Đề cương chi tiết môn công tác xã hội nhóm

pdf 83 trang hapham 2810
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương chi tiết môn công tác xã hội nhóm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_cuong_chi_tiet_mon_cong_tac_xa_hoi_nhom.pdf

Nội dung text: Đề cương chi tiết môn công tác xã hội nhóm

  1. ĐẠI HỌC MỞ BÁN CÔNG TP. HCM ĐẠI HỌC MỞ BÁN CÔNG TP. HCM KHOA XÃ HỘI HỌC C CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ThS Nguyễn Ngọc Lâm biên soạn ÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ThS Nguyễ n Ngọc Lâm biên soạn - 1 -
  2. ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM NĂM 2005 Tên môn học : CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM Số tín chỉ : 3 [2 – 1] Môn học tiên quyết : Nhập môn khoa học giao tiếp Hành vi con người và Môi trường xã hội An sinh xã hội Nhập môn CTXH Phương pháp CTXH cá nhân Giảng viên phụ trách : ThS Nguyễn Ngọc Lâm, ĐTDĐ : 0918017871, ĐT Văn phòng Khoa : 9304471 Website : Mô tả môn học Môn học trình bày phương pháp thứ hai trong thực hành công tác xã hội (CTXH) với nhóm thân chủ có cùng vấn đề khó khăn tương đối giống nhau hoặc có liên quan với nhau. Phương pháp này dựa trên sự tương tác của các thành viên trong một nhóm, mối tương tác này ảnh hưởng đến sự thay đổi hành vi theo hướng tích cực được nhân viên xã hội ( NVXH) dự kiến trong một kế hoạch hành động.Vai trò của NVXH là xây dựng nhóm, giúp điều hòa các vai trò, sự tham gia tích cực của các nhóm viên trong các hoạt động của nhóm, đánh giá sự biến chuyển hành vi của từng cá nhân trong nhóm cũng như quá trình phát triển của nhóm. Mục tiêu của thực hành công tác xã hội với nhóm đạt được hay không tùy thuộc vào khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tế, am hiểu năng động nhóm, có kỹ năng điều hòa sự tham gia của các nhóm viên, biết lúc nào là can thiệp đúng lúc để giải quyết vấn đề và thực hiện đúng vai trò của mình. ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN HỌC - 2 -
  3. I. Mục tiêu của môn học : - Giúp sinh viên có kiến thức về tâm lý nhóm và kỹ năng điều hòa sinh hoạt nhóm - Giúp sinh viên nắm vững một trong những phương pháp của CTXH để thực hành chuyên môn. - Giúp sinh viên có nền tảng kiến thức, các bước thực hiện trong tiến trình CTXH nhóm và các kỹ năng cần thiết để có thể can thiệp giúp điều hòa sinh hoạt nhóm nhằm đạt được những mục tiêu xã hội theo kế hoạch đã dự định. - Giúp sinh viên có khả năng thực hành phương pháp CTXH nhóm với các thân chủ có cùng vấn đề giống nhau. II. Nội dung giảng dạy : Phần 1 : Tổng quan về CTXH nhóm : Mục tiêu : Giúp sinh viên nhận thức về vai trò của nhóm nhỏ và mục tiêu của phương pháp nhóm trong công tác xã hội và các loại hình ứng dụng phương pháp này. 1. Khái niệm : - Phương pháp ứng dụng những kiến thức, kỹ năng liên quan đến tâm lý (hoặc năng động) nhóm - Nhóm nhỏ thân chủ có cùng vấn đề giống nhau hoặc có liên quan đến vấn đề. - Các mục tiêu xã hội được thiết lập bởi NVXH trong kế hoạch hỗ trợ thân chủ ( cá nhân, nhóm, cộng đồng) thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin nhằm giúp thân chủ tăng cường năng lực đối phó, chức năng xã hội thông qua các kinh nghiệm của nhóm có mục đích nhằm để giải quyết vấn đề của mình và thỏa mãn nhu cầu. 2. Các mục tiêu của CTXH nhóm : · Khảo sát về cá nhân : nhu cầu/khả năng/hành vi (nhóm hỗ trợ trẻ phạm pháp, trẻ em đường phố). · Duy trì và hỗ trợ cá nhân : Hỗ trợ cá nhân đương đầu với những khó khăn của cá nhân hay trước hoàn cảnh xã hội ( nhóm người khuyết tật) · Thay đổi cá nhân : từ những hành vi cá biệt đến phát triển nhân cách do các yếu tố như : kiểm soát xã hội, xã hội hóa, quan hệ tương tác, Giá trị và thái độ cá nhân, hoàn cảnh kinh tế ( tìm việc làm cho người thất nghiệp), Khám phá bản thân và cảm xúc của mình (nhóm tăng năng lực), phát triển nhân cách. - 3 -
  4. · Giáo dục, cung cấp thông tin ( nhóm giáo dục sức khoẻ) · Bù trừ/ giải trí · Môi trường trung gian giữa cá nhân và hệ thống xã hội : nhóm bệnh nhân và bệnh viện · Thay đổi nhóm và/hoặc hỗ trợ :nhóm gia đình, nhóm trẻ phạm pháp, · Thay đổi môi trường : phát triển cộng đồng, nhóm phụ huynh của trường mẫu giáo · Thay đổi xã hội : Tăng nhận thức xã hội (nhận thức về người khuyết tật, chia sẻ quyền lực ) 3. Các đặc điểm của CTXH nhóm : - Hoạt động nhóm là nơi thỏa mãn nhu cầu của cá nhân. - Đối tượng tác động là mối quan hệ tương tác trong nhóm. - Nhóm tăng cường khả năng tự giải quyết vấn đề - Ảnh hưởng của nhóm giúp thay đổi hành vi, thái độ của cá nhân. - Nhóm là một môi trường bộc lộ. - Các yếu tố quan trọng cần quan tâm trong CTXH nhóm : 7 yếu tố : · Đối tượng là ai · Nơi sinh hoạt, bối cảnh sinh hoạt · Nhu cầu gì cần được đáp ứng · Mục tiêu cần đạt được · Giá trị : sinh hoạt nhóm dựa trên quan điểm gì · Lý thuyết : sử dụng viển cảnh lý thuyết nào · Phương cách thực hành : cơ cấu, vai trò, trách nhiệm, mối quan hệ bên trong và bên ngoài nhóm, các hoạt động nào được sử dụng, cách thức tổ chức 4. Các loại hình nhóm: · Nhóm giải trí : Rèn luyện và phát triển nhân cách · Nhóm giáo dục : Kiến thức và kỹ năng ( Nhóm các bà mẹ, nhóm chăn nuôi ) · Nhóm tự giúp : Nhóm tình nguyện hỗ trợ nhau để vượt khó (nhóm các phụ huynh trẻ khuyết tật). · Nhóm với mục đích xã hội hóa : Nhóm giúp tăng cường khả năng xã hội. · Nhóm trị liệu : Nhóm chia sẻ cảm xúc về vấn đề mắc phải. · Nhóm trợ giúp : Giúp tăng cường khả năng đồng cảm với người khác. 5. Những thuận lợi và bất lợi trong trị liệu thông qua nhóm 5.1. Những thuận lợi : · Giúp những kinh nghiệm xã hội - 4 -
  5. · Nhóm với nhu cầu chung có thể là nguồn hỗ trợ lẫn nhau và giải quyết vấn đề · Thái độ, cảm xúc, hành vi có thể thay đổi trong bối cảnh nhóm do tương tác xã hội, đảm nhận vai trò, củng cố, phản hồi (cửa sổ Johari) · Trong một nhóm, mỗi thành viên là một người giúp đỡ tiềm năng · Một nhóm có thể sinh hoạt một cách dân chủ và tự quyết, cung cấp quyền lực hơn cho thân chủ · Môi trường nhóm thích hợp cho đối tượng thụ hưởng các dịch vụ · CTXH nhóm làm giảm thời gian và công việc của NVXH 5.2. Những bất lợi : · Vấn đề riêng tư khó được duy trì trong nhóm · Nhóm trong tổ chức phức tạp hơn, khó sinh hoạt · Nhóm cần nhiều tài nguyên : quỹ, trang bị, tiện nghi, di chuyển, thương lượng · Cá nhân ít được quan tâm riêng biệt hơn trong nhóm · Cá nhân trong dễ bị “dán nhãn”hơn · Nhóm có thể làm hỏng thiểu số 6. Sự khác biệt giữa CTXH cá nhân và CTXH nhóm dù cùng dựa trên cùng một số nguyên tắc hành động, CTXH cá nhân khác với CTXH nhóm ở một số điểm liên quan đến mối quan hệ giữa nhân viên xã hội và thân chủ, công cụ thực hành, môi trường làm việc, tính chất của thân chủ và bầu khí sinh hoạt. 7. Các quy điều đạo đức trong CTXH nhóm : Trong Công tác xã hội nhóm, nhân viên xã hội phải tuân thủ các giá trị đạo đức nghề nghiệp chung áp dụng cho thực hành công tác xã hội (xem phần Công tác xã hội đại cương), tuy nhiên, Hinchman (1977) sau khi phân tích thực hành công tác xã hội nhóm ở số trẻ em bệnh tâm thần nhẹ cùng với các dịch vụ hỗ trợ gia đình của số trẻ này đã đưa ra một số giá trị cơ bản của CTXH với nhóm. 8. Lịch sử phát triển phương pháp CTXH nhóm · Hình thành từ thập niên 1960 tại Anh quốc bắt nguồn từ sinh hoạt riêng của các nhóm NVXH để tự đánh giá và đánh giá hiệu quả của CTXH cá nhân. · Cùng thời ấy, CTXH nhóm cũng đã xuất hiện tại Bắc Mỹ cùng với những nghiên cứu về năng động nhóm (ngành tâm lý). Từ ảnh hưởng của Mỹ, CTXH nhóm được dần dần sử dụng nhiều hơn vào thập niên 1970 để cải tiến các phương pháp can thiệp. - 5 -
  6. · Từ 1980 tại Anh bắt đầu áp dụng phương pháp nhóm để hỗ trợ cho thanh thiếu niên phạm pháp, nhóm đang trong thời gian quan chế sau khi ra tù trở về cộng đồng · Hình thành từ thập niên 1960 tại Anh quốc bắt nguồn từ sinh hoạt riêng của các nhóm NVXH để tự đánh giá và đánh giá hiệu quả của CTXH cá nhân. · Cùng thời ấy, CTXH nhóm cũng đã xuất hiện tại Bắc Mỹ cùng với những nghiên cứu về năng động nhóm (ngành tâm lý). Từ ảnh hưởng của Mỹ, CTXH nhóm được dần dần sử dụng nhiều hơn vào thập niên 1970 để cải tiến các phương pháp can thiệp. · Từ 1980 tại Anh bắt đầu áp dụng phương pháp nhóm để hỗ trợ cho thanh thiếu niên phạm pháp, nhóm đang trong thời gian quan chế sau khi ra tù trở về cộng đồng 9. Các thuyết ảnh hưởng đến phương pháp CTXH nhóm : · Thuyết Hệ thống :Nhóm là một hệ thống các yếu tố tương tác lẫn nhau. Theo Parsons (1951), nhóm là hệ thống xã hội với những thành viên tùy thuộc lẫn nhau để duy trì trật tự và sự cân bằng như một thể thống nhất, huy động tài nguyên và hành động để đáp ứng các nhu cầu thay đổi để được tồn tại. · Thuyết Tâm lý năng động : Nhóm ảnh hưởng lên hành vi con người : Freud (1922)và Frank Moreno ( psychodrama – Tâm kịch). Qua nhóm, cá nhân nhìn lại kinh nghiệm sống của mình, xem xét lại những mâu thuẩn chưa được giải quyết. · Thuyết học hỏi (Bandura, 1977) : Hành vi của thành viên nhóm đóng vai trò tác động, kích thích thành viên khác. Nếu A ứng xử như thế nào đó và B đồng tình thì A sẽ tiếp tục ứng xử như thế, còn ngược thì A sẽ không ứng xứ như thế trong tương lai. · Thuyết hiện trường (field) : Kurt Lewin ( 1947) : Nhóm có khoảng không gian sống, có vị trí so với vật thể khác trong không gian đó, nó di chuyển theo đuổi mục tiêu của nó và vượt qua các trở ngại. Có 6 khái niệm để hiểu nguồn lực trong nhóm : Vai trò, quy tắc, quyền lực, sự gắn kết, sự đồng thuận và sự phối hợp. · Thuyết trao đổi xã hội : Chú trọng đến hành vi cá nhân của thành viên nhóm. Đối với cá nhân,quyết định thể hiện hành vi dựa trên sự so sánh giữa thưởng và phạt xuất phát từ các hành vi. Phần 2 : Năng động nhóm. Mục tiêu : Giúp sinh viên hiểu thế nào là : · Tâm lý nhóm : Khi nói đến mối tương tác giữa các nhóm viên và các giai đoạn phát triển của nhóm. - 6 -
  7. · Năng động nhóm : Khi nói đến sự biến chuyển của các vai trò và vi trí của các nhóm viên lúc tham gia sinh hoạt nhóm. · Vai trò và tác động của nhóm nhỏ trong cuộc sống 1. Nhóm nhỏ trong cuộc sống : · Khái niệm nhóm nhỏ : Tập hợp những con người có hành vi tương tác nhau trên cơ sở kỳ vọng chung, bao gồm một số vị trí và vai trò để thực hiện các mục tiêu chung. · Nhóm tự nhiên, nhóm được thành lập, nhu cầu gia nhập nhóm của con người trong cuộc sống. · Nhóm nhỏ đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người (liên hệ các nhu cầu cơ bản của Abraham Maslow : Nhu cầu sinh tồn, nhu cầu được an toàn, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu tự thể hiện). · Nhóm nhỏ đóng vai trò thay thế vai trò người MẸ khi ta lớn. 2. Nhóm nhỏ ảnh hưởng mạnh mẽ đến cá nhân theo hướng tích cực và tiêu cực : · Thực nghiệm tâm lý về việc sử dụng thực phẩm (lòng bò) sau Thế chiến thứ II. · Nhóm tạo sự biến chuyển về mặt tâm lý xã hội ở mỗi cá nhân. · Nhóm nhỏ giúp cá nhân thay đổi hành vi ( tích cực hoặc tiêu cực) để thích nghi với vai trò và vị trí mong muốn trong nhóm. · Các yếu tố giúp thay đổi hành vi khi tham gia nhóm : · Cố gắng thích nghi với nhóm. · Quy tắc nhóm tạo áp lực lên các thành viên. · Tự bộc lộ, chia sẻ. · Khám phá bản thân qua sự phản hồi của người khác về mình. · Bắt chước người khác. · Khám phá những Giá trị mới ( Giá trị của nhóm). 3. Các vai trò được thể hiện trong nhóm : - Các đặc điểm tâm lý của nhóm : · Mối quan hệ tương tác · Chia sẻ mục tiêu chung : mục tiêu càng rõ thì mối tương tác càng mạnh. · Hệ thống các quy tắc : sự tuân thủ. · Cơ cấu chính thức và phi chính thức ( cơ cấu ngầm) – Bài tập trắc lượng xã hội (sociogram). Các vấn đề của cơ cấu chính thức và phi chính thức. · Các vai trò thể hiện trong nhóm : vai trò hướng về công việc, vai trò củng cố nhóm, vai trò liên quan đến nhu cầu cá nhân ( hoặc vai trò cản trở hay vai trò thúc đẩy). Các vai trò này luôn biển đổi làm cho nhóm năng động, ảnh hưởng lên từng con người trong nhóm. - 7 -
  8. Các đặc trưng của nhóm bao gồm như : tiểu sử, cách thức tham gia, truyền thông giao tiếp, tính đoàn kết, bầu không khí, cơ cấu và tổ chức, tiêu chuẩn và chuẩn mực, trắc lượng xã hội, lề lối làm việc và mục tiêu. Phần 3 : Tiến trình CTXH nhóm. Mục tiêu : Qua phần này, sinh viên nắm được các bước cần thực hiện khi thực hành CTXH nhóm, những vấn đề cần chú trọng trong vai trò của NVXH để đạt được mục tiêu xã hội. 1. Khái niệm “ tiến trình CTXH nhóm” 2. Tiến trình bao gồm 4 bước : 2.1. Thành lập nhóm : · Đánh giá tình hình, vấn đề và nhu cầu của các thân chủ. · Mục đích thành lập nhóm phải rõ ràng và được mọi người chia sẻ. · Chú ý mục tiêu riêng của cá nhân và mục tiêu chung của nhóm. · Mục tiêu chính là cơ sở để chọn người đưa vào nhóm. · Một số vấn đề khi lập nhóm : tuổi, trình độ văn hóa, giới tính, sở thích. · Xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm, phương cách xây dựng kế hoạch ( chú ý là các hoạt động của nhóm chỉ là công cụ chứ không phải là mục tiêu) 2.2. Khảo sát nhóm : · Tìm hiểu mối quan hệ cá nhân · Tìm hiểu tiến trình · Tìm hiểu chức năng, vai trò của các thành viên nhóm · Tìm hiểu môi trường sinh hoạt nhóm 2. 3. Duy trì nhóm : - Coi trọng cả hai khía cạnh : Công việc và con người - Kế hoạch hoạt động phải phù hợp với nhu cầu và hướng đến mục tiêu thay đổi hành vi, thái độ và trị liệu. - Các phương pháp can thiệp nhằm trị liệu : · Phương pháp căn bản · Phương pháp riêng biệt - Đánh giá thường xuyên : · Hành vi và vai trò của cá nhân trong nhóm, · Quá trình phát triển của nhóm. · Mối quan hệ trong nhóm. - 8 -
  9. 2. 4. Kết thúc nhóm : · Các mục tiêu xã hội đã đạt được. · Công tác đánh giá · Nhóm viên được tăng năng lực giải quyết vấn đề. Phần 4 : Thực hành CTXH Nhóm Mục tiêu : Phần này giúp sinh viên hình dung được một số kỹ thuật thực hành, một công việc mang tính chuyên môn do nhân viên xã hội thực hiện. Qua đó, sinh viên hiểu rõ vai trò và các kỹ năng cần thiết của nhân viên xã hội nhiều hơn trong CTXH nhóm, những điều cần làm và những điều cần tránh. 1. Một số kỹ thuật khảo sát nhóm : · Trắc lượng xã hội ( Vẽ sơ đồ nhóm) · Vẽ sơ đồ Sharon · Mô hình đánh giá : Đối chiếu với kế hoạch trị liệu 2. Kỹ năng viết báo cáo, viết tiến trình nhóm 3. Vai trò của NHân viên xã hội: · Tìm hiểu cơ cấu chính thức và phi chính thức của nhóm, giúp cho hai cơ cấu này gần nhau. · Tác động vào mối tương tác giữa các thành viên trong nhóm, giúp các thành viên nhón kỹ năng diễn đạt. · Am hiểu tâm lý cá nhân và chẩn đoán được diễn biến tâm lý trong nhóm · Phát hiện nhu cầu, khó khăn, thuận lợi của từng cá nhân để có hướng hỗ trợ. · Hỗ trợ nhóm xây dựng chương trình hành động và điều phối các hoạt động của nhóm. · Xác định rõ vai trò của mình : xúc tác hay lãnh đạo ( tùy thuộc vào đặc điểm của từng nhóm). 4. Các kỹ năng trong CTXH nhóm · Kỹ năng điều hành nhóm · Kỹ năng truyền thông · Kỹ năng quan sát · Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn · Kỹ năng viết báo cáo · Kỹ năng đánh giá và nhận diện vấn đề. 5. Một số vấn đề cần quan tâm trong CTXH nhóm. - 9 -
  10. 5. 1. Hiểu biết một số vấn đề của nhóm để tác động hiệu quả : · Khi có vướng mắc trong truyền thông · Khi có mâu thuẫn trong nhóm · Khi có xu hướng thống trị của thiểu số trong nhóm. · Khi có hiện tượng ngôi sao trong nhóm. · Khi có hiện tượng cá nhân bị bỏ rơi trong nhóm. · Khi cơ cấu phi chính thức lấn áp cơ cấu chính thức. 5. 2. Các điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ tương tác và bầu khí tâm lý xã hội: · Mọi người tham gia đồng đều và bình đẳng. · Lấy quyết định một cách dân chủ. · Các mối tương giao thật sự cởi mở và chân tình. · Xây dựng thói quen hợp tác. · NVXH trực tiếp điều hành nhóm hoặc một thành viên của nhóm có khả năng với sự hỗ trợ của NVXH. 5. 3. Vai trò của trưởng nhóm : · Làm rõ các đề nghị · Duy trì thảo luận vào trọng tâm · Khuyến khích sự bộc lộ tự do và có ý nghĩa. · Giúp nhóm lường trước hậu quả của các lựa chọn khác nhau. · Giúp nhóm giải quyết mâu thuẩn · Giúp nhóm lấy quyết định. · Giúp nhóm dấn thân vào hành động. 5.4. Một số điều không nên làm Phần 5 : Kết luận. · Trong CTXH, nhóm là một hệ thống được thiết lập bởi NVXH để phục vụ cho các nhu cầu của các thành viên nhóm. Các thành viên thân chủ này chỉ tham gia vào nhóm khi nhóm đó thực sự phục vụ nhu cầu của nhóm. · Nhóm là môi trường giúp đỡ song phương. · Điều mà NVXH cần tránh là làm nhân vật trung tâm. III. Thực hành tại lớp : Các sinh viên sẽ thực hành trên phân tích nhóm học tập của sinh viên để hiểu về mối quan hệ, vai trò của các thành viên nhóm, vai trò lãnh đạo trong nhóm. Sau đó, sinh viên sẽ phân tích các trường hợp CTXH nhóm đã có để nhận thức về tiến trình can thiệp của NVXH trong phương pháp này. VI. ĐÁNH GIÁ - 10 -
  11. Thi cuối kỳ 70%, tham gia tại lớp 30% VII. SÁCH GIÁO KHOA [1] Andrea Bernstein & Jacquie Withers, Social Work, a beginner’s text, Juta &Company Ltd, 1997. [2] Mary Ann Forgey & Carol S. Cohen, CTXH chuyên nghiệp, Khoa Phụ nữ học, ĐHMBC TP.HCM, 1997. [3]. Nguyễn Ngọc Lâm, Khoa học giao tiếp, Khoa PNH, ĐHMBC TP.HCM., 1998. [4] Nguyễn Thị Oanh, CTXH đại cương, NXB Giáo dục, 1998. [5] Ronald W. Toseland, Robert F.Rivas, An introduction to Group work Practice, 3d Edition, Allyn &Bacon, USA, 1997. VIII. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Pamella Klein Odhner, Giới thiệu thực hành CTXH, tập 1-2, tài liệu tập huấn, 1998. [2] Hội Chữ Thập Đỏ Việt nam, Tài liệu tập huấn CTXH, Hà nội, 1997. MỤC LỤC Nội dung Trang Phần 1 : Tổng quan về CTXH nhóm 1. Khái niệm 2. Các mục tiêu của CTXH nhóm 3. Các đặc điểm của CTXH với nhóm 4. Các loại hình CTXH nhóm 5. Những thuận lợi và bất lợi trong trị liệu thông qua nhóm 6. Sự khác biệt giữa CTXH cá nhân và CTXH nhóm 7. Các quy điều đạo đức trong CTXH nhóm 8. Lịch sử phát triển phương pháp CTXH nhóm - 11 -
  12. 9. Các thuyết ảnh hưởng đến phương pháp CTXH nhóm Phần 2 : Năng động nhóm. 1. Tầm quan trọng của Nhóm nhỏ trong cuộc sống của chúng ta 2. Bản chất của nhóm Phần 3 : Tiến trình CTXH nhóm. 1. Thành lập nhóm 2. Khảo sát nhóm 3. Duy trì nhóm 4. Kết thúc nhóm Phần 4 : Thực hành CTXH nhóm 1. Vẽ sơ đồ nhóm 2. Vẽ sơ đồ Sharon 3. Đối chiếu với kế hoạch trị liệu 4. Các báo cáo 5. Viết tiến trình nhóm 6. Vai trò của nhân viên xã hội 7. Các kỹ năng trong CTXH nhóm 8. Một số vấn đề cần quan tâm trong CTXH nhóm Phần Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục Một số trường hợp thực hành công tác xã hội nhó PHẦN MỘT TỔNG QUAN CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM Mục tiêu của phần một : Giúp sinh viên nhận thức về khái niệm và mục tiêu của CTXH nhóm . CTXH nhóm là một phương pháp trong CTXH và các loại hình ứng dụng phương pháp nầy. 1. Công tác xã hội nhóm là gì ? - 12 -
  13. CTXH nhóm là phương pháp trong CTXH nhằm giúp tăng cường, củng cố chức năng xã hội của cá nhân thông qua các hoạt động nhóm và khả năng ứng phó với các vấn đề của cá nhân , có nghĩa là : · Ứng dụng những kiến thức, kỹ năng liên quan đến tâm lý nhóm (hoặc năng động nhóm) · Nhóm nhỏ thân chủ có cùng vấn đề giống nhau hoặc có liên quan đến vấn đề. · Các mục tiêu xã hội được thiết lập bởi NVXH trong kế hoạch hỗ trợ thân chủ (cá nhân, nhóm, cộng đồng) thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin nhằm giúp thân chủ tăng cường năng lực đối phó, chức năng xã hội thông qua các kinh nghiệm của nhóm có mục đích nhằm để giải quyết vấn đề của mình và thỏa mãn nhu cầu. Konopka (1963) xác định phương pháp công tác xã hội nhóm là một phương pháp của ngành công tác xã hội giúp những cá nhân tăng cường chức năng xã hội của họ thông qua các kinh nghiệm của nhóm mục tiêu và khắc phục một cách hiệu quả hơn các vấn đề của cá nhân, nhóm và cộng đồng. Công tác xã hội nhóm tạo một bối cảnh trong đó các cá nhân hỗ trợ lẫn nhau, làm cho cá nhân và nhóm có khả năng ảnh hưởng và làm thay đổi các vấn đề của cá nhân, của nhóm, của tổ chức và của cộng đồng. Nó mang tính chất chức năng xã hội nhiều hơn và chính điều này làm cho nó khác hơn với nhóm trị liệu vì nhóm trị liệu chú trọng nhiều hơn các nhu cầu cảm xúc và các tiến trình tâm lý. Mục đích của CTXH là giúp thân chủ (cá nhân) hay hệ thống thân chủ (nhóm hay cộng đồng) thỏa mãn nhu cầu, giải quyết vấn đề, tiến tới tự giúp và đóng trọn vẹn vai trò xã hội của mình, mặc dù kết quả nhắm tới là một đối tượng và phương pháp tác động khác nhau. Trong phương pháp cá nhân, đối tượng được tác động vào là chính cá nhân người được giúp đỡ. Công cụ là mối quan hệ giữa NVXH và thân chủ. Trong phương pháp nhóm, đối tượng tác động vào là toàn nhóm, là mối tương tác giữa các nhóm viên, là mục đích, bầu không khí, sinh hoạt nhóm. CTXH nhóm là sử dụng cơ cấu nhóm và năng động trong nội bộ nhóm để đem đến những thay đổi về nhận thức, niềm tin và hành vi. Các thành viên nhóm chia sẻ kinh nghiệm và sử dụng nguồn lực của cá nhân và của nhóm để giải quyết vấn đề của họ. Trong phát triển cộng đồng, đối tượng là các tập thể khác nhau trong cộng đồng, mối tương quan sức mạnh giữa họ, những vấn đề của cộng đồng với mục đích cuối cùng là làm tăng khả năng tự giải quyết vấn đề cộng đồng. 2. Các mục tiêu của công tác xã hội nhóm : - 13 -
  14. CTXH nhóm nhắm vào các mục tiêu như sau : - Khảo sát về các đặc điểm của cá nhân : Thông qua các sinh hoạt nhóm, NVXH (tác viên nhóm), các nhóm viên có thể phát hiện nhu cầu/khả năng/hành vi của mỗi cá nhân trong nhóm thông qua sự bộc lộ và tự đánh giá của ho (nhóm trẻ em/người lớn phạm pháp, nhóm cha mẹ nuôi, nhóm trẻ em đường phố). Từ những khám phá này, tác viên nhóm xây dựng chiến lược để đáp ứng nhu cầu, giúp chuyển đổi hành vi và giải quyết vấn đề. - Duy trì và hỗ trợ cá nhân : Cá nhân tham gia vào nhóm cảm thấy an toàn hơn. Nhóm hỗ trợ cá nhân đương đầu với những khó khăn trước hoàn cảnh xã hội (nhóm người khuyết tật, nhóm phụ huynh khuyết tật, nhóm sinh viên đi học xa nhà có nhu cầu rất mạnh tham gia nhóm cùng hoàn cảnh để chăm sóc cho nhau) - Thay đổi cá nhân : Nhóm có tác dụng giúp cá nhân thay đổi những hành vi cá biệt và phát triển nhân cách thông qua các yếu tố kiểm soát xã hội (nhóm vi phạm luật pháp nhằm tránh tái phạm trong tương lai), xã hội hoá (nhóm trẻ trong cơ sở tập trung học tập kỹ năng xã hội để tái hòa nhập cộng đồng), hành vi tương tác (nhóm huấn luyện để tự khẳng định); Giá trị và thái độ mới (nhóm sử dụng ma túy nhằm tác động đế thay đổi Giá trị và thái độ của họ), hoàn cảnh kinh tế (nhóm người thất nghiệp với mục đích tìm việc làm), cảm xúc và khái niệm về bản thân (nhóm phát triển lòng tự trọng, tăng năng lực). Bà D. tới gặp NVXH và than rằng chồng bà từ ngày thất nghiệp thay đổi tánh tình hay uống rượu, ít quan tâm đến gia đình. Tới lượt ông chồng thì cho rằng từ ngày ông mất việc, bà hay nói xiên nói xéo rằng cuộc sống gia đình khó khăn, bà phải làm việc gấp đôi, ngụ ý là ông không làm tròn bổn phận nên ông buồn chán, mặc cảm. Từ đó cuộc sống trong gia đình căng thẳng. Đứa con trai vị thành niên bỏ nhà ra đi v.v ở đây nếu làm việc với cả hai vợ chòng, hay với cả gia đình thì sẽ kết quả hơn vì NVXH có thể tạo điều kiện cho đôi bên đối thoại trong một bầu không khí thuận lợi. Khi một số người có vấn đề hay nhu cầu giống nhau như một nhóm phụ nữ mới sinh con lần đầu biết thêm về cách nuôi dạy con, một nhóm bệnh nhân tâm thần trong giai đoạn phục hồi, một nhóm trẻ em bỏ học. ở đây tính chất đồng cảnh đồng thuyền làm cho đối tượng cảm thấy mình không phải lẻ loi, gặp người cùng cảnh ngộ họ cảm thấy vơi đi phần nào trước khó khăn. Khi trao đổi với nhau vấn đề người này làm cho người kia sáng ra về chính mình. Hơn hết, sự khuyến khích giúp đỡ lẫn nhau của chính thân chủ là một nguồn động viên lớn. Có người nhờ đóng vai trò giúp đỡ người khác mà thoát ra khỏi khó khăn của chính mình. Từ nhóm sẽ có nhiều sáng kiến để giải quyết vấn đề. ở đây tác động của nhóm - 14 -
  15. sẽ mang lại hiệu quả cao hơn là những cuộc tiếp xúc cá nhân giữa tác viên và thân chủ. Có khi người ta ngại cuộc trao đổi mặt đói mặt trong bầu không khí nghiêm trang. Bầu không khí nhóm sẽ ít có vẻ long trọng và họ sẽ thoải mái hơn. Nhóm trở thành một nguồn lực giải quyết vấn đề quý giá. Dĩ nhiên nhờ sự tác động của tác viên vào diễn tiến của nhóm thì nhóm mới sinh hoạt thuận lợi. Một lý do cuối cùng để người ta sử dụng nhóm là sự tiện lợi, đỡ mất thời giờ. Ví dụ như phổ biến một số thông tin cho các bà mẹ về kế hoạch hóa gia đình khi họ chờ để khám thai. Nếu có nhiều câu hỏi, trao đổi giữa các bà mẹ thì lượng thông tin sẽ có tác dụng hơn. Tuy nhiên cũng không nên quên rằng có những trường hợp không phù hợp với phương pháp nhóm. - Cung cấp thông tin, giáo dục : Nhóm giáo dục sức khỏe, nhóm kỹ năng làm cha mẹ, nhóm tình nguyện viên. - Giải trí : Vui chơi để đền bù sự mất mát trong cuộc sống. Nếu một người cô đơn hay suy nghĩ tiêu cực có thể có hành vi tiêu cực, buông xuôi; người khuyết tật hay có tâm trạng chán đời, mang hình ảnh bản thân thấp kém và sống tách biệt với những người xung quanh. Chính môi trường sinh hoạt giải trí vui chơi trong nhóm giúp cho con người cảm thấy lạc quan hơn và tăng cường mối quan hệ. Tạo điều kiện cho cá nhân có môi trường trung gian giữa cá nhân với một hệ thống xã hội : Nhóm bệnh nhân và bệnh viện, nhóm phụ nữ nghèo và Quỹ vay vốn, nhóm trẻ đường phố và trường học hay trung tâm dạy nghề Nhóm PN nghèo quỹ vay vốn NVXH TT Dạy nghề NVXH nhóm tđp Tác động Trường học - 15 -
  16. - Thay đổi và/ hoặc hỗ trợ : Ở đây thường là các nhóm mà NVXH thường xuyên tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau như: · Nhóm gia đình (nhưng đòi hỏi kỹ năng chuyên môn, tay nghề giỏi mới làm được, khả năng thành công không cao như ở các nhóm khác), NVXH giúp cải thiện những trục trặc trong truyền thông và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. · Nhóm trẻ phạm pháp : NVXH định hướng chuyển đổi các hành vi tiêu cực của trẻ bằng những hoạt động tích cực tại địa bàn dân cư. - Thay đổi môi trường : Nhóm trong dự án phát triển cộng đồng – nhóm ở cơ sở cải thiện chất lượng cuộc sống, nhóm phụ huynh của một trường học mẫu giáo Thu nhập thấp Thu nhập khá hơn Mất vệ sinh Vệ sinh hơn MT nghèo khó MT thoải mái hơn Bạo lực Bạo lực giảm VD: Tại Trường mẫu giáo, khi họp phụ huynh, người ta thường đánh giá về cô giáo, cách dạy, vấn đề ăn uống, cách đối xử của cô giáo đối với học sinh -> nhằm thay đổi môi trường. - Thay đổi nhận thức xã hội : Nhóm giúp tăng cường nhận thức của cá nhân và xã hội về một vấn đề nào đó, ví dụ nhóm người khuyết mong muốn xã hội nhìn nhận họ như là người bình thường, tạo điều kiện và cơ hôi cho họ hòa nhập tốt hon là coi họ như người cần phải cưu mang, bố thí. Càng xem họ như vậy thì họ càng tuổi thân, tự ti và cảm thấy là gánh nặng cho xã hội. Mục tiêu xã hội được lập bởi NVXH nằm trong một kế hoạch nhằm thay đổi hành vi, thái độ, niềm tin, thói quen, quan điểm, giúp thân chủ tăng năng lực để đối phó với những khó khăn trong cuộc sống. - 16 -
  17. Do tác động qua mối tương tác giữa các thành viên trong nhóm, mối tương tác này là công cụ chính dẫn đến sự thay đổi của nhóm viên, khác với CTXH cá nhân là mối quan hệ tương tác giữa thân chủ và NVXH. 3. Các đặc điểm của công tác xã hội nhóm : · Hoạt động nhóm là nơi giúp thoả mãn nhu cầu của cá nhân.Thông qua môi trường sinh hoạt nhóm, cá nhân được đáp ứng nhu cầu giao tiếp. Mối quan hệ tương tác trong nhóm giúp họ chấp nhận nhau, tôn trọng nhau và từ đó nhờ vào sự tác động của NVXH tạo được một môi trường thuận lợi cho việc phát huy năng lực. · Đối tượng tác động là mối quan hệ tương tác trong nhóm. Chính mối quan hệ tương tác này là công cụ chính trong CTXH nhóm để đạt các mục tiêu xã hội. Quan tâm NVXH tác động · Nhóm tăng cường khả năng tự giải quyết vấn đề thông qua ảnh hưởng của người khác, cá nhân bắt chước và học tập kinh nghiệm của người khác. · Ảnh hưởng nhóm giúp thay đổi hành vi, thái độ của cá nhân · Nhóm là môi trường bộc lộ về các mặt : cá tính, suy nghĩ, tâm sự · Chương trình hoạt động là một công cụ của công tác xã hội nhóm : Trị liệu thông qua nhóm nhằm giúp cho thân chủ bộc lộ được cảm xúc, diễn đạt được cảm nghĩ, tâm tư của mình cho nên nói, đối thoại là hoạt động chủ yếu. Diễn kịch, vẽ hay một vài hình thức nghệ thuật khác được sử dụng nhưng mục đích không phải nhắm vào khía cạnh kỹ thuật diễn hay vẽ mà chỉ tạo điều kiện cho sự bộc lộ. Trong CTXH nhóm ngoài những hình thức trên, chương trình là công cụ chủ yếu, nhất là khi CTXH nhằm vào mục đích xã hội hóa. Các hoạt động giải trí, thể dục thể thao, học kỹ năng sẽ là điểm thu hút và quy tụ nhóm viên. Chương trình có mục tiêu sẽ là - 17 -
  18. động lực liên kết để vươn tới. Ví dụ sinh hoạt văn nghệ với mục đích luyện tập cho một buổi biểu diễn thời trang nội bộ, tập kịch để trình diễn vào cuối năm, sưu tầm các văn bản, hiện vật tiến tới một cuộc triển lãm về truyền thống v.v Nếu có nhiều nhóm khác nhau cùng nhằm tới một mục đích, sẽ có sự tranh đua lành mạnh giữa các nhóm. Chương trình còn giúp giới trẻ phát huy tiềm năng học tập các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống. Chương trình đối với một nhóm hành động có thể là cải thiện môi sinh, giải quyết một vấn đề khu phố. Chương trình cần được nghiên cứu, chuẩn bị cho phù hợp và mang tính thu hút cao đối với đối tượng. NVXH trong CTXH nhóm không nhất thiết là người giỏi về kỹ năng sinh hoạt vì họ có thể mời sự hợp tác của các chuyên viên, và huy động tiềm năng của chính nhóm viên. Tuy nhiên, nếu là một NVXH thường xuyên phụ trách sinh hoạt trẻ thì kỹ năng sinh hoạt hay thủ công rất cần thiết. Hoạt động cụ thể (lao động) rất tốt về mặt ổn định tâm lý và tạo cơ hội tương tác thật. Có điều cần nhắc lại là chương trình là công cụ, không phải cứu cánh. Mục đích cuối cùng của CTXH nhóm không phải là một vở diễn xuất sắc, một cuộc triển lãm hay mà là sự phục hồi hay tăng trưởng của nhóm viên, khả năng hợp tác, liên kết, kỹ năng giao tiếp v.v Khác với một lớp dạy nghề chẳng hạn mà mục đích cuối cùng là sự chuyên môn hóa học viên. Chương trình và tiến trình tâm lý xã hội phải được quyện vào nhau. Đặt nặng khía cạnh nào tùy mục tiêu của nhóm. Nhưng ví dụ đối với một nhóm thiếu nữ nghèo (ít được chăm sóc) trong một lớp học may thì cả hai mục tiêu: huấn nghệ và giáo dục phát triển nhân cách đều quan trọng như nhau. Vì khía cạnh tâm lý xã hội khó nắm bắt nên thường các CLB đội nhóm chỉ quan tâm đến khía cạnh kỹ thuật của sinh hoạt. 7 yếu tố cần quan tâm trong công tác xã hội nhóm : · Đối tượng là ai ? · Nơi sinh hoạt, bối cảnh sinh hoạt có thuận lợi không vì nhóm rất cần có môi trường hội họp và sinh hoạt vui chơi giải trí. · Nhu cầu gì cần được đáp ứng (nhu cầu thông tin, nhu cầu tìm việc làm, nhu cầu đào tạo nghề ). Một nhóm có nhu cầu giống nhau thì sẽ đồng nhất và thể hiện sự quan tâm, hòa hợp mạnh mẽ hơn. Ở một nhóm có nhu cầu và mối quan tâm khác nhau, sự tham gia vào hoạt động chung của nhóm sẽ bị giới hạn nhiều. · Mục tiêu cần đạt được là gì ? Mục tiêu là giải quyết vấn đề của nhóm viên, nhóm viên thay đổi niềm tin, thái độ, hành vi và có khả năng đương đầu - 18 -
  19. với những khó khăn mới. Cần phân biệt giữa mục tiêu của các hoạt động và mục tiêu xã hội. · Giá trị: sinh hoạt nhóm dựa trên quan điểm gì ? (Tại sao phải lập nhóm?) Nhóm người cai nghiện tại cộng đồng : Giá trị là tăng sức mạnh trong nỗ lực cai nghiện và cương quyết không tái nghiện. Nhóm Phụ nữ tín dụng tiết kiệm : Giá trị là giúp họ có khả năng thoát nghèo và tiếp cận được các tài nguyên xã hội). · Lý thuyết: sử dụng lý thuyết nào và cơ sở lý luận của nó? Chủ yếu là dựa trên lý thuyết về tâm lý và năng động nhóm. · Phương cách thực hành ; cơ cấu (số lượng, thành phần, tuổi, giới tính, trình độ), vai trò (vai trò do phân công, vai trò thể hiện theo tình huống, cảm xúc, công việc khi sinh hoạt nhóm), trách nhiệm, mối quan hệ bên trong ( cơ cấu phi chính thức và chính thức) và bên ngoài nhóm (quan hệ với tài nguyên bên ngoài), các loại hoạt động nào được sử dụng, cách thức tổ chức 4. Các loai hình công tác xã hội nhóm: · Nhóm giải trí : rèn luyện đạo đức và phát triển nhân cách. Mỗi hình thức và nội dung giải trí được nhân viên xã hội (NVXH) chọn lựa đều có mục đích xã hội (Trong nhà Mở, chiếu phim truyện cho trẻ xem hoặc kể chuyện cho trẻ nghe, sau đó cho các em thảo luận về nội dung, giúp trẻ phân biệt cái tốt/cái xấu cần tránh. · Nhóm giáo dục : Giáo dục về kiến thức và kỹ năng (Nhóm các bà mẹ phòng chống suy dinh dưỡng cho con, nhóm chăn nuôi, nhóm đồng đẳng HIV/AIDS · Nhóm tự giúp : Nhóm hỗ trợ nhau để vượt khó (Nhóm người khuyết tật, nhóm đồng đẳng, nhóm cai nghiện ). Thường nhóm được NVXH giúp trong giai đoạn đầu, sau đó rút dần vai trò để nhóm tự đề ra các hoạt động, khi cần thiết thì NVXH mới can thiệp. · Nhóm với mục đích xã hội hóa hay tái xã hội hóa : Nhóm giúp tăng cường khả năng xã hội. Ví dụ : Nhóm trẻ có hành vi không thích nghi (nhóm học sinh cá biệt tại trường học, nhóm trẻ đường phố ). Mục đích ở đây là phát triển nhân cách, giáo dục con người. Đi từ thấp đến cao có nhóm giải trí, nhóm kỹ năng cho trẻ em và thanh thiếu niên như hướng đạo, đọi nhóm CLB. Nhưng ở đây khía cạnh tâm lý xã hội được quan tâm nhiều chứ không chỉ chú trọng đến dạng kỹ năng. Đối với trẻ em và thanh thiếu niên đây là một môi trường xã hội hóa bổ sung cho gia đình và trường học hết sức quan trọng. Trước tiên những nhu cầu cơ bản kể ở phần trên được - 19 -
  20. đáp ứng để dần tới những nhân cách lành mạnh, sung mãn. Kế đó sẽ có những con người tháo cát, biết hợp tác, cống hiến cho xã hội. Đó là nói đến các đối tượng bình thường. CTXH nhóm còn nhằm đặc biệt đến những thanh thiếu niên do hoàn cảnh đẩy đưa tới cuộc sống theo băng nhóm, phá quậy. Bằng cách từ từ lôi cuốn họ tham gia vào các hoạt động giải trí, thể dục, thể thao, văn hóa xã hội, họ sẽ thay thế những hành vi chống xã hội bằng những hành vi tích cực. Đó là mục đích tái xã hội hóa. Công việc này tất nhiên rất khó khăn. Thường thì các tác viên xã hội phải “thâm nhập” các băng nhóm sẵn có để tìm hiểu và từ từ giúp thay đổi cơ chế của nhóm cũng như hướng tới các hoạt động mang tính tích cực xã hội. Cũng có khó các nhóm được thành lập tại các trung tâm xã hội hay cộng đồng. · Nhóm trị liệu : Nhóm là môi trường chia sẻ cảm xúc và trao đổi những kinh nghiệm, những vấn đề gặp phải (Nhóm cai nghiện, nhóm gia đình ). Nhóm gặp nhau định kỳ, trao đổi, tâm sự những vấn đề của mình (thất bại trong cuộc sống, phản hồi, góp ý cho nhau, cá nhân nhìn thấy vấn đề rõ hơn và có hướng giải quyết vấn đề). Ở đây là những đối tượng có vấn đề tâm lý mà thay vì chỉ dùng biện pháp cá nhân, sinh hoạt nhóm sẽ giúp thân chủ có điều kiện tâm lý xã hội tốt hơn để tự bộc lộ, thay đổi thái độ, hành vi (nhóm nghiện ma túy đang trên đà phục hồi chẳng hạn). Khi vấn đề nằm ở mối quan hẹ như thành viên một gia đình, CTXH nhóm vừa giúp cá nhân có vấn đề vừa giúp điều chỉnh lại mối quan hệ. · Nhóm trợ giúp : Nhóm giúp tăng cường khả năng đồng cảm với người khác (Nhóm đồng đẳng HIV/AIDS vừa là tự giúp nhau vừa tác động xã hội để xã hội hiểu biết và đồng cảm với họ, không phân biệt đối xử ). · Nhóm hành động (nhằm cải tạo môi trường và điều kiện xã hội) Trong đời sống hàng ngày con người tự nguyện liên kết với nhau để giải quyết những vấn đề chung như cải thiện nhà ở, bảo vệ môi trường v.v hay các quyền lợi khác. Ngày nay có nhiều nhóm gọi là “nhóm tự giúp” là các tổ chức do chính những người trước đó cần rất nhiều sự giúp đỡ của tổ chức và NVXH. Đó là những cựu bịnh nhân các loại, những người khuyết tật, những người trước kia là nạn nhân xã hội đã và đang vươn lên để thật sự tự giúp mà không còn phụ thuộc vào sự trợ giúp bên ngoài nữa. Người nghèo nhiều nơi đã liên kết tự giúp để thoát khỏi nghèo đói và đưa cộng đồng họ đi lên. Các tác giã phân chia CTXH nhóm theo nhiều cách, nhưng nói chung có thể gom lại vào ba hạng mục tổng hợp trên. Thực chất ở mỗi loại có nhấn mạnh một khía cạnh như trị liệu, xã hội hóa, hay hành động nhưng không có ranh giới giữa ba cấp độ. Nhóm người cựu nghiện ma túy một khi được trị liệu có thể trở thành một nhóm hành động để giúp đỡ những người đồng cảnh. Một nhóm hướng đạo khi trưởng thành tiếp tục các hoạt động vì lợi ích xã hội trong cộng đồng. Đối với các nhóm hành động dù mục đích cuối cùng là hướng ngoại, là cải thiện môi trường xung quanh nhưng để - 20 -
  21. hành động như một nhóm các thành viên cũng phải có những hiểu biết và kỹ năng tâm lý xã hội để hoạt động có hiệu quả. Từ đó thông qua hành động họ cũng có những thay đổi trong nhân cách, cải thiện mối quan hệ giữa người và người. Trong PTCĐ, chính các nhóm hành động nhằm giải quyết các mục tiêu khác nhau là động lực để cải thiện đời sống cộng đồng. · Công tác xã hội nhóm và các ngành khác liên quan đến nhóm Giữa các khoa như năng động nhóm, CTXH nhóm, trị liệu nhóm có những khác biệt như thế nào? Thực chất các lãnh vực này rất gần gũi. Sự khác biệt xuất phát từ mục tiêu, và một số khía cạnh về phương pháp. Các khóa học về năng động nhóm (Group Dynamics) thường gọi là T Group (Training Group), Sensitivity Training Group thông qua thảo luận và một số phương pháp khác như sắm vai (role playing), trò chơi v.v nhằm mục đích đào tạo. Đây là một môn tâm lý xã hội ứng dụng nhằm giúp học viên trở thành nhạy bén (sensitive) hơn về tâm lý nhóm, về mối tương tác trong nhóm, về chính mình trong nhóm. Mọi thành phần trong xã hội có thể tham dự các khóa học về năng động nhóm để tăng kỹ năng giao tiếp, lãnh đạo trong gia đình, giáo dục, nhà quản lý. Nhân viên CTXH phải có kiến thức và kỹ năng cơ bản về năng động (hay tâm lý) nhóm mới có thể thực hiện CTXH nhóm. Trị liệu nhóm (Group therapy) nhằm trị liệu cá nhân các bịnh nhân tâm thần, những người bị rối loạn, ức chế tâm lý khá sâu. Mối tương tác giữa bịnh nhân được sử dụng để hỗ trợ quá trình trị liệu nhưng công tác này đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về tâm lý, tâm lý trị liệu và tâm thần học. Gia đình trị liệu (GĐTL), là một phương pháp sử dụng gia đình như một nhóm. Nó nhằm giải quyết những vấn đề của cá nhân thông qua sự điều tiết lại các mối quan hệ vợ chồng con cái. Xuất phát ít nhiều từ dịch vụ xã hội nhóm, GĐTL nhắm vào các gia đình có vấn đề tâm lý, tâm thần trầm trọng và rạn nứt nặng. GĐTL đã trở thành một ngành riêng kết hợp kiến thức tâm lý học, tâm thần học và CTXH. Một số NVXH đã trở thành chuyên viên GĐTL nhưng phải thông qua đào tạo thật vững chắc mới hành nghề này được. CTXH nhóm nhằm vào người bình thường cũng như có vấn đề nhưng ở mức độ vừa phải. Khác với nhà tâm lý trị liệu mà mục đích chuyên môn là giúp cho thân chủ sáng tỏ và có sức mạnh nội tâm để giải quyết khó khăn, NVXH còn phải giúp người đó vận dụng tài nguyên trong xã hội như tìm công ăn việc làm, nắm vững luật bảo hiểm xã hội, biết cách xin trợ cấp, tìm nơi gởi con tạm v.v Trong CTXH nhóm không chỉ có thảo luận trao đổi mà còn cần tới nhiều loại hình sinh hoạt như thể dục thể thao, ca hát, thủ công, kỹ năng đủ loại từ kỹ thuật đến xã hội. Ví dụ đối với trẻ em không thể ngồi thảo luận và với các cụ già không thể không có những cuộc du ngoạn, dã ngoại, đan móc v.v - 21 -
  22. Tuy nhiên nhiều nơi coi các sinh hoạt này là mục tiêu thay vì chỉ là những phương tiện, công cụ để đạt tới các mục tiêu trị liệu hay xã hội hóa. 5. Những thuận lợi và bất lợi trong trị liệu thông qua nhóm 5.1 Những thuận lợi : · Nhóm giúp có những kinh nghiệm xã hội : Trao đổi và bộc lộ cho nhau · Nhóm là nguồn hỗ trợ lẫn nhau và giải quyết vấn đề · Nhóm giúp thay đổi thái độ, cảm xúc, hành vi do mối tương tác xã hội và phản hồi, cá nhân khám phá về bàn thân và hiểu được người khác (cửa sổ Johari) · Mỗi thành viên trong nhóm là một người có tiềm năng giúp đỡ. Vai trò của NVXH và thân chủ ít phân biệt được trong nhóm do có sự chia sẻ lãnh đạo giữa các thành viên trong nhóm và NVXH cũng là một thành viên. · Nhóm có thể dân chủ và tự quyết, cung cấp nhiều quyền lực hơn cho nhóm viên · Nhóm thích hợp cho các đối tượng thụ hưởng dịch vụ và tiếp cận các tài nguyên được dễ dàng hơn ( Y tế, giáo dục, vốn, ) · Nhóm có thể tiết kiệm thời gian và năng lực của NVXH 5.2 Những bất lợi : · Việc bảo mật khó duy trì trong CTXH nhóm hơn là trong CTXH cá nhân. · Sinh hoạt nhóm phức tạp, mất nhiều thời gian và đòi hỏi ở khả năng chuyên môn của NVXH. · Nhóm được thành lập có khó khăn để hoạch định, tổ chức và thực hiện. Công việc chuẩn bị cho loại nhóm nầy là quan trọng, có nhiều khó khăn cản trở phải khắc phục ở cấp độ nhóm viên, đồng nghiệp và cơ quan. · Nhóm cần nhiều tài nguyên : NVXH có thể phải thương lượng để có những tiện nghi, quỹ, trang thiết bị, di chuyển · Cá nhân ít được quan tâm riêng trong nhóm. Một số cá nhân, ít nhất là ở vào giai đoạn phát triển nào đó không thể ứng phó với việc chia sẻ, cạnh tranh trong bối cảnh nhóm, họ cần một sự quan tâm đặc biệt của một mối quan hệ cá nhân. Trong nhóm họ có thể disruptive, thụ động, tổn thương - 22 -
  23. hay là vật tế thần. Đôi khi một thời gian công tác với cá nhân có thể chuẩn bị tốt cho sự tham gia nhóm. · Cá nhân dễ bị “dán nhãn” hơn. Thí dụ nhóm phụ huynh đơn thân, nhóm trẻ trốn học, nhóm nghiện rượu · Nhóm có thể nguy hiểm đối với một thiểu số nhỏ. Nhóm và người hướng dẫn nhóm có thể tấn công một cá nhân, từ chối cá nhân. Lãnh đạo nhóm như thế nào sẽ giảm thiểu được nguy cơ nầy (liên quan đến kỹ năng lãnh đạo nhóm). Hơn nữa nếu trong sinh hoạt dân chủ, việc thiểu số phục tùng đa số có thể đưa đến sự ức chế ở thiểu số. Cơ cấu ngầm có thể xuất hiện và “chọi” lại cơ cấu chính thức. 6. Sự khác biệt giữa công tác xã hội cá nhân và công tác xã hội nhóm · CTXH cá nhân : khám phá bên trong liên quan đến các tiếp cận diễn biến tâm lý với sự chuẩn bị tài nguyên thật cụ thể trong khi CTXH nhóm dựa trên chương trình hoạt động kích thích nhóm viên hoạt động · Cá nhân nhắm đến giải quyết vấn đề và phục hồi trong khi CTXH nhóm · Đối tượng của CTXH cá nhân phần lớn là người kém nay mắn, thiếu thốn, kém năng lực (từ được dùng là thân chủ) trong khi đối tượng của CTXH nhóm bao gồm nhiều loại thành phần hơn (từ nhóm viên, thành viên hơn) CTXH cá nhân CTXH Nhóm · Quan hệ cá nhân với cá nhân · Quan hệ NVXH – Nhóm : Mối (NVXH – Thân chủ ) quan hệ tương tác trong nhóm là Mối quan hệ là công cụ thực hành công cụ thực hành · Quan tâm nhiều đến mặt tâm lý để · Quan tâm bầu không khí nhóm giải quyết vấn đề (diễn biến tâm trạng để trị liệu, giải quyết vấn đề. bên trong. · Đối tượng được gọi là thành viên · Thân chủ là người kém may mắn, ( không gọi là TC ). bị thiệt thòi · Kết quả để báo cáo: quan tâm (Đối tượng được gọi là thân chủ) đến tiến trình. · Kết quả để báo cáo: vấn đề có được · Tiến trình thay đổi dựa vào năng giải quyết hay không. động nhóm để đạt mục tiêu xã hội · Quá trình thay đổi dựa vào nổ lực · Giải quyết vấn đề ở cấp trung mô. cá nhân (hỗ trợ NVXH, tài nguyên) · NVXH ủy thác một số việc làm cho · Giải quyết vấn đề ở cấp vi mô. nhóm, NVXH theo dõi chỉ khi nào · NVXH chủ động nhiều hơn, nhưng có trục trặc mới tham gia giải quyết một NVXH giỏi phải biết tận dụng giúp nhóm. tài nguyên cộng đồng để hỗ trợ cho TC · Sử dụng phương pháp sinh hoạt nhóm, quan sát, năng động nhóm. - 23 -
  24. · CTXH cá nhân dùng phương pháp · NVXH có kỹ năng: quan sát, điều vấn đàm, tìm hiểu tiểu sử, nhận diện hòa vấn đề. sinh hoạt, điều hòa sự tham gia, can thiệp, phát hiện xung đột để giải · NVXH quan tâm đến mặt yếu của TC quyết xung đột đó. · Quan tâm nhiều ở mặt mạnh Điều cần lưu ý là trong lúc thực hành CTXH nhóm, NVXH có thể thực hành CTXH cá nhân khi một cá nhân trong nhóm có vấn đề riêng biệt cần phải giải quyết riêng lẻ. Do đó NVXH vừa làm CTXH nhóm vừa làm CTXH cá nhân. 7. Các qui điều đạo đức trong công tác xã hội nhóm Trong Công tác xã hội nhóm, nhân viên xã hội phải tuân thủ các giá trị đạo đức nghề nghiệp chung áp dụng cho thực hành công tác xã hội (xem phần Công tác xã hội đại cương), tuy nhiên, Hinchman (1977) sau khi phân tích thực hành công tác xã hội nhóm ở số trẻ em bệnh tâm thần nhẹ cùng với các dịch vụ hỗ trợ gia đình của số trẻ này đã đưa ra những kết luận về những giá trị cơ bản của CTXH với nhóm : · giá trị và nhân phẩm của mọi cá nhân là mối quan tâm hàng đầu của ngành CTXH · Phải tạo cơ hội cho cá nhân thể hiện tối đa tiềm năng phát triển của họ trong suốt cả cuộc đời của họ. · Mỗi con người đều có những nhu cầu cơ bản như nhau, nhưng mỗi người là hoàn toàn duy nhất và khác biệt với mọi người khác. · Ngoài sự phát triển các dịch vụ để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết, xã hội phải thiết lập các dịch vụ để làm cho xã hội phát triển tốt đẹp hơn · Sự can thiệp cấp thời không thể thay thế sự phòng ngừa · Mọi Giá trị của nghề nghiệp phải được ứng dụng một cách chặt chẻ đối với người lớn cũng như đối với trẻ em. 8. Lịch sử phát triển phương pháp công tác xã hội nhóm Sử dụng nhóm trong CTXH như một phương pháp giúp đỡ tương đối mới, chỉ mới từ thập niên 1930s, công tác nhóm mới được thừa nhận là một phần của nghề CTXH. Sử dụng nhóm như một phương tiện trị liệu trong bệnh viện, phòng khám chỉ mới bắt đầu trong thế chiến thứ 2. Tại Anh : - 24 -
  25. Phương pháp nhóm bắt nguồn ở Anh vào thế kỹ 19, vào thời điểm có nhiều biến động và thay đổi từ cuộc cách mạng kỹ nghệ. Sự hình thành hệ thống các nhà máy, xưởng đã thu hút hút người dân cà nam lẫn nữ từ các làng mạc và thành phố nhỏ đến các khu công nghiệp trung tâm như Bristol, Birmingham, Sheffield và Luân Đôn. Việc tập trung số lượng người đông đảo và đột ngột nầy đã tạo ra những vấn đề nghiêm trọng như nhà ở, vệ sinh và tội phạm; các dịch vụ đang có lúc bấy giờ không đủ để giải quyết những vấn đề này. Với sự phát triển của các xí nghiệp số người lao động ngày càng lệ thuộc kinh tế vào giới chủ nhân, họ không còn làm chủ sản xuất mà chỉ bán sức lao động, họ tùy thuộc vào giới chủ để hưởng long. Nếu tiền lương thấp, nếu không có việc làm họ sẽ không biết dựa vào cái gì để sống. Vấn đề xã hội rộng lớn đã ảnh hưởng đến hàng triệu gia đình. Sự nghèo đói lan rộng đối nghịch với sự gia tăng giàu có của quốc gia tập trung vào một nhóm thiểu số. Một số phong trào đã thành lập để giải quyết các vấn đề nhà ở, giáo dục, tội phạm, lao động trẻ em. Nhiều hội thiện cũng có mặt để cấp phát tiền bạc, thức ăng cho cá nhân và gia đình khốn khó, thường những tổ chức này thuộc các tôn giáo. Những người tham gia vào những hoạt động an sinh xã hội này là những người thuộc tầng lớp giàu có, học hành cao, có đạo, họ tự xem mình là những người có trách nhiệm làm cho cuộc sống an bình và tốt đẹp hơn. Họ cảm thấy có bổn phận và chia sẻ niềm tin rằng tương lai của một người tùy thuộc vào lòng tin và cách cư xử của họ. Những câu lạc bộ, tổ chức đã thành lập để làm việc với cá nhân dưới hình thức nhóm. Một số tổ chức như trung tâm cộng đồng, YMCAs, YWCAs hình thành như một trung tâm và cung cấp các chương trình, hoạt động hàng tuần. Các tổ chức khác như hướng đạo, cung cấp các chương trình sinh hoạt lưu động. Một trong những phong trào nổi bật là phong trào trung tâm mà người lãnh đạo là Samuel Barnett, người sáng lập Toynbee Hall, 1884, phong trào trung tâm đầu tiên tại Anh với các hoạt động : triền lãm tranh, lớp học ngoài giờ, những lớp học đặc biệt cho người nghèo. Trong khi các phong trào trung tâm sử dụng nhóm nhỏ như là phương tiện để giáo dục người nghèo và khó khăn, thì YMCA va YWCA sử dụng nhóm nhỏ như phương tiện để cứu rỗi linh hồn và tiến dần tới các hoạt động giải trí, lớp học, câu lạc bộ, thể thao. Hướng đạo thì lại có những hoạt động ngoài trời cũng có sức lôi cuốn đặc biệt. Tại Mỹ : Cuộc cách mạng kỹ nghệ mang lại nhiều thay đổi về văn hóa và xã hội. Kỹ nghệ phát triển, nhà máy mọc lên, công nhân được thuê mướn với đồng lương thấp trong điều kiên khó khăn và không an toàn. Người có tay nghề 20 xu/giờ, người không có tay nghề 10 xu/giờ. Năm 1830, nhiều hội nhóm hình thành để giáo dục , vui chơi giải trí - 25 -
  26. Nhiều tổ chức, hội đoàn hướng về nhóm đã được thành lập ở Anh được sao chép lại tại Mỹ và Canada. Nhiều người xem nhóm nhỏ như phương tiện sống động để xã hội hóa cá nhân, người thì coi nhóm nhỏ như những sức mạnh để duy trì một xã hội dân chủ. Các tổ chức trung tâm cộng đồng kết hợp nhiều chủ đề với mục tiêu của tổ chức họ. Đại học Toronto thì định nghĩa chức năng của nó như một trung tâm giải trí, xã hội và giáo dục của cộng đồng, dịch vụ bao gồm câu lạc bộ athelic cho trẻ trai, lớp học Anh văn cho người lớn, câu lạc bộ bạn bè cho trẻ em, lớp học cho những trẻ phải bỏ học sớm để đi làm. Niềm tin rằng nhóm nhỏ có thể là phương tiện tích cực để xây dựng nhân cách và nâng cao sự phát triển của trẻ em. Trẻ đến với nhóm và với người trưởng nhóm có trách nhiệm, quan tâm sẽ học được những kỹ năng xã hội và Giá trị của xã hội rộng lớn hơn. Thập niên 1900s, vui chơi giải trí điều mà trong thế kỹ trước được coi là những hoạt động để choán những giờ rãnh rỗi thì nay được coi là phương tiện qua đó người ta có thể ứng phó với thực tiễn, tiếp nhận những nguyên tắc đạo đức mà họ có thể thực hiện trong đời sống hằng ngày, và học hỏi những kỹ năng tương quan. 9. Các thuyết ảnh hưởng đến phương pháp công tác xã hội nhóm : a/ Thuyết hệ thống : Theo Parson nhóm là hệ thống xã hội với những thanh viện lệ thuộc hỗ tương cố gắng duy trì trật tự và sự can bằng như một thể thống nhất. Nhóm phải vận động tài nguyên để đáp ứng nhu cầu. Nhóm có 4 nhiệm vụ chính : (1) hội nhập – đảm bảo rằng các nhóm viên hoà hợp với nhau; (2) thích nghi – đảm bảo rằng nhóm thay đổi để ứng phó với nhu cầu đòi hỏi của môi trường; (3) duy trì – đảm bảo rằng nhóm xác định và duy trì được mục đích cơ bản, bản sắc, và phương cách của nó; (4) đạt mục tiêu – đảm bảo rằng nhóm theo đuổi và hoàn thành trách nhiệm. Nhóm phải hoàn tất 4 công việc này để duy trì được sự quân bình, đây là công việc dành cho tác viên và nhóm viên của nhóm. Theo Robert Bales, Thì nhóm phải giải quyết 2 vấn để để tự bảo tồn, đó là vấn đề liên quan tới công việc và vấn đề liên quan tới cảm xúc tức bầu không khí nhóm. Parson nhấn mạnh tới sự hài hoà và quân bình, trong khi đó Bales nhấn mạnh tới sự căng thẳng và xung đột. Nhóm có khuynh hướng vacillate giữa sự thích nghi với môi trường bên ngoài và quan tâm tới sự hội nhập bên trong. Bales gọi đây là sự quân bình năng động. Nghiên cứu sự quân bình năng động này và thấy rằng để giải quyết vấn đề liên quan tới công việc các nhóm viên cho ý kiến, cung cấp thông tin, yêu cầu các đề nghị hoặc đưa ra cá d62 nghị. Để giải quyết vấn đề về cảm xúc các nhóm viên bày tỏ sự đồng ý, không đồng ý, bày tỏ sự căng thẳng hay giải toả sự căng thẳng, bày tỏ sự - 26 -
  27. đoàn kết hay xung đột. Qua mối tương tác này các thành viên nhóm giải quyết vấn đề trao đổi, lượng giá, kiểm soát, lấy quyết định, giảm căng thẳng và hội nhập. Có thể rút ra từ các quan điểm khác nhau về thuyết hệ thống những khái niệm đáng quan tâm đối với tác viên nhóm như sau : - Sự hiện diện của tài sản của nhóm như một tổng thể xuất phát từ mối tương tác giữa các cá nhân trong nhóm - Sức ép mãnh liệt của nhóm lên trên hành vi của cá nhân - Khi nhóm giải quyết những mâu thuẫn là sự đấu tranh để tồn tại - Nhóm phải nối kết với môi trường bên ngoài và quan tâm tới sự hội nhập bên trong. - Nhóm thường xuyên ở trong tình trạng trở thành, phát triển, thay đổi - Nhóm có một chu kỳ sống. b/ Thuyết tâm lý năng động : Theo lý thuyết này nhóm viên thể hiện những xung đột không giải quyết được từ kinh nghiệm sống từ thời bé. Bằng nhiều cách nhóm tái hiện lại tình huống gia đình, thí dụ như mô tả người trưởng nhóm như hình ảnh của người cha có toàn quyên trên các nhóm viên. Nhóm viên hình thành những phản ứng chuyển giao cho người trưởng nhóm và cho nhau trên cơ sở những kinh nghiệm sống thuở ban đầu của họ. Như vậy mối tương tác diễn ra trong nhóm phản ảnh cơ cấu nhân cách vả cơ chế tự vệ mà nhóm viên bắt đầu phát triển từ thời thơ ấu. Tác viên sử dụng sự giao dịch này để giúp cho nhóm viên giải quyết các xung đột chưa giải quyết của họ bằng cách thăm dò mẫu hành vi trong quá khứ và nối kết với những hành vi hiện tại. Thí dụ tác viên có thể diễn dịch hành vi của 2 nhóm viên đang tranh giành sự quan tâm của trưởng nhóm như sự tranh chấp không giải quyết được của 2 anh em. Khi diễn dịch của tác viên đúng lúc thì các nhóm viên hiểu được hành vi của riêng họ. Theo thuyết tâm lý năng động thì sự hiểu biết này là thành tố cần thiết trong việc điều chỉnh và thay đổi hành vi bên trong và bên ngoài nhóm. c/ Thuyết học hỏi : Thuyết này gây nhiều tranh cãi trong CTXH nhóm nhất. Điều cơ bản của lý thuyết này là nhấn mạnh đến hành vi cá nhân hơn là hành vi nhóm. Theo lý thuyết này, hành vi của nhóm có thể được giải thích bằng một trong 3 phương pháp học tập.Theo lối tiếp cận cổ điển, hành vi có liên quan tới sự kích thích. Thí dụ như một nhân viên đáp ứng bằng một lời phê tiêu cực mỗi khi một đồng nghiệp quay qua nói với một nhân viên khác trong lúc anh ta đang nói chuyên với nh74ng người khác. Sau nhiều lần như - 27 -
  28. vậy chỉ cần đồng nghiệp đó tái hiện hành vi quay qua mà không nói chuyện gì cũng đủ cho nhân viên nhận này nhận xét tiêu cực rồi. Phương pháp thứ hai thông thường hơn gọi là điều kiện hoạt động. Hành vi của nhóm viên và tác viên được điều hành bởi kết quả của hành động của họ. Nếu một nhóm viên có một hành vi nào đó và nhóm viên B đáp ứng một cách tích cực thì nhóm viên A có thể sẽ tiếp tục hành vi đó. Tương tự nếu tác viên nhận được phản hồi tiêu cực từ nhóm viên về một hành vi nào đó thì tác viên có thể sẽ không cư xử như thế trong tương lai. Trong nhóm tác viên có thể dùng sự khen ngợi để gia tăng sự giao tiếp giữa nhóm viên và nhóm viên và những nhận xét tiêu cực để làm giảm sự giao tiếp giữa tác viên và nhóm viên. Mô hình thứ ba là lý thuyết học hỏi xã hội. Nếu nhóm viên và tác viên chờ đợi điều kiện hoạt động hay cổ điển diễn ra thì những hành vi trong nhóm được học hỏi rất chậm chạp. Bandura cho rằng hầu hết việc học hỏi diễn ra qua sự quan sát và ca ngợi hoặc củng cố do tác động lây lan hoặc do trừng phạt. Thí dụ, khi một nhóm viên được khen ngợi vì một hành vi nào đó thì tác viên và nhóm viên khác sẽ tái tạo hành vi đó sau này hy vọng là sẽ nhận được sự khen thưởng tương tự. Khi một nhóm viên thể hiện một hành vi nào đó mà xã hội không quan tâm hay trừng phạt thì những nhóm viên khác sẽ học hỏi là nên không cư xử như thế vì hành vi đó đem lại kết quả tiêu cực. d/ Thuyết hiện trường : Kurt Lewin đã thực hiện nhiều cuộc thí nghiệm về sức ép để giải thích hành vi trong nhóm nhỏ. Theo lý thuyết hiện trường của Lewin thì nhóm có một không gian sống, nó chiếm một vị trí tương quan với các vật thể khác trong khoảng không gian nầy, nó được hướng dẫn để đạt được mục tiêu, nó vận chuyển để theo đuổi những mục tiêu này, và nó có thể gặp nhiều trở ngại trong tiến trình vận chuyển. Sự đóng góp độc đáo của thuyết hiện trường là xem nhóm như một tổng thể (gestalt), đó là sự phát triển từ từ những lực đối lập để giữ cho nhóm viên gắn với nhóm và làm cho nhóm tìm cách để đạt được mục tiêu. Theo Lewin, nhóm liên tục thay đổi để ứng phó với tình huống xã hội dù rằng có nhiều khi nó ở trạng thái gần như đứng yên. Lewin đưa ra vài khái niệm để hiểu về sức mạnh của nhóm đó là : - Vai trò : vị trí, quyền và bổn phận của nhóm viên - Qui chuẩn : những nguyên tắc điều hành/chi phối hành vi của nhóm viên - Quyền lực : khả năng nhóm viên ảnh hưởng lẫn nhau - Sự liên kết : toàn bộ những lực hấp dẫn nhau và sự lôi cuốn lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm cảm nhận về nhau và về nhóm. - 28 -
  29. - Sự nhất trí : Mức độ đồng ý về mục tiêu và các hiện tượng khác trong nhóm - Tiềm năng đạt mục tiêu và khách thể trong không gian sống của nhóm. Thuyết hiện trường của Lewin cho rằng người ta sẽ không thay đổi hành vi của mình cho tới khi nào họ thấy rõ hành vi của mình như người khác thấy. e/ Thuyết tương tác xã hội: Thuyết nay nhấn mạnh đến hành vi cá nhân của các thành viên trong nhóm. Phát xuất từ những học thuyết trò chơi, phân tích kinh tế , tâm lý động vật, các nhà lý thuyết trao đổi xã hội cho rằng khi người ta tương tác trong nhóm , mỗi người đều cố gắng hành xử để gia tăng tối đa sự khen thưởng và giảm thiểu tối đa sự trừng phạt. Các thành viên trong nhóm bắt đầu tương tác vì những sự trao đổi xã hội này đem lại cho họ điều gì đó có giá trị, như sự tán thành chẳng hạn. Theo các nhà lý thuyết trao đổi xã hội thì thường người ta không thể nhận được gì nếu người ta không cho, có một sự trao đổi ngầm trong mọi mối quan hệ giữa con người. Theo thuyết tương tác xã hội, hành vi nhóm được phân tích bằng cách quan sát cách mà những cá nhân thành viên tìm kiếm sự khen thưởng trong khi ứng phó với sự tương tác diễn ra trong nhóm. Đối với một cá nhân trong một nhóm, quyết định diễn tả một hành vi dựa vào sự can nhắc, so sánh giữa sự khen thưởng và trừng phạt có thể có từ hành vi đó. Các thành viên trong nhóm cư xử để gia tăng những hiệu quả tích cực và làm giảm những kết quả tiêu cực. Lý thuyết trao đổi xã hội cũng nhấn mạnh đến cái cách mà các thành viên nhóm ảnh hưởng lẫn nhau trong các tương tác xã hội. Kết quả của bất kỳ sự tương tác xã hội nào cũng đều dựa trên quyền lực xã hội và sự lệ thuộc xã hội trong mối tương tác đặc biệt. Lý thuyết này được sử dụng để làm việc với nhóm thanh thiếu niên phạm pháp trong cơ sở, nhóm cấu trúc được sử dụng để đối đầu, thách thức, và xoá đi những qui chuẩn nhóm đồng đẳng chống xã hội và thay thế chúng bằng những qui chuẩn hỗ trợ xã hội thông qua sự tương tác nhóm đồng đẳng được hướng dẫn. Lý thuyết tương tác xã hội bị phê bình là máy móc vì nó giả định người ta luôn luôn là sinh vật có lý trí hành động theo sự phân tích về thưởng phạt. Các nhà lý thuyết trao đổi xã hội ý thức rằng tiến trình nhận thức ảnh hưởng đến cách người ta cư xử trong nhóm. Cái nhìn của các thành viên nhóm chịu ảnh hưởng bởi tiến trình nhận thức như ý định và sự mong đợi. - 29 -
  30. Phần hai NĂNG ĐỘNG NHÓM Mục tiêu của phần hai : Phần 2 này giúp sinh viên tìm hiểu thế nào là năng động nhóm, ảnh hưởng của nhóm lên cá nhân, các đặc điểm, đặc trưng của nhóm. Đây là những lý thuyết làm nền cho thực hành công tác xã hội nhóm, sinh viên cần nắm vững kiến thức chuyên môn này - 30 -
  31. Năng động nhóm là một bộ môn nghiên cứu về sự vận hành bên trong nhóm bao gồm các vấn đề như các giai đoạn phát triển của nhóm, cơ cấu nhóm, mối tương tác, truyền thông giữa các nhóm viên, các vai trò được thể hiện trong nhóm trong đó vai trò lãnh đạo là yếu tố quan trọng cho sự phát triển cûa nhóm, các quy tắc của nhóm, ảnh hưởng của nhóm trên hành vi của cá nhân tham gia nhóm. 1. Tầm quan trọng của nhóm nhỏ trong cuộc sống của chúng ta Từ khi sinh ra đến cuối cuộc đời, ta sinh hoạt trong đủ các loại nhóm như gia đình, nhóm bạn nhỏ trong khu phố, nhóm bạn khi đi học, khi đi làm, tổ lao động, phòng ban, tới những CLB vui chơi giải trí, hay nhóm hoạt động xã hội tự nguyện. Là một sinh vật xã hội, ta chỉ có thể thực hiện mục đích riêng, và thỏa mãn các nhu cầu từ vật chất tới tâm lý xã hội thông qua nhóm. Trường hợp trẻ em được mẹ cho đi nhà trẻ, trẻ được học hỏi vai trò làm mẹ, làm cô giáo, bác sĩ, giúp trẻ thích nghi với cuộc sống sau này khi hòa nhập xã hội trong khi đứa trẻ sống trong trại mồ côi không được học những vai trò trong cuộc sống nên sau này rất khó thích nghi và hòa nhập vào xã hội và trẻ không hoặc khó biết cách thể hiện các vai trò, trẻ tự ti, mặc cảm, thu mình lại 1.1. Nhóm thỏa mãn các nhu cầu sau đây của cá nhân Môi trường nhóm nhỏ là một môi trường tạo điều kiện thuận lợi cho sự bộc lộ của cá nhân. Sau khi gia nhập nhóm và sinh hoạt và khi nhóm phát triển đến giai đoạn ổn định, lúc ấy mối tương tác về mặt tình cảm giữa các nhóm viên trở nên gắn bó hơn thúc đẫy dễ dàng sự bộc lộ về mình, tâm tư tình cảm, chia sẻ và thông cảm với các thành viên nhóm khác. Môi trường nhóm cũng là một môi trường đáp ứng các nhu cầu của cá nhân như sau : · Được công nhận, được chấp nhận, · Được tình bạn, thỏa mãn nhu cầu giao tiếp · Được quan tâm đến · Được an toàn, được bảo vệ · Được cảm giác “gắn bó” (hay thuộc về một “tổ ấm") · Được phát huy tiềm năng (học hỏi kỹ căng chuyên môn như âm nhạc, nghệ thuật hay tâm lý xã hội như giao tiếp, lãnh đạo v.v ) · Được tự khẳng định mình v.v 1.2. Nhóm nhỏ ảnh hưởng mạnh mẽ đến cá nhân theo hướng tích cực hoặc tiêu cực Do nhu cầu được thuộc về một nhóm, cá nhân tuân thủ những quy tắc của nhóm để được chấp nhận. Đứa trẻ tập chia sẻ đồ ăn và đồ chơi với bạn để không bị loại ra khỏi nhóm. Trẻ ngoan ngoãn chấp hành kỹ luật gia đình để được tình cảm nồng ấm của cha - 31 -
  32. mẹ. Anh công nhân quen lè phè vào một tổ sản xuất năng động hết dám lè phè vì không chỉ sợ phê bình mà còn sợ mất tình bạn, mất uy tín đối với tập thể. Ngược lại, là thành viên một băng du đãng thanh niên nọ phải tỏ ra thật “ngầu” mới được nhập băng, phải biết nhảy đầm, nhậu, hút, phải tuân thủ luật giang hồ v.v Nhóm có thể trở thành một cực hình cho cá nhân, là một công cụ khống chế bóc lột, hay bị cô lập, ăn hiếp. 1.3. Sức ép của nhóm dù rất nhẹ nhàng, thường không ý thức được, ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến hành vi của cá nhân. Do đó, nhóm được gọi là một tác nhân “kiểm soát xã hội”. Luật pháp, sự trừng phạt, nhà tù không thay thế được một gia đình lành mạnh, một nhóm bạn tốt để ngăn chặn hành vi phạm pháp của một thanh thiếu niên. Khám phá ra và khẳng định được ảnh hưởng của nhóm đối với cá nhân (nhóm càng liên kết chặt chẽ, ảnh hưởng càng mạnh) các ngành khoa học xã hội đã sử dụng nhóm nhỏ như một công cụ để ảnh hưởng hành vi cá nhân nhằm mục đích giáo dục, phát triển nhân cách hay trị liệu. Từ các cuộc thể nghiệm khoa học về tác dụng của thảo luận nhóm đầu tiên, ngày nay phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong giáo dục thay đổi hành vi sức khỏe, phát triển các kỹ năng truyền thông, giao tiếp, lãnh đạo. Từ khả năng của nhóm để tác động đến thái độ và hành vi con người, các nhà khoa học còn gọi nhóm là một “tác nhân đổi mới” (change agent) và là một “môi trường” tạo ra sự đổi mới (change medium). 2. Bản chất của nhóm : · Nhóm có số thành viên rõ ràng, tức là một tập thể hai người hoặc nhiều hơn có thể nhận diện bằng tên hoặc loại. · Có ý thức về nhóm, tức là nhận diện nhau một cách ý thức. · Y thức có chung một mục đích, tức là có những mục tiêu, mục đích và ý tưởng giống nhau. · Lệ thuộc lẫn nhau trong việc đáp ứng các nhu cầu, tức là cần tới nhau nhằm đạt được mục đích vốn là lý do thành lập nhóm. · Có sự tương tác – các thành viên trong nhóm giao tiếp, tác động và phản ứng với nhau. · Có khả năng hành động một cách thống nhất – nhóm có khả năng ứng xử như một bộ phận duy nhất. 2.1. Các đặc điểm của nhóm nhỏ : - 32 -
  33. · Có thể nhận diện nhóm bằng tên gọi, dấu hiệu hay chức năng. · Có một cơ cấu hiến định các quy tắc và quy định chính thức hoặc không chính thức. · Thới gian – lượng thời gian sinh hoạt chung với nhau, nhất là vào thời kỳ đầu, chính là yếu tố xác định một tập thể có phải là một nhóm hay không. · Chuyển động – nhóm là một bộ phận năng động trong đó các yếu tố thường xuyên thay đội, tương tác và phát triển, tức là cố gắng đạt tới cái gì đó. 2.2. Các đặc trưng của nhóm Tiểu sử Mỗi nhóm có một tiểu sử, tiểu sử nầy ảnh hưởng tới sự ứng xử của nhóm. Một số câu hỏi giúp hiểu tiểu sử của một nhóm : · Đâu là những mong đợi của các thành viên đối với nhóm và vai trò của họ trong nhóm ? · Nhóm được cấu tạo như thế nào, bao gồm loại người nào, kinh nghiệm trước đây của họ như thế nào, trước đây họ kết bạn ra sao ? · Các thành viên đã chuẩn bị tham gia nhóm như thế nào ? · Họ họp với nhau, các nguồn lực v.v. như thế nào ? Cách thức tham gia Các nhóm đều có một cách thức tham gia : · Cách thức giao tiếp một chiều : người lãnh đạo – nhóm · Cách thức giao tiếp hai chiều : người lãnh đạo – nhóm – người lãnh đạo · Cách đa chiều : tất cả các thành viên trao đổi với nhau và với cả nhóm, trong đó có người lãnh đạo. Trong một nhóm, cách thức tham gia có thể khá đồng nhất từ đầu đến cuối hoặc có thể thay đổi đôi lúc. Các câu hỏi về phương cách tham gia : - 33 -
  34. · Lượng phát biểu của lãnh đạo và của nhóm viên ? · Các câu hỏi hoặc lời phê bình đặt hướng về ai ? người lãnh đạo, cả nhóm hay một vài thành viên đặc biệt ? · Các thành viên không nói nhiều đã tỏ ra quan tâm hoặc lắng nghe tích cực (tham gia không lời) hoặc họ buồn chán và thờ ơ. Việc kiểm tra các cách thức tham gia có thể tiến hành từng thời kỳ để được thông tin về sự năng động nhóm. Truyền thông – giao tiếp Phải xem xét các thành viên có hiểu nhau không và họ trao đổi các ý tưởng, Giá trị và cảm nhận của bản thân, của nhóm một cách rõ ràng không. Các câu hỏi để biết chất lượng truyền thông giao tiếp của nhóm : · Các thành viên có diễn đạt các ý tưởng của mình có rõ ràng không? · Các thành viên có thường xuyên nhặt các ý kiến đóng góp trước đó và từ đó xây dựng các ý tưởng của mình không ? · Các thành viên đã mạnh dạn yêu cầu nói rõ thêm khi họ không hiểu rõ điều gì ? · Các câu trả lời cho các nhận định có hay bị lạc đế hay không thích hợp không ? Tính đoàn kết Tính đoàn kết của nhóm được xác định bởi sức mạnh của mối quan hệ gắn kết lại các cá nhân thành một khối thống nhất để thỏa mãn nhu cầu, chia sẻ sự thành công, cảm thấy tự hào vì trực thuộc vào nhóm. Tính đoàn kết được thể hiện qua tinh thần của cá nhân, tinh thần đồng đội, sức mạnh thu hút nhóm viên vào một việc họ đang làm – cảm nhận “chúng tôi” được hình thành. Tính đoàn kết nhóm được thể hiện qua các câu hỏi : · Nhóm làm việc như thể một đơn vị như thế nào ? · Có những tiểu nhóm hoặc “những con sói cô đơn” nào đó trong nhóm không ? và ảnh hưởng của những hiện tượng đó đến nhóm như thế nào ? · Dấu hiệu nào cho thấy sự thích thú hoặc thiếu thích thú của thành viên hoặc của các nhóm thành viên về những việc nhóm đang làm? - 34 -
  35. · Các thành viên khi nói đến nhóm thì xem đó như bất kỳ nhóm nào, hay nhóm của chúng ta, hay nhóm của bạn ? Bầu không khí Mặc dù vô hình nhưng thường chúng ta dễ cảm nhận bầu không khí xã hội, đó là bầu không khí thân thiện, thư giãn, không hình thức, dễ dãi hoặc tự do. Ngược lại, bầu không khí lạnh lùng, căng thẳng, thù địch, hình thức, nghiêm cấm sẽ ảnh hưởng đến cảm xúc của các thành viên về nhóm và sẽ tác động đến mức độ tự nguyện tham gia của họ. Các câu hỏi để đánh giá bầu không khí : · Bạn sẽ mô tả nhóm này như thế nào ấm áp, trầm tĩnh, thân thiện, thư giãn, căng thẳng, hình thức hoặc không hình thức, bị kiểm soát, bị kiểm soát, thoải mái hoặc bị kiềm chế ? · Những quan điểm không đồng tình hoặc cảm xúc bất bình có thể được bày tỏ mà không sợ trừng phạt hay không ? Cơ cấu và tổ chức Các nhóm có cơ cấu tổ chức hiển nhiên rõ ràng hay vô hình. Cơ cấu hiển nhiên rõ ràng có thể là chính thức, như là vị trí được đề cử, hoặc không chính thức, nó giúp cho việc thực hiện phân chia lao động và những chức năng chính yếu được thực hiện. Cơ cấu vô hình thường không hiển nhiên nhưng hoạt động phía sau, phụ thuộc vào nhân cách, tầm ảnh hưởng, quyền lực, tuổi tác, năng lực, khả năng thuyết phục v.v Ngoài ra cũng có một cấu trúc cấp bậc lãnh đạo và quyền lực. Trong giai đoạn thành lập có cuộc đấu tranh giành vị trí giữa những cá nhân có xu hướng thống trò mạnh. Một khi trật tự được ổn định đặc điểm của mô hình tương tác là những người có vị trí thấp nằm dưới đáy của nấc thang. Các câu hỏi liên quan đến cơ cấu và tổ chức : · Cơ cấu nào được nhóm tạo ra một cách có ý thức, như vị trí lãnh đạo, dịch vụ, tiểu ban, đội ? · Cơ cấu không thấy được là gì ? Ai kiểm tra, ảnh hưởng thực sự, ai tình nguyện để làm được việc, ai chiều theo ý người khác hoặc theo đuôi ? · Các thành viên có hiểu và chấp nhận cơ cấu không ? - 35 -
  36. · Cơ cấu có thích hợp với mục đích và công tác của nhóm hay không? Tiêu chuẩn và chuẩn mực Mỗi nhóm có khuynh hướng triển khai một quy luật đạo đức hay một bộ tiêu chuẩn và chuẩn mực về thế nào là hành vi đúng và chấp nhận được. Những điều nên làm và không nên làm của một nhóm nào đó, thường được quy trong những tiêu chuẩn được hiểu ngầm hơn là được nêu công khai. Những loại chuẩn mực của một nhóm có thể bao gồm từ phương pháp làm việc, chuẩn mực tương tác trong nhóm, chuẩn mực về thái độ, về hình thức, phong cách ăn mặc v.v Thách thức các chuẩn mực nhóm sẽ gây những bất đồng, tranh chấp giành quyền lực dường như sẽ xuất hiện để tái lập hoặc chỉnh sửa những tiêu chuẩn hiện hành của nhóm. Câu hỏi về những tiêu chuẩn và chuẩn mực : · Điều gì chứng minh nhóm có một quy luật đạo đức cụ thể như tự giác áp dụng kỷ luật, thể hiện trách nhiệm, phép lịch sự, chấp nhận sự khác biệt, tự do phát biểu v.v ? · Những tiêu chuẩn nầy đã được tất cả các thành viên hiểu đủ và hiểu đúng không ? · Có những lệch lạc rõ nét về những tiêu chuẩn nhóm do một hay nhiều thành viên nào đó không và điều đó đã ảnh hưởng như thế nào ? · Những tiêu chuẩn nào đó dường như thúc đẩy và cản trở sự tiến bộ của nhóm ? Trắc lượng xã hội Trong mỗi nhóm các thành viên thường nhanh chóng nhận diện một số cá nhân mà họ thích hơn những người khác. Đây là một ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động của nhóm. Một số câu hỏi giúp bộc lộ sự thu hút lẫn nhau (hay ngược lại) giữa nhóm viên : · Những thành viên nào có khuynh hướng đứng về một phía và hỗ trợ lẫn nhau ? · Những thành viên nào xem ra hay mâu thuẫn nhau ? · Có phải một số thành viên châm ngòi để người khác phản ứng ngay sau khi số thành viên đầu tiên phát biểu để ủng hộ hay chống đối ? - 36 -
  37. Lề lối làm việc Mỗi nhóm cần có một lề lối làm việc để tiến hành công việc. Việc chọn lề lối làm việc ảnh hưởng trực tiếp tới những khía cạnh khác của đời sống của nhóm như cách tham gia và sự gắn bó. Một số câu hỏi về lề lối làm việc : · Nhóm xác định nhiệm vụ và chương trình nghị sự như thế nào ? nhóm lấy quyết định bằng cách nào ? Theo vai trò, im lặng đồng ý hay đồng thuận? · Nhóm khám phá và sử dụng các nguồn lực của các thành viên như thế nào ? · Nhóm phối hợp các nhóm nhỏ và các hoạt động như thế nào ? · Nhóm lượng giá công việc của mình như thế nào ? Mục tiêu Mỗi nhóm đều có mục tiêu, một số là mục tiêu dài hạn, số khác là mục tiêu ngắn hạn. Đôi khi mục tiêu được phát biểu rõ ràng, cụ thể và công khai. Ơ trường hợp khác, mục tiêu thì mơ hồ, chung chung và chỉ ngầm hiểu với nhau mà thôi. Một số câu hỏi về mục tiêu : · Nhóm xác định mục tiêu như thế nào ? · Tất cả thành viên có hiểu rõ mục tiêu không ? · Tất cả thành viên có gắn bó với mục tiêu không ? · Các mục tiêu có thực tế và đạt được đối với một nhóm cụ thể hay không ? - 37 -
  38. PHẦN BA TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM Mục tiêu của phần 3 : Phần này là phần quan trọng trong giáo trình, giúp sinh viên hiểu biết về tiến trình thực hành Công tác xã hội nhóm, nắm vững những điều cần thực hình để thực hành tốt phương pháp hầu đạt mục tiêu xã hội. Sinh viên cần có kỹ năng trong điều hành nhóm, hiểu biết về tâm lý nhóm để nhận diện các vấn đề, giúp các thành viên nhóm đi đến mục tiêu thay đổi và giải quyết vấn đề. 1. Tiến trình công tác xã hội nhóm Khoa tâm lý nhóm cho biết nhóm cũng như con người có khởi đầu, trải qua giai đoạn ấu thơ, trưởng thành và kết thúc. Điều này thấy rõ ở một ủy ban đặc nhiệm được thành lập để giải quyết một vấn đề, xong việc thì kết thúc. Các tổ nhóm ở một trại hè đến cuối trại cũng chia tay nhau. Một nhóm bạn học rất thân nhưng sau khi tốt nghiệp mỗi người đi một ngã, nhóm coi như tứ tán. Cũng có thể một số nhỏ kết bạn suốt đời, cũng có thể không. Khi đi làm các bạn này lại có thể tìm ra bạn mới và lại kết thành một nhóm bạn đồng nghiệp. Đáng quan tâm tìm hiểu hơn là diễn tiến phát triển của nhóm về mặt tâm lý. Khi nhóm bắt đầu, các cá nhân còn xa lạ, các mối quan hệ rời rạc, mục đích chung chưa thông suốt. Khi nhóm trưởng thành, có mâu thuẫn vì người ta cởi mở, thẳng thắn với nhau hơn, nhưng một khi hiểu nhau thì các mối quan hệ mới sâu sắc hơn. Có sự thông cảm hơn thì sự thống nhất ý kiến về mục tiêu cũng cao hơn. Và từ đó năng suất của nhóm cũng cao hơn. Một nhóm hành động có thể kết thúc ở đây, khi mục tiêu đạt được. Họ có thể tiếp tục quan hệ như một nhóm bạn nếu trong quá trình làm việc tình bạn đã phát triển. Đối với các nhóm tự nhiên hay sẵn có như gia đình, nhóm bạn, băng nhóm khó xác định bước khởi đầu và sự kết thúc rõ rệt. Các nhóm huấn luyện về năng động nhóm có thể sống từ một ngày đến vài tuần. Nhóm giải trí có thể sống một ngày trong khuôn khổ một ngày cắm trại. Nếu quan sát kỹ ta cũng thấy từ rời rạc nhóm viên đi tới gắn bó lẫn nhau. Một nhà trị liệu nhóm có thể căn cứ trên tình hình cụ thể của thân chủ có thể dự trù 3, 5, 8 hay 10 buổi sinh hoạt (hay nhiều hơn nữa). - 38 -
  39. Như đã nêu ở phần trên, trong CTXH với cá nhân, phương pháp hay công cụ giúp cho đối tượng tự khắc phục dần những khó khăn của họ là khả năng tạo mối quan hệ tốt của NVXH đối với đối tượng (đó mới là chính, còn công ăn việc làm, tiền trợ cấp, v.v là các công cụ yểm trợ) là công cụ tạo sự tăng trưởng hay thay đổi hành vi của các đối tượng. NVXH nhóm vẫn tiếp xúc với cá nhân, vẫn phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, nhu cầu, vấn đề của cá nhân nhưng chính tiến trình sinh hoạt nhóm là trọng tâm, là công cụ giúp đỡ cá nhân. CTXH nhóm có thể nhằm vào 2 loại nhóm: nhóm sẵn có hay nhóm được thành lập có mục đích. Nhóm sẵn có, có thể là gia đình, một băng nhóm đường phố, bịnh nhân cùng một phòng ở bịnh viện, một ủy ban công tác ở cộng đồng. Nhưng các ngành khoa học về nhóm cũng thường thành lập nhóm theo kiểu họp - tan, nhằm một mục đích cụ thể như huấn luyện, xã hội hóa hay trị liệu. Hiện nay công tác phổ biến nhất, đặc biệt trong giới thanh thiếu niên, nhằm mục đích xã hội hóa hay tái xã hội hóa. Đối với trẻ em, nhân viên xã hội có ảnh hưởng nhiều hơn trong tiến trình nhóm so với nhóm người lớn, có nhiều cơ hội hơn để hướng dẫn nhóm hoàn thành mục tiêu. Nội dung sau đây về các bước trong diễn tiến nhóm liên hệ nhiều tới mục đích này. 2. Bốn bước trong tiến trình công tác xã hội nhóm Bước 1: Thành lập nhóm. Bước 2 : Khảo sát nhóm Bước 3: Duy trì nhóm. Bước 4 : Kết thúc. Bước khởi đầu : Bước thành lập nhóm Trước hết chúng ta đánh giá tình hình, vấn đề, nhu cầu của cá nhân Môi trường thành lập nhóm: - 39 -
  40. Môi trường bên trong cơ sở Nhóm mồ côi trong các cơ sở nuôi dạy trẻ mồ côi. Trẻ đường phố sống trong các Mái ấm Trẻ khuyết tật trong các trung tâm Môi trường bên ngoài cơ sở Tại cộng đồng : Trẻ em lao động sớm Nhóm phụ nữ tiết kiệm tín dụng Nhóm thanh thiếu niên: Môi trường này có nhiều khó khăn hơn cho NVXH.Muốn lập nhóm, NVXH phải tìm hiểu thực trạng đang xảy ra ? Tại sao nó như thế? Phải làm gì? (thực trạng - nguyên nhân-khó khăn - nhu cầu) Nhóm trong cơ sở dễ làm việc hơn vì họ cùng vấn đề, mục tiêu và các hoạt động phải khớp với phương hướng, mục tiêu của cơ sở. NVXH phải tìm hiểu cơ sở trước khi lập nhóm. Mục đích thành lập nhóm phải rõ ràng, được mọi người hiểu và cùng chia sẻ, nếu không sự hợp tác hai bên (nhân viên xã hội và nhóm viên) và sự tham gia sẽ bị giới hạn. Hợp đồng là hai bên thỏa thuận để đạt mục tiêu trong một thời hạn nhất định. Trước khi bắt tay vào việc, NVXH phải biết tại sao mình muốn sử dụng phương pháp nhóm, và những đặc tính - nhu cầu chung nhất của đối tượng. 1. Chọn nhóm viên Số lượng nhóm viên phải phù hợp với mục đích. ví dụ như trong trị liệu không nên đông hơn 6 - 8 người để nhóm viên có điều kiện bộc lộ, diễn đạt cảm xúc của mình. Một nhóm giải trí của trẻ em có thể lên tới 15 - 20 em. Một đội banh 11 người, một đội kịch tùy theo số vai trong vở diễn và các động tác hỗ trợ vở diễn. Ít quá không đạt mục tiêu, đông quá sẽ có người không tham gia trọn vẹn và cảm thấy dư thừa. Một trong các tiêu chuẩn định nghĩa nhóm nhỏ là có quan hệ mặt đối mặt, do đó quá đông thành viên sẽ không có được mối quan hệ này. Tóm lại, các yếu tố quy định số lượng nhóm viên là: - 40 -
  41. · Đặc điểm nhóm viên · Mục tiêu chuyên môn : Ví dụ : Nhóm phụ nữ nghèo cần vay vốn, nhóm thanh thiếu niên gặp khó khăn trong học tập, nhóm phụ nữ bị bạo lực, nhóm phụ nữ có chồng nghiện rượu · Chương trình hoạt động · Sự tham gia tối đa của mỗi người · Đặc điểm của nhóm viên cần được quan tâm Trước tiên là sự tương đồng về nhu cầu hay vấn đề cần giải quyết. Không thể để chung một phụ nữ độc thân mà có con và một phụ nữ đang ly dị chồng. Vấn đề của họ hoàn toàn khác nhau. Vấn đề giống nhau mà quá khác nhau về tâm lý, tuổi tác, trình độ văn hóa cũng không được. Giữa cô gái mới lớn, không chồng mà có con, với một phụ nữ 40 trong cùng trường hợp cũng rất khác biệt. Nên quan tâm đến những trường hợp rất cá biệt không đưa vào nhóm được như người bị tâm thần nặng, trẻ có quá nhiều hấn tính giữa một nhóm trẻ có vấn đề nhưng ở mức độ vừa. Hoặc một người có xu hướng khống chế mạnh cùng với những người quá thụ động. Yếu tố bổ sung rất quan trọng: trong đội CLB văn học nên có nam lẫn nữ, một nhóm chơi của trẻ có mạnh có yếu, một đội thi đua nấu cơm ngoài trời phải có vài trẻ đã có kinh nghiệm nấu cơm trong gia đình. Tránh đưa vào một nhóm nhỏ 2 người hay 2 nhóm người ở ngoài đời đang xung khắc trầm trọng, hoặc 2 - 3 bạn rất thân cùng sinh hoạt với 5 - 6 người còn xa lạ với nhau. Tất yếu họ sẽ phân ra thành nhiều tiểu nhóm, khó xây dựng một nhóm đoàn kết. Do đó, việc tìm hiểu nhóm viên rất quan trọng. Một giáo dục viên phụ trách nội trú có thể biết rõ các em trong phòng mình phụ trách. Nhưng một nhóm NVXH ở cộng đồng sẽ không nắm được đặc điểm của các em thiếu niên tới đăng ký sinh hoạt đội nhóm ngay từ đầu. Do đó phải có quá trình tìm hiểu thông qua đăng ký sinh hoạt (phiếu xã hội - vấn đàm - vãng gia, nếu cần). Đối với nhóm sẵn có như các nhóm tự nhiên trong khu phố, băng nhóm lang thang bụi đời, NVXH phải nhập cuộc một cách từng bước và khéo léo để nhóm chấp nhận. ở đây, NVXH không những tìm hiểu từng nhóm viên mà quan trọng hơn nữa là các mối quan hệ và sự phân công (quyền lực) trong nhóm. Ai là lãnh vụ, ai liên kết với lãnh tụ, ai trung lập, ai chống. Trong băng có tiểu nhóm hay không? Những giá trị xã hội, qui chuẩn (luật không thành văn) của nhóm là gì? Những hành vi tích cực và tiêu cực đối với xã hội? Mục đích ở đây là tái xã hội hóa, nghĩa là tác động từ từ tới cấu trúc quyền lực của nhóm, hướng nhóm dần tới các mục tiêu xây dựng. Ví dụ như biến thành một đội banh, một đội sản xuất có qui cũ, có thu nhập, được xã hội đánh giá cao. Trẻ từ từ sẽ phục hồi lại niềm tin, tự tin và tự trọng. 2. Mục tiêu sinh hoạt - 41 -
  42. Cần phân biệt mục đích cuối cùng của CTXH (cá nhân, nhóm, cộng đồng) là sự thay đổi, phục hồi, tăng trưởng về mặt tâm lý xã hội của (hệ thống) thân chủ, và mục têu của hoạt động mà nhóm đề ra: thi đấu, trình diễn, cải thiện nhà ở, liên hoan cuối năm, chuẩn bị xuất viện, học kỹ năng Đối với một nhóm tới CLB đăng ký học kỹ năng hùng biện chẳng hạn thì không có gì phải bàn cãi. Một nhóm trẻ từ 5 - 8 tuổi chỉ cần chơi và thông qua chơi, được xã hội hóa thì chủ yếu tạo điều kiện chơi phù hợp với lứa tuổi. Nhưng đối với các nhóm người lớn liên kết để hành động chung, một nhóm thiếu niên nội trí cần đóng góp một tiết mục cho cuộc liên hoan cuối năm thì mục đích phải được trao đổi và thông qua. Có sự thống nhất ý kiến càng cao thì sự tham gia từng người càng được bảo đảm. Càng tham gia càng tạo sự thỏa mãn và kết quả tích cực về mặt xã hội hóa. NVXH ở đây không áp đặt cho dù đã dự trù trước, càng ít áp đặt thì nhóm càng tích cực có sáng kiến. Vấn đề ở đây là NVXH phải sử dụng tiến trình tâm lý nhóm để tạo sự thảo luận càng nhiều càng tốt trước khi thông qua quyết định chung. Đối với mục đích xã hội hóa, điều quan trọng không phải là thành quả mà tiến trình tăng trưởng của nhóm viên. Nhưng độc đoán hay dân chủ không phải hai phạm trù loại bỏ nhau mà là các mức độ của một quá trình hướng dẫn. Người bịnh tâm thần, trẻ em rất nhỏ không thể tự quyết về mọi mặt. Do đó, sinh hoạt nhóm là để tập tành dân chủ nhưng phải đi từ thấp tới cao tùy hoàn cảnh và trình độ của nhóm viên. Ngược lại trước một nhóm thụ động, trông chờ, NVXH phải dày công hơn nhiều để khơi dậy tiềm năng tự lực của nhóm. Do đó, mục tiêu hoạt động không chỉ được áp đặt một cách hành chánh, hay bỏ mặc cho nhóm viên mà cần được giáo dục. Mục tiêu không cứng ngắt mà linh động theo sự trưởng thành của nhóm và khả năng của nhóm viên. Ví dụ ở một trung tâm nội trú, có một nhóm trẻ tự lực chuẩn bị đóng góp cho cuộc liên hoan cuối năm, nhóm A chỉ có khả năng hát một bài đồng ca, tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ bên ngoài và sự gắn bó lẫn nhau, mấy tháng sau các em có thể dựng một vở kịch tự biên tự diễn. 3. Cơ cấu tổ chức nhóm a) Cơ cấu chính thức Tất cả các nhóm để đạt đến một mục tiêu đều phải có phân công trách nhiệm. Có nhóm viên trội hơn, có tinh thần trách nhiệm cao, được trao vai trò trưởng nhóm, có nhóm viên khéo tay được phân công dạy kỹ năng. Cơ cấu ít nhiều mang tính hình thức và cố định tùy thuộc vào chức năng của nhóm. Ví dụ một tổ chức ở địa phương có - 42 -
  43. Trưởng ban cán sự khu phố, các tổ trưởng - tổ phó tổ dân phố hay một nhóm hành động có chủ tịch, thư ký, thủ quỹ. Ngay cả một nhóm CLB cũng có trưởng - phó. Đó là chức vụ chính thức ai cũng biết và phải thông qua đó để làm việc với nhóm. b) Cơ cấu phi chính thức Là các mối liên hệ cá nhân và mức độ ảnh hưởng thật sự giữa các nhóm viên. Cơ cấu phi hình thức này rất quan trọng đối với bầu không khí nhóm và cả năng suất của nhóm về lâu về dài. Mối tương tác giữa hai cơ cấu hình thức và phi hình thức rất quan trọng. Lý tưởng nhất là sự ăn khớp của chúng. Ví dụ trưởng nhóm chính thức cũng là người được nhóm viên ưa thích và nể nang nhất vì sự vận động sẽ suông sẻ dễ dàng và tâm lý nhóm thoải mái. Nếu trưởng nhóm tự áp đặt bằng sức mạnh (đại ca, đại bàng, tú bà, ), hay vì tinh thần gia trưởng thì có sự tuân thủ để hành động theo mục tiêu chung nhưng không có sự thỏa mãn tinh thần. Bước thành lập nhóm là bước chọn nhóm viên, thảo luận mục đích và chương trình sinh hoạt, phân công tổ chức. ở giai đoạn này nếu nhóm viên còn xa lạ thì hoạt động còn rời rạc. Nhóm viên liên hệ nhiều với NVXH hơn là giữa họ với nhau. Nếu là trẻ em thì ở giai đoạn này các em rất bát nháo và chúng ta không nên đánh giá vội các hành vi của trẻ trong giai đoạn này vì theo kinh nghiệm, chúng ta nhận thấy trẻ sẽ dần dần có sự chuyển biến tích cực trong hành vi ở những giai đoạn sau. Thông thường ở giai đoản này trẻ muốn được chú ý nên có những hành vi chống đối, không chịu hợp tác để thử thách những giới hạn của nhóm và của nhân viên xã hội. Nếu là một băng nhóm có sẵn thì các mối quan hệ không thuận lợi cho sự phát triển nhân cách vì còn chia rẽ, hay có sự khống chế của một hay vài cá nhân. Mục tiêu nhóm chưa mang tính xây dựng. NVXH phát hiện thực trạng nhóm và khéo léo diều chỉnh các mối tương quan và lái mục tiêu theo hướng tích cực. Điều cần lưu ý là nội dung ở mỗi giai đoạn bao gồm 5 lãnh vực cần quan tâm : 1. Hiểu biết về những vấn đề ban đầu cần được giải quyết (cả cá nhân và nhóm) 2. Ghi nhận các cảm xúc và hành vi của các thành viên lúc sinh hoạt thông qua các vấn đề. 3. Hiểu rõ ý nghĩa nội dung của các cuộc thảo luận và của các hành vi 4. Hiểu các công việc chính yếu được thực hiện bởi tổng thể nhóm và bởi các cá nhân thành viên. 5. Quan tâm đến các cảm xúc và hành vi của các thành viên, công việc này cần thiết cho việc giúp đỡ nhóm và các thành viên hoàn thành nhiệm vụ. - 43 -
  44. Một số công việc mà nhân viên xã hội phải hoàn thành: Trong buổi sinh hoạt nhóm đầu tiền, nhân viên xã hội làm gì ? Các công việc mà nhân viên xã hội cần làm trong buổi họp đầu tiên với một nhóm mới được liệt kê theo thứ tự như sau : · Tổ chức giới thiệu nhau, giúp hình thành môi liên lạc quen biết ban đầu và thu hút nhau và làm cho sự tham gia tích cực hơn. · Trình bày lý do nhóm được thành lập và mục đích của nhóm theo cách nhìn của cơ sở và của nhân viên xã hội, cho phép nhóm viên trình bày quan điểm của họ. · Cùng với nhóm là rõ các mong đợi về việc tại sao họ đến đây, họ thích làm gì và hy vọng đạt được cái gì ở nhóm. · Thảo luận về một thỏa thuận về phương cách cùng nhau làm việc và đặt ra các quy tắc nhóm. · Thảo luận với nhóm về chương trình hoạt động và phương pháp thực hiện và dự kiến cho nội dung buổi họp tiếp sau. · Cho nhóm biết rõ nhân viên xã hội hy vọng làm việc với nhóm như thế nào và vai trò của mình sẽ ra sao. · Bắt đầu thiết lập văn hóa nhóm ( ví dụ : hệ thống tương thân tương ái và chia sẽ trách nhiệm) Nhân viên xã hội cùng với nhóm : · Thiết lập các quy tắc nhóm · Đặt ra những giới hạn · Xác định hệ tống thưởng phạt · Đặt ra một số tiêu chuẩn của công việc · Phân công và giao trách nhiệm Ngoài ra, nhân viên xã hội phải dự kiến phương hướng quản lý xung đột thường xuất hiện ở giai đoạn 2 của tiến trình phát triển của nhóm. Xung đột thường xuất phát từ : · Cạnh tranh quyền lực, ảnh hưởng để xác định vị trí của mình trong nhóm · Cơ cấu phi chính thức ( cơ cấu ngầm) song song với cơ cấu chính thức - 44 -
  45. · Việc thực thi các quy tắc của nhóm (do chưa quen vào khuôn khổ của các quy tắc) · Thời khóa biểu làm việc (do cách thể hiện tính cách của từng cá nhân trong việc tuân thủ giờ giấc) Bước xung đột này chấm dứt khi mối quan tâm riêng từ từ trùng khớp với mối quan tâm chung của mọi người trong nhóm để rồi tạo sự gắn kết khi bước qua giai đoạn ổn định của cuộc sống của nhóm. Ví dụ như trường hợp: Trước khi vào nhóm, một thành viên có tên bí danh là “Ba Lé”, một người bạn trong nhóm gọi anh ta theo tên bí danh này. Thành viên này không hài lòng và tỏ ra nóng giận và muốn gây hấn. Một khi NVXH biết can thiệp và tác động thì ranh giới của từng cá nhân sẽ mờ đi và tạo được sự thân thiện với nhau, từ đó hình thành một bầu không khí thoải mái, biết chấp nhận nhau. Tóm lại để đạt được những mục tiêu của nhóm chúng ta cần quan tâm đến các vấn đề sau : · Lập nhóm để làm gì? · Cá nhân muốn đạt gì thông qua nhóm · Phương pháp sử dụng ( cách triển khai các hoạt động : thảo luận, vui chơi, sắm vai ) · Thời gian và nơi sinh hoạt. · Các nguyên tắc sinh hoạt nhóm, hệ thống thưởng phạt (giáo dục các nhóm viên thay đổi hành vi để đạt mục tiêu ). · Sự tham gia của nhóm viên (NVXH không được bỏ rơi ai) . · Tôn trọng tính riêng tư của mỗi nhóm viên. Bước này chấm dứt khi có sự đồng thuận về các mục tiêu cần thực hiện. Bước 2 : Khảo sát nhóm Tới đây nhóm viên bắt đầu có quan hệ tương đối tốt và mục tiêu (hay mục tiêu mới đối với nhóm sẵn có) được nhóm viên am hiểu chấp nhận. Nhóm bắt đầu bắt tay vào chương trình một cách điều hòa, có nề nếp và năng suất. Đối với nhóm có sẵn, công tác khảo sát nhóm hướng vào các vấn đề sau : · Tìm hiểu mối quan hệ cá nhân · Tìm hiểu tiến trình nhóm (nhóm được lập lúc nào, lí do hình thành nhóm? Đã có những hoạt động gì? Ai là người lãnh đạo?) · Tìm hiểu chức năng vai trò của từng thành viên nhóm thông qua thảo luận, quan sát. · Tìm hiểu môi trường sinh hoạt của nhóm, qui chế nhóm · Qui định của cơ sở xã hội - 45 -
  46. Ở giai đoạn này (giai đoạn dài nhất) NVXH vừa hỗ trợ về chương trình vừa hết sức quan tâm đến tiến trình (các mối tương tác giữa nhóm viên) để các nhóm viên được hưởng tối đa bầu không khí và các mối quan hệ thuận lợi. Những người đã bị tổn thương trong đời sống xã hội như trẻ LTBĐ bị ngược đãi, khinh thường, thiếu tình thương sẽ tìm lại sự tự trọng, tự tin thông qua kinh nghiệm nhóm tích cực này. Các nguyên tắc chấp nhận, lắng nghe, tôn trọng cần được NVXH truyền đạt cho nhóm viên để nhóm viên ứng xử với nhau theo hướng tích cực nhất. Trẻ hung hãn biết nhường nhịn, giúp đỡ các em khác. Trẻ nhút nhát được bạo dạn lên. Trẻ ít được quan tâm sẽ có dịp thi thố tài năng. Nhóm viên tăng sự tự tin vì hoàn thành được nhiệm vụ giao phó. Đối với trẻ em, trong công tác xã hội nhóm, một hình thức môi trường giúp trẻ thay đổi là chơi. Cần phân biệt chơi trong khuôn khổ và chơi không theo khuôn khổ. Chơi không theo khuôn khổ là một phương tiện truyền thông và tự bộc lộ. Nó được dùng cho các nhóm của mọi lứa tuổi, liên quan đến các nhu cầu của cá nhân và liên quan đến những người mà họ có quan hệ ở một thời điểm nhất định. Garvey (1977) nêu 5 tiêu chí để xác định trò chơi không theo khuôn khổ : · Chơi vui, hoặc có giá trị tích cực cho người chơi · Được thúc đẩy từ bên trong, không có mục đích bên ngoài hoặc hành động bắt buộc nào. · Nó xuất phát một cách tự nhiên, không bị ép buộc · Nó đòi hỏi sự tham gia tích cực bởi người chơi · Nó có một mối quan hệ nhất định với cái “không chơi” trong thế giới thực. Các đặc tính của việc chơi không theo khuôn khổ : Chơi được dùng bởi người lớn để hiểu trẻ em theo 3 phương cách (Garbarino Stott, 1992) : · Tìm hiểu mức độ phát triển và năng lực của trẻ, bao gồm phát triển nhận thức, xã hội và thể chất. · Thu thập thông tin về cuộc sống tinh thần của trẻ - có khái niệm về trẻ cảm nhận như thế nào. · Chơi giúp trao đổi về những trải nghiệm lo lắng Những hoạt động bao gồm trò chơi, thi đua, kể chuyện, sắm vai, tâm kịch đều được xem là chơi theo khuôn khổ. Nhân viên xã hội sử dụng các hoạt động này để các thành viên và nhóm đạt được mục tiêu của họ, nó thường xem như là một chương trình hoạt động đã định, giúp họ “học hỏi các quy định của trò chơi”, giúp họ dịch chuyển xa hơn, tạo ra những khám phá mới, phát triển sự sáng tạo. Lên kế hoạch các hoạt động : - 46 -
  47. Kế hoạch các hoạt động phải dựa trên cơ sở : · Nhu cầu và mục tiêu của nhóm: chung và riêng · Các giai đoạn phát triển của nhóm. · Môi trường sinh hoạt. · Đặc điểm của đối tượng : nhóm viên là ai? Đặc điểm riêng của họ? Trước khi chúng ta lên kế hoạch các hoạt động và để các hoạt động có thể đóng vai trò làm nền cho tiến trình thay đổi, chúng ta cần định hướng dựa trên các nhu cầu, mong đợi của nhóm viên và dựa trên mục tiêu để xây dựng kế hoạch hoạt động. Mọi thành viên nhóm cần phải hiểu mục tiêu như nhau để có sự gắn kết trong nhóm. Những vấn đề đặt ra là để có sự hòa nhập sau khi có sự đồng thuận về : - Tại sao chúng ta ở đây ? - Chúng ta cần làm gí ? (Xác định các hoạt động) - Chúng ta làm như thế nào ? - Chúng ta cần đạt những gì ? Thông thường, nhân viên xã hội hỗ trợ nhóm lựa chọn và sử dụng các hoạt động. Vai trò của tác viên bao gồm nhiều công việc như chọn một hoạt dộng, lên kế hoạch, khởi đầu, dạy (trường hợp nhó trẻ), hỗ trợ, điều chỉnh, điều quan trọng là tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong nhóm và các hoạt động phải là những cơ hội khen thưởng để các nhóm viên phàn ứng một cách tích cực. Trong những trường hợp khác, nhân viên xã hội cần giúp trẻ vượt qua những hoạt động mới mẻ, chưa quen thuộc, để tập dần sự thích thú trong những gì trẻ đang làm. Trong lúc vẽ tranh hoặc lúc nặn đất sét, nhân viên xã hội thường cùng tham gia, tạo cho trẻ nhiều cơ hội tự thể hiện một cách thoải mái mà không có cảm giác là mình đang bị giám sát bời nhân viên xã hội. Vai trò của nhân viên xã hội là tạo sự ham muốn tham gia hoặc thúc đẩy người khác trở nên dấn thân hơn. Tuy nhiên đôi lúc nhân viên xã hội cũng cần kiểm soát hoặc hạn chế bớt những hành vi thái quá, trường hợp có mâu thuẫn, có nghĩa là nhân viên xã hội được phép can thiệp khi trẻ có nhu cầu. Những hoạt động nào được sử dụng trong CTXH nhóm ? Trước hết các hoạt động của nhóm, theo Vinter (1974) phải bao hàm 6 yếu tố chính: · Có những quy định trong sinh hoạt (Quy định trong thảo luận nhóm thì nhẹ hơn quy định khi chơi bóng bàn) · Có sự kiểm soát : trọng tài, người hướng dẫn · Có hoạt động thể chất · Có vận dụng khả năng và kỹ năng trong hoạt động · Có sự tương tác giữa những người tham gia · Có hệ thống thưởng phạt Các loại hoạt động thường bao gồm: - 47 -
  48. · Trò chơi: trò chơi giúp nhóm viên năng động, sáng tạo và tạo sự gắn kết trong nhóm, sức khỏe. Trò chơi cũng tạo niềm tin vì trong cuộc sống ta không sống một mình được mà luôn cần những mối quan hệ trong xã hội. Trò chơi nhận thức giúp nhóm hiểu một vấn đề và thay đỗi nhận thức. · Nói chuyện : ở môi trường cà nhóm hoặc theo từng cặp đôi, chia sẻ kinh nghiệm, những chuyện vui buồn gặp phải trong quá khứ. Đây được xem là một tham vấn cho nhau giữa các thành viên nhóm. · Viết nhật ký, bản tin, báo tường, viết lên những suy nghĩ, tự đánh giá bản thân. Thông qua hoạt động này nhân viên xã hội có thể theo dõi diễn biến tâm lý, tâm tư của từng cá nhân để có hướng hỗ trợ. · Hoạt động vui chơi, giải trí như cắm trại, nấu ăn, thể thao, văn nghệ · Hoạt động về kỹ năng xã hội như sắm vai, kỹ năng sống (tập nói “không”, làm chủ bản thân, giảm bạo lực ) · Tâm kịch: sắm vai, diễn lại sự cố đã xảy ra. · Đóng vai: Diễn kịch trong sinh hoạt văn nghệ, đóng vai theo một khuôn mẫu người nào đó. Ví dụ như cho một đứa trẻ đóng vai đứa con vi phạm, có lỗi với ba mẹ, ba mẹ nóng giận và đứa trẻ này đứng cạnh một em khác đóng vai đứa con ngoan dễ thương, khác với hành động của nó, đứa trẻ này kia suy nghĩ nếu mình cư xử dễ thương thì không bị ba mẹ đánh. · Hoặc kịch câm: Loại hình này giúp họ tự bộc lộ qua động tác. · Hoặc xây tượng : qua thể hiện, nhân viên xã hội ghi nhận được tâm trạng bên trong của họ · hoạt động nghệ thuật khác như vẽ tranh, chụp ảnh, múa · Hoạt động nghe nhìn: quay video : nhóm ở cộng đồng ( trong dự án PTCĐ). Khi quay, cá nhân bộc phát hành vi và khi chiếu lại để xem và cùng nhau phân tích, nhóm viên biết hành vi nào đúng, hành vi nào chưa đúng, điều này tác động đến sự thay đổi hành vi. Bước 3: Bước duy trì nhóm - 48 -
  49. Đây là bước chính trong công tác xã hội nhóm, bước đưa đến những thay đổi. Vì thế lúc này là lúc nhân viên xã hội chứng tỏ khả năng chuyên môn của mình. Nhân viên xã hội quan tâm đến việc chia sẻ thông tin, cảm xúc giữa các thành viên với nhau. Đặc điểm của bước này là sự bộc lộ, mong mỏi được sự phản hồi. Trong bước này, các nhóm viên trao đổi thông tin về cá nhân, về công việc, tìm hiểu hành vi và ý nghĩa hành vi của nhau. Nhóm viên cảm thấy thoải mái hơn, biết chấp nhận nhau và mọi người cảm thấy mình thuộc về nhóm hơn (hòa nhập vào nhóm, một sự đồng hóa với nhóm :“ta là nhóm, nhóm là ta”). Nhóm viên bắt đầu có quan hệ tương đối tốt và mục tiêu (hay mục tiêu mới đối với nhóm sẵn có) được nhóm viên am hiểu chấp nhận hơn. Nhóm bắt đầu bắt tay vào chương trình một cách điều hòa, có nề nếp và năng suất. Ở giai đoạn này (giai đoạn dài nhất) NVXH vừa hỗ trợ về chương trình vừa hết sức quan tâm đến tiến trình (các mối tương tác giữa nhóm viên) để các nhóm viên được hưởng tối đa bầu không khí và các mối quan hệ thuận lợi. Những người đã bị tổn thương trong đời sống xã hội như trẻ em đường phố bị ngược đãi, khinh thường, thiếu tình thương sẽ tìm lại sự tự trọng, tự tin thông qua kinh nghiệm nhóm tích cực này. Các nguyên tắc chấp nhận, lắng nghe, tôn trọng cần được NVXH truyền đạt cho nhóm viên để nhóm viên ứng xử với nhau theo hướng tích cực nhất. Trẻ hung hãn biết nhường nhịn, giúp đỡ các em khác. Trẻ nhút nhát được bạo dạn lên. Trẻ ít được quan tâm sẽ có dịp thi thố tài năng. Nhóm viên tăng sự tự tin vì hoàn thành được nhiệm vụ giao phó. Một số vấn đề cần quan tâm trong bước quan trọng này của tiến trình nhóm: · Coi trọng công việc lẫn con người · Rà soát kế hoạch hoạt động có phù hợp với nhu cầu và mục tiêu hay không để sớm điều chỉnh · Giúp nhóm viên chấp nhận sự khác biệt của nhau · Đánh giá thường xuyên các sự kiện thể hiện hành vi, nó có ý nghĩa gì, định hướng và uốn nắn hành vi. · Có phương pháp can thiệp để tạo sự tham gia tối đa, tạo sự gắn kết trong nhóm · Đánh giá từng bước tiến bộ của nhóm · Luôn khuyến khích nhóm làm tốt hơn · Áp dụng phương pháp CTXH cá nhân đối với những trường hợp cá nhân có vấn đề riêng biệt · Đánh giá vai trò của từng nhóm viên trong quá trình phát triển nhóm và trong mối quan hệ trong nhóm. · Đánh giá các kênh truyền thông trong nhóm Một số kênh truyền thông trong nhóm - 49 -
  50. NVXH NV NV NV NV Truyền thông hiệu quả với từng nhóm viên NVXH NV NV NV NV Truyền thông giữa các nhóm viên NVXH NV NV NV NV NVXH trao đổi với nhóm NVXH NV NV NV NV - 50 -
  51. NVXH trao đổi với những người có liên quan đến nhóm (kênh) NVXH 1 NVXH 2 NV NV NV NV Trao đổi giữa hai đồng nghiệp Bước cuối : Bước giải quyết vấn đề và đạt mục tiêu xã hội Nhóm như con người có thể chết yểu, nghĩa là sau vài lần sinh hoạt không còn hay còn rất ít người tham dự. Kinh nghiệm thất bại không có gì lạ thậm chí rất phổ biến. Có nhóm kéo dài được đến giai đoạn cuối. Lượng giá gồm cả 2 mặt chương trình và tiến trình. Trong CTXH nhóm, tiến trình rất quan trọng. Vở diễn A có thể được đánh giá cao về kịch bản, dàn dựng, diễn xuất. Nhưng khi tìm hiểu thì vỡ lẽ là do sự “độc diễn” của một nhóm viên từ đầu đến cuối. Các nhóm viên kia thì chỉ “đặt đâu ngồi đó”. Họ tích cực tập luyện vì sĩ diện nhóm. ở đây không có gì xấu nhưng xét về mặt tăng trưởng tâm lý của cá nhân và nhóm thì chưa đạt. Vở kịch B ít chuyên nghiệp hơn, nhưng tất cả các thành viên đều tham gia ý kiến cho kịch bản và dàn dựng cũng như diễn xuất. Họ không những hãnh diện mà còn rất vui và gắn bó với nhau. Về mặt mục đích CTXH nhóm thì vở B đạt hơn. Lượng giá được mọi người tham gia với sự chuẩn bị một dàn ý do NVXH hay trưởng nhóm. Một nhóm bệnh nhân nằm viện lâu dài được sinh hoạt nhóm để chuẩn bị xuất viện thì câu chuyện kết thúc cho tất cả ở đây, cho dù có người sẵn sàng có người còn e ngại trở lại với cuộc sống hàng ngày. Nhưng đối với một số thân chủ có vấn đề ví dụ như một nhóm các bà mẹ mới ly dị. Có người thông qua sinh hoạt nhóm đã ổn định được tinh thần. Có người có tiến bộ nhưng còn rất chao đảo. Nhóm đầu có thể “xuất” nhóm. Nhóm người sau có thể tiếp tục với - 51 -
  52. mục tiêu, chương trình mới. Hoặc họ có thể được chuyển qua một nhóm khác để tiếp tục sinh hoạt. CTXH nhóm là một phương pháp càng ngày càng được sử dụng vì có hiệu quả cao. Nhưng nó không phải vạn năng, bên cạnh các phương pháp cá nhân, nhóm, cộng đồng còn nhiều cách can thiệp khác như biện hộ (advocacy), xây dựng chính sách, kế hoạch, pháp chế, mới giải quyết được các vấn đề xã hội. Một số đặc điểm của bước này là : · Nhóm viên phụ thuộc lẫn nhau: nhóm viên có thề làm việc một mình, trong tiểu nhóm hoặc trong toàn nhóm. · Có sự thu hút nhau giữa các nhóm viên · Các nhóm viên hợp tác nhau và cạnh tranh để cùng nhau phát triển (hội nhập vào nhóm phát triển.) · Trước đây giải quyết những xung đột rất khó, nay giải quyết rất dễ dàng hơn. · Những gì nhóm thực hiện được xem là phương tiện trong cố gắng đạt được mục tiêu của chính mình (trong nhóm tâm lý trị liệu thì hoạt động nhắm vào cá nhân nhiều hơn) Tuy nhiên, ở giai đoạn kết thúc này, nhân viên xã hội cần quan tâm một số công việc: - Duy trì những cố gắng thay đổi của nhóm viên, giúp họ phát triển lòng tự tin - Giảm sự thu hút của nhóm và tăng cường chức năng tự lực của các cá nhân thành viên. - Hỗ trợ các thành viên đương đầu với những cảm xúc khi kết thúc - Lên kế hoạch cho tương lai - Giúp họ tiếp cận với các dịch vụ và các tài nguyên khác - Lưu ý các yếu tố có thể làm cho nhóm viên rời bỏ nhóm : · Những mâu thuẫn và những thay đổi khó thích nghi · Sự lệch hướng của nhóm do bị một cá nhân thành viên lôi kéo · Những vấn đề phát sinh do phát triển mối quan hệ thân tình · Thiếu cơ hội và thời gian chia sẻ với nhân viên xã hội · Thiếu định hướng đầy đủ trong trị liệu · Những rắc rối phát sinh tử các tiểu nhóm. - 52 -
  53. Phần bốn Thực hành Công tác xã hội nhóm Mục tiêu của phần bốn : Phần bốn chủ yếu giúp sinh viên nắm vững một số kỹ thuật, một số công việc cần thực hiện trong CTXH nhóm, thực thi đúng các vai trò của mình, kết hợp việc vận dụng các kỹ năng cần thiết, tránh những điều không nên làm để đạt hiệu quả cao trong thực hành công tác xã hội nhóm. 1.Vẽ sơ đồ nhóm khi nhóm thảo luận giải quyết vấn đề (trắc lượng xã hội) Khi nhóm thảo luận để giải quyết một vấn đề của nhóm, nhân viên xã hội chú ý quan sát và ghi nhận tiến trình tham gia và phản ứng của từng nhóm viên và phát họa sơ đồ nhóm : - 53 -
  54. · Ghi nhận số lần phát biểu của từng nhóm viên, ai nói nhiều, ai ít nói,ai không nói, tìm hiểu lý do. · Vẽ sơ đồ nhóm theo các hướng phát biểu nhắm vào cá nhân hay nhắm vào nhóm ( nếu nhắm vào nhóm thì vẽ mũi tên vào trung tâm) : Thu hút một chiều : Thu hút nhau : Đối kháng, nghịch nhau Ví dụ : A B : A căng với B A B : A và B đối kháng nhau : 2 nhóm viên nghịch nhau : Thờ ơ với : Cùng thờ ơ với nhau 2. Vẽ Sơ đồ Sharon: Sơ đồ Sharon được dùng để đo lường, đánh giá mặt tích cực và mặt tiêu cực của vai trò và quan hệ trong nhóm. Sơ đồ gồm có 2 trục : Trục thẳng đúng ghi nhận mức độ làm việc thiên về lý trí và mức độ làm việc thiên về tình cảm, trục ngang là trục ghi nhận múc độ từ không thân thiện đến mức độ thân thiện cao. Làm việc, lí trí Người khác ngại lãnh đạo trong công việc gần người này Mặt tích cực Không thân thiện thân thiện cao hơn Bị bỏ rơi lãnh đạo về tình cảm Mặt tiêu cực - 54 -
  55. Khi phát hiện trường như sơ đồ trên, NVXH phải có cách giúp nhóm viên bên tiêu cực chuyển qua bên tích cực hoặc lên phía trên. 3. Đối chiếu với kế hoạch trị liệu Kế hoạch này được thông qua bởi từng cá nhân và nhóm. Ví dụ trường cai thuốc lá Ai cai ? : Tuấn Tuấn sẽ phải làm gì ? Từ chối thuốc lá khi có người mời hút hoặc giảm mỗi bao nhiêu điếu thuốc. Vào tình huống nào? Khi có những buổi hợp mặt tại nhà, mỗi ngày Đo lường bằng cách nào? Nhóm báo cáo lại hoặc bạn Tuấn báo cáo Trong công tác xã hội nhóm, việc đánh giá thường nhắm vào giai đoạn cuối của tiến trình nhóm. Đánh giá tính hiệu quả thường phức tạp vì việc đạt mục tiêu liên quan khác nhau đến từng cá nhân trong nhóm. Nếu ở một nhóm có 10 người và chỉ có 5 người là đạt mục tiêu đã định, còn 5 người khác chưa đạt và vì thế mà sự đánh giá trở nên thiếu cụ thể, thiếu rõ ràng. Để giảm thiểu nhưng vấn đề này, chúng ta cần xác định : · Mục tiêu của từng cá nhân là gì ? (nó có thể thay đổi hoặc bổ sung do nhóm phát triển, nhu cầu mới phát sinh. · Đạt mục tiêu bắng cách nào ? Do tự bản thân cá nhân, do nhóm hay do nhân viên xã hội hoặc cà ba. · Các chỉ số đo lường : Nếu không có các chỉ số đo lường thì công tác đánh giá lại càng phức tạp. Vì thế Preston-Shoot (1988) đề nghị một “mô hình” đánh giá như sau : Bước 1 : Mô tả tình hình hiện tại, càng cụ thể, chính xác càng tốt. Bước 2 : Mô tả mục đích tổng quát hoặc đầu ra mong đợi Bước3 : Xác định các mục tiêu khả thi, các mục tiêu riêng biệt, sự hoàn thành giúp đạt được tình trạng mong muốn Bước 4: Mô tả chi tiết sự can thiệp đưa đến tình trạng mong muốn, bao gồm các phương pháp được sử dụng và các nguồn lực tài nguyên và thời gian cần thiết. Bước 5 : Xác định các chỉ báo cho thấy sự thay đổi - 55 -