Đề cương bài giảng tham khảo Lý thuyết tài chính - Chương III: Ngân sách Nhà nước

pdf 17 trang hapham 2020
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương bài giảng tham khảo Lý thuyết tài chính - Chương III: Ngân sách Nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_cuong_bai_giang_tham_khao_ly_thuyet_tai_chinh_chuong_iii.pdf

Nội dung text: Đề cương bài giảng tham khảo Lý thuyết tài chính - Chương III: Ngân sách Nhà nước

  1. Chương III: Ngân sách Nhà nước34 VII.Khái niệm ngân sách Nhà nước gân sách Nhà nước là bộ phận cấu thành của hoạt động tài chính Nhà nước, vì vậy khi nghiên cứu về tài chính của Nhà nước người ta thường tập trung vào nghiên cứu ngân N sách Nhà nước. Có nhiều quan điểm về ngân sách Nhà nước khi nhìn từ các góc độ nghiên cứu khác nhau. Bên cạnh đó, tại những nước có các chính thể khác nhau thì cơ cấu và quản lý ngân sách Nhà nước cũng rất khác nhau. Nhưng với góc độ nghiên cứu ngân sách Nhà nước tại Việt Nam thì ngân sách Nhà nước cần phải có được định nghĩa một cách tổng thể nhất dưới dạng một quan hệ tài chính. Vì vậy phần sau sẽ xây dựng một định nghĩa ngân sách Nhà nước thống nhất. 1.Định nghĩa ngân sách Nhà nước Theo luật ngân sách Nhà nước35 của Việt nam thì ngân sách Nhà nước được định nghĩa như sau: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Như vậy, theo định nghĩa của pháp luật Việt nam có thể thấy rằng ngân sách Nhà nước là một tập hợp các khoản thu, chi trong vòng một năm, gọi là năm ngân sách36, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền37 quyết định và có tác dụng đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động của Nhà nước. Nói chung năm ngân sách thường trùng với năm dương lịch, như ở Việt nam. Nhưng có một số nước lại quy định năm ngân sách có lịch biểu khác38. Sự quy định này có tính lịch sử và truyền thống tùy thuộc vào từng quốc gia và khu vực. Ngân sách Nhà nước được phân cấp thành ngân sách Trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương. Ngân sách trung ương ở cấp cao nhất, có vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế của một nước, còn ngân sách chính quyền địa phương có ý nghĩa đối với sự phát triển của địa phương.39 Ngân sách địa phương phụ thuộc vào ngân sách Trung ương, còn ngân sách cấp dưới lại phụ thuộc vào ngân sách cấp trên. Từ những phân tích trên có thể rút ra được một định nghĩa về ngân sách Nhà nước dưới góc độ tài chính như sau: 34 Lưu ý rằng vì cơ cấu ngân sách Nhà nước là rất khác nhau ở mỗi nước nên trong chương này, các lý thuyết và nội dung nghiên cứu đều có liên quan chặt chẽ đến thực tiễn của Việt nam 35 Được quốc hội thông qua ngày 20-3-1996 36 Năm ngân sách (tài khoá hoặc tài chính)- fiscal year, là một giai đoạn trong đó dự toán thu-chi đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành. 37 Ở Việt nam là Quốc hội 38 Ví dụ như bắt đầu vào 1/4 năm trước và kết thúc vào 31/3 năm sau ở Anh và Nhật hoặc bắt đầu vào 1/10 năm trước và kết thúc vào 30/9 năm sau ở Mỹ 39 Ngân sách địa phương gồm có ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; ngân sách cấp huyện, thị xã; ngân sách cấp phường.
  2. Government Finance Ngân sách Nhà nước là một hệ thống các quan hệ phân phối không hoàn lại giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế khác trong xã hội nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Phần dưới đây sẽ xem xét mối quan hệ phân phối trong ngân sách Nhà nước để thấy rằng liệu quan hệ này có phải là một quan hệ tài chính hay không, muốn là một quan hệ tài chính thì ngân sách Nhà nước phải thỏa mãn các điều kiện của một quan hệ tài chính, đó là: Phải là một quan hệ phân phối: Mặc dù sự thể hiện trên bề mặt của quan hệ kinh tế trong ngân sách Nhà nước là quan hệ này được thực hiện giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế khác trong xã hội nhưng thực sự quan hệ phân phối trong ngân sách Nhà nước được thực hiện từ người nộp ngân sách Nhà nước sang người hưởng từ chi tiêu ngân sách Nhà nước. Dù cho đây là một mối quan hệ không trực tiếp nhưng đó là một mối quan hệ hiển nhiên thông qua một đối tượng trung gian là Nhà nước. Sau khi tiền được thu vào, nó sẽ không ở lại mà sẽ tiếp tục được chi ra theo các nhu cầu của Nhà nước, và mọi quan hệ chi tiêu của ngân sách Nhà nước đều có những người được hưởng lợi nhờ sự chi tiêu đó. Do vậy thực chất của quan hệ phân phối trong ngân sách Nhà nước là từ người nộp ngân sách Nhà nước sang người hưởng từ chi tiêu ngân sách Nhà nước. Phải có một quỹ tiền tệ được thành lập và sử dụng: Quỹ tiền tệ được nhắc tới ở đây chính là quỹ ngân sách Nhà nước. Quỹ ngân sách Nhà nước được quản lý bởi Nhà nước, mà cụ thể là Quốc hội và Chính phủ bởi vì ngân sách Nhà nước là một bản dự toán thu chi hàng năm được Chính phủ lập và trình lên để Quốc hội phê duyệt vào phiên họp cuối cùng của năm ngân sách. Dạng thức tồn tại của quỹ ngân sách Nhà nước ở Việt nam hiện nay là Kho bạc Nhà nước. Hệ thống kho bạc Nhà nước được quy định như sau40: ¾ Cấp trung ương: Cục kho bạc Nhà nước ¾ Cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương: Chi cục kho bạc Nhà nước ¾ Cấp quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh và tương đương: Chi nhánh kho bạc Nhà nước Chủ yếu được thực hiện dưới dạng tiền tệ: Việc nộp ngân sách Nhà nước cũng như việc cấp phát ngân sách Nhà nước chủ yếu được thực hiện dưới dạng tiền tệ vì đây là một hình thức đơn giản và tiện lợi nhất đối với cả bên nộp hoặc cấp phát lẫn bên nhận. Tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết thì quan hệ trong ngân sách Nhà nước cũng có thể được thực hiện dưới dạng hiện vật, ví dụ như việc nộp thuế nông nghiệp bằng thóc. Thế nhưng đây chỉ là trường hợp cá biệt không có tính chất phổ biến, diễn ra một cách lẻ tẻ và trong tương lai chắc chắn sẽ bị đào thải. 2.Đặc điểm ngân sách Nhà nước a. Quan hệ phân phối trong ngân sách Nhà nước là không hoàn trả41 Tính chất phân phối không hoàn trả của quan hệ ngân sách Nhà nước thể hiện ở chỗ một khi đã nộp ngân sách Nhà nước thì người nộp sẽ không nhận lại khoản tiền mà mình đã nộp, cũng như khi ngân sách Nhà nước đã được cấp phát rồi thì sẽ không đòi lại. Như trong chương đầu đã phân tích, đây là tiêu chí để phân biệt ngân sách Nhà nước với các loại quan hệ tài chính khác bởi vì mỗi loại quan hệ tài chính có một đặc điểm phân phối riêng biệt, nếu như quan hệ 40 Theo quyết định số 87-TC/TCCB ngày 21 tháng 3 năm 1991 41 Hay còn gọi là không hoàn trả trực tiếp
  3. Introductory Finance tín dụng là có hoàn trả, bảo hiểm là hoàn trả có điều kiện thì ngân sách Nhà nước là quan hệ phân phối không hoàn trả. b. Sự ra đời của ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào sự ra đời và phát triển các chức năng của Nhà nước. Có thể nói rằng sự ra đời của ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào sự ra đời và phát triển các chức năng của Nhà nước bởi vì ngân sách Nhà nước là một hệ quả tất yếu đi kèm theo sự ra đời của Nhà nước, nếu như không có sự ra đời của Nhà nước thì chẳng bao giờ tồn tại khái niệm ngân sách Nhà nước. Và như vậy phạm trù ngân sách Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Xuất phát từ quyền lực chính trị đặc biệt của mình, Nhà nước giữ vai trò điều phối mọi hoạt động trong xã hội, quy định hướng phát triển cho xã hội và đảm bảo điều hòa các mối quan hệ trong xã hội theo hướng có lợi nhất cho mình và cho toàn xã hội. Để thực hiện được việc đó Nhà nước cần phải có những sự can thiệp nhất định vào xã hội bằng nhiều biện pháp, đó có thể là biện pháp hành chính hoặc các biện pháp kinh tế. Trong số các biện pháp kinh tế thì các công cụ tài chính đóng vai trò then chốt. Mà với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong xã hội, Nhà nước không thể đứng ra kinh doanh thu lợi như các chủ thể kinh tế khác, thay vào đó bằng quyền lực đặc biệt của mình, Nhà nước định ra các khoản thu và yêu cầu các thành phần trong xã hội phải thực hiện nếu không sẽ phải chịu các chế tài do Nhà nước áp đặt. Và từ các khoản thu này Nhà nước sẽ có thể thực hiện được các khoản chi cần thiết để điều hòa nền kinh tế xã hội. Trong lịch sử vai trò của Nhà nước phát triển theo xu hướng ngày càng quan trọng, lúc đầu chỉ là một chính thể không ổn định, ngân sách Nhà nước lúc này chủ yếu phục vụ bộ máy chiến tranh, việc thu thuế hoàn toàn không dựa trên một cơ sở nào mà chủ yếu là để bóc lột, vơ vét nên có nhiều thứ thuế rất khó hiểu, nó hoàn toàn không dựa trên cơ sở động viên một phần thu nhập nên làm cho người nộp thuế tiến tới tình trạng khó khăn, dẫn họ đến tâm lý bất mãn. Nhưng cùng với sự phát triển của Nhà nước, hoạt động thu chi ngân sách Nhà nước đã hợp lý hơn, đảm bảo đúng tinh thần của mình, và như vậy vừa làm cho người dân yên tâm hơn đồng thời vẫn đảm bảo được sự hoạt động tốt của bộ máy Nhà nước cũng như các yêu cầu kinh tế, xã hội khác. VIII.Vai trò của ngân sách Nhà nước Vai trò của ngân sách Nhà nước là rất quan trọng đối với chính bản thân Nhà nước, mà Nhà nước chính là thực thể lãnh đạo và điều hành hoạt động của một quốc gia, của một nền kinh tế nên từ đó ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Trong mục dưới đây, các vai trò của ngân sách Nhà nước đối với Nhà nước và đối với toàn bộ nền kinh tế sẽ được phân tích để làm rõ: 1.Đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước Ngân sách Nhà nước có thể đảm bảo được chi tiêu cho Nhà nước bằng việc thu vào thông qua một số quan hệ tài chính, chủ yếu từ thuế Như đã phân tích ở mục trước, sau sự ra đời của Nhà nước, ngân sách Nhà nước bắt đầu phát huy vai trò của mình, mà đầu tiên là nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Lúc đầu chỉ là đảm bảo cho sự tồn tại của Nhà nước, có nghĩa là nuôi sống bộ máy hành chính, quân sự của Nhà nước, nhưng về sau ngân sách Nhà nước càng lúc càng tỏ ra quan trọng đối với sự tồn tại của Nhà nước bởi vì với tư cách là thực thể đặc biệt của mình, Nhà nước phải dựa vào hoạt động thu ngân sách để tồn tại. Và cũng xuất phát từ điểm này mà mọi hoạt
  4. Government Finance động thu chi của Nhà nước đều được đưa vào quỹ ngân sách Nhà nước để có thể dễ dàng quản lý. Và như vậy có thể thấy rằng đây là vai trò xuất hiện đầu tiên của ngân sách Nhà nước. Muốn đảm bảo cho chi tiêu thì ngân sách Nhà nước cần phải có các nguồn thu vào. Nhờ có các quan hệ thu vào thì ngân sách Nhà nước mới có nguồn tài chính để chi ra. Các quan hệ thu vào của ngân sách Nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động của Nhà nước tương đối nhiều, nhưng đóng vai trò quan trọng nhất trong số các nguồn thu đó là nguồn thu từ thuế. Ở một quốc gia thông thường thì thuế chiếm khoảng từ 80-90% cho ngân sách Nhà nước, và do vậy các khoản thuế thu được luôn là mối quan tâm của mọi loại hình Nhà nước ở mọi chế độ xã hội. Cũng chính vì tầm quan trọng này nên trong chương này sẽ có một mục riêng để nghiên cứu về thuế cũng như về hệ thống thuế hiện hành ở Việt nam. 2.Điều tiết kinh tế, xã hội Nhà nước đứng ra điều tiết nền kinh tế, xã hội bằng nhiều công cụ nhưng chủ yếu là các công cụ tài chính. Nhà nước ra đời là để phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị tại mỗi chế độ kinh tế xã hội nhất định. Cùng với sự phát triển của kinh tế, ngày càng có nhiều vấn đề đòi hỏi phải có bàn tay can thiệp của Nhà nước. Ví dụ như khi chế độ tư bản đã phát triển tới một mức độ nhất định thì các khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường bắt đầu phát sinh và không thể chỉ dùng bàn tay vô hình để kiểm soát nữa. Tình hình này đòi hỏi phải có sự kết hợp của bàn tay hữu hình (tức là Nhà nước) để có thể khống chế những tiêu cực của nền kinh tế thị trường, đồng thời lái nền kinh tế-xã hội đi đúng quỹ đạo. Nhà nước có thể sử dụng các chế tài (công cụ pháp luật), có thể dùng biện pháp xử phạt hành chính (công cụ hành chính) nhưng phổ biến nhất và có hiệu quả nhất vẫn là các công cụ kinh tế, mà chiếm tỷ trọng chủ yếu là các công cụ tài chính. Trong số các công cụ tài chính này thì hai công cụ được dùng thường xuyên nhất là thuế và chi ngân sách Nhà nước. Ngoài ra Nhà nước cũng cần phải can thiệp vào nền kinh tế-xã hội để đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững trong tương lai mặc dù có thể không hề phát sinh một biến cố nào trong nền kinh tế. Như vậy có thể thấy được Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm một số mục đích chính như sau: a. Ổn định nền kinh tế Nhờ sự can thiệp của Nhà nước khi có dấu hiệu bất ổn định của nền kinh tế mà tính bền vững mới có thể được duy trì. Một nền kinh tế nếu chỉ dựa theo quy luật hoạt động của thị trường thì sẽ không thể tránh khỏi những biến động và những chu kỳ suy thoái hoặc những khiếm khuyết của nền kinh tế. Tất cả những biến động đó đều ảnh hưởng xấu đến tính ổn định của nền kinh tế, từ đó gián tiếp có tác động đến tính bền vững của một Nhà nước. Chính vì vậy, vừa để bảo đảm cho sự tồn tại của mình và để bảo đảm cho nền kinh tế có thể phát triển bền vững thì Nhà nước phải can thiệp vào thị trường để sửa chữa những khiếm khuyết đó. Và công cụ chủ yếu để Nhà nước thực hiện công việc này, như đã nói trong phần trước, chính là các công cụ tài chính mà chủ yếu là thuế và chi ngân sách Nhà nước. Ví dụ như khi có dấu hiệu đầu cơ lũng đoạn trong thị trường ngoại hối làm cho tỷ giá hối đoái thay đổi đột biến, Nhà nước sẽ phải can thiệp bằng cách mua ngoại tệ vào để tăng tỷ giá hoặc phát hành các chứng khoán có giá nhằm rút bớt lượng nội tệ trong lưu thông, từ đó làm thay
  5. Introductory Finance đổi cơ cấu tỷ giá. Và nguồn tài chính để thực hiện công việc này chính là từ quỹ dự trữ quốc gia, vốn là một bộ phận của quỹ ngân sách Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm tạo ra sự phát triển bền vững được thực hiện theo ba dạng chủ yếu: 9 Đưa về tình trạng ổn định khi nền kinh tế có dấu hiệu tiêu cực 9 Giữ tình trạng ổn định bền vững 9 Tăng trưởng dựa trên nền tảng phát triển bền vững b. Kích thích các ngành nghề, lĩnh vực cần ưu tiên phát triển Trong chính sách của Nhà nước luôn có sự ưu đãi nhất định dành cho một số khu vực kinh tế được Nhà nước quan tâm Trong quá trình thực hiện vai trò đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội, Nhà nước cần phải cân đối lợi ích giữa các vùng và ngành kinh tế. Có những vùng, ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước hơn so với những khu vực kinh tế, thế nhưng không phải những ngành, vùng tăng trưởng nhanh là nơi được ưu tiên bởi vì để đảm bảo tính bền vững của phát triển kinh tế, những ngành, vùng gặp khó khăn thường là nơi cần được sự quan tâm nhiều hơn. Sự ưu đãi của Nhà nước dành cho những khu vực này được thể hiện thông qua những ưu đãi thuế và những khoản chi ngân sách Nhà nước ưu tiên hơn. Ví dụ như trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp sản xuất sẽ được Nhà nước miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu và giảm thuế 50% trong 2 năm tiếp theo42. c. Đảm bảo công bằng xã hội Nhờ có sự can thiệp của Nhà nước mà sự chênh lệch trong xã hội giảm đi đáng kể. Nhà nước cũng tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội có những điều kiện giống nhau trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe và sự phát triển đều trong kinh tế vùng, ngành. Công bằng xã hội cũng là một yếu tố quan trọng nằm trong sự quan tâm của Nhà nước, đặc biệt là đối với kinh tế vùng và phúc lợi xã hội. Nếu như không có sự can thiệp của Nhà nước thì sự chênh lệch trong xã hội sẽ càng ngày càng lớn và dẫn đến sự khốn cùng của tầng lớp dưới. Đối với một xã hội phát triển thì điều này là nguyên nhân chính dẫn đến sự bất ổn định, và từ đó ảnh hưởng tới Nhà nước. Vì lý do này nên Nhà nước luôn phải quan tâm đến công bằng xã hội, làm cho mọi người được hưởng những quyền lợi tương đối đồng nhất. Ví dụ như chính sách thuế luôn có những quy định nhằm đảm bảo sự công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân khác nhau với thu nhập khác nhau. Người có thu nhập thấp sẽ không phải nộp thuế thu nhập cá nhân mà chỉ người có thu nhập cao đến mức nhất định mới phải nộp. Ở Việt nam mức quy định này là 3 triệu đồng. Và người có thu nhập càng cao thì càng phải nộp nhiều theo nguyên tắc lũy tiến của thuế thu nhập43. IX.Thu ngân sách Nhà nước Hoạt động thu ngân sách Nhà nước chính là bộ phận có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự tồn tại của Nhà nước. Bởi vì nếu như không có nguồn thu thì Nhà nước sẽ không có nguồn chi, từ đó cũng sẽ không thể tồn tại. Việc nghiên cứu hoạt động thu ngân sách Nhà nước sẽ giúp cho 42 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ngày 10/5/1997 43 Pháp lệnh số 35/2001ngày 19/5/2001 về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
  6. Government Finance việc xem xét phân loại và quản lý hoạt động thu ngân sách Nhà nước được thực hiện dễ dàng hơn. 1.Các nguồn thu của ngân sách Nhà nước Sau đây là các nguồn thu của ngân sách Nhà nước, qua sự phân loại các nguồn thu có thể thấy được các nguồn thu này khác nhau ở điểm nào và mỗi loại nguồn thu có ý nghĩa như thế nào đối với ngân sách Nhà nước. Từ đó cũng có thể thấy hoạt động thu ngân sách Nhà nước có hợp lý hay không thông qua việc nghiên cứu tỷ lệ giữa các nguồn thu. a. Thuế Là hình thức động viên bắt buộc một phần thu nhập của cá nhân, doanh nghiệp cho Nhà nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Đây là khoản thu quan trọng nhất trong số các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, bởi vì chỉ riêng nguồn thu từ thuế đã chiếm tới 80 hoặc 90% tổng số nguồn thu ngân sách Nhà nước. Chính vì tính quan trọng này nên sẽ có một mục riêng dành cho việc nghiên cứu về thuế và hệ thống thuế hiện hành. Ở đây thuế chỉ được đề cập một cách sơ lược nhằm nghiên cứu những đặc điểm giúp phân biệt thuế với các nguồn thu khác của ngân sách Nhà nước. - Thuế là hình thức động viên một phần thu nhập của người chịu thuế cho Nhà nước. Như vậy một điều kiện rất quan trọng để thu thuế là người chịu thuế phải có thu nhập và khoản thuế nộp phải trích ra từ phần thu nhập đó. Chính bởi vì các sắc thuế dưới các chính quyền trước đây không tôn trọng nguyên tắc này nên thuế đã lạm vào phần thu nhập tối thiểu của người dân, dẫn đến tình trạng bất mãn. Nếu như đánh thuế dựa trên thu nhập của người chịu thuế thì việc đánh thuế đó đảm bảo được tính hợp lý bởi vì người có thu nhập đã hưởng lợi từ hoạt động chi ngân sách Nhà nước và họ có nghĩa vụ trích lại một phần thu nhập đã hưởng để nộp vào ngân sách Nhà nước. Việc trích nộp này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. - Thuế là hình thức động viên có tính chất bắt buộc. Nếu người nào không tự giác, cố tình trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế thì sẽ phải chịu sự xử lý, có thể là dưới hình thức hành chính hoặc hình thức pháp luật. b. Lệ phí Là một khoản thu của Nhà nước, nhằm bù đắp chi phí trong việc cung cấp các dịch vụ mang tính chất quản lý của Nhà nước và trong một số trường hợp đóng góp một phần cho ngân sách Nhà nước. Đặc điểm của lệ phí là để bù đắp các khoản chi phí phát sinh khi giải quyết công việc của các bộ phận quản lý hành chính. Các bộ phận này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Trực tiếp có nghĩa là nộp lệ phí để đảm bảo hoạt động của đơn vị đứng ra thu lệ phí còn gián tiếp là để đảm bảo hoạt động của các đơn vị không trực tiếp làm dịch vụ nhưng có liên quan trong việc cung cấp dịch vụ cho người nộp lệ phí. Từ hoạt động quản lý này của Nhà nước nên người nộp lệ phí được hưởng lợi. Bên cạnh đó người nộp lệ phí cũng là những người có khả năng tài chính đủ để chi trả các khoản lệ phí nên những người này có nghĩa vụ nộp một khoản lệ phí để bù đắp chi phí hoạt động của cơ quan cung cấp dịch vụ, từ đó góp phần giảm chi cho quỹ ngân sách Nhà nước. Có một số khoản lệ phí không chỉ nhằm mục đích bù đắp chi phí đã bỏ ra trong việc cung cấp dịch vụ mà còn nhằm tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Những khoản lệ phí đó sẽ được gọi là
  7. Introductory Finance thuế mặc dù trên thực tế thì nó vẫn mang tính chất của một loại lệ phí. có thể thấy ví dụ tiêu biểu của trường hợp này qua hiện tượng lệ phí trước bạ. Thuế này còn được gọi là thuế mang tính chất lệ phí. Có một số loại lệ phí lại mang tính bắt buộc như lệ phí trước bạ. Bởi vì trong một số lĩnh vực và có một số sản phẩm, dịch vụ Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ vì một số lý do như an ninh, xã hội nhưng những người đang sở hữu các loại sản phẩm và hưởng quyền lợi đối với các dịch vụ này lại không hề muốn bị quản lý như vậy. Điển hình là trường hợp trước bạ44 nhà đất và xe ô tô, xe gắn máy. Chính vì vậy nên bắt buộc Nhà nước phải quy định rằng việc trước bạ tài sản là bắt buộc và nếu như người nào không chấp hành thì sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ vi phạm. Vì vậy cho nên nếu có người đi xe ô tô hoặc xe máy không có biển kiểm soát (tức là chưa hoàn thành thủ tục trước bạ) hoặc sử dụng biển kiểm soát giả thì sẽ bị xử lý theo luật. Số tiền phạt vì không nộp lệ phí trước bạ có thể từ một lên tới ba lần số tiền lệ phí trước bạ ban đầu, bên cạnh đó vẫn phải làm thủ tục trước bạ cho tài sản đó. Đặc điểm của lệ phí: 9 Tất cả các loại lệ phí đều là những khoản thu của ngân sách Nhà nước. Chỉ có những cơ quan được Nhà nước cho phép thực hiện những công việc mang tính chất quản lý Nhà nước mới được phép thu lệ phí. 9 Huy động vào ngân sách Nhà nước nhằm bù đắp chi phí cho việc cung cấp dịch vụ quản lý Nhà nước, và trong một số trường hợp còn nộp thêm vào ngân sách Nhà nước, trong trường hợp đó lệ phí sẽ được gọi là thuế. 9 Lệ phí được quy định trước mức thu với từng công việc, trừ trường hợp lệ phí trước bạ45 9 Nói chung là không mang tính chất bắt buộc, trừ một số trường hợp đã được quy định trong các văn bản pháp luật. 9 Không mang tính chất động viên một phần thu nhập mà được coi như là nghĩa vụ phải đóng góp sau khi hưởng lợi từ chi tiêu của ngân sách Nhà nước. c. Phí thuộc ngân sách Nhà nước46 Là một khoản mà các cá nhân phải nộp khi sử dụng dịch vụ do các cơ quan Nhà nước cung cấp. Phí47 có một điểm khác biệt cơ bản so với lệ phí, đó là trong khi lệ phí là khoản nộp sau khi các cá nhân sử dụng những dịch vụ mang tính chất quản lý Nhà nước thì phí lại là khoản nộp sau khi sử dụng những dịch vụ mang tính chất phổ thông hơn. Nhưng cũng vì đặc điểm phổ thông của những loại hình dịch vụ này nên nhu cầu sử dụng của người dân sẽ lớn hơn. Do vậy, sẽ có những người không đủ khả năng sử dụng các loại dịch vụ đó. Vì vậy, thông thường mức phí thu được sẽ tuỳ theo từng ngành nghề để nhận được những sự hỗ trợ khác nhau từ phía ngân sách Nhà nước, nhưng có thể kết luận chung rằng phí là loại hình nhận được nhiều hỗ trợ nhất từ ngân sách Nhà nước. Những đơn vị hoạt động thu phí thường là những đơn vị hành chính sự nghiệp dưới dạng dự toán ngân sách. Vì mục đích phục vụ công cộng nên các đơn vị này thường phải sử dụng nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp để hoạt động, bên cạnh đó những khoản phí do các đơn vị này thu lại phải nộp toàn bộ vào ngân sách Nhà nước. Còn những đơn vị nào không được Nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động hàng năm có thể để 44 Trước bạ một tài sản là yêu cầu bắt buộc trước khi cá nhân sở hữu tài sản đó đăng ký sử dụng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, bao gồm nhà đất, phương tiện vận tải và súng săn, súng thể thao. 45 Lệ phí trước bạ được thu theo phần trăm giá trị của tài sản nộp lệ phí 46 Chi tiết về phí và lệ phí được đề cập trong pháp lệnh phí và lệ phí số 38/2001-PL ngày 28/8/2001 47 Không phải mọi loại phí đều là khoản thu của ngân sách Nhà nước nên trong mục này, thuật ngữ “phí” sẽ được hiểu là phí thuộc ngân sách Nhà nước.
  8. Government Finance lại một phần phí thu được để bù đắp các chi phí trong việc thu phí, phần còn lại vẫn phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Đặc điểm của phí : 9 Do cơ quan sự nghiệp, công cộng thu, thường chỉ nhằm bù đắp một phần chi phí đã bỏ ra. Phần còn lại do Nhà nước hỗ trợ. 9 Mức phí thu tùy thuộc vào khả năng đóng góp của người nộp cũng như mức độ ưu tiên của Nhà nước. 9 Là loại hình nhận được nhiều hỗ trợ nhất từ phía ngân sách Nhà nước. Phí và lệ phí thuộc ngân sách Nhà nước không bao gồm những loại sau: 9 Các loại phí có tính chất phúc lợi xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế 9 Các loại phí của các tổ chức xã hội, còn được gọi là nguyệt liễm, niên liễm vì đóng đều theo kỳ hạn. 9 Các loại phí trong hoạt động kinh doanh (i.e. giá và phụ thu qua giá) d. Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước Bao gồm thu từ lãi cổ phần, lãi liên doanh từ vốn ngân sách Nhà nước, thu hồi vốn từ các doanh nghiệp Nhà nước bị phá sản và từ tiền cho thuê đất. Nhà nước cũng tiến hành nhiều hoạt động kinh tế, từ những hoạt động kinh tế này mà ngân sách Nhà nước cũng có thêm khoản thu, có thể liệt kê các hoạt động đó ra như sau: 9 Lợi tức từ hoạt động góp vốn liên doanh, góp vốn cổ phần của Nhà nước vào các đơn vị kinh tế. 9 Thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo tỷ lệ so với số vốn đã cấp. Khoản thu này sẽ được trích từ lợi nhuận và chiếm từ 0,2 đến 0,5% lượng ngân sách đã cấp. 9 Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các đơn vị kinh tế, ví dụ như tiền bán cổ phần từ các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa hoặc tiền thu được từ hoạt động thanh lý doanh nghiệp Nhà nước giải thể. e. Thu từ vay nợ Gồm có thu từ cho vay nợ trong nước và nước ngoài. Nhà nước cũng tiến hành vay nợ, cả trong nước và nước ngoài để tăng thêm nguồn thu và bù đắp khoản bội chi của Nhà nước. Các khoản vay nợ đó có thể liệt kê dưới đây như sau: - Vay nợ trong nước48: + Trái phiếu chính phủ, gồm có tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình. + Trái phiếu chính quyền địa phương + Công trái: Có lãi suất thấp, thời hạn vay dài và chủ yếu nhằm mục đích huy động sự đóng góp của nhân dân trong giai đoạn khó khăn. - Vay nợ nước ngoài: + Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) , vay của các tổ chức tài chính quốc tế. + Phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế. + Vay của các tổ chức tín dụng, các thương nhân nước ngoài. 48 Về các chứng khoán vay nợ của Nhà nước, chương thị trường tài chính sẽ đề cập chi tiết hơn
  9. Introductory Finance f. Các khoản thu khác Gồm có thu từ các khoản viện trợ không hoàn lại, các khoản đóng góp tự nguyện và một số khoản thu khác. Nhà nước cũng có các khoản thu từ nhiều nguồn khác như những nguồn sau: - Thu từ hoạt động sự nghiệp của Nhà nước: 9 Các khoản thu do bán sản phẩm được các đơn vị sự nghiệp sản xuất. 9 Khoản chênh lệch giữa thu và chi của các đơn vị hoạt động sự nghiệp có thu: Là khoản thu của các đơn vị cung cấp dịch vụ công cộng theo giá Nhà nước quy định, nhưng thu nhập không có liên quan nhiều đến chi phí phát sinh. Để khuyến khích các đơn vị này làm ăn có hiệu quả Nhà nước áp dụng cơ chế lấy thu bù chi. - Tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. - Tiền bán hàng, vật tư dự trữ trong quỹ dự trữ quốc gia. - Các khoản đóng góp tự nguyện và các khoản huy động từ các cá nhân, tập thể. Hình thức này thường được gọi là Nhà nước và nhân dân cùng làm. - Các khoản viện trợ không hoàn lại 2.Phân loại và quản lý nguồn thu Để có thể quản lý tốt nguồn thu cần phải đi phân loại các nguồn thu để biết được những nguồn thu này xuất phát từ đâu, và mỗi cách phân loại có đặc điểm gì. a. Căn cứ vào tính chất thuế Căn cứ vào tính chất này có hai loại nguồn thu, đó là thu từ thuế và thu ngoài thuế. Có hai loại nguồn thu rất dễ nhận thấy, đó là nguồn từ thuế và nguồn ngoài thuế, bao gồm tất cả các nguồn thu khác còn lại. Ý nghĩa của việc phân loại này là giúp xác định được tỷ lệ động viên thuế cho tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ này được xác định theo công thức: Tỷ suất thuế= Số thuế thu được/GDP % 49 Nói chung tỷ lệ động viên thuế đạt tới 20% GDP50 tại Việt nam trong thời gian qua. Đây cũng là tỷ lệ để xác định mức độ thành công trong việc xác định chính sách thu thuế tại mỗi quốc gia. Căn cứ của việc lấy thuế thu được để so sánh với GDP là vì để xem xét khả năng đóng góp của thuế cho GDP là bao nhiêu. Với 100 đồng GDP thì số thuế đóng góp là bao nhiêu thì hợp lý. Nếu tỷ lệ này là quá cao thì sẽ tổn hại đến lợi ích của người nộp thuế nhưng ngược lại nếu quá thấp thì lại ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước, cho nên ở đây nguyên tắc chung vẫn là xác định được một tỷ lệ tối ưu. b. Căn cứ vào tính chất thường xuyên của khoản thu Căn cứ tính chất này, ngân sách Nhà nước có thu thường xuyên và thu không thường xuyên. Thu thường xuyên là những khoản thu phổ biến nhất cho ngân sách Nhà nước. Những khoản thu này chủ yếu bao gồm thuế, phí và lệ phí. 49 Còn gọi là tỷ suất thuế vĩ mô 50 Tổng sản phẩm quốc nội - GDP- Gross Domestic Products
  10. Government Finance Thu không thường xuyên là những khoản thu không được xác định trước và không đều, các khoản thu đó có thể là tiền thu từ viện trợ hoặc vay nợ, cũng có thể là tiền thu từ hoạt động thanh lý tài sản, nhà đất thuộc sở hữu Nhà nước. Khi đã xác định được mức thu thường xuyên, Nhà nước sẽ cân đối với mức chi thường xuyên để xác định xem liệu có tích lũy hay không. Để đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng và có tích lũy thì tỷ lệ thu thường xuyên/ chi thường xuyên phải lớn hơn 1 và ngày càng lớn. Đó cũng là nội dung cơ bản của nguyên tắc cân đối ngân sách Nhà nước. Thực thi được nguyên tắc cân đối này cũng có nghĩa là đã sử dụng vốn ngân sách Nhà nước một cách hợp lý và khoa học, bên cạnh đó lại có tiền để tích luỹ cho các mục đích chi đầu tư phát triển. c. Căn cứ vào tính chất vay nợ Nếu căn cứ vào tính chất này, có hai nguồn thu ngân sách Nhà nước là thu từ vay nợ và thu ngoài vay nợ. Đây là căn cứ dựa vào vay nợ để phân chia thu ngân sách Nhà nước, bao gồm thu từ vay nợ, cả vay nợ trong nước và vay nợ ngoài nước, cùng với nguồn thu ngoài vay nợ. Vay nợ trong nước có một số dạng như phát hành công trái, phát hành tín phiếu,. trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương. Còn vay nợ nước ngoài có vay nợ của các thương nhân, vay của các tổ chức và chính phủ quốc tế và phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế. Đến đây, một khái niệm mới cần phải được đề cập tới, đó là khái niệm bội chi ngân sách. Bội chi ngân sách có thể tính theo giá trị tuyệt đối, đó là lượng vượt trội của chi ngân sách Nhà nước so với thu ngân sách Nhà nước (không bao gồm vay nợ).51 Nhưng thông thường bội chi ngân sách được tính theo tỷ lệ tương đối, công thức tính bội chi trong trường hợp đó như sau: Bội chi ngân sách Nhà nước= (Vay nợ/GDP)x100% Mức bội chi hợp lý đối với các nền kinh tế đã phát triển là từ 3% trở xuống. Còn trong điều kiện để gia nhập liên minh châu Âu thì mức bội chi ngân sách là 2,5%. Đối với những quốc gia còn kém phát triển như Việt nam thì mức bội chi cho phép vào khoảng từ 3-4% so với GDP. Để bù đắp khoản bội chi thì thông thường Nhà nước phải lựa chọn một số giải pháp như phát hành thêm tiền và chủ yếu là vay nợ. Nhưng các giải pháp trên đều có một điểm bất cập, đó là nguy cơ dẫn đến lạm phát52. Và như vậy sẽ dẫn nền tài chính quốc gia đi vào một vòng luẩn quẩn của khủng hoảng kinh tế. Do vậy mục tiêu của các quốc gia luôn là thu thường xuyên lớn hơn chi thường xuyên và ngày càng có tích lũy. Bội chi, nếu có, chỉ nằm trong phạm vi số tiền dành cho chi đầu tư phát triển. Nếu Nhà nước có vay nợ để bù đắp bội chi thì khoản vay nợ đó không được phép sử dụng vào các mục đích tiêu dùng mà chỉ được sử dụng để chi đầu tư phát triển. Ngoài ra còn một số căn cứ khác để phân loại nguồn thu và quản lý nguồn thu, nhưng trong phạm vi chương trình chỉ cần nghiên cứu dựa theo các tiêu chí trên. 51 Khi tính toán bội chi, vay nợ sẽ được tách ra khỏi những khoản thu ngân sách Nhà nước để tính toán được lượng thực thu, và cũng vì vay nợ sẽ là nguồn chủ yếu để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước. Cũng có một số quan điểm tách hẳn vay nợ ra khỏi thu ngân sách Nhà nước, coi nó là một phần độc lập. Tuy nhiên, trong phạm vi chương trình học này, vay nợ vẫn được coi là nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Vì vậy cần lưu ý rằng trong công thức tính bội chi vay nợ được tách riêng. 52 Vấn đề lạm phát và bù đắp bội chi sẽ được đề cập kỹ hơn trong phần chính sách tiền tệ.
  11. Introductory Finance X.Thuế Vì thuế là một nguồn thu rất quan trọng cho ngân sách Nhà nước nên mục này sẽ nghiên cứu riêng về thuế. Nội dung nghiên cứu gồm có phân loại các sắc thuế, nội dung cơ bản của một luật thuế và các nguyên tắc trong đánh thuế. 1.Phân loại thuế Việc phân loại thuế nhằm mục đích quản lý các sắc thuế theo nhóm một cách dễ dàng hơn, và từ đó có thể thấy mỗi một loại thuế riêng biệt sẽ thuộc vào nhóm thuế nào và có đặc điểm gì. a. Dựa vào đối tượng đánh thuế Căn cứ vào đối tượng để đánh thuế, có thể phân ra thành ba nhóm thuế: thu nhập, tài sản, hàng hóa dịch vụ. Mỗi luật thuế đều chỉ rõ cho người đọc thấy đối tượng mà luật này nhằm vào là gì. Nói chung các đối tượng đánh thuế được chia làm 3 loại chính, đó là thu nhập, tài sản và hàng hóa dịch vụ. Thu nhập được coi là đối tượng bởi vì ngay từ đầu đã thấy rằng thuế được trích ra từ một phần thu nhập của cá nhân hoặc tập thể, có thu nhập thì mới có thuế. Vì vậy nên thu nhập được coi là đối tượng chịu thuế là chuyện tất nhiên. Các thu nhập chịu thuế gồm có thu nhập của cá nhân và thu nhập của doanh nghiệp, tổ chức. Tài sản được coi là đối tượng chịu thuế bởi vì con người sở hữu tài sản tức là đã hưởng một phần tài nguyên quốc gia dưới quyền quản lý của Nhà nước, ví dụ như sở hữu nhà, đất hay tài nguyên. Và để nhằm hướng dẫn người sở hữu có ý thức tiết kiệm trong sử dụng các nguồn lực khan hiếm Nhà nước quy định một khoản thuế đánh vào những loại tài sản như vậy. Do đó, không phải mọi loại tài sản đều bị đánh thuế, chỉ có những tài sản nào thuộc vào nhóm nguồn lực khan hiếm cần phải có sự quản lý như tài nguyên thiên nhiên hay quỹ đất quốc gia mới cần phải đánh thuế tài sản. Hàng hóa dịch vụ cũng là đối tượng của thuế bởi vì khi con người có nhu cầu mua bán trao đổi cũng có nghĩa là con người đã có khả năng về tài chính. Và như vậy họ có nghĩa vụ phải nộp vào ngân sách Nhà nước để góp phần vào sự hoạt động ổn định của bộ máy Nhà nước. Tuy nhiên thuế đánh vào hàng hoá dịch vụ không đơn thuần mang ý nghĩa tăng thu cho ngân sách Nhà nước mà thực ra thuế đánh vào hàng hoá dịch vụ nhằm tới mục đích sâu xa hơn là hướng dẫn tiêu dùng. Với những hàng hoá được khuyến khích tiêu dùng hoặc hàng hoá thiết yếu thì thuế suất sẽ là thấp hoặc có thể không đánh thuế, còn những hàng hoá không được Nhà nước khuyến khích tiêu dùng thì sẽ không được hưởng những ưu đãi về thuế mà thậm chí còn bị đánh một mức thuế rất cao. b. Căn cứ vào tính chất trực tiếp của việc thu thuế Căn cứ vào tính chất này có thuế trực thu và thuế gián thu. Có hai loại thuế được xem xét theo tiêu chí này, đó là thuế trực thu và thuế gián thu.
  12. Government Finance Thuế trực thu và thuế gián thu đều có tác động đến thu nhập của người chịu thuế53, nhưng cách tác động có khác nhau. Thuế trực thu đánh thẳng vào thu nhập của người chịu thuế, có nghĩa họ vừa là người nộp thuế vừa là người chịu thuế. Thuế gián thu đánh một cách gián tiếp vào thu nhập của người chịu thuế, bởi vì người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một (ví dụ như trong trường hợp thuế giá trị gia tăng). Hiện nay xu hướng chung của thuế là giảm dần tỷ trọng của thuế trực thu và tăng dần tỷ trọng thuế gián thu bởi vì cùng là một số lượng thuế nộp như nhau nhưng khi không phải trực tiếp rút tiền từ trong túi ra để nộp thì bao giờ người chịu thuế cũng thấy dễ chịu hơn. 2.Nội dung cơ bản của một luật thuế a. Mục đích của luật thuế Phần này nêu ra mục đích của luật thuế được ban hành. Mỗi luật thuế đều có một mục đích khác nhau. Phần mục đích của luật thuế được đặt ngay trong phần lời nói đầu nhằm tuyên truyền cho người chịu thuế và người nộp thuế hiểu được ý nghĩa của việc nộp thuế, cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Mục đích của luật thuế xuất phát từ chính nội dung, bản chất của luật thuế, cụ thể hơn là của đối tượng thu thuế. Thông thường các luật thuế thường nhằm tới những mục tiêu sau: ¾ Tăng thu cho ngân sách Nhà nước (mọi luật thuế) ¾ Hướng dẫn tiêu dùng (khuyến khích hoặc hạn chế tiêu dùng một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó) ¾ Quản lý việc sử dụng các nguồn lực có hạn một cách tiết kiệm và hiệu quả ¾ Được sử dụng như một công cụ để ưu đãi hoặc kiềm chế những đối tượng khác nhau Ví dụ thuế tài nguyên có mục đích nhằm hạn chế việc khai thác tài nguyên, chú trọng vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm. Hay như luật thuế tiêu thụ đặc biệt có mục đích hạn chế sử dụng những mặt hàng xa xỉ, không có lợi đối với xã hội. Cũng có những luật thuế có tác dụng khuyến khích ví dụ như thuế thu nhập cá nhân tạo ra sự công bằng cho xã hội hay thuế nhập khẩu nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nước. b. Đối tượng chịu thuế 54 và không thuộc diện chịu thuế Đối tượng chịu thuế là đối tượng chịu sự tác động của luật thuế. Đối tượng chịu thuế sẽ được quy định cụ thể trong nội dung luật thuế. Mỗi luật thuế có thể tác động vào một đối tượng chịu thuế riêng nhưng chúng có thể quy về các nhóm đối tượng chung, đó là thu nhập, tài sản hay là hàng hóa dịch vụ. Đối tượng không thuộc diện chịu thuế chính là những đối tượng có đặc điểm tương đồng với đối tượng chịu thuế theo quy định trong luật thuế nhưng thực ra lại không bị luật thuế điều chỉnh. Đây là trường hợp ưu đãi nhất trong một luật thuế. c. Người nộp thuế và người chịu thuế Người nộp thuế là người có nghĩa vụ kê khai nộp thuế cho cơ quan thuế. 53 Xem thêm phần người chịu thuế và người nộp thuế. 54 Hoặc có thể gọi là hàng hoá, dịch vụ chịu thuế trong trường hợp thuế hàng hoá - dịch vụ.
  13. Introductory Finance Người nộp thuế (Đối tượng nộp thuế) là người chịu trách nhiệm kê khai và nộp các khoản thuế cho cơ quan thuế khi đến kỳ. Người nộp thuế chưa chắc là người có đối tượng chịu thuế nhưng là người có nghĩa vụ phải nộp thuế đánh vào đối tượng chịu thuế đó. Người chịu thuế là người bị giảm thu nhập thực tế. Đây mới là người thực sự phải chịu gánh nặng của thuế bởi vì người chịu thuế mới là người bị giảm thu nhập thực tế do tác động của thuế. Họ cũng là người sở hữu đối tượng chịu thuế. Đôi khi người nộp thuế và người chịu thuế là một, ví dụ như trong trường hợp thuế thu nhập cá nhân và trong trường hợp thuế trực thu nói chung. Nhưng cũng có lúc người nộp thuế và người chịu thuế khác nhau, ví dụ như trong trường hợp thuế gián thu đối với hàng hóa, dịch vụ. Lúc này người mua là người chịu thuế nhưng người bán lại là người nộp thuế. Cần phải hiểu rằng lúc này người bán chỉ thực hiện nghĩa vụ nộp hộ người mua bởi vì như vậy sẽ dễ dàng hơn nhiều cho công tác quản lý của Nhà nước. d. Căn cứ tính thuế Số thuế phải nộp= Số lượng đối tượng tính thuế x thuế suất Số thuế phải nộp sẽ căn cứ vào hai cơ sở, đó là số lượng đối tượng tính thuế và thuế suất. Số lượng đối tượng tính thuế được xác định dựa trên đơn vị tính thuế. Đơn vị tính thuế có thể là đơn vị đếm như cái, chiếc hoặc đơn vị đo lường như kg, tấn, litre, km2 hoặc cũng có thể là giá trị. Số lượng đơn vị tính thuế trong trường hợp đơn vị tính thuế được đo bằng giá trị thì xuất hiện một khái niệm mới, đó là giá tính thuế đơn vị. Giá tính thuế đơn vị đối với mỗi loại đối tượng tính thuế lại được xác định khác nhau: ¾ Trong trường hợp thuế nhập khẩu thì giá tính thuế đơn vị là giá tại cửa khẩu. ¾ Trong trường hợp thuế chuyển quyền sử dụng đất thì giá tính thuế đơn vị là giá đất theo khung giá do Nhà nước quy định. ¾ Trong trường hợp thuế GTGT và thuế tiêu thụ đặc biệt giá tính thuế đơn vị là giá bán chưa có thuế. Đặc biệt, trong một số trường hợp Nhà nước quy định cụ thể mức giá tính thuế đơn vị để tránh trường hợp hai bên móc ngoặc với nhau hạ giá nhằm trốn thuế. Ví dụ như trong hợp đồng mua bán quốc tế nếu không thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng thì Nhà nước có thể xem xét áp dụng mức giá tối thiểu nếu như giá ghi trong hợp đồng thấp hơn giá thị trường cùng thời điểm. Hoặc như trường hợp giá tính thuế trong trường hợp chuyển quyền sử dụng đất cũng là giá do Nhà nước quy định55 Thuế suất là số tiền thuế phải nộp trên một đơn vị tính thuế. Tỷ lệ thuế suất thường được tính theo phần trăm hoặc phần ngàn. Có ba loại thuế suất chủ yếu như sau: ¾ Thuế suất lũy tiến từng phần: Thuế suất được tính tăng lên từng phần theo bậc thuế tương ứng, điển hình nhất là trong trường hợp thuế thu nhập cá nhân. Ở Việt nam và các nước trên thế giới, còn có một loại thuế suất lũy tiến toàn phần nhưng nói 55 Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất được QH thông qua ngày 22-6-1994
  14. Government Finance chung loại thuế suất này không được áp dụng bởi vì nó triệt tiêu mong muốn tăng thu nhập của người chịu thuế, có thể thấy điều này thông qua ví dụ sau: Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân của Việt nam56 quy định mức thu nhập tối thiểu chịu thuế thu nhập cá nhân là 3 triệu đồng, như vậy kể từ đồng thu nhập thứ 3 triệu trở đi người có thu nhập bắt đầu nộp thuế 10%. Từ mức 6 đến 9 triệu đồng người có thu nhập sẽ phải chịu thuế là 20%. Giả sử một người có thu nhập là 2.800.000 đồng, 3.200.000 đồng và 6.600.000 đồng thì theo hai cách tính thuế thu nhập cá nhân người này sẽ phải nộp số tiền tương ứng như sau: Thu nhập Luỹ tiến toàn phần Luỹ tiến từng phần 2800 0 0 3200 320 20 (=3000x0 + 200x0.1) 6600 660 420 (= 3000x0 + 3000x0.1 + 600x0.2) Như vậy, đối với thuế suất luỹ tiến toàn phần, nếu người nào có thu nhập ở mức cao hơn sẽ phải nộp thuế với thuế suất cao hơn cho cả phần thu nhập đáng lẽ chỉ phải chịu mức thấp hơn. Đó là chưa kể thu nhập thực tế còn ít hơn so với mức thuế suất thấp hơn (3200 – 320 = 2880, < 3000) Điều này rõ ràng không hợp lý và có thể làm cho người nộp thuế nảy sinh tâm lý không muốn tăng thu nhập hoặc dẫn họ tới tình trạng trốn lậu thuế thu nhập bằng cách gian lận. ¾ Thuế suất cố định có đơn vị tính thuế theo giá trị: Là thuế suất tính theo tỷ lệ so với giá trị đơn vị tính thuế, với mọi mức giá trị tỷ lệ thuế suất là không thay đổi. ¾ Thuế suất cố định có đơn vị tính thuế không theo giá trị: Lúc này không cần quan tâm tới mức giá trị của đơn vị tính thuế, thuế suất loại này quy định rõ cần phải nộp một mức cố định là bao nhiêu. e. Chế độ ưu đãi về thuế Các chế độ ưu đãi về thuế lần lượt có: Không thuộc diện chịu thuế, thuế suất bằng 0, thuế suất thấp, miễn giảm thuế. Không thuộc diện chịu thuế, như đã nói ở trên, là hình thức ưu đãi cao nhất bởi vì người sở hữu đối tượng này hoàn toàn không phải là đối tượng điều chỉnh của luật thuế Thuế suất bằng 0 57 là hình thức ưu đãi nhiều thứ hai bởi vì mặc dù là đối tượng điều chỉnh của luật thuế nhưng lúc này người chịu thuế không phải nộp thuế. Điểm hạn chế hơn so với loại ưu đãi trên là nhóm đối tượng này vẫn cần phải được làm thủ tục kê khai nộp thuế. Thuế suất thấp là hình thức thứ ba, bởi vì người chịu thuế đương nhiên sẽ được hưởng một mức thuế suất thấp hơn thông thường mà không cần phải làm các thủ tục xin xét duyệt Miễn giảm thuế là hình thức ưu đãi thấp nhất bởi vì muốn được miễn giảm một phần số thuế phải nộp thì người chịu thuế phải làm các thủ tục xin miễn giảm thuế và phải chờ đợi kết quả xét duyệt.58 Bên cạnh đó, việc miễn giảm thuế thường chỉ có hiệu lực trong một thời gian ngắn. 56 Pháp lệnh 35-2001/PL ngày 19-5-2001 về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. 57 Còn gọi là thuế suất 0, được áp dụng trong thuế GTGT. 58 Trừ trường hợp đặc biệt, khi mà người nộp thuế không quan tâm đến thời hạn hiệu lực của việc miễn giảm, khi đó miễn giảm thuế tỏ ra có lợi hơn so với thuế suất thấp.
  15. Introductory Finance 3.Nguyên tắc đánh thuế Đánh thuế có mục đích chính là tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thế nhưng không phải là muốn đánh thuế như thế nào cũng được bởi vì ngoài mục đích trên, thuế còn có nhiều mục đích khác như điều tiết kinh tế xã hội, góp phần phát triển, đảm bảo sự công bằng Chính vì vậy nên việc đánh thuế cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm đạt được tính tối ưu của việc thu thuế. Kết quả cuối cùng của việc thu thuế phải đạt được những yêu cầu sau: ¾ Đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách Nhà nước ¾ Đảm bảo được sự công bằng trong thu thuế ¾ Điều tiết việc sử dụng nguồn lực khan hiếm một cách hiệu quả ¾ Giảm tối đa chi phí hành thu phát sinh, giảm lãng phí do thu thuế. Để thực hiện được những tiêu chuẩn trên đây, việc đánh thuế phải tuân theo những nguyên tắc sau: a. Nguyên tắc công bằng Người nào có khả năng nộp thuế cao hơn thì phải nộp nhiều hơn. Người nào hưởng nhiều sản phẩm xã hội hơn thì phải nộp nhiều hơn. Đánh thuế công bằng có thể dựa trên một số tiêu chí. Hai tiêu chí dưới đây thường được sử dụng nhất. ¾ Đánh thuế theo khả năng đóng góp: Người có khả năng đóng góp cao hơn thì phải nộp nhiều thuế hơn. Để xác định khả năng đóng góp lại có thể dựa trên mức thu nhập của người chịu thuế hoặc mức tiêu dùng của người chịu thuế. Ví dụ rõ nhất là trường hợp đóng thuế thu nhập cá nhân. Người nào thu nhập càng cao thì càng phải nộp nhiều theo nguyên tắc thuế lũy tiến từng phần. ¾ Đánh thuế theo mức được hưởng từ chi tiêu của Nhà nước: Có nghĩa là người càng được hưởng lợi từ chi tiêu của Nhà nước thì càng phải đóng nhiều cho Nhà nước. Ví dụ như người sở hữu nhà ở nông thôn sẽ được hưởng ít lợi ích hơn so với người ở thành phố nên thuế nhà đất phải nộp cũng ít hơn. b. Nguyên tắc trung lập Nhà nước đóng vai trò trung lập trong việc thu thuế, giảm tối thiểu những trường hợp ưu đãi về thuế. Nhà nước cố gắng càng tỏ ra không thiên vị càng tốt trong việc thu thuế, tiến tới cắt giảm hoàn toàn các ưu đãi về thuế. Đó là ý nghĩa của nguyên tắc trung lập. Thế nhưng cho tới nay thì nguyên tắc trung lập vẫn chỉ là một cái đích để hướng tới bởi vì vẫn còn rất nhiều nơi, nhiều ngành nghề cần tới sự ưu đãi trong chính sách thuế của Nhà nước, cũng như còn nhiều loại hình hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước thấy cần phải điều tiết một cách chặt chẽ. c. Nguyên tắc đơn giản, rõ ràng, ổn định Đơn giản: Việc thu thuế, nộp thuế dễ hiểu, dễ vận dụng . Rõ ràng: Hai bên chỉ có thể hiểu theo một nghĩa duy nhất, tránh khiếu nại, kiện cáo. Ổn định: Hệ thống thuế phải đạt được sự ổn định trong một khoảng thời gian nhất định.
  16. Government Finance Nguyên tắc này được thể hiện rõ ràng trong ba ý của nó. Đơn giản có nghĩa là các quy tắc, quy định về nộp thuế trong luật thuế phải dễ hiểu và dễ vận dụng. Rõ ràng có nghĩa là các từ ngữ trong luật thuế chỉ có thể hiểu theo một nghĩa duy nhất, tránh các khiếu nại, kiện cáo, gây khó dễ cho công tác hành thu vì hiểu không thống nhất về từ ngữ. Còn ổn định là các quy định về thuế phải được giữ ổn định trong một khoảng thời gian nào đó đủ để tạo ra sự an tâm cho các nhà đầu tư cũng như những người chịu thuế. Bởi vì một khi môi trường pháp lý không ổn định thì các nhà kinh doanh sẽ không thể đề ra cho mình một chiến lược kinh doanh dài hạn, như vậy cũng có nghĩa là không tạo được sự yên tâm làm ăn. XI.Chi ngân sách Nhà nước Cùng tồn tại song song với thu ngân sách Nhà nước là hoạt động chi tiêu của ngân sách Nhà nước. Một đặc điểm nổi bật của hoạt động chi ngân sách Nhà nước là nó đòi hỏi phải đạt được tính tối ưu, bởi vì chi ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào thu ngân sách Nhà nước. Nếu như nguồn thu kém mà chi ngân sách Nhà nước quá lớn thì sẽ dẫn đến tình trạng bội chi, từ đó dẫn đến nhiều bất ổn trong nền kinh tế. Nhưng nếu thu lớn mà chi không nhiều cũng dẫn đến tình trạng sử dụng vốn ngân sách không hiệu quả, đó cũng làm cho nền kinh tế không phát huy được hết tiềm năng nội tại của mình. 1.Phân loại chi ngân sách Nhà nước Có nhiều khoản mục trong chi tiêu của ngân sách Nhà nước, theo một số tiêu chí dưới đây có thể phân loại hoạt động chi ngân sách Nhà nước. a. Căn cứ vào thời hạn tác động của khoản chi Theo căn cứ này có hai loại khoản chi, đó là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển ¾ Chi thường xuyên là những khoản chi có tính chất liên tục và có kế hoạch định trước. ¾ Chi đầu tư phát triển là những khoản chi có tính chất vụ việc, không có tính thường xuyên nhằm mục đích đầu tư phát triển một lĩnh vực hoặc một ngành nghề cụ thể. Ngoài ra còn có một tỷ lệ nhỏ được dành cho chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính và chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay. b. Căn cứ vào mục đích chi theo hê thống ngành kinh tế quốc dân Có các khoản chi được liệt kê theo danh mục 20 ngành KTQD cấp I59, và dưới đó là các ngành kinh tế quốc dân cấp II, cấp III và cấp IV c. Căn cứ vào cơ quan lập, thực hiện, dự toán, quyết toán Căn cứ theo cơ quan thì chi ngân sách Nhà nước được phân theo các Bộ, ngành. Mỗi Bộ, Ngành và địa phương sẽ chịu trách nhiệm về khoản chi do mình phụ trách, sẽ tính toán nhu cầu và khả năng thực tế tại địa phương rồi trình lên cơ quan quản lý cấp trên để lập dự toán chi ngân sách Nhà nước trình ra Quốc hội phê duyệt. 59 Căn cứ vào nghị định số 75-CP ngày 27/10/1993
  17. Introductory Finance 2.Nguyên tắc chi Chi ngân sách Nhà nước cũng đòi hỏi phải thỏa mãn những yêu cầu nhất định, bởi vì nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước là có hạn nên phải tính toán sao cho việc chi tiêu đạt được yêu cầu tối ưu. Xuất phát từ quan điểm này nên có hai nguyên tắc chính trong chi tiêu ngân sách Nhà nước như sau: a. Nguyên tắc chi phải căn cứ trên cơ sở của thu Nếu như chi ngân sách Nhà nước không dựa trên cơ sở thu thì tất nhiên sẽ dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước. Và như đã phân tích, bội chi ngân sách Nhà nước có những hậu quả lớn về mặt kinh tế, tài chính nếu như nó vượt ra khỏi vòng kiểm soát. Và như vậy nên chi ngân sách Nhà nước phải căn cứ trên cơ sở của thu ngân sách Nhà nước. b. Nguyên tắc đảm bảo chi tiêu có hiệu quả Nội dung của nguyên tắc này là chi ngân sách Nhà nước phải đạt được yêu cầu có hiệu quả. Muốn chi tiêu có hiệu quả thì Nhà nước cần phải xác định được mức độ thành công của việc sử dụng vốn ngân sách Nhà nước sau khi được cấp phát. Nếu như thấy có khả năng vốn cấp phát sẽ không được sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích thì sẽ dừng tạm thời hoặc dừng hẳn việc cấp vốn ngân sách Nhà nước. Chỉ đến khi nào nơi nhận ngân sách Nhà nước đáp ứng được các yêu cầu về việc sử dụng vốn có hiệu quả thì lúc này mới tiếp tục cấp vốn. c. Nguyên tắc chi có trọng tâm, trọng điểm Có nghĩa là chi ngân sách Nhà nước phải có những điểm nhấn, đầu tư theo chiều sâu và ưu tiên vào những nơi thực sự cần tới nguồn chi từ ngân sách Nhà nước hơn những nơi khác. Không những chi tiêu của ngân sách Nhà nước đòi hỏi tính hiệu quả, mà để đạt được yêu cầu tối ưu trong chi tiêu, cần phải thỏa mãn thêm một nguyên tắc nữa, đó là nguyên tắc chi có trọng tâm, trọng điểm. Vốn từ ngân sách Nhà nước sẽ được ưu tiên cho những nơi thực sự cần và phải được đầu tư một cách có chiều sâu chứ không chỉ cấp phát tràn lan trên diện rộng, gây ra lãng phí không cần thiết. 3.Cân đối ngân sách Nhà nước Đây là một nội dung quan trọng của ngân sách Nhà nước. Nội dung cân đối ngân sách Nhà nước được thể hiện như sau: Thu thường xuyên phải lớn hơn chi thường xuyên và ngày càng có tích luỹ. Từ nội dung này chúng ta có thể thấy được ý nghĩa của cân đối ngân sách Nhà nước, đó là việc đảm bảo cho ngân sách Nhà nước có được nguồn chi tiêu ổn định, không những thế còn phải có thêm được những khoản nhất định dành cho tích luỹ để phát triển, đặc biệt là với những quốc gia còn kém phát triển như ở nước ta. Nếu như để phát sinh bội chi, thì số lượng vay nợ để bù đắp bội chi không được phép vượt quá số tiền dành cho chi đầu tư phát triển, cũng có nghĩa là nếu phát sinh bội chi thì không được phép sử dụng tiền vay nợ bù đắp bội chi vào mục đích chi dùng thường xuyên. Nếu sử dụng tiền vay nợ vào chi dùng thường xuyên thì khả năng xảy ra phá sản quốc gia là rất lớn.