Đề cương bài giảng tham khảo Lý thuyết tài chính - Chương VI: Tài chính doanh nghiệp
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương bài giảng tham khảo Lý thuyết tài chính - Chương VI: Tài chính doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- de_cuong_bai_giang_tham_khao_ly_thuyet_tai_chinh_chuong_vi_t.pdf
Nội dung text: Đề cương bài giảng tham khảo Lý thuyết tài chính - Chương VI: Tài chính doanh nghiệp
- Chương VI: Tài chính doanh nghiệp ài chính doanh nghiệp là gì: Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ tài chính thuộc phạm vi của một doanh nghiệp, nó có thể là các quan hệ tài chính trong T nội bộ doanh nghiệp, cũng có thể là mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các chủ thể khác trong nền kinh tế. Như vậy có thể nhận thấy tài chính doanh nghiệp là sự tổng hoà của các loại quan hệ tài chính, trong tài chính doanh nghiệp cũng có quan hệ tín dụng, quan hệ bảo hiểm, quan hệ ngân sách Nhà nước và cũng có cả mối quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp. Như vậy có thể thấy điểm khác biệt của chương này so với các chương khác trong nội dung nghiên cứu của môn lý thuyết tài chính là trong khi nghiên cứu tài chính doanh nghiệp, đối tượng nghiên cứu không là một loại quan hệ tài chính cụ thể mà cái được nghiên cứu ở đây là sự vận dụng các mối quan hệ đó như thế nào trong phạm vi một doanh nghiệp để đạt được những mục tiêu của doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Ngay trong tên của chương cũng cho thấy được tính khác biệt về mục đích nghiên cứu. Nếu như trong các chương khác thì tên chương được đặt theo loại hình quan hệ tài chính, ví dụ như bảo hiểm, ngân sách Nhà nước hay tín dụng thì tên của chương này lại được đặt theo chủ thể của mối quan hệ, mà cụ thể ở đây là doanh nghiệp I.Vai trò của tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp có hai vai trò cơ bản 1.Đảm bảo nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp Đây là vai trò đầu tiên, có ý nghĩa căn bản đối với sự tồn tại của doanh nghiệp trong thời gian đầu bởi vì để khởi lập, bao giờ điều đầu tiên một doanh nghiệp quan tâm cũng phải là nguồn vốn kinh doanh.91 Nếu một doanh nghiệp không có được sự đảm bảo về vốn kinh doanh từ phía hoạt động tài chính doanh nghiệp thì nguy cơ hoạt động kém hiệu quả và khả năng phá sản luôn luôn thường trực và có thể dẫn tới sự suy giảm trong hiệu suất, thậm chí là không thể hoạt động nổi của doanh nghiệp. Nguồn vốn kinh doanh có thể được huy động thông qua nhiều kênh, nhưng chủ yếu thường là những kênh như vay vốn ngân hàng, huy động vốn từ các kênh dẫn vốn trực tiếp như phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu hoặc ví dụ như thực hiện các hoạt động tín dụng thương mại từ phía cả người cung cấp lẫn người mua hàng. Ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể thực hiện vay vốn từ những nguồn khác như từ các tổ chức tín dụng trung gian, mà vẫn hay gọi là các trung gian tài chính như ngân hàng, quỹ tiết kiệm, quỹ hưu trí Trong số những kênh dẫn vốn này thì kênh dẫn vốn gián tiếp lại có vai trò quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong số vốn doanh nghiệp huy động được. Để thực hiện được vai trò này thì tài chính đã phát huy chức năng phân phối thông qua các kênh dẫn vốn như vừa liệt kê ở trên. 2.Tăng cường hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 91 Ở phần sau sẽ nghiên cứu sâu hơn về nguồn vốn kinh doanh nhưng thậm chí không cần nghiên cứu về kinh tế thì cũng có thể hiểu rằng vốn kinh doanh cần thiết tới mức nào.
- Credit Mặc dù đây không phải là vai trò đầu tiên quyết định sự ra đời của tài chính doanh nghiệp nhưng cùng với quá trình phát triển của một doanh nghiệp cũng như sự phát triển nói chung của nền kinh tế thì vai trò này càng ngày càng tỏ ra có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Phải cần tới sự quản lý giám sát của các hoạt động giám sát tài chính, doanh nghiệp mới có thể tạo ra tính hiệu quả trong kinh doanh, bằng cách đó lại tạo ra một sự tin tưởng từ phía các nhà đầu tư, các thành viên trong doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng huy động được vốn vay trong trường hợp cần thiết. Thực tế đã chứng minh rằng một doanh nghiệp muốn hoạt động hiệu quả thì không thế thiếu được nguồn vốn kinh doanh huy động từ bên ngoài, mà tiêu chí để một doanh nghiệp có được xét cho vay hay không thông thường lại được thẩm định ngay từ việc xét tới tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Vì vậy có thể nói hiện nay vai trò ra đời sau này mới là quan trọng nhất đối với tài chính doanh nghiệp. Với việc thực hiện chức năng giám sát của mình, tài chính đã làm cho vai trò này được thực hiện dễ dàng hơn thông qua một hệ thống các chỉ số tài chính, cùng với việc giám sát tình hình kinh doanh thông qua hệ thống chỉ số đó. II.Phân loại tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp 92 Sở dĩ phải phân loại tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp bởi vì trong thực tế tài sản và nguồn vốn được coi là hai mặt của một vấn đề. Vốn của doanh nghiệp chính là sự thể hiện của tài sản về mặt giá trị. Để việc quản lý tài sản được dễ dàng hơn, thông thường việc quản lý này sẽ được thực hiện dưới dạng tiền tệ, tức là quản lý vốn. Và việc phân loại nguồn vốn (tức là nguồn để doanh nghiệp có các loại tài sản) thực ra cũng là để nhằm quản lý tài sản cho hợp lý. Trước khi thực sự đi vào phân loại tài sản và nguồn vốn cần xây dựng khái niệm cho tài sản và nguồn vốn dưới góc độ nghiên cứu của tài chính. Tài sản : Là bất cứ những gì doanh nghiệp kiểm soát được và doanh nghiệp dự tính sẽ đem lại lợi ích về mặt kinh tế cho doanh nghiệp. Vốn : Là khối lượng giá trị của những tài sản doanh nghiệp sở hữu Như vậy giả sử doanh nghiệp có một hệ thống dây chuyền máy móc trị giá là 35,000 euro thì hệ thống dây chuyền đó là tài sản của doanh nghiệp còn lượng giá trị 35,000 euro đó chính là nguồn vốn của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa tài sản và vốn được biểu hiện thông qua những ý sau: 9 Tài sản chính là sự thể hiện bề ngoài của vốn còn vốn lại là sự thể hiện của tài sản dưới dạng giá trị. 9 Trong hoạt động thông thường của doanh nghiệp, dù cho mục đích chính luôn là quản lý tài sản, nhưng vì muốn quản lý dễ dàng và hiệu quả thì công việc này phải được thực hiện dưới dạng quản lý theo giá trị. Vì vậy mặc dù quản lý tài sản nhưng thực ra được thực hiện thông qua quản lý nguồn vốn. Trong thực tế sản xuất kinh doanh có hai loại báo cáo tài chính (Financial Statement) có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động quản lý và giám sát đối với tài chính doanh nghiệp, đó là 92 Việc xem xét một hoạt động tài chính của doanh nghiệp sẽ đem lại những thay đổi như thế nào về tài sản và nguồn vốn phụ thuộc vào chế độ kế toán tài chính của từng quốc gia, ở đây các phương thức ghi chép và định khoản đều được lấy theo chuẩn mực kế toán của Việt nam. 77 Bài giảng tham khảo
- Introductory Finance bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả kinh doanh.93 Thông qua cơ cấu của hai bảng này có thể thấy được cả cơ cấu tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp. Và nếu như có khả năng phân tích những bảng báo cáo tài chính này thì có thể nhìn ra được những gì mà doanh nghiệp đã và chưa làm được trong kỳ báo cáo, phân tích nguyên nhân và tìm ra giải pháp khắc phục. Đối với việc quản lý tài sản và nguồn vốn thì việc phân tích cả hai loại bảng trên đều rất quan trọng. Nhưng để hiểu cơ cấu của tài sản và nguồn vốn thì sẽ tập trung vào phân tích bảng cân đối kế toán vì trong bảng này cơ cấu của tài sản và nguồn vốn được thể hiện rất rõ ràng. 1.Phân loại tài sản a. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Tài sản lưu động là loại tài sản chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vòng quay của tài sản lưu động là một vòng khép kín trong một chu kỳ kinh doanh. Vòng quay đó được thể hiện như sau:94 Tiền Các khoản phải thu Nguyên vật liệu Thành phẩm Bán thành phẩm Đối với tài sản lưu động, một vấn đề phải quan tâm tới là tính lỏng của nó, bởi vì tính lỏng của tài sản biểu thị khả năng nhanh chóng chuyển đổi ra tiền mà không làm mất đi giá trị của tài sản. Tài sản có tính lỏng càng cao thì càng dễ chuyển sang tiền, có nghĩa là nhanh chóng tạo ra nguồn vốn cho doanh nghiệp. Tất nhiên tiền sẽ là tài sản có tính lỏng cao nhất. Thứ tự sắp xếp giảm dần tính lỏng của tài sản như sau: Tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, tồn kho. Các loại tài sản lưu động thuộc vào nhóm tài sản có tính lỏng cao nhất, vì vậy còn có thể gọi nhóm này là tài sản có tính lỏng 9 Tiền : Có ba hình thức tồn tại của tài sản dưới dạng tiền, đó là: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển. 93 Mẫu số B01-DN (Bảng cân đối kế toán) và B02-DN (Báo cáo kết quả kinh doanh), nằm trong hệ thống bốn loại báo cáo tài chính một doanh nghiệp phải có (còn có mẫu số B03-DN: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và mẫu số B09-DN: Thuyết minh báo cáo tài chính) 94 Trong vòng quay này cần lưu ý một điểm là với doanh nghiệp thương mại, sẽ không có thành phẩm và bán thành phẩm mà thay vào đó là hàng hoá rồi đến ngay các khoản phải thu. Bài giảng tham khả o 78
- Credit Tiền mặt ở đây được hiểu là lượng tiền mặt được giữ trong quỹ tại doanh nghiệp, lượng tiền này chủ yếu được phục vụ các giao dịch với số lượng không nhiều, nhằm mục đích thanh toán ngay trong phương thức thanh toán bằng tiền mặt. Tiền gửi ngân hàng là một loại tiền khác, loại tiền này được sử dụng để phục vụ cho mục đích thanh toán nhưng không trực tiếp bằng tiền mặt. Những hình thức thanh toán này thường là thông qua dạng dịch vụ do ngân hàng cung cấp, ví dụ như chuyển tiền, chuyển khoản hay là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ. Ngoài ra còn có một loại tiền khác, nó không phải là tiền mặt thực có trong quỹ của doanh nghiệp, cũng không còn là tiền ngân hàng nữa bởi vì nó đã được trích ra từ ngân hàng để chuyển đi thanh toán nhưng chưa đến nơi, cũng có thể nó là tiền từ nơi khác chuyển đến nhưng doanh nghiệp cũng chưa nhận được. Vì thế loại tiền này được gọi là tiền đang chuyển .95 Vì tiền là loại tài sản dùng để thanh toán cho nên việc nghiên cứu tiền của doanh nghiệp như thế nào sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể đánh giá được chính xác khả năng trả nợ nhanh và có kế hoạch sử dụng lượng tiền hiện có một cách hợp lý nhất. 9 Các khoản phải thu Bên cạnh tiền, doanh nghiệp cũng còn nhiều loại tài sản lưu động khác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình, ví dụ như các khoản phải thu. Sau khi sử dụng tiền để tiến hành sản xuất hoặc kinh doanh, thông thường doanh nghiệp sẽ bán hàng hoặc tiến hành cung cấp dịch vụ để thu tiền về, và như vậy là kết thúc một chu trình kinh doanh . Nhưng không phải cứ bán hàng ra là thu được tiền về ngay bởi vì trong thực tế còn nhiều loại quan hệ giữa người bán và người mua đòi hỏi có một sự chấp nhận và hợp tác lẫn nhau, nếu như người mua không có đủ tiền để trả ngay thì người bán sẽ cấp tín dụng thương mại, có nghĩa là cho người mua trả chậm, thông thường cách này vẫn được gọi là mua bán chịu. Tất nhiên, với việc mua bán chịu như vậy thì vốn của bên bán, tức là tiền hàng, sẽ bị đọng lại ở bên mua. Vì thế có một loại tài sản mới phát sinh, đó là các khoản phải thu. cụ thể ở đây có khoản phải thu của khách hàng. Ngoài ra, các khoản phải thu còn có khoản trả trước cho người bán, phải thu nội bộ và các khoản phải thu khác. Khoản trả trước cho người bán xuất hiện khi bên mua có nhu cầu ổn định về nguồn hàng hoặc muốn tạo điều kiện để người bán có điều kiện thuận lợi để sớm hoàn thành hợp đồng. Và như vậy cho đến khi hợp đồng chưa được hoàn tất thì khoản tín dụng cấp cho người bán đó vẫn còn được coi là một khoản phải thu. Khoản ứng trước cho người bán đặc biệt thường xuất hiện trong hợp đồng mua bán máy móc thiết bị vì loại hợp đồng này có giá trị lớn, nếu người mua không thực hiện sẽ làm cho người sản xuất bị thiệt hại rất lớn, vì vậy một khoản tiền trả trước được coi như là khoản đặt cọc đảm bảo thực hiện hợp đồng từ phía bên mua hàng. Đây cũng là một hình thức tín dụng thương mại đã được nhắc tới ở phần trên. Với các khoản phải thu nội bộ thì một đặc điểm của doanh nghiệp có xuất hiện loại khoản phải thu này là phải có nhiều cấp, và các khoản phải thu này bắt nguồn từ việc 95 Thẻ tín dụng và thẻ thanh toán cũng thuộc nhóm tiền đang chuyển này. 79 Bài giảng tham khảo
- Introductory Finance cấp trên bỏ tiền ra chi hộ cấp dưới và sau đó yêu cầu cấp dưới phải hoàn trả hoặc là giữa các đơn vị khác cấp chi hộ nhau. Cũng có thể đó là khoản phải thu mà một đơn vị dự tính sẽ nhận được từ một đơn vị khác thuộc cùng nội bộ một doanh nghiệp. Và như vậy trong nội bộ của một doanh nghiệp liên hợp cũng sẽ xuất hiện nhiều dạng phải thu. Các khoản phải thu khác xuất hiện từ một nguồn thường là không ổn định, tất nhiên là không nằm vào một trong những loại phải thu ở trên. Nó có thể là phải thu do hoàn thuế, phải thu lãi suất gửi ngân hàng Đối với các khoản phải thu, doanh nghiệp cũng cần có kế hoạch theo dõi cụ thể và có phương án thích ứng để kịp thời thu được vốn về một cách hợp lý nhất. Tuy nhiên không phải lúc nào tất cả các khoản phải thu đều được bù đắp đầy đủ, vì thế cho nên doanh nghiệp phải để dành một khoản nhất định gọi là dự phòng phải thu khó đòi. Trong trường hợp không đòi được từ các khoản phải thu khó đòi thì lượng tiền từ quỹ dự phòng phải thu khó đòi sẽ được đem ra sử dụng để bù đắp.96 9 Hàng tồn kho Khi nói tới tài sản lưu động, những người không nghiên cứu về kinh tế nói chung thường nghĩ rằng hàng tồn kho chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp, nhưng thực ra hàng tồn kho chỉ là một bộ phận nhỏ trong số tài sản lưu động của một doanh nghiệp. Hàng tồn kho cũng được chia thành nhiều loại gồm: ¾ Tài sản lưu động trong giai đoạn chờ tiến hành sản xuất Bao gồm hàng mua đang đi đường, nguyên vật liệu đã nhập kho và công cụ dụng cụ sản xuất đang trong kho. ¾ Nguyên vật liệu và bán thành phẩm đang trong quá trình sản xuất 97 Không chỉ bao gồm bán thành phẩm, ở đây cần phải tính tới cả chi phí kinh doanh dở dang chưa hoàn tất, mà đã nói đến chi phí tức là bao gồm cả những khoản tiền phải trả như chi phí nhân công, chi phí nhà xưởng chứ không chỉ có giá trị của bán thành phẩm được đưa vào sản xuất. ¾ Thành phẩm đang chờ tiêu thụ Trong khâu cuối cùng này có thành phẩm đang chờ tiêu thụ. Thành phẩm có nghĩa là chỉ doanh nghiệp sản xuất mới có bởi vì trong doanh nghiệp thương mại thành phẩm và bán thành phẩm được gộp chung thành hàng hoá. ¾ Ngoài ra còn có hàng hoá chờ tiêu thụ, nói tới hàng hoá có nghĩa là thành phẩm lúc này đã trở thành vật trao đổi mua bán trên thị trường và đã sẵn sàng để sử dụng. Với các công ty thương mại thì chỉ có hàng hoá tồn kho chứ không có sản phẩm tồn kho vì những công ty loại này không sản xuất. 96 Tất cả các khoản dự phòng đều là những khoản chi phí phải bỏ ra, vì vậy trong bảng cân đối kế toán nó phải được ghi trong ngoặc đơn thể hiện giá trị âm. 97 Còn được gọi là chi phí sản xuất dở dang. Bài giảng tham khả o 80
- Credit ¾ Cuối cùng là các loại hàng tồn kho khác ví dụ như hàng ký gửi hoặc đại lý nhưng chưa bán được. ¾ Đối với hàng tồn kho doanh nghiệp cũng có một mối quan tâm, đó là trường hợp hàng tồn kho bị giảm giá . Sự giảm giá của hàng tồn kho cũng có hai loại, đó là giảm giá hữu hình tức là tài sản thực sự bị giảm giá do chất lượng giảm đi và thứ hai là giảm giá vô hình do sự tiến bộ về khoa học công nghệ. Thường thì sự giảm giá vô hình sẽ không có tác động quá lớn và quá đột ngột đối với một doanh nghiệp nhưng để tránh những thiệt hại bất ngờ do sự giảm giá này và sự giảm giá hữu hình gây ra doanh nghiệp cũng cần phải có một quỹ dự phòng giảm giá hàng tồn kho trong những trường hợp đặc biệt. 9 Đầu tư tài chính ngắn hạn 98 Đầu tư tài chính được hiểu là việc doanh nghiệp sử dụng một lượng vốn nhất định để sử dụng vào các mục đích kinh doanh tài chính khác bên cạnh lĩnh vực kinh doanh chính, chủ yếu là nhằm tránh sự lãng phí và ứ đọng vốn. Tại đây, cần phải tách ra nghiên cứu loại hình đầu tư tài chính ngắn hạn riêng đối với doanh nghiệp phi tài chính vì thu nhập từ hoạt động đầu tư tài chính sẽ không được tính vào doanh thu, còn các doanh nghiệp hoạt động tài chính thì nguồn thu từ các khoản đầu tư tài chính sẽ tính vào doanh thu. Có thể nhận định việc đầu tư tài chính nói chung của doanh nghiệp là nhằm những mục đích sau: ¾ Tận dụng khoản vốn tạm thời nhàn rỗi để tránh đọng vốn ¾ Đảm bảo sự an toàn về vốn, phân tán rủi ro khi tập trung vốn ở một nơi và đảm bảo đầy đủ khả năng thanh toán trong trường hợp cần thiết mà không phải dự trữ quá nhiều tiền tại quỹ. ¾ Tranh thủ những cơ hội có thể được để thu lợi từ việc đầu tư tài chính ¾ Thu lợi từ việc tham gia vào các liên doanh, liên kết hay hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các hình thức đầu tư tài chính tương đối đa dạng, nhưng nói chung có thể quy về các dạng như sau: ¾ Đầu tư chứng khoán ¾ Góp vốn để hình thành liên doanh liên kết ¾ Cho vay (Không được phép coi tín dụng thương mại là đầu tư tài chính mặc dù về bản chất thì tín dụng thương mại cũng là một sự đầu tư tài chính và thu về lãi, nhưng mục đích chính của tín dụng thương mại không phải là khoản lãi suất đó mà là tính hiệu quả của hợp đồng sản xuất kinh doanh giữa bên cấp và bên nhận khoản tín dụng đó, vì vậy tín dụng thương mại thường được quan tâm dưới dạng các khoản phải thu như đã đề cập đến ở trên). ¾ Kinh doanh mua bán ngoại tệ. Trong những hình thức nói trên thì phổ biến nhất là đầu tư tài chính dưới dạng mua bán chứng khoán. Tuy nhiên vì thị trường chứng khoán ở Việt nam chưa phát triển nên hình thức phổ biến ở Việt nam lại là đem đi gửi ngân hàng dưới dạng cho các tổ chức tín dụng vay. 98 Hình thức đầu tư tài chính này sẽ chỉ được xét đến ở những doanh nghiệp phi tài chính, đó là các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ nhưng không phải trong lĩnh vực tài chính. 81 Bài giảng tham khảo
- Introductory Finance Vậy có thể thấy đầu tư tài chính ngắn hạn là những tài sản đầu tư tài chính có thời hạn thu hồi vốn không quá một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Như vậy kể cả những loại đầu tư tài chính có thời hạn lâu năm nhưng tính đến thời hạn thu hồi vốn còn chưa tới một năm thì vẫn được coi là đầu tư tài chính ngắn hạn trong kỳ kế toán đó. Vì đầu tư tài chính cũng được coi là một loại tài sản nên cũng giống như các loại tài sản khác, nó cần phải được lập một quỹ dự phòng giảm giá đầu tư tài chính để đề phòng những rủi ro trong trường hợp đầu tư tài chính không thành công, đặc biệt cần thiết trong trường hợp đầu tư mua bán cổ phiếu. Ví dụ như trong trường hợp những tập đoàn lớn như Enron hay Worldcom sụp đổ thì cổ phiếu của các tập đoàn này sẽ sụt giá một cách cực kỳ nhanh chóng và các cổ phiếu sẽ trở thành giấy lộn chỉ sau một vài ngày. b. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn Tài sản cố định là những tài sản không chuyển hết vào sản phẩm của doanh nghiệp trong một chu kỳ kinh doanh hoặc một năm. Bên cạnh những khoản tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn hạn, doanh nghiệp nào cũng phải có những khoản tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Đối nghịch với tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn hạn, thời hạn khi xem xét một tài sản hoặc một khoản đầu tư tài chính có phải là dài hạn hay không sẽ phải lớn hơn một năm hoặc một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Về cách thức phân loại tài sản cố định thì có thể phân loại theo tiêu chí phổ biến nhất hiện đang được sử dụng, đó là Tài sản cố định hữu hình và Tài sản cố định vô hình Tài sản cố định hữu hình thì có thể dễ dàng nhận ra, đó là nhà xưởng, cơ sở vật chất nói chung hay là những loại máy móc thiết bị có thời hạn sử dụng lâu hơn một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh.99 Tài sản cố định vô hình là những loại tài sản cố định không có hình thái vật chất cụ thể, quan niệm tài sản cố định vô hình chỉ là để thể hiện một lượng giá trị lớn đã phải bỏ ra để có được nó. Tài sản cố định vô hình thường tồn tại dưới dạng chi phí, ví dụ như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí bản quyền tác giả, chi phí lợi thế kinh doanh hay chi phí nghiên cứu khoa học công nghệ. Đối với tài sản cố định, giá trị của nó không được chuyển thẳng vào sản phẩm ngay trong một chu kỳ kinh doanh mà nó sẽ được trích dần vào. Vì vậy xuất hiện một khái niệm mới, đó là khấu hao tài sản cố định . Việc khấu hao tài sản cố định như thế nào lại phụ thuộc vào mức độ chuyển giá trị tài sản cố định vào trong sản phẩm tại mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh là thế nào. Và thường khấu hao thường được tính theo thời hạn là năm. Khi hết thời hạn khấu hao, nếu tài sản vẫn còn giá trị sử dụng thì sẽ được đem ra thanh lý hoặc tiếp tục sử dụng nhưng lúc này không còn được tiếp tục tính khấu hao nữa.100 Còn nếu phân theo tiêu chí sở hữu của tài sản thì có thể phân thành hai loại, đó là tài sản do doanh nghiệp sở hữu và tài sản thuê ngoài. 99 Tiêu chí để xét một tài sản có phải là cố định hay không ở Việt nam là có thời hạn sử dụng lớn hơn một năm và có giá trị lớn hơn 5 triệu. Nếu thời hạn sử dụng lớn hơn một năm mà giá trị của tài sản không đạt tới 5 triệu thì nó được quản lý như tài sản lưu động dưới dạng công cụ, dụng cụ sản xuất. 100 Ở Việt nam, tài sản cố định được khấu hao phổ biển theo phương pháp đường thẳng, tức là mỗi năm đều trích ra một lượng chi phí nhất định giống nhau để bù đắp lượng giá trị ban đầu của tài sản cố định. Bài giảng tham khả o 82
- Credit 9 Tài sản do doanh nghiệp sở hữu101 Tài sản do doanh nghiệp sở hữu là những tài sản của doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp có toàn quyền định đoạt việc sử dụng hoặc quyền chuyển giao, nhượng bán tài sản này cho những đơn vị hoặc cá nhân khác. Cũng có những tài sản mà doanh nghiệp chỉ được quyền sử dụng chứ không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, ví dụ như tài sản của doanh nghiệp Nhà nước hoặc tài sản do doanh nghiệp đi thuê. Các quyền này có thể đi liền với nhau nhưng cũng có thể tách rời, khi nào doanh nghiệp thực sự nắm tài sản trong tay, được quyền sử dụng tài sản và có quyền định đoạt đối với tài sản thì lúc đó một tài sản mới được coi là tài sản do doanh nghiệp sở hữu. 9 Tài sản đi thuê bên ngoài102 Tài sản thuê ngoài cũng là một phần quan trọng trong cơ cấu tài sản của nhiều doanh nghiệp. Đặc biệt là với những doanh nghiệp sản xuất, việc sở hữu một dây chuyền máy móc thiết bị với giá trị cao là một điều tương đối khó khăn. Vì vậy giải pháp của các doanh nghiệp thường là thuê thiết bị, thuê văn phòng bên ngoài và đến kỳ thì sẽ trả tiền phí thuê mướn theo hợp đồng thuê mướn đã ký. Riêng với máy móc thiết bị thì còn tồn tại một hình thức thuê mướn đặc biệt, đó là thuê mua tài chính (leasing). Leasing có nghĩa là doanh nghiệp sẽ ký hợp đồng thuê máy móc thiết bị trong một thời hạn nhất định nào đó, khi hợp đồng đáo hạn hoặc doanh nghiệp sẽ mua lại số máy móc thiết bị đó hoặc doanh nghiệp sẽ tiếp tục ký hợp đồng thuê chính số máy móc thiết bị đó. Một hợp đồng thuê thiết bị muốn được coi là hợp đồng leasing thì phải thoả mãn những điều kiện sau: - Hợp đồng thuê phải được tiến hành trong một thời gian đủ dài, ít nhất là phải 60% thời hạn khấu hao của thiết bị được thuê, - Sau khi thuê, nếu trong trường hợp mua lại thì số tiền thuê mà bên mua đã trả ít nhất phải ngang bằng giá trị của thiết bị được thuê vào thời điểm ký kết hợp đồng thuê, - Sau khi kết thúc hợp đồng thuê bên thuê có thể mua lại hoặc tiếp tục ký hợp đồng thuê thiết bị, - Sau khi kết thúc hợp đồng thuê thì bên thuê được quyền mua lại thiết bị với giá mua danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của thiết bị vào thời điểm mua lại thiết bị đó. Hợp đồng thoả mãn đầy đủ cả bốn điều kiện trên sẽ được gọi là hợp đồng thuê tài chính. Thiết bị được thuê theo điều kiện này gọi là tài sản cố định thuê tài chính. Giả sử một hợp đồng không thoả mãn đầy đủ bốn điều kiện trên đây thì hợp đồng đó sẽ được xem là hợp đồng thuê thiết bị bình thường, thường gọi là hợp đồng thuê thiết bị hoạt động, và tài sản thuê đó được gọi là tài sản cố định thuê hoạt động. 101 Trong số các quyền theo quy định của pháp luật thì quyền sở hữu bao gồm ba quyền sau: ¾ Quyền chiếm hữu ¾ Quyền định đoạt ¾ Quyền sử dụng 102 Lưu ý rằng mặc dù tài sản cố định thuê tài chính không thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhưng vẫn được đưa vào bảng cân đối kế toán vì nó được quản lý và trích khấu hao như một tài sản do doanh nghiệp sở hữu. 83 Bài giảng tham khảo
- Introductory Finance Còn về các khoản đầu tư tài chính thì dễ hiểu hơn, cứ khoản đầu tư nào có thời hạn thu hồi lớn hơn một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh thì được coi là đầu tư tài chính dài hạn. Doanh nghiệp còn có một số loại tài sản khác mà không tính vào những loại tài sản ở trên, đó là chi phí xây dựng cơ bản dở dang và các khoản ký quỹ, ký cược. c. Chi sự nghiệp Chỉ có các doanh nghiệp được cấp phát kinh phí sự nghiệp thì mới có loại tài sản này. Điều kiện để được cấp phát kinh phí sự nghiệp của một doanh nghiệp là doanh nghiệp đó phải hoạt động không vì mục đích lợi nhuận và lượng kinh phí sự nghiệp được cấp đó phải được sử dụng theo đúng mục đích đã được cấp. Khi quyết toán cuối kỳ số tiền đã chi trong số kinh phí sự nghiệp được cấp phát sẽ được phản ánh vào mục này. Trên đây là toàn bộ phần tài sản trong một bảng cân đối kế toán, trong thực tế có thể có nhiều tiêu chí để phân loại tài sản khác nhưng chỉ nghiên cứu một chỉ tiêu cơ bản để hình dung được phương thức quản lý hiện nay đang được sử dụng phổ biến nhất. 2.Phân loại nguồn vốn Ở phía bên kia, đối trọng với nửa tài sản trong bảng cân đối kế toán là nửa nguồn vốn. Nửa nguồn vốn này cũng được chia làm hai phần, đó là phần nợ phải trả và phần nguồn vốn chủ sở hữu. Trong bảng cân đối kế toán có một yêu cầu quan trọng mà cần phải biết,đó là yêu cầu cân đối. Sở dĩ đòi hỏi phải có sự cân đối bởi vì đối với một doanh nghiệp, tài sản và nguồn vốn là hai mặt của một vấn đề, do vậy tài sản luôn phải cân đối với nguồn vốn, và trong từng phần lại đòi hỏi phải có sự cân đối tương ứng. a. Nợ phải trả Là số tiền không thuộc sở hữu của doanh nghiệp mà doanh nghiệp đang vay, thuê tài chính hoặc đang có quyền sử dụng một cách hợp pháp. Do đó doanh nghiệp có nghĩa vụ phải hoàn trả số tiền đó sau một thời hạn nhất định. Tương ứng với các khoản bên tài sản, nợ phải trả bao gồm những khoản sau: ¾ Khoản vay nợ : Đó là các khoản đi vay thông qua các hình thức tín dụng phổ biến như vay ngân hàng, vay từ các tổ chức tín dụng và các khoản vay nợ khác. Cần lưu ý rằng riêng đối với trường hợp tín dụng thương mại thì khoản phải trả của tín dụng thương mại sẽ được tính vào khoản phải trả ở mục sau. Nguyên nhân của cách tính này bắt nguồn từ việc tín dụng thương mại có tính chất giống một khoản phải trả-phải thu hơn là một khoản tín dụng vay nợ thông thường. Một khoản nợ phải trả lãi sẽ được coi là một khoản vay, vì vậy vay thuộc nợ. ¾ Khoản thuê tài chính: Khi ký kết một hợp đồng leasing, tất nhiên sẽ có một khoản phải trả phát sinh, đó là tiền thuê thiết bị, tuy nhiên vì tính chất đặc biệt của leasing nên phải tách riêng khoản tiền này ra để quản lý riêng, không gộp chung vào các khoản phải trả như thuê tài sản cố định hoạt động thông thường. ¾ Khoản phải trả: Đây là một khoản trong số các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp, nó bao gồm các khoản phải trả xuất phát từ việc chưa phải thanh toán ngay mà quyết toán cuối kỳ như nợ tiền hàng chưa đến kỳ thanh toán, nợ thuế phải nộp cho ngân sách Nhà nước, nợ lương phải trả cho công nhân viên. Một bộ Bài giảng tham khả o 84
- Credit phận quan trọng khác của các khoản phải trả là nợ tiền hàng do mua chịu và nợ xuất phát từ tín dụng thương mại. Những khoản nợ xuất phát từ việc chưa phải thanh toán ngay thường dẫn doanh nghiệp đến việc muốn cầm giữ chúng càng lâu càng tốt, hiện tượng chiếm dụng này diễn ra chứng tỏ doanh nghiệp có những khó khăn về vốn hoặc tỏ ra yếu kém trong quản lý tài chính, cũng có thể đơn giản chỉ vì doanh nghiệp muốn cầm giữ thêm vốn để tiến hành kinh doanh, nhưng đây là một việc bất hợp pháp. ¾ Khoản ký quỹ, ký cược nhận trước : trong khi phần tài sản có mục các khoản ký quỹ, ký cược thì phần nguồn vốn lại có các khoản ký quỹ, ký cược nhận trước. Sự phát sinh của mục này bắt nguồn từ thực tế là mỗi hợp đồng thường có điều khoản đảm bảo thực hiện hợp đồng, và điều khoản này thường quy định việc đảm bảo thực hiện hợp đồng sẽ bằng tiền mặt, tức là có một khoản ký quỹ trước. Vì vậy nên doanh nghiệp nhận ký quỹ có nghĩa là đã nhận trước một số tiền hàng. Đây cũng là một khoản phải trả nhưng việc trả này chỉ được thanh toán xong sau khi giao hàng cho người đặt cọc hoặc trong trường hợp bên mua hàng không thực hiện hợp đồng thì số tiền này sẽ trở thành tiền phạt vi phạm hợp đồng và trở thành tài sản của doanh nghiệp. Và như vậy trong số những khoản nợ phải trả này cần đặc biệt lưu ý đến vốn vay nợ, tiền phải trả do thuê mua tài chính và mua chịu bởi vì đây là những nguồn vốn có ý nghĩa quan trọng tới hoạt động và sự mở rộng của mỗi doanh nghiệp. Nếu không có kế hoạch quản lý các nguồn vốn này một cách hợp lý thì doanh nghiệp sẽ khó phát triển được. Để phân loại nợ phải trả cũng sử dụng tiêu chí như trong bảng cân đối kế toán, đó là tiêu chí theo thời hạn của khoản nợ, lần lượt sẽ có những khoản nợ như sau: 9 Nợ ngắn hạn Nợ ngắn hạn là các khoản nợ sẽ đáo hạn trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Như vậy các khoản nợ dù là dài hạn nhưng trong vòng một năm sẽ phải thanh toán thì vẫn phải tính vào mục nợ ngắn hạn. Trong các khoản nợ ngắn hạn thì có thể sử dụng các tiêu thức sau để phân loại: ¾ Vay ngắn hạn: các doanh nghiệp thường vay ngắn hạn để trả những khoản nợ không lớn và đầu tư vào những tư liệu sản xuất cần phải trả tiền ngay, ví dụ như mua nguyên vật liệu. Trong trường hợp doanh nghiệp không thu kịp tiền để trả nợ thì cũng có thể vay ngắn hạn để trả nợ, sau đó khi thu được tiền thì lại hoàn trả khoản vay này. ¾ Nợ dài hạn đến hạn trả: Đây là những khoản nợ đã vay từ lâu nhưng chuẩn bị đáo hạn trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh, vì vậy doanh nghiệp phải liệt kê để có kế hoạch trả nợ kịp thời. Thông thường những khoản vay dài hạn này là những khoản vay có giá trị lớn nên nếu doanh nghiệp không có kế hoạch trả nợ hợp lý thì sẽ lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính. ¾ Các khoản phải trả ngắn hạn khác: Ngoài vay ngắn hạn và nợ dài hạn đến hạn trả doanh nghiệp còn có những khoản phải trả khác dưới đây. Các khoản phải trả này tương ứng với các khoản phải thu " Phải trả cho người bán " Khoản khấu trừ do người mua đã trả tiền trước 85 Bài giảng tham khảo
- Introductory Finance " Các khoản phải nộp vào ngân sách Nhà nước như thuế, phí, lệ phí " Các khoản phải trả cho công nhân viên " Phải trả cho các đơn vị nội bộ " Các khoản phải trả, phải nộp khác như các khoản ký quỹ, đặt cọc, các khoản đóng góp cho bảo hiểm xã hội, trả lãi cho người góp vốn 9 Nợ dài hạn Là những khoản nợ có thời gian đáo hạn trên một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Thường Nợ dài hạn được sử dụng vào mục đích đầu tư vào tài sản cố định và các khoản tài sản lưu động có giá trị lớn. Nợ dài hạn bao gồm vay dài hạn và các khoản nợ dài hạn khác. Cơ cấu các khoản vay dài hạn và nợ dài hạn khác cũng tương tự như cơ cấu nợ ngắn hạn, chỉ lưu ý một điểm là nợ dài hạn có giá trị lớn nên dù thời gian trả nợ còn dài cũng cần phải có kế hoạch đảm bảo nguồn tài chính để có thể trả nợ kịp thời. Các khoản nợ dài hạn khác chủ yếu là thuê tài chính. 9 Các khoản nợ khác Trong số các khoản nợ khác có thể kể tới việc nhận ký quỹ, ký cược dài hạn và các khoản chi phí trích trước. Đó là những khoản chi phí dù cho chưa phát sinh nhưng vẫn được dự trù trước để đảm bảo sự ổn định cho doanh nghiệp, ví dụ như các khoản lương phải trả cho công nhân viên hay các khoản tiền bỏ ra để sửa chữa, thay thế tài sản cố định. b. Nguồn vốn chủ sở hữu Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, số lượng vốn chủ sở hữu này có thể được coi là cơ sở để đảm bảo khả năng trả nợ cho doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu được hình thành từ hai nguồn cơ bản là nguồn vốn quỹ (vốn tự có) và nguồn vốn được cấp phát (nguồn kinh phí). 9 Nguồn vốn -quỹ Trong nguồn vốn quỹ có các loại sau: ¾ Nguồn vốn kinh doanh Đây là nguồn vốn tạo ra các tài sản phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp. Nguồn vốn kinh doanh hình thành từ hai nhóm chính, nhóm thứ nhất là từ đóng góp của chủ doanh nghiệp ngay lúc mới khởi sự doanh nghiệp và từ nguồn vốn kinh doanh góp thêm trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Nhóm thứ hai là nguồn bổ sung từ lợi nhuận giữ lại. Ở đây sẽ xuất hiện khái niệm vốn pháp định và vốn điều lệ. Theo quy định của luật doanh nghiệp thì vốn pháp định là số vốn tối thiểu doanh nghiệp cần phải có khi thành lập, số vốn này được quy định cụ thể đối với từng loại hình doanh nghiệp. Trong điều lệ thành lập doanh nghiệp lại có một số lượng vốn ban đầu khác được ghi, số vốn này được gọi là vốn điều lệ. Đó là lượng vốn doanh nghiệp thực có lúc thành lập, như vậy ít nhất vốn điều lệ của doanh nghiệp phải bằng vốn pháp định, thế nhưng trên thực tế Vốn điều lệ thường lớn hơn nhiều so với vốn pháp định bởi vì số lượng vốn pháp định thường chỉ tính dựa theo mức tối thiểu cần thiết cho một doanh nghiệp hoạt động. Vốn điều lệ có thể thay đổi trong quá trình hoạt động, thông thường là tăng lên theo nhiều hình thức. Ví dụ như doanh nghiệp có thể Bài giảng tham khả o 86
- Credit huy động thêm vốn điều lệ bằng cách phát hành cổ phiếu, doanh nghiệp cũng thể phải giảm vốn điều lệ khi có một trong số những chủ sở hữu doanh nghiệp rút vốn của mình ra. Nguồn vốn thứ hai lấy từ khoản lợi nhuận không chia, có nghĩa là khi có lợi nhuận, các chủ doanh nghiệp quyết định không chia cho những người nắm giữ cổ phiếu mà sẽ giữ lại để bổ sung vào nguồn vốn điều lệ, mở rộng sản xuất. Đây là một nguồn bổ sung vốn quan trọng cho mỗi doanh nghiệp. ¾ Quỹ Mỗi doanh nghiệp thông thường thành lập các quỹ để phục vụ các mục đích khác nhau, nhưng nói chung có ba loại quỹ như sau: " Quỹ phát triển kinh doanh103: quỹ phát triển kinh doanh của mỗi doanh nghiệp sẽ nhằm để phục vụ cho việc đầu tư nghiên cứu cải tiến công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh. Như vậy đây là một quỹ có tính chiến lược ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp về sau. " Quỹ dự trữ tài chính: Đây là quỹ bắt buộc phải có trong mỗi doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp quy định thì số tiền mỗi doanh nghiệp phải có trong quỹ dự trữ tài chính phải ít nhất bằng 10% vốn điều lệ. Những mục đích và lợi ích của quỹ dự trữ tài chính có thể tham khảo thêm trong chương bảo hiểm. " Quỹ khen thưởng và phúc lợi: quỹ khen thưởng phúc lợi không phải là một loại quỹ bắt buộc, tuy nhiên tất cả các doanh nghiệp đều không thể thiếu được quỹ này bởi vì số tiền trong quỹ sẽ được sử dụng vào mục đích phúc lợi hoặc khuyến khích, khen thưởng nhân viên khi đạt được kết quả tốt trong công việc. ¾ Chênh lệch giá Có hai loại chênh lệch giá, đó là: " Chênh lệch đánh giá lại tài sản: Thường thì loại chênh lệch này áp dụng đối với tài sản cố định, đó là khi giá cả của tài sản bị biến động, có thể theo hướng lên hoặc hướng xuống. Mặc dù trên lý thuyết giá cả có thể diễn biến theo hai chiều nhưng trên thực tế thì giá cả của tài sản chỉ có đi xuống chứ không thể tăng lên được. Ngoài ra khi doanh nghiệp góp vốn liên doanh thì có thể có sự chênh lệch giữa giá trị của tài sản trên sổ sách kế toán và giá trị thực tế của tài sản. Trong trường hợp này cũng cần phải đánh giá lại tài sản. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước thì việc đánh giá lại tài sản phải được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền. " Chênh lệch tỷ giá: Sự chênh lệch tỷ giá xảy ra khi trong thực tế có sự biến động về tỷ giá nhưng trong sổ sách kế toán sự thay đổi này chưa được phản ánh. Vì vậy sẽ có một sự chênh lệch về nguồn vốn của doanh nghiệp do tỷ giá thay đổi. Sự thay đổi này sẽ chỉ diễn ra ở những doanh nghiệp có phát sinh hoạt động giao dịch sử dụng ngoại tệ. ¾ Nguồn vốn đầu tư XD cơ bản 103 Thường được nhắc tới dưới tên gọi quỹ đầu tư phát triển R&D. 87 Bài giảng tham khảo
- Introductory Finance Là nguồn vốn dùng cho việc xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị, máy móc nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này có ý nghĩa đối với sự tồn tại của một doanh nghiệp bởi vì nếu như không có sự cải tiến và đổi mới trong kinh doanh thì một doanh nghiệp rất dễ đi vào ngõ cụt và từ đó dẫn đến tình trạng suy thoái. 9 Nguồn kinh phí Trong nguồn kinh phí có hai loại: ¾ Quỹ quản lý của cấp trên: với các doanh nghiệp có nhiều cấp, những bộ phận ở cấp trên được phép lập quỹ quản lý. Các doanh nghiệp thuộc cấp dưới có nghĩa vụ phải nộp vào quỹ quản lý này để chi tiêu cho bộ máy quản lý tại đơn vị cấp trên. ¾ Nguồn kinh phí sự nghiệp: Phản ánh số kinh phí sự nghiệp mà một đơn vị sự nghiệp được cấp đã chi tiêu nhưng chưa quyết toán, hoặc số tiền được cấp mà chưa sử dụng. III.Phân loại chi phí của doanh nghiệp 1.Khái niệm về chi phí của doanh nghiệp Nhóm chi phí quan trọng nhất trong các chi phí của doanh nghiệp là chi phí kinh doanh. Chi phí kinh doanh là toàn bộ các khoản hao phí về vật chất, về lao động mà doanh nghiệp đã phải bỏ ra để có được thu nhập trong một kỳ kinh doanh. Chi phí kinh doanh được biểu hiện bằng tiền. Như vậy chi phí không bao gồm những khoản tiền chưa bỏ ra trong kỳ kế toán và không liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc có được thu nhập. Như vậy sẽ có những khoản chi sẽ không tính vào chi phí như chi phúc lợi, chi các quỹ từ thiện hoặc cũng có những khoản đã chi nhưng không tính ngay vào chi phí ví dụ như tài sản cố định sẽ tính chi phí dần dần theo mức độ hao mòn của nó. 2.Phân loại chi phí kinh doanh Việc phân loại chi phí kinh doanh có thể được thực hiện theo một số tiêu chí, dưới đây là các tiêu chí thông dụng: Nếu phân loại tất cả các chi phí của doanh nghiệp theo bản chất kinh tế của chúng thì có thể chia thành các nhóm như sau: ¾ Chi phí nguyên vật liệu hoặc hàng hoá mua vào. ¾ Chi phí dụng cụ sản xuất kinh doanh ¾ Chi phí khấu hao tài sản cố định ¾ Chi phí nhân công, bao gồm tiền lương và tiền công ¾ Chi phí dịch vụ mua ngoài ¾ Chi phí tiếp thị ¾ Thuế phải nộp (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp) và các khoản phải nộp vào ngân sách nhà nước ¾ Các chi phí khác Kết hợp bản chất kinh tế và nơi phát sinh: nhà máy, khối văn phòng, cửa hàng thì sẽ có chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí hành chính và chi phí bán hàng. Bài giảng tham khả o 88
- Credit Tại khu vực sản xuất phát sinh chi phí sản xuất, chi phí này gồm hai loại chi phí bộ phận, đó là chi phí sản xuất trực tiếp và chi phí sản xuất chung. ¾ Chi phí sản xuất trực tiếp là tất cả những chi phí có liên quan trực tiếp đến sản xuất của doanh nghiệp, nó bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. ¾ Chi phí sản xuất chung là chi phí chung phục vụ cho việc sản xuất, nó sẽ không biến đổi phụ thuộc vào việc trong kỳ doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu sản phẩm. Chi phí sản xuất chung vì vậy là chi phí không biến đổi, nó bao gồm chi phí cho dụng cụ lao động, chi phí khấu hao tài sản cố định của khu vực sản xuất, chi phí nhân công không trực tiếp sản xuất, chi dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác. Ngoài khu vực sản xuất sẽ có hai loại chi phí phát sinh, đó là chi phí hành chính và chi phí bán hàng ¾ Chi phí bán hàng sẽ bao gồm những chi phí phát sinh tại khâu bán hàng như lương nhân viên, khấu hao tài sản cố định, chi dịch vụ mua ngoài, ngoài ra còn phải tính đến hai khoản chi phí đặc trưng của khâu này là chi phí lưu thông và chi phí tiếp thị. ¾ Chi phí hành chính cũng được tính bên cạnh những chi phí của các khâu khác, nó cũng bao gồm các bộ phận tương tự như khâu sản xuất và bán hàng, nhưng vì đặc điểm chi phí hành chính là một loại chi phí gián tiếp do nó không liên quan trực tiếp đến việc sản xuất kinh doanh nên việc tổ chức sắp xếp bộ máy hành chính sao cho hiệu quả, tránh lãng phí là một ưu tiên đối với các doanh nghiệp. Ngoài ra còn có các loại chi phí không nằm trong chi phí sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp phi tài chính, bởi vì những chi phí này không liên quan tới lĩnh vực kinh doanh chính của doanh nghiệp nên nó không thể được xếp chung vào chi phí kinh doanh: Chi phí đầu tư tài chính: Phát sinh từ những hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp, có thể xếp những loại chi phí sau vào nhóm này: ¾ Chi đầu tư chứng khoán ¾ Chi hoạt động liên doanh ¾ Chi phí cho thuê bất động sản ¾ Chi phí liên quan đến hoạt động giao dịch ngoại tệ ¾ Các khoản lỗ xuất phát từ hoạt động tài chính ¾ Dự phòng giảm giá đầu tư tài chính Chi phí hoạt động bất thường: Là những loại chi phí xuất phát từ những hoạt động không thường xuyên của doanh nghiệp, những hoạt động này có thể xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, tức là do doanh nghiệp thấy cần thiết có những hoạt động này, nhưng cũng có thể xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, tức là doanh nghiệp bị bắt buộc phải chi những khoản đó, có thể có những khoản chi phí bất thường sau: ¾ Chi phí thanh lý, nhượng bán tài sản cố định ¾ Tiền phạt do vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật ¾ Các khoản chi do bù đắp những sai sót trong công tác ghi sổ kế toán Ở đây cần dừng lại một chút để nghiên cứu về giá thành của một sản phẩm. Có thể định nghĩa giá thành của một sản phẩm là toàn bộ các chi phí bỏ ra để có được một sản phẩm hoặc có được một dịch vụ. Như vậy công thức để tính giá thành sản phẩm là: 89 Bài giảng tham khảo
- Introductory Finance Giá thành = Chi phí/số lượng sản phẩm Trong giá thành lại có thể chia làm hai loại: Giá thành sản xuất: là toàn bộ chi phí sản xuất phải bỏ ra để có được một sản phẩm. Giá thành toàn bộ: là toàn bộ chi phí kinh doanh phải bỏ ra để có được một sản phẩm. Và như vậy khi tính toán nguyên giá của một sản phẩm thì người ta phải dựa vào giá thành toàn bộ chứ không chỉ dựa vào giá thành sản xuất. IV.Phân loại thu nhập của doanh nghiệp Thu nhập của doanh nghiệp trong một năm hoặc một kỳ kinh doanh là toàn bộ các nguồn thu mà doanh nghiệp có được trong năm hoặc trong kỳ kinh doanh đó. Căn cứ để phân loại thu nhập là từ những nguồn thu, theo đó có các loại thu nhập sau: 1.Thu nhập từ sản xuất kinh doanh: Thu nhập từ sản xuất kinh doanh chính là doanh thu . Đây là bộ phận thu nhập lớn nhất của một doanh nghiệp, vì nó xuất phát từ lĩnh vực hoạt động chính của doanh nghiệp. Tổng doanh thu là tất cả số tiền thu được từ các hoá đơn bán hàng Trong số tiền thu được từ bán hàng phải lưu tâm tới các khoản giảm trừ , đó là những khoản làm giảm doanh thu, có thể có những khoản giảm trừ sau: ¾ Chiết khấu bán hàng:Khi tiền hàng được thanh toán sớm, người bán thường thưởng cho người mua một khoản tiền gọi là chiết khấu hàng bán ¾ Giảm giá hàng bán: trong điều kiện hàng bán bị ảnh hưởng bởi sự giảm giá thì đây sẽ được coi là một khoản giảm trừ đối với doanh thu của người bán ¾ Hàng bị trả lại: Khi hàng bán ra kém chất lượng, không đạt yêu cầu của hợp đồng và bị trả lại thì khoản hàng hoá bị trả lại này cũng được tính vào các khoản giảm trừ. ¾ Thuế gián thu đánh vào đầu ra: có nhiều loại thuế gián thu đánh vào đầu ra của doanh nghiệp, trong trường hợp này khoản thuế phải nộp đó phải được tính vào các khoản giảm trừ. Các loại thuế đó là thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu. Khi lấy tổng doanh thu trừ đi các khoản giảm trừ sẽ có doanh thu thuần. Doanh thu thuần là khoản doanh thu được sử dụng để tính toán lợi nhuận cho doanh nghiệp. Khi lấy doanh thu thuần trừ đi giá vốn hàng bán sẽ có lợi nhuận gộp. Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ thành công của doanh nghiệp trong kinh doanh. Và đây cũng là mục tiêu chính khi một doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Lợi nhuận gộp sau khi đã trừ đi các khoản chi phí hợp lý hợp lệ ( chi phí bán hàng, chi phí quản lý) sẽ cho lợi nhuận thuần. Cần lưu ý ở đây là các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ có nghĩa là những khoản chi phí này phải có hoá đơn chứng từ hợp lệ và có liên quan tới việc có được lợi nhuận. Bài giảng tham khả o 90
- Credit Doanh nghiệp không chỉ có được lợi nhuận từ việc kinh doanh mà doanh nghiệp còn tiến hành cả những hoạt động đầu tư tài chính, những hoạt động này cũng đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, ngoài ra còn có cả lợi nhuận bất thường. Như vậy tổng lợi nhuận mà doanh nghiệp sẽ phải kê khai để nộp thuế sẽ là lợi nhuận trước thuế, nó bằng lợi nhuận thuần cộng với lợi nhuận do đầu tư tài chính và các khoản lợi nhuận bất thường. Đây là căn cứ để doanh nghiệp kê khai nộp thuế. Lúc này, có thể tính toán được số lợi nhuận doanh nghiệp thực có, đó là lợi nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế). Lợi nhuận ròng bằng lợi nhuận trước thuế trừ đi thuế thu nhập. Đây sẽ khoản lợi nhuận được sử dụng vào các mục đích cuối cùng của doanh nghiệp, đó có thể là chia cho các bên tham gia hoạt động của doanh nghiệp, như trả cổ tức, lãi liên doanh hoặc giữ lại không chia để tăng vốn điều lệ. 2.Thu nhập từ đầu tư tài chính: Tương ứng với các khoản chi phí đầu tư tài chính, có các khoản thu nhập từ các hoạt động đầu tư tài chính như sau: ¾ Thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán ¾ Thu nhập từ hoạt động liên doanh ¾ Thu nhập về cho thuê tài sản ¾ Thu lãi tiền cho vay, lãi bán chịu hàng hoá ¾ Thu lãi bán ngoại tệ ¾ Thu lãi kinh doanh bất động sản 3.Thu nhập bất thường: Là khoản thu nhập không mang tính thường xuyên và hầu hết không dự tính trước được. Nó cũng tương ứng với các khoản chi phí bất thường đã liệt kê, đó là: ¾ Thu nhập từ tiền nhượng bán, thanh lý tài sản cố định ¾ Thu tiền phạt vi phạm hợp đồng do đối tác không tuân thủ quy định trong hợp đồng ¾ Tiền thuế được hoàn trả trong trường hợp hoàn thuế ¾ Tiền thu các khoản nợ khó đòi đã được trích từ quỹ dự phòng nợ khó đòi ¾ Tiền thu từ sai sót trong công tác ghi sổ kế toán của các kỳ trước V.Phân tích tài chính Một hoạt động quan trọng của người chịu trách nhiệm quản lý tài chính cho một doanh nghiệp là công việc phân tích tài chính. Nếu như các chỉ số được lập nên nhằm mục đích quản lý thông qua các công cụ tài chính, thì cần phải có người biết nhìn và phân tích những chỉ số đó để chỉ ra mặt được hoặc chưa được trong hoạt động của một doanh nghiệp, từ đó tìm ra phương án hiệu quả nhất đối với công việc của doanh nghiệp trong kỳ tới. Có những chỉ số tài chính cho thấy ngay doanh nghiệp đã làm được gì và kết quả ra sao, nhưng để đánh giá một cách chính xác thì phải lập được hệ thống các chỉ số có tính tương đối. Chỉ có sử dụng những chỉ số tương đối thì sự so sánh và phân tích mới chính xác. Thông thường chỉ số của một doanh nghiệp sẽ được so sánh theo những tiêu chí sau: ¾ So sánh giữa chỉ số và chỉ tiêu đặt ra ¾ So sánh giữa chỉ số của cùng doanh nghiệp trong các kỳ khác nhau ¾ So sánh giữa chỉ số của doanh nghiệp và các doanh nghiệp khác cùng ngành trong kỳ ¾ So sánh giữa chỉ số của doanh nghiệp và các chỉ số bình quân 91 Bài giảng tham khảo
- Introductory Finance Khi đã so sánh được theo hệ thống tiêu chí kể trên doanh nghiệp mới có thể thấy được khả năng của mình đến đâu, đang ở vị thế nào và đã làm được gì trong một kỳ vừa rồi. Từ đó doanh nghiệp mới có thể đưa ra giải pháp phát triển. Dưới đây là những chỉ số thường dùng trong công tác phân tích tài chính: 1.Khả năng thanh toán của doanh nghiệp104 Khả năng thanh toán của doanh nghiệp được thể hiện thông qua một số các loại chỉ số sau: a. Khả năng thanh toán hiện thời Tài sản lưu động Khả năng thanh toán hiện thời = Nợ ngắn hạn b. Khả năng thanh toán nhanh Tiền + Đầu tư TC ngắn hạn Khả năng thanh toán nhanh = Hàng tồn kho 2.Khả năng sinh lợi của doanh nghiệp a. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: Lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận trên DT = Doanh thu (DT thuần) Chỉ số này giúp doanh nghiệp xác định được cứ mỗi đồng doanh thu thì doanh nghiệp có được bao nhiêu đồng lợi nhuận, tức là doanh nghiệp cũng xác định được cứ mỗi đồng doanh thu thì doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu chi phí. Rõ ràng tỷ suất này cũng đòi hỏi phải thấp một cách hợp lý vì nếu tỷ lệ lợi nhuận càng cao thì chứng tỏ doanh nghiệp càng tỏ ra hiệu quả trong việc giảm giá thành sản phẩm. 104 Còn gọi là khả năng trả nợ Bài giảng tham khả o 92
- Credit b. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn: Lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận trên Vốn = Tổng vốn đầu tư Tỷ suất lợi nhuận trên vốn phản ánh cứ một đồng vốn bỏ ra đầu tư thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận, có thể nói đây là tiêu chí cực kỳ quan trọng để phản ánh tính hiệu quả trong đầu tư của doanh nghiệp, vì thế chỉ số này thường được rút gọn lại để gọi là tỷ suất lợi nhuận. doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhưng tỷ suất lợi nhuận không cao một cách tương xứng thì không thể gọi được là một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nhưng nếu doanh nghiệp chỉ chú trọng đến mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận mà bỏ qua tính tối ưu của tỷ suất lợi nhuận thì sẽ gây ra sự mất cân bằng và có thể dẫn đến sự phát triển không ổn định. Chính vì vậy nên chỉ số này còn được gọi tắt là tỷ suất lợi nhuận. c. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có: Lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận trên VTC = Vốn tự có Chỉ số này phản ánh mức độ lợi nhuận doanh nghiệp thu được khi so sánh với một đồng vốn tự có, thường chỉ có những người tham gia bỏ vốn hoặc góp vốn đầu tư cổ phiếu là quan tâm tới chỉ số này vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ. chỉ số này vẫn có thể không cao mặc dù tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh của doanh nghiệp cao và ngược lại, và trong trường hợp tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh của doanh nghiệp không cao mà tỷ suất này vẫn cao chứng tỏ doanh nghiệp đã có chính sách huy động vốn bên ngoài nhiều và sử dụng tốt nguồn vốn hiện có. 3.Khả năng hoạt động của doanh nghiệp a. Tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho: Doanh thu (DT thuần) Tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho = Hàng tồn kho Số vòng quay hàng tồn kho thể hiện mức độ lưu chuyển của hàng tồn kho trong kỳ, chỉ số này nói chung là nên ở mức cao, thể hiện khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong kỳ. Thế nhưng cũng cần phải có dự trữ cho doanh nghiệp nên yêu cầu của chỉ số này là phải đạt mức tối ưu chứ không phải là tối đa. 93 Bài giảng tham khảo
- Introductory Finance b. Kỳ thu tiền bình quân: Nợ phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu (DT thuần) Chỉ số này dùng đo khả năng thu tiền của doanh nghiệp. Nói chung tỷ số này càng thấp thì càng tốt bởi vì nó thể hiện rằng doanh nghiệp nhanh chóng thu được tiền hàng để tái đầu tư vào sản xuất, vốn không bị ứ đọng lâu ở bên ngoài. Tuy nhiên cũng có trường hợp doanh nghiệp cần áp dụng những chính sách tín dụng thích hợp để thu hút thêm bạn hàng, đối tác thì cần phải cho phép chỉ số này tăng lên. Như vậy chỉ số này cũng cần phải đạt mức tối ưu. c. Công suất sử dụng vốn cố định: Doanh thu (DT thuần) Công suất sử dụng VCĐ = Vốn cố định Chỉ số này nhằm đo lường mức độ hiệu quả của việc sử dụng vốn cố định, chỉ số này đòi hỏi càng cao càng tốt, bởi vì nếu chỉ số càng cao tức là một đồng vốn cố định tạo ra được càng nhiều đồng doanh thu. Chỉ số này tương tự như hiệu suất sử dụng vốn cố định, có điều mẫu số ở đây là tổng vốn đầu tư. Chỉ số này muốn xác định thì phải dựa trên số lượng sản phẩm bán được ra. 4.Khả năng sinh lợi của vốn đầu tư Khi nghiên cứu nhóm chỉ số này, cần phải đứng trên quan điểm của nhà đầu tư, nếu là nhà đầu tư cần xem xét 2 loại chỉ số, đó là lượng cổ tức nhận được và doanh thu trên lượng vốn đầu tư. Hiệu quả vốn đầu tư Doanh thu (DT thuần) Hiệu quả vốn đầu tư = Vốn đầu tư 5.Các cân đối về tài sản và nguồn vốn Mỗi một doanh nghiệp đều phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định trong hoạt động kinh doanh, mà nguyên tắc của các doanh nghiệp vạch ra phải tuân theo một trật tự chung. Trong bối cảnh chung của toàn bộ nền kinh tế thì yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là phải đảm bảo được một loạt những cân đối về tài sản và nguồn vốn nếu muốn có được một hoạt động kinh doanh lâu dài và ổn định. có thể liệt kê những cân đối đó ra như sau: Bài giảng tham khả o 94
- Credit ¾ Cân đối giữa tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn hạn với nguồn vốn ngắn hạn. ¾ Cân đối giữa tài sản cố định, đầu tư tài chính dài hạn với nguồn vốn dài hạn ¾ Cân đối giữa tài sản cố định và tài sản lưu động ¾ Cân đối giữa vốn ngắn hạn và vốn dài hạn VI.Các nguyên tắc hoạt động của tài chính doanh nghiệp 1.Giữ chữ tín Một trong những nguyên tắc hoạt động quan trọng của doanh nghiệp là phải biết giữ chữ tín, bởi vì đó là nền tảng để cho doanh nghiệp có thể tồn tại lâu trên thương trường, nếu như doanh nghiệp chỉ cần thất tín một lần cũng đủ để mất đi những bạn hàng quan trọng và đánh mất uy tín, như cũng đã phân tích ở trên, uy tín cũng là một tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp. Để có được tài sản này không phải chỉ trong một thời gian ngắn là làm được, vì vậy doanh nghiệp cần phải bảo vệ và phát huy giá trị của tài sản này như mọi tài sản khác của mình. 2.Bảo toàn và phát triển vốn Việc bảo toàn và phát triển vốn phải được coi trọng trên cả hai loại vốn, đó là vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Nếu một doanh nghiệp muốn làm ăn lâu dài thì một điều chắc chắn có thể khẳng định là doanh nghiệp đó bắt buộc phải có một kế hoạch huy động và sử dụng vốn kinh doanh, kể cả vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Nếu như vốn ngắn hạn cần thiết trong việc mua sắm các tài sản lưu động và mua vật tư, nguyên liệu sản xuất thì vốn dài hạn lại rất quan trọng đối với việc đầu tư mua sắm hoặc nâng cấp tư liệu sản xuất, cơ sở hạ tầng, nói chung là các tài sản cố định có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài. Vì vậy việc lập kế hoạch hợp lý sẽ quyết định tính ổn định về nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tạo ra một trạng thái cân bằng trong hoạt động nói chung của doanh nghiệp. VII.Phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận của doanh nghiệp (lợi nhuận trước thuế) sẽ được phân phối theo các bộ phận sau: 1.Nộp thuế thu nhập Việc nộp thuế thu nhập là một nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi doanh nghiệp, vì vậy doanh nghiệp nào cũng phải bỏ ra 32% thu nhập trước thuế để làm nghĩa vụ này với Nhà nước. Chỉ có những doanh nghiệp nào đang được khuyến khích hoặc nhận được ưu đãi thì mới được miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một thời gian. Doanh nghiệp nào có điều kiện thì sẽ phải nộp hơn, những trường hợp này đều đã được quy định cụ thể trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp. 2.Trích lập quỹ dự phòng tài chính Doanh nghiệp cũng phải quan tâm đến việc trích lập các quỹ dự phòng rủi ro, có rất nhiều loại rủi ro, chỉ từ đầu chương mà cũng đã có đến mấy loại rủi ro như giảm giá hàng tồn kho, giảm giá đầu tư tài chính, nợ khó đòi vì thế nên việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro là một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp, tỷ lệ hiện nay là từ 5% lợi nhuận sau thuế cho tới khi nào đạt đủ 10% vốn điều lệ của mỗi doanh nghiệp. 3.Bù đắp các khoản chi phí không hợp lý hợp lệ 95 Bài giảng tham khảo
- Introductory Finance Trong mỗi kỳ kế toán thường xuyên xuất hiện những khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ, và những khoản này không được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, như vậy cũng có nghĩa là doanh nghiệp bị mất không những khoản này khi lập báo cáo tài chính. Chính vì thế trong khoản lợi nhuận còn lại, doanh nghiệp phải để ra một số tiền nhằm bù đắp những khoản chi này để phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. 4.Trích lập các quỹ khác hoặc sử dụng vào các mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh Kể từ sau khi bù đắp các khoản chi không hợp lý hợp lệ, coi như doanh nghiệp đã hoàn thành các nghĩa vụ bắt buộc, và doanh nghiệp có quyền sử dụng số lợi nhuận còn lại phục vụ cho các mục đích riêng theo ý mình. Đầu tiên doanh nghiệp sẽ quan tâm đến việc giữ lại bao nhiêu lợi nhuận không chia nhằm mục đích tái đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. Sau đó doanh nghiệp cũng để ra một tỷ lệ nhất định trích lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển hoặc các quỹ phúc lợi, khen thưởng nhằm phục vụ những mục đích khuyến khích sản xuất. 5.Trả cổ tức và lãi liên doanh Đây là phần mà những người bỏ vốn ra thành lập doanh nghiệp cũng như những người mua cổ phiếu quan tâm nhất vì phần này liên quan trực tiếp đến quyền lợi cá nhân. Nhưng cũng vì liên quan trực tiếp đến quyền lợi của các cá nhân nên nó phải được xét tới sau cùng, sau khi tất cả các quyền lợi chung đã được thoả mãn. Việc chia lãi cho những người sở hữu doanh nghiệp sẽ được thực hiện theo tỷ lệ vốn mà họ đã góp vào doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì trình tự phân phối lợi nhuận cũng tương tự, tuy nhiên vì đặc điểm doanh nghiệp thuộc loại này nhận được vốn từ ngân sách Nhà nước, lại do Nhà nước nắm quyền sở hữu nên trong doanh nghiệp Nhà nước có khoản nộp ngân sách Nhà nước và số lợi nhuận còn lại được chuyển vào quỹ đầu tư phát triển. Ý nghĩa của việc phân phối lợi nhuận doanh nghiệp là đảm bảo lợi ích của các bên tham gia, các bên đó bao gồm: 9 Nhà nước và chủ doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp đều tồn tại trong một quốc gia, mà Nhà nước là cơ quan quản lý các công việc chung của quốc gia, và như vậy doanh nghiệp cũng là người được hưởng lợi từ hoạt động quản lý của Nhà nước. Vì lý do đó nên doanh nghiệp có nghĩa vụ phải đóng góp cho Nhà nước một phần thu nhập của mình để Nhà nước có thể tồn tại và hoàn thành phần việc của mình. Do vậy mới có việc doanh nghiệp phải nộp thuế thu nhập, tuy nhiên trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã có những quy định rất rõ ràng nhằm đảm bảo sự ngang bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa doanh nghiệp và Nhà nước. 9 Chủ doanh nghiệp và người lao động: Chủ doanh nghiệp là người bỏ vốn ra để thành lập doanh nghiệp, như vậy người đó có quyền lợi đối với những khoản lợi nhuận mà doanh nghiệp kiếm được. Ở đây không nói đến những khoản tiền công hoặc tiền lương mà doanh nghiệp phải trả cho người lao động bởi vì đó là giá cả của lao động, chủ doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả một cách sòng phẳng và đúng hạn. Cái mà cần nhắc tới ở đây là những khoản khuyến khích về vật chất đối với người lao động mà chủ doanh nghiệp không bắt buộc phải thực hiện. Ví dụ như những khoản tiền thưởng do tăng năng suất, tiền thưởng lễ tiết hay những khoản trợ cấp đau ốm Hiện nay không phải người chủ nào cũng nhận thức được lợi ích do những khoản khuyến khích này mang lại đối với doanh nghiệp mà chỉ tính đến những gì mình Bài giảng tham khả o 96
- Credit phải bỏ ra. Vì thế nên quyền lợi của chủ doanh nghiệp và người lao động không được tương xứng, dẫn đến tình trạng lãn công hoặc bỏ việc, làm cho doanh nghiệp bị tổn thất tương đối nhiều. 9 Giữa phần lợi nhuận để lại và phần dùng để chia cổ tức (hoặc chia lãi kinh doanh): Chia lãi kinh doanh sau khi đã hoàn thành hết các khoản nghĩa vụ là điều mà ai cũng muốn, thế nhưng thông thường khoản lợi nhuận còn lại sẽ không được sử dụng toàn bộ vào việc chia lãi mà chỉ có một phần, phần không được chia lãi doanh nghiệp sẽ giữ lại để sử dụng vào mục đích tái đầu tư mở rộng vốn sản xuất kinh doanh, phát triển doanh nghiệp. Tất nhiên phần giữ lại là bao nhiêu phải được sự đồng ý của tập thể những người có quyền sở hữu doanh nghiệp thông qua cuộc họp và biểu quyết. 97 Bài giảng tham khảo