khi trở lại Pháp 1917, người tiếp thu tận gốc những phương pháp này trong các tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp: Mông Teskiô, Rút xô, Vin Tie) Nghiên cứu Cách mạng Tư sản Mỹ 1776
  4. Vận dụng những tư tưởng tiến bộ và Cách mạng của Cách mạng Pháp, Mỹ Thông qua sinh hoạt phong cách dân chủ của người điển hình trong thực tiễn, là cơ sở để hình thành chính kiến trong Đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua 1920 và trở thành người Cộng Sản. Nhờ tiếp thu tư tưởng dân chủ Cách mạng, phương pháp, phong cách làm việc khoa học và được rèn luyện trong phong trào CN, sinh hoạt ở Đảng xã hội, Đảng Cộng Sản Pháp, được sự dìu dắt của các nhà văn hóa, khoa học, lịch sử, trí thức Pháp như M Ca Sanh, P.Cuturie, G Mông Mut Xê, Long Ghê, Lion Blum, Nguyễn Ái Quốc trưởng thành dần về chính trị, tư tưởng và tổ chức. c. Chủ nghĩa Mác Lê Nin – Thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng HCM Chủ nghĩa Mác Lê Nin là đỉnh cao trí tuệ nhân loại bao gồm 3 bộ phận cấu thành: Triết học giúp Hồ Chí Minh hình thành thế giới quan, phương pháp biện chứng, nhân sinh quan, khoa học, Cách Mạng, thấy được những quy luật vận động phát triển của thế giới và xã hội loài người. Kinh tế chính trị học vạch rõ các quan hệ xã hội được hình thành phát triển gắn với quá trình sản xuất, thấy được bản chất bốc lột của chủ nghĩa Tư bản đối với CN, xóa bỏ bốc lột gắn liền với xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản Chủ Nghĩa xã hội KH vạch ra quy luật phát sinh, hình thành, phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, những điều kiện, tiền đề, nguyên tắc, con đường, học thức, phương pháp của giai cấp CN, nhân dân lao động để thực hiện sự chuyển biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản. Như vậy, chủ nghĩa Mác Lê Nin với bản chất Cách mạng và khoa học của nó giúp Người chuyển biến từ Chủ nghĩa yêu nước không có khuynh hướng rõ rệt thành người cộng sản, chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thấy vai trò của quần chúng nhân dân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp CN, liên minh công nông trí thức và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản trong cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh đã vận động sáng tạo Chủ nghĩa Mác Lê Nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, giải đáp được những vấn đề thực tiễn đặt ra, đưa cách mạng nước ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh:
  5. Là người có đầu óc thông minh sáng suốt, năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, học vấn uyên bác, năng lực phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp sâu sắc. Có sự khổ công học tập, rèn luyện nhằm chiếm lĩnh vốn trí thức đồ sộ của nhân loại, tiếp thu kinh nghiệm, bề dày của phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc. Có tấm lòng yêu nước, thương dân, thương yêu những con người cùng khổ vô bờ bến, một chiến sĩ cộng sản quả cảm, nhiệt thành sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc, nhân dân, dân tộc và nhân loại. Có ý chí nghị lực kiên cường, những phẩm chất được tôi luyện đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc, thời đại thành những tư tưởng đặc sắc độc đáo của mình. Yếu tố nào quyết định bản chất TT HCM?Tại sao? Chủ nghĩa mác lê nin là yếu tố quyết định bản chất tt HCM. HCM khẳng định rằng:Chủ nghĩa Mác lê nin là cẩm nang thần kì, là mặt trời soi sáng chúng ta đến thắng lợi cuối cùng. CN Mac Lenin là nguồn gốc lý luận quan trọng nhất là bởi vì. -CN Mac Lennin làm nòng cốt trong Đảng ai cũng phải hiểu ai cũng phải theo CN ấy. Đảng mà không có CN ấy thì sẽ như người không có trí không, tàu không có kim chi nam” Thực tiễn cho thấy trong suốt quá trình tìm đường cứu nước HCM đã đi qua nhiều Châu Lục tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, văn minh của thế giới, đồng thời tiếp cận được nhiều học thuyết, tư tưởng HCM chỉ xảy ra khi người tiếp cận với cn Mac Lenin, học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất,CM nhất. Thế giới quan và phương pháp luận của CN Mac Lenin, Học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất. CM nhất. thế giới quan và phương pháp luận của CH Mac Lenin đã giúp HCM nhìn nhận đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng đương thời cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, của mình để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho sự nghiệp GP dtộc. Câu 2. Trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng HCM? Thời kì nào đánh dấu sự phát triển về chất tt HCM? Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển qua 5 giai đoạn: 1. Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng Cách mạng 1890 – 1911: Thời trẻ sống trong môi trường gia đình, quê hương, Hồ Chí Minh tiếp thu kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của dân tộc, vốn văn hóa quốc học, hán học và bước đầu tiếp thu văn hóa phương Tây, chứng kiến cảnh sống nô lệ lầm than của dân tộc, tiếp thu tinh thần bất khuất của các bậc cha anh, hình thành hoài bão cứu nước cứu dân. 2. Giai đoạn tiến tới khảo nghiệm 1911 – 1920:
  6. Đi qua 30 nước, chặng đường 22 vạn km, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn của thế giới, khảo sát cuộc sống của các dân tộc bị áp bức, tiếp xúc với cương lĩnh Lê Nin, tiến thẳng con đường giải phóng dân tộc chân chính. Người đứng hẳn về quốc tế 3, tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về bản chất tư tưởng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác Lê Nin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. 3. Giai đoạn hình thành cơ bản TTHCM về con đường Cách Mạng Việt Nam 1920 – 1930: HCM đã có thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi, phong phú trên địa bàn pháp 1921-1923 Liên Xô 1923-1924 Trung Quốc 1924-1927.Thái Lan 1928-1929. trong 9 năm này tư tưởng HCM về cm VN đã hình thành cơ bản. HCm đã kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận, kết hợp với truyền thống tư tưởng giải pháp dt và đồng tổ chức quần chúng đấu tranh. XD tổ chức CM, chuẩn bị thành lập ĐCS VN. Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong ban nghiên cứu thuộc địa Đảng Cộng sản Pháp. Sáng lập Hội Liên Hiệp thuộc địa. Viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Cách Mệnh”. Tháng 2/1930 chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam, soạn các văn kiện, các văn kiện này cùng với tác phẩm bản án đường Cách Mệnh, đánh dấu sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh. 4. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường cách mạng được xác định 1930 – 1941: Trong mấy năm đầu những năm 30 tt NA Quốc về cm VN thể hiện trong văn kiện tháng 2- 1930 bị quan điểm khuynh tả QTCS phê phán nhưng HCM đã kiên trì giữ vững quan điểm CM của mình. Sau này trước tình hình tg mới QTCS đã thừa nhận 1 loạt vấn đề cơ bản của phong trào cn thế giớ dẫn đến hướng chủ đạo chiến lược. Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết tạm gác lại khẩu hiệu “CM ruộng đất” xóa bỏ vấn đề liên bang Đông dương, lấy mặt trận Việt Minh đưa tới thắng lợi CM T8 -1945 đó cũng là thắng lợi đầu tiên của Tt HCM 5. Giai đoạn hiện thực hóa TTHCM: Ngày 28/1/1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo Cách Mạng, Người đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tháng 5/1941, chủ trì Hội Nghị Trung Ương 8 quyết định “tạm gác” khấu hiệu ruộng đất, xóa bỏ vấn đề liên bang Đông Dương, thành lập mặt trận Việt Minh, đại đoàn kết dân tộc, cơ sở liên minh công nông nhờ đó Cách Mạng Tháng 8 thành công. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của Hồ Chí Minh.
  7. Sau cách mạng tháng 8, cả nước phải tiến hành kháng chiến chống Pháp lần 2 và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa giải phóng miền Nam. Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển hoàn thiện Trước khi qua đời, Người để lại một bản di chúc thiêng liêng kết tinh những giá trị đạo đức, tư tưởng, nhân cách, tâm hồn cao đẹp của một người lãnh tụ vĩ đại, suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, nhân dân và nhân loại. Di chúc tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh thắng lợi của CMVN, vạch định hứơng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi. Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc di sản tinh thần vô giá của Bác Hồ, ĐH 7 đã khẳng định Đảng lấy chủ nghĩa chủ nghĩa Mác, , tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự là nguồn gốc trí tuệ, động lực thúc đẩy sự nghiệp CMVN. Ý 2:Thời kì đánh dấu phát triển về chất: giai đoạn 1921-1930 là giai đoạn quan trọng nhất vì trong thời kỳ này đã thể hiện những quan điểm lớn và độc đáo sáng tạo về con đường CM VN, Tư tưởng đó biểu hiện ở những luận điểm sau. + CM theo con đường CMVS, có khả năng thắng lợi trứớc CMVS ở chính quốc. + CM gp dân tộc ở VN là 1 bộ phận của CM VS thế giới + CMGPDT là sự nghiệp của tất cả quần chúng nhân dân Câu 3; Quan niệm HCm về vấn đề dân tộc: Dân tộc là vấn đề mang tính lịch sử. Trước khi dân tộc ra đời, xã hội đã có những hình thức cộng đồng: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Mác, ĂngGen đã nêu những quan điểm cơ bản có tính phương pháp luận để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc. Lê Nin kế thừa và phát triển những quan điểm trên thành một hệ thống lý luận toàn diện, sâu sắc, tạo cơ sở cho cương lĩnh, đường lối , chính sách dân tộc của các Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc. Là dân nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc sớm nhận thức vấn đề dân tộc, Như vậy, vấn đề dân tộc trong TTHCM là vấn đề giải phóng dân tộc thuộc địa, thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức bốc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, xây dựng nhà nước độc lập. 1. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc: Là dân nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã man của CN thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, người thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng vì dân tộc đó mất độc lập, tự do. Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng khỏi chủ nghĩa thực dân. Nên độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau: Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và quan trọng nhất là độc lập về chính trị. Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự quyết định.
  8. Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân. Vì thế, nền độc lập của Việt nam phải theo nguyên tắc nước Việt nam của người Việt Nam, mọi vấn đề về chủ quyền quốc gia phải do người dân Việt Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài. Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhất và bất khả xâm phạm. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là triết lý Cách mạng Hồ Chí Minh và của dân tộc VIệt Nam. Đó cũng là nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho một nền độc lập tự do, thống nhất đất nước, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của người dân. 2. Vấn đề dân tộc kết hợp nhuần nhuyễn với vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH: CN Mác Lê Nin đã giải quyết triệt để vấn đề này: (vấn đề dân tộc luôn gắn với vấn đề giai cấp, phụ thuộc vào vấn đề giai cấp, và dân tộc bao giờ cũng do một giai cấp đại diện, quan hệ này là quan hệ lợi ích, giai cấp phong kiến và tư sản đã từng đại diện cho dân tộc và giải quyết quan hệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc nhưng không triệt để, còn nhiều mâu thuẫn ví dụ vua quan Nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, bảo vệ lợi ích của dòng tộc, Pháp đầu hàng Đức, ) Ngày nay với tính chất, đặc điểm và địa vị lịch sử của mình chỉ có giai cấp CN mới có thể đại diện cho dân tộc và giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích này. Chỉ có giai cấp CN mới xóa bỏ triệt để nạn người bóc lột người, nhờ đó xóa bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc khác, giải phóng giai cấp công nhân cũng là giải phóng mọi giai tầng, xã hội khỏi sự phân chia thành giai cấp, mâu thuẫn xung đột giai cấp, vì thế giai cấp CN phải giành lấy chính quyền, tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm nêu trên của chủ nghĩa Mác Lê Nin vào Cách mạng giải phóng dân tộc, Người chỉ rõ 2 điểm: Các nước Đế quốc xâm lược cướp bóc thuộc địa làm cho mâu thuẫn giữa CN Đế quốc và thuộc địa nổi lên gay gắt. Giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải tập hợp đoàn kết mọi lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc. Ngày nay chỉ có giai cấp Công nhân mới có thể đoàn kết và lãnh đạo được mọi giai tầng làm Cách mạng giải phóng dân tộc. Ở các nước thuộc địa, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc là một động lực to lớn, đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính. Vì thế, khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, thì chủ nghĩa dân tộc ở đó nhất định sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế (thành chủ nghĩa Cộng sản). Vì thế, những người cộng sản ở các nước thuộc địa phải tự nắm lấy ngọn cờ dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của giai cấp CN.
  9. Như vậy, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp CN và của CM thế giới. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu loài người đem lại cho mọi người, không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc sự tự do, bình đẳng, bác ái thật sự. 3. Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với nghĩa vụ quốc tế: Chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế không đối lập mà thống nhất với nhau. Vì thế: Mỗi dân tộc phải đấu tranh giành và giữ độc lập cho dân tộc mình đồng thời phải ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc khác. Đây là sự gắn bó giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, giữa tinh thần dân tộc tự quyết với nghĩa vụ quốc tế. Sau cách mạng tháng 8, trả lời nhà báo Mỹ “Êly Mây si” về chính sách đối ngoại của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: . . .Việt nam can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, đồng thời kiên quyết chống lại mọi âm mưu, hành động xâm phạm quyền tự do, độc lập của Việt Nam, Với những nước xâm lược Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn chủ động tìm biện pháp ngăn chặn, nếu chiến tranh xảy ra thì luôn tìm cách kết thúc chiến tranh có lợi cho 2 dân tộc như tạo dư luận, áp lực quốc tế, chỉ đường cho bọn xâm lược rút khỏi Việt Nam trước khi bị tiêu diệt, Như vậy, ở Hồ Chí Minh, dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH gắn bó thống nhất với nhau, vì thế, mỗi Đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm trước dân tộc của mình, Cách mạng mỗi nước phải do người dân nước đó tự giành lấy, nhưng người nêu khẩu hiệu: giúp bạn là tự giúp mình, người luôn quan tâm giúp đỡ CM các nước Xiêm, Lào, Campuchia, Trung Quốc chống Nhật, phải bằng thắng lợi của Cm mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của CM thế giới. Câu 4: Trình bày những luận điểm cơ bản của TTHCM về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp.Tại sao HCM coi giải phóng dân tộc là động lực chính để phát triển đất nước? Câu 5: TT HCm về cách mạng Giải phóng dân tộc? Tại sao CMGPDT muốn thắng lợi phải đi theo cách mạng vô sản? 1. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường CM vô sản: Trước những thất bại và bế tắc của các phong trào chống Pháp, Nguyễn Tất Thành tìm đường cứu nước, Người nghiên cứu 3 cuộc CM điển hình: CM Mỹ 1776, CM tư sản Pháp 1789 và CM tháng 10 Nga, Người rút ra kết luận: CM Pháp cũng như CM Mỹ đều là CM tư sản, CM không đến nơi, tiếng là Cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa, chúng ta đã hi
  10. sinh làm CM thì làm đến nơi, làm sao khi CM rồi thì quyền giao lại cho dân chúng số nhiều, thế thì dân chúng khỏi phải hi sinh nhiều lần, dân chúng mới hạnh phúc. Trong thế giới bây giờ chỉ có CM tháng 10 là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng hạnh phúc tự do bình đẳng thật sự. Tiếp xúc với luận cương của Lê Nin, Người tìm thấy ở đó con đường giải phóng dân tộc và chỉ rõ: Các đế quốc vừa xâu xé thuộc địa, vừa liên kết nhau đàn áp CM thuộc địa; Thuộc địa cung cấp của cải và binh lính đánh thuê cho đế quốc để đàn áp CM chính quốc và thuộc địa. Vì thế giai cấp vô sản chính quốc và thuộc địa có chung kẻ thù và phải biết hỗ trợ nhau chống Đế quốc. Người ví CN đế quốc như con đỉa 2 vòi, 1 vòi cắm vào chính quốc, 1 vòi vươn sang thuộc địa, muốn giết nó thì phải cắt 2 vòi, phải phối hợp CM chính quốc với thuộc địa. CM giải phóng thuộc địa và CM chính quốc là 2 cánh của CM vô sản, muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CM vô sản. Ý 2 luôn: Thất bại của các phong trào yêu nước ở nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là do chưa có đường lối và phương pháp đúng đắn. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần yêu nước của những người đi trước, nhưng Người không tán thành con đường cứu nước của các vị ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mớị Ra nước ngoài tìm hiểu các cuộc cách mạng tư sản lớn trên thế giới như: cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tuy đã giành thắng lợi hơn 150 năm nay mà nhân dân lao động vẫn khổ và họ đang muốn làm cách mạng lần nữạ Nhận thức được rằng, cách mạng tư sản chỉ thay thế chế độ bóc lột này bằng chế chế độ bóc lột khác tinh vi hơn chứ không xóa bỏ được áp bức bóc lột, vì thế Người cho rằng đó là những cuộc cách mạng không đến nơi, không triệt để. Do đó, cứu nước theo ngọn cờ của giai cấp tư sản không phải là lối thoát cho dân tộc. - Từ khi đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh đã tìm thấy một con đường cứu nước mới: Con đường cách mạng vô sản. Người đã khẳng định: "Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, con đường cách mạng vô sản". 2. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp CN lãnh đạo: Trong các phong trào chống Pháp trước 1930 ở nước ta đã xuất hiện các đảng phái, hội, đoàn thể như Duy Tân Hội, Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhưng những Đảng này thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ, thiếu cơ sở rộng rãi trong quần chúng nên không thể lãnh đạo kháng chiến thành công và bị tan rã với các khuynh hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, tư sản. Từ thắng lợi của CM Tháng 10 Nga do Đảng CS lãnh đạo, người khẳng định: CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng lãnh đạo, không có Đảng chân chính lãnh đạo CM không thể thắng lợi. Đảng có vững CM mới thành công, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có CN làm cốt. Không có chủ nghĩa cũng
  11. như người không có trí khôn, không có kim chỉ nam. Đảng phải xác định rõ mục tiêu, lý tưởng CNCS, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng theo học thuyết Đảng kiểu mới của Lê Nin. 3. CM giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông: CN Mác Lê Nin khẳng định CM là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân lao động là người sáng tạo và quyết định sự phát triển lịch sử. Người chủ trương đưa CM Việt Nam theo con đường CM vô sản, nhưng chưa làm ngay CM vô sản, mà thực hiện CM giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai. Mục tiêu là giành độc lập dân tộc. Vì vậy CM là đoàn kết dân tộc, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu gom toàn lực đem tất cả ra giành độc lập tự do, đánh tan giặc Pháp Nhật xâm lược nước ta. Tập trung mọi lực lượng trong mặt trận để chống cường quyền, nhưng phải lấy công nông làm gốc. Đây là lực lượng đông đảo, nhưng lại bị 2, 3 tầng áp bức, là lực lượng có tinh thần CM triệt để nhất. * Khác Phan Bội Châu tập hợp 10 hạng người: phú hào, quý tộc, sĩ phu, du đồ, hội đảng, nhi nữ, anh sỹ, thông ngôn, ký lục, bồi bếp mà không có công, nông. 4. CM giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM vô sản chính quốc: Hồ Chí Minh chỉ rõ tính chủ động của CM thuộc địa: Thuộc địa là mắc xích yếu nhất trong hệ thống CNĐQ, trong khi đó nhân dân thuộc địa luôn có tinh thần yêu nước, căm thù xâm lược, họ sẽ vùng lên khi thời cơ đến. Vì vậy, năm 1924 Nguyễn Ái Quốc khẳng định: CM thuộc địa không những không phụ thuộc vào CMVS chính quốc mà có thể nổ ra và giành thắng lợi trước CM chính quốc và khi hoàn thành CM thuộc địa họ có thể giúp đỡ giai cấp vô sản chính quốc phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn. CM thuộc địa phải chủ động giành thắng lợi trước CMVS chính quốc, CM thuộc địa chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của nhân dân thuộc địa, phải đem sức ta tự giải phóng cho ta. 5. CM giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng nhân dân: Hồ Chí Minh khẳng định: Ở các nước thuộc địa, CN thực dân dùng bạo lực phản CM đàn áp các phong trào yêu nước. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải dùng bạo lực CM chống lại bạo lực phản CM. Bạo lực phản CM là bạo lực của quần chúng gồm lực lượng
  12. “chính trị” của quần chúng và lực lượng “vũ trang” với 2 hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang kết hợp với nhau. Để giành chính quyền phải bằng bạo lực, trước hết là khởi nghĩa vũ trang của quần chúng. Trong thời đại mới, thời đại CM vô sản thì cuộc khởi nghĩa vũ trang phải có sự ủng hộ của CM vô sản thế giới, CM Nga, thậm chí với CM vô sản Pháp. Câu 6: giống câu 5. Tại sao HCM khẳng định lực lượng CM GPQT bao gồm toàn dân tộc? Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, vũ trang toàn dân" – Câu 7: giống câu 5. cho biết tính sáng tạo của TTHCM về mối quan hệ giữa CM thuộc địa và CM vô sản chính quốc? Cách mạng Giải phóng dân tộc ở thuộc địa và chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau,qua lại nhau cùng chống lại 1 kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. đó là mối quan hệ bình đẳng chứ k phải quan hệ phụ thuộc, hoặc quan hệ chính- phụ. Năm 1925 Người viết :” chủ nghĩa đế quốc là con đỉa có 1 cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và 1 cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. nếu ngta muốn giết con vật ấy,ngta đồng thời phải cắt 2 cái vòi,nếu chỉ cắt 1 cái vòi thôi thì 1 cái vòi tiếp tục hút máu của chủ nghĩa vô sản.con vật vẫn còn sống, và cái vòi bị đứt sẽ mọc lại. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn.khối liên minh các dân tộc thuộc địa là cái cánh của cm vô sản, người khẳng định vị trí vai trò cm thuộc địa: vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới đặc biệt là vận mệnh gc vô sản các nc đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp thuộc địa. nọc độc con rắn TBCN đang tập trung ở các nc thuộc địa hơn là chính quốc.nếu xem thường CM ở thuộc địa ngĩa là muốn đánh rắn đằng đuôi, do vậy công cuộc dành thắng lợi phụ thuộc nhiều ở bản thân anhem. Câu 8: Cách mạng tháng Tám của Việt Nam là cuộc cách mạng đã chủ động giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc. Khi chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ tính chủ động của cách mạng ở các thuộc địa và không phụ thuộc vào việc cách mạng có nổ ra ở chính quốc hay không, chẳng những thế cách mạng ở thuộc địa còn có thể giúp đỡ những người anh em của mình là giai cấp vô sản ở chính quốc. Khi lãnh đạo và chỉ đạo cao trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nêu cao tinh thần chủ động này. Trong bản Chỉ thị ''Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta'' (12-3-1945) Trung ương Đảng cũng dự kiến khả năng cách mạng có thể nổ ra ở chính quốc (Nhật, Pháp) sẽ là điều kiện thuận lợi cho ta. Song, cách mạng đã không nổ ra ở các nước đó, mà cách mạng nổ ra và giành thắng lợi ở một nước thuộc địa là Việt Nam. Tính chủ động và sáng tạo đó không chờ tác động từ cách mạng chính quốc, cũng không nhờ vào lực lượng giải phóng từ bên ngoài tới, đã có ý nghĩa cổ vũ mạnh mẽ đối với sự nghiệp cách mạng ở các nước thuộc địa. Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm cho rằng CM thuộc địa phụ thuộc vào CMVS ở chính quốc thắng lợi. Luận cương về phong trào CM ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nêu ở đại hội VI quốc tế cộng sản 1928: "chỉ có thể thực hiện hoàn toàn
  13. công cuộc gpdt các thuộc địa khi giai cấp VS giành được thắng lợi ở các nước TB tiên tiến". Ý kiến này đã giảm tính chủ động, sáng tạo của CM thuộc địa. Ngay từ đại hội V quốc tế cộng sản (1924), NAQ đã chỉ rõ: vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh giai cấp VS ở các nước đi xâm lược thuộc địa phải gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa " Dựa vào quan điểm của Mác, "sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân". NAQ đi đến kết luận: "công cuộc giải phóng anh, em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em." NAQ nhận thức thuộc địa là khâu yếu của CNĐQ và nhờ đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yyn và tinh thần dt, ngày từ năm 1924, Người đã nói: CM thuộc địa không những không phục thuộc vào CMVS ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước" "họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn". Đây là cống hiến sáng tạo của HCM vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa M-L. CMVN đã chứng minh luận điểm của HCM là đúng. 5-CM gpdt phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân. - Cuộc khởi nghĩa của quần chúng phải có t/chất 1 cuộc khởi nghĩa vũ trang chứ không phải là nổi loạn. Do đó phải được chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra ở thành phố, theo kiểu cách mạng châu âu. Phải được nước Nga ủng hộ, phải trùng hợp với cách mạng vô sản pháp, phải gắn mật thiết với sự nghiệp CMVS thế giới. Tháng 5/1941, Hội nghị TW8 khóa 1 nhận định: cuộc cách mạng Đông Dương kết thúc bằng 1 cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là cuộc khởi nghĩa từng phần, từng địa phương mở đường cho cuộc khởi nghĩa lớn. Để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, HCM chỉ đạo: Phải xây dựng căn cứ địa cách mạng, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng tổ chức chính trị của quần chúng, lập đội du kích vũ trang, đón thời cơ, phát động cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 và giành thắng lợi chỉ trong vòng có hơn 10 ngày. Câu 10: Trình bày tính tất yếu CNXH ở Vn? ở Vn đã có CNXH chưa? Tại sao? 1.1. CNXH là quy luật khách quan, phổ biến trong quá trình phát triển của xã hội loài người Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã giải quyết triệt để vấn đề này, HCM vẫn có cách tiếp cận riêng ở chỗ: Sự ra đời CNXH là do sức SX của XH quy định, do sự phát triển kinh tế kỹ thuật mà XH phát triển từ CSNT > NL > PK> TB> CS. Đây là cách tiếp cận của CN Mac. Sự ra đời CNXH là do nhu cầu giải phóng con người một cách triệt để. Được nhìn nhận dưới 3 góc độ: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng từng cá nhân con người để hình thành liên hiệp các nhân cách phát triển tự do. Sự ra đời CNXH là một tất yếu đạo đức: theo quy luật cái chân cái thiện cái mỹ, tất yếu phải chiến thắng cái giả dối, cái ác, cái xấu, cái thấp hèn. HCM đồng nhất CNXH với một XH đạo đức, văn minh. Chiều sâu CNXH thực chất là vấn đề đạo đức XH.
  14. Sự ra đời CNXH là một tất yếu văn hóa. CNXH là một thước đo trình độ phát triển cao của nền văn minh. Văn hoá ở đây được hiểu là trình độ người của các quan hệ XH, là hệ thống các quá trình bền vững XH. Sự ra đời CNXH theo HCM là tổng hợp nhiều yếu tố, HCM đi đến nhận định các dân tộc thế giới chắc chắn cuối cùng sẽ đi lên CNXH. Đó là quy luật mà không ai có thể cưỡng lại được, không lực lượng nào có thể ngăn được mặt trời mọc, ngăn được loài người tiến lên CNXH. 1.2. Khả năng tiến lên CNXH của những nước châu Á CNXH là quy luật chung, nó tác động vào nước nào còn chịu sự chi phối của đặc điểm riêng của những nước đó. - Những mầm mống tư tưởng XHCN ở châu Á đã xuất hiện rất sớm, đó là các quan điểm sau: Quan điểm lấy dân làm gốc Quan điểm về công bằng, bình đẳng tài sản giữa những người lao động với nhau Tư tưởng về tình yêu thương hữu ái giữa người và người, nhất là những người lao khổ. Quan điểm về một xã hội đại đồng, một xã hội có những đặc điểm tư tưởng: thiên hạ vi công (thiên hạ là của chung mọi người kể cả kẻ nghèo người giàu), tuyển hiền nhiệt năng (tuyển người hiền tài người giỏi), các tàn kỳ năng (làm hết năng lực), các đắc kỳ sở (hưởng theo nhu cầu), giảm tính thư mục (coi trọng chữ tín chăm lo sự hóa đồng xă hội) Văn hoá như dòng chảy liên tục và CNXH có thể ra đời ở châu Á. - Tiền đề kinh tế xă hội ở châu Á làm xuất hiện tư tưởng CNXH từ sớm: - Dựa vào sự tàn bạo của CNTB ở các nước thuộc địa châu Á. Vào những năm 20 của thế kỷ 20 hầu hết các nước châu á trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương tây, CNTB đã để lại những hệ quả sau: Những tư tưởng cách mạng tiến bộ ban đầu, đó là tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của CM TS, tư tưởng tiến bộ này vào các nước thuộc địa, được tầng lớp tri thức tiếp thu phát triển ra dân chúng. Nếu có tư tưởng lý luận cách mạng, thì nhất định sẽ có phong trào cách mạng trong hiện thực. 1.3. CNXH là kết quả tất yếu của quá trình CMVN: Có 2 cơ sở
  15. Cơ sở lý luận: đó là lý luận CM không ngừng của CN Mác-Lê Nin, CMVN chuyển từ cách mạng Tư sản Dân quyền lên CNXH bỏ qua chế độ CNTB. Cơ sở thực tiễn: vận dụng lý luận vào thực tiễn Việt Nam, phân tích thực trạng KT – XH, CT, VH. HCM đã rút ra những mâu thuẫn cơ bản, thấy nhu cầu phát triển của dân tộc. Người rút ra những bài học thất bại của phong trào yêu nước trong khuôn khổ ý thức hệ PK, TS và kết luận: CM muốn thành công thì phải đi theo ý thức hệ mới, ý thức hệ Vô sản. Trong các cuộc cách mạng thế giới Người nói đến CM tháng 10 và tác động của nó với con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đảng ta kết luận. Sự lựa chọn năm 1920 của HCM về độc lập dân tộc CNXH là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. - Chủ nghĩa Dân tộc với CNCS. Làm cho đất nước Người có diện mạo như ngày nay. Câu11: Quan niệm TTHCM về đặc trưng,bản chất, động lực CHXH ở VN? TẠi sao coi con người là động lực quan trọng? 2.1. Hồ Chí Minh quan niệm CNXH là một quá trình phát triển Năm 1919 – 1920 trong các tác phẩm báo chí đầu tiên HCM chính thức sử dụng thuật ngữ CNXH, CNCS. Khi nói về CNCS Người gắn với vận mệnh các thuộc địa và triển vọng tương lai của các dân tộc bị áp bức. Trong 5 văn kiện ngày 3/2 (chính cương, sách lược, chương trình, điều lệ, lời kêu gọi) Hồ Chí Minh đều nói đến CNCS và coi đó là con đường phát triển của dân tộc Việt Nam Từ 1954 – 1969 do nhu cầu thực tiễn xây dựng CNXH, những bài viết nói về CNXH của người có nhiều hơn ( 8000 bài, 1635 văn kiện, 280 lần đề cập đến CNCS) 2.2. Quan niệm của HCM về CNXH. CNXH là gì ? Người có đề cập đến CNXH: CNXH là XH ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,tinh thần ngày càng tốt (có người cho rằng quan niệm như thế này là sơ đẳng, có người cho rằng có chiều sâu, có tính hợp lý) bởi vì CNXH là một xã hội có sự phát triển đồng đều cả về KT – XH, cả về vật chất và tinh thần. CNXH nói một cách tóm lược, mộc mạc trước hết làm cho người lao động thoát khỏi bần cùng, được sống ấm no, tự do, hạnh phúc. CNXH là một XH dân giàu nước mạnh, CNXH là sự phát triển phồn vinh của đất nước, dân tộc làm cho người đói trở nên ấm no, người đủ ăn trở nên khá, người khá trở nên giàu, người giàu ngày càng giàu thêm. Như vậy CNXH vẫn
  16. còn phân tầng, không phải cào bằng, còn động lực phát triển. Trung Quốc khẳng định CNXH là cùng nhau giàu có, miền đông giúp miền tây, vùng phát triển giúp vùng kém phát triển CNXH là nhà máy, xí nghiệp, ngân hàng làm của công, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Ở đây, Người đề cập tới sở hữu và phân phối trong CNXH. CNXH làm cho người lao động ai cũng có cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, được học hành, ốm đau có thuốc chữa bệnh. CNXH có thể thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu cho đại bộ phận người dân. CNXH làm cho các dân tộc bình đẳng, đoàn kết cùng nhau xây dựng cuộc sống no ấm hạnh phúc. Rút ra kết luận: CNXH được Hồ Chí Minh quan niệm rất giản dị, ngắn gọn, nhưng thiết thực dễ hiểu, dễ nhớ phù hợp với trình độ của từng đối tượng, làm cho ai cũng thấy được lợi ích ưu việt của CNXH bằng kinh nghiệm sống của mình, động viên mọi người tin yêu quyết tâm xây dựng CNXH Quan niệm CNXH như trên là khoa học, nhất quán, có lôgíc, hệ thống, có nấc thang phát triển từ thấp đến cao. Quan niệm về CNXH luôn gắn với thực tiễn, là kết quả của sự kết hợp kinh nghiệm thực tiễn nhân loại. Trước hết là Liên Xô và các nước CNXH. Từ đây rút ra các biện pháp đặc trưng của CNXH: CNXH là XH do người dân lao động làm chủ, nhà nước của dân do dân vì dân CNXH là XH có lực lượng sản xuất phát triển cao gắn với sự phát triển và KH – KT và văn hóa. Nền tảng kinh tế XHCN là chế độ sở hữu XHCN về những tư liệu sản xuất chủ yếu và chế độ phân phối cho lao động. XH có hệ thống các quan hệ xã hội lành mạnh bình đẳng, con người có điều kiện phát triển toàn diện. Động lực CNXH là phát huy sức dân, CNXH là công trình do nhân dân tự xây dựng lấy.
  17. CNXH làm cho các dân tộc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau xây dựng cuộc sống no ấm hạnh phúc. Đảng ta khái quát và đưa ra những đặc trưng về CNXH trong cương lĩnh 1991. Câu12:con đường và biện pháp thời kì quá độ lên CNXH? 1. Quan điểm của HCM về tính lâu dài phức tạp của thời kỳ quá độ lên CNXH 1.1. Quan điểm HCM về thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN Mác và AnGen khẳng định CNTB phát triển tới tột đỉnh thì sẽ làm cho CNXH ra đời. Đây là hình thức quá độ trực tiếp, từ những nước Tư bản phát triển cao lên thẳng CNXH. Ngoài hình thức quá độ trực tiếp Lênin còn đề cập hình thức quá độ gián tiếp lên CNXH ở những nước tiền tư bản. HCM cũng đề cập tới hai hình thức quá độ như trên, nhưng Người nhấn mạnh hình thức thứ hai, đó là quá độ lên CNXH ở tất cả các nước còn lại, kể cả các nước thuộc địa nửa phong kiến như VN. Hình thức này có hai đặc điểm: Bắt đầu lên CNXH khi Cách mạng Giải phóng Dân tộc giành được thắng lợi, thiết lập được chính quyền dân chủ nhân dân Hình thức quá độ này rất lâu dài - Năm 1943 trả lời Tiêu Văn( tướng của Tưởng Giới Thạch), ở VN sau 50 năm nữa thì có CNXH hay không? Trả lời chưa có thể có CNXH được. - Năm 1946 một phóng viên Pháp có hỏi ở VN khi nào có CNCS? Hồ Chí Minh nói: Muốn có CNCS phải có ba điều kiện, phải có đất công nghệ, đất nông nghệ và phải có con người phát triển toàn diện. Ở nước tôi cả 3 điều kiện này chưa có, khi nào có đủ thì có CNXH. - Năm 1958 cử tri Hà Nội hỏi: Thời kỳ quá độ lên CNXH nước ta kéo dài bao lâu? Bác trả lời: Căn cứ vào thực tiễn xây dựng CNXH ở các nước thì thời kỳ quá độ của nước ta kéo dài từ 3 đến 4 kế hoạch dài hạn (mỗi kế hoạch từ 8 đến 10 năm) 1.2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH HCM luôn nhấn mạnh đặc điểm lớn nhất bao trùm và chi phối các đặc điểm còn lại của thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN là, chúng ta đi lên CNXH từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lac hậu không qua Chủ nghĩa Tư bản, mâu thuẫn cơ bản là giữa nhu cầu phát triển cao theo hướng tiến bộ với thực trạng kinh tế xã hội quá thấp kém. 2. Nhiệm vụ và nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH
  18. 2.1. Nhiệm vụ Xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật, các tiền đề kinh tế chính trị văn hóa, xã hội cho CNXH Cải tạo XH thuộc địa nửa phong kiến kết hợp với xây dựng chế độ mới, biến nước ta thành nước công nghiệp hiện đại có văn hóa có khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhân dân có cuộc sống no ấm hạnh phúc. 2.2. Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH Về chính trị: Xác lập quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp thông qua các đoàn thể chính trị XH. Về kinh tế: Mục đích phát triển kinh tế là nâng cao đời sống nhân dân, phát triển lực lượng sản xuất công nghiệp hóa nước nhà, phát triển khoa học kỹ thuật, công nghiệp hóa phải bắt đầu từ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Phát triển toàn diện 3 loại cơ cấu kinh tế hợp lý: Cơ cấu kinh tế công nông nghiệp, là 2 chân của nền kinh tế, hai chân khỏe đi nhanh. Cơ cấu vùng lãnh thổ, Bác nhấn mạnh phát triển kinh tế miền núi. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, Bác chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần: quốc doanh, tập thể, tư nhân, cá thể, công tư hợp doanh. Về chế độ quản lý khoán, phải hoạch toán, phải kinh doanh, kết hợp 3 lợi ích. Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa có nội dung XHCN và tính chất dân tộc Xây dựng con người XHCN có đầy đủ đức, trí, thể, mỹ, đủ văn hóa, KHKT, chuyên môn, nghiệp vụ đủ sức khỏe để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. 3. Về bước đi, phương thức, biện pháp xây dựng CNXH 3.1. Bước đi Người viết: Chúng ta xây dựng CNXH từ 2 bàn tay trắng, khó khăn còn nhiều và lâu dài, phải làm dần dần không thể vội vàng làm nhanh một sớm một chiều. Ví dụ trong nông nghiệp lúc đầu là tiến hành giảm tô sao đó cải cách ruộng đất, sau đó tới vần công đổi công, xây dựng hợp tác xã, . cần ưu tiên phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ để phát triển công nghiêp nặng. 3.2. Phương thức, biện pháp xây dựng CNXH
  19. Phải kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính. Kết hợp xây dựng CNXH với bảo vệ thành quả cách mạng, tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược đồng thời ở hai miền (Xigôxibata cho rằng: tư duy HCM rất độc đáo, kết hợp được hai nhiệm vụ đồng thời). Nhiệm vụ xây dựng CNXH là nặng nề, khó khăn, phức tạp, lâu dài, vì thế phải đem sức dân, tài dân làm lợi cho dân. Chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm phải hai mươi. Câu13: quan điểm sự ra đời của Đảng CSVn? Thế nào là đảng cầm quyền? Trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” HCM nêu: Để làm Cách Mệnh trước hết phải có cái gì? Người khẳng định: phải có Đảng Cách Mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản mọi nơi, Đảng có vững thì cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Tác phẩm Đường cách mệnh đóng vai trò lý luận và tổ chức để chuẩn bị cho sự ra đời của ĐCS VN . Bằng tác phẩm này Người đã tập hợp, giáo dục, giác ngộ lý tưởng cộng sản cho những người yêu nước tiền bối VN. Người về Trung Quốc cải tổ Tâm Tâm Xã thành Việt Nam Thanh niên CM Đồng chí hội, mở các lớp bồi dưỡng cán bộ đưa về nước hoạt động, 3 tổ chức CS VN ra đời ở 3 miền (Đông Dương CS Đảng, An Nam CS Đảng, Đông Dương CS Liên đoàn ra đời ). Ba tổ chức này không thống nhất về tư tưởng, tổ chức. Trước tình hình đó, đòi hỏi phải hợp nhất 3 Đảng thành một Đảng duy nhất. Được sự chỉ đạo của Quốc tế CS, từ Thái Lan Người về Trung Quốc tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức Đãng ở Việt Nam và Đảng CS VN ra đời ngày 3-2-1930. Như vậy quy luật ra đời của ĐCS VN có khác gì so với các ĐCS và Đảng của giai cấp công nhân khác? Xuất phát từ đặc điểm của Châu Âu, Lê Nin nêu luận điểm về sự ra đời của ĐCS là sự kết hợp giữa CN Mac-Lê Nin với phong trào công nhân. Vận dụng Chủ nghĩa Mac-Le Nin vào điều kiện VN, HCM cho rằng: ĐCS VN ra đời trên cơ sở kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước VN với chủ nghĩa Mac-Le Nin và phong trào Công nhân VN. Trong 3 yếu tố đó HCM cho rằng, Chủ nghĩa Mac-Lê Nin là “cơ sở”, “nền tảng lý luận”, là “cái cẩm nang thần kỳ”, là yếu tố tự giác dẫn đường cho phong trào CN phát triển từ tự phát đến tự giác. Phong trào công nhân VN thế kỷ 20 là cái “cốt vật chất”, nếu thiếu cái cốt Vật chất đó thì chủ nghĩa Mac-Lê Nin cũng không thể phát huy tác dụng được trên mảnh đất VN. Sự kết hợp này làm cho cả hai yếu tố trở nên vững chắc. Ngoài 2 yếu tố nêu trên, HCM còn nêu thêm cả phong trào yêu nước VN. Bởi vì:
  20. - Phong trào yêu nước VN có từ lâu đời, đã thành truyền thống của dân tộc VN. Khi có giai cấp công nhân và phong trào công nhân thì phong trào yêu nước và phong trào công nhân kết hợp được với nhau ngay từ đầu, không bài xích nhau như một số nước. Sở dĩ như vậy vì cả hai phong trào này đều có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc và xây dựng một nước VN hùng cường. - Phong trào yêu nước ở Việt Nam chính là phong trào nông dân, vì ở VN nông dân chiếm trên 90 % dân số; giai cấp CN ra đời từ nông dân, 2 giai cấp này là bạn đồng minh tự nhiên của nhau trong cuộc cách mạng giải phóng và xây dựng đất nước. - Ở Việt Nam phong trào yêu nước còn có phong trào của Trí thức và Tư Sản dân tộc, những phong trào này đều hướng vào mục tiêu đấu tranh cho độc lập, tự do của tổ quốc nên cũng kết hợp dễ dàng với phong trào công nhân. Thực tế, lịch sử đã chứng minh điều đó. Như vậy quan điểm HCM về sự ra đời của ĐCS VN thể hiện sự phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mac-Le Nin về ĐCS vào thực tiễn VN, đáp ứng được yêu cầu phát triển của cách mạng, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc. Ở Việt Nam cơ sở giai cấp và xã hội của ĐCS không chỉ là giai cấp CN mà còn cả nông dân, trí thức, tiểu tư sản, cả dân tộc. Đảng không chỉ đại biểu cho lợi ích giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho lợi ích cả nhân dân lao động và cả dân tộc. Ở VN, giai cấp công nhân đã thật sự trở thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân tộc theo chủ nghĩa Mac-Lê Nin. hái niệm về "Đảng cầm quyền" thật ra không có gì xa lạ đối với các nước tư bản chủ nghĩa với nền chính trị đa đảng. Ở đấy, Đảng nào giành thắng lợi trong tranh cử thì đứng ra lập chính phủ của mình và trở thành "đảng cầm quyền". Cũng có nước, một số thế lực chính trị (hay quân sự) giành lấy chính quyền thông qua đảo chính hay lật đổ. Đối với Đảng ta, vấn đề chính quyền đã được giải quyết thông qua con đường cách mạng, phù hợp với những điều kiện lịch sử của nước mình. Trước kia, khi nhân dân ta còn sống trong vòng nô lệ thì nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là lãnh đạo nhân dân làm cách mạng lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Và sau khi đã giành được chính quyền rồi thì trọng trách của Đảng là lãnh đạo gìn giữ chính quyền, bảo vệ Tổ quốc, làm cho chính quyền ấy thực hiện tốt các nhiệm vụ của cáTheo tư tưởng của Bác Hồ và của Đảng ta từ trước đến nay, khái niệm Đảng "nắm chính quyền" hay "cầm quyền" là đồng nghĩa với Đảng lãnh đạo chính quyền.ch mạng, trước hết và trên hết là vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Câu14: vai trò và bản chất Đảng CS? . Quan điểm HCM về vai trò của ĐCS VN
  21. ĐCS VN ra đời để lãnh đạo cách mạng VN. Sự ra đời đấu tranh trưởng thành của ĐCS VN xuất phát từ yêu cầu này. Mọi giai tầng thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng, nhưng không phải là sự lãnh đạo bất biến nếu Đảng không trong sạch vững mạnh. Vì thế Đảng phải luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để ngang tầm yêu cầu cách mạng. Đảng lãnh đạo là phải đề ra nhiệm vụ chính trị, làm công tác tư tưởng, công tác tổ chức, đạt mục tiêu xây dựng 1 nuớc VN hòa bình, độc lập , thống nhất , dân chủ và giàu mạnh. Như vậy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng VN. Đảng có vai trò lớn đồng thời có trách nhiệm lớn với vận mệnh dân tộc. . Quan điểm HCM về bản chất giai cấp CN của Đảng Đảng ta là Đảng của giai cấp CN. Điều này được HCM khẳng định trong nhiều tác phẩm. Đồng thời Người cũng luôn khẳng định ĐCS VN là Đảng của giai cấp CN, của nhân dân, của dân tộc VN. Tại Đại hội 2, báo cáo chính trị HCM nêu rõ: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp CN-nhân dân lao động-dân tộc thống nhất là một. Chính vì Đảng CS VN là Đảng của giai cấp CN và nhân dân lao động nên nó phải là Đảng của dân tộc VN". Tuy cách thể hiện có khác nhau, nhưng ĐCS VN chỉ là Đảng của giai cấp CN. Khi Đảng mang những tên gọi khác nhau nhưng Đảng ta chỉ mang bản chất của giai cấp CN. Khi khẳng định Đảng ta là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc thì toàn bộ nguyên tắc tổ chức sinh hoạt, cơ sở lý luận của Đảng vẫn tuân thủ chặt chẽ học thuyết Mac-LêNin về Đảng kiểu mới của giai cấp CN. Người nhấn mạnh: Về lý luận Đảng theo chủ nghĩa Mac-Lê Nin, về nguyên tắc Đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng theo đường lối tự phê bình và phê bình, thi hành kỷ luật sắt nghiêm minh tự giác. Đảng kết nạp, huấn luyện đoàn viên mới HCM khẳng định: Tuy giai cấp CN VN số lượng ít so với dân số nhưng nó có đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo các giai tầng khác làm cách mạng để xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Các giai tầng khác tuy đông đảo nhưng không đảm đương được vai trò lãnh đạo xã hội, mà chịu sự lãnh đạo của giai cấp CN trong cuộc cách mạng giải phóng mình. Quan niệm ĐCS VN không chỉ của giai cấp CN mà còn của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với CM VN. Trong Đảng ngoài thành phần giai cấp CN còn có các thành phần khác, nhưng tính chất giai cấp CN phải được tăng cường để bảo đảm sự thống nhất giữa yếu tố giai cấp và dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp CN mà còn từ các giai tầng khác, làm cho Đảng ngày càng lớn mạnh và nhân dân coi Đảng là Đảng của mình. Câu15: Nội dung công tác xây dựng ĐẢng trong sạch vững mạnh: 1. Cách mạng cần có Đảng. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”
  22. – Cách mạng Việt Nam “trước hết phải có Đảng cách mệnh” (1). “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt” (2). “Chủ nghĩa” mà Người đề cập ở đây là chủ nghĩa Mác – Lênin. – Học tập và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin như sau: Một là, hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là hiểu bản chất của các vấn đề; hiểu đúng để hành động đúng. Hai là, phải vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp với từng lúc và từng nơi, từng lĩnh vực. Ba là, thường xuyên tổng kết thực tiễn cách mạng rút ra những bài học kinh nghiệm cho mình và bổ sung, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bốn là, đấu tranh chống những luận điểm cơ hội, xuyên tạc, xét lại chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Năm là, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng khối đoàn kết trong phong trào cộng sản quốc tế, “có lý có tình” (3). 2. Xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng Vận dụng và phát triển những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng vô sản kiểu mới do V.I.Lênin đề ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu các nguyên tắc chủ yếu là: a) Nguyên tắc tập trung dân chủ. – Phải nhận thức rõ đây là nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Tập trung và dân chủ luôn luôn đi đôi với nhau. – Tập trung trên nền tảng phát huy dân chủ thật sự trong Đảng. Dân chủ là cơ sở của tập trung, dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung. – Nội dung cơ bản của tập trung là: Thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương, tất cả mọi đảng vên phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của tổ chức Đảng. – Nội dung cơ bản của dân chủ là: Phải mở rộng và thực hành dân chủ trong Đảng, làm cơ sở mở rộng, phát huy dân chủ ngoài xã hội. – Đề phòng và chống các biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, hách dịch, chụp mũ, trù dập ý kiến của người khác; đồng thời cũng cần đề phòng và chống những biểu hiện của dân chủ “quá trớn”. b) Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
  23. – Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách có quan hệ khăng khít với nhau, là hai vế làm thành một chỉnh thể thống nhất trong nguyên tắc sinh hoạt Đảng. – Tập thể lãnh đạo là để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người. – Cá nhân phụ trách là để xác định rõ trách nhiệm thực hiện, nâng cao tinh thần và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân. – Chống thói dựa dẫm tập thể, không dám làm, không dám chịu trách nhiệm; đồng thời chống độc đoán, cá nhân, coi thường tập thể. – Việc thực hiện nguyên tắc này càng quan trọng trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có quyền. c) Nguyên tắc tự phê bình và phê bình Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng: – Mục đích của tự phê bình và phê bình là: Làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi; làm cho các tổ chức Đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh; để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng; để các tổ chức Đảng và đảng viên luôn luôn hoàn thiện mình, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao cho. – Tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, như người ta rửa mặt hằng ngày. – Tự phê bình phải thành khẩn. Thành khẩn, thành tâm, không “giấu bệnh sợ thuốc” sẽ giúp cho việc tự phê bình có kết quả tốt. – Phê bình phải trung thực, “không đặt điều”, “không thêm bớt”. – Tự phê bình và phê bình phải kiên quyết, “ráo riết”, không nể nang. – Tự phê bình và phê bình phải có tính chất xây dựng “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau (4). d) Kỷ luật nghiêm minh, tự giác – Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. – Tất cả mọi đảng viên đều phải chấp hành Điều lệ Đảng, bình đẳng trước mọi quyết định, nghị quyết của Đảng.
  24. – Uy tín chung của Đảng và của mỗi đảng viên trong nhân dân bắt nguồn từ sự gương mẫu, tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của các tổ chức, đoàn thể nhân dân mà đảng viên đó tham gia. đ) Đoàn kết, thống nhất trong Đảng – Đoàn kết trong Đảng là truyền thống cực kỳ quý báu và là nguyên nhân thắng lợi của cách mạng. – Thực hiện đoàn kết là trách nhiệm của toàn Đảng. “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” (5). – Đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải dựa trên nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, điều lệ, đường lối, quan điểm, nghị quyết của tổ chức đảng các cấp; “có lý, có tình “. - Muốn đoàn kết, thống nhất, phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác. 3. Quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài để Đảng xứng đáng “là đạo đức là văn minh” – Xây dựng Đảng về mặt đạo đức là một nội dung đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển rất cơ bản và sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với học thuyết của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”, phải quan tâm xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng. – Yêu cầu về phẩm chất, tư cách của đội ngũ cán bộ, đảng viên gồm: + Suốt đời phấn đấu lý sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng. + Tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng. + Đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết. + Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. + Có đời tư trong sáng; là một tấm gương sáng trong cuộc sống để nhân dân tin và noi theo. – Yêu cầu về năng lực (tài) của cán bộ, đảng viên gồm: + Có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. + Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
  25. + Luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. + Phải có phong cách tốt, sâu sát, tỉ mỉ. 4. Tăng cưởng mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân – Đảng ta gắn bó với dân vì “Đảng là con nòi của nhân dân”; mục đích của Đảng là “Đoàn kết toàn dân phụng sự Tổ quốc”. – Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mỗi đảng viên phải bằng hành động thực tế của mình để có niềm tin yêu của nhân dân, chứ không phải “dán lên trán hai chữ cộng sản” là được dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục. – Đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với dân; phải “ không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” (6). – Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân (7); tổ chức và vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. 5. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn – Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân Đảng là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc (8). – Trong điều kiện cách mạng chuyển sang giai đoạn mới càng cần quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; là “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng ” (9). – Đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn trên những nội dung sau đây: Một là, tăng cường công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, phương thức lãnh đạo, đạo đức, lối sống Hai là, luôn luôn chú ý đề phòng và khắc phục những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất; giữ gìn Đảng thật trong sạch, vững mạnh. “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng ” (10). Ba là, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên để đội ngũ này luôn luôn toàn tâm, toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Bốn là, Đảng phải vươn lên đáp ứng kịp yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Để làm được việc đó, Đảng phải phát huy dân chủ trong nội bộ, phát huy và tập hợp được trí tuệ của toàn Đảng, phấn đấu thực sự trở thành “đạo đức, văn minh”. Câu 16: TTHCM về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp CM? Để xây dựng khối đại đoàn kết dt nc ta hiện nay chúngta phải làm gì?
  26. 1. Đại đoàn kết là vấn đề chiến lược, quyết định thành công của cách mạng Tư tưởng ĐĐK không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời, không phải là sách lược mà là vấn đề mang tính chiến lược. Người xác định “đoàn kết là lẽ sinh tồn dân tộc ta, lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do, trái lại thì nước ta bị xâm lấn” Từ khi Đảng ra đời, đoàn kết theo TTHCM thực sự là bộ phận hữu cơ trong đường lối CM của đảng, chỉ có đoàn kết mới có sức mạnh đưa CM tới thành công. CM là cuộc chiến đấu khổng lồ, không tập hợp được rộng rãi lực lượng quần chúng thì sẽ không thể thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân thực hiện âm mưu chia để trị, vậy ta phải đoàn kết muôn người như một, phải thực hiện chữ “đồng” thì mới thành công. I.2. Đại đoàn kết là đại đoàn kết toàn dân Khái niệm "dân" của HCM: "Dân" theo HCM là đồng bào, là anh em một nhà. Dân là không phân biệt già trẻ, trai gái, giàu, nghèo. Dân là toàn dân, toàn thể dân tộc Việt Nam, bao gồm dân tộc đa số, thiểu số, có đạo, không có đạo, tất cả những người sống trên dải đất này. Như vậy dân theo HCM có biên độ rất rộng, vừa được hiểu là mỗi cá nhân, vừa được hiểu là toàn thể đồng bào, nhưng dân không phải là khối đồng nhất, mà là một cộng đồng gồm nhiều giai tầng, dân tộc có lợi ích chung và riêng, có vai trò và thái độ khác nhau đối với sự pháp triển XH. Nắm vững quan điểm giai cấp của Mác-Lênin, HCM chỉ ra giai cấp công nhân, nông dân là những giai cấp cơ bản, vừa là lực lượng đông đảo nhất, vừa là những người bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là gốc của CM. Vai trò của dân: HCM chỉ rõ dân là gốc của CM, là nền tảng của đất nước, là chủ thể của ĐĐK, là lực lượng quyết định mọi thắng lợi của CM. Phương châm: ĐĐK theo HCM là ai có tài, có đức, có lòng phụng sự tổ quốc và nhân dân, thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì ta thật thà đoàn kết với họ. .3. Đại đoàn kết phải có tổ chức, có lãnh đạo Đoàn kết là vấn đề chiến lược, sống còn, không phải là tập hợp ngẫu nhiên, cảm tính, tự phát, mà được xây dựng trên một cơ sở lý luận khoa học. Do đó phải có tổ chức, lãnh đạo để hoàn thành mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Sau khi tìm ra con đường cứu nước, HCM luôn quan tâm tới việc hình thành các tổ chức để tập hợp mọi lực lượng, giai tầng cho phù hợp với yêu cầu của CM, trong đó Mặt trận Dân tộc Thống nhất là tổ chức rộng rãi nhất. Đây là điểm khác nhau về cơ bản so với mọi phong trào chống pháp trước đây. Cụ thể : Mặt trận Dân tộc Phản đế Đông Dương 1930-1931.
  27. Mặt trận Dân chủ Đông Dương 1936-1939. Mặt trận Việt Minh 1941-1951, Mặt trận Liên Việt (Hội Liên hiệp Quốc dân VN) 29.5.1946 (gồm những người yêu nước không đảng phái lập liên minh yêu nước: Bùi Bằng Đoàn, Huỳnh Thúc Kháng). 07-03-51, V-Minh và Liên Hiệp ĐH hợp nhất lấy tên Liên Việt. Mặt trận Tổ quốc Việt nam 09.55 Ở Miền Nam: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam 20.12.1960 ( Nguyễn Hữu Thọ chủ tịch). Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (luật sư Trịnh Đình Thảo, chủ tịch). Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam 6-1969 (Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, chủ tịch). Năm 1976, Mặt trận Tổ quốc VN ( miền bắc) + với MT dân tộc giải phóng MNVN + Liên minh các lưc lượng dân tộc dân chủ & HBVN đại hội, thống nhất thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Năm nguyên tắc xây dựng Mặt trận: Nền tảng là liên minh công nông Lấy lợi ích tối cao của dân tộc gắn với lợi ích của các tầng lớp lao động làm cơ sở. Đó là độc lập, thống nhất tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho người dân, dân giàu, nước mạnh. Đồng thời quan tâm tới lợi ích chính đáng của cá nhân, bộ phận, giải quyết thỏa đáng lợi ích chung và riêng. ĐĐK là lâu dài, chặt chẽ, thiết thực, rộng rãi, vững chắc. ĐĐK phải gắn bó với đấu tranh, đấu tranh để củng cố tăng cường đoàn kết, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, chống cô độc, hẹp hòi, đoàn kết một chiều Mặt trận phải do Đảng lãnh đạo, đây là nguyên tắc quan trọng nhất của ĐĐK. - Đảng là thành viên của mặt trận, nhưng là lưc lượng lãnh đạo Mặt trận, là linh hồn khối ĐĐK, Đảng là đảng giai cấp CN VN, vừa là đảng của nhân dân lao động và của dân tộc VN.
  28. - Đảng vừa là đạo đức, vừa là văn minh, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc. - Đảng phải là bộ phận trung thành nhất, có năng lực lãnh đạo, có đường lối đúng mới xứng đáng địa vị lãnh đạo mặt trận. Đảng cần tuyên truyền giáo dục, nêu gương, lấy lòng chân thành để cảm hóa, khêu gợi tinh thần tự giác, có thái độ tôn trọng các tổ chức đoàn thể mặt trận, biết lắng nghe người ngoài Đảng. Trong Đảng phải xiết chặt đoàn kết, Đảng viên phải biết giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. .4. Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế Đoàn kết trên lập trường giai cấp CN nghĩa là bao hàm cả đoàn kết quốc tế, tạo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc với lợi ích quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. CM giải phóng dân tộc và CM XHCN ở nước ta muốn thành công đòi hỏi phải đoàn kết quốc tế để tạo sức mạnh đồng bộ và tổng hợp. Thực hiện đoàn kết quốc tế, HCM quan tâm đoàn kết cách mạng nước ta với các phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, với các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới, các phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ tiến bộ. Người đặc biệt chú trọng xây dựng khối đoàn kết 3 nước đông dương, mặt trận VN –LÀO –CPC, mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với VN. Thời đại ngày nay” Đại đoàn kết toàn dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới có thành công hay không phụ thuộc vào nhiều nhân tố nhưng trước hết là phụ thuộc vào việc phát huy được hay không vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội - khơi dậy phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc - Khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh nội lực, phải xuất phát từ lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ đ-ược để xây dựng, phát triển đất nước. - - - Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hư-ớng xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường dân tộc, trong chính sách đại đoàn kết, phải chú ýphát huy tính năng động của mỗi ng-ười, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất l-ượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời,phải khắc phục đ-ược những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc biệt là tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh
  29. làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tư-ơng thân, tư-ơng ái của dân tộc và của Đảng. - - - Điều quan trọng để phát huy nội lực dân tộc, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay là phải xây dựng đ-ược hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, phải biết lắng nghe những ý nguyện chính đáng của nhân dân, phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân dân, làm cho lòng dân được yên. Phải tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng việc xây dựng Mặt trận, đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách đối với công nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách đối với cộng đồng ng-ười Việt Nam ở n-ước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất n-ước. - - - Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực dân tộc còn đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các n-ước, đồng thời phải nắm vững phương châm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta là: Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Câu 17: Quan điểm HCm về đại đoàn kết quốc tế? Liên hệ VN? a.Đoàn kết trên cở sở thống nhất mục tiêu và lợi ích có lý có tình. Muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và thế lực phản động ,phải tìm ra những nét tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc,các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới.đây là vấn đề cốt tử,có tính nguyên tắc trong công tác tập hợp lực lượng.kết hợp lợi ích của cm việt nam với cm thế giới.nhận thức được nghĩa vụ của viêt nam đối với sự nghiệp chung của loài người tiến bộ. Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.HCM giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.thực hiện đoàn kết quốc tế trên nền tảng của chủ nghĩa Mac-Lenin và chủ nghĩa quốc tế vô sản,có lý có tình. Là một chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định,HCM suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cũng cố khối đại đoàn kết ,thống nhất giữa các lực lượng CM thế giới. HCM chỉ ra rằng để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thì phải đoàn kết giữa các Đ là điều kiện quan trọng đảm bảo thành công của cách mạng.để thực hiện được khối đại đoàn kết đó phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân,quán triết sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa vô sản. Có lý trước hết là tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,xuất phát từ lợi ích chung của CM thế giới.việc thực hiện chủ nghĩa Mac-Lenin phải dựa trên tình hình thực tế của mỗi nước tránh dập khuôn,giáo điều.
  30. Có tình là sự thông cảm tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần tình cảm của những người cùng chung lý tưởng cùng chung mục đích đấu tranh.lợi ích chung của mỗi quốc gia cần được tôn trong và không làm phương hại đến lợi ích của quốc gia khác. Có lý,có tình vừa thể hiện tính nguyên tắc vừa thể hiện tính nhân văn HCM.nó có tác dụng to lớn không chỉ trong đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân mà còn củng cố tình đoàn kết trong nhân dân lao động. Đối với các dân tộc trên thế giới ,HCM giương cao độc lập tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.Độc lập tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán. Trong quan hệ với các nước láng giềng cũng như các quốc gia dân tộc khác trên thế giới,HCM thực hiện nhất quán quan điểm:dân tộc VN tôn trọng độc lập chủ quyền,toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các dân tộc,quốc gia trên thế giới.chính sách đối ngoại của VN là làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với ai. Thời đại HCM là thời đại bão táp của các phong trào giải phong dân tộc.trong hoàn cảnh ấy Người luôn luôn ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc của các nước trên thế giới đòi những quyền cơ bản của mình. Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới người giương cao ngọn cờ hòa bình trong công lý.chống chiến tranh xâm lược.từ tưởng ấy bất nguồn từ truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt.kết hợp chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và giá trị văn hóa nhân loại. Giương cao ngọn cờ hòa bình và đấu tranh bảo về hòa bình là tư tưởng bất di bất dịch của Người. b)Đoàn kết trên cơ sở độc lập ,tự chủ,tự lực ,tự cường Đoàn kết quốc tế là tranh thủ sự đồng tình ủng hộ giúp đỡ của lực lượng quốc tế,nhằm tăng thêm nội lực,tạo sức mạnh thực hiện thành công nhiệm vụ của cách mạng.Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt.nội lực là nhân tố quyết định.trong đấu tranh cm HCM nêu cao khẩu hiệu:tự lực cánh sinh,dựa vào sức mình là chính.muốn người ta giúp cho trước hết phải tự giúp lấy mình đã.trong đâu tranh giành chính quyền Người có chủ trương:đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp,Người chỉ rõ:một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. Trong quan hệ quốc tế,Người nhấn mạnh:phải có thực lực,thực lực là cái chiêng,ngoại giao là cái tiếng,chiêng có to thì tiếng mới lớn.HCM chỉ rõ muốn tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế thì dân tộc phải có đường lối độc lập,tự chủ đúng đắn. Thắng lợi của CM tháng tám năm 1945 là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng của chủ tịch HCM.trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước với đường lối,tự chủ giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế.chúng ta đã tranh thủ sự ủng hộ của các phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với VN,tạo ra tiếng nói chung và sự ủng hộ thân tình cả về vật chất và tình thần của các nước chủ nghĩa anh em,đặc biệt là của Liên Xô,Trung Quốc tạo chỗ dựa tin cậy cho VN đánh thắng giặc Mỹ. Câu 18: bản chất của dân chủ? Liên hệ vn?
  31. Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người.HCM quan niệm dân chủ có nghĩa là dân là chủ.Đây là quan niệm được HCM diễn đạt ngắn gọn đi thẳng vào vấn đề .Mở rộng theo ý đó HCM cho rằng :nước ta là một nước dân chủ có nghiã là do nhân dân làm chủ,chế độ ta là chế độ dân chủ.nước ta là nước dân chủ,địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ.Dân là chủ và dân làm chủ.khi diễn đạt như thế chúng ta co thể hiểu rằng dân là chủ nghĩa là đề cập đến vị thế của dân,còn dân làm chủ nghĩa là đề cập đến năng lực và trách nhiệm của dân.cả hai vế luôn đi đôi với nhau thể hiện vị trí vai trò quyền và trách nhiệm của dân.qua đó HCM thể hiện đúng vai trò của dân chủ.quyền hành và lực lượng đều thuộc về tay nhân dân.xã hội đảm bảo được điều đó thực thi thì xã hội đó là xã hội dân chủ. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.dân chủ thể hiện việc đảm bảo quyền con người,quyền công dân.dân chủ trong đời sống xã hội việt nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị,kinh tế,văn hóa,xã hội,trong đó dân chủ lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất,nổi bật nhất vì quyền lực của nhân dân được thể hiện trong hoạt động của nhà nước với tư cách nhân dân có quyền lực tối cao.quan niệm dân chủ theo HCM khẳng định một chế độ nước ta bao nhiêu lợi ích đều vì dân,đồng thời HCM cug chỉ ra phương thức tổ chức,hoạt động của nước ta muốn khẳng định nhà nước ta là nhà nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua dân chủ đại diện,một hệ thống chính trị do dân cử ra và do dân tổ chức nên. Người coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân ,công cuộc xây dựng đổi mới kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm và công việc của dân.HCM không chỉ coi dân chủ là giá trị chung,là sản phẩm của văn minh nhân loại mà còn xem nó như lý tưởng phấn đấu của các dân tộc ,nó ko chỉ dừng lại ở thiết chế của một quốc gia mà nó còn biểu thị cho quan hệ quốc tế.hòa bình giữa các dân tộc.đó là dân chủ.bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế.là nguyên tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế.để dân chủ thức sự đi vào cuộc sống thì vấn đề thực hành dân chủ là hết sức quan trọng. Xây dựng và hoàn thiện chể độ dân chủ rộng rãi. Ngay từ năm 1941 trong chương trình mặt trận việt minh HCM đã thiết kế chể độ dân chủ cộng hòa cho nước ta sau khi CM thắng lợi.đó là xác định rõ quyền ,trách nhiệm của mỗi người dân trước vận mệnh của nước nhà.gắn độc lập tự do của dân tộc với quyền lợi của từng người dân Dân chủ của nước nhà được thể hiện thông qua đạo luật trong hiến pháp được HCM chủ trì và xây dựng năm 1946. HCM chú trọng đảm bảo quyền lực của các giai cấp,tầng lớp,các cộng đồng dân tộc,thể chế chính trị nước ta Đối với giai cấp công nhân Người khẳng định giai cấp công nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp. Đối với giai cấp nông dân.khi mà ở nông thôn nông dân thực sự nắm chính quyền ,nông dân được giải phóng thì mới có dân chủ thực sự.HCM đánh giá cao vai trò của tầng lớp tri thức trong tiến trình dân chủ hóa ở VN. Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ ,quyền bình đẳng giới,người phụ nữ thực sự được tham gia các hoạt động xã hội
  32. Xây dựng các tổ chức đảng nhà nước ,mặt trận và các đoàn thể chính trị-xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ trong xã hội. Vấn đề xây dựng Đảng –với tư cách là đảng cầm quyền ,đảng lãnh đạo nhà nước ,lãnh đạo toàn xã hội Xây dựng nhà nước của dân,do dân, vì dân,xây dựng mặt trận với vai trò là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị-xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển đất nước. Có đảm bảo và phát huy dân chủ trong đảng thì mới bảo đảm được dân chủ trong toàn xã hội.đó là quan điểm nhất quán của HCM.quyền lãnh đạo của Đảng được ủy quyển của giai cấp công nhân,của dân tộc ,của nhân dân. Nhà nước thể hiện chức năng quản lý xã hội của mình qua việc đảm bảo thực thi ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với sự phát triển của đất nước. Tất cả các tổ chức đều có mục tiêu chung là đạt tới trình độ dân chủ cao,dân chủ xã hội chủ nghĩa.thực hành dân chủ rộng rãi theo quan điểm của HCM là trên nên tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,nòng cốt là liên minh công nông trí thức. Liên hệ: Các thể chế và cơ chế dân chủ ngày càng bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tính tích cực chính trị của công dân ngày tăng, không khí dân chủ ngày càng lành mạnh và sự quan tâm và tham gia chính trị, tham gia quản lý nhà nước của nhân dân ngày càng rộng rãi. Nhân dân ý thức rõ ràng và cụ thể hơn về quyền và trách nhiệm công dân của mình trước pháp luật, thực hiện đầy đủ hơn quyền và trách nhiệm của mình trong sản xuất và đời sống. Các quyền dân chủ của nhân dân - từ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh đến trao đổi, phân phối và hưởng thụ kết quả lao động; từ tự do làm ăn đến tự do ngôn luận ngày càng hiện thực hoá. Các quyền đề cử, ứng cử và lựa chọn của nhân dân trong các cuộc bầu cử mỗi ngày một đầy đủ và hoàn thiện hơn. Nội dung và hình thức, phương pháp và công cụ thực hiện dân chủ ngày càng sâu sắc và đa dạng. Về nội dung, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng mở rộng và phát triển đến về các lĩnh vực, các ngành, các cấp; cụ thể và chi tiết về tiêu chí và chuẩn mực. Về hình thức, trong quá trình thực hiện dân chủ ngày càng tìm kiếm và khẳng định được những quy tắc, quy định và quy trình mới cho dân chủ ở cả hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp. Về tính chất, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng toàn diện và triệt để, thiết thực và hiệu quả. Cùng với việc hoàn thiện các hình thức dân chủ gián tiếp, nhất là đổi mới và hoàn thiện tổ
  33. chức và hoạt động các cơ quan dân cử, là quá trình xúc tiến mạnh mạnh mẽ các hình thức dân chủ trực tiếp, nhất là ở cơ sở. Hệ thống các thể chế, cơ chế dân chủ hình thành và phát triển hơn, tạo nền tảng pháp lý cho quá trình thực hiện dân chủ. Thực hiện dân chủ ngày càng trở thành quá trình xác định và thực hiện các cơ chế và thể chế về các quyền và lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. Đời sống xã hội ngày càng được tổ chức và vận hành trên cơ sở các thể chế; tính ổn định của hệ thống ngày càng cao; tính chủ quan, duy ý chí của các tổ chức và người lãnh đạo, quản lý được giảm thiểu. Trong chủ trương và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nội dung và chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, vấn đề thể chế và xây dựng thể chế ngày càng được chú trọng. Thể chế, cơ chế quy định tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp ngày càng hiện hữu và phát huy tác dụng. Thể chế, quy chế quy định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong các mối quan hệ chính trị và xã hội làm cho dân chủ ngày càng được xác định, ngày càng được lượng hoá, ngày càng được trở nên hiện thực. Với việc xây dựng các quy chế và pháp lệnh dân chủ cơ sở, dân chủ không còn dừng lại ở những nguyên tắc chung, trừu tượng, mà được cụ thể hóa ở từng cấp, ngành, địa phương và đơn vị. Dân chủ ngày càng thoát ra khỏi tính hình thức để trở nên thực chất hơn. Dân chủ ngày càng thiết thực, thật sự và có kết quả rõ ràng. Dân chủ và nhất là dân chủ ở cơ sở đang là chiếc chìa khoá vạn năng để giải quyết hết thảy mọi vần đề khó khăn và bức xúc trong sản xuất và đời sống, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, tình trạng thiếu dân chủ vẫn còn những biểu hiện và diễn biến phức tạp. Cho đến nay không ít quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn bị vi phạm. Tình trạng buông lỏng kỷ cương, pháp luật, dân chủ hình thức, cán bộ cửa quyền, hách dịch vẫn còn không nhỏ. Khi bị nhân dân phát hiện, khiếu kiện thì cá cơ quan có trách nhiệm chậm giải quyết và giải quyết chưa dứt điểm, chưa khách quan. Tình trạng tồn đọng trong xử lý khiếu kiện còn khá phổ biến, nhiều hiện tượng lợi dụng dân chủ, coi thường kỷ cương phép nước vẫn tồn tại. Hiện
  34. tượng mất dân chủ, vi phạm pháp luật diễn ra trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội với những biểu hiện mới, tinh vi và phức tạp hơn. Thiếu dân chủ từ khâu chuẩn bị và ra quyết định đến triển khai thực hiện và đánh giá quyết định, chính sách. Câu 19: quan điểm về thực hành dân chủ? Liên hệ. Như câu 18. Câu 20: quan niệm về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động? Tính sáng tạo của HCm về bản chất của nhà nc? Quan niệm của HCM về nhà nước của dân, do dân, vì dân - Là nhà nước do nhân dân lao động làm chủ: (chủ sở hữu nhà nước là nhân dân ) Ở nước ta, dân là chủ nước, nghĩa là trong nước ta mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, dân là người có địa vị cao nhất, quyết định các vấn đề quan trọng nhất của quốc gia dân tộc. Tư cách này được ghi trong hiến pháp, pháp luật. (1946 điều 1 hiến pháp ghi: trong nước VN Dân chủ Cộng hoà toàn bộ quyền binh đều thuộc về nhân dân, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, giai cấp. Nhà nước của dân. Quan điểm của HCM xác lập tất cả quyền lực trong nhà nước và xã hội đều thuộc về nhân dân .Nhân dân lao động làm chủ dẫn đến hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát.Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi nhiệm những đại biểu quốc hội và đại biểu hội động nhân dân nếu đại biểu ấy không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. HCM nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ.dân là chủ xác định vị thế của nhân dân còn dân làm chủ xác định quyền và nghĩa vụ của dân.trong nhà nước với ý nghĩa đó,người dân được hưởng mọi quyền dân chủ.nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân,quyền lực nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng.nhắc nhở ngườ lãnh đạo,những đại biểu của dân làm đúng chức trách và vị trí của mình.một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước do dân. Nhà nước do dân lập ra,do dân ủng hộ,dân làm chủ.nhiệm vụ của người cách mạng là phải làm cho dân hiểu,làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ.nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xd nhà nước.Mỗi người dân đều có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. nhà nước vì dân Nhà nước lấy lợi ích chính đáng của dân làm mục tiêu.tất cả đều vì lợi ích của nhân dân,ngoài ra không có bất cứ lợi ích nào khác. HCM nhấn mạnh:mọi đường lối,chính sách đều nhằm đưa lại quyền lợi cho dân.
  35. HCM luôn tâm niệm phải làm cho dân có ăn,làm cho dân có mặc,phải làm cho dân có chỗ ở ,phải làm cho dân được học hành.cả cuộc đời người “chỉ có mục đích là phấn đấu cho quyền lợi tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”. Một nhà nước vì dân theo HCM từ chủ tịch đến những công chức bình thường đều là công bộc,đầy tớ của nhân dân chứ không phải làm quan CM đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Kết Luận:tư tưởng HCM về nhà nước của dân,do dân,vì dân có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn,sâu sắc,định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ,nhà nước kiểu mới ở VN,học tập và quản triệt tư tưởng này để xây dựng nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của cách mạng mới là hết sức cần thiết, Hiện nay ntn? -Toàn Đảng ,toàn dân tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân,do dân,vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng -Nhà nước đó được xd trên nền tảng lý luận Mác-Lênin,TTHCM và những điều kiện thực tế hiện nay. Câu 21: Quan điểm xây dựng nhà nc có hiệu lực pháp lí mạnh? Để xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh và hoạt động có hiệu quả chúng ta cần làm gì? Quan điểm HCM về nhà nước pháp quyền - Quản lý XH bằng pháp luật là cách quản lý dân chủ, tiến bộ Trong yêu sách 8 điểm 6-1919 gửi cho hội nghị Véc-xây, Bác yêu cầu thay đổi chế độ pháp lý ở Việt Nam; trong bài thơ : “Việt Nam yêu cầu ca” viết 1923, câu thứ 7 Bác viết: “ Bảy xin hiến pháp ban hành, 100 điều phải có thần linh pháp quyền”. Năm 1945 khi có nhà nước, người nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong phần xây dựng hiến pháp nhà nước Bác nêu 2 nguyên tắc: Hiến pháp phải xuất phát từ đặc điểm của VN, phải kế thừa các giá trị hiến pháp của các nhà nước Anh, Pháp, Mỹ. 9-11-1946 nước ta có hiến pháp đầu tiên, nay có thêm hiến pháp 1959, 1980, 1992 nhưng hiến pháp 1992 thực chất có nhiều điều trở về với hiến pháp 1946, vì đều chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền VN. Nhà nước pháp quyền là vấn đề cơ bản trong tư tưởng HCM: một xã hội, một đất nước phải có hiến pháp, pháp luật quản lý. Vì thế tháng 10-1945 Bác ký sắc lệnh 47 sử dụng các đạo luật củ để điều chỉnh các quan hệ dân sự của chế độ mới (vì pháp luật có những giá trị chung). Bác đứng đầu nhà nước 24 năm, chủ trì sọan thảo 2 hiến pháp, 16 đạo luật, 1300 văn bản dưới luật; cố gắng thay sắc lệnh bằng luật để khắc phục tính cưỡng chế quan liêu của sắc lệnh.
  36. - Bác đặc biệt chú ý tới hiệu quả, hiệu lực của pháp luật Quản lý nhà nước bằng pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, công dân, bảo đảm sự bình đẳng của mọi người trước pháp luật, ai thực hiện tốt thì được khen, ai vi phạm thì bị phạt dù ở cương vị nào. Để pháp luật có hiệu lực cần có các điều kiện : Pháp luật phải đủ. Pháp luật phải đến với dân qua tuyên truyền, giáo dục (9-11-1946 Bác về Thái Bình hỏi các cô chú làm gì? Chúng cháu đang tuyên truyền 10 chính sách của Việt Minh. Bác nói, bây giờ có hiến pháp rồi, các cô chú phải tuyên truyền hiến pháp; 1958 thông qua luật hôn nhân gia đình; 1959 về Hà Tây, có một số ý kiến nói vẫn còn hiện tượng chồng đánh vợ. Bác nói, chồng đánh vợ là dã man, đã có luật bảo vệ phụ nữ, đó là luật hôn nhân gia đình, đề nghị các cô chú tuyên truyền luật này.) Bác lưu ý những người thực thi pháp luật phải công tâm, nếu không công tâm phải dùng pháp luật để trừng trị (31-5-1946 Chính phủ ta có đoàn sang Pháp, có Chu Bá Hùng Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế buôn vàng với khối lượng lớn (dư luận cho rằng chính phủ thối nát), sau đó Bác viết khẳng định bằng văn bản trước quốc hội, văn bản viết : chính phủ đã cố gắng liêm khiết , ai không liêm khiết phải trừng trị”, Đại tá Trần Dụ Chân – cục trưởng cục quân nhu – thứ trưởng nông nghiệp bị tử hình.) - Bác đề cao kết hợp đức trị với pháp trị Bác chú trọng giáo dục đạo đức cách mạng là để cán bộ đảng viên ,nhân dân tự giác thực hiện pháp luật. Bác nói: “các cô chú làm việc trong lĩnh vực tư pháp nhưng vấn đề cơ bản vẫn là vấn đề ở đời và làm người, đó là vấn đề yêu nước, thương nhân loại bị áp bức.” Câu 22; Tư tưởng HCm về các vấn đề của văn hóa? Trong TT HCM ,vấn đề văn hóa có vai trò ,vị trí quan trọng trong đời sống ,góp phần rất lớn trong hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc cũng như trong thời bình. Trong tác phẩm Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh nêu định nghĩa văn hóa (VH): “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cũng như biểu hiện của nó mà loài người tạo ra nhằm mục đích thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sinh tồn”. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chức năng của VH 2.1. VH góp phần bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp
  37. VH định hướng con người, XH tới cái chân, thiện, mỹ, giúp bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp cho con người, cho xã hội nhằm loại bỏ cái giả, cái ác, xấu, thấp hèn trong tư tưởng, tâm lý con người. VH phải bồi dưỡng tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, độc lập tự do, làm cho quốc dân vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng, xây dựng tình cảm lớn như yêu nước, thương nòi, yêu thương con người, yêu tính trung thực, chân thành, ghét thói hư tật xấu, căm thù giặc nội xâm. VH phải bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc gắn với CNXH. Nếu phai nhạt lý tưởng này con người trở nên tầm thường nhỏ bé. 2.2. VH góp phần nâng cao dân trí Khi CM tháng 8 thành công, Người viết: Nhiệm vụ cấp tốc lúc này là phải nâng cao dân trí, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Muốn làm cho dân giàu nước mạnh, giữ vững độc lập, mọi người Việt Nam phải có kiến thức, phải học để biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Khi miền Bắc bước vào xây dựng CNXH, Người viết: chúng ta phải biến 1 đất nước dốt nát cực khổ thành một nước có văn hóa cao, đời sống tươi vui hạnh phúc. 2.3. VH góp phần bồi dưỡng phẩm chất tốt đẹp cho con người, không ngừng hoàn thiện nhân cách con người góp phần phát triển đất nước Các giá trị VH phải thấm sâu vào tâm lý quốc dân, VH phải sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, bạo tàn, VH phải soi đường cho quốc dân đi. VH nghệ thuật là một mặt trận, anh chị em nghệ sỹ là chiến sỹ trên mặt trận ấy. VH phải góp phần vào công cuộc xây dựng CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà. 3. Quan điểm Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy bản sắc VH dân tộc, tiếp thu tinh hoa VH nhân loại 3.1. Giữ gìn phát huy bản sắc VH dân tộc là cội nguồn cốt tủy tâm hồn Việt Nam, là cội rễ tồn tại của các cá nhân mà tách khỏi nó con người sẽ không thể tồn tại được Xây dựng nền VH mới phải lấy bản sắc VH dân tộc làm gốc, phải biết kế thừa nâng cao các giá trị VH truyền thống. (Sau CM tháng 8 có hội nghị toàn quốc về VH, ý kiến nêu lên là ta xây dựng nền VH theo hướng nào? Có người cho rằng ta ở phương Đông nên phải xây dựng theo nền VH theo phương Đông, có người nói văn hóa phương Tây văn minh hơn phương Đông nên ta phải xây dựng nền VH theo phương Tây. Bác nghe và nói: Chúng ta phải xây dựng và phát triển VH theo cái gốc của dân tộc Việt Nam (VH Đông Nam Á lúa nước) và mở cửa tiếp thu VH phương Đông, phương Tây, kim cổ). ĐH 2 khẳng định: Xây dựng nền VH có tính chất dân tộc, dân tộc ta có 4000 năm lịch sử đã hình thành các giá trị VH vững bền, như CN yêu nước, đoàn kết cộng đồng, anh hùng bất khuất, thông minh, cần cù, sáng tạo dân ta phải hiểu sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt nam. Nắm chắc VH dân tộc là nắm vững quy luật phát triển của dân tộc Việt Nam. 3.2. Nguyên tắc tiếp thu VH truyền thống Vừa tiếp thu vừa nâng cao VH truyền thống cho phù hợp với điều kiện hiện đại.
  38. Phải đào thải những yếu tố không còn phù hợp với điều kiện cuộc kháng chiến và công cuộc kiến quốc. Tiếp thu là phải biết trân trọng những giá trị VH của quá khứ (cả VH dân gian và VH bác học), tránh phủ định sạch trơn. 3.3. Đảng cầm quyền phải có VH, phải có hành vi ứng xử đúng đắn với di sản VH quá khứ Kẻ thù của những người cộng sản thường nói những người cộng sản không trân trọng quá khứ, Bác khẳng định: Nhiều giá trị hiện đại bắt nguồn từ quá khứ. Người cộng sản theo CN Mác, hiểu quan điểm biện chứng của Mác phải biết kế thừa những giá trị VH của quá khứ. 3.4. Phát triển VH dân tộc phải biết tiếp thu VH của nhân loại Muốn nâng mình lên thì phải mở cửa hội nhập vào thế giới, tiếp thu tinh hoa VH nhân loại, cần phải làm giàu VH của mình bằng tinh hoa của mỗi dân tộc trên thế giới. Nội dung tiếp thu là phải giao lưu, như Bác Hồ đã tiếp thu CN Mác Lê Nin – lý luận tiên tiến của thời đại. Năm 1945, CM vừa thành công, Việt Nam chưa được nước nào công nhận, Bác viết thư cho Bộ trưởng ngoại giao, tổng thống Mỹ xin gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ học KHKT, công nghiệp và nông nghiệp và chuyên môn khác về xây dựng đất nước và tạo điều kiện cho nhân dân 2 nước hiểu nhau. Người nhấn mạnh ta phải học khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật của Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, phong cách, tác phong làm việc của con người các nước công nghiệp. Tiếp thu phải chọn lọc, kế thừa cái gì có ích, làm phong phú cho nền VH dân tộc ta thông qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước. Tiếp thu VH thế giới nhưng phải có nhiệm vụ bổ sung vào nền VH chung của thế giới, phải giữ gìn cho được bản sắc VH dân tộc Việt Nam. Thế giới có hơn 200 nước, chỉ có 33 nền VH, trong đó VN là 1 trong 33 nền VH. Đây là quan điểm sòng phẳng có vay có trả. 4. Quan điểm HCM về tính nhân dân của nền văn hóa Nền văn hóa của ta là nền văn hóa mang tính chất nhân dân sâu sắc, thể hiện ở các nét sau đây: · Đối tượng phản ánh của văn hóa là cuộc sống lao động chiến đấu học tập của mọi tầng lớp nhân dân, phản ánh tâm tư nguyện vọng, khát vọng của quần chúng, đòi hỏi các văn nghệ sỹ phải đi sâu lột tả. · Nhân dân là chủ thể sáng tạo văn hóa. Những sản phẩm văn hóa của quần chúng là những viên ngọc quý cần trân trọng, gìn giữ và phát huy · Văn hóa phải phục vụ người dân, người dân được quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, để phục vụ nhân dân được tốt thì văn hóa phải thực hiện: - Có nội dung hay (một tác phẩm hay là một tác phẩm mà người ta tìm đọc từ đầu đến cuối, đọc xong người ta trăn trở, thấy có ích, thấy dằn vặt về con người của tác phẩm đó.)
  39. - Sản phẩm văn hóa đó phải có tính đại chúng về hình thức (không cầu kỳ, không trừu tượng, dễ hiểu, dễ vào lòng người). Năm 1960, Hội Họa sĩ VN có tổ chức triễn lãm tranh về đề tài công nhân, Bác xem và không ghi nhận xét gì, làm cho đồng chí tổ chức triển lãm đó rất bâng khuân, Bác viết: “Vẽ như ri, xem làm chi, thế cũng gọi là đại chúng, đại chúng gì” tác phẩm trừu tượng quá dân không hiểu. Câu 23: Một số lĩnh vực của văn hóa: a) Văn hóa giáo dục Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến (kinh viện, xa thực tế, coi sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức ) và nền giáo dục thực dân (ngu dân, đồi bại,xảo trá, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát). Người quan tâm xây dựng nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập.Hồ Chí Minh xác định, xây dựng nền giáo dục mới là một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, vì nó góp phần làm cho dân tộc ta xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục: - Mục tiêu của văn hóa giáo dục để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng giáo dục: Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; mở mang dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con người. - Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương trình, nội dung dạy và học hợp lý,phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Nội dung giáo dục phải toàn diện: văn hóa, chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động. - Phương châm, phương pháp giáo dục: Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế; học tập kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội; thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời. Phương pháp Giáo dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh. - Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề; phải có đạo đức cách mạng; phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương pháp. b) Văn hóa văn nghệ Hồ Chí Minh là người khai sinh nền văn nghệ cách mạng và có nhiều cống hiến to
  40. lớn, sáng tạo cho nền văn nghệ nước nhà. Sau đây là một số quan điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ: - Văn nghệ là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. Văn nghệ là mặt trận "Mặt trận" là thể hiện tính chất cam go, quyết liệt. Cho nên tác phẩm văn nghệ và ngòi bút của các văn nghệ sĩ phải là vũ khí sắc bén, là "phò chính trừ tà", là vạch trần, tố cáo tội ác, âm mưu của lực lượng thù địch đầu độc văn hóa; về chiêu bài "công lý", "dân chủ" Đồng thời văn nghệ có vai trò thức tỉnh, định hướng, cổ vũ tinh thần đấu tranh. Văn nghệ sĩ là chiến sĩ, vì vậy, cần có lập trường vững, tư tưởng đúng đắn, đặt lợi ích và nhiệm vụ phụng sự nhân dân và Tổ quốc lên trên hết. -Phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân. Thực tiễn đời sống nhân dân là những nguồn nhựa sống của văn hóa văn nghệ.Đời sống lao động, chiến đấu, sinh hoạt, xây dựng của nhân dân là chất liệu không bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn nghệ sáng tác.Muốn làm được điều đó, phải "từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng"; phải"liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân" để hiểu thấu tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của quần chúng. - Phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại. Muốn phục vụ tốt quần chúng thì phải nâng cao chất lượng nội dung và hình thức của tác phẩm.Nội dung cần chân thực và phong phú;hình thức phải trong sáng, vui tươi, tức là phải tạo nên một tác phẩm hay.Tác phẩm văn hóa, văn nghệ hay là tác phẩm phản ánh được những giá trị truyềnthống của dân tộc, mang được hơi thở của thời đại; vừa phải ca ngợi cái chân thật người tốt, việc tốt, vừa phải phê phán cái giả, cái ác, cái sai. c) Văn hóa đời sống Xây dựng đời sống văn hóa mới được Hồ Chí Minh chỉ ra ngay sau khi mới giành được chính quyền, Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới với ba nội dung: đạo đức mới, lốisống mới, nếp sống mới, trong đó đạo đức mới đóng vai trò chủ yếu nhất. Bởi vì, có dựa trên nền đạo đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, nếp sống mới, và đạo đức mới lại được thể hiện trong lối sống và nếp sống.
  41. - Đạo đức mới: Thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức cách mạng. - Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên lối sống văn minh, tiên tiến.Tính văn hóa ở đây là biết cách ăn, cách mặc, cách ở Con người văn hóa trong lối sống là phải có một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, quý thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức quyền, danh lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu lòng thương yêu, quý trọng con người; đối với mình thì nghiêm, đối với người thì khoan dung,độ lượng. - Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới (nếp sống văn minh) là xây dựng những thói quen và phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Xây dựng nếp sống mới rất khó khăn, phức tạp, vì thói quen rất khó sửa đổi, nó có sức ỳ cản trở ta.Vì vậy, quá trình đổi mới nếp sống phải rất cẩn thận, chịu khó, lâu dài, không thể dùng cách trấn áp thô bạo đối với cái cũ, lạc hậu. Phải tuyên truyền, giải thích một cách hăng hái, bền gan, chịu khó, cẩn thận, khôn khéo,mềm mỏng.Nói đi đôi với làm, nếu không, tuyên truyền giáo dục, xây dựng nếp sống mới khó đạt kết quả. Câu 24: Vai trò của đạo đức cách mạng? SInh viên làm theo như thế nào? Đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện ác, lương tâm, danh dự, trách nhiệm, về lòng tự trọng, về công bằng hạnh phúc và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa người với người, cá nhân và xã hội. HCM là lãnh tụ bàn nhiều nhất về đạo đức, nhưng Người thực hành về đạo đức nhiều hơn những điều Người đã nói và viết về đạo đức. Vì thế muốn nghiên cứu đạo đức HCM thì không thể chỉ dừng lại ở những bài viết, bài nói mà phải thâm nhập vào toàn bộ cuộc đời hoạt động của Người và những tiếng nói tâm huyết của các học trò và bạn bè quốc tế về Người -Đạo đức cách mạng là nền tảng của người cách mạng, giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của người gánh nặng lúc đường xa. Đạo đức cách mạng là gốc, là nền, là cái tạo ra những cái khác, cái mà những cái khác dựa vào đó để tồn tại và phát triển. Đạo đức cách mạng vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng để đưa cách mạng tới thắng lợi. Người viết: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội là việc to lớn, nặng nề nhưng rất vẻ vang, mỗi người mà không có đạo đức, tự mình đã không có căn bản, đã hư hóa xấu xa thì làm nổi việc gì? Đảng viên, cán bộ phải là người có đạo đức cách mạng, phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của cả dân tộc, của thời đại. Không thể viết lên trán 2 chữ cộng sản là được quần chúng yêu mến, quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người. Mỗi người có một nhiệm vụ, một công việc, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng thì đều là người cao thượng. -. Đạo đức cách mạng góp phần xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
  42. Theo quy luật, đạo đức văn minh sẽ chiến thắng bạo tàn, con người, ý chí con người sẽ chiến thắng vũ khí súng đạn của kẻ thù. Nếu có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, lùi bước, gặp thành công, thuận lợi cũng không tự kiêu mà vẫn giữ được tinh thần chất phát, khiêm tốn, lo trước thiên hạ vui sau thiên hạ, không công thần, kèn cựa, quan liêu hủ hóa. Liên hệ sinh viên: Thứ nhất, luôn xác định cho thế hệ trẻ biết ngoài 3 nguy cơ đang đặt ra cho đất nước ta về xu hướng chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tụt hậu về kinh tế và diễn biến hoà bình cần quan tâm đến một nguy cơ nữa: nguy cơ của chính giới trẻ không nhận thức được những nguy cơ trên. Cần tạo những kênh thông tin chính thức cho thế hệ trẻ về những vấn đề đang đặt ra cho sự tồn tại và phát triển của đất nước, những kênh thông tin đó cần cởi mở, nhẹ nhàng, kịp thời và thường xuyên hơn. Thực tế, tuổi trẻ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã và đang thực hiện tốt được nhiệm vụ này, qua hệ thống truyền thông khác nhau như phòng Thông tin, Bảng tin, Tờ tin nội bộ, Tờ tin sinh hoạt chi đoàn hàng tháng, các buổi nói chuyện chuyên đề, trang bị báo Tiền phong, Sinh viên cho tất cả các chi đoàn phần nào đã đáp ứng được nhu cầu thông tin của đoàn viên sinh viên trong tình hình hiện nay. Đó là nguồn thông tin có định hướng, là hình thức tăng cường nhận thức về chính trị nâng cao về lập trường tư tưởng cho thế hệ trẻ trong tình hình hiện nay. Từ vấn đề này, chúng tôi thiết nghĩ nắm bắt dư luận thanh niên, sinh viên là một điều rất quan trọng nhưng việc định hướng tư tưởng cho thế hệ trẻ lại quan trọng hơn rất nhiều. Thứ hai, thế hệ trẻ là nguồn nhân lực quan trọng cho nước nhà trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhiệm vụ mới đang đặt ra: làm sao để có thể phát huy hơn nữa năng lực, trí tuệ thanh niên sinh viên Việt Nam ngày hôm nay với tư cách lực lượng nòng cốt cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, những chủ thể đại diện cho tương lai của dân tộc thông qua những hành động cụ thể phù hợp với đặc điểm của lực lượng xã hội này. Trong những năm qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều phong trào thanh niên sinh viên sôi nổi và hiệu quả cao ở khắp mọi miền Tổ quốc. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào và tin tưởng về những kết quả đạt được từ những phong trào đó. Đây thực sự là một cơ sở thuận lợi để khơi dậy hơn nữa tinh thần chủ động và sáng tạo tham gia hoạt động đóng góp xây dựng của thanh niên sinh viên. Chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây những đặc điểm, thế mạnh riêng của từng nhóm thanh niên, sinh viên, làm thế nào để họ chủ động phát huy khả năng của mình. Điều này không thể xảy ra nếu các hoạt động của thanh niên sinh viên chỉ diễn ra trong khuôn khổ của những phong trào bề rộng được phát động theo một chiều đơn nhất từ trung ương xuống cấp cơ sở, mà chủ yếu phải là từ chính những sáng kiến từ cấp cơ sở, từ chính từng đoàn viên thanh niên. Trên thực tế, những thành công trong các hoạt động của tuổi trẻ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong thời gian qua đã củng cố niềm tin này của chúng tôi. Ví dụ: các đội hình sinh viên tình nguyện tại cộng đồng gắn liền với đặc thù chuyên môn đào tạo của Nhà trường, các đội hình về dạy chữ Hán Nôm, các đội hình về tư vấn tâm lý, điều tra xã hội học, phóng viên tình nguyện, tuyên truyền sức khoẻ sinh sản . được tổ chức và đạt hiệu quả tốt một phần nhờ vào việc xác định rõ nội dung hành động trên cơ sở khai thác thế mạnh chuyên môn của mình. Có thể nói, thế mạnh của sinh viên khối ngành xã hội-nhân văn đã