Giáo trình Bơi lội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Bơi lội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_boi_loi.pdf
Nội dung text: Giáo trình Bơi lội
- ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI BƠI LỘI Ebook.moet.gov.vn, 2008
- Phần I: Lí thuyết TRI THỨC CƠ BẢN VỀ BƠI LỘI (4 tiết) Chủ đề 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔN BƠI LỘI (2 TIẾT) MỤC TIÊU Sau khi học xong chủ đề này sinh viên phải mô tả được: - Nguồn gốc ra đời môn Bơi lội, - Lịch sử phát triển môn Bơi lội ở trong và ngoài nước. - Phân loại bơi lội, ý nghĩa, tác dụng của môn Bơi lội. Các nội dung này nhằm giúp sinh viên có được cách nhìn khái quát về môn Bơi lội, đồng thời qua đó tăng thêm sự yêu thích tập luyện bơi và có được các kiến thức để giáo dục học sinh và mọi người yêu thích Bơi lội. THÔNG TIN CƠ BẢN 1. Tìm hiểu sơ lược về môn Bơi lội Bơi lội là một là một môn thể thao dưới nước, do tác động của sự vận động toàn thân, đặc biệt là đạp chân, quạt tay trong nước mà con người có thể chuyển động vượt được quãng đường dưới nước với tốc độ khác nhau. Bơi lội được ra đời trong quá trình lao động sản xuất và chống lại thiên tai, địch hoạ của loài người. Nó luôn có mối quan hệ chặt chẽ với sự sinh tồn, sản xuất và sinh hoạt của loài người, phát triển và đổi mới cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người. Môn Bơi lội có nội dung rất rộng. Hiện nay Bơi lội trong các cuộc thi đấu ở Đại hội Olympic và giải vô địch Bơi lội thế giới bao gồm bốn phần: bơi thể thao, nhảy cầu, bóng nước và bơi nghệ thuật. Bốn phần này trên thực tế đã sớm trở thành bốn môn thi đấu độc lập. Hình thức bơi trong môn Bơi lội rất đa dạng, phong phú. Các hình thức bơi lội lưu truyền trong dân gian có: bơi tô tô, bơi chải, bơi đứng, bơi nghiêng và một số cách bơi không có luật lệ khác. Do kĩ thuật của các kiểu bơi trên không hợp lí, tạo ra tốc độ chậm lại tốn sức nên trong thi đấu bơi dần dần đã bị thải loại.
- Hiện nay các loại hình hoạt động bơi lội đang được phát triển rộng rãi, gồm các loại sau: 1.1. Bơi thể thao Bơi thể thao chính là các kiểu bơi hiện đại được sử dụng trong thi đấu bơi ở các Đại hội Thể dục Thể thao trong nước và quốc tế. Trong số các kiểu bơi thể thao có kiểu do bắt chước cách bơi của một động vật nào đó mà được đặt theo tên của động vật đó. Ví dụ như bơi ếch, bơi bướm, bơi đen - phin. Có kiểu bơi lại được đặt tên dựa vào tư thế khi bơi như bơi ngửa, bơi trườn sấp. Cùng với sự phát triển của bơi thể thao, nội dung thi đấu bơi thể thao hiện nay cũng rất phong phú, bao gồm: bơi trườn sấp, trườn ngửa, bơi ếch và bơi bướm. Đồng thời tổ hợp cả bốn kiểu bơi (bơi hỗn hợp cá nhân và tiếp sức hỗn hợp) cũng đã trở thành các môn thi đấu chính thức. Hiện nay, luật thi đấu bơi chỉ công nhận kỉ lục thi đấu ở bể bơi 50m tiêu chuẩn. Để thích ứng với yêu cầu thi đấu và huấn luyện, mỗi năm về mùa đông còn thi đấu bơi Quốc tế ở bể 25m. Do thi đấu ở bể bơi ngắn có lợi cho việc kiểm tra hiệu quả huấn luyện mùa đông, nâng cao kĩ thuật quay vòng nên năng lực thi đấu này ngày càng được nhiều nước trong khu vực và thế giới coi trọng. Bảng 1. Các môn thi đấu bơi lội Cự li thi đấu Kiểu bơi Nam Nữ Ghi chú Bơi tự do (trườn sấp) 50m, 100m 50m, 100m Đại hội Olympic không thi đấu 200m, 400m 200m, 400m 800m tự do nam và 1500m tự do nữ. 800m, 1500m 800m, 1500m Bơi trườn ngửa 100m, 200m 100m, 200m Các nhóm tuổi (thanh thiếu niên, nhi đồng có thi đấu cự li 50m) Bơi ếch 100m, 200m 100m, 200m Nội dung thi đấu như trên Bơi bướm 100m, 200m 100m, 200m Nội dung thi đấu như trên Bơi hỗn hợp cá nhân 200m, 400m 200m, 400m Bướm, ngửa, ếch, trườn Tiếp sức bơi tự do 4 x 100m, 4 x 100m, Đại hội Olympic không thi đấu 4 x 200m 4 x 200m tiếp sức 4 x 200m nữ. Tiếp sức hỗn hợp 4 x 100m 4 x 100m Bướm, ngửa, ếch, trườn (Bốn kiểu bơi)
- 1.2. Bơi thực dụng Bơi thực dụng bao gồm bơi đứng, bơi nghiêng, bơi ếch, bơi ngửa, lặn, kĩ thuật cứu đuối trong nước, bơi vũ trang, bơi vượt sông, biển Sự phân biệt bơi thể thao với bơi thực dụng chỉ là tương đối. Bơi thực dụng là các hoạt động bơi trực tiếp phục vụ cho lao động sản xuất, quân sự và sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ như trong bơi thực dụng cũng có lúc sử dụng bơi trườn ngửa để cứu đuối hoặc trong bơi thư giãn cũng có lúc người ta dùng kiểu bơi ngửa, mặc dù các kiểu bơi đó không nằm trong bơi thực dụng. 1.3. Bơi thể thao loại đặc biệt (đặc chủng) - Bơi cự li dài: Mục đích kiểu bơi này nhằm lập ra các kỉ lục về thời gian và độ dài. Ví dụ vận động viên người Ý đã lập kỉ lục bơi 225km với thời gian 100 giờ. Ở Anh còn lập thành Liên đoàn bơi dài. - Bơi vượt eo biển: Năm 1875, vận động viên M.Weibe của Anh Quốc đã bơi vượt qua eo biển Măng xơ có độ rộng (chiếu theo đường thẳng) 20,51 hải lí, hết 21 giờ 45 phút. Từ những 1950 trở lại đây, bơi vượt eo biển đã thu hút đông đảo các vận động viên tham gia, trong đó có cả các nữ vận động viên. - Môn lặn tốc độ: Môn lặn tốc độ còn gọi là môn thể thao dưới nước, thường tiến hành thi đấu các môn: lặn vòi hơi mắt kính chân vịt cự li 100m, 200m, 400m, 800m, 1500m, 1850m và tiếp sức 4 x 100m, 4 x 200m, cho cả nam và nữ, lặn nín thở (đội mũ bịt mặt mang chân vịt) thi đấu cự li 50m, lặn khí tài (mang bình lặn, mắt kính chân vịt, thi đấu cự li 100m, 400m, 800m) . 1.4. Bơi lội quần chúng Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và sự nâng cao sức sản xuất, của cải vật chất của xã hội ngày càng phong phú, nhu cầu của loài người về sinh hoạt vật chất, văn hoá, vui chơi giải trí cũng không ngừng thay đổi. Hoạt động bơi lội quần chúng lấy tiêu chí là tăng cường thể chất nhằm làm phong phú cuộc sống tinh thần như bơi hồi phục sức khoẻ, bơi thư giãn, trò chơi dưới nước, bơi tăng cường sức khoẻ, bơi giảm béo đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều nơi trên thế giới và đã trở thành một bộ phận cấu thành của môn Bơi lội hiện đại. Do loại hình bơi lội này không đòi hỏi kĩ thuật cao, tốc độ nhanh, đồng thời lại có hình thức hoạt động đơn giản, đa dạng, do vậy loại bơi này đã ngày càng được nhiều người yêu thích. Loại hình bơi lội đại chúng ngày càng
- được phát triển nhanh chóng, trở thành một bộ phận quan trọng của môn bơi lội hiện đại. Hiện nay bơi lội được phân loại theo biểu đồ sau. 2. Nguồn gốc của môn bơi lội Người ta biết rằng bơi lội đã ra đời cách đây hàng nghìn năm ở La Mã, Hy Lạp, Ai Cập, Trung Quốc. Trong xã hội nguyên thuỷ, con người sinh sống chủ yếu bằng nghề săn bắn, trong đó có săn các động vật ở dưới nước. Trong các di chỉ ở thời kì đồ đá, người ta đã phát hiện thấy các công cụ giống như các tên bắn cá, được khắc chạm trên các đồ đá có niên đại cách đây trên 5000 năm. Điều này nói lên loài người lúc đó sống ở các triền núi ven sông, dựa vào săn bắn động vật trên mặt đất và bắt cá ở dưới nước để mưu sinh. 2.1. Sự phát triển Bơi lội Olympic hiện đại Năm 1896 khi tiến hành Đại hội Olympic hiện đại lần thứ nhất ở Aten Hi Lạp, Bơi lội là một môn được đưa vào chương trình thi đấu chính thức. Khi đó, chỉ thi đấu 3 cự li bơi tự do: 100m, 500m, 1000m. Vận động viên Hungari là Ha-ốt đã giành danh hiệu vô địch cự li 100m tự do với thành
- tích 1’22”2. Sau đó cứ 4 năm một lần đại hội được tổ chức và sau mỗi lần đại hội một số cự li và kiểu bơi lại được đưa thêm vào chương trình thi đấu. Năm 1908, khi tổ chức Đại hội Olympic lần thứ IV tại Luân Đôn (Anh) đã thành lập Liên đoàn bơi lội nghiệp dư Quốc tế, thẩm định kỉ lục thế giới, các cự li bơi, đồng thời xây dựng Luật thi đấu bơi Quốc tế. Năm 1912, trong Đại hội Olympic lần thứ V tổ chức ở Thuỷ Điển, bơi lội nữ và bơi tiếp sức 4 x 100m tự do mới được đưa vào chương trình của Đại hội. Từ Đại hội Olympic lần thứ nhất đến lần thứ năm, các đội bơi Hungari, Anh, Mĩ, Đức, Úc lần lượt giành được vô địch. Olympic lần thứ VI phải hoãn lại do chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Từ Olympic lần thứ VII đến lần thứ IX đội Bơi Mĩ giành ưu thế. Olympic lần thứ X, XI vận động viên nam Nhật Bản chiếm ưu thế, vận động viên nữ của Mĩ, Hà Lan tương đối nổi bật. Đại chiến Thế giới lần thứ hai khiến cho Olympic bị gián đoạn hai đại hội. Olympic lần thứ XIV, Mĩ giành 8/11 chức vô địch bơi của đại hội. Đại hội Olympic lần thứ 15, Mĩ giành 4/6 danh hiệu vô địch bơi nam, Hungari giành 4/5 chức vô địch bơi nữ. Sau Olympic lần thứ 15, năm 1952 Liên đoàn bơi lội Quốc tế đã quyết định tách bơi bướm khỏi bơi ếch. Từ đó bơi thể thao đã phát triển thành 4 kiểu bơi. Olympic lần thứ XVI, đội bơi của Úc giành 8/13 danh hiệu vô địch ở môn bơi Từ năm 1970 trở đi, đội bơi của Cộng hoà Dân chủ Đức (cũ) đã vượt lên. Năm 1973 trong giải vô địch bơi thế giới lần thứ nhất và trong Đại hội Olympic lần thứ XXI, đội Cộng hoà Dân chủ Đức đều giành được 11 danh hiệu vô địch Bơi lội nữ. Đại hội Olympic Bơi lội năm 1980 ở Matxcơva (Liên Xô cũ) và năm 1984 ở Los Angeles (Mĩ), do sự bất đồng ở một số nước, hai đại hội này không có đủ các vận động viên xuất sắc tham gia nên hai đại hội này không phản ánh một cách toàn diện thành tích môn bơi. Năm 1988 tại Đại hội Olympic lần thứ 24 ở Seun (Hàn Quốc), đội bơi Cộng hoà Dân chủ Đức đã giành chức vô địch ở 10 cự li của nữ. Tính đến năm 2000 đã tổ chức được 27 Đại hội Olimpic, tổng số huy chương vàng môn bơi lội mà các nước đã giành được qua các Đại hội Olympic rất nhiều Trong hai mươi năm trở lại đây, số lượng vận động viên tham gia thi đấu bơi ngày một tăng lên, thiết bị dụng cụ, bể bơi cũng ngày một hiện đại hoá, trong tuyển chọn giảng dạy và huấn luyện vận động viên bơi đã sử dụng các khoa học kĩ thuật một cách rộng rãi. Vì vậy, trình độ kĩ thuật của vận động viên bơi thế giới, thành tích ở các cự li bơi đã nâng cao nhanh chóng,
- các kỉ lục bơi thế giới luôn được công phá. Thành tích bơi 100m tự do nam đã vượt ngưỡng 49 giây. Thời gian bốn năm mới tổ chức thi đấu bơi Olympic một lần đã không còn đáp ứng được nhu cầu phát triển môn bơi lội của thế giới. Để phát triển môn bơi lội của thế giới tốt hơn và thúc đẩy sự giao lưu về kĩ thuật. Liên đoàn Bơi Quốc tế còn quyết định 2 năm tổ chức một lần cúp Bơi thế giới. Cúp Bơi thế giới lần đầu tiên tổ chức tại Tôkyô (Nhật Bản), tháng 9/1979. Như vậy 2 năm đều có một lần thi đấu Bơi lội thế giới. 2.2. Lịch sử phát triển môn bơi lội ở Việt Nam Về lịch sử môn Bơi lội ở nước ta, cho thấy đến nay vẫn chưa có được các chứng cứ để khẳng định niên đại ra đời môn Bơi lội ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo các tư liệu cho thấy: phong trào bơi lội Việt Nam có bề dày lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước và xây dựng truyền thống thượng võ dân tộc. Năm 938 trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán, tướng giặc Hoàng Thao phải chết đuối. Tháng 3 năm Mậu tí (1288) cũng trên dòng sông lịch sử này. Trần Hưng Đạo phá tan quân Nguyên, Yết Kiêu dùng tài bơi lội bắt sống tướng giặc mang về. Thời Lê Lợi đánh quân Minh, danh tướng Trịnh Khả, Bùi Vị đã từng đội cỏ đánh đắm thuyền địch và biết bao những chiến công oanh liệt khác của ông cha ta trên những dòng sông lịch sử của đất nước anh hùng mà trong đó bơi lội đã góp một phần đáng kể. Đến năm 1928 khi khánh thành bể bơi Thủ Đức – Gia Định các võ quan Hải quân Pháp tiến hành thi đấu bơi, một số người Việt Nam quan sát học được cách bơi cận đại của người Pháp, đồng thời truyền bá cho những người yêu thích bơi lội ở Bắc, Trung và Nam. Với óc sáng tạo và tính cần cù trong tập luyện, trong thời gian từ năm1928 –1945 hầu hết các kĩ lục bơi của Đông Dương do người Pháp nắm giữ đã bị các vận động viên Việt Nam đoạt trở lại Trong những năm kháng chiến chống Pháp, bơi thể thao hầu như không được phát triển mà tập trung vào bơi thực dụng phục vụ sản xuất và chiến đấu. Năm 1958 Hội Bơi lội Việt Nam được thành lập. Đến năm 1962 hầu hết các kỉ lục Đông dương cũ đã bị phá. Năm 1966 (Đại hội Thể dục thể thao các nước mới trỗi dậy), đoàn Bơi lội Việt Nam đã giành được một huy chương vàng, ba huy chương bạc, ba huy chương đồng ở Đại hội tiểu GANEFO châu Á. Năm 1980, lần đầu tiên, đoàn bơi lội Việt Nam đi tham dự Đại hội Olympic lần thứ 22 tổ chức tại
- Maxcơva, đã đánh dấu thời kì hội nhập của bơi thể thao Việt Nam với phong trào bơi thể thao thế giới. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nghiệp xây dựng nền thể dục thể thao nhân dân, khoa học và tiên tiến, phong trào bơi lội quần chúng và thể thao nước ta có nhiều thành tựu mới. Hiện nay rất nhiều người lớn và trẻ em tham gia tập luyện bơi lội để rèn luyện sức khoẻ, nhiều bể bơi mới được xây dựng, nhiều trung tâm huấn luyện được thành lập. Do vậy, đến năm 2001, các kỉ lục Bơi quốc gia được nâng cao. Tấm huy chương vàng đầu tiên ở SEA games XXIII (2005) tổ chức ở Philipin đã đánh dấu sự khởi sắc của Bơi lội Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn chung thành tích của bơi lội Việt Nam còn khoảng cách khá xa so với khu vực. Bởi vậy, chúng ta cần phải phấn đấu rút ngắn được khoảng cách đó. Trong lịch sử phát triển môn Bơi lội ở Việt Nam cũng cần phải ghi nhận sự đóng góp của phong trào bơi lội ngành Giáo dục và Đào tạo. Trong suốt quá trình phát triển của môn bơi lội nước ta, bơi lội được phát triển rộng rãi trong học sinh sinh viên. Phong trào bơi lội trong học sinh, sinh viên chẳng những đã góp phần giáo dục con người phát triển toàn diện mà còn góp phần nâng cao thành tích thể thao thành tích cao Trong những đóng góp đó, phải kể đến thành tích Đội tuyển Bơi của Bộ Giáo dục và Đào tạo, một đơn vị đã nhiều lần giành được thứ hạng cao trong các giải bơi toàn quốc. Trong những năm gần đây, Bộ Giáo Dục và Đào tạo đã tổ chức thường xuyên các giải Bơi cho học sinh phổ thông và sinh viên Đại học. Các cuộc thi đấu đã tạo nên một hoạt động văn hoá lành mạnh, một phong trào rèn luyện bơi lội sôi nổi trong học sinh, sinh viên, góp phần nâng cao thể chất và chất lượng học tập trong nhà trường. 3. Ý nghĩa của hoạt động bơi lội 3.1. Ý nghĩa đối với việc tăng cường thể chất Khi bơi, cơ thể ở tư thế nằm ngang, dưới tác động của áp lực nước, máu lưu thông dễ dàng hơn. Thêm vào đó, khi bơi tần số mạch tăng cao sẽ làm cho lưu lượng máu tăng lên. Nếu tập bơi thường xuyên và lâu dài, thể tích tim to lên sẽ làm cho tim co bóp mạnh hơn, thành cơ tim dày lên, tính đàn hồi tốt hơn, tần số mạch yên tĩnh giảm chậm. Mạch yên tĩnh của vận động viên bơi thường chỉ ở 40-60 lần/phút. Trong khi đó người bình thường là 70-80 lần/phút. Tập luyện bơi còn làm tăng hồng cầu, từ đó làm tăng khả năng hấp thụ oxy cho cơ thể. Theo số liệu nghiên cứu, hàm lượng hồng cầu trong 100ml máu của nam vận động viên bơi có tới 14-16 gram (người bình thường là 12-15
- gram). Ở nữ vận động viên bơi là 13-15 gram (người bình thường là 11-14 gram). Kiên trì tập luyện bơi lội không những làm cho chức năng hệ thống thần kinh, hệ thống tuần hoàn và hệ hô hấp được cải thiện, mà còn có thể làm cho sức mạnh, tốc độ, sức bền, mềm dẻo, tính nhịp điệu của cơ thể được phát triển. Đặc biệt ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, các em đang ở đỉnh cao của tuổi phát dục, việc tập luyện bơi lội sẽ giúp cho các em phát triển tốt hơn về thể chất về tinh thần, tạo ra nền tảng sức khoẻ để học tập tốt văn hoá. Tập luyện bơi lội còn giúp các em phát triển ý chí, lòng dũng cảm, tinh thần vượt khó khăn, tinh thần đồng đội, ý thức tổ chức kỉ luật và những phẩm chất tâm lí khác. Bơi lội còn là một hoạt động thể dục thể thao có lợi cho những người câm điếc và khuyết tật khác. Đối với những người có cơ thể gầy yếu và những người mắc các bệnh mãn tính khác nhau, tập luyện bơi lội sẽ là một biện pháp chữa bệnh có hiệu quả. Bơi lội còn được xác định là một trong những hoạt động vui chơi giải trí được mọi người yêu thích nhất của thế kĩ XXI, nó sẽ tác dụng tích cực làm phong phú cuộc sống văn hoá tinh thần cho loài người. 3.2. Giá trị thực dụng của bơi lội Bơi lội là một hoạt động có giá trị thực dụng rất cao trong lao động sản xuất và xây dựng. Rất nhiều công việc tiến hành dưới nước như xây dựng các công trình dưới nước, phòng chống bão lũ, giao thông và đánh cá trên sông biển đều đòi hỏi phải nắm vững kĩ năng bơi lội mới có thể khắc phục được trở ngại của nước, nhằm hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ lao động sản xuất và xây dựng. Cũng cần chỉ ra rằng, nắm được kĩ thuật bơi và cứu đuối sẽ có ý nghĩa to lớn đối với việc tự cứu và cứu vớt những người bị đuối nước. Trong quốc phòng, bơi lội là một khoa mục huấn luyện quân sự cho bộ đội và dân quân tự vệ. Thường xuyên tập luyện bơi có thể rèn luyện ý chí, tăng cường tính tổ chức kỉ luật, bồi dưỡng tinh thần anh dũng ngoan cường và sức chịu đựng gian khổ, góp phần bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 3.3. Ý nghĩa thi đấu của bơi lội Bơi là một môn thể thao cơ bản, là một trong ba môn có nhiều bộ huy chương nhất các Đại hội Thể dục thể thao lớn ở khu vực, châu lục và thế giới. Với 34 Bộ huy chương, môn Bơi lội có số bộ huy chương chỉ đứng sau môn Điền kinh. Trong những năm gần đây, những cuộc thi đấu lớn ngày càng nhiều, ngoài Đại hội Olympic, còn có các cuộc thi đấu lớn như: Giải vô địch Bơi lội mùa hè, giải Vô địch Bơi lội thế giới mùa đông, Đại
- hội Thể dục thể thao các châu lục, Đại hội Thể dục thể thao khu vực, Đại hội Thể dục thể thao sinh viên, Đại hội Thể dục thể thao của mỗi quốc gia đã thu hút hàng chục vạn vận động viên ở mọi lứa tuổi tham gia. Những hoạt động thi đấu này chẳng những là động lực nâng cao thành tích thể thao mà còn là chiếc cầu hữu nghị nối liền giữa các dân tộc. Vì vậy phát triển mạnh mẽ môn Bơi lội, không ngừng nâng cao thành tích bơi có ý nghĩa góp phần nâng cao vị thế Thể dục thể thao, vị thế chính trị của nước ta trong khu vực, châu lục và thế giới. 3.4. Ý nghĩa của bơi lội đối với trẻ em 3.4.1. Vui chơi giải trí trong môi trường nước và bơi lội là yếu tố hấp dẫn và yêu thích của trẻ em Như chúng ta đã biết, nước chiếm 3/4 diện tích trái đất. Không có nước mọi sinh vật và con người không thể tồn tại được. Nước làm cho con người phong phú thêm lên nhờ các hoạt động thú vị trong đó. Nhưng nước cũng gây nhiều hiểm hoạ cho mạng sống của con người. Theo thống kê của Hội Cứu sinh quốc tế, năm 1980 trên thế giới có 4.600 người chết đuối. Mùa lũ năm 2001 ở nước ta có trên 200 người chết đuối, trong đó 90% là trẻ em ở đồng bằng sông Cửu long bị chết đuối. Đối với trẻ em mối quan hệ với nước khác người lớn. Do đặc điểm hiếu động, háo hức, mới lạ với những điều mới lạ, có 80% trẻ em ham thích vui chơi tắm mát, bơi lội trong nước. Đặc biệt là mùa hè nóng bức trẻ em rất thích vui chơi tắm mát ở trên sông nước, quên cả nguy hiểm và mệt mỏi. Theo kết quả nghiên cứu tâm lí trẻ em, hoạt động bơi lội đem lại nhiều cảm xúc. Môi trường nước và hoạt động bơi lội giúp cho quá trình phát triển sinh học của cơ thể trẻ em một cách thuận lợi, đồng thời cũng hình thành ở trẻ em những hưng phấn hoạt động như giao tiếp xã hội phù hợp với lứa tuổi. 3.4.2. Bơi lội là phương tiện rèn luyện sức khoẻ, phát triển thể chất và tâm lí tốt nhất cho trẻ em Môi trường nước kích thích mạnh mẽ tới hoạt động thần kinh. Vì không có điểm tựa cố định nên đòi hỏi phải điều chỉnh tâm lí và nỗ lực thể lực để đảm bảo nổi và chuyển động trong nước. Mặt khác, nước có tác dụng xoa bóp da, làm tăng hoạt động tuần hoàn, lưu thông máu. Nước hấp thụ nhiệt gấp 4 lần không khí, do đó làm tăng cường quá trình trao đổi chất của cơ thể. Vận động bơi lội hầu như huy động cao hệ cơ bắp của toàn thân, đặc biệt là hệ cơ bắp tham gia vào quá trình hô hấp. Nhờ các yếu tố trên mà trẻ em tập bơi lội thường xuyên có vóc dáng thon và cao, thể hình cân đối, có quá
- trình hưng phấn ức chế của hệ thần kinh thăng bằng và sự nỗ lực ý chí rất cao. Trẻ em biết bơi lội, người đời cho là có phúc vì: Nó tạo cho trẻ em niềm hạnh phúc và tự do sử dụng môi trường nước mà thiên nhiên ưu đãi cho con người. Biết bơi trẻ em như có thêm đôi mái chèo để thoát hiểm khi nước đe doạ, tự cứu mình và cứu bạn khi có sự cố dưới nước. Vì lợi ích trên mà nhiều nước trên thế giới rất quan tâm tổ chức cho trẻ em vui chơi và học tập bơi lội dưới nước ở tuổi nhỏ. Nhà nước đảm bảo phổ cập bơi lội như là công tác chăm sóc và bảo vệ tính mạng trẻ em. Công việc đó cũng được xem là nhiệm vụ của nhà nước, gia đình và toàn xã hội. 3.4.3. Bơi lội là một môn thể thao của tuổi trẻ Do tính đặc thù của nó, nên bơi lội được gọi là môn thể thao của tuổi trẻ, bởi lẽ cơ thể trẻ em có khả năng nổi trong nước nhiều hơn so với người lớn, thần kinh trẻ em linh hoạt, nỗ lực thể lực để thắng lực cản của nước phù hợp với năng lực thể chất của trẻ em, vận động viên trẻ thích nghi với lượng vận động thể lực nhanh. Vì lẽ đó trong danh sách kỉ lục thế giới, châu lục và quốc gia về bơi lội xuất hiện một số tên tuổi của vận động viên thiếu niên, chẳng hạn M.Coxeva (Nga) lập kỉ lục thế giới 200m ếch lúc cô 14 tuổi. Ở Việt Nam nhiều vận động viên trẻ như Võ Trần Trường An, Nguyễn Ngọc Anh, Lê Thị Lệ là vận động viên vô địch quốc gia. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam việc chăm lo đào tạo vận động viên trẻ để nền thể thao bơi lội phát triển vững chắc và bền vững là một điều rất cần thiết. NHIỆM VỤ Nhiệm vụ 1: Hoạt động toàn lớp. - Sinh viên nghe giáo viên phân tích, giảng giải kết hợp với đàm thoại. Câu hỏi phân tích và đàm thoại. 1. Tìm hiểu sơ lược về môn Bơi lội 2. Nguồn gốc ra đời của môn Bơi lội ở trên thế giới và ở Việt Nam. 3. Ý nghĩa của bơi lội đối với thiếu niên. Nhiệm vụ 2: Sinh viên tự nghiên cứu tài liệu - Sinh viên tự nghiên cứu tài liệu theo sự hướng dẫn của giáo viên. Nhiệm vụ 3: Thảo luận theo tổ, nhóm. Câu hỏi thảo luận.
- 1. Bơi lội được phân làm mấy loại? Vẽ sơ đồ. 2. Tìm hiểu thành tích của Bơi lội qua các Đại hội thể thao Đông Nam Á 3. Tại sao môn Bơi lội lại trở thành môn học bắt buộc đối với học sinh Tiểu học, trong qúa trình thảo luận sinh viên có thể nêu các câu hỏi yêu cầu giảng viên giải đáp Nhiệm vụ 4: Hoạt động toàn lớp. - Đại diện các nhóm báo cáo kết quả thảo luận và góp ý kiến. - Giáo viên nhận xét, đánh giá và rút ra kết luận. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG 1. Đánh dấu (x) vào các ô thích hợp phản ánh sự phân loại bơi lội. 1.1. Bơi lội được phân ra? a. Bơi thể thao b. Bơi thực dụng c. Bơi đặc chủng d. Bơi vũ trang đ. Bơi bán vũ trang. 1.2. Bơi thể thao được phân ra? a. Bơi ếch b. Bơi trườn c. Bơi ngửa d. Bơi bướm đ. Bơi hỗn hợp e. Bơi tiếp sức f. Bơi chân chạm đất h. Bơi mang vác 1.3. Hiện nay tổng số các cự li thi đấu được công nhận lỉ lục thế giới? a. 31 cự li b. 34 cự li c. 40 cự li 1. 4. Kỉ lục thi đấu được công nhận ở bể bơi có kích thước? a. 25m b. 50m c. 75m d. 100m 1.5. Bơi lội thực dụng gồm có các kiểu? a. Bơi nghiêng b. Lặn c. Bơi đứng d. Lội dưới nước 2. Phản ánh sự ra đời của Bơi lội thế giới và Việt Nam thông qua việc đánh dấu (x) vào các ô tương ứng sau. 2.1. Bơi lội xuất hiện đầu tiên ở? a. La Mã b. Hi Lạp c. Ai Cập