Dự báo phát triển giáo dục - Nguyễn Văn Hộ (Phần 2)

pdf 42 trang hapham 1610
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Dự báo phát triển giáo dục - Nguyễn Văn Hộ (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdu_bao_phat_trien_giao_duc_nguyen_van_ho_phan_2.pdf

Nội dung text: Dự báo phát triển giáo dục - Nguyễn Văn Hộ (Phần 2)

  1. Quản lý giáo dục ở một số cấp – đặc biệt là ở cấp Bộ - trong tình trạng “nắm quá chặt một số việc cần phải buông – thả nổi – một số việc quan trọng cần phải nắm”. Sự thi cư đang diễn ra quá nặng nề và gây lãng phí lớn thì Bộ nắm quá chặt trong lúc đó các chính sách giáo dục – đặc biệt là các chính sách giáo dục cụ thể hóa được luật giáo dục về chuẩn kinh tế sư phạm cho các trường, các loại hình trường, về quy chế hoạt động vừa tự chủ vừa chịu trách nhiệm của nhà trường về quỹ lương, về nhân sự, về tài chính nhà trường lại chậm ban hành. Sự hiện thực hóa được các trường chuẩn vào đời sống thực tiễn (trừ bậc tiểu học) còn diễn ra quá chậm chạp. Nhiều điển hình tiên tiến trong giáo dục sớm nở tối tàn và chưa có nguyên lý tỏa rộng cho các nơi ngay địa phương hoặc trong toàn quốc. Giáo dục nước ta có góp phần có hiệu quả và tạo ra những động lực mạnh để đất nước thoát ra khỏi tình trạng còn lạc hậu và phát triển chậm hay không thì trước hết bản thân nó phải vượt ra khỏi sự lạc hậu về quan điểm và cách làm. Việc nhận thức được quan điểm mới và đề xuất cách làm hay là một quá trình trải qua nhiều vòng, nhiều đợt. Theo đường lối chung và đường lối giáo dục mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra với các tiêu chí sự chuẩn hóa, sự hiện đại hóa, sự xã hội hóa đối với các ngành khoa học, bậc học, các nhà trường; chúng tôi nghĩ sự cộng tác chặt chẽ của các nhà sư phạm học, các nhà kinh tế học, các nhà xã hội học cùng với các khoa học và hoạt động thực tiễn hữu quan sẽ tìm ra được các đột phá làm cho giáo dục thoát khỏi sự trì trệ, có được các hiệu ứng mới cho phát triển kinh tế xã hội. VIII. MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN CỦA CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC NƯỚC TA HIỆN NAY DƯỚI ÁNH SÁNG QUAN ĐIỂM DỰ BÁO GIÁO DỤC. Cũng như nhiều ngành trong hệ thống chính trị kinh tế, ngành giáo dục đào tạo nước ta đã xây dựng chiến lược giáo dục đến năm 2010 đồng thời có tầm nhìn hành động đến năm 2020. Xét cho cùng bất cứ một chiến lược giáo dục đều gắn với ý đồ của việc biến đổi (Transform), canh tân (Innovation), cải cách (Reform) đối với giáo dục. Công việc này là sự bình thường của mọi nền giáo dục nếu muốn cho nền giáo dục phục vụ đắc lực cuộc sống. Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân” 36
  2. chính là Người yêu cầu không bao giờ được bằng lòng thỏa mãn với các thành tựu giáo dục đã giành được. Sự biến đổi nền giáo dục là nhằm vào các cải tiến để nó thích nghi với động thái kinh tế xã hội. Sự canh tân nền giáo dục là quá trình loại bỏ đi cái cũ, tạo ra cái mới thúc đẩy bước tiến của kinh tế xã hội Sự cải cách là nhằm vào sự cải biến các nhân tố của quá trình giáo dục để nó đón đầu các bước tiến của kinh tế xã hội. Chiến lược giáo dục của nền giáo dục Việt Nam dù được biểu hiện như thế nào, theo khung thời gian nào đều không thể bỏ trống một trong ba yêu cầu trên đây. (i) Yêu cầu làm cho nền giáo dục thích nghi với kinh tế - xã hội. (ii) Yêu cầu làm cho nền giáo dục thúc đẩy tiến bộ của kinh tế - xã hội (iii) Yêu cầu làm cho nền giáo dục đón đầu xu thế phát triển kinh tế - xã hội. Nhằm đạt cả ba yêu cầu nêu trên và trong bối cảnh tiến đến năm 2010 chiến lược giáo dục đào tạo ở nước ta phải nhằm vào những vấn đề chủ yêu sau đây. 1/ Xây dựng được nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân coi giáo dục đào tạo là động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, giáo dục cũng thông qua việc nâng cao dân trí là điều kiện quan trọng để phát huy dân chủ, bảo vệ quyền con người, tăng cường pháp chế, giữ vững kỷ luật kỷ cương. 2/ Thực hiện được sự đổi mới căn bản và toàn diện về nội dung phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp, hệ thống quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa. 3/ Phát triển giáo dục mầm non làm tiền đề vững cho việc nâng cao chất lượng giáo dục nhân cách ở giáo dục phổ thông. Củng cố thành tựu xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tạo điều kiện cho những địa phương có khả năng hoàn thành sớm việc phổ cập giáo dục trung học phổ thông. 4/ Đẩy mạnh phong trào học tập, khuyến khích tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề bằng những hình thức giáo dục chính qui và không thể chính qui, giáo dục không theo thủ tục chính tắc. 37
  3. Có qui hoạch nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực theo phương thức kết hợp học tập trung, học từ xa, học trên mạng, học trong đời sống thực tiễn (vừa lao động, vừa học tập). 5/ Hiện đại hóa cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, tạo các điều kiện tăng giờ học, giáo dục tại trường (trường học hai buổi mỗi ngày), các trường học được thụ hưởng thành quả của tiến bộ công nghệ thông tin, được nối mạng internet. 6/ Tạo cho quá trình đào tạo ở mọi cấp học, trình độ học, phương thức học có một sự kết hợp chặt chẽ giữa dạy và học lý thuyết với thực hành, gắn công tác dạy học với công tác nghiên cứu khoa học và sản xuất. Nhà trường và cơ sở đào tạo phối hợp với các tổ chức khoa học và cán bộ kỹ thuật truyền bá tri thức sản xuất, chuyển giao công nghệ mới cho dân. 7/ Thực hiện tốt việc hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương. 8/ Mở rộng qui mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề nhanh chóng hiện đại hóa một số trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội khuyến khích phát triển hệ thống trường lớp dạy nghề dân lập và tư thục trang bị cho thanh niên những kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp thu trong công nghệ mới để tự tạo việc làm, chủ động tìm kiếm cơ hội lập thân lập nghiệp. 9/ Phát triển giáo dục đại học một cách hợp lý. Từng bước đưa nền giáo dục đại học tinh hoa sang giáo dục đại học đại chúng tạo ra các tiền đề để một tương lai không xa phát triển nhanh giáo dục đại học. Đầu tư vào hai trường đại học quốc gia thành những trung tâm đào tạo chất lượng cao, thực hiện tốt việc bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, xây dựng hệ thống trường sư phạm vững mạnh, đầu tư cho các trường đại học sư phạm trọng điểm để có được đội ngũ giáo viên giỏi cho hệ thống trường lớp ở bậc phổ thông, cũng như bậc đại học. 10/ Huy động sức mạnh toàn dân vào việc thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo mang lại cho người dân cơ hội học tập và đóng góp nhân lực vật lực cho giáo dục. Phát triển các trường bán công, dân lập, tư thục theo phương châm xã hội hóa giáo dục và đảm bảo sự quản lý của nhà nước. Phát triển mạnh hội khuyến học, quỹ khuyến khích tài năng và các tổ chức bảo trợ, hỗ trợ giáo dục. 11/ Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập. Mở rộng và hoàn thiện các trường dân tộc nội trú cho con em dân tộc thiểu số, chú trọng đặc biệt đến quyền lợi học tập của con em cư 38
  4. dân ở những nơi nghèo và có nhiều khó khăn, có các biện pháp hữu hiệu chấm dứt các tiêu cực đang diễn ra: dạy thêm học thêm theo khuynh hướng thương mại hóa, bằng cấp giả, học giả, bạo lực trường học, ma túy và các tệ nạn khác. 12/ Tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo, có các biện pháp tăng được tổng thu nhập quốc dân cho giáo dục đào tạo. Xây dựng cơ chế quản lý giáo dục đào tạo đảm bảo được sự quản lý của nhà nước nhưng tăng cường tính chủ động của ngành trên cả năm lĩnh vực: quản lý chuyên môn, quản lý nhân sự, quản lý tài chính, quản lý bộ máy, quản lý cơ sở vật chất. Từ hệ thống các quan điểm kinh tế giáo dục chúng tôi xin nêu ra năm gợi ý sau đây. Thứ nhất cần quán triệt việc giáo đáp ứng cho yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy phải tổ chức cho nền giáo dục này có hạt nhân của quá trình đào và quá trình phát triển phục vụ việc phát triển nguồn nhân lực theo yêu cầu của thị trường sức lao động. Thứ hai cần ý thức được luận điểm “Sản phảm của giáo dục không chỉ cho hiện tầim chủ yếu cho tương lai” (ý của Kant), việc quản lý nền giáo dục phải hành động trên tư duy dự báo, tư duy quy hoạch tổng thể. Thứ ba cần mở rộng tầm nhìn đối với các vấn đề của giáo dục trong xu thế toàn cầu hóa về kinh tế. Phải tổ chức nền giáo dục của nước như một “Hệ mở”, “Mở” ngay trong quá trình đào tạo giữa các trường ở trong nước và “mở” đối với sự giao lưu cạnh tranh khu vực và quốc tế. Thứ tư cần quản lý và tổ chức cho nền giáo dục này trước hết là cho quá trình đào tạo thích ứng với nền kinh tế công nghiệp, kinh tế thị trường nhưng phải đón đầu được nền kinh tế tri thức (Knowledge). Thứ năm là phải luôn luôn tỉnh táo nhận thức được giáo dục chịu đựng các tương phản của kinh tế xã hội, chính trị, văn hóa, đặc biệt trong hoàn cảnh của nước ta khi mặt bằng phát triển kinh tế khá thấp chấp nhận kinh tế thị trưòng nhưng nhân dân lại có tinh thần hiếu học rất cao, đất nước có nền chính trị ưu việt và văn hóa với bề dày sâu sắc. Việc đào tạo được các nhà kinh tế học giáo dục am hiểu các vấn đề kinh tế thực chứng, tính được quan hệ “Chi phí – Lợi ích”, tính được “Giá thành” giáo dục cho mỗi cấp học, mỗi loại hình trường, tính được hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài của giáo dục; đồng thời nắm vững quan điểm kinh tế chuẩn tắc đối với các vấn đề giáo dục: “Pháp luật chỉ thống trị được một thời gian, chỉ có giáo dục mới chinh phục được con người mãi mãi” (Khang Hy), “Các khoản tiền bỏ vào giáo dục sẽ thừa sức được thanh toán với việc xuất hiện Niutơn, Mô ja, Bettoven” (Alfred Marshall). 39
  5. IX. DỰ BÁO MÔ HÌNH PHÁT TRIẾN GIÁO DỤC VIỆT NAM TỚI 2020 Mục tiêu và mô hình là hai trong số những vấn đề lí luận và thực tiễn cơ bản của chiến lược phát triển giáo dục. Bài viết chỉ trình bày quan niệm, cơ sở lí luận nhằm góp phần tạo ra sự định hướng cho việc thực hiện trong quá trình hoạch định chiến lược chung. 1. Mục tiêu giáo dục Các mục tiêu giáo dục là những định hướng chuẩn mực và kết quả phải đạt tới hay trình độ phát triển nhân cách của học sinh. Trên mọi lĩnh vực khoa học, việc xác định chính xác, đầy đủ các mục tiêu là một vấn đề nan giải bậc nhất. Không có những mục tiêu đó thì cũng không thể có giáo dục. Hiện nay mục tiêu giáo dục được xem xét từ hai giác độ liên quan chặt chẽ với nhau: a/ giáo dục vì lợi ích của xã hội; và b/ giáo dục vì lợi ích của mỗi người. Chiến lược phát triển giáo dục cần chú ý tới sự kết hợp đó khi xem xét và thể hiện những nội dung cơ bản. 1.1. Khái niệm và sự phân chia cấp độ mục tiêu Nói chung mục tiêu thường được quan niệm như cái đích cần đạt tới để thực hiện nhiệm vụ. Do đó, mục tiêu giáo dục cũng chính là mục tiêu giáo dục của nhà trường. Khái niệm này được dùng để chỉ những gì cần phấn đầu hay phải đạt tới thông qua giáo dục và dạy học, tập trung chủ yếu vào mô hình nhân cách phù hợp với kiến thức trong giai đoạn phát triển xã hội – lịch sử nhất định. Mục tiêu có nhiều cấp độ khác nhau: a/ Mục tiêu chung của giáo dục – đào tạo; b/ Mục tiêu của bậc học; c/ Mục tiêu của cấp học; và d/ Mục tiêu của môn học; 1.2. Mục tiêu giáo dục đến năm 2020 Từ nay đến năm 2020, ngành giáo dục phấn đấu đạt các mục tiêu sau đây: “Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi, dạy trẻ cho các gia đình. Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học. Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010 và trung học phổ thông vào năm 2020. Phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số và các cùng khó khăn, phấn đấu giảm chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng lãnh thổ. 40
  6. Phát triển đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp, đẩy mạnh đào tạo công nhân lành nghề, đảm bảo có được nhiều nhân tài cho đất nước trong thế kỉ 21. Nâng cao chất lượng và đảm bảo số lượng giáo viên cho toàn bộ hệ thống giáo dục. Tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa các điều kiện dạy học. Phấn đấu sớm có một số cơ sở đại học và trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế”.(1) 1.3. Phân tích và thao tác hóa mục tiêu (2) Khi nghiên cứu những thành quả trong và ngoài nước, chúng ta có thể thấy nhiều quan niệm và cách thức phân tích mục tiêu khác nhau. Mục tiêu càng được xác định rõ, cụ thể hóa bao nhiêu thì càng có những khả năng thao tác hóa thuận lợi, chính xác bấy nhiêu. Các công trình nghiên cứu về phân tích và thao tác hóa mục tiêu đã đưa ra một số kết luận định hướng sau đây: a/ Phải tiến hành đồng thời các bước lựa chọn, mô tả, phân loại và thao tác hóa mục tiêu. Đây là điều kiện tiên quyết, vì có như vậy, việc định hướng thực hiện mới rõ ràng, bao quát, dẫn đến những hành động có hiệu quả thực tế, có thể nhận xét, đánh giá hay đo được. b/ Nhìn chung, quá trình đó bao gồm 3 giai đoạn hay 3 pha liên quan tới nhau: - Chuẩn bị - Thực hiện - Kiểm tra Trong “Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo đến năm 2010”, mục tiêu chung đến năm 2010 được xác định như sau: “Phát triển về quy mô và nâng cao chất lượng một cách phù hợp, phát huy hiệu quả, đáp ứng kịp thời nhu cầu nhân lực trước mắt và lâu dài của sự nghiệp CNH-HĐH”, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi tầng lớp nhân dân; phát huy cao độ nội lực, sử dụng có hiệu quả sự hợp tác quốc tế để tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống GDĐT, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giảng dạy (1) Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ướng Khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia 1997, tr. 31-32. (2) Thao tác hóa là một thuật ngữ phổ biến trong nghiên cứu chương trình giáo dục (Curriculuni), được dùng để chỉ quá trình cụ thể hóa các mục tiêu dạy học thành những kết quả giáo dục cần đạt tới thông qua việc nêu rõ các thao tác cần phải tiến hành và những chỉ số có thể đánh giá hay đo được. 41
  7. và quản lí, hình thành một số cơ sở GD-ĐT có uy tín trong khu vực và trên thế giới, từng bước áp dụng công nghệ thông tin trong GD-ĐT. Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha với lí tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, có tư duy sáng tạo, tính độc lập và tính tích cực cá nhân, có năng lực thực hành giỏi, yêu nghề nghiệp, làm chủ khoa học kĩ thuật hiện đại, có ý thức tổ chức kỉ luật, tác phong công nghiệp, ý thức cộng đồng và tinh thần hợp tác, có ý thức bảo vệ môi trường, có nếp sống lành mạnh và sức khỏe tốt”(3) Dựa trên mục tiêu chung đã nêu, Dự thảo chiến lược phát triển GD-ĐT đến năm 2010 đã xác định các mục tiêu cụ thể cho giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, giáo dục không chính quy. Bên cạnh những nội dung cụ thể, hợp lí, chúng ta có thể thấy cần phải giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu khá cáo, mang tính lí tưởng của mục tiêu chung và một bên là những điều kiện, khả năng có giới hạn, chưa toàn diện của các mục tiêu riêng trong những phần trình bày ở dưới. Trong chiến lược và mô hình phát triển giáo dục, mục tiêu tổng quát cần được cụ thể hóa theo các cấp độ đã nêu ở phần trên. Đặc biệt, phải xác định được mô hình nhân cách có phân hóa theo từng bậc học, cấp học với một cấu trúc phản ánh các mặt phát triển toàn diện của con người trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm đầu của thế kỉ 21. 1.4. Những mục tiêu của việc chuyển đổi các hệ thống giáo dục Chúng ta thường nói đến các loại mục tiêu cũng như những mục tiêu gắn với từng mục giáo dục (trí, đức, thể, mĩ) hay môn học (văn, sử, địa, toán, lí, hóa ). Tuy nhiên, bất cứ một mô hình giáo dục nào cũng phải có những mục tiêu cao hơn về chất. Đó cũng chính là những mục tiêu của sự chuyển đổi (Transformation) các hệ thống giáo dục trong những năm đầu của thế kỉ 21. 1/ Giáo dục phổ thông, đại học và trung học chuyên nghiệp phải thích ứng với những thay đổi nhanh chóng trong khoa học và kĩ thuật, trong thế giới nghề và cuộc sống thường ngày. 2/ Phấn đấu đạt tới trình độ có khả năng hợp tác bình đẳng và cạnh tranh trong phạm vi khu vực và toàn cầu tự bậc học thấp nhất trở lên. Muốn vậy, các mục tiêu đào tạo quốc gia phải đạt các tiêu chuẩn quốc tế ở những lĩnh vực cơ bản nhất. (3) Bộ giáo dục và Đào tạo, Hà Nội 10/1999 42
  8. 3/ Trong đào tạo, ngoài việc hình thành và phát triển các năng lực nhận thức, những kĩ năng vận dụng, nhà trường sẽ coi trọng hơn các xu hướng động cơ, thái độ của cá nhân, hành vi đạo đức và những định hướng giá trị chi phối hành động. 1.5. Học vấn và mục tiêu hóa giáo dục Học vấn là một khái niệm có nội hàm biến động theo sự phát triển văn hóa, xã hội Đó không phải là kết quả của sự tiếp thu, sở hữu những điều hiểu biết bất kì, mà là sự hiểu biết cá nhân với chất lượng cao. Cho đến nay, khi điểm lại các công trình nghiên cứu từ những năm 70, ví dụ F. Copei, H. Schiefele, J.H. Flavell, R.S. Siegler, D.D. Richards hay E.E. Weinert, ta có thể rút ra bốn đặc điểm sau đây: 1/ Học vấn là kết quả của sự tiếp thu những điều hiểu biết phong phú về nội dung vấn đề, mang tính phân hóa và có cơ sở, trái với quan niệm về đào tạo hình thức. 2/ Học vấn là kết quả của sự tiếp thu những điều hiểu biết tạo động cơ cho hoạt động học tập và bản thân sự tiếp thu đó. 3/ Học vấn là kết quả của sự tiếp thu những điều hiểu biết tạo động cơ cho hoạt động học tập và bản thân sự tiếp thu đó. 4/ Học vấn là kết quả của sự tiếp thu những điều hiểu biết tạo động cơ cho hoạt động học tập và bản thân sự tiếp thu đó. Về lí luận, học vấn là một phạm trù quan trọng song không thể bị đồng nhất với mục tiêu giáo dục, một khái niệm bao trùm, đa diện hơn. Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu phải dẫn đến sự hình thành và phát triển vốn học vấn theo tính thần quan niệm trên đây. 1.6. Các nguyên tắc xác định mục tiêu giáo dục Mục tiêu phải xuất phát từ vị trí, chức năng và nhiệm vụ ngành giáo dục, bậc học, cấp học. Việc xác định mục tiêu phải mang tính đồng bộ, nghĩa là cần đồng thời chú ý tới: a/ Mối liên hệ giữa mục tiêu và nội dung, phương pháp; b/ Các loại hình giáo dục (công lập, bán công, dân lập, tư thục); c/ Quan điểm và mô hình phát triển toàn diện nhân cách; và d/ Yêu cầu của các môn học. Mục tiêu cần phản ánh được những yêu cầu của cuộc sống thực tế, nhất là của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương. 43
  9. Đảm bảo tính khả thi trên cơ sở xem xét đầy đủ những điều kiện cần thiết (như hiệu quả giáo dục tiểu học, quy mô đào tạo, mạng lưới, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất ). Hệ thống mục tiêu phải được xây dựng trên cơ sở truyền thống văn hóa dân tộc, những tiến bộ của khoa học giáo dục đương đại và phù hợp với xu hướng phát triển nói chung trong vùng và trên thế giới. Đảm bảo nguyên tắc “mở” (Open objectives) trong khi xác định mục tiêu, theo nghĩa không biến mục tiêu thành những quy định quá cứng nhắc, máy móc, thoát li những điều kiện phong phú, đa dạng, biến động trong xã hội và giáo dục. 1.7. Tính hiệu quả và khả thi của hệ thống mục tiêu giáo dục biểu hiện trước hết ở những điểm sau đây: 1/ Mục tiêu giảng dạy phải trở thành mục tiêu học tập. Nói khác đi, nhà trường là nơi được học hơn là được dạy. 2/ Mọi biểu hiện trong quá trình tiếp nhận phải dẫn đến sự hình thành ở người học những thái độ, giá trị và kỹ năng phù hợp với chất lượng nhân cách trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa và điều kiện mới. 3/ Giáo dục thực sự góp phần chủ yếu tạo ra một xã hội có hiểu biết và văn hóa, một xã hội học tập. 4/ Giáo dục phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cho sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hóa ở địa phương cũng như trong toàn quốc. 2. MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẾN NĂM 2020 2.1. Khái niệm 2.1.1. Mô hình. “1. Mẫu, phác thảo, kiểu. 4. Đối tượng thay thế, trong đó, các đặc điểm của một phạm vi đối tượng (original) được thể hiện sao cho chúng phù hợp với các quan hệ hay đặc điểm của nguyên bản”4. 2.1.2 Mô hình giáo dục Mô hình giáo dục ở đây là mô hình mang tính dự báo theo một chiến lược phát triển giáo dục quốc gia. Nó đưa ra những quan điểm, nội dung định hướng về những vấn đề, sự kiện được quan sát trong tương lai và do đó, còn được gọi là mô hình tiên nghiệm (a priori). (4) Meyers Lexikon, VEB Bibliographies Institut Leipzig 1980, tr.622 44
  10. 2.2. Sự cần thiết của việc xây dựng mô hình phát triển giáo dục mới. Khi nhìn lại các cuộc cải cách khác nhau trong thế kỉ 20, nhiều chuyên gia đã thấy cần phải tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới, phải thay đổi các hệ thống giáo dục. Nói khác đi, những năm đầu thế kỉ 21 đòi hỏi phải tìm kiếm một mô hình giáo dục vì những lí do sau đây: a/ Sự phát triển khoa học - kỹ thuật đã tạo ra những thay đổi trong hoạt động nghề nghiệp và cuộc sống thường ngày. Thế hệ trẻ phải có trình độ cao hơn so với những gì họ được các trường phổ thông, các trường nghề và các trường đại học truyền thụ từ trước đến nay. b/ Học vấn là quyền lực quốc gia quan trọng nhất trong cuộc cạnh tranh kinh tế và văn hóa toàn cầu. Học vấn ở nhà trường phải được lựa chọn trong bản thân nền văn hóa của mỗi dân tộc và từ những thành quả phát triển khoa học của nhân loại. Nhiều chương trình, tài liệu, sách giao khoa hiện nay chưa mang tính cơ bản, hiện đại và chưa được thành cái vốn riêng, trí lực của từng người học. c/ Sự lớn mạnh của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc chung về kinh tế, chính trị, văn hóa vào các nước trong khối ASEAN và nhiều nước khác trên thế giới đòi hỏi các hệ thống giáo dục phải có sự tiếp cận và nâng cao trình độ đồng đều hơn. d/ Sức sản xuất và tính hiệu quả của các hệ thống giáo dục ở nhiều nước, trong đó có nước ta còn thấp. Không ít học sinh ra trường chưa thực sự có “tay nghề”, chưa có đủ năng lực đáp ứng những yêu cầu của công việc được giao. Như trên đã nói, mô hình dự báo phát tiển giáo dục đến năm 2020 phải hàm chứa những đặc điểm, những bộ phận hợp thành và quan hệ của nó. Vì thế, những nội dung tiếp theo sẽ đề cập tới từng vấn đề cơ bản này. 2.3. Vấn đề quy mô phát triển giáo dục. Mọi chiến lược giáo dục đều phải đề cập tới quy mô phát triển. Đây là vấn đề liên quan mật thiết tới mục tiêu, hệ thống giáo dục quốc dân và việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. 2.3.1. Chúng ta đang phấn đấu phổ cập giáo dục tiểu học và xóa nạn mù chữ trong toàn quốc đến năm 2000. Như vậy, trong vòng 20 năm đầu thế kỉ 21, nhiệm vụ của ngành giáo dục nước ta là tiến tới phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010 và phổ cập trung học (với những loại hình và tỉ lệ khác nhau như trung học phổ thông chiếm đa số, trung học chuyên nghiệp, bổ túc văn hóa ) 2.3.2. Tính chất mở của hệ thống giáo dục, thị trường lao động, công tác xã hội hóa đòi hỏi phải có những thay đổi về quy mô giáo dục có liên quan đến các mặt sau đây: 45
  11. a/ Xác định lại tỉ lệ cơ cấu của các loại trường, công lập, bán công, dân lập, tư thục theo hướng tạo thêm điều kiện và khả năng học tập, đảm bảo số lượng và chất lượng, đảm bảo giá trị pháp lí của các văn bằng, chứng chỉ tốt nghiệp; b/ Coi trọng việc đào tạo đội ngũ lao động có hàm lượng trí tuệ ngày càng cao (như công nhân toàn năng hay công nhân lành nghề diện rộng, kĩ thuật viên cao cấp hay kĩ thuật viên công nghệ). 2.3.3. Sự phát triển quy mô giáo dục thực hiện đào tạo nhân lực diễn ra theo kế hoạch và cơ chế thị trường. Cụ thể, đó là việc hướng giáo dục vào thị trường lao động sau này của những người tốt nghiệp. Điều đó đòi hỏi phải có sự hợp tác trước hết của: - Giới kinh tế; - Các trường đại học; - Các nhà sản xuất tài liệu, thiết bị dạy học; - Các cơ sở phát thành và vô tuyến truyền hình. 2.4. Hệ thống giáo dục quốc dân Trong lịch sử, những cơ sở dạy học và giáo dục chuyên biệt, khác với cuộc sống thường ngày trong mọi nền văn hóa phát triển đã xuất hiện từ lâu, ví dụ ở Hy Lạp cổ đại là vào khoảng cách đây hơn 3000 năm. Từ đó đến nay, hệ thống giáo dục đã trải qua nhiều cuộc “cách mạng” (Talecott Parsons). Hệ thống giáo dục quốc dân là khái niệm dùng để chỉ sự xây dựng và phân chia tất cả các cơ sở giáo dục của một quốc gia. Hệ thống này được hình thành xuất phát từ bốn căn cứ sau đây: 1/ Triết lí quốc gia về tính chất, vị trí và vai trò của giáo dục; 2/ Thực trạng và khả năng phát triển của một nước; 3/ Nhu cầu đào tạo của nhân dân; 4/ Những xu hướng cơ cấu tiến bộ và hợp lí trong nền giáo dục ở các xã hội mở (Open Societies). Việc xây dựng một hệ thống giáo dục mở diễn ra theo những nguyên tắc nhất định, phản ánh sự phát triển tư duy giáo dục ở trong và ngoài nước cho đến bây giờ. Đó là: 1/ Bảo đảm giáo dục cho mọi người và học tập thường xuyên, học tập suốt đời. 2/ Xây dựng hệ thống hoàn chỉnh theo nghĩa có đủ các bậc học và cấp học trong sự liên thông với nhau và phân luồng đào tạo. 46
  12. 3/ Đa dạng hóa các hình thức học tập và tổ chức trường lớp; 4/ Hợp tác đào tạo và bồi dưỡng với các cơ sở giáo dục phù hợp ở nước ngoài. 2.5. Nhà trường Trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhà trường là một đơn vị cấu trúc cơ sở hay một tiểu hệ thống. Đây là nơi chủ yếu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của giáo dục, thể hiện vai trò chủ đạo so với các hình thức tổ chức giáo dục khác. Về cấu trúc bên ngoài, nhà trường được tổ chức đa dạng, tùy thuộc vào: a/ Hình thức quản lí của Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc tư nhân; b/ Trình độ học vấn theo các cấp, bậc học từ thấp đến cao; c/ Sự phân luồng đào tạo; và d/ Mối quan hệ giữa các bộ phận bên trong hợp thành hệ thống. Về cấu trúc bên trong, hệ thống nhà trường và từng loại trường được thiết lập và phân định theo các mặt sau: 1/ Các quyền hạn và nghĩa vụ học tập của trẻ em và thanh niên trong tuổi học đường; 2/ Hình thức và mức độ quản lí bên trong và bên ngoài của nhà trường. 3/ Các nguyên tắc thành lập các nhóm học sinh; 4/ Trình độ, vai trò của các giáo viên và sự bố trí, sử dụng họ; 5/ Nội dung, phương pháp của các quá trình dạy học theo thời gian và không gian; 6/ Cách thức, nội dung và chuẩn mực đánh giá, thi, tuyển. Hiện nay, khái niệm nhà trường đã được mở rộng. Thông qua các phương tiện thông tin và truyền hình hiện đại, những sự đổi mới kĩ thuật đã và đang mở rộng phạm vi và yêu cầu hoạt động của nhà trường. Nhà trường phải trở thành một bộ phận của xã hội thông tin. Nói đến giáo dục cho ngày mai, giáo dục hiện đại là đặt ra yêu cầu phải chuyển nhà trường học tập sang một loại của nhà trường của cuộc sống thực tế, sôi nổi và biến động. Trước đây 100 năm, nhà sư phạm ý Maria Montessori đã nói đến mô hình giáo dục và giờ học theo tinh thần ấy, một giả thuyết đã được thực tiễn xã hội và những thành quả trong giáo dục trẻ em chứng minh là đúng đắn. Không những thế, luận điểm cơ bản nêu trên còn là một định hướng khoa học kéo theo sự cải cách nội dung, phương pháp đánh giá ở nhà trường và trong xã hội, và mọi khi việc học tập vượt khỏi phạm vi bốn bức tường chật hẹp và nhịp điệu 45 phút thì nhà trường phải có quyền tự quyết định nhiều hơn những vấn đề riêng của mình. 47
  13. 2.6. Cải cách giáo dục là xét lại chương trình giáo dục (Curriculum) Phát biểu nói trên của Saul B. Robinson năm 1967 nhấn mạnh tầm quan trọng của chương trình giáo dục. Tuy nhiên, việc đổi mới chương trình giáo dục thường gặp nhiều khó khăn, dẫn đến hai loại giải pháp tình thế: a/ Chỉ chú ý tới môn học và lí luận dạy học bộ môn; và b/ Xây dựng loại chương trình giáo dục thực dụng, trung hạn, ít có những thay đổi c ơ bản và thiếu tính đồng bộ. Sơ đồ khung của một chương trình giáo dục áp dụng cho những năm đầu của thế kỉ 21 cần được xây dựng theo các nguyên tắc sau đây: 1/ Phản ánh những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đối với giáo dục; 2/ Xác định các mục tiêu giảng dạy và học tập dựa trên những chuẩn mực khoa học và điều kiện thực tế; 3/ Đảm bảo sự thống nhất giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp đánh giá; 4/ Xây dựng chương trình giáo dục tập trung vào người học (“Subject – centered – Curriculum”). Dưới đây là một trong nhiều hình thức trình bày trình tự và những mối quan hệ chung nhất chi phối toàn bộ chương trình giáo dục: Triết lí giáo dục và các nguyên tắc chung Các lĩnh vực học tập cơ bản (*) Công ngh Sinh Hóa Lý Toán Ti Th dân Đị S H Nh Giáo d ử ọ ế a ể a ạ ng Vi d c ụ c ụ ệ ệ t và V c công ă n Các kĩ năng cơ bản Kĩ năng tính toán; Kĩ năng thông tin; Kĩ năng giao tiếp; Kĩ năng giải quyết vấn đề; Kĩ năng hợp tác; Kĩ năng tự quản; Kĩ năng làm việc và nghiên cứu; Kĩ năng bảo vệ sức khỏe và phát triển thể lực; Kĩ năng các thái độ và giá trị 48
  14. 2.7. Những quan niệm mới về dạy học. 1/ Trên cơ sở định hướng XHCN, mọi quá trình dạy học cần thể hiện được 3 nguyên tắc phổ quát là: (1) Dân chủ; (2) Khoa học; (3) Tiến bộ và nhân văn. Nói khác đi, một trong những mục tiêu cơ bản hàng đầu của chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn tới là phải cụ thể hóa và thực hiện các nguyên tắc đó trong mọi quá trình dạy học. 2/ Giờ học tốt là một khái niệm có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, những tiêu chuẩn chung, cuối cùng là phải đạt được chất lượng, hiệu quả học tập. Giờ học phải tập trung vào người học. Trong giờ học hay một quá trình dạy học, người học phải tích cực, chủ động: (1) Tiếp thu được tri thức thông minh; (2) Tiếp thu được những chiến lược sử dụng tri thức theo tình huống, điều kiện thực tế; (3) Tiếp thu được những năng lực siêu nhận thức (metacognition); (4) Tiếp thu được những định hướng hành động và giá trị phát triển nhân cách theo mục tiêu giáo dục. 3/ Những điều kiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả dạy học 3.1. Hình thành ở người học thứ văn hóa học tập tiêu biểu cho thời đại mới (8) để đạt được chất lượng, hiệu quả đã nói ở trên. 3.2. Năng lực, trình độ giáo viên là một yếu tố, điều kiện quan trọng trong dạy học và giáo dục. Về điểm này, mô hình phát triển giáo dục rất chú ý đến những vấn đề tiên quyết sau đây: 1/ Chuyển phong cách giảng dạy chỉ hướng vào thành tích, khoa cử sang phong cách giảng dạy hướng vào học tập, vào sự phát triển toàn diện nhân cách học sinh. 2/ Đảm bảo giờ học, trong đó học nhiều hơn là dạy. 3/ Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên tập trung vào việc hình thành và phát triển: a/ Các năng lực chuyên môn; b/ Các năng lực lí luận dạy học; c/ Các năng lực chẩn đoán, và 49
  15. d/ Các năng lực quản lí lớp. 3.3. Xu thế toàn cầu hóa mở ra nhiều cơ hội thuận lợi song cũng làm nảy sinh những thách thức do hội nhập và cạnh tranh. Do đó, mô hình phát triển giáo dục cần đặc biệt coi trọng các nhiệm vụ sau đây: - Nâng cao trình độ học vấn đạt các chuẩn mực của giáo dục hiện đại; - Giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc và bản sắc văn hóa; - Hình thành và không ngừng phát triển năng lực liên văn hóa (intercultural). 2.8. Đánh giá chất lượng và hiệu quả giáo dục. Đối với mọi nền giáo dục, chất lượng và hiệu quả giáo dục bao giờ cũng là thước đo và điều kiện của sự phát triển liên tục và ngày một cao hơn. Chất lượng giáo dục là trình độ và khả năng thực hiện mục tiêu giáo dục đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của người học và của sự phát triển toàn diện của xã hội. Chất lượng và số lượng liên quan chặt chẽ với nhau. Số lượng (Lat.quantitas, trong các ngôn ngữ khác: quantité, quantity, quantitat) là khái niệm dùng chỉ mức độ nhiều ít, có thể xác định được bằng con số cụ thể, Tuy phân biệt với “chất lượng”, song số lượng luôn được hiểu là số lượng của một chất lượng nào đó. Chính theo tinh thần này, G.Hegel đã từng phát biểu rằng những biến đổi của sự chuyển hóa từ chất sang lượng chứ không phải ngược lại. Do vậy, số lượng trong phạm vi giáo dục biểu hiện ở quy mô, mức độ, giai đoạn phát triển của một nền giáo dục. Hiệu quả giáo dục là sự phát huy tác dụng của kết quả chất lượng giáo dục được xem xét căn cứ vào mối quan hệ giữa sự đầu tư về mọi mặt và ảnh hưởng thực tế. So với hiệu quả trong được đánh giá trong phạm vi ngành giáo dục, hiệu quả ngoài có ý nghĩa quan trọng hơn. Chất lượng giáo dục được đánh giá chủ yếu về hai mặt học lực và hạnh kiểm. Có 4 tiêu chí về học lực là: kiến thức, trí nhớ, năng lực vận dụng (trong các phạm vi và mức độ khác nhau) về thái độ. Về bản chất, hạnh kiểm phản ánh trình độ phát triển của ý thức trong mối quan hệ với những người khác, nhà trường, gia đình, xã hội và bản thân. Qua nghiên cứu kinh nghiệm và thực nghiệm, người ta cũng nêu lên 4 tiêu chí như sau: (1) Sự hiểu biết về các chuẩn mực hiện hành; (2) Năng lực nhận dạng và hành vi; (3) Các hành động cá nhân; 50
  16. (4) Sự thể hiện thái độ, tình cảm (hài lòng, ân hận, đấu tranh ) Hiệu quả giáo dục được đánh giá từ các giác độ khác nhau: cá nhân, nhà trường, ngành giáo dục, xã hội. Tuy nhiên, việc đánh giá, thi và tuyển đã và đang là khâu yếu kém rõ rệt trong giáo dục. Những giải pháp trong một chiến lược phát triển giáo dục sẽ phải được đề xuất cụ thể theo các nguyên tắc chủ yếu sau đây: 1. Giáo dục toàn diện thì cũng phải đánh giá toàn diện theo các mục tiêu đã đề ra. 2. Đảm bảo tính nghiêm túc, chính xác, công bằng và dân chủ theo tinh thần của các quy chế khoa học. 3. Tạo ra được những tác dụng, hiệu quả tích cực đối với học sinh, giáo viên, nghành giáo dục, gia đình và xã hội. 4. Giao chức năng, nhiệm vụ quan trọng này cho một cơ quan giáo dục đặc trách bao gồm những người có tư cách, đạo đức và thực sự hiểu biết chuyên môn. X. DỰ BÁO CHIẾN LƯỢC CHUNG CỦA THẾ GIỚI VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC 1.1. Tuyên ngôn của Hội nghị quốc tế lần thứ hai về Giáo dục, tổ chức tại Washington D.C từ 25 đến 29/12/1998. • Tại Hội nghị này các nhận định cơ bản được tập trung vào các vấn đề sau; + Nền kinh tế thế giới đang ở trong quá trình toàn cầu hóa. Quá trình này làm cho trách nhiệm đầu tư của Chính phủ và các thành phần nhà nước đối với các dịch vụ xã hội giảm đi và nhà nước không còn chịu hầu hết các trách nhiệm đảm bảo quyền lợi của người làm việc và gia đình họ. + Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế dựa trên các nguyên tắc cơ bản nhằm làm giảm bớt đến mức tối đa vai trò của Chính phủ và các thành phần nhà nước, đặc biệt trong các lĩnh vực giáo dục và y tế. Điều này làm tăng cường các cơ hội cạnh tranh của các cá nhân. + Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang làm thay đổi một cách cơ bản nội dung và phương thức tuyển mộ lao động. Việc sử dụng các công nghệ ngày càng phát triển đòi hỏi các nội dung và phương thức đào tạo tiến bộ lực lượng lao động nếu muốn họ thực sự có thể tham gia vào các thị trường lao động một cách thuận lợi. • Hội nghị quốc tế về giáo dục lần thứ hai đã xem xét các vấn đề sau: 51
  17. + Giáo dục đào tạo và phát triển kinh tế ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Các nền kinh tế đòi hỏi cần được sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, với sự đào tạo có thể đáp ứng quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế, ngược lại Giáo dục lại cần đến các nguồn tài chính cung cấp bởi các nền kinh tế ngày càng phát triển. + Giáo dục đã và sẽ tiếp tục đảm nhận vai trò quan trọng trong việc đào tạo nên các công dân có đủ khả năng tham dự vào các hoạt động trong các xã hội đang ngày càng trở nên phức tạp hơn đa văn hóa với tư tưởng dân chủ, công bằng xã hội, đoàn kết và hòa bình. Bởi vậy, Giáo dục hoàn toàn không chỉ phục vụ mục đích lợi nhuận kinh tế. • Dựa trên những nhận định cơ bản như vậy, hội nghị Quốc tế lần thứ hai về Giáo dục đã nêu lên các khuyến nghị với các Chính phủ và các tổ chức trên thế giới về những tư tưởng chiến lược cơ bản của giáo dục đào tạo trong những thập kỉ tới. Các khuyến nghị tập trung vào các ý tưởng cơ bản sau: 1. Các Chính phủ và các tổ chức quốc tế cần lưu ý tới xu hướng toàn cầu hóa của nền kinh tế và ảnh hưởng của nó tới việc đào tạo và sử dụng các nguồn nhân lực. Mối quan hệ giữa xu hướng phát triển kinh tế và giáo dục đã dẫn tới những thay đổi về bản chất và nội dung giáo dục đào tạo thế hệ trẻ. 2. Các thảo luận cần thiết để xây dựng các kiến thức và sự hiểu biết, vấn đề hết sức quan trọng đối với hoạt động của giáo viên, phải là những vấn đề cần được quan tâm hàng đầu của các tổ chức và công đoàn giáo dục. 3. Các Chính phủ và các tổ chức quôc tế cần có các hoạt động tích cực để đảm bảo phổ cập và miễn phí giáo dục phổ thông cơ sở, đó là quyền lợi của người lao động. 4. Các Chính phủ và các tổ chức quốc tế cần phối hợp trong việc thiết lập các cơ quan hoặc cá nhân ở mỗi nước để tạo nên một mạng lưới nhằm cùng nhau thảo luận và xây dựng các điều kiện cần thiết cho giáo dục và lao động. 5. Cải cách giáo dục với những thay đổi cơ bản về nội dung và phương thức giáo dục đào tạo phải được đặt ra ở các quốc gia để đáp ứng các nhu cầu của cá nhân và xã hội trong những thay đổi lớn lao của thời đại. 6. Các Chính phủ cần xem xét tới các điều kiện cụ thể của mỗi nước xác lập các điều chỉnh cần thiết về các chính sách về thuế nhằm mục tiêu có thể tăng mức đầu tư cho giáo dục ít nhất là 6% tổng thu nhập quốc nội (GNP). 1.2. Diễn đàn về Giáo dục quốc tế của các nước thuộc khối APEC Tại diễn đàn về các vấn đề toàn cầu hóa với chủ đề “Quyền của trẻ em đối với giáo dục phổ thông phổ cập và miễn phí” năm 1998, các khuyến nghị cơ bản 52
  18. đã được nêu ra đối với các Chính phủ thuộc các nước APEC (Asia Pacific Economic Cooperation): - Ở thế kỉ 21 vấn đề kiến thức phải được đặt ra như là ưu tiên hàng đầu trong các chiến lược phát triển của mọi quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là giáo dục, phải là trọng điểm ưu tiên của các chính sách phát triển quốc gia nhằm tạo điều kiện cho mọi cá nhân được tiếp nhận các đào tạo cần thiết chuẩn bị cho việc tham gia vào cuộc sống. - Giáo dục phổ thông là công cụ chủ chốt cho tự do, hòa bình, tiến bộ và công lý. - Mỗi trẻ em cần được học và thành tích học tập của trẻ em phải là quyền lợi và sự đóng góp của mỗi con người chứ không phải do những khó khăn do cuộc khủng hoảng về kinh tế trong khu vực gây ra. Diễn đàn khuyến nghị các Chính phủ nên noi gươbg một số Chính phủ, trong đó có Malayxia, mặc dù chịu những tổn hại nặng nề do khủng hoảng kinh tế gây ra, vẫn cam kết một cách mạnh mẽ dùy trì các phân bổ tài chính cần thiết cho giáo dục, và có nghĩa là cho tương lai của các quốc gia đó. Diễn đàn APEC nêu lên một số khuyến nghị cơ bản sau đối với các Chính phủ của các nước thuộc khối: - Tăng cường đầu tư cho giáo dục mặc cho các quốc gia đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do khủng khoảng kinh tế gây ra. - Tăng cường các hoạt động hợp tác chặt chẽ với các tổ chức giáo viên để xây dựng các chính sách phù hợp với xu thế toàn cầu hóa. - Xây dựng các chiến lược cụ thể đảm bảo công nghệ thông tin có thể được tiếp cận và phổ cập với tất cả mọi trẻ em trong khi vẫn tiếp tục đảm bảo duy trì các truyền thống văn hóa và công nghệ của thời kì quá độ. - Xây dựng và ban hành các điều luật cụ thể chống lại việc lạm dụng lao động trẻ em, chống lại việc một số các nhân và tổ chức đã bóc lột sức lao động của trẻ em và ngăn cản quyền lợi học tập của trẻ em. - Thực hiện các cam kết mang tính chiến lược sâu để đảm bảo giáo dục cho tất cả mọi người và chấm dứt tình trạng lạm dụng lao động của trẻ em: + Phản đối các chính sách kinh tế, xã hội nhằm tạo ra việc lạm dụng lao động của trẻ em. + Xây dựng và ban hành các văn bản luật cần thiết và có hiệu quả. + Xây dựng các chính sách giáo dục cụ thể của Chính phủ và tạo ra các nguồn lực nhằm cung cấp giáo dục tiểu học có chất lượng, phổ cập và miễn phí, 53
  19. giáo dục trung học, tăng cường các dịch vụ đặc biệt của giáo dục, cũng như giáo dục nghề và giáo dục sau PTTH. + Tăng cường đào tạo, huấn luyện, cải thiện điều kiện làm việc của đôi ngũ giáo viên. + Tìm kiếm điều kiện tăng thu nhập và các cơ hội làm việc của cha mẹ. - Các Chính phủ cần nghiên cứu lại các điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, đặc biệt xem lại các chính sách cụ thể về thuế để có thể tìm được cơ hội đầu tư cho giáo dục ít nhất 6% GNP. Đồng thời các quốc gia cần cùng nhau bàn bạc, thỏa thuân về thuế đối với các giao dịch tài chính quốc tế nhằm giúp các nước nghèo đạt được chỉ tiêu này. - Tập trung vào các hoạt động nghiên cứu trong giáo dục và tăng cường chia xẻ các kết quả nghiên cứu giữa các quốc gia vì lợi ích của quá trình giáo dục, của giáo viên và của học sinh. Diễn đàn APEC khẳng định mỗi mặt giáo dục mang tính địa phương và dân tộc nhưng mặt khác các nhà lãnh đạo chính phủ cần nhận thức được các thách thức đặt ra cho giáo dục chính là thách thức đặt ra cho nền văn minh nhân loại mà các quốc gia cần phối hợp hoạt động để thực hiện những chính sách chung, đồng thời hỗ trợ các nước láng giềng đạt được các chuẩn mực mong muốn về giáo dục. 2. Các môn học ở thế kỉ 21 Những thay đổi nhanh chóng ngày nay khiến các nhà giáo dục phải thừa nhận một thực tế là các kiến thức văn hóa cổ kim đông tây có lẽ ít nhiều đã lỗi thời. Những kiến thức cổ phải dùng đến hàng chồng sách để chú thích, những đề toán số học hắc búa, mà sau khi ra trường lại suốt đời không cần dùng đến, đang làm hao tổn một cách vô ích tinh lực và nhiệt tình của lớp học sinh trẻ tuổi. Đứng trước sức ép của tương lai, các học sinh được quyền có những kỹ năng và quan niệm sinh tồn trong sự biến đổi của lịch sử, và được quyền có nhu cầu tìm hiểu những bức tranh chân thực của xã hội tương lai. Việc thiết lập những môn học mới mẻ, có đầy đủ những quan niệm về tương lai, và những thực tiễn giảng dạy tương quan phải được ứng dụng vào cuộc sống, giúp học sinh thích ứng với xã hội thực tại và hướng về tương lai. Các môn học “thế kỉ 21” đã được đưa ra. Khôpmen đã dự đoán trong quyển “Tương lai của ngành giáo dục” sáu nội dung chính của các môn học ở thế kỉ 21: 1. Tiếp cận và sử dụng tin học 54
  20. 2. Bồi dưỡng tư duy mạch lạc: bao gồm phân biệt được ngữ nghĩa học, logic học, số học, soạn thảo trên máy tính, phương pháp dự đoán, tính sáng tạo tư duy v.v 3. Bồi dưỡng những kỹ năng thông đạt hiệu quả: bao gồm diễn thuyết trước đông người, ngữ pháp, tu từ, hội họa, nhiếp ảnh, quay phim, vẽ đồ án v.v 4. Tìm hiểu con người và xã hội: gồm luật tiến hóa của nhân loại, sinh lý học, ngôn ngữ học, văn hóa nhân loại học, tâm lý học xã hội, chủng tộc học, pháp luật, hình thái biến đổi ngành nghề, vấn đề tồn tại và tiếp diễn của loài người v.v 6. Năng lực cá nhân: gồm sự cân bằng sinh lý, huấn luyện mưu sinh và tự vệ, an toàn, dinh dưỡng, vệ sinh, giới tính, tiêu dùng và tài sản của cá nhân, phương thức học tập tối ưu và sách lược, nghệ thuật nhớ, động cơ tự thân và nhận thức tự thân v.v Bảng liệt kê môn học của Khôpmen tuy rất rộng, nhưng lại là nội dung giáo dục hoàn chỉnh. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc bố trí các môn học này là nhằm chú trọng hơn đến vai trò và địa vị của con người trong xã hội; và năng lực thích ứng với tương lai. Các môn học “Thế kỉ 21” được bắt đầu mở ra ở toàn nước Mỹ, được sự hoan nghênh mạnh mẽ của quảng đại thày trò. Trường tiểu học Miep, Alintơn ở Bang Viêcginia thiết kế môn “Kế hoạch tương lai”, làm cho học sinh làm quen với các khả năng phát triển của tương lai và dự kiến sự lựa chọn ngành nghề. Giáo sư địa lý học Aplô của trường đại học quan tâm Có thể khái quát một số nguyên tắc của các môn học thế kỷ 21: 1. iúp cho học sinh thích nghi với xã hội. 2. Giúpcho học sinh tự lý giải. 3. Giúpcho học sinh vị thành niên lý giải sự đầu tư của mình đối với tương lai. 4. Giúpcho học sinh tìm hiểu phương hướng có tính biến đổi của xã hội và định vai trò của mình trong quá trình biến đổi đó. 5. Giúpcho học sinh mang những điều học tập ở nhà trường, chuyển hóa thành trách nhiệm tương lai. Môn học “Thế kỉ 21” không mang nội dung giáo dục truyền thống. Thầy giáo và các nhà nghiên cứu dự đoán và đánh giá thành tích cũng như năng lực của học sinh dựa trên chất lượng tham gia học tập và công tác của học sinh chứ không phải ở trí nhớ của họ, bởi lẽ, những trí nhớ vô dụng không phải là sự hiểu biết của họ. 55
  21. Các môn học “Thế kỉ 21” dẫn dắt học sinh tìm ra lĩnh vực rộng lớn mà nền giáo dục truyền thống rất ít đề cập đến, ví như lý thuyết trò chơi, chọn quyết định trong điều kiện không xác định, phân tích giá trị, phân tích nội dung, điều khiển học v.v Tuy hình thức biểu hiện chủ đề của môn học “Thế kỉ 21” có sự khác nhau trong cải cách giáo dục của các nước, nhưng về bản chất, lại đều có tính chất chung của nó. Nói chung, các học giả về tương lai đều thích phương pháp “học tập trong thao tác thực tế”. Nội dung của môn học không còn là hệ thống kiến thức ổn định và bất biến, tuyệt đối khách quan nữa; mục tiêu của môn học cũng không còn hoàn toàn như dự định trước, mà đã trở thành quá trình thày trò cùng tìm tòi kiến thức mới. Có thể thấy trước, việc cải cách giáo dục của các nước được triển khai với chủ đề các môn học “Thế kỉ 21” sẽ phá vỡ những tập tục cũ của nền giáo dục truyền thống, làm cho lớp học được mở rộng; các thày giáo từ chỗ giảng dạy, hành nghề theo truyền thống, trở thành người hợp tác để làm cho học sinh tiến vào xã hội tương lai, cuối cùng sẽ chuẩn bị học sinh đóng trọn vai trò của mình đối với tương lai, tích cực hướng vào mục tiêu lớn ngày một lành mạnh - nỗ lực xây dựng một tương lai tươi đẹp và hợp lý. 3. Kỹ thuật giảng dạy đa phương tiện mới mẻ Kỹ thuật đa phương tiện (Multimedia) là loại kỹ thuật đang được chú ý nhất, nó là cơ sở quản lý và xử lý theo kiểu tin học thể kỉ 21. Trước đây, máy tính chỉ có thể xử lý đơn cực là văn tự và chữ số, cùng lắm là hình họa, gây cảm giác đơn điệu, cứng nhắc, khô khan, dễ nhàm chán. Kỹ thuật đa phương tiện là xử lý tổng hợp kiểu trao đổi trên máy vi tính cả về chữ viết, hình họa, hình ảnh, âm thanh v.v , chúng thiết lập mối liên kết logic, tập hợp thành một hệ thống. Lợi dụng kỹ thuật đa phương tiện để giở “thư mục” điện tử, dùng ngón tay chỉ vào bất cứ vị trí nào trên màn hình đều có thể tìm ra những tình tiết lý thú; sờ tay vào bầu trời; vào tầng mây sẽ chui ra một chiếc máy bay; chạm tay vào vòm cây, một con chim nhỏ sẽ rẽ lá bay ra. Xem kịch truyền hình, nếu không thích thú, ta có thể thay đổi tình huống kịch, để các diễn viên biểu diễn theo ý muốn của ta. Học phát âm một từ tiếng Anh, nếu phát âm đúng, máy tính sẽ khích lệ ta, nếu đọc sai, máy tính sẽ nhắc nhở ta và bảo ta phải sửa âm. Theo đà phát triển của kỹ thuật đa phương tiện, một hình thức giảng dạy mới được hình thành - sự xuất hiện của hệ thống giảng dạy máy tính đa phương tiện. Nó là mạng máy tính mà thày giáo giảng qua máy chủ và các học sinh nghe giảng qua mạng máy tính. Thày giáo nói với học sinh qua một máy chủ điều khiển đến từng máy trong mạng, học sinh ngồi nghe thầy giáo giảng trước màn 56
  22. hình máy tính.Trong cách giảng dạy đa phương tiện, học sinh học tập với tư cách là chủ thể. Giúp cho học sinh sẽ làm thay đổi rất lớn giáo trình và giáo án. Giáo trình không chỉ vẻn vẹn là những cuốn sách in, mà còn là loại sách giáo khoa điện tử có đủ cả chữ nghĩa, hình ảnh và tiếng nói. Giúp cho học sinh sẽ làm cho hình thức giảng dạy sống động, các biện pháp giảng dạy càng đa dạng hóa. Giúp cho học sinh ủng hộ các phương thức học tập khác nhau, biến sự tiếp thu thụ động thông tin thành chủ động tiếp thu thông tin, kích thích tính sáng tạo của học sinh. Mạng máy tính đa phương tiện càng thuận lợi cho việc thực hiện giáo dục từ xa, các học sinh ở vùng biên giới cũng có thể nghe được, nhìn được các nhà khoa học nổi tiếng ở các thành phố lớn. Kỹ thuật đa phương tiện có khả năng biến việc giảng dạy ở lớp làm chính thành lấy việc giảng dạy tại gia làm chính, và việc tiếp tục giảng dạy hoàn toàn có thể hướng về gia đình. Theo dự đoán của các chuyên gia, sau khi xa lộ thông tin xây dựng xong, thông qua việc giảng dạy từ xa theo kiểu trao đổi giữa hai phía, thời gian học tập của học sinh có thể giảm 40% so với trước, nhưng kiến thức thu nhận được sẽ tăng 30%, chi phí cũng tiết kiệm được 30%. Có thể dự kiến, theo đà mỗi ngày một hoàn thiện mau lẹ của kỹ thuật thông tin và kỹ thuật máy tính, trong tương lai không xa, phạm vi sử dụng kỹ thuật đa phương tiện sẽ càng ngày càng mở rộng. 4. Các công ty đại học mọc lên ồ ạt Đứng trước những yêu cầu nẩy sinh của xã hội đang thay đổi từng ngày, giáo dục không chỉ là niềm hứng thú tao nhã - một sự thụ hưởng văn hóa, mà nó còn là công cụ quan trọng tạo ra lợi nhuận cho xã hội và bồi dưỡng những nhân tài mới cho xã hội. Những chuyển biến thay đổi quan điểm này, ấp ủ và làm nẩy nở trong lòng nó một biến đổi kinh ngạc trong nền giáo dục Âu - Mỹ ở những năm 90 - Trường đại học trở thành công ty. Sự biến đổi này thể hiện dấu ấn nào đó của việc cải cách giáo dục đại học trong giai đoạn giao thời thế kỷ. Năm 1969, Trường đại học Cambridge có cả 700 năm lịch sử đã đầu tiên bước vào con đường “Công ty đại học”. Đại học Cambridge đã tập kết đa số công ty kỹ thuật và các ngành nghề của nó, bao gồm phần cứng và phần mềm máy tính, các máy móc khoa học điện tử, kỹ thuật sinh vật v.v đồng thời lắp đặt các loại thiết bị có thể sử dụng chung. Vì một loạt công ty kỹ thuật này có đủ năng lực nghiên cứu và chế tạo, thiết kế, sản xuất những sản phẩm chất lượng 57
  23. cao, nên các công ty này đã làm cho tỷ lệ lợi tức của vườn khoa học Cambridge tăng vụt lên. Cambridge đã thể hiện rõ cho Chính phủ và thế giới biết: Trường đại học có thể đóng góp công sức cho sự phát triển xã hội, có thể cung cấp cho xã hội những nhân tài hàng đầu, có thể cung cấp cho ngành giáo dục kinh nghiệm đầu tiên về cải cách phương thức giảng dạy, về học đi đối với hành, tăng cường giáo dục chiều sâu. Sự liên kết giữa trường đại học với công ty có thể sang tạo ra những sản phẩm kỹ thuật phong phú và hùng hậu, tạo ra hang loạt nhân tài và những kinh nghiệm giảng dạy phong phú. Ngày nay, các nước đều đang lập các vườn khoa học, các khu công nghiệp xung quanh trường đại học, trường đại học liên kết với các xí nghiệp ngày một nhiều, và trở thành một khối, Công ty đại học đang trở thành xu thế phát triển tất yếu, tạo thời cơ phát triển cho trường đại học và xí nghiệp. Quan sát một cách tổng thể việc sáng lập ra các công ty đại học những năm gần đây ở Mỹ và một số nước châu Âu về đại thể có những đặc điểm sau: 1. Dùng phương thức thị trường để thu hút sinh viên, mời các học giả nổi tiếng đến dạy. 2. Công ty hóa trường đại học tức là có thể làm cho việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học trực tiếp hướng về sản xuất, về quản lý kinh doanh, có thể làm gia tăng thu nhập tài chính, và nhân đó, không ngừng cải thiện điều kiện xây dựng trường, nâng cao địa vị của nhà trường. 3. Công ty hóa trường đại học làm cho mối quan hệ giữa xí nghiệp và giáo dục ngày càng mật thiết, trường đại học và xí nghiệp tương hỗ, tương lợi, bình đẳng về lợi ích trên phương tiện dịch vụ kỹ thuật, do vậy mà tăng cường hợp tác giữa hai bên. Do những ưu điểm dễ thấy như vậy, các “Công ty đại học” đang mọc lên như nấm, từ nước Mỹ đến châu Âu, rồi tiến tới toàn thế giới. Những công ty đại học với những hình thức khác nhau và sự ra đời của xí nghiệp hóa trường đại học, báo trước xu thế quan trọng của sự phát triển giáo dục. 5. Xu thế dân học tập suốt đời phát triển mạnh Năm 1972, Ủy ban quốc tế đưa ra bản báo cáo có tên gọi là “Sự tồn tại của học hội: Giáo dục thế giới hôm nay và ngày mai”, báo cáo này đã chính thức xác nhận bằng văn bản lý luận giáo dục suốt đời do Cục trưởng Cục tổ chức giáo dục suốt đời, Paolô Langơ đưa ra giữa những năm 60. Hai mươi năm nay, quan niệm giáo dục suốt đời dần dần thâm nhập sâu vào lòng người. Nguyên tắc giáo dục suốt đời được thế giới tiếp thu một cách phổ biến. 58
  24. Mục tiêu giáo dục suốt đời tiến hành ở các nước đã chỉ ra xu thế chung: Việc giáo dục sau này nên tùy theo thời điểm, nhu cầu của mỗi cá nhân, dùng phương pháp có hiệu quả nhất, cung cấp cho họ những kiến thức và kỹ năng thiết yếu. Nó vạch ra phương hướng chung của giáo dục trong tương lai, với ý nghĩa là đưa giáo dục vào cả đời người, biến việc học tập thành quá trình không ngừng nâng cao năng lực. Trong xã hội tương lai khoa học phát triển cao độ và xã hội biến đổi dữ dội, con người cần được bồi dưỡng những năng lực thích ứng với những biến đổi đó, cần có ý thức về tương lai, cần có năng lực suy nghĩ và lý giải tương lai, những năng lực ấy có được lại tùy thuộc vào tính liên tục và tính kịp thời của giáo dục; tùy thuộc vào đặc trưng cơ bản của việc thúc đẩy và cấu thành tương lai của giáo dục: tính chất suốt đời. Xã hội truyền thống chia đời người thành 3 giai đoạn: đến trường, làm việc và nghỉ hưu. Nền giáo dục truyền thống cho rằng số kiến thức và kỹ năng học được ở trường lúc còn trẻ về cơ bản có thể dùng cho suốt đời. Thế nhưng theo đà phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của KHKT, chế độ giáo dục truyền thống này đã bộc lộ rõ rang những thiếu sót của nó. Một cuộc điều tra khóa học sinh tốt nghiệp năm 1970 ở Mỹ đã chứng tỏ rằng đến năm 1980, kiến thức của họ đã hao mòn mất 50%, đến năm 1986 thì số kiến thức này đã lão hóa hoàn toàn. Nước ta cũng đã có cuộc điều tra đối với số học sinh thuộc bộ môn khoa học nhất định năm 1965, kết quả chứng tỏ, đến năm 1970, kiến thức của họ đã lạc hậu 45%, đến năm 1975, tỷ lệ này lên tới 75%. Mặc dù phương pháp tính toán sự mòn cũ của kiến thức có khác nhau, nhưng ngày nay, sự bùng nổ về kiến thức thông tin học nhiều đến mức không nghiên cứu kỹ được, thì khối lượng kiến thức được ứng dụng của một nhân viên KHKT chỉ có khoảng 20% kiến thức học được ở trường học truyền thống; 80% số kiến thức còn trống là do nhu cầu công việc và đời sống mà không học được, đó là một sự thực rất rõ rang. Dựa vào điểm đó, các nước phát triển nhấn mạnh việc tăng cường giáo dục tại chức, tích cực thực hiện giáo dục suốt đời. Theo thực tiễn của nhiều quốc gia Âu - Mỹ, thì việc giáo dục suốt đời sẽ được tiến hành rộng rãi trong phạm vi toàn cầu trong tương lai, không chỉ bao gồm việc giáo dục ở trường truyền thống trước tuổi đi làm - mà còn mở rộng giáo dục vỡ lòng về trí tuệ cho các em, trước khi đi học với giáo dục tiểu học được tăng cường thêm một bước. Ngoài ra, còn tiếp tục giáo dục sau trung học, sau đại học, bổ sưng kiến thức và bồi dưỡng tại chức kỹ thuật cho các thạc sĩ, tiến sĩ, thực hiện giáo dục tại chức và giáo dục cho người già. Ở một số nước, thậm chí còn có cả giáo dục về cái chết trước khi chết, các quan tâm đến tuổi sắp về thế giới bên kia và sự chuẩn bị về tâm lý cho người già. 59
  25. Về mặt thời gian, giáo dục sẽ kéo dài suốt đời người, về mặt không gian, giáo dục sẽ mở rộng đến toàn xã hội. Điều đó không những chỉ hàm chứa ý nghĩa là trong xã hội tương lai, mỗi người đều tiếp thu giáo dục và học tập bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hàm chứa ý nghĩa mỗi người trong xã hôi tương lai đều học tập qua việc tham dự những hoạt động xã hội, và cả xã hội tương lai sẽ gánh vác chức năng giáo dục. Việc thúc đẩy toàn dân giáo dục suốt đời đòi hỏi luật pháp bảo đảm mỗi người không phân chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo tín ngưỡng đều có quyền bình đẳng có cơ hội học nghề thành công. “Sự bình đẳng có cơ hội học nghề thành công” tức là mỗi người đêu có thể được giáo dục thích đáng, đều có thể đạt tới chuẩn mực giáo dục khiến họ vừa lòng. Ngày nay, người ta coi sự bình đẳng về cơ hội học nghề là một mục tiêu trọng yếu của dân chủ hóa giáo dục. Mặc dù mục tiêu này không thể thực hiện tức thời, song người ta vẫn không mất lòng tin, và đang cố gắng đấu trang với sự thất học về nghề nghiệp. 6. Làn song tư doanh hóa trường công Mở đầu những năm 90 ở một số thành phố Mỹ xuất hiện làn song tư doanh hóa trường công, hướng cải cách này đã gây ra sự chú ý lớn và sự phản ứng mạnh mẽ trên toàn cầu. Tuy nhiên nhiều quốc gia phát triển đã học tập theo và đang có những tác dụng đáng kể. Sự xuất hiện của làn sóng tư doanh hóa trường công có nguyên nhân sâu xa về lịch sử và hiện thực. Lấy trường công làm cơ cấu giáo dục là thể hiện sự dân chủ, là thực hiện sự bình đẳng dân tộc và sự đồng đều về cơ hội kinh tế, luôn được coi là liều “thuốc vạn năng” và được chấp nhận, nhất là trong giai đoạn phồn vinh của những năm 60. Song bắt đầu từ những năm 70, nguy cơ chính trị và kinh tế xã hội buộc người ta phải nhìn nhận lại chức năng về hiệu quả của cacs trường công. Kết quả điều tra phát hiện ra rằng trường công không phải là vạn năng - chúng không phải luôn đào tạo ra những học sinh thích ứng với yêu cầu của quốc tế và trong nước. Một số trường tư, ở mức độ nhất định, đòi hỏi chi phí ít hơn trường công. Mặc dù trường tư có một số đặc tính khác như mở rộng mâu thuẫn chủng tộc và tôn giáo, phân cách giàu nghèo rõ rang, song xét về ý nghĩa giáo dục, một số trường tư mới thực sự là trường học, những học sinh được đào tạo ở đây mới là những học sinh chân chính. Tư doanh hóa trường công đại thể được phân thành một số hình thức cơ bản sau: 60
  26. ƒ Công ty nhận kinh doanh. Cách làm đó bắt đầu từ năm 1992 đã trở thành cuộc thí điểm bước đầu. Thành phố Bantimore mang 9 trường công giao cho công ty giáo dục (EAI) kinh doanh, Công ty đảm nhận làm sạch trường lớp, đồng thời nâng cao thành tích dạy học không khống chế việc bổ nhiệm thày giáo và trả lương cho giáo viên rộng rãi. ƒ Ngoài việc các trường công do các công ty bao thầu kinh doanh ra, mấy năm gần đây ở Mỹ còn xuất hiện chế độ cho phép cá nhân mở trường và quản lý trường công. Đó có thể là trường mới xây dựng và cũng có thể là trường công sẵn có. Quyền pháp nhân độc lập được pháp luật bảo hộ. Mặc dầu mô típ tư doanh hóa trường công là muôn hình, muôn vẻ, song chúng có nhiều điểm chung: 1-bất luận là mô típ nào, đều là sự tuyên chiến với chế độ trường công hiện hành. 2- Cơ sở lý luận của nó đều bắt nguồn từ lý luận tư hữu hóa. 3- Mục đích cuối cùng của nó đều được thực hiện giảm chi, tăng thành quả, nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh có nhiều năng lực cạnh tranh, giành được sự tán đồng và ủng hộ của công chúng. Tuy nhiên, dù điều hành theo phương thức công ty tư nhân, trường học không thể dành cho thương nhân quản lý. Trường học không thể biến thành một “cửa hàng” thuần tùy, điều đó được quyết định bởi bản chất nhà trường là nơi giáo dục con người. Về chuyện đó, Hội trưởng Hội Giáo dục toàn nước Mỹ, Kiơn Gaigơ nhận thức rất tỉnh táo, ông nói: “Biến nhà trường thành thực thể doanh lợi, thành thực thể kinh tế thuần túy, thì không thể thu được thành tựu về giảng dạy”. Đấy là khuynh hướng cần phải tránh trong khi phát triển tư doanh hóa trường công. XI. DỰ BÁO CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC 1. MỸ 1.1. Một số tình hình chung Trung tâm quốc gia về thống kê Giáo dục (NCES, National Centre for Educational Statistics) tại Mỹ là tổ chức có chức năng thu thập, phân tích và báo cáo các số liệu có liên quan tới giáo dục của Mỹ và các nước khác. Trung tâm này có trách nhiệm cung cấp các số liệu về các nhu cầu ưu tiên của giáo dục, đồng thời cung cấp các chỉ số và tiêu chí chính xác, đầy đủ và đáng tin cậy về tình trạng và xu thế của giáo dục. Tháng 4 năm 1997 NCES thực hiện hàng loạt điều tra về giáo dục tại Mĩ và một số nước và đã đưa ra một số nhận định quan trọng. Trong số các nhận đình này, có một số nhận định đáng chú ý như sau: 61
  27. - Năng suất lao động của người lao động ở Mĩ đã không ngừng tăng từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai những mức tăng năng suất lao động giảm từ sau năm 1973. Đặc biệt mức tăng năng suất lao động ở Mĩ chậm hơn các nước phát triển khác. - Sự phát triển của Giáo dục từ lâu đã là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự tăng năng suất lao động. Các nước công nghiệp phát triển có mức năng suất lao động cao đều là các nước có lực lượng lao động có trình độ giáo dục cao. Các số liệu thống kê đồng thời cũng chỉ ra là giáo dục đã làm tăng cường tính ổn định nghề nghiệp của người lao động ở Mỹ, cho phép những người lao động có trình độ giáo dục tốt hơn có thể duy trì nghề nghiệp của họ và có thể dễ dàng tìm được việc làm trong điều kiện kinh tế thay đổi. Mối quan hệ giữa giáo dục và tình trạng thất nghiệp chính là một tiêu chí biểu thị ảnh hưởng của Giáo dục và năng suất lao động chung. - Hiệu suất giáo dục của Mĩ tăng trong vòng 20 năm qua. Tỉ lệ thanh thiếu niên trong độ tuổi 18-24 hoàn thành giáo dục trung học đã tăng từ 83% ở năm 1972 lên 86% ở năm 1994. Số học sinh tốt nghiệp trung học tiếp đại học và cao đẳng cũng tăng lên từ 49% (1972) đến 62% (1994). Tuy nhiên rất nhiều sinh viên đăng kí học cao học và đại học đã không kết thúc khóa học. Năm 1994 tỉ lệ sinh viên như vậy chỉ là 27% tức là chỉ hơn đôi chút con số ở thời điểm 20 năm trước đó. - Học sinh Mĩ thua kém học sinh nhiều nước về thành tích học Toán và khoa học nhưng học sinh Mĩ có khả năng dẫn đầu về thành tích đọc (reading). - Trình độ đọc viết (“Literacy” - được hiểu là kĩ năng diễn đạt, kết hợp, so sánh, đối lập các thông tin, sử dụng các tài liệu viết thông dụng) của một tỉ lệ cơ bản lực lượng lao động Mĩ rất hạn chế. Chỉ có một tỉ lệ nhỏ người lao động có trình độ đọc viết thực sự cao. 1.2. Phương châm giáo dục ở thế kỉ 21 của Mĩ ƒ Hội đồng Phát triển Bền vững của Mĩ trực thuộc Tổng thống đã xác định vai trò của giáo dục như là một thành tố quan trọng trong chiến lược dài hạn nhằm tái xây dựng các cộng đồng và quốc gia trong thế kỉ 21. Phương châm phát triển giáo dục của Mĩ là: Giáo dục vì sự phát triển bên vững (Education for Sustainability). Phương châm này được hiểu như sau: Đảm bảo cho tất cả mọi công dân Mĩ có cơ hội bình đẳng để tiếp nhận giáo dục và học tập suốt đời, nhằm chuẩn bị cho học các lao động có ý nghĩa, 62
  28. cuộc sống với chất lượng cao và sự hiểu biết cần thiết có liên quan tới sự phát triển bền vững. ƒ Các tiêu chí nhằm xác định được thành tựu của giáo dục vì sự phát triển bền vững cũng được xác định như sau: + Cơ hội tiếp cận thông tin: Số lượng lớn người dân trong cộng đồng được trang bị cơ hội tiếp nhận thông tin. + Các chuẩn quốc gia: Số lượng lớn hệ thống các nhà trường thực hiện dạy học theo chuẩn quốc gia. + Sự tham gia của cộng đồng: Số lượng lớn các trường học và cộng đồng tham gia vào các chương trình giáo dục suốt đời thông qua các hình thức học tập chính quy và phi chính quy. + Thành tích học tập quốc gia: Thành tích học tập của học sinh Mĩ được đánh giá bằng các hệ thống test quốc gia. + Tỉ lệ tốt nghiệp của học sinh, sinh viên: Tỉ lệ tăng lên của sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng và tỉ lệ tăng của số học sinh tham dự học tại các trường cao đẳng, dạy nghề v.v ƒ Các mục tiêu cụ thể của Giáo dục vì sự phát triển bền vững nhằm thể hiện được phương châm giáo dục vì sự phát triển bền vững: Nước Mĩ đã xác định các mục tiêu cụ thể nhằm đạt được sự phát triển bền vững: + Đảm bảo nhận thức sự hiểu biết về phát triển bền vững phải có mặt trong ý thức của tất cả mọi tầng lớp xã hội. + Đảm bảo có các đối thoại thường xuyên giữa các cử tri và nghị sĩ về sự phát triển bên vững để tạo ra sự nhất trí cao. + Phát triển các kĩ năng, thái độ, động cơ và giá trị nhằm tạo ra các hành động vì sự phát triển bền vững và tạo ra các cam kết mạnh mẽ đối với các hoạt động cá nhân và tập thể vì một thế giới phát triển bền vững. ƒ Các nguyên tắc của giáo dục vì sự phát triển bền vững ở thế kỉ 21 của Mĩ: + Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải lôi kéo sự tham dự của tất cả mọi người, bao gồm các trường học, cộng đồng. Các nhà giáo dục phải “vượt ra khỏi các bức tường của nhà trường” để lôi kéo cha mẹ học sinh, cộng đồng, các cơ quan chính phủ vào quá trình giáo dục. Các trường cao đẳng, đại học phải hoạt động trong sự kết hợp với các nhà trường khác và các cộng đồng nhằm thực hiện các đề tài nghiên cứu và cung cấp các dịch vụ, giải quyết các vấn đề của cộng đồng. 63
  29. + Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải thể hiện được tính liên kết. Tính liên kết ở đây được thể hiện ở tinh thần liên môn, sự liên kết giữa tất cả các môn học, mối liên hệ về địa lí và văn hóa. + Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải nhấn mạnh tính thực tiễn của quá trình dạy học. + Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải là quá trình học tập suốt đời đối với mọi công dân. 1.3. Kế hoạch 10 điểm cụ thể của Tổng thống Mĩ về giáo dục ở thế kỉ 21 Nhằm thể hiện phương châm và các mục tiêu giáo dục của Mĩ, ngày 21/5/1997 Tổng thống Mĩ Clintơn đã tuyên bố kế hoạch 10 điểm cụ thể của Giáo dục Mĩ ở thế kỉ 21, kêu gọi các cha mẹ, giáo viên, học sinh, các thương gia, các nhà lãnh đạo và các công chức Mĩ cùng hoạt động nhằm thực hiện một kế hoạch tham vọng là nước Mĩ sẽ có được một nền giáo dục tốt nhất ở thế kỉ 21. Kế hoạch gồm các điểm tóm tắt sau: 1. Xây dựng chuẩn quốc gia nghiêm khắc và hệ thống test về tập đọc ở lớp 4 và test Toán ở lớp 8 nhằm đảm bảo học sinh phải nắm vững các kiến thức cơ bản. 2. Đảm bảo mỗi lớp học phải có giáo viên giỏi và tận tụy. 3. Dạy học sinh đọc thành thạo ở cuối lớp 3. 4. Lôi cuốn cha mẹ tham gia tích cực vào giáo dục trẻ từ trước tuổi đến trường. 5. Mở rộng các cơ hội lựa chọn trường học trong hệ thống các trường công đảm bảo cho các bậc cha mẹ có thể chọn được trường thích hợp nhất cho con em mình. 6. Đảm bảo sự an toàn, kỉ luật, không có nạn ma túy trong các trường học với sự duy trì các giá trị Mĩ. 7. Hiện đại hóa các nhà trường cùng với việc hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất các nhà trường. 8. Mở rộng cửa các trường cao đẳng và đại học cho tất cả những ai làm việc và học tập chăm chỉ. 9. Tạo điều kiện cho tất cả mọi người có điều kiện tiếp tục phát triển học vấn và kĩ năng cần thiết mà họ mong muốn bằng việc tăng cường các cơ hội đào tạo và huấn luyện tại chức. 10. Thực hiện việc nối mạng internet của mọi lớp học và mọi thư viện vào năm 2000 nhằm giúp tất cả mọi học sinh được phổ cập công nghệ tin học. 64
  30. 2. Dự báo phát triển giáo dục của cộng hòa Pháp Bộ Giáo dục quốc gia Pháp đã nêu lên 49 nguyên tắc mới cho giáo dục, trong đó có thể thấy rõ những tư tưởng cơ bản như: giảm nhẹ chương trình, rút ngắn giờ học đối với học sinh trung học, theo dõi cá nhân học sinh chặt chẽ, nâng cao địa vị và chất lượng giáo viên, gắn nhà trường với xí nghiệp Đây là các vấn đề đang được thảo luận hết sức rộng rãi. Trong 49 nguyên tắc này có thể thấy rõ một số điều quan trọng sau: 1. Mục tiêu đào tạo của trường trung học: Trường trung học là nơi đào tạo các công dân của một xã hội tương lai. Trường học phải phát triển được trong họ “óc phê phán và ý thức cảnh giác đối với mọi hình thức gian trá và cực quyền”. 2. Chương trình dạy học: • Làm cho chương trình trong trường học trở thành khuôn mẫu. Kể cả đối với trường tư, chương trình cũng phải được xác định tương ứng với “chính sách chung về quy hoạch lãnh thổ và công bằng xã hội”. Sự điều tiết này là cần thiết để dập tắt hiện tượng chủ nghĩa riêng biệt đang lan rộng trong một số cơ sở trường học. • Chương trình quốc gia phải chuẩn bị cho sự chuyên môn hóa, gắn chặt với nghề nghiệp ở giai đoạn cuối. • Chương trình phải mang tới cho học sinh một “nền văn hóa chung”, bao gồm sự hiểu biết về xã hội (những yếu tố về pháp luật, các nguyên tắc chi phối cuộc sống ) và một tập hợp các kiến thức khoa học cơ bản và đồng bộ. 3. Giáo dục hướng nghiệp: Mỗi năm học một thông tin mới nhất về hướng nghiệp sau trung học được thông báo đến trường học sinh và cha mẹ học sinh, giới thiệu “khung đào tạo của vùng và triển vọng của việc làm” cũng như thông báo về các địa chỉ cần thiết. 4. Giáo dục cá nhân: Chú trọng tới việc dạy học theo cá nhân. Những sự kèm cặp cá nhân thường xuyên cho phép học sinh đang gặp những khó khăn trong một môn học nhận được những lời khuyên, nhận được sự giúp đỡ cần thiết và kịp thời từ phía giáo viên. 5. Tính liên môn: Giảm bớt tình trạng nhiều môn học bằng việc tăng cường các môn học kết hợp. 6. Liên kết trong giáo dục: Tăng cường sự liên hệ giữa nhà trường và các xí nghiệp. Trường trung học là nơi “tuyên truyền các sang tạo công nghệ và cải cách nghề nghiệp”. Ngược lại, các xí nghiệp tìm được ở các nhà trường “các trung tâm nguồn trong việc đào tạo và sáng tạo công nghệ”. 65
  31. 7. Các trường trung học nghề: Trường trung học nghề phải thích nghi với khu vực, việc đào tạo phải phù hợp với sơ đồ đào tạo nghề nghiệp đã được xác định trong kế hoạch giáo dục của khu vực. 8. Đánh giá: • Vẫn giữ kì thi tú tài nhưng có thay đổi và giảm nhẹ đôi chút. Nó chỉ còn là “một kì kiểm tra bình thường cỡ quốc gia”. • Sử dụng một “Sổ học bạ mở rộng” để đánh giá chung và toàn diện năng lực và phẩm chất của mỗi cá nhân học sinh. • Một kì thi mới ở lớp đệ nhất. Ngoài việc kiểm tra môn tiếng Pháp học sinh phải viết 1 tài liệu nghiên cứu về 1 chủ đề tự chọn khoảng 20 trang và bảo vệ trước 1 hội đồng đánh giá. 9. Thời lượng học tập: • Một trường trung học mở cửa hơn. Mọi học sinh đều có quyền có “một thời gian có mặt hàng tuần là 35 giờ” tại trường, việc này cho phép học sinh có thể tìm thấy sự giúp đỡ hay lấy tư liệu để làm bài. • Ưu tiên cho việc đọc sách. Thời gian rỗi cần phải được dùng để “đọc các tác phẩm bổ sung hay tạp chí”, mà mỗi môn học đòi hỏi và được tính điểm khi chấm bài. • Các giờ lên lớp giảm. Trong giảng dạy phổ thông, học sinh chỉ còn có 28 giờ nghe giảng; trong giảng dạy công nghệ hay chuyên ngành là 30 giờ, ít nhất 20% số giờ lên lớp được dùng vào các công việc làm có hướng dẫn. • Bài tập ở trường trung học. Việc giảm số giờ nghe giảng đã dành ra từ 5 đến 9 giờ cho phép những học sinh muốn làm bài tập có sự giúp đỡ của giáo viên. • Những hoạt động ngoài nhà trường thích hợp. Những “hoạt động văn hóa xã hội và thể thao” được tăng cường để lôi kéo học sinh vào cuộc sống tập thể. 10. Giáo viên • Thời gian biểu của giáo viên đã được đảm bảo chuyển từ 18 xuống 15 giờ và đối với các thạc sĩ giảm từ 15 xuống còn 14 giờ. Nhưng họ phải đảm bảo 4 giờ có mặt và hoạt động sư phạm trong nhà trường (đối với thạc sĩ là 3 giờ), tức là 132 giờ một năm. • Chỉ có 15 giờ lên lớp (15 giờ giảng dạy tương ứng với những giờ có mặt trước học sinh, kể cả những công việc hướng dẫn học sinh làm bài tập hoặc thực hành, không tính đến những nhiệm vụ truyền thống như chuẩn bị bài, chấm bài và các cuộc gặp gỡ phụ huynh học sinh). 66
  32. • Tăng cường làm việc theo nhóm giáo viên để chia xẻ và học hỏi lẫn nhau. • Làm mềm deo và linh hoạt việc trực của giáo viên. • Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên: Mỗi giáo viên có quyền hưởng ít nhất 35 giờ cho việc đào tạo tiếp tục hàng năm, thực hiện ngoài giờ trực và giờ lên lớp. • Chú trọng việc đào tạo các nhà quản lí giáo dục. 3. DỰ BÁO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA TRUNG QUỐC 1996- 2050 3.1. Phương châm Giáo dục hướng về hiện đại hóa Trung Quốc nếu muốn đạt được mục tiêu chiến lược là vươn tới trình độ của các nước phát triển hạng trung vào giữa thế kỉ sau, thì phải duy trì được lực đẩy mạnh mẽ của tiến bộ khoa học kĩ thuật, của sự phồn vinh kinh tế và sự phát triển xã hội trong một thời gian dài. Nhưng cơ sở vật chất của lực đẩy đó lại chịu sự quyết định của trình độ phát triển giáo dục. Bởi vậy, trong thời kì chiến lược này, cần không ngừng tăng nhanh tốc độ phát triển giáo dục. Chỉ có đặt giáo dục vào vị trí chiến lược ưu tiên phát triển, không ngừng tăng tỉ trọng đầu tư cho giáo dục, không ngừng nâng cao địa vị của giáo dục trong xã hội, không ngừng điều chỉnh bước đi của giáo dục theo yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội, làm cho giáo dục phát triển đồng bộ với kinh tế, gắn kết chặt chẽ với kinh tế và trong điều kiện có thể được, phát triển đi trước một cách thích đáng, thì mới có thể làm cho tiến trình hiện đại hóa Trung Quốc tiến lên một cách thuận lợi. Bên cạnh đó, bản thân giáo dục cũng phải không ngừng điều chỉnh cơ cấu và phương thức phát triển nhằm cung cấp cho công cuộc xây dựng hiện đại hóa Trung Quốc và phát triển kinh tế một nguồn trí lực đầy đủ và có hiệu quả. Giáo dục hướng ra thế giới Hiện nay, nền kinh tế của các nước trên thế giới đều mở cửa để hội nhập với thị trường thế giới rộng lớn, giáo dục không thể đứng ngoài tiến trình lịch sử đó. Sự phát triển của giáo dục các nước không những phải hài hòa, đồng bộ với sự phát triển tổng thể của giáo dục thế giới và kinh tế thế giới. Sự phát triển của giáo dục thế giới và kinh tế thế giới không những trực tiếp ảnh hưởng đến trình độ và phương hướng phát triển của giáo dục và kinh tế Trung Quốc mà sự tăng tốc của tiến trình nhất thể hóa kinh tế thế giới, sự quyết liệt không ngừng cạnh tranh quốc tế cũng đòi hỏi giáo dục Trung Quốc trong thế kỉ 21 phải đào tạo ra nhiều nhân tài thích ứng với sự thay đổi của kinh tế thế giới và có thể tham gia vào cuộc cạnh tranh quốc tế. 67
  33. Giáo dục hướng tới tương lai Cống hiến của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển kinh tế tương lai, to hay nhỏ, chủ yếu là do việc giáo dục và đào tạo quốc dân có thể thỏa mãn đến mức nào yêu cầu của tương lai về nhân tài. Cho nên, giáo dục cần phải quy hoạch và phát triển theo yêu cầu của tương lai. Giáo dục phải phục vụ việc nâng cao tố chất của con người Giáo dục phục vị phát triển kinh tế 3.2. Mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục Trung Quốc 1. Đầu tư cho giáo dục chiếm 8% tổng giá trị sản xuất quốc dân, tức là đạt mức xấp xỉ là 13 nghìn tỉ đồng. 2. Phổ cập giáo dục nghĩa vụ 12 năm, tức là giáo dục từ 6 đến 18 tuổi (hoặc giáo dục nghĩa vụ 15 năm, tức là bao gồm 3 năm mẫu giáo). Trong đó (tính theo giáo dục nghĩa vụ 15 năm): + Trẻ em đi nhà trẻ, mẫu giáo là 110 triệu; + Học sinh tiểu học là 175 triệu; + Học sinh trung học các loại là 155 triệu. 3. Tỉ lệ vào đại học đạt trên 60%, khoảng 57.600.000 người. 4. Nghiên cứu sinh đạt 2.100.000-2.500.000 người. Hàng năm có từ 700.000-800.000 người được nhận học vị Thạc sĩ và Tiến sĩ. 5. Số giáo viên đạt mức 32 triệu người. Trong đó: Giáo viên mẫu giáo: 7,3 triệu; giáo viên tiểu học: 8,45 triệu; giáo viên trung học: 11,92 triệu; giáo viên đại học: 3,7 triệu. 3.3. Các giai đoạn chiến lược phát triền giáo dục Trung Quốc Giai đoạn thứ nhất (1996-2010): Đây là giai đoạn điều chỉnh từng bước tỉ lệ giữa 3 cấp giáo dục, làm cho chúng thích ứng với sự phát triền kinh tế. Phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 9 năm, xóa mù chữ cho những người ở độ tuổi thanh niên và trung niên, đưa tỉ trọng người có trình độ giáo dục đại học trong dân số lên mức của các nước phát triền trung bình. Cải thiện khá lớn điều kiện dạy học, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các loại trường học các cấp. Mục tiêu cụ thể của giai đoạn này là: Đầu tư cho giáo dục chiếm 4% tổng giá trị sản xuất quốc dân, khoảng 800 tỉ đồng. Phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 9 năm. Duy trì học sinh tiểu học ở mức 130 triệu, trung học cơ sở 63 triệu; tỉ lệ vào học trung học cơ sở đạt 95%; phổ cập giáo dục nghĩa vụ 9 năm ở khu vực chiếm 95% dân số. 68
  34. Xóa mù chữ cho thanh niên và trung niên; hạ tỉ lệ thanh niên và trung niên mù chữ xuống khoảng 1%, nâng tỉ lệ người lớn biết chữ lên 90%-95%, thông qua học văn hóa và học kĩ thuật để củng cố thành quả xóa mù chữ. Phát triển trung học nghề nghiệp và trung học phổ thông, tăng số học sinh của các loại trường thuộc giai đoạn trung học lên khoảng 35 triệu người, đạt tỉ lệ nhập học trên 50%. Học sinh trung học phổ thông đạt 14 triệu người, học sinh trung học nghề nghiệp đạt 21 triệu người. Phát triền thích đáng giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp ở trình độ đại học. Tăng số sinh viên các trường đại học lên 12,6 triệu người, tỉ lệ nhập học đạt khoảng 15%. Số nghiên cứu sinh đạt mức 30-35 vạn người; hàng năm trao học vị Thạc sĩ và Tiến sĩ cho trên 10 vạn người. Giai đoạn hai (2011-2030) Giai đoạn này sễ điều chỉnh thêm một bước tỉ lệ của ba cấp giáo dục. Từng bước tăng tỉ trọng giáo dục đại học, phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 12 năm; trình độ và chất lượng phổ cập giáo dục phổ thông về cơ bản đạt tới hoặc tiếp cận trình độ các nước phát triền trung bình trên thế giới. Giáo dục kĩ thuật nghề nghiệp bám sát sự phát triền khoa học kĩ thuật tiến tiến của quốc tế. Giáo dục tại chức trở thành một hệ thống đan xen nhiều chiều, đạt tỉ lệ ngày càng lớn. Nâng cao chất lượng xóa mù chữ. Tỉ trọng người có trình độ đại học gần bằng mức chung của các nước phát triền. Cải thiện cơ bản điều kiện dạy học của các loại trường học, nâng chất lượng và hiệu quả giáo dục lên hàng đầu của thế giới. Mục tiêu cụ thể là: • Đầu tư cho giáo dục chiếm 6% tổng giá trị sản xuất quốc dân, đạt khoảng 3,84-4,62 nghìn tỉ đồng. • Phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 12 năm. Duy trì số học sinh tiểu học ở mức 166 triệu người; học sinh trung học khoảng 146 triệu người; tỉ lệ học sinh vào học trung học phổ thông, trung học kĩ thuật, trung học nghề nghiệp đạt khoảng 95%; phổ cập giáo dục nghĩa vụ 12 nưm ở các vùng chiếm 95% dân số. • Nâng cao chất lượng xóa mù chữ. 90%-95% người lớn có năng lực giao tiếp bằng văn tự và năng lực đọc hiểu nói chung theo yêu cầu của xã hội đương thời; củng cố thành quả xóa mù chữ bằng các con đường học tập và ứng dụng đa dạng. • Nhanh chóng phát triền và phát huy vai trò ngày càng quan trọng của giáo dục tại chức; khoảng 1/10 số cán bộ tại chức sẽ được tào tạo dài hạn theo phương thức thoát li sản xuất hoặc thoát li một nửa thời gian sản xuất; tiến hành đổi mới tri thức bằng các hình thức khác nhau. 69
  35. • Phát triền nhanh giáo dục đại học và giáo dục trên đại học (như: học viên nghiên cứu kết hợp nghiên cứu và dạy học, học viên nghiên cứu lí luận cơ bản, v.v ) Tăng số lượng sinh viên đại học lên đến 27 triệu người, tỉ lệ nhập học đạt khoảng 30%. Số lượng nghiên cứu sinh đạt khoảng 1,5 triệu người; hàng năm cấp học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ cho khoảng 50 vạn người. Giai đoạn ba (2031-2050). Giáo dục của Trung Quốc ở giai đoạn này có sự phát triền, hoàn thiện thêm mọt bước. Tỉ lệ giữa giáo dục các cấp hợp lí, hình thành một hệ thống giáo dục lớn, trong đó lấy giáo dục nghĩa vụ chất lượng cao trên phạm vi toàn quốc làm cơ sở, lấy giáo dục đại học dồi dào sức sống, phong phú về chủng loại và đa dạng về hình tiểu họcức làm chủ tiểu họcể, lấy giáo dục khoa học kĩ thuật mũi nhọn, cao, tinh và giáo dục siêu cao cấp mang tính nghiên cứu làm đầu tầu. Mục tiêu phát triền cụ thể của giai đoạn này là: • Đầu tư giáo dục chiếm 8% tổng giá trị sản xuất quốc dân, đạt khoảng 12,8 nghìn tỉ đồng. • Phổ cập giáo dục nghĩa vụ 12 năm (hoặc giáo dục nghĩa vụ 15 năm, tức là bao gồm cả 3 năm giáo dục mẫu giáo) cho khoảng 330 triệu người trong độ tuổi từ 3-18 tuổi (nếu là giáo dục nghĩa vụ 15 năm thì là 440 triệu người). • Tỉ lệ người vào đại học là 60%, khoảng 17,6 triệu người. • Quy mô đào tạo nghiên cứu sinh đạt mức 2,1-2,5 triệu người, hàng năm trao học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ cho 70-80 vạn người. • Tổng số giáo viên đạt khoảng 32 triệu người. Các giải pháp chiến lược phát triền giáo dục Trung Quốc 1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp quy về giáo dục, tạo môi trường pháp chế có lợi cho sự phát triền gd 2. Không ngừng tăng cường ý thức coi trọng giáo dục, toàn dân quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. 3. Bảo đảm đầu tư cho giáo dục, mở rộng nguồn vốn cho giáo dục, động viên mọi lực lượng xã hội hỗ trợ sự phát triền của giáo dục. 4. Đẩy mạnh việc đầu tư phần cứng cho giáo dục. 5. Tăng cường xây dựng đội ngũ giáo viên, nâng cao tố chất và địa vị xã hội của giáo viên. 6. Từng bước mở rộng giáo dục tố chất, nâng cao hiệu quả xã hội của giáo dục. 7. Nỗ lực tìm tòi sự sang tạo mới về chế độ giáo dục 70
  36. 8. Xử lí vấn đề thị trường hóa trong phát triền giáo dục đại học 9. Tăng cường công tác nghiên cứu phát triền giáo dục. 4. DỰ BÁO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘ SỐ NƯỚC THUỘC KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG 4.1. Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực ở châu Á trong vòng 25 năm tới Một số hội nghị quốc tế và khu vực đã được tổ chức, thảo luận các vấn đề đào tạo và sử dụng lực lượng các nhà nghiên cứu và các nhà khoa học. Một hội nghị tổ chức từ 17-18/1/1999 tại New York và hội nghị tiểu họcứ hai tổ chức vào 6/1997 tại Kuala Lumpur đã đề cập tới một số thách thức nổi bật về đào tạo nguồn nhân lực đặt ra với các nước châu Á trong vòng 1/4 thế kỉ tới. Dưới đây là một số thách thức nổi bật trong một số lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế chính trị • Sự hội nhập của các quốc gia vào nền kinh tế toàn cầu • Hậu quả của việc sử dụng lực lượng lao động trình độ thấp • Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự phát triền của các xa lộ thông tin không kiểm soát được • Sự thúc ép phải chuyển đổi cách thức quản lí từ tập trung sang phi tập trung • Nhận thức được tăng cường về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đặt ra các trách nhiệm lớn cho các chính phủ phải bảo vệ và duy trì. Trong lĩnh vực xã hội • Quá trình đô thị hóa mau chóng và các hậu quả của nó trong lĩnh vực xã hội và quản lý ở các cấp • Sự phát triền loại hình “Gia đình hạt nhân” và sự mất dần các gia đình đa thế hệ • Tình trạng tiến thoái lưỡng nan giữa việc tiếp tục duy trì các thành phần lao động với năng suất thấp (vì số đông vẫn tập trung ở lao động nông nghiệp và các nghề không chính thức ở thành thị) trong khi đối mặt với sự thiếu năng lực của các thành phần lao động với năng suất cao • Lực lượng lao động tiếp tục tăng lên và vẫn không được đào tạo đủ do sự bất cập của các hệ thống giáo dục. • Sự di chuyển của các lực lượng lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác • Sự thúc ép đối với khu vực châu Á phải chuyển đổi từ một khu vực mang tính “thị trường” sang khu vực “tạo ra kiến thức”. 71
  37. Trong lĩnh vực môi trường • Mâu thuẫn căng tiểu họcẳng giữa nhịp độ phát triền sản xuất và nhu cầu làm giảm bớt sự ô nhiễm và phá hủy môi trường. • Việc đưa dần phí tổn về môi trường vào hệ tiểu họcống tài chính và luật pháp. Trong lĩnh vực văn hóa Sự gia tăng, nhưng không phải là thống trị, cái gọi là “Văn hóa thế giới” trong xu tiểu họcế hội nhập của các nước châu Á. Nhu cầu duy trì và bảo tồn văn hóa và bản sắc của dân tộc và của khu vực nhằm tránh xu hướng đồng nhất. Trong lĩnh vực phương pháp dạy học Yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các nước châu Á phải thay đổi cách dạy học nhằm nâng cao vai trò tích cực, chủ động của người học, nhằm giúp học sẵn sang và tự tin bước vào cuộc sống lao động sang tạo trong thế kỉ tới. Các vấn đề về nông thôn • Mặc dù có xu hướng đô thị hóa mau chóng, trong vòng 1/4 thế kỉ tới hầu hết các nước châu Á vẫn là các nước “quá bán” về nông nghiệp. Chính phủ các nước châu Á đều có xu hướng chuẩn hóa chương trình dạy học quốc gia. Tuy nhiên học sinh các vùng nông thôn không có điều kiện tiếp thu chương trình quốc gia một cách đầy đủ để giúp họ có thể trở thành những người lao động có năng suất. Các phương thức dạy học thích hợp cần đặt ra cho học sinh các vùng nông thôn. • Nhằm mục đích xóa đổi giảm nghèo các nước châu Á phải có kế hoạch đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu các vấn đề về nông thôn và năng suất lao động ở nông thôn. Vấn đề chuyên môn hóa Các chương trình dạy học của nhiều nước châu Á thường có xu hướng phân hóa sớm và điều này tỏ ra không phù hợp với các thách thức đòi hỏi cách giải quyết có tính chất liên môn. Vấn đề kết hợp giữa nghiên cứu và dạy học Ở nhiều nước châu Á thường có sự thiếu gắn kết giữa các cơ quan thực hiện nghiên cứu và các cơ quan thực hiện dạy học. Sự kết hợp chặt chẽ cả hai chức năng này theo những phương thức hợp lí là phương cách tăng cường hiệu quả của cả việc dạy hoc và nghiên cứu trong thời gian tới. Hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu 72
  38. Ở nhiều nước châu Á các hoạt động nghiên cứu đã không được tài trợ một cách đầy đủ. Các nguồn tài chính cần được huy động để hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu nhiều hơn nhằm giúp các nước châu Á có thể phát triền hơn việc chỉ là các nguồn cung cấp nguồn nhân lực rẻ cho các nền công nghiệp đang ngày càng thể hiện tính chất đa dân tộc. Hỗ trợ cho giáo dục đại học Nhiều nước châu Á đã tỏ ra thiếu các nguồn nhân lực có kĩ năng cao ở nhiều lĩnh vực, do đó đã không thu hút được các nguồn đầu tư mới. Năng lực quản lí đòi hỏi các kĩ năng và tư duy tổng hợp đã tỏ ra thiếu ở nhiều nước châu Á. Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các thách thức này và đòi hỏi có những đầu tư thích đáng. 4.2. Tư tưởng chiến lược giáo dục của các nước thuộc khu vực Châu Á- Thái Bình Dương Điều này rõ rang nhất trong khu vực là thay đổi về môi trường kinh tế. Năm 1996, các chiến lược được hình thành trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng trưởng, ngày nay, hầu hết các nước trong khu vực đang ở trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Tuy nhiên không chỉ kinh tế mà tình hình chính trị cũng đã có nhiều thay đổi. Gần 1/4 số nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã thay đổi Chính phủ hoặc ít nhất là thay đổi Bộ trưởng Giáo dục. Những chính sách và các nhà hoạch định chính sách mới mang lại những ưu đãi và kỳ vọng mới đối với hệ thống giáo dục trong nước của họ. Ngoài kinh tế và chính trị, công nghệ và sự bùng nổ của thông tin đã mở ra những khả năng mà ngành giáo dục mới chỉ bắt đầu sử dụng một cách chậm chạp. Những khó khăn và thách thức thường gặp đối với ngành giáo dục trong khu vực không phải là mới, tuy nhiên chúng lại trở nên cấp bách khi nền kinh tế suy thoái và những nhu cầu cấp thiết lại không được quan tâm đầy đủ trong việc chuẩn bị giáo dục cho thế hệ kế tiếp. Mặc dù là ngành chăm sóc đến tương lai, nhưng ngành giáo dục lại là ngành ít thay đổi nhất do quy mô, sự ổn định và thiếu năng động của các hệ thống giáo dục và bệnh quan liêu. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng khu vực là một lời kêu gọi thúc giục đối với việc xem xét cơ bản về ngành giáo dục. Dưới đaya là một số vấn đề chung được đề cập tới trong tư tưởng phát triền giáo dục của các nước khu vực trong những thập kỉ đầu của thế kỉ 21. 4.2.1 GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI VÀ GIÁO DỤC SUỐT ĐỜI Kể từ khi cộng đồng quốc tế tán thành sự cần thiết phải coi giáo dục là quyền cơ bản của mọi người vào tháng 3/1990, khu vực châu Á-Thái Bình 73
  39. Dương đã có tiến bộ đáng kể. Một loạt những sáng kiến và kế hoạch hành động đã được thiết lập và thực thi. Các nước châu Á-Thái Bình Dương đã thỏa thuận đặt giáo dục cơ sở và xóa mù chữ lên những ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, kết quả những cố gắng của họ lại rất đáng buồn vì mức độ và nhịp độ phát triền của các nước lại khác nhau. Một sự thật đang tồn tại mà chưa có cách nào giải quyết là người mù chữ ở châu Á-Thái Bình Dương hiện vẫn chiếm một phần lớn trên thế giới. Do vậy thách thức đặt ra là phải đẩy mạnh việc tiếp cận giáo dục cơ bản cho mọi người. Mặc dù tỉ lệ học sinh đã tăng tại nhiều nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương nhưng 74 triệu (56%) trong số 132 triệu trẻ em trên thế giới đang ở dộ tuổi đi học (6-11) không được đến trường. Ít nhất 1/3 trong số đang đi học đã bỏ học trước khi tốt nghiệp tiểu học. Lý do thật dễ hiểu: nghèo đói, khoảng cách kinh tế xã hội, khác biệt giữa nông thôn và thành thị, quản lý sai lệch và thiếu các chương trình giáo dục đầy đủ. Hơn nữa, sự khác biệt giới tính cũng làm cho bức tranh càng u ám: khoảng 46 triệu (62%) trong số 74 triệu trẻ em không được đi học là các bé gái, tập trung hầu hết ở Nam Á. Phần lớn số người lớn mù chữ, thanh niên không được đi học đang sống trong những khu vực tách biệt hoặc trong khu vực nhà ổ chuột, ít được hoặc hầu như không được tiếp cận với những dịch vụ xã hội, giáo dục, đào tạo và tái đào tạo. Phần lớn trong số họ đều là người dân tộc thiểu số, người tị nạn hoặc thuộc những thành phần không được ưu đãi trong xã hội (Ví dụ: phụ nữ, trẻ em nữ). Do vậy, rất nhiều việc cần phải làm và con đường đi tới giáo dục cho mọi người vẫn còn đầy chông gai. Hội nghị thế giới về giáo dục cho mọi người đã xác định rằng vẫn còn nhiều những trở ngại như các nhân tố chính trị, kinh tế và tài chính, sự thiếu cung cấp giáo dục đẩy đủ, năng lực quản lý yếu kém trong việc thực hiện chiến lược giáo dục cho mọi người và tình trạng thiếu năng động, trì trệ của các hệ thống giáo dục. Các chiến lược cụ thể có liên quan tới giáo dục cho mọi người và giáo dục suốt đời tập trung vào các vấn đề cụ thể sau: - Các nguồn giáo dục Để trợ giúp sự phát triền về số lượng và chất lượng của giáo dục cho mọi người, nhân tố cơ bản là cải tiến việc sử dụng ngân sách và phân bổ nguồn lực. - Chiến lược về đội ngũ giáo viên Để có thể sử dụng tối đa lực lượng giáo viên, cần phải kiểm tra các điều kiện nhân sự về các kỹ năng, cấu trúc tuổi tác, cân bằng giới tính và phân bổ địa lý. Cũng cần phải kiểm tra các chính sách tuyển dụng, nhu cầu đào tạo, các hệ thống thẩm định và phát triền giáo viên và nhu cầu về phân bổ lại đội ngũ giáo viên. Cần phải có các biện pháp sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên và phát triền 74
  40. những tố chất của họ. Các chính sách quản lý giáo viên hiện cũng là điều đáng quan tâm. - Trợ giúp điều hành phi tập trung Phi tập trung quản lý giáo dục đã được thảo luận từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, nhiều nước chưa thực sự tiến hành ý tưởng này vì các cơ quant rung ương vẫn muốn duy trì quyền quyết định của mình. Một lý do nữa là các viên chức nhà nước không muốn ở dưới quyền của chính quyền địa phương. Tuy nhiên nếu các trường học đáp ứng các nhu cầu của địa phương thì cộng đồng địa phương cũng cần tham gia vào việc quản lý trường học. Ở địa phương, việc phi tập trung có thể dưới hình thức quản lý tại trường hoặc quản lý tại địa phương, trong khi đó cơ quant rung ương quản lý các chính sách, giúp đỡ về kĩ thuật, giám sát việc tiêu chuẩn hóa và dần dần ủy thác cho các cấp dưới. - Quan tâm tới các quyền lợi của phụ nữ và tăng cường ảnh hưởng đa dạng và cống hiến của họ đối với các mục tiêu phát triền của quốc gia. Nữ giới cần phải được tiếp cận và tham gia bình đẳng vào các hoạt động giáo dục kể cả việc quản lý. - Giáo dục thường xuyên và giáo dục lâu dài Để ủng hộ những cố gắng các nước nhằm giúp đỡ những đối tượng ngoài lễ xã hội và những thanh niên không được đi học, người ta đã đề nghị phát triền một chương trình hợp tác liên quốc gia dưới khẩu hiệu “Giáo dục phi chính quy”. Chương trình này sẽ tạo ra một nền tảng kĩ thuật lý tưởng trong việc trao đổi kinh nghiệm, định hướng lại và áp dụng những chương trình giáo dục cơ bản nhằm đáp ứng nhu cầu học tập cơ bản cho những đối tượng liên quan cũng như việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của các chiến lược và các chương trình của các nước thành viên. Giáo dục thường xuyên phải được coi như hình thức đầu tư sản xuất mà nó sẽ mang lại kết quả tích cực không chỉ đối với tăng trưởng kinh tế mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triền toàn bộ của con người. - Giáo dục trẻ em khuyết tật và giáo dục cho trẻ em từ khi còn nhỏ tuổi (dưới 5 tuổi) Gia đình, nhà trường và cộng đồng phải phối hợp hành động thông qua việc thực hiện xem xét các chương trình đào tạo, các hoạt động kế hoạch quy mô nhỏ, và nâng cao nhận thức của giáo viên và cha mẹ về những nhu cầu của những nhóm tuổi nhất định. 4.2.2. GIÁO DỤC VÌ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ XÃ HỘI 75
  41. “Xóa đói giảm nghèo là sự tối cần thiết về đạo đức, xã hội, chính trị và kinh tế đối với nhân loại”. Đây là tuyên bố của thập kỉ Liên Hợp Quốc 1997- 2006 về xóa đói giảm nghèo. Ước chừng hơn 1 tỷ người tại các nước đang phát triền đang sống cực kỳ nghèo khổ, 3/4 trong số họ là châu Á-Thái Bình Dương và một nửa ở Nam Á. Xóa đói giảm ngheo thông qua các hành động quốc gia và hợp tác quốc tế đã trở thành mục tiêu lớn trong thập kỉ này. Tuy nhiên, giữa các nhân tố chính trị và cải cách kinh tế, xóa đói giảm nghèo và việc nâng cao chất lượng cuộc sống nói chung cần phải có những hành động thống nhất trên mọi lĩnh vực xã hội, kinh tế, chính trị, pháp lý và giáo dục. Thực tế cho thấy là đầu tư vào lĩnh vực con người là vấn đề thiết yếu đối với xáo đói giảm nghèo. Việc nâng cao các điều kiện giáo dục, vệ sinh, y tế và dinh dưỡng sẽ trực tiếp góp phần vào xóa đói giảm nghèo. Hơn nữa, lao động đơn giản là tài sản chủ yếu của người nghèo. Biện pháp xóa đói giảm nghèo có hiệu quả nhất là thông qua giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao kĩ năng lao động. Những người nghèo ở các nước đều có những điểm chung: hầu hết họ đều mù chữ hoặc trình độ văn hóa thấp, sức khỏe và dinh dưỡng kém, nghèo đói rất phổ biến ở các dân tộc thiểu số, nữ giới là những người phải chịu thiệt thòi nhiều nhất do nghèo đói gây ra. Giáo dục đóng vai trò đặc biệt trong xóa đói giảm nghèo. Nó có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc bảo tồn và ổn định văn hóa, trong khi lại là công cụ để đạt được thay đổi về kinh tế xã hội. Không có giáo dục thì không có thay đổi kinh tế, chính trị nhưng chỉ có giáo dục thì cũng không thể đạt được những thay đổi này. Vì vậy, Giáo dục và đào tạo là những nhân tố quyết định để vươn tới tiến bộ xã hội tại những nước đang phát triển. Những nhân tố này đang được phát triền thông qua các chương trình giáo dục. 5. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH CHUNG Mặc dù giữa các nước có những sự khác biệt nhất định trong việc định rõ các chiến lược và các kế hoạch cụ thể về phát triền giáo dục ở thế kỷ 21, nhưng có thể thấy rõ những điểm chung nổi bật sau: - Các nước đều nhận định rõ xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế và sự thay đổi của kinh tế đã và sẽ tác động tới giáo dục và đòi hỏi chiến lược phát triền giáo dục phải gắn bó chặt chẽ và đáp ứng các yêu cầu phát triền kinh tế xã hội ở thế kỉ 21. Nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho thế kỉ 21 là nhu cầu chung mang tính toàn cầu, đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản và toàn diện về nội dung và phương thức giáo dục, đào tạo, nhằm chuẩn bị cho các công dân của các 76
  42. nước sự sẵn sang tham dự vào các hoạt động và lao động ở một thế giới ngày càng biến đổi. - Các nước nhấn mạnh tới yêu cầu của giáo dục thế kỷ 21 phải là giáo dục vì sự phát triền bền vững, sự phát triền bền vững của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗ quốc gia và của cả thế giới. Yêu cầu Giáo dục vì sự phát triền bền vững đã quy định các mục tiêu và các nguyên tắc giáo dục chung ở nhiều nước, nhấn mạnh tới: • Giáo dục cho tất cả mọi người và giáo dục suốt đời • Sự tham gia tích cực của cộng đồng vào giáo dục • Chất lượng thực sự của quá trình dạy học • Sự quan tâm và đầu tư của Chính phủ • Sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế - Từ những nhận thức chung trên các nước đều đã xây dựng những chiến lược và kế hoạch cụ thể cho việc phát triền giáo dục ở thế kỉ 21, trong đó có thể thấy rõ các điểm chung sau: • Hoàn thành phổ cập giáo dục phổ thông tiến tới phổ cập ở mức cao hơn • Cải cách quyết liệt về nội dung và phương pháp giáo dục: Nội dung hiện đại, hướng tới tương lai, tăng cường tính thực tiễn, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực với việc áp dụng đa phương tiện (Multimedia), cùng với việc tăng cường cơ hội tiếp cận công nghệ thông tin trong dạy học. • Nhấn mạnh vai trò của giáo viên, đặc biệt giáo viên giỏi. Các nước đểu chú trọng cải tiến công tác đào tạo huấn luyện giáo viên (trước khi hành nghề và tại chức) và cải tiến hệ thống khuyến khích vật chất cho giáo viên. • Đa dạng hóa các loại hình trường học. • Phát triền giáo dục nghề, giáo dục đại học, cao đẳng. • Huy động cao sự hỗ trợ của các thành phần kinh tế quốc dân và quốc tế cho giáo dục, tăng cường sự phân bổ ngân sách nhà nước cho giáo dục bằng việc sắp xếp lại sự phân bổ ngân sách với ưu tiên hàng đầu cho giáo dục. Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và tăng cường sự liên kết giữa nghiên cứu và đào tạo. 77