Chuyên đề Chủ nghĩa xã hội khoa học - Lê Thị Kim Phương (Phần 1)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Chủ nghĩa xã hội khoa học - Lê Thị Kim Phương (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- chuyen_de_chu_nghia_xa_hoi_khoa_hoc_le_thi_kim_phuong.pdf
Nội dung text: Chuyên đề Chủ nghĩa xã hội khoa học - Lê Thị Kim Phương (Phần 1)
- ĐẠI HỌC HUẾ TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Lấ THỊ KIM PHƯƠNG CHUYấN ĐỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC HUẾ - 2002
- Lời nói đầu Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người học về giáo trình và tài liệu nghiên cứu đối với các môn khoa học Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay. Trung tâm Đào tạo từ xa của Đại học Huế ra mắt cuốn: Giáo trình chuyên đề về Chủ nghĩa xã hội khoa học. Giáo trình này được biên soạn dựa trên sự tham khảo, kế thừa các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các thế hệ đi trước, đồng thời có bổ sung, phát triển để hoàn thiện thêm nhằm phục vụ cho sinh viên hệ Đào tạo từ xa và các hệ, các ngành có liên quan khác. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do khả năng, điều kiện và thời gian còn hạn chế nên chắc rằng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, bản thân tác giả rất mong được đông đảo sinh viên và các đồng nghiệp tham gia đóng góp ý kiến xây dựng để hoàn thiện hơn cuốn giáo trình này. Tác giả xin chân thành cảm ơn và tiếp thu những ý kiến đóng góp. Huế, tháng 8 - 2002 Tác giả Lê Thị Kim Phương
- DÂN Chủ TƯ Sản Và Dân Chủ Xã Hội Chủ Nghĩa Dân chủ là một giá trị xã hội, một phạm trù quan trọng trong kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đặc biệt đối với cách mạng nước ta hiện nay, dân chủ vừa là động lực vừa là một trong những mục tiêu vô cùng quan trọng mà chúng ta cần phải phấn đấu đạt được như Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". I. QUAN Niệm Mác - Xít Về DÂN Chủ Và Thực Chất Của Vấn Đề DÂN Chủ. Dân chủ là một khái niệm phong phú về nội dung, đa dạng về tính chất, muôn vẻ về hình thức. Trong lĩnh vực vấn đề dân chủ đã xuất hiện nhiều loại, nhiều thuyết dân chủ: Dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa), dân chủ nhân dân, dân chủ tiên tiến, dân chủ hạn chế, dân chủ vô bờ bến, dân chủ tuần túy, dân chủ quản lý, dân chủ hình thức, dân chủ thực chất, dân chủ không tính từ, dân chủ kiểu mới, dân chủ kiểu Mỹ Mỗi loại, mỗi thuyết đều có những nội hàm và sắc thái riêng mà lắm lúc không phải ai ai cũng phân định được trong khi đó giai cấp tư sản lại ra sức nói xấu chủ nghĩa xã hội (CNXH), xuyên tạc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và không ngớt lời thổi phồng nền dân chủ tư sản. Từ đó dẫn đến sự ngộ nhận ở nhiều người nhất là trong bối cảnh CNXH hiện thực đang bị khủng hoảng trầm trọng. Vì vậy cần phải làm sáng tỏ quan niệm Mác xít về dân chủ và khẳng định giá trị nền dân chủ XHCN để không những góp phần định hướng cho nhận thức
- mà còn khơi dậy những hành động mang tính dân chủ để hoàn thành những mục tiêu mà Đảng ta đã nêu ra ở trên. Trước đây có một số nhà lý luận cho rằng dân chủ có trước Nhà nước, dân chủ xuất hiện trong xã hội chưa có phân chia giai cấp là những luận điểm chưa có cơ sở vững chắc. Mà dân chủ là sản phẩm của lịch sử, là thành quả của quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh cho văn minh, tiến bộ xã hội của loài người qua các thời đại. Phạm trù dân chủ xuất hiện từ khi có Nhà nước. Gắn liền với nhà nước. Mặc dù không phải bất kỳ nhà nước nào cũng đều dân chủ nhưng không có hình thức dân chủ nào lại không gắn liền với một chế độ nhà nước nhất định. Chính Karmar đã nói: "Chế độ dân chủ là bản chất của bất kỳ chế độ nhà nước nào chế độ dân chủ quan hệ với mọi hình thức khác của chế độ nhà nước như loài quan hệ với các giống của mình"1. Đến Lênin cũng cho rằng: "Dân chủ là một hình thái của nhà nước", nhiều tác giả có tên tuổi hiện nay cũng cho rằng: "dân chủ xuất hiện khi có nhà nước", thuật ngữ dân chủ được ra đời vào khoảng thế kỷ VII - VI trước công nguyên. Những bút tích lưu lại của Aristote (384 - 322 Tr.CN) cho thấy vương triều của solon (khoảng 638 - 559 Tr.CN) đã đặt nền tảng đầu tiên cho nguyên lý dân chủ trong cai trị. Các bằng chứng lịch sử khác cũng góp phần khẳng định luận điểm: "Dân chủ cả về mặt hiện thực lẫn thuật ngữ, nảy sinh trong bối cảnh đã tồn tại nhà nước", tác giả nói tiếp: "Trong lịch sử Hy Lạp cổ đại, hình thức quyền lực công cộng đầu tiên của các quốc gia thành thị được sử sách ghi lại chính là Nhà nước. Bởi vậy dân chủ là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa cộng đồng, dân cư với Nhà nước"2. Vậy dân chủ là gì? 1 Mác - Ăng ghen, toàn tập, T.1, H. Nxb Chính trị Quốc gia, 1995, tr.350. 2 Đỗ Trung Hiếu - Một số khía cạnh của khái niệm dân chủ, Tạp chí TTKHXH số 3/2002, tr.14.
- Ngay từ thời cổ đại trong ngôn ngữ Hy Lạp cổ đã xuất, hiện khái niệm "Demokratia" là từ ghép được cấu thành từ hai từ gốc trong đó. Demos là "nhân dân" (danh từ), Kratos là "sức mạnh" hay "quyền lực" (động từ),như vậy theo nguyên nghĩa của nó dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân. Chính sau này Karmax lại một lần nữa khẳng định: "dân chủ theo tiếng Đức là chính quyền của nhân dân". Nhân dân là chủ thể đích thực của Nhà nước, và bởi vậy xét về bản chất, Nhà nước không có chủ quyền mà chủ quyền ấy thuộc về nhân dân. Nhưng trong các thời kỳ lịch sử khác nhau của xã hội có giai cấp, dân chủ không còn giữ nguyên nghĩa ban đầu của nó mà bị chi phối bởi quan điểm lập trường, thái độ chính trị của giai cấp cầm quyền trong xã hội. Nó trở thành một hình thức nhà nước hay còn gọi là một hình thức chính quyền của một giai cấp thống trị nhất định trong xã hội. Thực tế lịch sử đã thừa nhận khi nhà nước xuất hiện, cộng đồng xã hội phân chia thành hai bộ phận đối lập: Một số ít nắm quyền thống trị và số đông nhân dân bị mất hết quyền và bị thống trị. Số ít cầm quyền nhân danh cộng đồng, nhân danh lợi ích chung đặt ra pháp luật, thao túng mọi quyền hành, tước quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, dân chủ theo nghĩa chung nhất là hình thức nhà nước, trong đó chính quyền về mặt pháp lý thuộc về nhân dân. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền tham gia công việc nhà nước, được sử dụng các quyền chính trị, các quyền tự do dân chủ theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Như vậy thực chất của vấn đề dân chủ được tiếp cận ở hai nội dung chủ yếu sau đây: - Một là, dân chủ với tư cách là quyền lực của nhân dân với các thành quả mà nhân loại đã đạt được trong quá trình đấu tranh lâu dài của nhân dân chống ngoại xâm, chống áp bức bóc lột (hiểu theo quan điểm lịch sử) để giành lại quyền tự do, bình đẳng, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc mà đặc biệt là quyền lực nhà nước. ở phương diện này dân chủ là một giá trị xã hội mang tính nhân văn trong quá trình
- giải phóng con người và tiến bộ xã hội. Bởi lẽ các cuộc đấu tranh của nhân dân lao động để giành lấy dân chủ đều dẫn đến những khả năng giải phóng con người, nâng cao vị trí của con người trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con người ý thức và năng lực dân chủ. Những thành tựu dân chủ trước CNXH mà đỉnh cao là dân chủ tư sản, xét về mặt ý nghĩa khách quan của nó đều có ý nghĩa tiến bộ vì nó từng bước chuẩn bị tiến tới nền dân chủ đầy đủ, triệt để và hoàn thiện trong CNXH. Mặc dù các nền dân chủ trước đây chưa thể đem lại được quyền lực xã hội cho đa số những người lao động nhưng nó vẫn trở nên cần thiết đối với tiến bộ xã hội. Mỗi bước tiến của dân chủ và mỗi trình độ phát triển của dân chủ là những nấc thang khác nhau của tiến bộ xã hội, là mỗi thước đo về trình độ giải phóng con người, đưa con người tới tự do và làm chủ. Nó tích lũy và làm chín muồi dần ý thức dân chủ, tinh thần phản kháng trước những hành vi áp bức bóc lột của giai cấp thống trị. Không những thế nó còn làm thức tỉnh con người thái độ phê phán hiện thực, giục giã con người đấu tranh giành lấy dân chủ, dân sinh tạo nên sự trưởng thành chính trị, ý thức giai cấp của quần chúng, cung cấp cho họ những kinh nghiệm thực tiễn cần thiết để chuyển từ đấu tranh vì dân sinh, dân chủ sang đấu tranh vì CNXH. Lịch sử đấu tranh cho dân chủ là một trường học thực tiễn rộng lớn để những người lao động liên kết lại, dựa vào những căn cứ pháp lý, các đạo luật đã được xã hội thừa nhận để đấu tranh đòi giai cấp thống trị phải thực hiện các quyền công dân, thực hiện các nhu cầu và quyền lợi phổ biến của con người. Chính Karmax đã cho rằng: thực chất của dân chủ là ở chỗ quyền lực thực tế thuộc về nhân dân, là nhân dân tự quản lý xã hội của mình xã hội được quản lý bởi nhân dân và vì nhân dân. Vì thế thực chất nhất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. - Hai là, dân chủ với tư cách là một chế độ nhà nước gắn liền trực tiếp với một giai cấp cầm quyền nhất định với một quan hệ sản xuất chủ đạo trong xã hội khi dân chủ trở thành một hình thức tổ chức nhà nước thông qua tổ chức và quản lý để thực hiện quyền lực đối với xã
- hội. Trong mối tương quan với quyền lực nhà nước và chế độ nhà nước, dân chủ được hiểu ở dây là chế độ dân chủ, là nền dân chủ. Chỉ với ý nghĩa này và trong mối quan hệ này giữa chế độ dân chủ với chế độ Nhà nước thì dân chủ là một phạm trù lịch sử và chỉ tiêu vong với nghĩa dân chủ được xây dựng thành chế độ quyền lực và được tổ chức thành chế độ Nhà nước. Sự tiêu vong của Nhà nước chỉ làm mất đi các hình thái biểu hiện quyền lực bằng nhà nước của dân chủ chứ không làm mất đi nhu cầu xã hội của dân chủ mà thực chất của nhu cầu này là nhân dân trở thành người chủ xã hội, toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về nhân dân, do nhân dân tự quản lý tự quyết định mọi vấn đề của chính bản thân họ. Nó cũng không hề làm mất đi cái giá trị của dân chủ mà trung tâm của các giá trị này là tự do cho con người, làm cho con người trở thành tự do, làm chủ và sáng tạo. Dân chủ với tư cách nền dân chủ, chế độ dân chủ đã từng xuất hiện từ thời Cổ đại và sẽ còn tồn tại lâu dài trong lịch sử. Theo dự kiến của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì chỉ đến khi chủ nghĩa cộng sản với sự tự tiêu vong của nhà nước lúc ấy mới có thể đi tới sự tiêu vong của chế độ dân chủ (nền dân chủ). Vì vậy trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng" Lê nin đã nhắc nhở rằng: "Trong những nhận định thông thường về Nhà nước, người ta luôn luôn phạm một sai lầm mà Ăng ghen đã căn dặn phải đề phòng ở đây là: Người ta luôn luôn quên rằng thủ tiêu Nhà nước cũng là thủ tiêu chế độ dân chủ và Nhà nước tiêu vong cũng là chế độ dân chủ tiêu vong"1. ở chính phương diện này dân chủ mang tính chất giai cấp không có thứ dân chủ chung chung thuần túy cho mọi giai cấp, bởi vì trong khi phản ánh các quan hệ giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp thì bao giờ vấn đề cũng được đặt ra là dân chủ cho giai cấp nào và tầng lớp nào? chuyên chính với ai? Với giai cấp nào? Chính vì thế, Lê nin đã từng khẳng định rằng trong xã hội có giai cấp không có và tuyệt đối không thể có một nền dân chủ chung chung, phi giai cấp, ngoài giai 1 V.I. Lênin, Toàn tập, tiếng Việt Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva 1976, tập 33, tr.101.
- cấp siêu giai cấp. Càng không có nền "dân chủ thuần túy". Người nhấn mạnh : Chế độ dân chủ thuần túy chẳng qua chỉ là một câu nói giả dối của một kẻ thuộc phái tự do tìm cách lừa bịp công nhân. Chứng tỏ tính chất giai cấp của dân chủ sẽ còn tồn tại chừng nào xã hội còn tồn tại giai cấp và Nhà nước đó là điều không tránh khỏi. Do đó kể từ khi có vấn đề dân chủ, trong lịch sử vấn đề dân chủ có 3 nền dân chủ (3 kiểu hoặc 3 chế độ dân chủ) được tồn tại gắn liền với 3 giai cấp cầm quyền trong xã hội, đó là nền dân chủ chủ nô, nền dân chủ tư sản và nền dân chủ vô sản hay còn gọi là dân chủ XHCN; là những nền dân chủ do các giai cấp thống trị trong xã hội đó thiết lập nên và nó mang bản chất của giai cấp đó. Dân chủ có thể được tiếp cận ở giác độ này hay giác độ kia, có thể được đề cập đến ở mặt này hay mặt khác, nhưng xét đến cùng, chúng đều phụ thuộc và là hệ quả của hai nội dung chủ yếu nói trên. Do vậy một xã hội có dân chủ hay không dân chủ, dân chủ nhiều hay dân chủ ít phải có sự gặp gỡ của hai yếu tố trên, nếu thiếu đi một trong hai mặt đó thì xã hội không có dân chủ. Đặc biệt là yếu tố quyền lực của nhân dân. Ví dụ : Nhân dân lao động muốn có dân chủ nhưng giai cấp thống trị hà khắc không cho phép nhân dân được tự do, dân chủ thì nhân dân lao động vẫn không được tự do, dân chủ. Đó cũng là một trong những lý do để lý giải vì sao chế độ phong kiến không được thừa nhận là một chế độ dân chủ. Ngược lại nếu giai cấp cầm quyền (thống trị) cho phép nhân dân lao động có nhiều tự do, dân chủ nhưng chính người lao động lại không có đủ điều kiện, khả năng để thực hiện những quyền tự do, dân chủ đó thì cũng không có dân chủ thật sự. Bởi dân chủ là sản phẩm của quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, là thành quả của nhân loại trong quá trình đấu tranh giai cấp mà đạt được chứ không phải do một thế lực nào ban phát. Điều đó đã được chứng minh cụ thể trong quá trình phát triển của xã hội loài người từ khi có giai cấp cho đến nay là:
- Sau khi xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới sự ra đời của chế độ tư hữu, của giai cấp và Nhà nước. Nhà nước dân chủ đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là Nhà nước dân chủ của chủ nô. Trong nền dân chủ chủ nô, quyền lực cơ bản thuộc giai cấp chủ nô và phần nào thuộc các công dân tự do. Các quyền của giai cấp chủ nô với tầng lớp nô lệ (công dân tự do) được thể chế hóa thành các luật và được bảo vệ, duy trì, thực hiện bởi nhà nước chủ nô. Đó là nền dân chủ đầu tiên trong lịch sử, tuy nó mang tính chất sơ khai đơn giản nhưng đã đánh dấu sự hình thành và đặt nền móng cho quá trình ra đời và phát triển của vấn đề dân chủ trong suốt chiều dài lịch sử khi nhân loại phải đương đầu với các áp bức về giai cấp. Nhưng rồi Nhà nước chủ nô dần dần suy yếu. Cuộc dấu tranh của giai cấp chủ nô và nô lệ phát triển tới mức gay gắt làm cho chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã kéo theo sự sụp đổ của nền dân chủ chủ nô chế độ chuyên chế phong kiến ra đời. Những yếu tố dân chủ mới manh nha trong chế độ chiếm hữu nô lệ đã bị chế độ chuyên chế phong kiến bóp nghẹt bằng những hình thức cai trị vô cùng dã man, tàn bạo, làm cho xã hội đầy rẫy bất công, mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt. Giai cấp phong kiến căm thù khoa học, diệt nho đốt sách, xã hội sống trong cảnh tối tăm, dốt nát, chỉ có thần học là được tồn tại và chi phối toàn bộ đời sống tinh thần. Nên xét về mặt thiết chế Nhà nước thì chế độ phong kiến không có dân chủ, mà chỉ có quân chủ, tức là chỉ có một người được làm chủ đó là vua. Vì thế chế độ phong kiến thực chất là một kiểu chế độ chuyên chế, độc tài, độc đoán rất hà khắc. Trong chế độ phong kiến, toàn bộ quyền lực nằm trong tay một người - đó là vua. Vua được xem là "thiên tử" có quyền lực tối cao, mọi người lao động chỉ là "thần dân" của vua. Phản kháng lại chế độ chuyên chế đó, nhân dân, trước hết là nông dân đã đứng lên đấu tranh buộc giai cấp quý tộc phong kiến phải thực thi một số yêu cầu dân chủ. Song những yêu cầu đó không được đáp ứng - nếu có thì không đáng kể. Việc ngôi thứ địa vị trọng trị vì đất nước là do cha truyền con nối chứ không phải do nhân dân bầu cử nên. Do vậy,
- đặc trưng của chế độ phong kiến là sự chuyên chế một cách phổ biến nên không được thừa nhận là một xã hội có chế độ dân chủ. Tuy nhiên trong xã hội phong kiến, cá biệt vẫn có những triều đại khá dân chủ. Vua sáng, tôi hiền, vua quan biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, quan tâm đến dân, lấy dân làm gốc như Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo Nhưng điều đó quả là hiếm hoi. Kể từ khi có phong trào văn hóa Phục Hưng (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI) các trào lưu tư tưởng tiến bộ của giai cấp tư sản đang lên đã nêu cao yêu cầu tự do, dân chủ trong văn hóa, khoa học, chống lại những giáo lý duy tâm tôn giáo để mở đường cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Trong phong trào đó, tư tưởng về mặt Nhà nước cộng hòa dân chủ đã được đặt ra trong đời sống chính trị. Đó là sự chuẩn bị về tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản. Cách mạng tư sản nổ ra. Nhà nước cộng hòa tư sản được thiết lập - nền dân chủ tư sản ra đời. Nền dân chủ tư sản là một bước tiến lớn trong lịch sử vấn đề dân chủ nhưng nó vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định, chưa mang lại một cách đầy đủ những giá trị mà nhân loại mong đợi, khát khao. Cho nên để thực hiện triệt để những yêu cầu dân chủ chân chính của nhân dân, tất yếu phải loại bỏ giai cấp tư sản ra khỏi vị trí cầm quyền, phải vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của dân chủ tư sản. Việc giai cấp công nhân giành được chính quyền và từng bước xây dựng xã hội mới XHCN là điểm bắt đầu hình thành nền dân chủ XHCN. Bản thân nền dân chủ này càng được hoàn thiện bao nhiêu, nó càng nhanh đi tới ngày tự tiêu vong bấy nhiêu. Bởi vậy khi đề cập tới con đường biện chứng trong sự phát triển của dân chủ. Lê nin viết: "Từ chuyên chế đến dân chủ tư sản, từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản, từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ nữa"1. Quá trình chuyển biến của dân chủ trong lịch sử cho thấy với tư cách là một phạm trù chính trị, dân chủ là một hình thức nhà nước của 1 Lê nin toàn tập. Nxb Tiến Bộ. M. 1976, tập 33, tr.206.
- xã hội, mà điểm đặc trưng ở trình độ phát triển cao của nó là việc tuyên bố chính thức thiểu số phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực. Trình độ hiện thực hóa nội dung đó của dân chủ sẽ đạt được ở những mức độ khác nhau, tùy thuộc trình độ phát triển của kinh tế - xã hội và tính chất của thế chế chính trị tương ứng. Những yêu cầu dân chủ của nhân dân được chủ thể cầm quyền chấp nhận, và được thể chế hóa thành các chuẩn mực mang tính nhà nước và pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cũng như các thiết chế chính trị khác tạo thành chế độ dân chủ. Trong một chế độ thực sự dân chủ, mọi hoạt động của các thiết chế quyền lực và các cá nhân có phận sự trong các thiết chế đó đều được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Trong chế độ đó, các cơ quan và cá nhân đại diện cho nhân dân có nghĩa vụ trả lời một cách trung thực: mọi yêu cầu dân chủ chính đáng của nhân dân và không chỉ được thể chế hóa thành pháp luật mà còn được thực thi một cách cụ thể. Với tính cách là mặt hình thức nhà nước điều đó có nghĩa là không được đồng nhất dân chủ với nhà nước. Chế độ dân chủ cũng là một phạm trù mang tính lịch sử - xét cả về sự ra đời và tồn tại của nó cũng như mức độ dân chủ mà chế độ đó thực hiện. Chế độ dân chủ XHCN là đỉnh cao nhất của chế độ dân chủ mà loài người có khả năng sáng tạo ra. Còn với tư cách là một quan hệ xã hội thì nó là một phạm trù vĩnh viễn. II. Dân Chủ TƯ Sản Và DÂN Chủ Xã Hội Chủ Nghĩa. 1. Dân chủ tư sản: Chế độ phong kiến tan rã - kéo theo là sự sụp đổ của nền chuyên chế phong kiến. Chủ nghĩa tư bản ra đời đã mang lại cho nhân loại nền dân chủ tư sản. Nền dân chủ đó không hình thành hoàn thiện
- ngay lập tức mà trải qua một quá trình phát sinh, phát triển từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều, từ những yếu tố dân chủ lẻ tẻ trong kinh tế, tư tưởng, xã hội đến một nền dân chủ gắn liền với chế độ thống trị của giai cấp tư sản. Sự xuất hiện của dân chủ tư sản gắn liền với sự hình thành của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy dân chủ tư sản ra đời trong những điều kiện lịch sử nhất định đó là điều kiện lịch sử của sự hình thành, phát triển và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Không thể có dân chủ tư sản nếu không có giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản cùng với chế độ chính trị xã hội của nó, mà trước hết và căn bản nhất là điều kiện kinh tế. Phải khẳng định rằng trong buổi đầu lịch sử giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản đã đóng vai trò tiến bộ trong lịch sử và nền dân chủ tư sản do giai cấp tư sản thiết lập nên ở buổi đầu cũng mang nhiều yếu tố tiến bộ, tích cực có ý nghĩa nhân văn. Các nhà tư tưởng đại biểu cho lợi ích của giai cấp tư sản giai cấp đang trở thành lực lượng trung tâm của xã hội đã triển khai cuộc đấu tranh trên nhiều lĩnh vực như triết học, khoa học, văn học, nghệ thuật, hội họa để chống lại thần học, thần quyền, chống lại sự ức chế tình cảm, áp chế tư tưởng đòi tự do bình đẳng, dân chủ và bảo vệ chân lý khoa học. Tên tuổi nổi bật về triết học, thiên văn học có Cô-péc-ních, Bru-nô, Vôn-te; văn học có Sếchxpia, Xéc-văng-tét, Rút xô, về hội họa có Lê-ô-na đơ-vanh-xi Họ đã khẳng định giá trị thật sự của cuộc sống, cái đẹp chân chính của nó là ở con người chứ không phải ở thần thánh, ở trần gian chứ không phải ở thiên đàng đã làm rạng rỡ nền văn hóa tư sản với những tư tưởng dân chủ, nhân đạo. Dân chủ tư sản là sự phát triển nhảy vọt về chất so với nền chuyên chế, độc tài của chế độ phong kiến đã mở rộng quyền tự nhiên của con người, quyền công dân và các cộng đồng của nó. Bình đẳng, bình quyền, tự do cá nhân là nội dung nổi bật của dân chủ tư sản. Đó là nội dung dân chủ không hề có trong xã hội phong kiến. Lần đầu tiên trong lịch sử, nền dân chủ tư sản đã xây dựng các
- thể chế, các quy tắc để thực thi quyền lực nhà nước bằng các cách thức trần thế. Đó là những yếu tố tích cực có ý nghĩa tiến bộ khách quan của nền dân chủ tư sản. Đó cũng là những cống hiến lớn lao của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến lạc hậu, lỗi thời. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc thể hiện tính chất phản động, ăn bám và thối nát của nó thì dân chủ tư sản ngày càng bị cắt xén, thu hẹp và hình thức hóa. Nhân dân lao động ngày càng bị áp bức bóc lột nặng nề, có nơi giai cấp tư sản thống trị trở thành bọn phát xít. Trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt trước nguy cơ mất còn, giai cấp tư sản thống trị đã không ngần ngại bóp nghẹt dân chủ, thẳng tay chuyên chính, đàn áp mọi cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong nước cũng như trên phạm vi thế giới. Dân chủ tư sản đặc biệt là dân chủ kiểu Mỹ đã đem lại bao tai họa cho nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới. Ngay trong lòng nước Mỹ, theo báo chí của Mỹ và của nhiều nước khác thì hiện nay Mỹ là nước có tình trạng bạo lực lan tràn, được đánh giá là nghiêm trọng nhất thế giới. Với một số lượng trên 250 triệu khẩu súng đang lưu hành trong dân. Trong khi dân số cả nước Mỹ năm 1999 là 272,5 triệu người. Như vậy ở Mỹ hầu như người nào cũng có súng. Theo thống kê thì mỗi năm ở nước này có 31.000 người bị chết vì có liên quan đến súng đạn (trung bình có khoảng trên 80 người thiệt mạng mối ngày). Mỹ tự xưng mình là "thế giới tự do" nhưng tỷ lệ người bị tù ở nước này là cao nhất thề giới. Năm 1996 nước Mỹ có 5,5 triệu tội phạm, số tù nhân tăng gấp đôi trong vòng 10 năm từ 740 ngàn năm 1985 tăng lên 1,7 triệu vào năm 1997. Trong vòng 6 năm từ 1990 đến 1996 nước Mỹ đã phải xây thêm 220 nhà tù để giam giữ số tội phạm mới. Sự bất công trong thu nhập và khoảng cách giữa những người giàu và người nghèo ngày càng tăng ở Mỹ. Người giàu ở Mỹ chỉ chiếm 1%
- dân số nhưng lại chiếm tới 25% tổng thu nhập quốc dân của nước này. Trong khi có tới 12% (tức 32 triệu người) phải sống dưới mức nghèo khổ. Trong vòng 10 năm qua tỷ lệ người đói ăn đã tăng 50%. Chỉ riêng ở thành phố Niu-oóc trong năm 1997 đã có tới 45.000 người không nhà cửa. Tình trạng phân biệt đối xử giữa nam và nữ cũng hết sức phổ biến, sâu sắc. Mặc dù phụ nữ chiếm 51% dân số nhưng chỉ chiếm 10,4% trong quốc hội. Trong khi bình quân chung của thế giới là 12,2%. Và cùng một công việc nhưng thu nhập của phụ nữ chỉ bằng 75% thu nhập của nam giới. Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ ngày càng gia tăng, hàng năm ở Mỹ có tới 6 triệu phụ nữ là nạn nhân của các vụ bạo lực trong gia đình, trong đó có 2 triệu bị thương nặng. Theo một báo cáo mới đây của Chính phủ Mỹ cho thấy hàng năm ở Mỹ có 50% phụ nữ bị tấn công bằng bạo lực, 18% phụ nữ bị cưỡng dâm. Còn đối với trẻ em, ở Mỹ mỗi năm có 130.000 em bị xâm phạm tình dục, 250.000 em bị đánh đập gây thương tích, 2000 em bị ngược đãi đến chết, 15 triệu trẻ em phải sống nghèo khổ. Nạn phân biệt chủng tộc diễn ra rất sâu sắc, nghiêm trọng. Tại 10 thành phố ở Mỹ người da đen buộc phải sống trong khu vực riêng và điều kiện sống dưới mức nghèo khổ, ước tính tài sản của một gia đình người da đen chỉ bằng 1/10 tài sản của một gia đình người da trắng. Cùng làm một việc như nhau nhưng thu nhập của người da đen chỉ bằng 81% thu nhập của người da trắng. Người da den chỉ chiếm 12% dân số Mỹ nhưng lại chiếm 54% tổng số phạm nhân và trên 40% phạm nhân tử hình. Năm 1998 số người da đen vào tù gấp 7 lần người da trắng. Trong lĩnh vực giáo dục và chăm sóc y tế người da đen cũng trở thành nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc. Tỷ lệ trẻ sơ sinh chết ở người da đen cao gấp 2 lần so với người da trắng. Tuổi thọ trung bình của nam nữ người da đen thấp hơn từ 5,5 đến
- 8 tuổi so vai người da trắng. ở Mỹ hiện nay có gần 500 tổ chức phân biệt chủng tộc đang ráo riết hoạt động, nạn nhân chủ yếu của các tổ chức này là người da đen và da màu. Luật pháp Mỹ cũng có những điều cấm đoán dân chủ và những hình phạt nặng nề đối với những ai đòi quyền dân chủ, cấm cả công dân Mỹ đi du lịch Việt Nam, CuBa, Bắc Triều Tiên. Hãy nghe Gioóc- giơ-Mác-se nói về nước Mỹ như sau: "Đó là nơi mà mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản nổ ra một cách kịch liệt hết cỡ của nó. ở đó sự bùng nổ của giàu có tột độ đi bên cạnh sự cùng khổ ghê gớm. Và những khái niệm tự do, quyền con người được ta dùng để bào chữa cho một thế giới bị hoại thư vì sự đã man, ma túy và chủ nghĩa chủng tộc đồng thời với một mức sống đầy tiện nghi cho một bộ phận dân cư và cuộc sống dồi dào không giới hạn cho một số tỷ phú xã hội Mỹ, xã hội của chủ nghĩa tư bản buông thả, đang tạo ra những thực tế đầy ác mộng"1. Tác giả Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo cũng lột trần dân chủ tư sản như sau: "Đảng dân chủ và Đảng cộng hòa ở Mỹ là hai Đảng nhưng vẫn cùng một bản chất giai cấp tư sản. Vì thế cả hai Đảng này tuyệt nhiên không kết nạp người lao động trực tiếp như nông dân, công nhân. Cái tên gọi của những Đảng này chỉ là cái nhãn, cái chiêu bài dân chủ đối với người lao động. Cái gọi là chế độ bầu cử tự do ở những nước tư bản chủ nghĩa cũng thế, nếu không gọi là dân chủ mị dân thì cũng là dân chủ không thực chất. Trong lưỡng viện (Hạ nghị viện và Thượng nghị viện) của quốc hội Mỹ từ trước đến nay chưa hề có một nghĩa sĩ nào là người trực tiếp lao động chân tay. Người lao động trực tiếp bị coi rẻ và cũng không có điều kiện ứng cử. Có nước, người nào muốn ra tranh cử ít ra cũng phải có tài sản trị giá một triệu đô la. Có nước, người ứng cử phải nộp khoản lệ phí tương đương với 500 stéc - linh. ở miền Nam nước ta trước đây, Ngô Đình Diệm lập ra Đảng Cần lao nhân vị, Nguyễn Văn Thiệu lập ra cái gọi là Đảng dân 1 Dân chủ, Giooc-giơ-mac-se, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1992, tr.62 - 63.
- chủ và xây dựng nhiều tổ chức gọi là "vì dân" nhưng tất cả các cái đó cũng chỉ là những thủ đoạn che giấu bản chất phản dân, hại nước của chúng mà thôi"1. Chứng tỏ dân chủ tư sản là một thứ dân chủ đầy những lời lẽ văn hoa, những chữ long trọng, những lời hứa hẹn trống rỗng, những khẩu hiệu thật kêu về tự do và dân chủ song thực tế tất cả những cái đó che giấu sự không tự do và không dân chủ trong xã hội tư bản. ở các nước tư bản khác cũng vậy, giai cấp tư sản tha hồ áp bức bóc lột nhân dân lao động đưa đến sự phân hóa giàu nghèo một cách sâu sắc giai cấp tư sản quá giàu trở thành những trùm tư bản, người lao động không được hưởng thụ một cách xứng đáng thành quả lao động của mình. Không những thế dân chủ tư sản, dân chủ kiểu Mỹ còn dẫn đến chủ nghĩa phát-xít mới, chủ nghĩa quân phiệt, gây những cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa để ra sức chống cộng, chống lại hòa bình, chống lại độc lập chủ quyền của các dân tộc, tàn sát, giết hại những người dân vô tội. Từ cuộc chiến tranh ở Việt Nam đến Li Bi, Pa-na- ma, I Rắc, đến ápganis xtan đều thể hiện sự chuyên chính và bản chất tàn bạo của đế quốc Mỹ, vi phạm dân chủ, độc lập, chủ quyền một cách trắng trợn. Là người Việt Nam từng chịu nhiều hy sinh, mất mát trong chiến tranh chống Mỹ xâm lược chúng ta càng hiểu rõ thực chất của nền dân chủ kiểu Mỹ mà chúng thường nói. Thế mà ngày nay chúng đã và đang lên tiếng hô hét Việt Nam vi phạm nhân quyền, vi phạm dân chủ thật là trớ trêu! Vì kẻ vi phạm dân chủ lại đi "dạy đời" cho kẻ có dân chủ về dân chủ. So vai chế độ quân chủ chuyên chế (phong kiến) thì dân chủ tư sản là một bước tiến trong lịch sử phát triển dân chủ của xã hội loài người. Tử dân chủ của một người, vì một người, do một người đến dân 1 Dân chủ tư sản và dân chủ XHCN - Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr.34.
- chủ của một giai cấp, vì một giai cấp, do một giai cấp (tư sản) nhưng về thực chất nền dân chủ đó vẫn là nền dân chủ dựa trên thế lực của đồng tiền, dân chủ của kẻ mạnh đối với kẻ yếu, dân chủ bị bớt xén, dân chủ của thiểu số tư sản đối với đa sổ (nhân dân lao động). Nền dân chủ đó tuyệt nhiên không phải là nền dân chủ của dân do dân, vì dân. Hiện nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại do phải vượt qua nhiều cuộc khủng hoảng, do mục tiêu chống cộng, chống CNXH, chống phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã buộc giai cấp tư sản phải mở rộng một số quyền dân chủ cho nhân dân lao động như tự do cư trú, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do bầu cử, ứng cử, tự do đi lại, học tập được pháp luật thừa nhận. Nhưng điều đó không có nghĩa là giai cấp tư sản có thiện chí, có lòng thương yêu, tôn trọng con người một cách thật sự. Đồng thời cũng phải thấy rằng những yêu cầu dân chủ được ghi nhận trên văn bản pháp luật với việc thực hiện hóa các yêu cầu đó trong xã hội tư bản chủ nghĩa không phải là một. Bằng hệ thống những ràng buộc khắt khe, trước hết là những ràng buộc về điều kiện kinh tế, nên đại đa số người lao động không thể sử dụng được những quyền dân chủ đã được pháp luật ghi nhận. Những giá trị đó trong chủ nghĩa tư bản không phải là sự ban phát của giai cấp tư sản cho xã hội. Trái lại mức độ sâu sắc của những chuẩn mực dân chủ của nhân dân được pháp luật tư sản ghi nhận cũng như một mức độ hiện thực hóa các chuẩn mực đó phụ thuộc trước hết và chủ yếu vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tuy nhiên trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản là kẻ nắm được hầu hết tư liệu sản xuất trong tay nên giai cấp tư sản giành được sự thống trị về kinh tế - từ đó giai cấp tư sản cũng nắm vai trò thống trị về chính trị - tinh thần, trong đó có quyền dân chủ. Do vậy dân chủ trong chủ nghĩa tư bản mang bản chất giai cấp tư sản sâu sắc trong nội dung cơ bản của mình. Quan điểm nêu trên hoàn toàn đối lập với quan điểm tư sản về dân chủ. Thật vậy, các học giả tư sản luôn coi những yêu cầu, chuẩn mực
- dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản là những cái chung, cái phổ biến thích ứng cho mọi giai cấp, cho mọi thời kỳ lịch sử, dân chủ tư sản là "mẫu mực" mà nhân loại hướng tới, là đỉnh cao nhất của dân chủ mà loài người có thể tạo ra. Vạch trần sự lừa bịp về bản chất phi giai cấp và tính phổ biến tuyệt đối của dân chủ tư sản, Lê nin cho rằng ngay ở giai đoạn phát triển nhất của dân chủ tư sản trong chế độ cộng hòa dân chủ, thì chế độ dân chủ ấy bao giờ cũng bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp của sự bóc lột tư sản và do đó thực ra nó chỉ là chế độ dân chủ đối với thiểu số mà thôi. Mặc dù vậy chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản là kẻ luôn giương lên ngọn cờ dân chủ, nhân quyền để mỵ dân đến mức tinh vi, để che dấu bản chất phản động, phản nhân đạo, để chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH của chúng ta. Bởi vậy, chúng ta phải hết sức nhạy cảm thì mới phân biệt được đâu là sự thật và đâu là chiêu bài để lừa bịp quần chúng, từ đó quyết tâm xây dựng và hoàn thiện một nền dân chủ mới, dân chủ thật sự - đó là dân chủ XHCN. 2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ XHCN ra đời thay thế nền dân chủ tư sản là một tất yếu lịch sử. Dân chủ XHCN là hình thức chính trị phổ thông của nhà nước XHCN, là đặc trưng bản chất của CNXH, là quy luật hình thành và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị XHCN. Việc nhà nước XHCN ra đời, với tư cách là công cụ của chuyên chính vô sản nhằm chống lại các giai cấp bóc lột và bảo vệ những lợi ích thiết thân của quần chúng nhân dân đang xây dựng xã hội mới thì sự ra đời của nhà nước XHCN đồng thời cũng là sự ra đời của một kiểu dân chủ mới trong lịch sử đó là nền dân chủ cho đại đa số nhân dân lao động. Trên thực tế nền dân chủ XHCN với tư cách là một chế độ nhà nước chỉnh thể lần đầu tiên xuất hiện sau thắng lợi của Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga, Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ mở
- ra một thời đại mới, một chế độ xã hội mới mà còn mở ra một nền dân chủ mới trong lịch sử. Nền dân chủ đó không những thừa nhận các quyền và tự do của công dân mà còn tạo ra các điều kiện kinh tế - xã hội để thực hiện các quyền và tự do đó. Nhân dân lao động từ địa vị nô lệ làm thuê bị áp bức, bóc lột nặng nề về kinh tế, nô dịch về chính trị, tinh thần trở thành người làm chủ đã có đủ các điều kiện để thực sự tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Như vậy việc thiết lập một chính quyền nhà nước kiểu mới, chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đây cũng chính là những tiền đề và nguyên tắc dẫn đến sự hình thành nền dân chủ XHCN. Một nền dân chủ mới về chất so với dân chủ tư sản. CNXH và nền dân chủ XHCN là kết quả tất yếu - tự nhiên hợp quy luật của sự phát triển lịch sử. Nó thay thế chủ nghĩa tư bản và nền dân chủ tư sản bởi lẽ CNXH thuộc về hình thái cao hơn, nó khác về chất so với chủ nghĩa tư bản nên nó đủ sức khắc phục những hạn chế mà dân chủ tư sản không thể giải quyết được. Dân chủ XHCN bắt nguồn từ bản chất của chế độ XHCN là chế độ xã hội dân chủ lại có quá trình phát triển và hoàn thiện cùng với quá trình lịch sử lâu dài của công cuộc xây dựng CNXH. Đó là xã hội đi từ chỗ có dân chủ ít đến dân chủ nhiều, từ dân chủ còn phiến diện đến dân chủ hoàn hảo, từ dân chủ hình thức đến dân chủ thực chất mỗi bước đi lên của CNXH là mỗi bước phát triển của nền dân chủ XHCN. Mỗi nền dân chủ có một bản chất riêng để phân định nền dân chủ này với nền dân chủ khác,vì vậy cần phải chỉ ra bản chất của dân chủ XHCN. Dân chủ XHCN khác về chất so với dân chủ tư sản ở những điểm sau: 1. Dân chủ XHCN là một nền dân chủ rộng rãi nhất lịch sử, nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp của giai cấp công nhân, dân chủ đi đôi tập trung với kỷ cương, kỷ luật với trách nhiệm của công
- dân trước pháp luật. Vì nó giành cho đại đa số nhân dân lao động - tất cả mọi người dân trong xã hội mới đều được quyền dân chủ - đó là điều mà suốt chiều dài lịch sử từ khi xã hội có phân chia giai cấp người dân lao động không bao giờ có. Điều này có ý nghĩa chính trị và nhân đạo vô cùng to lớn. Có thể nói đây là một bước ngoặt trong lịch sử. Vấn đề dân chủ, từ dân chủ cho thiểu số đến dân chủ cho đa số. Không những thế dân chủ XHCN là nền dân chủ đầy đủ hơn, cao hơn, tốt đẹp hơn "gấp triệu lần so với dân chủ tư sản". Bởi lẽ dân chủ XHCN khi ra đời trong bản thân nó đã kế thừa được những nét tiến bộ, tích cực của những nền dân chủ đi trước, đặc biệt là của dân chủ tư sản, lại bắt nguồn từ bản chất ưu việt, tiến bộ của CNXH và chịu ảnh hưởng của những thành tựu về khoa học và văn minh của thời đại nên nó hoàn toàn có thể nâng cao hơn so với trước trở thành một thứ dân chủ tuyệt tác trên tất cả mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng Đó là nền dân chủ của dân, do dân, vì dân, được thiết lập nên trong quá trình cách mạng XHCN, nó hướng vào mục đích phát triển lực lượng sản xuất, phát huy năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân. Trong khi nhấn mạnh dân chủ XHCN là nền dân chủ rộng rãi nhất, cao nhất, đầy đủ nhất thì quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin cũng nhấn mạnh rằng đó vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp của giai cấp công nhân, trên cơ sở liên minh: công- nông- trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Bởi lẽ nó do giai cấp công nhân thiết lập nên chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì sẽ không có nền dân chủ thật sự, dân chủ cho đa số nhân dân, chỉ có giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản mới có khả năng thiết kế và thực thi một nền dân chủ khác về chất như vậy trong lịch sử. Đó là sự chuẩn bị cho một xã hội dân chủ tối đa trong tương lai (chủ nghĩa cộng sản). Muốn có một xã hội như vậy loài người ắt phải trải qua cuộc đấu tranh, xây dựng dân chủ XHCN rồi mới đi đến một xã hội hoàn toàn dân chủ của chủ nghĩa cộng sản chứ
- không thể biến dân chủ tư sản thành nền dân chủ hoàn hảo. Mặc dù nước Mỹ có dựng nên tượng "thần tự do" thì thần tự do ấy vẫn không thể mang lại tự do, dân chủ đầy đủ cho nhân dân nước Mỹ mà phải chăng tự do ấy là tự do bóc lột, tự do áp bức, tự do xâm lược, tự do tàn sát, hủy diệt dân tộc, sắc tộc, Nói tóm lại đó là tự do, dân chủ theo kiểu Mỹ. Do đó dân chủ XHCN tuy là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ có tổ chức, có lãnh đạo, có giới hạn nhất định - giới hạn đó chính là nằm trong khuôn khổ của pháp luật XHCN. Tuy nhiên trong xã hội - XHCN lợi ích của Giai cấp công nhân cơ bản phù hợp với những lợi ích chính đáng của toàn thể nhân dân lao động nên nhân dân lao động không những được thừa hưởng những thành quả của nền dân chủ XHCN do giai cấp công nhân thiết lập nên mà còn ra sức ủng hộ, củng cố nền dân chủ XHCN ngày càng vững chắc hoàn thiện hơn. Trong khi mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân lao động, dân chủ XHCN kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực về dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ chân chính của nhân dân, gây ảnh hưởng xấu đến tiến trình phát triển của nền dân chủ XHCN. Vì vậy trong nền dân chủ XHCN, dân chủ và chuyên chính (theo nghĩa hẹp) không thể tách rời nhau, nó được xem như hai mặt của một vấn đề. Hễ lúc nào và chừng nào mà giai cấp công nhân cần đến chuyên chính là vì dân chủ chứ không phải vì chuyên chính. Để có dân chủ thì cần phải chuyên chính đối với mọi kẻ thù xâm phạm đến dân chủ, nhằm bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân. Theo Lê nin: "dân chủ vô sản không tách rời đấu tranh giai cấp", rằng "chuyên chính nhất thiết có nghĩa là thủ tiêu dân chủ đối với giai cấp bị chuyên chính"1. Trên quan điểm đó chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng: "Dân chủ cần phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ"2. 1 V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, M. 1977, tr. 242. 2 Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, tr. 549.
- Vì vậy để hạn chế và xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân, các quyền dân chủ phải được thể chế hóa thành hiến pháp, thành pháp luật.v.v và được thực hiện bằng những thiết chế tương ứng của chuyên chính vô sản. Cần phải thấy rằng dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương không bài trừ và phủ định nhau mà trái lại, chúng nằm trong sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề tồn tại và phát triển của nhau. Nếu xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa bất kỳ mặt nào trong hai mặt trên thì đều là sai lầm cả lý luận và thực tiễn: Dẫn đến tình trạng vô chính phủ hoặc tập trung quan liêu. Những điều đó đều có tác hại xấu đến nền dân chủ chân chính của nhân dân. Chính vì vậy, khi đề cập đến điều này, Đảng ta đã nhấn mạnh: "Cả vô chính phủ lẫn độc đoán chuyên quyền đều trái với bản chất của nền dân chủ XHCN. Vì vậy, xét về thực chất, dân chủ gắn liền với kỷ cương, có khuôn khổ, trong vòng trật tự. Không thể có dân chủ mà lại thiếu pháp luật, kỷ luật, kỷ cương"1. Dân chủ XHCN không chỉ gắn liền với chuyên chính mà dân chủ còn đi đôi với tập trung thành nguyên tắc tập trung dân chủ. Xã hội - XHCN là một xã hội do người lao động làm chủ, hoạt động tự giác, sáng tạo và có tổ chức, được quản lý một cách khoa học và dân chủ. Dân chủ của từng công dân, của mỗi thành viên trong xã hội và dân chủ của toàn xã hội. Dân chủ gắn liền mật thiết hữu cơ với pháp luật, kỷ cương, kỷ luật với trách nhiệm của công dân trước pháp luật. Kết hợp hài hòa giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của từng cá nhân, giữa tính tự giác trong hoạt động của từng công dân với cơ chế kiểm tra và điều chỉnh của xã hội. Nguyên tắc tập trung dân chủ xuất phát từ bản chất và mục đích của nền dân chủ XHCN. Cơ sở và mục đích của tập trung là dân chủ và để thực hiện dân chủ. Tập trung là để bảo vệ dân chủ khỏi bị vi phạm bị bóp méo, xuyên tạc làm cho biến dạng: Tập trung là điều 1 Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành TW khoá VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1997, tr. 12-13.
- kiện và phương tiện thực hiện dân chủ. Chỉ có dân chủ gắn liền với tập trung mới có dân chủ thật sự, đầy đủ, đúng đắn - chừng nào dân chủ bị tách khỏi tập trung không còn là dân chủ theo nghĩa tích cực, lành mạnh của nó. Nó bị biến dạng thành tự do vô chính phủ mà thực chất là sự phá hoại dân chủ. Ngược lại tập trung gắn liền với dân chủ mới không rơi vào tình trạng độc đoán chuyên quyền, Lê nin đã từng nhấn mạnh rằng: "Chế độ tập trung dân chủ một mặt thật khác xa với chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa và mặt khác thật khác xa với chủ nghĩa vô chính phủ"1. Vì thế dân chủ phải tập trung, tập trung phải dân chủ không được tuyệt đối hóa yếu tố này, xem nhẹ và phủ nhận yếu tố kia hoặc tách rời, cô lập chúng với nhau. Tính hợp lý và hiệu quả của hai mặt này là phải ở trong chỉnh thể của nó và trong sự vận dụng đúng đắn, nhất quán nguyên tắc này vào việc giải quyết những nhiệm vụ cụ thể đòi hỏi phải tôn trọng sự thật, thảo luận tập thể, dân chủ công khai, tranh luận thẳng thắn, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân, tăng cường kiểm tra bằng pháp luật, kỷ luật. Sức sống của nguyên tắc này được kiểm nghiệm qua sự hoạt động của bộ máy nhà nước, của công tác tổ chức, kiểm tra, thanh tra, trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa trung ương với địa phương, giữa bộ phận với tổng thể v.v Do vậy, không thể quan niệm dân chủ XHCN như một chế độ dân chủ "cho tất cả mọi người" một chế độ dân chủ thuần túy, một sự tự do tuyệt đối của từng cá nhân, một "nền dân chủ hiện đại", "dân chủ chung chung" Cương lĩnh của Đảng ta nhấn mạnh rằng : Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Như vậy dân chủ không thể thực hiện được nếu thiếu tập trung, kỷ cương trách nhiệm công dân và cần phải cảnh giác với những thủ đoạn lợi dụng dân chủ, ca tụng một chiều dân chủ 1 V.I. Lênin toàn tập - tiếng Việt. Nxb Tiến Bộ - M. 1997, tập 36, tr. 185.
- tư sản để mị dân và gây rối rơi vào con đường cơ hội hữu khuynh, cải lương của CNXH - dân chủ. 2. Dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là quan hệ sản xuất XHCN đảm bảo. Đây là yếu tố hết sức quan trọng bởi xã hội - XHCN đã xác lập một quan hệ sản xuất mới - dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu nên đã xóa bỏ được tình trạng áp bức, bóc lột giữa người với người. Đưa người lao động trở thành người làm chủ xã hội, xác lập lao động tự do, chủ nghĩa tập thể, sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động, sự phát triển kinh tế bảo đảm cho sự phát triển của nền dân chủ - là điều kiện cơ bản và cần thiết cho việc kiểm tra một nền dân chủ. Dân chủ trên lĩnh vực kinh tế đó là nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự dân chủ trên lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội. Do đó có thể nói rằng trong các lĩnh vực của dân chủ XHCN việc thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa cơ bản; chỉ khi nào người lao động thực sự làm chủ về kinh tế, lúc đó họ có dân chủ thực sự và mới trở thành lực lượng quyết định toàn bộ quá trình phát triển xã hội. Bởi dân chủ trên lĩnh vực kinh tế làm cho cá nhân, đơn vị đều có quyền tự chủ trong lao động sáng tạo, trong sản xuất kinh doanh từ đó mới tạo ra được nhiều lợi nhuận, nhiều của cải vật chất để làm giàu cho cá nhân, gia đình và xã hội. Cũng cần thấy rằng dân chủ đã tạo điều kiện phân phối công bằng hơn phúc lợi xã hội, nhờ vậy kích thích sự phát triển kinh tế khi đó mới có cơ sở khách quan để chấm dứt cơ chế tập trung, quan liêu và mới thực sự đổi chiều các mối quan hệ xã hội theo chiều hướng người lao động làm chủ. Khi đó hệ thống chính trị mới thực sự trở thành công cụ của người lao động để thực hiện quyền làm chủ của mình và nền dân chủ đó mới được xem là nền dân chủ XHCN chân chính. Đánh giá một nền dân chủ không thể căn cứ vào những nguyên tắc, thể chế, khẩu hiệu nêu ra mà cơ bản là phải xem nó được thực thi như thế nào trong đời sống xã hội - trước hết là trong lĩnh vực kinh tế, người lao động đã thật sự có quyền tự do tiến hành lao động sản xuất, kinh doanh, cư trú, đi lại, làm ăn, sinh sống, phân phối sản phẩm và
- làm nghĩa vụ với nhà nước hay chưa. Muốn điều đó trở thành hiện thực phải có cơ chế kinh tế phù hợp - Đồng thời phải tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi để người lao động có khả năng tiếp thu, ứng dụng và phát triển khoa học kỹ thuật. Bởi vì, cách mạng khoa học kỹ thuật đòi hỏi và tạo ra điều kiện vật chất để giải phóng và nâng cao nhân cách, năng lực sáng tạo của con người, không đi vào cách mạng khoa học kỹ thuật thì không có vật liệu vật chất tinh thần và môi trường cho nền dân chủ XHCN. Theo dự đoán của nhiều nhà khoa học nước ngoài thì tới đây nhân loại sẽ nếm trải những biến đổi mạnh mẽ từ làn sóng cách mạng công nghệ - thông tin và sự xuất hiện nền kinh tế tri thức. Làn sóng ấy sẽ làm biến đổi căn bản các thể chế chính trị quốc gia và quốc tế theo chiều hướng dân chủ phổ biến và trực tiếp. Sự tác động của nền kinh tế tri thức đối với các quá trình dân chủ sẽ làm cho bộ mặt thế giới trong đó có cả các nước XHCN đổi thay kỳ diệu, làm cho dân chủ cũng có những biểu hiện mới cả về nội dung và hình thức nhằm đáp ứng với yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, các thể chế chính trị, dân chủ được cấu trúc tốt nhất với sự mở cửa và khỏe mạnh dẫn đến các thể chế của một xã hội mở, chẳng hạn như tự do báo chí, chính phủ minh bạch, sự kiểm tra và cân bằng, sự khoan dung, sự tự do của tư tưởng, sự tranh luận công khai và cởi mở. Sự tái cơ cấu thoát khỏi ý tưởng về một xã hội cùng hướng tới một xã hội mở. Ngược lại sự mở cửa chính trị và tăng cường dân chủ này là thiết yếu đối với thành công của việc chuyển đến một nền kinh tế tri thức. Vì nhân loại đã trải qua những thay đổi liên tục của các nền kinh tế, luôn có những kẻ thua và người thắng. Những người thua cuộc nhận thức sâu sắc về những mất mát của mình, thường cố gắng sử dụng quá trình chính trị và dân chủ nhằm ngăn cản những thay đổi tác động bất lợi đến mình.
- Ngày nay, thế giới đã bước sang nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin và bưu chính viễn thông (ICT) đưa nhân loại tới nền "dân chủ đại chúng" của xã hội tri thức nên con người có thể sử dụng ICT như một phương tiện thuyết trình công khai quá trình làm chủ bản thân họ, hoặc họ có thể truy cập một cách tương đối đầy đủ những khuôn khổ pháp lý cũng như nhà nước pháp quyền để hỗ trợ cho quyền tự do, bảo đảm tính minh bạch và công khai, chống lại tham nhũng là rất quan trọng. Do đó, việc nối mạng là cần thiết và cấp thiết để các công dân được mở rộng tri thức, được mở rộng đời sống dân chủ và từ đó thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển hơn. Mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển kinh tế là rất phức tạp, chặt chẽ, làm tiền đề và điều kiện cho nhau: kinh tế tạo điều kiện xây dựng dân chủ, nhưng dân chủ cũng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Mối quan hệ nhân quả ở đây là tương đối và có thể chuyển đổi cho nhau: Nhận thức đúng vấn đề đó có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn. Bởi không ít người chưa thấy được tính tích cực của dân chủ trong phát triển kinh tế, muốn chờ đợi đến khi có điều kiện kinh tế phát triển cao mới xây dựng dân chủ. Từ đó dẫn đến tâm lý thụ động, thờ ơ, lơ là trong việc thực thi dân chủ. Mặt khác cũng không ít người thấy được vai trò cơ bản của kinh tế trong việc hình thành hoàn thiện dân chủ nên không quan tâm phát triển kinh tế chỉ hô hào dân chủ chung chung. Tuy nhiên trong khi ICT được coi như một công cụ có thể mở rộng tự do, dân chủ cho toàn xã hội thì mặt khác nó có thể bị sử dụng để đàn áp một số người trong một "chế độ độc tài về tri thức". Hơn nữa, việc tiếp cận ICT có thể bị lạm dụng để phổ biến những thông điệp tiêu cực và có mối nguy hiểm là sự lạm dụng cần phải chú ý. Như vậy nhìn chung kinh tế - xã hội phát triển như thế nào thì dân chủ sẽ như thế ấy, kinh tế nghèo thì dân chủ ít, kinh tế phát triển cao thì dân chủ nhiều. Nhưng mặt khác, cũng cần thấy rằng, việc xây dựng một nền dân chủ không phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện kinh tế bởi có nhiều nước được coi là dân chủ (ở châu Âu và Bắc Mỹ bắt đầu sự nghiệp dân chủ hóa khi trình độ kinh tế của họ còn thấp hơn
- nhiều so với một số nước ả rập hoặc châu á chưa dân chủ hiện nay). Dân chủ cũng không hẳn phụ thuộc hoặc song hành với tốc độ tăng trưởng kinh tế. ở các nước Mỹ la tinh trong những năm 70, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trung bình 5 - 6% năm, nhưng đây là thời kỳ mà các nước này bị thống trị bởi các chế độ độc tài quân sự. Song cũng chính chế độ độc tài quân sự là nguyên nhân suy giảm kinh tế của các nước này ở các thời kỳ sau. Tình hình ở các nước XHCN trong đó có nước ta cũng vậy, những nơi mất dân chủ, những nơi có nhiều biểu hiện cửa quyền, tham nhũng, ức hiếp quần chúng nhân dân không hẳn là ở những địa phương cơ sở nghèo về kinh tế về cơ sở vật chất. Thậm chí ở những nơi đó còn có đời sống kinh tế khá giả hơn ở nhiều địa phương khác, chứng tỏ dân chủ không chỉ phụ thuộc hoàn toàn vào kinh tế mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác cũng rất quan trọng như yếu tố văn hóa, tinh thần, truyền thống lịch sử, đặc điểm tôn giáo, trình độ học vấn, đạo đức và kiến trúc thượng tầng của xã hội như là thế giới quan, nhân sinh quan của giai cấp cầm quyền, pháp luật, tư tưởng Như vậy để xây dựng một nền dân chủ ngoài việc chú trọng xây dựng một quan hệ sản xuất mới, một nền kinh tế mới làm cơ sở, cần phải quan tâm đến các yếu tố bổ trợ là văn hóa, đạo đức, truyền thống lịch sử như đã nêu trên. 3. Xây dựng nền dân chủ XHCN là nhằm phát huy cao độ tính tự giác và sức sáng tạo to lớn của con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đồng thời tạo điều kiện cho con người phát triển, toàn diện thành con người XHCN. Bởi CNXH là sự nghiệp của con người vì con người. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin cho rằng con người sáng tạo ra lịch sử, là chủ nhân chân chính của tự nhiên và xã hội. Trong xã hội - XHCN để con người là chủ nhân chân chính của xã hội, phát huy được tính tự giác và sức sáng tạo to lớn của mình không thể không có dân chủ.
- Nhân cách của con người hình thành trong CNXH phải mang các chuẩn mực tích cực mà tiêu biểu nhất là tính tự giác và sức sáng tạo. Cơ sở kinh tế - xã hội và các thể chế chính trị, văn hóa, tinh thần cho phép hình thành các chuẩn mực ấy nhờ chỗ xóa bỏ được tình trạng bóc lột, áp bức; xác lập lao động tự do, chủ nghĩa tập thể, sự hợp tác làm cho con người được tham gia vào mọi hoạt động xã hội một cách tự giác, nhiệt tình, sáng tạo. Con người sống, lao động trên mọi lĩnh vực nên dân chủ cũng phải được thực thi trên mọi lĩnh vực: Trước hết là dân chủ trong kinh tế, đến dân chủ trong chính trị và dân chủ trong đời sống văn hóa, tinh thần; trong đó phải đặc biệt chú trọng thực hiện yêu cầu, tự do tư tưởng, giải phóng tinh thần cho con người. Nếu vắng bóng của dân chủ trong các lĩnh vực trên sẽ dẫn tới hậu quả trầm trọng, đó là: - Nếu không tôn trọng và đảm bảo lợi ích kinh tế chính đáng cho con người, lại đưa vào xã hội những yếu tố xa lạ với dân chủ như đặc quyền, đặc lợi, bình quân, bao cấp, quản lý hành chính, mệnh lệnh v.v sẽ làm xuất hiện ở con người thói thờ ơ, lãnh đạm, lảng tránh trách nhiệm, tâm lý ỷ lại, sống nhờ, ăn bám và lối sống lười biếng, ích kỷ. - Nếu chính trị quan liêu, hình thức - nhất là trong bầu cử sẽ làm mất đi tính tích cực chính trị của công dân, làm cho họ không quan tâm và tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội. Thậm chí có thể đi tới phản chính trị - dễ dàng đi theo âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù. - Nếu trong đời sống tinh thần và văn hóa không khuyến khích tìm tòi, phê phán, tranh luận, đối thoại sẽ không có sự phát triển, của những lối suy nghĩ trung thực, phát triển tính thụ động, thái độ thừa hành, lệ thuộc, không phát huy được bản sắc, cá tính sáng tạo riêng sẽ không làm cho con người vươn tới sự sáng tạo, thậm chí có nguy cơ bị biến dạng, rơi vào sự tha hóa. Đó là hủy hoại nhân cách và thui chột tài năng sáng tạo. Mà mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng xã hội, giải phóng con người. Vì vậy quá trình xây dựng và từng bước
- hoàn thiện nền dân chủ XHCN là thay đổi vị trí của người lao động trong toàn bộ quá trình xã hội là quá trình chuyển họ từ vị trí nô lệ, làm thuê, thụ động trong xã hội cũ sang vai trò làm chủ trong xã hội mới. Làm cho con người từng bước làm chủ được xã hội, tự nhiên, và chính mình, nắm được quy luật vận động của lịch sử và hoạt động một cách tự giác thì họ có thể làm nên, những kỳ tích to lớn không thể tưởng tượng được. Đó là ý nghĩa thực sự sâu sắc của dân chủ XHCN. Theo ý nghĩa đó, việc xây dựng nền dân chủ XHCN là nhằm phát huy nhân tố con người, phát huy cao độ tính tự giác và sức sáng tạo to lớn của con người, của mọi tầng lớp nhân dân lao động trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đồng thời từng bước xây dựng quyền làm chủ của nhân dân tạo điều kiện cho con người nâng cao đời sống vật chất và tinh thần để phát triển toàn diện thành con người XHCN. Chỉ có trong một xã hội, một môi trường, một đơn vị, cơ quan thậm chí một gia đình dân chủ thì con người mới có điều kiện phát triển mọi mặt hoàn thiện nhân cách cá nhân. Chính điều đó cũng là đạo đức - đạo đức vì con người. Hay nói cách khác là có giá trị nhân văn sâu sắc. Do đó chỉ trong điều kiện thực hiện đầy đủ dân chủ, phát triển các xu hướng lành mạnh tới dân chủ, phát triển các giá trị dân chủ XHCN thì mới đem lại những con người tự giác sáng tạo. Đặc biệt là ở thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước đang chuẩn bị bước vào cuộc sống xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN. Bởi lẽ xã hội - XHCN mà chúng ta đang xây dựng là xã hội của những người lao động làm chủ, hoạt động tự giác sáng tạo và có tổ chức, được quản lý một cách khoa học và dân chủ. Dân chủ đầy đủ và thực chất, dân chủ của từng công dân, của mỗi thành viên trong xã hội và dân chủ của toàn xã hội. Dân chủ gắn liền mật thiết, hữu cơ với pháp luật và kỷ cương, nghĩa vụ và quyền lợi. Kết hợp hài hòa giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của từng cá nhân, giữa tính tự giác trong hoạt động của từng người với sự kiểm tra điều chỉnh của xã hội. Nhờ những đặc điểm đó mà dân chủ XHCN trở thành sức mạnh lôi cuốn và kích thích mọi người vào
- sự sáng tạo, tự giác trong mọi hoạt động. Nhờ vậy mà xã hội không ngừng phát triển. Đến lượt nó khi xã hội phát triển nó quay lại phục vụ con người, chăm lo tới các quyền và lợi ích của con người đồng thời bảo vệ con người bằng chính sức mạnh của xã hội được tạo nên từ dân chủ và pháp luật. Rõ ràng là sự phát triển của dân chủ, sự tác động và chuyển hóa của dân chủ vào đời sống xã hội đã hướng sự vận động của lịch sử tới CNXH, đã làm xuất hiện khả năng thăng hoa của trí tuệ và phẩm giá của con người. Là một giá trị xã hội, dân chủ sẽ kết tinh lại tạo thành sức mạnh cho con người và loài người. Chỉ có chế độ dân chủ tương đồng với chế độ nhà nước sẽ mất đi như một phạm trù lịch sử. Còn giá trị xã hội của dân chủ dần tới tự do, sáng tạo, văn hóa sẽ thúc đẩy liên tục sự phát triển và hoàn thiện của con người. Vì vậy, không đảm bảo sự phát triển lành mạnh của dân chủ trong đời sống xã hội và chuyển tác động của nó vào các mối quan hệ xã hội của con người thì sẽ không có bất cứ một tính tự giác và sức sáng tạo nào cả. Điều đó có tính chất phổ biến đối với tất cả mọi người dù họ ở vị trí xã hội nào, hoạt động trong lĩnh vực nào và làm nghề nghiệp gì. 4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa không tùy thuộc vào cơ chế chính trị đa nguyên và sự tồn tại của đa đảng đối lập. Vậy đa nguyên chính trị là gì? Đa Đảng đối lập là gì? - Đa nguyên chính trị là sự xuất hiện và tồn tại của nhiều lập trường, quan điểm, thái độ chính trị đối lập nhau như quan điểm lập trường tư sản, quan điểm lập trường vô sản Đa nguyên chính trị khác với đa ý kiến. - Đa đảng đối lập là sự xuất hiện và tồn tại của nhiều Đảng phái có đường lối, quan điểm, lập trường chính trị đối lập nhau, loại trừ nhau như Đảng Cộng sản, Đảng cộng hòa, Đảng dân chủ.v.v Đa đảng đối lập khác với nhiều tổ chức Đảng cùng chung lý tưởng, ví dụ như ở Việt Nam trước đây đã từng tồn tại ba tổ chức Cộng sản đó là:
- Đông dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Tuy cùng chung mục đích lý tưởng nhưng tồn tại tách rời như vậy sẽ không tạo nên sức mạnh, không có lợi cho cách mạng nên tất yếu phải hợp nhất lại thành một Đảng, mới đủ sức lãnh đạo cách mạng. Để phủ nhận CNXH - kẻ thù thường rêu rao rằng ở các nước XHCN vì thực hiện nhất nguyên chính trị và độc Đảng lãnh đạo nên xã hội không có dân chủ. Từ đó họ kêu gọi hãy đa nguyên, đa Đảng để có nhiều dân chủ, để có nhiều tự do Đó là những luận điệu sai trái, lừa bịp để đưa chúng ta vào cạm bẫy của chúng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của Liên Xô và Đông Âu vừa qua là thực hiện đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập trong công cuộc cải tổ. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập đã không làm cho xã hội ở Liên Xô và Đông Âu được dân chủ hơn, được phát triển hơn mà trái lại người lao động càng bị mất dân chủ, Đảng Cộng sản mất quyền lãnh đạo, xã hội bị suy yếu dẫn tới CNXH bị sụp đổ. Đó là một bài học rất đắt giá cho những ai bị mơ hồ chính trị, ảo tưởng trước những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù. Bởi thực ra một xã hội có dân chủ hay không dân chủ điều đó không tùy thuộc vào chế độ một Đảng hay nhiều Đảng. Chế độ một Đảng hay nhiều đảng là sự phản ánh và kết quả so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh giai cấp, nó là sản phẩm của điều kiện lịch sử cụ thể của từng nước, trong từng thời kỳ lịch sử không phụ thuộc vào số lượng Đảng nhiều hay ít. Nhiều Đảng chưa hẳn đã có nhiều dân chủ, ít Đảng chưa hẳn là ít dân chủ không có một tương quan tỷ lệ thuận: càng nhiều Đảng chính trị thì càng dân chủ, càng ít Đảng thì càng ít dân chủ. Vậy, vấn đề là ở chỗ Đảng đó là Đảng như thế nào, Đảng đó có đủ khả năng để thiết kế một mẫu hình dân chủ thật sự cho xã hội hay không. Do đó trong điều kiện một Đảng Cộng sản giữ độc quyền lãnh đạo cách mạng - để thực hiện được nền dân chủ chân chính - dân chủ XHCN thì cần phải tuân thủ những điều kiện sau:
- Thứ nhất là: Đảng phải luôn luôn tự đổi mới, tìm tòi cơ chế, hình thức, phương pháp có hiệu quả thực hiện dân chủ trong Đảng và dân chủ ngoài Đảng, lấy dân chủ trong Đảng làm tiền đề. Bởi trong Đảng có dân chủ thì ngoài Đảng mới được dân chủ. Đảng lãnh dạo quá trình dân chủ hóa bằng phương pháp dân chủ để thực hiện dân chủ. Thứ hai là: Phải dựa vào nhân dân, tập hợp được quần chúng đi theo Đảng, lắng nghe ý kiến quần chúng, tôn trọng vai trò của các tổ chức quần chúng và phát huy tối đa tính tự giác, sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân. Do đó nếu nói dân chủ là khát vọng to lớn, là mong muốn chân chính của nhân dân thì Người làm cho khát vọng đó trở thành hiện thực trong cuộc sống không ai khác đó là Đảng Cộng sản, vì rằng thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản mà tinh thần dân chủ của nhân dân lao động được phát huy một cách đông đủ nhất, đúng đắn nhất. Đồng thời việc phát huy vai trò của quần chúng nhân dân lao động và các tổ chức quần chúng sẽ làm cho Đảng có thêm sức mạnh và có thêm động lực để hoàn thiện nền dân chủ. Thứ ba là phải xây dựng hệ thống chính trị theo hướng xác lập quyền lực tối cao của các cơ quan dân cử, xây dựng nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, xây dựng một lối sống mới XHCN. Vì thế, trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương khóa VI về các văn kiện trình Đại hội VII đã nêu: Trong điều kiện nước ta, không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp của các lực lượng phản động phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ. Đó là điều mà nhân dân ta dứt khoát không chấp nhận. ở các nước tư bản, dù có Đảng Cộng sản hoạt động thì cũng chưa thể kết luận đó là chính trị đa nguyên. ở các nước đó giai cấp tư sản
- luôn tìm mọi biện pháp cấm đoán, không cho những người cộng sản tham gia hay trực tiếp cầm quyền nhà nước. Nếu có cũng chỉ là tạm thời, do tương quan lực lượng cụ thể trong đấu tranh chính trị bắt buộc nhà nước tư sản phải thừa nhận. Trong lịch sử xã hội có phân chia giai cấp về thực chất không có đa nguyên chính trị mà chỉ có nhất nguyên, chỉ có chuyên chính trị của một giai cấp. 5. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, dân chủ XHCN còn bao hàm một nội dung tất yếu là thủ tiêu áp bức dân tộc giành độc lập dân tộc, giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia. Chính điều này làm cho dân chủ XHCN không bị bó hẹp trong khuôn khổ nhỏ bé mà nó có ý nghĩa lớn lao trong quá trình phát triển của nhân loại nói chung, các quốc gia dân tộc nói riêng nhằm thủ tiêu chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc, nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột. III. DÂN Chủ Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt NAM. Việt Nam là một nước "có truyền thống dân chủ" như Bác Hồ đã nói. Nhưng trước khi có Đảng thì dân chủ đó được biểu hiện trong truyền thống chống ngoại xâm, chống áp bức, bóc lột của dân tộc như Hội nghị Diên Hồng, như chính sách thân dân lấy dân làm gốc - đã hàm chứa những yếu tố dân chủ như Nguyễn Trãi với hình tượng: "Dân như nước, nước có thể đẩy thuyền hoặc lật thuyền" Trần Hưng Đạo với câu "khoan sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc" mà sau này Đảng và Bác Hồ đã tiếp thu và phát triển từ đó. Và chỉ khi có Đảng lãnh đạo thì nhân dân ta mới có một quan niệm hoàn chỉnh về dân chủ, mới được thực sự sống trong bầu không khí dân chủ của nền dân chủ XHCN. Kế thừa những tư tưởng của nhân loại và của các nhà kinh điển Bác Hồ đã nêu lên quan niệm của mình về dân chủ thật giản dị, dễ hiểu, phù hợp với thực tế và cách nghĩ của người Việt Nam. Dân chủ là dân là chủ Dân chủ là nhân dân làm chủ
- Dân chủ là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Người không chỉ là một nhà yêu nước vĩ đại, một nhà văn hóa lớn, một người cộng sản kiên định mà đồng thời còn là một nhà dân chủ triệt để. Quan điểm, tư tưởng về dân chủ là một bộ phận quan trọng trong kho tàng tư tưởng của Người. Cùng với độc lập dân tộc và CNXH, dân chủ là một mục tiêu cách mạng mà Hồ Chí Minh đã suốt đời phấn đấu để thực hiện. Từ lúc còn là một cậu học sinh ở trường Quốc học Huế cho đến lúc đi xa Trong tư tưởng, tình cảm cũng như trong hành động Người luôn luôn biểu hiện là một nhà cách mạng có quan điểm dân chủ triệt để. Quan điểm tư tưởng của Người về dân chủ là tài sản hết sức quý báu mà Đảng ta đã và đang kế thừa, phát huy và vận dụng trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam về mặt lý luận. Sau hàng ngàn năm cai trị của chế độ phong kiến hà khắc nhân dân lao động nước ta về cơ bản không được tự do dân chủ. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Sự kiện lịch sử trọng đại đó cũng đã đánh dấu sự bắt đầu của một nền dân chủ trong lịch sử - đó là dân chủ XHCN. Điều đặc biệt là ở nước ta không trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ - và chế độ TBCN mà chỉ có ba phương thức sản xuất đó là Cộng sản nguyên thủy - Phong kiến - và cộng sản chủ nghĩa. Mà trong lịch sử vấn đề dân chủ thì chỉ có chế độ (3 nền) dân chủ: đó là dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và dân chủ XHCN. Vì thế nước ta bỏ qua chiếm hữu nô lệ và tư bản chủ nghĩa cũng là bỏ qua hai nền dân chủ của xã hội ấy. Vì thế nền dân chủ do Đảng ta thiết lập ở nước ta được coi là nền dân chủ đầu tiên trong lịch sử dân tộc, xét về mặt hình thức nhà nước. Vì vậy mà quá trình thực hiện dân chủ XHCN ở nước ta quả là không đơn giản. Việc xóa bỏ bệnh quan liêu, gia trưởng, độc đoán chuyên quyền áp đặt, trọng nam khinh nữ quả là một cuộc chiến rất gay go, và còn rất dai dẳng bởi nó đã ăn sâu vào nếp nghĩ, nhận thức
- của con người từ bao đời nay. Còn xét về mặt giá trị xã hội thì nhân dân lao động nước ta luôn có truyền thống đấu tranh đòi dân chủ và một số bậc vua quan ở nước ta cũng ít nhiều có tinh thần dân chủ. Nhận rõ tầm quan trọng của vấn đề dân chủ trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta không chỉ nghiên cứu hoàn thiện lý luận về dân chủ mà còn từng bước thiết lập nền dân chủ trong đời sống xã hội, nhờ vậy mà đã đưa Cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mỗi bước đi lên của xã hội, mỗi thắng lợi của cách mạng đều có sự đóng góp to lớn của vấn đề dân chủ. Tuy vậy, do nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau mà trong thực tế có giai đoạn, có nơi, có lúc dân chủ chưa được đảm bảo. Thậm chí có nơi mất dân chủ một cách trầm trọng - điều đó gây ảnh hưởng xấu trong đời sống, tình cảm của nhân dân. Tình trạng mất dân chủ đã gây nên những tiêu cực trong mọi mặt của đời sống xã hội, gây nên sự trì trệ, mất sức chiến đấu và giảm uy tín của Đảng, làm cho nhà nước trở nên quan liêu, xa dân và nhiều cán bộ, đảng viên đã vấp phải những sai lầm nghiêm trọng, nhiều thể chế, hành vi không những gây khó dễ cho nhân dân, làm cho cuộc sống thiếu bình yên, ổn định, làm thui chột tính năng động, sáng tạo và vai trò làm chủ của quần chúng - mà còn làm cho xã hội ta chậm vươn lên - hay nói đúng hơn tình trạng mất dân chủ kéo dài cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng về kinh tế - xã hội nước ta trước khi đổi mới (1986). Đại hội VII của Đảng Cộng sản cũng chỉ rõ hạn chế, khuyết điểm của lĩnh vực này như sau: "Quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ. Trong xã hội còn không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức có nơi rất nghiêm trọng. Bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng. Đồng thời cũng xuất hiện khuynh hướng dân chủ cực đoan, dân chủ không đi liền với thực hiện kỷ luật và pháp luật. Cơ chế và pháp luật bảo đảm thực hiện dân
- chủ chưa được cụ thể hóa đầy đủ"1. Vì những lẽ đó đã đặt ra một cách bức thiết là phải đổi mới hệ thống chính trị và dân chủ hóa đời sống xã hội. Đáp ứng yêu cầu đó Văn kiện Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Đảng ta coi làm chủ tập thể XHCN là bản chất của chế độ dân chủ XHCN cần được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta đã xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội"2. Cũng trong Văn kiện đạt hội VI Đảng ta đã nêu lên tư tưởng "lấy dân làm gốc" tất cả mọi vấn đề phải để cho "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" là một nét mới trong sự nhận thức dân chủ của Đảng, là một phương châm tiêu biểu cho tinh thần dân chủ trong Đại hội và cho sự mở rộng dân chủ trong nhân dân. Vì thế Đại hội VI được coi là đại hội đổi mới và đại hội dân chủ. Cũng trong Đại hội VI Đảng ta đã đặt ra vấn đề dân chủ hóa xã hội và dân chủ hóa đời sống xã hội cũng là một trong những nội dung quan trọng trong cương lĩnh chính trị cũng như trong những văn kiện đã được thông qua tại Đại hội VII. Vậy dân chủ hóa là gì? Dân chủ hóa đời sống xã hội là quá trình đưa các giá trị dân chủ vào cuộc sống, làm cho nó trở thành hiện thực và phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực chất của vấn đề dân chủ hóa đời sống xã hội là làm cho nhân dân thực hiện được trên thực tế quyền làm chủ của mình và phát huy được năng lực làm chủ đó trên mọi mặt của đời sống xã hội, khẳng định mọi quyền lực xã hội thuộc về nhân dân, ý chí, nguyện vọng, quyền lực, lợi ích của nhân dân là sức mạnh tối cao. Nó phải trở thành thiết chế quyền lực, thiết chế dân chủ. Thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội là một động lực quan trọng của sự nghiệp đổi mới, là biện pháp tích cực để khắc 1 Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần VII. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr. 41-42. 2 Văn kiện Đại hội VI, tr. 104.
- phục bệnh quan liêu, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, là thước đo tính ưu việt và trình độ phát triển của một xã hội. Có như vậy mới phát huy được sức mạnh của nhân dân như Bác Hồ nói: "Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên"1. Dân chủ hóa đời sống xã hội ở nước ta hiện nay mang một nội dung toàn diện: - Dân chủ hóa trên lĩnh vực kinh tế - Dân chủ hóa trên lĩnh vực chính trị - Dân chủ hóa trên lĩnh cực tư tưởng - văn hóa và ý thức xã hội. Trong đó dân chủ hóa trên lĩnh vực kinh tế giữ vị trí đặc biệt quan trọng và quyết định nhất. * Dân chủ hóa trên lĩnh vực kinh tế: dân chủ là vấn đề luôn gắn với dân sinh và dân trí - dân chủ trên lĩnh vực kinh tế nhằm đảm bảo dân sinh cho xã hội. Điều đó gắn liền với việc thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Thực hiện quyền tự do bình đẳng về kinh tế để trả lại cho nền kinh tế tính năng động vốn có, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế trước hết là phải đổi mới quan niệm của chúng ta về nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt là về các thành phần kinh tế về các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh dịch vụ, về chế độ sở hữu vì lợi ích của xã hội trong đó có lợi ích của từng cá nhân. Quan niệm về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH phải là nền kinh tế hàng hóa, do vậy phải thừa nhận sự tồn tại khách quan và sự tác động của quy luật giá trị, của thị trường, của cạnh tranh trong hoạt động kinh tế. 1 Hồ Chí Minh - toàn tập. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, tập 8, tr. 566.
- Phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ hành chính quan liêu bao cấp, bù lỗ trước đây sang hạch toán kinh doanh có lãi sao cho các đơn vị kinh tế có quyền chủ động, làm chủ thực sự trong sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm về quá trình sản xuất của mình trong khuôn khổ của pháp luật cho phép và dưới sự quản lý của Nhà nước XHCN. Có như vậy mới xoá bỏ được tình trạng lãi giả - lỗ thật, làm thì láo - báo cáo thì hay, cơm vua ngày trời, cha chung không ai khóc của nền kinh tế thời bao cấp. Phải chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (đến nay đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận 6 thành phần kinh tế ở nước ta) với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh cho phép mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ sản xuất, kinh doanh hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau và đều bình đẳng trước pháp luật. Có thể nói, đổi mới cơ chế quản lý - chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là cơ sở và tiền đề lý luận căn bản của dân chủ hóa trên lĩnh vực kinh tế. Đồng thời cũng là nội dung kinh tế của dân chủ hóa xã hội - xét theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này. - Vấn đề căn bản của dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế xét cho cùng là bảo đảm lợi ích của người lao động, bao gồm lợi ích chính trị, lợi ích kinh tế, lợi ích về văn hóa xã hội, lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân, lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài. Nhưng trước hết và quan trọng nhất là lợi ích vật chất. Nếu lợi ích kinh tế của người lao động không được thực hiện thì dân chủ hóa trên lĩnh vực kinh tế không có nội dung và vô nghĩa. Trước đây, người ta thường đề cao sự hy sinh của cá nhân, đề cao tập thể và cái chung, nói nhiều đến nghĩa vụ của con người mà thường né tránh việc đề cập đến lợi ích của cá nhân, của người lao động vì vậy mà việc phát huy nhân tố con người có phần bị hạn chế.
- Bây giờ thực hiện dân chủ hóa xã hội buộc phải coi trọng vấn đề lợi ích chính đáng của người lao động. Bởi lợi ích là một trong những động lực cực kỳ quan trọng trực tiếp thúc đẩy con người hành động và thông qua đó gây nên những biến đổi trong sản xuất trong kinh tế và trong tiến trình vận động của lịch sử. Nó là động lực mạnh mẽ nhất của sự phát triển xã hội. Quan tâm đến lợi ích của người lao động chính là nuôi dưỡng và phát huy tính tích cực xã hội của con người để họ trở thành chủ thể của sản xuất của xã hội. Thực hiện và bảo đảm lợi ích cá nhân của người lao động là cơ sở để thực hiện lợi ích chung của tập thể, của giai cấp của toàn xã hội. Và lợi ích xã hội, xét cho cùng cũng nhằm mục đích phục vụ cuộc sống của người lao động trên cơ sở thống nhất lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội. Đó là thực chất, là nguyên tắc của dân chủ hoá kinh tế. Như Bác Hồ đã từng dạy: "Chính phủ là chính phủ dân chủ chỉ một lòng một dạ phục vụ lợi ích của nhân dân"1. Muốn đảm bảo lợi ích của người lao động trong quá trình dân chủ hóa kinh tế thì vấn đề đặt ra là phải bắt đầu giải quyết từ vấn đề sở hữu, gắn liền các quan hệ sở hữu với quan hệ phân phối và quản lý. Gắn quyền sở hữu với quyền sử dụng tư liệu sản xuất làm cho người lao động thực sự làm chủ quá trình sản xuất khắc phục tình trạng thụ động, trông chờ, ỷ lại vào nhà nước như trước đây là một bước tiến lớn của dân chủ hóa. Điều đó được thể hiện trong các chính sách cụ thể khuyến khích, phát triển sản xuất của Đảng và Nhà nước như khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp và công nghiệp, giao đất, giao rừng cho các hộ xã viên, các hình thức đấu thầu, giao quyền cho các tập thể lao động sử dụng quản lý các tư liệu sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật trong các hoạt động sản xuất - kinh tế đặc thù của họ. Từ việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, sự bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế đến các biện pháp nhằm khai 1 Hồ Chí Minh toàn tập - Sự thật, Hà Nội, 1987, tập 7, tr. 544.
- thác tốt nhất, có hiệu quả cao nhất mọi tiềm năng của thành phần kinh tế, giải phóng sức sản xuất xã hội, đó là những điều kiện thực hiện dân chủ hóa kinh tế - đồng thời còn là kết quả được tạo ra, được thúc đẩy bởi chính quá trình dân chủ hóa kinh tế - Nền sản xuất hàng hóa đòi hỏi một cách khách quan sự phát triển mau chóng tính chất xã hội hóa của sản xuất và phân công lao động, mở rộng các mối hên hệ và quan hệ xã hội của các công dân - thúc đẩy việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ về mặt kinh tế trong quan hệ với nhà nước. Mặt khác, nhà nước và xã hội trong điều kiện của nền sản xuất và nền kinh tế hàng hóa được phát triển cũng đòi hỏi phải biến đổi một cách năng động, phải nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý của nhà nước thông qua những sắp xếp điều chỉnh bộ máy chính quyền các cấp sao cho gọn nhẹ, hợp lý. Muốn vậy phải coi trọng công tác tổ chức cán bộ để tuyển lựa được những cán bộ tinh thông nghề nghiệp và bố trí, sử dụng họ một cách hợp lý, có hiệu quả. Dân chủ hóa kinh tế còn cung cấp cho xã hội và cho mỗi cá nhân cơ sở kinh tế khách quan để làm biến đổi theo xu hướng dân chủ hàng loạt quan niệm về giá trị, định hướng các giá trị đạo đức, văn hóa, thay đổi cả tâm lý và đời sống. Tạo ra những khả năng làm sâu sắc và phong phú hơn các khía cạnh văn hóa, tinh thần của xã hội và cá nhân con người. Dân chủ hóa kinh tế ở nước ta hiện nay phải được thực hiện ở mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế, mọi khu vực sản xuất, ở mọi cấp độ vĩ mô và vi mô nhằm đáp ứng nhu cầu về việc làm (vấn đề bức xúc nhất hiện nay) nâng cao mức sống và thực hiện công bằng xã hội cho người lao động, chỉ có dân chủ hóa đời sống kinh tế được thực hiện mới đem lại lợi ích cho người lao động đảm bảo sự thống nhất hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, thừa nhận và tôn trọng lợi ích cá nhân, coi đó là động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội, kích thích sự hình thành tư duy, nhận thức mới về kinh tế - một trong những nội dung chủ yếu của sự nhận thức mới về CNXH và có tác dụng tích cực với công cuộc đổi mới đất nước.
- * Dân chủ hóa trên lĩnh vực chính trị: thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị là thực hiện các quyền tự do, dân chủ trong sinh hoạt chính trị, bảo đảm cho người dân được làm chủ xã hội về mặt chính trị. Trước hết và cũng là điểm nổi bật của dân chủ hóa đời sống chính trị là thực hiện dân chủ trong bầu cử thực hiện dân chủ đại diện một cách tốt nhất qua bầu cử và tăng cường dân chủ trực tiếp của nhân dân trong các tổ chức xã hội, đoàn thể cần khắc phục triệt để những biểu hiện của dân chủ mang tính hình thức trong bầu cử để lựa chọn được những đại biểu có tài, đức xứng đáng đại diện cho quyền lực, lợi ích, ý chí, nguyện vọng của quần chúng trong các cơ quan nhà nước và trong các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể của quần chúng. Trong lĩnh vực nhà nước, việc thực hiện phương hướng chuyển từ nhà nước vì dân sang nhà nước của dân và do dân phụ thuộc chủ yếu và trước hết từ quá trình dân chủ hóa chính trị, dân chủ hóa chế độ bầu cử. Kinh nghiệm cho thấy ở nơi nào không có dân chủ, hoặc dân chủ hình thức thì bất cứ tổ chức nào cũng có thể nhân danh nhân dân, vì lợi ích nhân dân nhưng lại không thực sự phục vụ nhân dân. Điều đó dẫn đến thực tế là người dân tỏ thái độ hờ hững, không quan tâm tới tính tích cực chủ động thực sự trong các sinh hoạt chính trị và trong công tác bầu cử. Để khắc phục tình trạng ấy quá trình dân chủ hóa chính trị phải đảm bảo sự tiếp xúc mật thiết giữa các cử tri với các ứng cử viên, loại bỏ tình trạng cá nhân hóa trong bầu cử - tức là số lượng ứng cử viên trùng khít với số lượng đại biểu được bầu làm cho cử tri không có khả năng để lựa chọn. Cùng với sự loại bỏ này phải tạo ra không khí tranh luận thẳng thắn, cởi mở để các ứng cử viên phải trình bày trước cử tri và chịu sự chất vấn của cử tri về chương trình hành động, kế hoạch công tác của mình. Bên cạnh việc thực hiện dân chủ đại diện tốt nhất qua bầu cử cần tăng cường dân chủ trực tiếp qua các hoạt động tự quản, kiểm tra, thảo luận và quyết định của các thành viên trong các tổ chức xã hội, hiệp hội, đoàn thể, pháp luật phải bảo vệ quyền công dân chính đáng
- của người dân, trừng trị mọi hành vi gian lận ép buộc cử tri trong bầu cử. Một nội dung quan trọng của dân chủ hóa trong lĩnh vực chính trị là bảo đảm cho nhân dân lao động được tham gia thực sự vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia đóng góp ý kiến đúng đắn của cá nhân vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để làm sao cho mỗi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước vừa có tính khách quan, khoa học vừa phản ánh đúng đắn, kịp thời tâm tư, nguyện vọng và đặc biệt là lợi ích chính đáng của người lao động. Có như vậy, tinh thần dân chủ tính nhân dân mới được thể hiện sâu sắc trong các quyết sách của Đảng và Nhà nước. Từ đó mới được nhân dân lao động nhiệt liệt hưởng ứng biến những đường lối chủ trương ấy thành sức mạnh vật chất, thành hiện thực sinh động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ hóa đời sống chính trị đòi hỏi tất yếu phải đổi mới hệ thống chính trị, phát triển nền dân chủ XHCN trước hết là đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng, nhà nước và các tổ chức xã hội chính trị khác trong hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng hệ thống pháp luật và pháp chế đồng bộ, cải tiến nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân lao động - nhất là văn hóa pháp luật, văn hóa dân chủ. Bởi chính trị là sự biểu hiện một cách trực tiếp và sâu sắc các quan hệ giai cấp gắn liền với thái độ hành vi của con người, của các giai cấp, các tầng lớp xã hội về chế độ chính trị, chế độ Nhà nước, nền dân chủ của xã hội. Lợi ích và quyền lực chính trị không phải tự nhiên mà có mà có cơ sở và căn nguyên sâu xa từ chế độ kinh tế. Do vậy dân chủ hóa chính trị không tách rời với dân chủ hóa về kinh tế, không tách rời với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của các cơ quan Nhà nước XHCN. Dân chủ hóa trên lĩnh vực chính trị không thể không gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu cửa quyền, hống hách,
- tham nhũng v.v trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, trong bộ máy chính quyền các cấp của Nhà nước, trong các cơ quan kinh tế, trong các đoàn thể và tổ chức xã hội của quần chúng. Đấu tranh chống những tệ nạn trên đây không chỉ dừng ở việc phê phán những hiện tượng tiêu cực mà điều quan trọng và quyết định hơn cả là phải kiên quyết loại trừ các tệ nạn ấy ra khỏi đời sống xã hội. Muốn đấu tranh có hiệu quả trước hết phải tìm ra những nguyên nhân của nó - đặc biệt là phát hiện ra những nguyên nhân sâu xa dẫn tới tiêu cực và những cơ sở kinh tế - xã hội đã làm nẩy sinh và bám rễ những hiện tượng đó trong đời sống. Sau đó phải có một hệ thống các biện pháp một cách đồng bộ hữu hiệu, có thái độ kiên quyết, nghiêm minh khi xử lý và xử lý đúng pháp luật trên cơ sở có sự tham gia, ủng hộ của quần chúng nhân dân, không có ngoại lệ cho bất cứ trường hợp nào. Phải xử đúng người, đúng việc, đúng tội. Kinh nghiệm cho thấy ở nơi nào tính chiến đấu kém thì ở nơi đó tệ nạn xã hội và tiêu cực nhiều, nơi nào tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động thể hiện cao thì sẽ hạn chế bớt các tiêu cực. Và ở nơi nào chủ nghĩa quan liêu và tập trung ở bên trên càng nhiều bao nhiêu thì càng nảy nở những phản ứng tiêu cực ở phía dưới, nảy sinh thói tự do vô chính phủ. Chừng nào chưa khắc phục được chủ nghĩa quan liêu, chừng ấy tính tích cực chính trị của quần chúng còn bị suy giảm. Tuy vậy cần phải có biện pháp đấu tranh đúng đắn để đạt hiệu quả mục đích vì nếu không có biện pháp đấu tranh đúng có khi sẽ đi tới phản tác dụng. Do đó phải nâng lên thành nghệ thuật đấu tranh trên tinh thần đấu tranh là để xây dựng để loại trừ cái xấu, cái tiêu cực - khẳng định cái mới, cái đúng trong đời sống xã hội chứ không nên và nhất thiết không được đấu tranh hủy diệt, trù dập. Việc làm đó không những xa lạ với tinh thần dân chủ không đem lại dân chủ mà còn là một lực cản nghiêm trọng đối với quá trình dân chủ hóa. * Dân chủ hóa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, ý thức xã hội: Đây cũng là một nội dung cơ bản và hết sức quan trọng trong quá trình
- dân chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay. Nội dung này có liên quan mật thiết với hai nội dung trên. Thực hiện dân chủ hóa trong kinh tế và chính trị đã đem lại cho xã hội những biến đổi to lớn để hình thành và phát triển nền dân chủ XHCN. Trong đó dân chủ hóa trên lĩnh vực kinh tế đem lại lợi ích vật chất cho người lao động. Dân chủ hóa đời sống chính trị mang lại quyền lực của nhân dân trong quản lý nhà nước, trong các sinh hoạt chính trị, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Chính hai quá trình đó đã thúc đẩy dân chủ hóa trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa và ý thức xã hội. Mặt khác yêu cầu phát triển kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị cũng tất yếu đòi hỏi dân chủ hóa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa và ý thức xã hội. Vấn đề cơ bản và có tầm quan trọng hàng đầu đối với quá trình dân chủ hóa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và ý thức xã hội đó là tự do tư tưởng và giải phóng tinh thần cho nhân dân lao động. Điều đó có ý nghĩa quyết định để phát triển khoa học, phát triển lý luận và sáng tạo nên những giá trị văn hóa cao đẹp - khắc phục sự lạc hậu của lý luận, sự chậm trễ của khoa học so với yêu cầu của cuộc sống đã trở thành nhu cầu xã hội trong quá trình dân chủ hóa, không có tự do tư tưởng và giải phóng tinh thần sẽ không có bất kỳ một sự sáng tạo đích thực nào trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và xã hội sẽ rơi vào tình trạng trì trệ, bảo thủ, mất dân chủ. Do đó có thể nói rằng dân chủ hóa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa và ý thức xã hội là một tất yếu khách quan của nền dân chủ XHCN. Nó là một trong những dấu hiệu của sự phát triển, của tiến bộ xã hội và là điều kiện để thực hiện dân chủ, là con đường biện pháp để phát triển trí tuệ, đạo đức, nhân cách của con người. - Dân chủ hóa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa và ý thức xã hội bao gồm các hoạt động giáo dục, tuyên truyền nghiên cứu khoa học, các hoạt động sáng tạo văn hóa nghệ thuật, các lĩnh vực báo chí, thông tin, xuất bản v.v Để thực hiện những yêu cầu và nội dung trên cần phải áp dụng rất nhiều biện pháp, nhiều chủ trương, chính sách để khai thác tốt nhất để phát huy cao độ năng lực sáng tạo của các nhà
- khoa học, các nhà trí thức, các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy, các công cụ thông tin, tuyên truyền trong cả nước. Đồng thời phải khuyến khích, ủng hộ mọi tìm tòi sáng tạo trong suy nghĩ, nghiên cứu; phải đảm bảo cho các công dân quyền tự do tư tưởng, quyền được nói thẳng nói thật, quyền được biết sự thật và đấu tranh bảo vệ chân lý. Đồng thời còn phải tạo nên dư luận xã hội tích cực, lành mạnh để khẳng định cái đúng, cái mới, cái tốt trong xã hội. Tuy nhiên cần phải đề phòng và ngăn chặn những kẻ xấu lợi dụng dân chủ, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận nói trái quan điểm, đường lối và Nghị quyết của Đảng, xuyên tạc sự thật, vu khống cán bộ, nói xấu Đảng, Nhà nước và làm ăn bất chính, đó là những điều hết sức nguy hiểm. Tránh sự áp đặt tư tưởng, sự khống chế về hành động đối với nhân dân. Như Bác Hồ đã dạy: "Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm"1. Muốn vậy phải đặt dân chủ hóa trong lĩnh vực này trên tinh thần luôn luôn đổi mới. Đại hội VI đã đặc biệt nhấn mạnh tới sự cần thiết phải đổi mới tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm giáo điều và bảo thủ, xây dựng tư duy lý luận khoa học, tạo ra sự chuyển biển mạnh mẽ về phương pháp và phong cách làm việc của cán bộ đảng viên và quần chúng là sự thể hiện tập trung những vấn đề vừa cấp bách vừa cơ bản lâu dài của dân chủ hoá tư tưởng - văn hóa và ý thức xã hội. Đổi mới và dân chủ hóa xã hội tạo ra cơ hội để mỗi người có thể bộc lộ và phát triển tốt nhất những khả năng, sở trường của mình, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội và cũng là quá trình tự hoàn thiện nhân cách của cá nhân. Bởi dân chủ không chỉ gắn với dân sinh mà còn gắn với dân trí. Chỉ khi nào mọi người trong xã hội được trau dồi ngày càng tốt hơn về ý thúc chính trị, về học vấn và văn hóa, được tích lũy về kinh nghiệm chính trị và quản lý xã hội thì sẽ hình thành 1 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1989, tr. 508.
- nên niềm tin sức mạnh tinh thần dựa trên cơ sở khoa học về CNXH, sẽ là cơ sở xã hội bền vững nhất để bảo vệ CNXH. Từ những nội dung, nhiệm vụ cụ thể của quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội đã nêu trên đòi hỏi tất yếu phải củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với xã hội. Đồng thời phải tăng cường sự quản lý của nhà nước, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. Quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN và dân chủ hóa xã hội không thể tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bởi Đảng Cộng sản là Đảng cầm quyền, lãnh đạo xã hội, mang bản chất giai cấp công nhân, là lực lượng dẫn dắt giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn xã hội đi tới mục tiêu CNXH. Trên cơ sở nhận thức được tính tất yếu của lịch sử, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của giai cấp nhân dân lao động. Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động làm cách mạng để thực hiện sự giải phóng triệt để nhất đối với xã hội và người lao động - khởi xướng đường lối đổi mới và thực hiện dân chủ hóa xã hội mang lại quyền sống, quyền tự do, dân chủ và hạnh phúc cho tất cả mọi người. Bởi Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Bác Hồ cũng đã từng căn dặn: "Đảng cần có kế hoạch, thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân". Trải qua quá trình thực tiễn nhân dân lao động nước ta đã nhận thức sâu sắc rằng nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ không có bất cứ một chút tự do, dân chủ và hạnh phúc nào cả. Nên nhân dân ta tự nguyện, tự giác đi theo sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện nghiêm chỉnh những chủ trương, đường lối do Đảng đề ra. Thể hiện mối quan hệ mật thiết, biện chứng đó là: Đảng vì dân - Dân tin yêu Đảng, bảo vệ Đảng. Đảng phải tự mình nêu gương về dân chủ và lãnh đạo chặt chẽ quá trình dân chủ hóa xã hội. Xuất phát từ bản chất của dân chủ, là dân chủ bao giờ cũng gắn liền với pháp luật. Nó là một yến tố cấu thành nội dung của dân chủ,
- cần phải làm cho pháp luật trở thành công cụ quản lý xã hội, quản lý nhà nước, có đủ sức mạnh và hiệu lực để chi phối và điều chỉnh mọi hoạt động của các cơ quan, đơn vị, các tập thể và từng cá nhân. Pháp luật không chỉ có chức năng quản lý xã hội còn có chức năng bảo đảm và phát huy quyền dân chủ, quyền công dân, quyền con người của mọi thành viên trong xã hội. Chỉ có một pháp luật tiến bộ, khoa học thì xã hội mới có một nền dân chủ thực sự. Quyền dân chủ của mỗi công dân được thể hiện trong luật pháp và được luật pháp đảm bảo, cho nên thực thi dân chủ phải đi đôi với thực thi luật pháp, dân chủ đi liền với kỷ cương, kỷ luật, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm công dân. Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII đã nhấn mạnh: Cả vô chính phủ lẫn độc đoán chuyên quyền đều trái với bản chất của nền dân chủ XHCN. Vì vậy, xét về thực chất dân chủ gắn liền với kỷ cương, có khuôn khổ, trong vòng trật tự, không thể có dân chủ mà lại thiếu pháp luật, kỷ luật, kỷ cương. Giữ vững kỷ cương, pháp luật không phải chỉ ở phía nhân dân mà quan trọng hơn là cả ngay trong cán bộ, đảng viên, công chức. Không thể chấp nhận được tình trạng "trên bảo dưới không nghe", "phép vua thua lệ làng" như đã từng xẩy ra lâu nay. Phải làm cho mọi người dân trong xã hội, bất kể ở cương vị nào, từ người lãnh đạo cấp cao, có trọng trách đến người lao động bình thường đều bình đẳng như nhau trước xã hội và pháp luật với tư cách công dân của nó. Giữ vững kỷ cương, pháp luật thống nhất trong cả nước, trên dưới một lòng thống nhất từ trong Đảng ra ngoài xã hội là một vấn đề cấp thiết và tất yếu. Trên cơ sở quan điểm, chủ trương mà Đại hội VI đã nêu ra đến đại hội VII Đảng ta lại tiếp tục khẳng định những phương hướng cơ bản của việc đổi mới hệ thống chính trị và dân chủ hóa đời sống xã hội là một trong những nội dung quan trọng của Cương lĩnh chính trị được thông qua tại đại hội Vll. Coi đó là nhiệm vụ quan trọng cấp bách trong quá trình cách mạng.
- Những phương hướng đó là: - Thứ nhất là phải tổ chức xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ mới: "Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ năng lực lãnh đạo, giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng"1. Vấn đề cần đặc biệt quan tâm ở đây là phải phân định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước để tránh trường hợp Đảng bao biện làm thay chính quyền chính quyền ỷ lại vào Đảng. Bởi Đảng không chuyên quyền, không đặc quyền trong mọi công việc. Đảng không phải là cơ quan nắm tất cả mọi quyền lực và cơ quan quyền lực của nhân dân, không thể là một thiết chế hình thức, dựa dẫm, bị động. - Thứ hai là xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước làm cho nhà nước thực sự là công cụ quyền lực của nhân dân là sản phẩm của dân chủ và tự do của con người, là nhà nước của dân, vì dân và do dân. Để thực hiện được mục tiêu đó, báo cáo chính trị đã nêu lên một số việc chủ yếu cần phải tập trung giải quyết về lĩnh vực nhà nước bao gồm: + Sửa đổi và xây dựng hệ thống pháp luật các chế độ chính sách về quyền và nghĩa vụ công dân. Thường xuyên giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật trong các tầng lớp nhân dân. Tăng cường pháp chế XHCN. Bảo đảm các điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan bảo vệ pháp luật có chủ quyền lực và điều kiện khả năng thực hành pháp luật. + Cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội để Quốc hội làm đúng trách nhiệm là cơ quan quyền lực cao nhất. Hội đồng nhân dân 1 Cương lĩnh Đại hội VII, tr. 21.
- phải có thực quyền và phải chọn lọc được những đại biểu xứng đáng vào cơ quan này. + Sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động để chính phủ xứng đáng là cơ quan hành pháp cao nhất, quản lý điều hành mọi công việc của đất nước, khắc phục tình trạng các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp vừa bị động vừa ỷ lại vào cấp ủy Đảng, vừa kém hiệu lực trước xã hội, vừa lấn át và thiếu trách nhiệm trước quần chúng. Đồng thời cần ngăn ngừa tư tưởng phường hội, phân tán, cục bộ, cát cứ địa phương và những ảnh hưởng khác của tư tưởng phong kiến gia trưởng của người sản xuất nhỏ trong hoạt động của các cơ quan hành chính các cấp. Mặt khác phải thực sự quan tâm đến cấp cơ sở, đề cao quyền chủ động và trách nhiệm của địa phương. Cần xây dựng chính quyền cấp xã, phường vững mạnh. + Sắp xếp lại tổ chức, tinh giảm biên chế làm cho bộ máy hành chính gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả. Đổi mới một cách nghiêm túc, thận trọng công tác tổ chức và chính sách cán bộ. Ban hành luật lao động, quy chế viên chức nhà nước. Xây dựng đội ngũ viên chức nhà nước có phẩm chất chính trị, tinh thần trách nhiệm cao, thành thạo nghiệp vụ không chấp nhận và lên án những hiện tượng sai lệch như "chủ nghĩa lý lịch", "chủ nghĩa thành phần", "chủ nghĩa bằng cấp", "chủ nghĩa kinh nghiệm", "sống lâu lên lão làng", bè cánh, cục bộ, tranh giành quyền lợi, địa vị Sự gương mẫu công minh trong công tác tổ chức, cán bộ của các bộ phận trong hệ thống chính trị có vai trò quyết định trong đổi mới hệ thống chính trị và dân chủ hóa đời sống xã hội. + Kiên quyết và thường xuyên tiến hành cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng trong các cơ quan nhà nước và trong xã hội. Trước hết là hoàn chỉnh bộ máy cơ chế quản lý và pháp luật, xử lý nghiêm minh những người vi phạm, tăng cường giáo dục tư tưởng quản lý chặt chẽ nội bộ.
- - Thứ ba là: Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động để thực sự góp phần dân chủ hóa đời sống xã hội - là một công việc cực kỳ quan trọng nhằm chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Cũng cần hướng các tổ chức này vào việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tham gia giải quyết những nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống theo tinh thần ích nước lợi nhà, tương thân, tương ái. Giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng - Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, Khắc phục tình trạng "Nhà nước hóa" "Hành chính hóa", làm mất tính phong phú, đa dạng trong phương thức hoạt động của các tổ chức quần chúng. - Thứ tư là làm cho toàn Đảng, toàn dân, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp hiểu và thực hiện đúng nếp sinh hoạt dân chủ trên mọi lĩnh vực, làm cho mọi người quen với sinh hoạt dân chủ. Xây dựng các quy tắc sinh hoạt dân chủ nhằm mở rộng quyền làm chủ của công dân, phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động tại cơ sở, giải quyết đúng đắn hàng loạt các mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính dân chủ và kỷ luật, dân chủ và tập trung, dân chủ và pháp chế Đại hội VII cũng nêu lên những quan điểm để xây dựng nền dân chủ XHCN gồm 4 điểm như lý luận đã nêu. Đồng thời còn được cụ thể hóa ở những điểm sau: "Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thể hiện trong thực tế cuộc sống trừ tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các hành thức dân chủ trực tiếp. "Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật thừa nhận". Trong điều kiện nước ta không có sự cần thiết khách quan để lập nên cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách hợp pháp các lực lượng phản động phục thù trong nước và từ nước ngoài trở về hoạt động chống Tổ quốc,
- chống nhân dân, chống chế độ. Đó là điều mà nhân dân ta dứt khoát không chấp nhận"1. Có thể nói Đại hội VI là đại hội đề ra đường lối đổi mới khởi xướng dân chủ hóa đời sống xã hội. Đại hội VII là Đại hội thật sự dân chủ - để có kết quả thành công của đại hội. Đảng ta đã để ra một thời gian dài để tập hợp ý kiến, trưng cầu dân ý xây dựng nên các văn kiện của Đại hội. Điều đó đã làm nên tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của văn kiện, đường lối nhờ biết phát huy dân chủ của đảng. Dưới ánh sáng của những quan điểm, tư tưởng đó hàng loạt văn bản và quy chế dân chủ được ban hành. Đáng chú ý là Nghị quyết 8 của Ban chấp hành TW Đảng khóa VII là Nghị quyết tăng cường và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Đó thực chất là bản Luận cương mới của Đảng về dân chủ. Kế tiếp Nghị quyết trên, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị 30CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Mở đầu chỉ thị xác định: Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới ( ). Khâu quan trọng và cấp bách trước mặt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành quy chế dân chủ cơ sở có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy chế dân chủ cần được xây dựng cho từng loại cơ sở xã, phường, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành chính phù hợp với đặc điểm của từng loại cơ sở. 1 Báo cáo của BCH TW khoá VI về các Văn kiện trình đại hội VII.
- Chỉ thị 30CT/TW cũng nhấn mạnh việc xây dựng quy chế dân chủ cơ sở cần quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau: - Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Coi trọng ba mặt nói trên, không vì nhấn mạnh một mặt mà coi nhẹ, hạ thấp mặt khác. - Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng thiết thực gắn liền với lợi ích của mình. - Phát huy dân chủ gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả. - Nội dung các quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ cương, trật tự, quyền hạn gắn với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật. - Gắn quá trình xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ với công tác cải cách hành chính sửa đổi những quy chế, chính sách và thủ tục hành chính không phù hợp. Nội dung quy chế dân chủ cơ sở cần chú trọng những vấn đề sau : - Qui định quyền của mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp luật, các chủ trương chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống và lợi ích hàng ngày của nhân dân tại cơ sở, có chế độ và hình thức báo cáo công khai trước dân công việc của chính quyền, cơ quan đơn vị về sản xuất và phân phối, về việc sử dụng công quỹ, tài sản công, về thu, chi tài chính, các khoản đóng góp của nhân dân, quyết toán các công trình xây dựng cơ bản, chế độ thu và sử dụng học phí, viện phí.
- - Có quy định về việc để nhân dân quyết định dân chủ đối với những loại việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn (như chủ trương huy động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi, các khoản đóng góp và lập các loại quỹ trong khuôn khổ pháp luật ). Chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện theo ý kiến của đa số nhân dân, có sự giám sát, kiểm tra của nhân dân. - Có quy chế và các chính thức để nhân dân, cán bộ, công chức ở cơ sở được bàn bạc và tham gia ý kiến vào các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công tác chuyên môn, công tác cán bộ của chính quyền, cơ quan, đơn vị; kết quả ý kiến đóng góp phải được xem xét cân nhắc khi chính quyền hoặc thủ trưởng ra quyết định. - Hoàn thiện cơ chế để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở trực tiếp và thông qua Mặt trận, các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giám sát của nhân dân phải được tiếp thu nghiêm túc. - Mở rộng các hình thức tổ chức tự quản để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức tự bàn và thực hiện trong khuôn khổ pháp luật những việc mang tính xã hội, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị (như việc xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, xây dựng tổ hòa giải, tổ an ninh phong trào vệ sinh - môi trường, đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ người nghèo v.v ). - Xác định rõ trách nhiệm và tổ chức tốt việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và trả lời thắc mắc của nhân dân, công nhân, công chức ở sở, chính quyền, cơ quan đơn vị mình, nghiêm cấm mọi hành vi trù dập người khiếu nại, tố cáo. - Xác định trách nhiệm chia tổ chức chính quyền, thủ trưởng cơ quan đơn vị cơ sở định kỳ (ba tháng, sáu tháng, một năm) báo cáo công việc trước dân, phải tự phê bình và tổ chức để nhân dân, công