Giáo trình Chất gây nghiện và xã hội - Bùi Thị Xuân Mai

pdf 140 trang hapham 1530
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Chất gây nghiện và xã hội - Bùi Thị Xuân Mai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_chat_gay_nghien_va_xa_hoi_bui_thi_xuan_mai.pdf

Nội dung text: Giáo trình Chất gây nghiện và xã hội - Bùi Thị Xuân Mai

  1. Trường Đại học Lao động - Xã hội Chủ biên: TS. Bùi Thị Xuân Mai Giáo trình Chất gây nghiện và Xã hội
  2. Trường Đại học Lao động - Xã hội Chủ biên: TS. Bùi Thị Xuân Mai Giáo trình Chất gây nghiện và Xã hội
  3. GIÁO TRÌNH ĐƯỢC BIÊN SOẠN VỚI SỰ HỢP TÁC CỦA CÁC CƠ QUAN VÀ CÁC TÁC GIẢ SAU ĐÂY: Tổ chức FHI 360, Trung tâm Dự phòng và kiểm soát bệnh tật Hoa Kì CDC, Cục phòng chống Tệ Nạn Xã hội - Bộ LĐTBXH, Trường Đại học Lao động - Xã hội Nhóm tác giả tham gia biên soạn: TS. Bùi Thị Xuân Mai (Chủ biên) ThS. Đặng Thị Phương Lan ThS. Phạm Hồng Trang ThS. Lê Thị Thủy ThS. Chu Thị Huyền Yến TS. Stephen Jay Mills, giám đốc quốc gia, FHI 360 ThS. Simon Baldwin, cựu cố vấn kĩ thuật cao cấp, FHI 360 TS. Kevin Mulvey, cố vấn kĩ thuật về lạm dụng chất gây nghiện, SAMHSA TS. Nguyễn Tố Như, Phó giám đốc Can thiệp trong nhóm nghiện chích ma túy và dự phòng HIV, FHI 360 ThS. Vương Thị Hương Thu, nguyên Phó giám đốc Can thiệp trong nhóm nghiện chích ma túy và dự phòng HIV, FHI 360 Các thành viên nhóm can thiệp dự phòng HIV và ma túy – FHI 360: Nguyễn Ngọc Hà, Bùi Xuân Quỳnh, Nguyễn Ly Lai, Nguyễn Hoài Linh. “Giáo trình Chất gây nghiện và Xã hội” được thực hiện bởi Trường Đại học Lao động Xã hội với sự hỗ trợ kỹ thuật của FHI 360 trong khuôn khổ dự án “Nâng cao năng lực trong lĩnh vực tư vấn điều trị nghiện và dự phòng tái nghiện” do tổ chức CDC tài trợ giai đoạn 2009 – 2013. Nội dung tài liệu do Trường Đại học Lao động Xã hội hoàn toàn chịu trách nhiệm và không nhất thiết phản ánh quan điểm của FHI 360 hay tổ chức CDC. Việc tái bản bộ giáo trình lần này đã được sự đồng ý của Trường Đại học Lao động Xã hội, chủ biên và FHI 360 vì mục đích đào tạo nâng cao chuyên môn cho cán bộ làm công tác điều trị nghiện tự nguyện tại cộng đồng và phi lợi nhuận.
  4. LỜI MỞ ĐẦU Chất gây nghiện và sự lệ thuộc vào chất gây nghiện đã trở thành vấn đề cần giải quyết của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Một mâu thuẫn đang tồn tại đó là một mặt chất gây nghiện có thể đem lại lợi ích kinh tế cho các quốc gia như chè, thuốc lá, bia rượu; sự phát triển của y học cũng có được với sự tham gia của các hóa chất là chất gây nghiện. Mặt khác chất gây nghiện khi lạm dụng sẽ có thể khiến con người bị lệ thuộc vào chúng (hay còn gọi là nghiện) và từ đó mất kiểm soát nhận thức và hành vi gây tác động tiêu cực tới bản thân, gia đình và xã hội. Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu sử dụng các chất gây nghiện đó thế nào để đem lại lợi ích chung, nhưng cũng cần có những biện pháp can thiệp để ứng phó với những tác động tiêu cực của chất gây nghiện, trong đó có vấn đề nghiện ma túy. Ở Việt Nam, điều trị nghiện trong những năm qua đã có một bước phát triển đáng kể với sự có mặt đa dạng của các mô hình điều trị nghiện được áp dụng dựa trên các bằng chứng và thực hành hiệu quả trên thế giới. Tuy vậy vẫn còn một số lượng lớn những người có nhu cầu điều trị vẫn chưa được tiếp cận các dịch vụ y tế và dịch vụ hỗ trợ xã hội khác mà một trong những lí do đến từ sự kì thị và cách nhìn thiếu cảm thông từ cộng đồng và xã hội đối với người nghiện ma túy. Công tác xã hội ở nước ta hiện nay đã trở thành một nghề. Trong công tác trợ giúp điều trị nghiện, đặc biệt là nghiện ma túy rất cần có những can thiệp mang tính chuyên môn với sự trợ giúp của các nhân viên công tác xã hội thông qua chức năng tham vấn, giáo dục, biện hộ, kết nối nguồn lực giúp người nghiện ma túy và gia đình, cộng đồng được tăng cường kiến thức, năng lực, thay đổi suy nghĩ từ đó tiến tới thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Trước yêu cầu trên, việc đào tạo đội ngũ cán bộ công tác xã hội giỏi về chuyên môn, vững về kiến thức, có tâm huyết với nghề để làm việc với người nghiện là rất cần thiết. Giáo trình Chất gây nghiện và xã hội do nhóm tác giả trường Đại học Lao động - Xã hội, Cục phòng chống tệ nạn xã hội và các chuyên gia FHI 360 biên soạn nhằm phục vụ cho việc giảng dạy, đào tạo cán bộ công tác xã hội ở các trường đào tạo công tác xã hội. Chịu trách nhiệm chính trong biên tập chương I: ThS. Đặng Thị Phương Lan; Chương II: TS. Bùi Thị Xuân Mai; Chương III: ThS. Đặng Thị Phương Lan; Chương IV: TS. Bùi Thị Xuân Mai, ThS. Đặng Thị Phương Lan; Chương V: ThS. Phạm Hồng Trang, TS. Bùi Thị Xuân Mai. Chúng tôi xin chân thành cám ơn sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia, đồng nghiệp từ các tổ chức, các trường đại học trong và ngoài nước, đặc biệt là các chuyên gia của tổ chức FHI 360, tổ chức CDC, Cục PCTNXH - Bộ LĐTB và XH như TS. Nguyễn Tố Như, ThS. Hoàng Nam Thái, bà Đỗ Thị Ninh Xuân, ông Lê Văn Khánh Giáo trình được biên soạn lần đầu, rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và các độc giả để giáo trình ngày một hoàn thiện hơn. T.M. nhóm biên soạn TS. Bùi Thị Xuân Mai
  5. MỤC LỤC CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT GÂY NGHIỆN 9 I. Định nghĩa chất gây nghiện 11 II. Phân loại chất gây nghiện 12 1. Mức độ hợp pháp 13 2. Sử dụng trong y tế 13 3. Phân loại theo nguồn gốc 13 4. Phân loại theo tác dụng chủ yếu của chất gây nghiện với hệ thần kinh trung ương 14 III. Lịch sử chất gây nghiện 15 IV. Tình hình sử dụng chất gây nghiện trên thế giới và Việt Nam 16 V. Một số chât gây nghiện phổ biến ở Việt Nam – Tác động và hệ quả 21 1. Một số chất gây nghiện không thuộc danh mục cấm sử dụng ở Việt Nam 21 2. Heroin 23 3. Thuốc lắc - Ecstasy 26 4. Methamphetamine 29 5. Cần sa 32 VI. Tác động và hậu quả của việc sử dụng chất gây nghiện 34 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1 38 CHƯƠNG 2: CÁC LÝ THUYẾT VỀ NGHIỆN MA TÚY 39 I. Thuyết sinh học 41 II. Các thuyết Tâm lý học 42 1. Thuyết phân tâm 43 2. Thuyết nhận thức xã hội 46 3. Thuyết hành vi - Học tập xã hội 48 4. Thuyết hệ thống 51 5. Thuyết các yếu tố xã hội 52 III. Các học thuyết xã hội học 53 1. Mô hình các yếu tố ảnh hướng đến việc sử dụng chất gây nghiện 53 2. Một số tiếp cận xã hội học về nghiện ma túy 55 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 2 59 CHƯƠNG 3: NGHIỆN MA TÚY 61 I. Khái niệm nghiện 63 II. Nguyên nhân và hình thái sử dụng chất gây nghiện 63 1. Nguyên nhân sử dụng chất gây nghiện 63 2. Các hình thái sử dụng chất gây nghiện 64
  6. 3. Mô hình tương tác của sử dụng chất gây nghiện 66 4. Cơ chế gây nghiện – Cơ sở sinh học của nghiện 67 III. Chẩn đoán lệ thuộc chất gây nghiện 72 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 3 74 CHƯƠNG 4: MỐI QUAN HỆ GIỮA MA TÚY VÀ HIV, KỲ THỊ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VỚI 75 NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY I. Mối quan hệ giữa ma tuý và HIV 77 1. Khái niệm HIV/AIDS 77 2. Con đường lây truyền HIV/AIDS 78 3. Ảnh hưởng của việc sử dụng chất gây nghiện và HIV/AIDS 80 II. Kỳ thị và phân biệt đối xử với người sử dụng ma túy 82 1. Khái quát chung về kỳ thị 82 2. Tại sao người sử dụng ma túy bị kỳ thị? 90 3. Ứng phó với sự kỳ thị 91 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 4 95 CHƯƠNG 5: CHÍNH SÁCH VÀ CÁC CAN THIỆP VỚI VẤN ĐỀ SỬ DỤNG CHẤT GÂY 97 NGHIỆN I. Giới thiệu các tiếp cận về chất gây nghiện 99 1. Hướng tiếp cận truyền thống 99 2. Hướng tiếp cận mới 102 3. Các cấu phần trong mô hình hệ thống dịch vụ toàn diện 106 II. Đáp ứng của Việt Nam với vấn đề ma túy 114 III. Vai trò của các đối tác trong trợ giúp người nghiện trong trị liệu 119 1. Vai trò của Nhà nước 119 2. Vai trò của cộng đồng, các tổ chức, đoàn thể 121 3. Vai trò của gia đình 122 4. Vai trò của nhân viên công tác xã hội 123 CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 5 125 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 127 PHỤ LỤC 131
  7. CHƯƠNG 1 Tổng quan về chất gây nghiện
  8. 10 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 11
  9. I. Định nghĩa chất gây nghiện Không có một định nghĩa chính xác và hoàn chỉnh nào về chất gây nghiện. Luật phòng chống ma túy, các văn bản pháp quy của nhà nước, ngành y tế và trong quan niệm thường ngày của người dân đều đưa ra các định nghĩa/khái niệm khác nhau về chất gây nghiện. Tuy nhiên, chất gây nghiện (CGN) được tiếp cận từ các khía cạnh khác nhau, đưa ra những khái niệm như sau: Trong y tế, chất gây nghiện là một hóa chất được sử dụng trong điều trị, chữa bệnh, ngăn ngừa, hoặc được sử dụng để nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần. Chất gây nghiện có thể được kê vào đơn thuốc để người bệnh dùng trong một thời gian nhất định, hoặc để dùng thường xuyên cho những bệnh nhân mắc rối loạn kinh niên. Ví dụ: thuốc an thần kinh trong điều trị rối loạn lo âu, mất ngủ kéo dài, thuốc giảm đau, như morphin trong điều trị đau do ung thư. Trong sinh học cũng thường thấy nhiều chất hóa nội sinh có cùng công thức hóa học như chất gây nghiện. Cùng chất hóa học đó, nếu được tổng hợp trong cơ thể sẽ được gọi là chất hóa nội sinh, song nếu được đưa từ ngoài vào cơ thể sẽ được gọi là chất gây nghiện. Một số chất gây nghiên được con người sử dụng với mục đích tiêu khiển. Những chất hóa học này tác động tới hệ thần kinh trung ương, và người ta sử dụng những chất này khi thấy chúng có lợi cho nhận thức, hành vi hay nhân cách của họ. Theo Tổ chức Y Tế Thế Giới, chất gây nghiện là “chất hóa học sau khi được hấp thu sẽ làm thay đổi chức năng thực thể và tâm lý của người sử dụng”.’ Chất gây nghiện ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao hàm cả chất gây nghiện được sử dụng hợp pháp như thuốc gây nghiện trong điều trị, như rượu bia, thuốc lá, trà, cà phê, và bao gồm cả chất gây nghiện bất hợp pháp hay còn gọi là ma túy. Chất gây nghiện khi được hấp thu vào cơ thể ở một liều lượng đủ lớn sẽ làm thay đổi chức năng của cơ thể, làm thay đổi hành vi, ảnh hưởng trực tiếp tới tâm trạng và nhận thức, suy nghĩ. Tâm trạng: Chất gây nghiện làm thay đổi trạng thái tâm lí tình cảm của người sử dụng. Ví dụ, họ cảm thấy hạnh phúc mãn nguyện về bản thân hơn. Họ có thể cảm thấy là mình đã trở thành một con người khác. Nhận thức (hay suy nghĩ): Người sử dụng chất gây nghiện có thể nhận thức về xung quanh khác đi. Yếu tố này liên quan đến cách chúng ta phân tích thông tin và áp dụng kiến thức. Thay đổi về nhận thức gây ảnh hưởng đến trí nhớ, kĩ năng tổ chức và lập kế hoạch, khả năng tư duy trừu tượng và khả năng ra quyết định. Tất cả những yếu tố này đều ảnh hưởng đến suy nghĩ 10 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 11
  10. của người sử dụng. Ví dụ, khi không phê (không bị ảnh hưởng bởi chất gây nghiện) thì người đó ý thức được về nguy cơ, hiểu được dùng chung bơm kim tiêm là rất nguy hiểm, khiến họ có nguy cơ nhiễm bệnh. Tuy nhiên, khi phê người ta có thể nhìn nhận sự việc khác đi, không ý thức được việc dùng chung bơm kim tiêm là một hành vi nguy cơ hoặc bất chấp nguy cơ đó. Người sử dụng chất gây nghiện thường sử dụng nhiều loại chất gây nghiện một lúc. Một người lạm dụng rượu và heroin đồng thời càng không ý thức được yếu tố nguy cơ trong việc dùng chung bơm kim tiêm. Hành vi: Một người đang chịu tác động bởi chất gây nghiện sẽ có những sự khác biệt trong thể hiện hành động dễ nhận thấy. Tùy từng loại chất gây nghiện khác nhau mà hình thức biểu hiện bề ngoài của người sử dụng có thể thay đổi khác nhau. Ví dụ như đi đứng không vững, hoặc nói líu lưỡi khi uống nhiều rượu bia hoặc có hành vi bạo lực, một đặc điểm trước đây người đó không hề có. Theo Luật phòng, chống ma túy 23/2000/QH: Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng. Ma túy theo gốc Hán Việt có nghĩa là “Làm mê mẩn”, trước đây thường để chỉ các chất có nguồn gốc từ cây thuốc phiện, giúp người sử dụng giảm đau, an thần. Ngày nay, dùng để chỉ tất cả các hợp chất tự nhiên và tổng hợp có khả năng gây nghiện. Như vậy, việc sử dụng một trong hai thuật ngữ chất gây nghiện và ma túy phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể. Trong khuôn khổ giáo trình này, chúng tôi thống nhất sử dụng thuật ngữ chất gây nghiện để chỉ các chất gây nghiện nói chung kể cả chất được sử dụng bất hợp pháp và hợp pháp. Để thống nhất với văn bản quản lý của Chính Phủ Việt Nam trong công tác phòng chống ma túy, chúng tôi xin sử dụng thuật ngữ ma túy trong tài liệu này chủ yếu liên quan tới các chất gây nghiện như: thuốc phiện, heroin, methamphetamine, ecstacy, cần sa, ketamine II. Phân loại chất gây nghiện Chất gây nghiện được sử dụng theo các mục đích khác nhau, tùy theo mỗi con người cụ thể sử dụng nó hoặc do văn hóa khác nhau, do hệ thống pháp luật ở mỗi quốc gia khác nhau cũng dẫn đến những khác biệt về cách nhìn nhận về chất gây nghiện và người sử dụng những loại chất này. Mặt khác, mỗi chất gây nghiện khác nhau tác động lên hệ thần kinh trung ương làm thay đổi trạng thái thực thể và tâm lý của người sử dụng một cách khác nhau. Vì vậy, tùy theo mục đích sử dụng thông tin, ta có thể phân loại chất gây nghiện theo nhóm tác động lên hệ thần kinh hoặc phân theo mục đích sử dụng trong điều trị, theo tính hợp pháp 12 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 13
  11. Dù có thể phân loại chất gây nghiện theo nhiều cách khác nhau, nhưng trong bối cảnh sử dụng chất gây nghiện luôn luôn thay đổi theo thời gian, một cách phân loại có thể đúng cho quá khứ, hiện tại, không chắc chắn đúng cho tương lai. Vậy, chất gây nghiện đặt trong mối tương tác phức tạp với xã hội, trong bối cảnh lịch sử và văn hóa khác nhau, không có một cách phân loại hoàn hảo cho mọi trường hợp. Nhiều cách phân loại chất gây nghiện khác nhau được đưa ra dựa trên mục đích của việc phân loại chất gây nghiện. Một số cách phân loại chất gây nghiện được liệt kê dưới đây: 1. Mức độ hợp pháp Theo cách phân loại này, chất gây nghiện được chia làm 2 loại là chất gây nghiện được sử dụng một cách hợp pháp và chất gây nghiện được sử dụng bất hợp pháp (hay còn gọi là ma túy). Chất gây nghiện được sử dụng bất hợp pháp là những chất gây nghiện đã bị cấm được quy định trong các danh mục do các nước qui định thông qua những công ước quốc tế. Theo luật pháp Việt Nam, các loại chất gây nghiện được sử dụng bất hợp pháp có thể kể đến là heroin, thuốc phiện, cần sa, thuốc lắc, các loại chất gây nghiện kích thích dạng Amphetamins (ATS) 2. Sử dụng trong y tế Theo cách phân loại này, chất gây nghiện được phân ra làm 2 loại là thuốc gây nghiện hoặc không phải là thuốc. Chất gây nghiện được sử dụng trong y tế với mục đích để chữa bệnh, phòng bệnh, hoặc dùng để cải thiện chức năng thực thể hoặc tâm thần của bệnh nhân (còn được gọi là thuốc gây nghiện). 3. Phân loại theo nguồn gốc Theo cách phân loại này, chất gây nghiện được phân thành 3 loại là chất gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên, bán tổng hợp và tổng hợp. a. Chất gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên: Thuốc phiện, cần sa, nấm thần b. Chất gây nghiện bán tổng hợp: Heroin (được tổng hợp từ dẫn chất thuốc phiện) hay Buprenorphine c. Chất gây nghiện tổng hợp hoàn toàn: Methamphetamine 12 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 13
  12. 4. Phân loại theo tác dụng chủ yếu của chất gây nghiện với hệ thần kinh trung ương Theo cách phân loại này, chất gây nghiện được phân thành 3 loại chính là a. Nhóm an thần, ức chế hệ thần kinh trung ương. Tác động chủ yếu khi sử dụng là buồn ngủ, an thần, yên dịu, giảm nhịp tim, giảm hô hấp b. Nhóm kích thích, kích thích hệ thần kinh trung ương: làm tăng sinh lực, phấn khích, nói nhiều hơn, tăng hoạt động của cơ thể, tăng nhịp tim, hô hấp. c. Nhóm gây ảo giác: làm thay đổi nhận thức đến mức độ có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm giác thấy những sự việc không có thật (ảo thính, ảo thị). Nó làm thay đổi cảm nhận của người sử dụng về hiện tại, về môi trường xung quanh họ. Bảng 1: Bảng phân loại chất gây nghiện theo tác động chủ yếu lên hệ thần kinh trung ương An thần Kích thích Ảo giác Rượu Các chất nhóm Amphetamine LSD, nấm thần, hạt một loại rau họ rau muống Các thuốc nhóm Benzodiazepine Nicotine Mescaline, MDMA, DOB, DOM/STP Các chất dạng thuốc phiện Cocaine PCP, Ketamine Dung môi Caffeine Cần sa liều cao Thuốc ngủ nhóm Barbituric Khat N2O, amyl hoặc butyl nitrite Cần sa Không có cách phân loại nào là hoàn chỉnh. Ví dụ thuốc gây nghiện được kê đơn và sử dụng đúng theo chỉ dẫn của bác sĩ thì là hợp pháp, nhưng nếu sử dụng đúng thuốc gây nghiện đó nhưng không được bác sĩ kê đơn, không theo đúng liều lượng thì lại là lạm dụng thuốc hoặc sử dụng thuốc bất hợp pháp. Cần sa được sử dụng bất hợp pháp ở Việt Nam nhưng lại là hợp pháp ở Hà Lan. Hay một số các chất gây nghiện có nhiều loại tác động lên hệ thần kinh trung ương nên rất khó liệt kê chính xác nó vào nhóm nào hoàn toàn. Ví dụ sử dụng cần sa liều thấp có tác dụng an thần, yên dịu nhưng sử dung liều cao lại có tác dụng gây ảo giác; hay thuốc lắc (ecstasy hay MDMA) có cả tác dụng kích thích và gây ảo giác. Vì vậy việc phân loại chất gây nghiện chỉ là tương đối. 14 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 15
  13. III. Lịch sử chất gây nghiện Chất gây nghiện đã có lịch sử từ rất lâu đời, từ 5000 năm trước Công nguyên người Sumer cổ đại đã miêu tả việc dùng cây anh túc để chữa bệnh được khắc trên đá. 4000 năm trước công nguyên, người ta biết đến cây Thuốc Phiện (ả phù dung, anh tử túc, á phiện) hay cây Thẩu (Papaver Somniferum), họ cho rằng Châu Á là quê hương đầu tiên của cây thuốc phiện, còn I Ran, Thổ Nhĩ Kỳ là những quốc gia đầu tiên trồng cây thuốc phiện, sau đó cây thuốc phiện được đưa vào trồng ở Ấn Độ, Apganíxtan, Miến Điện, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam nhưng mãi đến thế kỷ 17, người Châu Âu mới biết được tác dụng trị bệnh của thuốc phiện (giảm đau, giảm ho, cầm tiêu chảy ). Vào năm 1805, Một dược sỹ người Pháp Serterner đã chiết xuất được một chất màu trắng (Mooc phin) từ thuốc phiện. Đối với cây cần sa thì quê hương ở một số quốc gia thuộc miền Tây Á và Đông Nam Á (Miền Tây Trung quốc, Ấn Độ, Pakixtan, Campuchia, Lào, ). Người ta biết đến cây cần sa từ 6000 năm trước đây, nó được dùng để làm thuốc hút, hít, nhai, lúc đầu chủ yếu là người Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á sử dụng, sau đó cần sa được phổ biến ở các nước Ả Rập rồi lan sang các nước châu Âu, châu Mỹ. Cocain là hợp chất của lá cây coca, quê hương của coca là dãy núi Andet ở Nam Mỹ, sau đó được trồng rộng rãi ở các nước Nam Mỹ và Trung Mỹ. Ngày nay coca được sản xuất tại nhiều quốc gia trên thế giới. Năm 1855 lần đầu tiên dược sỹ Gedecke đã chiết xuất được cocain từ lá coca. Năm 1880, Anrep xác định Cocain là hợp chất thiên nhiên đầu tiên phát hiện được tác dụng gây tê tại chỗ, có khả năng làm giảm hoặc làm liệt các đoạn cuối của các dây thần kinh cảm giác và ức chế sự dẫn truyền qua các sợi thần kinh, nó còn có tác động rõ rệt lên hệ thần kinh trung ương. Ngoài một số chất gây nghiện kể trên, lịch sử sản xuất rượu cũng ghi chép bằng giấy cói Ai cập cách đây 3500 năm trước công nguyên. Như vậy, lịch sử chất gây nghiện đã có nguồn gốc từ rất lâu. Ngày nay, ngoài chất gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên con người còn sử dụng nhiều loại chất ma túy tổng hợp. Hầu hết các quốc gia đều sử dụng như một phần cuộc sống. Như vậy, chất gây nghiện có những tác động tích cực lẫn tiêu cực. Cũng là một chất gây nghiện nhưng nếu sử dụng có kiểm soát, có mục đích thì có tác dụng tốt đối với con người, nhưng nếu lạm dụng thì nó sẽ chuyển qua ranh giới tiêu cực. Mỗi quốc gia có quy định về nghiêm cấm sử dụng chất gây nghiện khác nhau. Mặt khác, với một quốc gia thì từng giai đoạn cụ thể cũng có những quy định về chất gây nghiện có thể được sử dụng hợp pháp hay là bất hợp pháp, điều đó tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa xã hội ngay thời điểm đó. Ví dụ như Heroin lần đầu được giới thiệu và biết đến là thuốc chữa bệnh ho, do hãng dược Bayer sản xuất ở Mỹ vào những năm 1920. 14 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 15
  14. Ở cấp quốc gia, khu vực và thế giới đã hình thành luật pháp, nghị định, hiệp ước, trong đó phải kể đến các hiệp định của Liên Hợp Quốc qui định chính sách quản lí chất gây nghiện, yêu cầu các chính phủ xây dựng các chính sách nhằm kiểm soát vấn đề buôn bán và sử dụng chất gây nghiện: Hiệp định đơn phương về chất gây nghiện, 1961; Hiệp định về các chất hướng thần, 1971; Hiệp định chống buôn bán bất hợp pháp các chất dạng thuốc phiện và các chất hướng thần, 1988, với mục tiêu gạt bỏ chất gây nghiện được sử dụng bất hợp pháp ra khỏi xã hội, nhưng hiệu quả không đạt được như mong muốn. Tình hình sử dụng và nghiện ma túy ngày càng diễn biến phức tạp bất chấp các nỗ lực kiểm soát ma túy. Vậy có thể chúng ta nhìn nhận với góc độ là chấp nhận sự tồn tại của việc sử dụng chất gây nghiện trong xã hội và mục tiêu lớn nhất cần hướng đến là kiểm soát nó trong giới hạn của tác động tích cực làm giảm đến mức tối đa những tác động không mong muốn do chất gây nghiện gây ra. IV. Tình hình sử dụng chất gây nghiện trên thế giới và Việt Nam Tình hình sử dụng chất gây nghiện trên thế giới và khu vực vẫn diễn biến phức tạp đối với cả chất gây nghiện được sử dụng hợp pháp và bất hợp pháp. Với chất gây nghiện được phép sử dụng hợp pháp, giáo trình xin lựa chọn phân tích đại diện tình hình sử dụng rượu và thuốc lá, là hai trong số các chất gây nghiện được quan tâm, thảo luận và nghiên cứu nhiều nhất bởi tác động của chúng tới cộng đồng. Tình hình sử dụng rượu Việc sử dụng rượu ngày càng tăng ở nhiều khu vực trên thế giới đang tạo ra mối quan tâm sâu sắc đến những hậu quả đối với sức khoẻ của cộng đồng. Sử dụng rượu bia với mức độ hợp lý có thể đem lại cho con người cảm giác hưng phấn, khoan khoái, lưu thông khí huyết Song rượu là chất an thần, gây nghiện, do vậy người sử dụng rất dễ bị lệ thuộc với mức độ dung nạp ngày càng nhiều dẫn đến tình trạng lạm dụng rượu bia. Lạm dụng rượu bia gây ra những tổn thất nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, và đặc biệt là đối với sức khỏe của người sử dụng. Theo báo cáo của Tổ chức Y Tế Thế Giới năm 2011, dưới tác hại của việc lạm dụng rượu, hàng năm có 2,5 triệu người chết vì rượu, trong đó có đến 1/3 số người là giới trẻ tử vong xuất phát từ những nguyên nhân liên quan đến rượu. 16 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 17
  15. Rượu là yếu tố thứ ba trên thế giới, hàng đầu ở Tây Thái Bình Dương - châu Mỹ và lớn thứ hai ở châu Âu dẫn đến các vấn đề về bệnh tật. Rượu có liên quan đến nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng bao gồm cả bạo lực và lạm dụng trẻ em. Gánh nặng kinh tế, xã hội và sức khỏe do lạm dụng rượu bia trên toàn cầu đã đạt mức báo động trong những năm gần đây. Báo cáo Y tế thế giới năm 2002 ước tính rượu bia gây ra 4% gánh nặng bệnh tật (tước đi 58,3 triệu số năm sống hiệu chỉnh do tàn tật- DALYs) và 3,2% tổng số tử vong toàn cầu, là nguyên nhân gây ra hơn 60 loại bệnh. Thiệt hại về kinh tế do sử dụng rượu bia có hại chiếm từ 2 - 6% GDP của các nước (WHO 2004), chưa kể đến những tổn thất không thể ước tính được về các mặt xã hội khác. Tháng 5/2005, trong Nghị quyết số 58-26, Đại hội đồng Tổ chức Y tế thế giới đã nêu bật các hậu quả đối với sức khỏe cộng đồng do lạm dụng rượu bia gây ra cùng sự cần thiết phải xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược toàn cầu về phòng chống tác hại của lạm dụng rượu bia. Ở Việt Nam, theo con số thống kê của chuyên ngành tâm thần, hiện có 4% dân số nghiện rượu bia, trong đó tỷ lệ người nghiện rượu ở vùng đô thị gần 5%, vùng núi gần 3% và các vùng nông thôn gần 1%. Tình trạng lạm dụng rượu bia đáng báo động ở nước ta càng được chỉ rõ qua kết quả nghiên cứu “Đánh giá tình hình lạm dụng rượu bia tại Việt Nam” của Viện Chiến lược và chính sách y tế - Bộ Y tế công bố năm 2012: Bình quân một người đàn ông Việt Nam uống 15,8 lít bia, 3,9 lít rượu một năm. So với quy định về lạm dụng rượu, bia của Tổ chức Y tế Thế giới thì tỷ lệ người Việt Nam đang lạm dụng rượu là 18%, bia là 5%. Con số lạm dụng rượu bia lớn dẫn tới gánh nặng điều trị tại các cơ sở y tế đang ngày càng tăng lên. Lạm dụng rượu bia gây ra các hệ quả lâu dài về sức khỏe, tinh thần và các vấn đề xã hội khác. Các vấn đề này có thể ở nhiều mức độ khác nhau như bệnh lí gây ra cho cá nhân sử dụng: đau dạ dày, viêm nhiễm thường xuyên, tổn thương gan, rối loạn tim mạch, tổn thương cơ quan sinh sản, tổn thương não bộ: sa sút trí nhớ, lú lẫn, trầm cảm. Trước đây, nghiện rượu bia chỉ đơn thuần được xem là say xỉn, việc trị liệu vì thế chưa được quan tâm đúng mực. Chỉ gần đây, tình trạng nghiện rượu mới được thừa nhận là một vấn đề xã hội kèm theo nhiều hệ quả lớn về y tế công cộng (tai nạn giao thông và bạo lực do uống, lạm dụng bia rượu gia tăng) và trị liệu tâm thần. Tình hình sử dụng thuốc lá Theo báo cáo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ngày 31/5/2012, hút thuốc là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong. Hút thuốc gây tử vong cho gần 6 triệu người mỗi năm. Uớc tính số tử vong do thuốc lá sẽ tăng lên thành hơn 8 triệu ca vào năm 2030 và khoảng 2,5 triệu ca trong số này sẽ là nữ giới. Nguy cơ sức khỏe của phụ nữ bị ảnh hưởng chủ yếu là do họ hít phải (phơi nhiễm) khói thuốc của người khác, thường là nam 16 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 17
  16. giới. Sự phơi nhiễm với khói thuốc này gọi là “hút thuốc thụ động”. Tính trên toàn cầu, trong số khoảng 600.000 ca tử vong hàng năm do hút thuốc thụ động, khoảng 64% là nữ giới. Khoảng 3/4 số ca tử vong ở nữ giới sẽ xảy ra ở những nước có thu nhập thấp và trung bình, những quốc gia ít có khả năng và nguồn lực để đối phó với tình trạng này. WHO cũng chỉ ra rằng, các công ty thuốc lá đang hướng tới phụ nữ là đối tượng quan trọng nhất trong việc tiêu thụ thuốc lá. Sở dĩ như vậy vì trong khi tỷ lệ nam giới hút thuốc tại nhiều quốc gia đang giảm theo tốc độ chậm thì tỷ lệ nữ giới hút thuốc lại đang gia tăng. Ngành công nghiệp thuốc lá thường làm phụ nữ hiểu sai rằng hút thuốc lá là biểu hiện của tự do và cũng có nhiều phụ nữ tin rằng hút thuốc là một biện pháp giảm cân, giữ dáng. Tuy nhiên, trong thực tế, phụ nữ hút thuốc lá thường có nguy cơ bị vô sinh hoặc khó mang thai hơn những người không hút thuốc. Phụ nữ hút thuốc lá trong thời gian mang thai cũng làm tăng nguy cơ sinh non, thai chết lưu, tử vong ở trẻ sơ sinh và có thể giảm lượng sữa tiết ra. Tại Việt Nam, theo Dự án Luật phòng chống tác hại thuốc lá dưới góc độ giới của Ủy ban thường vụ Quốc hội 9/2011: Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ hút thuốc lá cao trên thế giới (56,1% ở nam giới và 1,8% ở nữ giới), 2/3 số phụ nữ và 1/2 số trẻ em bị ảnh hưởng thụ động của khói thuốc lá. Theo ước tính của Bộ Y tế, ở Việt Nam hàng năm có khoảng 40.000 ca tử vong vì các bệnh liên quan đến thuốc lá, gần gấp 4 lần số ca tử vong vì tai nạn giao thông đường bộ. Khói thuốc lá chứa hơn 4.000 chất hóa học, trong đó có 43 chất gây ung thư, gây ra 25 căn bệnh nguy hiểm khác nhau như ung thư phổi, bệnh tim mạch, phổi tắc nghẽn, vô sinh Tỷ lệ hút thuốc trong thanh thiếu niên đang có xu hướng ngày càng tăng, độ tuổi hút cũng sớm hơn. Trong thanh niên nam giới từ 15 tuổi trở lên, tỷ lệ hút thuốc lá là 47,4%. Như vậy, so với năm 2006, dù thực hiện nhiều chính sách, quy định, tuyên truyền để giảm tỷ lệ hút thuốc, nhưng thực tế, trong nhóm này, tỷ lệ hút thuốc chỉ giảm được 1,8% so với cách đây 4 năm. Theo kết quả điều tra toàn quốc về sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành tại Việt Nam năm 2010 do Bộ Y tế tiến hành cho thấy, việc thực hiện các quy định cấm hút thuốc lá tại các nơi công cộng, trong nhà vẫn chưa được triệt để, người dân vẫn phớt lờ quy định này. Theo đó, tỷ lệ hút thuốc lá thụ động cao nhất tại các trường đại học gần 55%, sau đó là các điểm giao thông công cộng (34%), cơ quan chính phủ, cơ sở y tế và trường học. Đặc biệt, 70% những người không hút thuốc phơi nhiễm với khói thuốc lá tại nhà. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy, cảnh báo trên bao thuốc lá hiện nay chưa đủ mạnh. Những người không biết đọc, trình độ dân trí thấp không thể hiểu các cảnh báo sức khỏe bằng lời. Phần lớn những người hút thuốc có chú ý đến cảnh báo sức khỏe trên vỏ bao thuốc lá và có ý định bỏ thuốc. Tuy nhiên, khi được hỏi thì chỉ có gần 10% người có ý định bỏ thuốc trong tháng tới và trong 12 tháng tới là gần 20%. Thêm vào đó, nhiều người vẫn còn thiếu hiểu biết về những tác 18 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 19
  17. hại của thuốc lá. Dù hút thuốc trực tiếp hay thụ động cũng là nguyên nhân của nhiều căn bệnh như: ung thư phổi, bệnh tim mạch, hô hấp Sử dụng thuốc lá còn gây ra những tổn thất lớn về kinh tế. Số tiền một người tiêu tốn cho thuốc lá tương ứng với 1/3 số tiền dành cho lương thực, bằng 1,5 lần mức chi cho y tế và gần bằng mức chi cho giáo dục theo bình quân đầu người. Tình hình sử dụng ma túy Tình hình sử dụng ma túy vẫn diễn biến phức tạp bất chấp các nỗ lực kiểm soát ma túy. Theo Báo cáo về tình hình ma túy thế giới năm 2012 của Chương trình kiểm soát tội phạm và ma túy của Liên hiệp quốc (UNODC), ước tính năm 2010 trên toàn cầu có 230 triệu người sử dụng ma túy, trong đó 27 triệu người có vấn đề nghiêm trọng do sử dụng ma túy; 200.000 người tử vong hàng năm do sử dụng heroin, cocain và các loại ma túy khác. Trong số người tiêm chích ma túy, khoảng 20% nhiễm HIV, 46,7% mắc viêm gan C và 14,6% mắc viêm gan B, tạo thêm gánh nặng về bệnh tật cho toàn cầu; khoảng 1/100 ca tử vong ở người lớn là do sử dụng ma túy bất hợp pháp. Trong khu vực, tình trạng tái trồng cây thuốc phiện và sản xuất bất hợp pháp các chất ma túy tổng hợp, đặc biệt là methamphetamine đang gia tăng đe dọa nghiêm trọng trật tự an toàn xã hội và sức khỏe cộng đồng ở khu vực Đông và Đông Nam Á hiện nay. Với diện tích gieo trồng 43.600 ha năm 2011, Myanmar tiếp tục là nước có diện tích trồng thuốc phiện lớn nhất ở Đông Nam Á và đứng thứ hai thế giới sau Afghanistan. Buôn bán methamphetamine dạng viên được sản xuất tại Myanmar và phần lớn trong số đó được vận chuyển sang thị trường các nước thuộc tiểu vùng sông Mekong, hiện đã tăng lên gấp 4 lần từ 32 triệu viên năm 2008 lên 136 triệu viên năm 2011. Tình trạng buôn bán và sử dụng ketamine, chất gây ảo giác thường được sử dụng trong thuốc thú y, đang là vấn đề đáng quan tâm của một số nước trong khu vực, năm 2011 báo cáo việc sử dụng ketamine gia tăng ở Trung Quốc, Malaysia (Báo cáo Bộ Công An trong Hội nghị đánh giá công tác phòng chống AIDS, ma túy, mại dâm tháng 9/2012). Ở Việt Nam, theo số liệu từ Bộ Công An, tính tới cuối tháng 6 năm 2012, cả nước có 171.400 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lí. So với cuối năm 1994, số người nghiện ma túy đã tăng gấp 3 lần (55.445 người nghiện năm 1994) với mức tăng xấp xỉ 6.000 người nghiện mỗi năm. Trước đây, số người nghiện ma túy chủ yếu là nam giới, nhưng những năm gần đây tỷ lệ người nghiện ma túy là nữ đã gia tăng đáng kể. Trong số 171.400 người nghiện, nam giới chiếm 96%, nữ giới chiếm 4%. 18 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 19
  18. Người sử dụng ma túy đang có xu hướng trẻ hóa. Năm 1995, số người sử dụng ma túy chủ yếu nằm trong nhóm tuổi trên 30 tuổi, chiếm 57.6%, số người sử dụng ma túy nhóm tuổi từ 18-30 tuổi chiếm 30%, thì năm 2005, tỉ lệ sử dụng ma túy nhóm tuổi 18-30 đã tăng hơn gấp đôi, chiếm 65.9% (Nguồn: Cục Phòng, Chống Tệ Nạn Xã Hội/ Bộ LĐTBXH, Báo cáo về tình hình sử dụng ma túy năm 1995, 2001; Báo cáo về đặc điểm của người sử dụng 2005). Năm 2012, theo báo cáo của Bộ Công An (Hội nghị đánh giá công tác phòng chống AIDS, ma túy, mại dâm tháng 9/2012), tình hình sử dụng ma túy phổ biến hơn cả trong nhóm trẻ, từ 16-30 tuổi, chiếm 66%. Cũng theo báo cáo trên, heroin vẫn là chất được sử dụng chủ yếu, chiếm 84,7%, ma túy tổng hợp 6,5%, thuốc phiện 6,4%, cần sa 1,6%, tân dược gây nghiện 0,3%, các loại khác 0,5%. Tân dược gây nghiện Cần sa Thuốc phiện Khác ATS Heroin Khía cạnh đô thị hóa của tình hình sử dụng ma túy được thể hiện rõ với ngày càng nhiều người sử dụng ma túy sống ở các thành phố lớn, hình thức sử dụng ma túy cũng thay đổi đa dạng và nhanh chóng: trước đây người sử dụng chủ yếu hút thuốc phiện, nhưng nay lại chuyển sang tiêm chính heroin( năm 1995 chỉ có chưa đến 8% số người nghiện tiêm chích ma túy, hiện nay số người chích ma túy chiếm tới 72,67% tổng số người nghiện ma túy cả nước); từ sử dụng đơn chất sang đa chất (sử dụng đồng thời nhiều loại chất): sử dụng và trộn lẫn các dược phẩm khác với ma túy, như sử dụng kết hợp heroin và novocain hoặc các loại thuốc an thần, hoặc pha trộn các loại thuốc tân dược gây nghiện với nhau để tăng cảm giác phê. Xu hướng sử dụng ma túy tổng hợp (bao gồm cả ma túy sử dụng ở các vũ trường và các chất dạng amphetamine) ở các thành phố đang ngày càng gia tăng, chủ yếu ở nhóm trẻ tuổi (theo nghiên cứu của Nguyễn và Scannapieco năm 2008). Tuy nhiên, chất lượng ma túy được sử dụng ở nước ta có nhiều loại không nguyên chất (tinh khiết). 20 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 21
  19. Một nghiên cứu được thực hiện bởi UNODC năm 2007 tại Việt Nam về các thành phần thực tế trong các viên ecstasy (MDMA-chúng ta thường gọi là viên lắc). Kết quả cho thấy các viên này hầu như không chứa thành phần ecstasy mà là tổng hợp nhiều chất khác nhau như paracetamol, caffeine và ketamine. Phần lớn các viên ecstacy bán trên thị trường đều không phải là MDMA. Nghiên cứu Giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học (IBBS) về HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục năm 2009 cho thấy việc sử dụng ma túy trong nhóm gái bán dâm và nhóm nam tình dục đồng giới tại một số tỉnh, thành phố có xu hướng gia tăng. V. Một số chât gây nghiện phổ biến ở Việt Nam – Tác động và hệ quả Ở Việt Nam, các chất gây nghiện phổ biến không thuộc danh mục cấm sử dụng phải kể đến caffeine (trà, cà phê), nicotine (thuốc lá, thuốc lào) và rượu bia. Các chất gây nghiện thuộc danh mục cấm sử dụng theo Luật pháp Việt Nam, trong tài liệu này gọi là ma túy. Như đã trình bày ở phần III về các loại ma túy phổ biến ở Việt Nam, giáo trình xin phân tích cụ thể hơn tác động và hệ quả của các chất này: heroin, thuốc lắc, ma túy tổng hợp dạng amphetamine (methamphetamine), cần sa. 1. Một số chất gây nghiện không thuộc danh mục cấm sử dụng ở Việt Nam 1.1 Caffeine Trà cũng như cà phê có chất caffeine. Caffeine là một hóa chất hữu cơ thuộc nhóm purines. Tác dụng chính của caffeine là kích thích hệ thần kinh trung ương, tăng sinh hoạt trí tuệ, khiến cho người sử dụng tỉnh táo nhất là khi con người mỏi mệt hoặc chán nản. Với giấc ngủ thì ảnh hưởng tùy người: có người gặp khó khăn trong giấc ngủ, tỉnh táo quá mức (còn gọi là mất ngủ) có người lại không có ảnh hưởng khi uống cà phê. Caffeine làm tăng sức bóp của tim, tăng máu từ tim đưa ra, tăng huyết áp. Caffeine tăng dịch vị bao tử nên nhiều người ưa uống cà phê sau khi ăn để dễ tiêu hóa thực phẩm. Caffeine làm tăng sự bài tiết nước tiểu. Sau khi uống, caffeine thâm nhập rất nhanh vào khắp các bộ phận của cơ thể, sau một thời gian ngắn (khoảng 3 giờ) bán hủy nên caffeine không tích tụ trong cơ thể. Phần lớn caffeine được thải khỏi cơ thể qua nước tiểu. 20 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 21
  20. Một người đã quen dùng caffeine rối mà ngưng tức thì, họ sẽ cảm thấy mệt mỏi, nhức đầu, buồn ngủ. Nếu họ ngưng từ từ thì không bị các khó khăn này. Liều lượng trung bình của caffeine là 200mg, tùy theo từng người. Khi dùng tới số lượng trên 1000 mg thì trong người thấy mất ngủ, bất an, tim đập nhanh, thở hổn hển, buồn tiểu, ù tai, xót ruột. Tử vong có thể xảy ra khi dùng tới trên 10 gram (80-100 ly) caffeine. Đã có nhiều nghiên cứu về tác dụng “tỉnh ngủ” của caffeine. Các nghiên cứu này đều tập trung vào hóa chất adenosine do não bộ sản xuất khi ta không ngủ hoặc khi làm việc. Cơ thể càng làm việc nhiều thì Adenosine sản xuất càng cao. Hóa chất này sẽ bám vào các thụ thể ức chế của tế bào thần kinh, làm thần kinh giảm hoạt động và ta cảm thấy buồn ngủ. Caffeine có cấu trúc tương tự như adenosine. Chúng chiếm chỗ của adenosine nơi các thụ thể thần kinh và kích thích hệ thần kinh. Hệ thần kinh hoạt động nhiều hơn và một trong những hậu quả là ta thấy tỉnh táo, nhanh nhẹn hơn. 1.2 Nicotine Về mặt sinh học, nicotine, chất gây nghiện mạnh có trong thuốc lá, là gốc rễ của sự nghiện thuốc và là tác nhân gây ra những triệu chứng mà người đang cai thuốc phải trải qua, như: cáu gắt, bồn chồn, nóng nảy, lo âu, trầm cảm, mất ngủ, bối rối, thèm ăn và thèm hút thuốc một cách khó cưỡng lại được. Tác hại của hút thuốc lá đã được khoa học minh chứng. Thuốc lá làm gia tăng nguy cơ ung thư phổi, bàng quang, tuyến tiền liệt, miệng, thực quản, và một số bệnh ung thư khác, trong đó có bệnh bạch cầu; Làm suy giảm khả năng sinh sản; Tăng nguy cơ loãng xương; Làm giảm trí nhớ và năng lực trí tuệ; Làm giảm nồng độ acid folic trong máu, từ đó làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, trầm cảm và mất trí; Làm tăng nguy cơ suy giảm khả năng tình dục ở nam giới; Làm yếu chức năng của khứu giác và vị giác; Đối với phụ nữ có thai có thể dẫn đến việc sinh con bị thiếu tháng và có trọng lượng cơ thể thấp; Gia tăng nguy cơ trầm cảm ở tuổi thanh niên; Tăng nguy cơ mắc bệnh tim, tiểu đường, đột quị và cao huyết áp. Nếu bà mẹ hút thuốc trong thời gian mang thai thì sẽ làm tăng nguy cơ bị béo phì và tiểu đường ở con cái khi chúng lớn lên. Qua thời gian, người hút thuốc sẽ trở nên lệ thuộc vào nicotine cả về sinh lý lẫn tâm lý. Nếu con người còn kéo dài thời gian hút thuốc thì cơ thể của họ càng ngày càng lệ thuộc mạnh vào nicotine. Theo các chuyên gia, để có thể bỏ thuốc thành công và không tái nghiện về sau, người hút thuốc cần nhận thức rõ những ảnh hưởng của cả hai yếu tố đó để chế ngự chúng và vượt qua chúng. 22 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 23
  21. 2. Heroin Hình 1: Heroin và các vật dụng để sử dụng heroin Heroin được tìm thấy năm 1874, nhưng tới năm 1909, Dreser ở Đức mới thử nghiệm trên người. Chữ Heroine bắt nguồn từ tiếng Đức là Héroisch (có nghĩa là năng lực). Heroin có tên hóa học là Diacetylmorphine và còn có tên gọi khác là hàng trắng, Bạch phiến (Blanche). Là một loại chất gây nghiện bán tổng hợp được chiết xuất từ nhựa quả cây thuốc phiện. Một số loại chất gây nghiện khác trong nhóm chất dạng thuốc phiện này bao gồm thuốc phiện, morphine và codein. Heroin thường ở dạng bột, có mầu sắc khác nhau tùy thuộc vào độ tinh khiết. Heroin có mầu trắng thường có độ tinh khiết cao hơn so với mầu nâu, hoặc mầu trắng ngà, có tác dụng làm ức chế làm giảm hoạt động của não bộ và hệ thần kinh trung ương. Cách sử dụng Heroin Heroin thường được sử dụng theo đường tiêm chích, hút, hoặc hít. Heroin hấp thu vào máu và nhanh chóng tác động lên não của người sử dụng. Những người buôn bán loại chất gây nghiện này thường bớt xén hoặc trộn heroin với các chất khác có vẻ ngoài tương tự nhằm tăng cân nặng để thu lợi nhuận. Các chất trộn thêm này có thể gây tác động khó chịu hoặc tác hại cho người sử dụng. Rất khó để biết được trong hỗn hợp heroin đó cụ thể có những chất gì. 22 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 23
  22. Tác động của heroin Tác động của heroin đối với người sử dụng phụ thuộc vào: Tình trạng sức khỏe Tình trạng tâm lý Trải nghiệm sử dụng heroin trước đây Có sử dụng cùng với ma túy khác hay không Sử dụng một mình hay với người khác Sử dụng ở nhà hay tại các bữa tiệc Độ tinh khiết của thuốc Chiều cao cân nặng Tác động tức thì Tác động tức thì của heroin có thể kéo dài vài giờ đồng hồ, và có thể làm cho người sử dụng: Cảm thấy sảng khoái, sung sướng Không còn đau đớn thực thể Giảm ho Cảm thấy buồn nôn hoặc nôn Đồng tử co nhỏ Thở nông Buồn ngủ (gà gật) Tác động dài hạn của heroin Người sử dụng heroin lâu dài thường gặp phải các vấn đề sau: Sốc thuốc (do liều dùng quá cao – sử dụng heroin càng lâu, nguy cơ bị sốc thuốc càng cao) Táo bón trường diễn Tổn thương tĩnh mạch do tiêm chích cùng một ví trí trong thời gian dài Chán ăn, hoặc ốm yếu do ăn uống thiếu chất, dinh dưỡng kém Rối loạn kinh nguyệt, hoặc mất kinh (đối với phụ nữ). Áp xe da (sưng, mưng mủ) Giảm khả năng thụ thai (ở nữ) Rối loạn cương dương (ở nam) Viêm phổi và các bệnh lý khác Uốn ván (một loại nhiễm trùng thông qua các vị trí tiêm chích trên cơ thể) Tình trạng nghiện/lệ thuộc vào heroin 24 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 25
  23. Cách thức sử dụng heroin cũng gây ra một số các hậu quả Heroin trôi nổi trên thị trường thường được pha trộn với các tạp chất khác, vì vậy khó có thể xác định được lượng heroin thực sự. Điều này có thể dẫn đến tai nạn sốc thuốc không chủ ý . Dùng chung, dùng lại, hay dùng bơm kim tiêm không tiệt trùng để tiêm chích heroin có thể dẫn tới nhiễm HIV, viêm gan B, C, nhiễm khuẩn máu và áp xe da. Vì vậy, để không gặp phải các vấn đề trên, KHÔNG BAO GIỜ sử dụng chung bơm kim tiêm, cũng như thìa và dụng cụ pha chế khác (hũ, bông lọc, băng). Cai heroin Việc từ bỏ, hoặc giảm liều sử dụng heroin đối với những người lệ thuộc vào heroin là vô cùng khó khăn do phải trải qua hội chứng cai heroin. Các dấu hiệu và triệu chứng xảy ra chỉ vài giờ sau khi ngừng sử dụng bao gồm: Bồn chồn Ngáp Chảy nước mũi Chảy nước mắt Vã mồ hôi Tiêu chảy Mạch tăng, huyết áp tăng Nổi da gà Đau bụng Chuột rút Giãn đồng tử Thèm nhớ heroin Sốc thuốc Sốc thuốc (ngộ độc) là tình trạng xảy ra khi liều lượng thuốc sử dụng vượt quá khả năng dung nạp của cơ thể. Sốc thuốc khi dùng heroin rất phổ biến và có thể xảy ra với bất kỳ ai. Thậm chí đối với một số người như người mới sử dụng, hoặc người mới quay lại sử dụng, chỉ một liều dùng nhỏ cũng có thể bị sốc thuốc. Sốc thuốc thậm chí có thể xảy ra với người mới chỉ bỏ được heroin một thời gian ngắn. Người sốc thuốc có thể bị xảy ra một số hiện tượng như: Thở chậm, nông Da lạnh, nhiệt độ cơ thể thấp 24 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 25
  24. Nhịp tim chậm, hạ huyết áp Tiếng khò khè từ cổ họng do chất nôn hoặc nước bọt Móng tay và chân, môi tím tái do thiếu ô xy Sốc thuốc nặng có biểu hiện bất tỉnh, suy hô hấp, suy tuần hoàn.Sốc heroin có thể dẫn đến hôn mê và thậm chí gây tử vong 3. Thuốc lắc - Ecstasy Hình 2: Thuốc lắc (ecstasy) MDMA (Ecstasy) Thuốc lắc, viết tắt là MDMA tức là 3,4-methylenedioxy-N methamphetamine, được chế xuất từ nhiều hóa chất khác nhau. Đây là loại ma túy được tổng hợp từ dầu criết từ vỏ rễ hoặc quả cây de vàng (Sassafras). 26 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 27
  25. MDMA vừa có tác dụng kích thích giống như các chất dạng Amphetamine vừa gây ảo giác về cảm xúc và xã hội. Ngoài tên “thuốc lắc”, loại ma túy này còn được gọi là “bướm đêm”, “bay”, “bánh”, “kẹo”, “nốt nhạc”, “vương miện”, “tim lồng”, hay “chó dại” tùy thuộc vào hình ảnh in trên viên thuốc. Thuốc lắc có thể có trên thị trường dưới dạng viên màu trắng, đỏ, xanh Thuốc lắc thường được sản xuất bất hợp pháp và được bán dưới dạng viên có kích cỡ và mầu sắc khác nhau. Loại chất gây nghiện này cũng có sẵn dưới dạng bột và được sử dụng bằng hình thức hít. Thuốc lắc hiếm khi được sử dụng theo hình thức tiêm chích. Những người sản xuất thuốc lắc thường pha trộn cùng với các chất khác để tăng lợi nhuận. Một số chất được pha trộn thêm trong viên nén hoặc bột có thể gây hại hoặc gây khó chịu cho người sử dụng. Khó có thể biết được thành phần thực tế của thuốc lắc trên thị trường chứa gì. Khi dùng liều nhỏ Khi sử dụng thuốc lắc ở liều lượng nhỏ, chất gây nghiện này phát huy tác dụng trong vòng 1 giờ và kéo dài khoảng 6 giờ. Một số tác dụng của thuốc có thể kéo dài đến 32 giờ. Người sử dụng có những cảm giác sau đây: Về tâm sinh lý: Thư thái và tự tin Gần gũi và cảm thấy yêu mến mọi người hơn Tăng năng lượng và sinh lực Giảm lo lắng, sợ hãi, ghen tuông, thù nghịch, hung hăng, lo âu Dễ cảm thông, chia sẻ và tha thứ cho người khác Nghe nhạc thấy hay hơn Xuất hiện ảo giác về hình ảnh và âm thanh Về thể chất: Đảo mắt ngoài ý muốn Các giác quan (nghe, nhìn, nếm, ngửi, xúc giác) đều nhạy cảm hơn rất nhiều Khát nước Tăng nhịp tim Huyết áp tăng Hay đổ mồ hôi Cơ thể mất nước Nghiến răng, hàm Buồn nôn 26 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 27
  26. Khi dùng liều lớn Nếu sử dụng thuốc lắc liều cao, người sử dụng có thể: Nhìn thấy, nghe thấy hoặc cảm thấy những sự việc, hiện tượng không có trên thực tế (ảo giác) Cảm giác bồng bềnh, trôi nổi Cư xử không bình thường – có hành vi hoặc nói những thứ mà bình thường không làm hoặc nói Co giật Nôn ói Đã có bằng chứng cho thấy người sử dụng vẫn còn cảm giác “phiêu” sau khi tác dụng của thuốc không còn. Các triệu chứng của trạng thái này bao gồm: Không có cảm giác đói Khó ngủ Trầm cảm Đau cơ Khó tập trung Tác động dài hạn Cho đến nay ảnh hưởng của việc sử dụng thuốc lắc lâu dài còn chưa được biết hết. Những ảnh hưởng lâu dài có thể bao gồm tổn thương các cơ quan chính của cơ thể như gan, tim và não. Khi sử dụng thuốc lắc trong thời gian dài, độ dung nạp của cơ thể đối với loại ma túy này cũng tăng lên. Điều đó có nghĩa là họ phải sử dụng liên tục với liều lượng ngày càng tăng thì mới đạt được cảm giác “phê” trong khi trước đây chỉ cần sử dụng một lượng nhỏ. Hay nói cách khác, sử dụng càng tăng thì cảm giác khó chịu cũng tăng, trong khi khoái cảm do thuốc mang lại giảm đi. Quá liều Quá liều, hoặc các phản ứng thuốc khi sử dụng thuốc lắc có thể xảy ra với bất kỳ ai. Quá liều có thể gây ra: Huyết áp cao Tăng nhịp tim Nhiệt độ cơ thể tăng rất cao Một vài người thậm chí tử vong do các nguyên nhân phản ứng thuốc như nhiệt độ tăng quá cao và cơ thể bị mất nước nhanh. Để tránh tình trạng mất nước của cơ thể, uống nhiều nước là điều rất quan trọng. Các bác sĩ khuyến cáo rằng nếu sử dụng thuốc lắc, người sử dụng phải uống 250ml nước mỗi giờ và nếu nhảy múa thì cần uống 500ml mỗi giờ. 28 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 29
  27. 4. Methamphetamine Methamphetamine là một loại chất gây nghiện tổng hợp được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1893 tại Nhật Bản bởi nhà khoa học tên là Nagai Nagayoshi. Methamphetamine là chất gây nghiện thuộc nhóm kích thích dạng amphetamine. Nó có tác động lên hệ thần kinh trung ương và kích thích giải phóng dopamine hàng loạt. Methamphetamine có màu trắng, không mùi. Có nhiều dạng methamphetamine khác nhau. Hình 3: Các dạng Methamphetamine trên thị trường Methamphetamine Dạng tinh thể có độ tinh khiết cao. Methamphetamine dạng tinh thể hay còn gọi là hàng đá, được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1919. Methamphetamine có các tên gọi khác như: “hàng đá”, “pha lê” Dạng thô thường dưới dạng bột trắng hoặc vàng nâu đỏ đỏ; Dạng muối Hydrochlorit dưới dạng bột vị đắng, dễ hòa tan trong nước và có thể dùng để tiêm được; Cách sử dụng Methamphetamine Methamphetamine sử dụng theo nhiều cách: nuốt, hút, hít, uống, hoặc tiêm. “Đá” là dạng methamphetamine có thể dùng để hút. Đá thường là tinh thể trong suốt có độ tinh khiết cao, hút bằng tẩu thủy tinh. Khói hút không có mùi, để lại cặn sau khi hút và cặn này có thể sử dụng để hút lại. Cảm giác tạo ra khi hút có thể kéo dài trong vòng 12 giờ hoặc lâu hơn. Một số rất nhỏ (dưới 3% người sử dụng) sử dụng methamphetamine theo đường tiêm chích. 28 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 29
  28. Tác động tức thì Ngay sau khi hút hoặc sau khi tiêm ven, người sử dụng cảm thấy bốc hoặc “xung”, kéo dài chỉ khoảng một vài phút và được mô tả là một sự sung sướng tột cùng. Hít hoặc uống cũng tạo ra cảm giác phê nhưng không bốc. Người sử dụng sẽ cảm thấy phê sau khi hút 3 – 5 phút, sau khi uống 15 – 20 phút và kéo dài từ 6-8 tiếng. Tác động về thể chất khi sử dụng methamphetamine cũng tương tự như khi sử dụng các chất kích thích khác. Khi uống, hít, hoặc hút, người sử dụng thường cảm thấy: Khỏe khoắn, lâng lâng, sung sướng, Tỉnh táo hơn và tràn đầy sinh lực. Tăng ham muốn tình dục Tăng khả năng ngoại giao Không có cảm giác đói Thông thái hơn, tâm trạng tốt hơn Nhịp tim và huyết áp tăng, có thể có trống ngực. Tăng thân nhiệt Giãn đồng tử Tăng nhịp thở Miệng thường bị khô và khó nuốt, nặng có thể gây tình trạng mất nước và sốt cao Người sử dụng methamphetamine có thể có cảm giác mình là nhà vô địch, siêu nhân, anh hùng khiến cho họ thường làm những việc ngoài khả năng thực tế của họ. Sử dụng liều cao gây ngộ độc Sử dụng liều quá cao trong thời gian ngắn gây nên tình trạng ngộ độc methamphetamine. Biểu hiện của tình trạng ngộ độc là: Cảm giác có sức mạnh phi thường Hung hăng và gây gổ Lú lẫn Hoảng sợ Loạn thần Đột quỵ Τim đập nhanh, không đều, tiếng tim yếu Xuất huyết não Sốt cao, thân nhiệt tăng cao Tử vong (hiếm khi) 30 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 31
  29. Hậu quả lâu dài của việc sử dụng methamphetamine Về tác động tâm lý, ở liều thấp, methamphetamine làm người sử dụng cảm thấy khỏe khoắn, nhiều năng lượng, tỉnh táo, tự tin hơn nhưng nếu tiếp tục sử dụng những cảm giác thoải mái ấy sẽ mất đi và hầu hết người sử dụng cần phải tăng liều để được phê. Dưới tác động của thuốc, người sử dụng thường bị kích động và có cảm giác bị “trói buộc” vào việc phải sử dụng thuốc. Hành vi của họ trở nên không dự đoán được. Họ có thể đang rất vui vẻ, hòa đồng và bình tĩnh rồi lại trở nên giận giữ và khủng khiếp ngay sau đó. Việc khó ngủ và không ăn được, khiến họ trở nên hết sức mệt mỏi và điều đó khiến họ tiếp tục phải sử dụng meth để có thể tỉnh táo trở lại. Sử dụng liều methamphetamine cao trong thời gian dài khiến người sử dụng bị trầm cảm, và hoang tưởng, cảm giác như luôn có ai theo dõi, có ảo giác (nghe thấy những tiếng nói không có thực cũng như tin vào những điều không thật). Nhiều người có hành vi tự hủy hoại bản thân hoặc tự tử cũng như trở nên cực kỳ nguy hiểm và gây ra những hành vi bạo lực. Bị nghiện/lệ thuộc vào Methamphetamine Thường trở nên bạo lực mà không có lý do gì Hay bị ốm/bị bệnh hơn do giảm sức đề kháng của cơ thể Buồn, trầm cảm Có các giai đoạn bị mắc chứng loạn thần do Methamphetamine: Chủ yếu hay mắc bệnh này sau khi dùng liều cao và kéo dài. 1/3 số người lệ thuộc có triệu chứng loạn thần. Loạn thần thường biểu hiện bằng đặc điểm ảo tưởng bị ngược đãi, ảo giác, nếu dừng sử dụng thì có thể khỏi sau một vài tuần nhưng nhiều người vẫn bị tồn tại dai dẳng. Gặp phải các vấn đề khó khăn trong công việc, tiền bạc, pháp luật hoặc nhà cửa. Trường hợp nặng có ý định tự tử, Methamphetamine có độc tính trực tiếp gây tổn thương tế bào não. Tỷ lệ loạn thần ở người sử dụng methamphetamine sử dụng thường xuyên cao gấp hơn 11 lần so với những người bình thường khác. Sử dụng methamphetamine có thể gây biểu hiện loạn thần và thúc đẩy bệnh nặng hơn ở những người bị tâm thần phân liệt 30 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 31
  30. 5. Cần sa Hình 4: Hình ảnh cây cần sa và các dạng cần sa trên thị trường CẦN SA Tarijuana Hashish Khái niệm về Cần sa Cây cần sa (Cannabis): Còn được gọi là gai dầu, lanh mèo, gai mèo, đại ma, “cỏ”, bồ đà, tài mà, Cây cần sa cao từ 2-3 mét, mọc thẳng, nhiều cành lá. Quả hình tròn, nhọn có màu xám trơn (trong dân gian gọi là hạt cần sa). Cần sa là loại ma túy được chế từ hoa và lá khô của cây cần sa tên latin là Cannabis Sativa. Cần sa nhìn giống như thảo cỏ, lá chè khô và có thể còn hạt hoặc còn các cành nhỏ. Cần sa thường được lăn bằng tay thành thuốc cuốn để hút, hoặc được hút bằng ống điếu. Một số người còn trộn cần sa với thức ăn như bánh ngọt hoặc bánh qui để ăn. Cần sa cũng có thể được trộn lẫn để hút cùng thuốc lá, dầu cần sa có thể dùng để uống hoặc hãm trà. Hoạt chất chính trong cần sa là THC (delta-9-tetrahydrocannabinol) là yếu tố làm cho người sử dụng “phê”, nghĩa là làm biến đổi tâm trạng của người sử dụng, khiến họ có cảm giác khác biệt. Một số thành phần của cây chứa hàm lượng THC cao hơn. Ví dụ, hoa và nhụy chứa nhiều THC hơn so với thân và lá. Người sử dụng cần sa trong một thời gian sẽ dẫn đến tình trạng lệ thuộc cần sa. Cần sa tồn tại dưới các dạng sau: Lá/hoa/nụ khô, chứa 1%-15% THC, được nghiền nát hoặc thái nhỏ phơi khô, vê thành điếu. Nhựa khô chiết xuất, đôi khi trộn với hoa khô và ép thành khối nhỏ, chứa khoảng 10%-20% THC. Dầu chiết xuất sử dụng chất hòa tan hữu cơ, chứa 15%-30% THC. 32 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 33
  31. Cần sa hấp thụ và chuyển hóa nhanh khi hút: 50% được hấp thụ, thời gian để đạt tác động mạnh nhất mất 10-30 phút, kéo dài 2-4 giờ. Cần sa hấp thụ và chuyển hóa chậm hơn khi nuốt (qua đường ăn): 3%-6% được hấp thụ, thời gian để đạt cao điểm mất 2-3 giờ, kéo dài đến 8 giờ. Tác động của cần sa Tác động của cần sa đối với người sử dụng phụ thuộc vào Liều dùng Độ mạnh và tinh chất THC trong cần sa Đường sử dụng (hút, hút tẩu, ăn) Chiều cao, cân nặng của người sử dụng Tâm trạng khi sử dụng Trải nghiệm sử dụng cần sa trước đây Chỉ sử dụng riêng cần sa hay sử dụng đồng thời với các loại CGN khác Sử dụng một mình hay với người khác, tại nhà hay tại nơi tiệc tùng Tác động tức thì Với liều dùng nhỏ, ảnh hưởng của cần sa có thể kéo dài trong vòng 5 giờ đồng hồ và người sử dụng có thể: Cảm thấy khỏe khoắn và sảng khoái một cách lạ thường Có những hành động khác thường Giữ thăng bằng kém Cười nói nhiều hơn Khó tập trung Tăng cảm giác đói Nhịp tim nhanh hơn Mắt ngầu đỏ Tăng khả năng thị giác, thính giác và khứu giác, mất khả năng hiểu đúng về sự việc xảy ra xung quanh. Những cảm giác này thường làm cho người sử dụng cảm thấy mọi thứ xung quanh đều chậm chạp. Khi dùng liều cao Liều dùng cao sẽ làm cho người sử dụng Lẫn lộn Bồn chồn 32 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 33
  32. Phấn chấn Nghe hoặc nhìn thấy những sự việc không thực (ảo giác) Lo lắng, sợ hãi Cảm thấy xa rời hoặc tách biệt khỏi thực tại Cần sa còn có thể gây nên các vấn đề: – Khó nhớ các sự việc – Suy nghĩ không mạch lạc – Khó phối hợp các động tác, giữ thăng bằng – Ảnh hưởng tới khả năng lái xe hay vận hành máy móc Những biểu hiện này thường mất đi khi tác dụng của cần sa không còn nữa Hậu quả lâu dài Nếu sử dụng cần sa thường xuyên và trong một thời gian dài, người sử dụng sẽ gặp phải những vấn đề sức khỏe sau: Tăng nguy cơ mắc viêm phế quản, ung thư phổi và các bệnh lý khác về đường hô hấp Giảm động cơ làm việc Giảm khả năng tập trung trí nhớ và khả năng học hỏi những điều mới Giảm ham muốn tình dục Giảm lượng tinh trùng ở nam giới Rối loạn kinh nguyệt ở nữ giới Một số người còn gặp phải các ảnh hưởng về tâm lý, đặc biệt những người có tiền sử bệnh tâm thần phân liệt Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có trường hợp nào được báo cáo là tử vong do sử dụng cần sa. VI. Tác động và hậu quả của việc sử dụng chất gây nghiện Thorley đã mô tả về những vấn đề liên quan đến việc sử dụng chất gây nghiện theo 3 phạm trù: Phê, Sử dụng thường xuyên và Nghiện. Sơ đồ Thorley dưới đây cho thấy những phạm trù này không có tính riêng rẽ, tách bạch lẫn nhau. Một người sử dụng có thể gặp phải các vấn đề thuộc 1 phạm trù, cả 2 hoặc cả 3 phạm trù khác nhau. Những vấn đề được liệt kê trong mỗi phạm trù chỉ là một số ví dụ, trên thực tế danh sách tác hại của chất gây nghiện còn rất dài. 34 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 35
  33. Phê/Say Chỉ cần một lần phê hay say có thể gây ra một loạt các vấn đề khác nhau: Tai nạn có thể xảy ra sau khi bị say (say rượu) Sau khi phê, say thường có triệu chứng đau đầu, mệt mỏi hay uể oải Quá liều heroin là hậu quả của phê Nhận thức về nguy cơ sẽ thay đổi khi say và người ta có thể sử dụng chung dụng cụ tiêm chích Sử dụng thường xuyên Sử dụng liều cao thường xuyên có thể gây ra nhiều vấn đề khác nhau: Uống rượu nhiều lâu dài có thể hại đến gan, gây tổn thương gan, xơ gan Dùng nhiều dẫn tới cần nhiều chi phí để mua chất gây nghiện, gây khó khăn tài chính, nợ nần, có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để lấy tiền mua chất gây nghiện Dùng nhiều thường xuyên có thể gây thay đổi tính cách (trầm cảm ) và ảnh hưởng đến các mối quan hệ Dùng heroin liều cao thường xuyên hay dẫn đến sốc quá liều không tử vong, làm tổn thương não và gây trí nhớ kém hoặc mất trí nhớ Nghiện/ lệ thuộc Nghiện về thể chất sẽ gây ra hội chứng cai Nghiện về tâm lí sẽ gây ra cơn thèm nhớ và dùng bất chấp tác hại của ma túy Biểu đồ 1: Mô hình của Thorley về những tác hại do việc sử dụng chất gây nghiện NHỮNG VẤN ĐỀ DO SỬ DỤNG CGN Mô hình tác hại của Thorley Say/Phê Tai nạn; Đau đầu/mệt mỏi; Lây nhiễm; Quá liều SD nhiều thường xuyên Lệ thuộc Bệnh nội tạng Cắt cơn Tài chính Thèm nhớ Quan hệ Ám ảnh Trí nhớ Mâu thuẫn 34 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 35
  34. Khi nói đến tác động của chất gây nghiện nói chung hay ma túy nói riêng, người ta thường nghĩ ngay đến tác hại của nó mà ít khi nghĩ đến những lợi ích mà nó đem lại cho người sử dụng cũng như cho xã hội. Tuy nhiên, không có chất gây nghiện nào là hoàn toàn tốt, không có chất gây nghiện nào là hoàn toàn xấu và nguy hiểm. Tác động và hệ quả của việc sử dụng chất gây nghiện tùy thuộc 3 yếu tố: môi trường (bao gồm cả khung pháp lý), người sử dụng và chất gây nghiện. Bên cạnh đó, tác động và hệ quả còn tùy thuộc vào việc sử dụng chất gây nghiện đó vào mục đích gì, như thế nào, liều lượng và đường dùng là gì. Ví dụ, morphine dùng để điều trị giảm đau cho người bệnh tại cơ sở y tế là một phần quan trọng trong công tác chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân. Khi được sử dụng đúng mục đích, liều đúng, đường dùng đúng, nó có tác dụng giảm đau rất hiệu quả. Tuy nhiên, nếu lạm dụng: sử dụng liều nhiều hơn so với liều kê đơn, sử dụng cho mục đích khác thì lại gây tác hại nhiều hơn. Xét về tác động tích cực, các chất gây nghiện được sử dụng hợp pháp như trà, cà phê, thuốc lá đưa tới những nguồn lợi không nhỏ về kinh tế cho các quốc gia, như nước ta là một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn trên thị trường thế giới, hay những lợi ích kinh tế từ việc đánh thuế cao các chất gây nghiện này (thuốc lá, rượu bia) đem lại cho xã hội. Ngoài ra, các chất này với tác dụng kích thích giúp tỉnh táo hơn, cũng đóng góp phần nào trong việc tăng năng suất lao động với những người sử dụng chúng. Song, không phải các chất gây nghiện hợp pháp nào cũng mang lại lợi ích cho người sử dụng. Thuốc lá và rượu bia nếu dùng với hình thái dùng nhiều hoặc lệ thuộc thì gây tác hại rất lớn với cá nhân và cộng đồng. Khi xét đến hệ quả của việc sử dụng CGN, không nên chỉ tập trung vào hệ quả đến cá nhân người sử dụng mà còn bao hàm các tác động đến gia đình của họ, đến cộng đồng họ sinh sống, lây nhiễm bệnh tật, đến các gánh nặng dịch vụ xã hội, dịch vụ y tế, chi phí để đảm bảo an ninh trật tự, cũng như không quên tính đến những lợi ích kinh tế xã hội mà CGN có thể đem lại. Thật vậy, bản thân người nghiện lúc không còn khả năng kiểm soát hành vi khi cơ thể đòi hỏi có thuốc, sẽ dẫn tới các hành vi phạm tội phải vào tù, gia đình thiếu thốn vật chất, tình cảm gia đình chia lìa, con cai có thể bị đẩy vào con đường lang thang, dễ bị lạm dụng. Bên cạnh đó, sức khỏe là một trong những mối lo hàng đầu với người nghiện. Hầu hết người nghiện bị suy sụp sức khoẻ, giảm trí nhớ, rối nhiễu tâm thần, mất hoặc giảm khả năng lao động và nguy hiểm nhất là mắc các bệnh cơ hội hoặc nhiễm HIV/AIDS. Lúc này, việc nghiện không 36 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 37
  35. chỉ ảnh hưởng đến cá nhân người sử dụng mà còn có khả năng lây lan bệnh sang người khác, gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe cộng đồng. Không chỉ dừng ở vấn đề sức khỏe, tâm lí, kinh tế, mà gia đình, các mối quan hệ xã hội cũng bị ảnh hưởng sâu sắc như hạnh phúc gia đình đổ vỡ, việc học hành của con cái hay cuộc sống bố mẹ/ vợ cũng chịu tác động lớn từ những kì thị đối với việc sử dụng ma túy, tù tội hay nhiễm HIV. Ngoài ra, trích nguồn từ khảo sát của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, bình quân hàng năm, trên 170.000 người nghiện ở nước ta tiêu tốn hơn 1.200 - 1.500 tỷ đồng cho việc sử dụng ma tuý. Đó là chưa tính tới sự thiệt hại về kinh tế mà hàng năm Nhà nước cũng tiêu tốn hàng trăm tỷ cho phòng chống ma tuý cũng như khắc phục các hậu quả do ma tuý để lại, hay nguồn chi về cả vật lực và nhân lực cho các dịch vụ y tế, nguồn chi về cả vật lực và nhân lực cho hệ thống an ninh, cơ sở giam giữ, nhà tù. Ngoài ra còn những thiệt hại khác như suy giảm lực lượng lao động trong xã hội, giảm năng suất xã hội nói chung. 36 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 37
  36. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1 1. Thực trạng sử dụng chất gây nghiện trên thế giới và ở nước ta? Nhận thức của anh (chị) về sử dụng chất gây nghiện trong nhóm người làm nghề mại dâm? 2. Trình bày lịch sử của chất gây nghiện trên thế giới và Việt Nam? 3. Một số chất gây nghiện phổ biến ở nước ta-Phân tích rõ tác động và hậu quả của nó đối với người sử dụng? 4. Chất gây nghiện được phân loại như thế nào. Cho ví dụ làm rõ? 5. Phân tích ảnh hưởng của chất gây nghiện trong xã hội trên cả 2 khía cạnh tích cực và tiêu cực 38 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 39
  37. CHƯƠNG 2 Các lý thuyết về nghiện ma túy 38 CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện CHƯƠNG 1 –– Tổng quan về chất gây nghiện 39
  38. 40 CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy
  39. Vì sao một số người lại sử dụng ma túy và dẫn tới lệ thuộc dù họ biết rất rõ rằng sự lệ thuộc ma túy đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống không chỉ của cá nhân họ mà còn gia đình cũng như cộng đồng xung quanh họ? Để lý giải cho hiện tượng này đã có khá nhiều nhà khoa học đưa ra những cách tiếp cận khác nhau, giải thích chúng dựa trên những nền tảng lý thuyết khác nhau. Có nhà khoa học giải thích hiện tượng nghiện theo cách tiếp cận sinh học. Có người giải thích hiện tượng nghiện từ góc độ tâm lý của cá nhân. Một số nhà khoa học lại giải thích hiện tượng nghiện từ góc độ xã hội và tương tác xã hội. Điều này cũng cho thấy mối quan hệ giữa chất gây nghiện, cụ thể là ma túy và xã hội là rất phức tạp. Các học thuyết tài liệu đề cập có thể chia ra làm 3 nhóm thuộc 3 lĩnh vực: sinh học, tâm lí và xã hội. Dù đã có rất nhiều nỗ lực nghiên cứu và lí thuyết về sử dụng chất gây nghiện, không có một học thuyết nào có thể đưa ra lời giải thích một cách hoàn hảo. Các lý thuyết được đề cập ở đây cũng chưa được xem là lý thuyết có cách giải thích mang tính thuyết phục về hành vi nghiện ma túy, tuy nhiên người ta vẫn thừa nhận rằng mỗi lý thuyết đều có cách lý giải có giá trị về hiện tượng nghiên ma túy ở con người. Sau đây xin giới thiệu một số lý thuyết và cách giải thích dựa trên những lý thuyết đó về việc nghiện ma túy của con người. I. Thuyết sinh học Các nhà di truyền học cho rằng ngay từ khi sinh ra con người đã mang trong mình những gien di truyền ảnh hưởng đến hành vi cá nhân. Trong trường hợp những người sử dụng ma túy, họ giải thích rằng một số người được sinh ra đã có sẵn một số gien di truyền liên quan tới sử dụng ma túy, chất gây nghiện khiến họ có nguy cơ sử dụng hoặc lệ thuộc ma túy cao hơn, dễ bị mắc nghiện hơn người khác. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học về gien di truyền trên động vật cũng như trên người. Khi nghiên cứu những gia đình có bố mẹ sử dụng rượu họ tìm thấy mối liên hệ giữa việc sử dụng rượu của cha mẹ với sự lệ thuộc rượu của những đứa trẻ trong gia đình đó. Nguy cơ lệ thuộc vào rượu ở những đứa trẻ có cha mẹ nghiện rượu cao gấp 4 lần so với những đứa trẻ trong gia đình mà cha mẹ chúng không nghiện rượu. Một số nghiên cứu khác được tiến hành trên các cặp sinh đôi từ bố hoặc mẹ là người nghiện rượu. Người ta nuôi dưỡng mỗi đứa trẻ ở hai môi trường bố mẹ hoàn toàn khác nhau. Một gia đình bố mẹ nuôi không nghiện rượu và một gia đình bố mẹ ruột là có nghiện rượu. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có mối liên quan giữa gien di truyền và khả năng lệ thuộc vào rượu nếu cha mẹ là những người nghiện rượu, đứa trẻ là con nuôi cũng có nguy cơ nghiện rượu cao hơn rất nhiều so với những đứa trẻ khác. (Zucker R.A và cộng sự. Sự khác biệt giữa trẻ trong gia đình nghiện rượu và gia CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy 41
  40. đình không nghiện rươu: Nghiện rượu: Nghiên cứu lâm sàng và thực nghiệm. 19:1011-1017. 1975.; Hiệp hội quốc gia Hoa Kì về trẻ trong gia đình nghiện rượu NACOA) Những nghiên cứu về sinh hóa trong cơ thể con người cũng tìm thấy sự mất cân bằng về chuyển hóa cũng là một trong những yếu tố nguy cơ đối với sự lệ thuộc vào chất gây nghiện ở con người. Lý thuyết này giải thích rằng những người khi sinh ra đã có sự mất cân bằng sinh hóa dẫn đến sự trao đổi chất không đầy đủ và để tạo nên sự cân bằng sinh hóa cho cơ thể, họ có xu hướng sử dụng loại chất nào đó để tạo sự thay đổi hóa chất trong não bộ, cái mà sẽ tạo nên sự cân bằng sinh hóa trong cơ thể họ. Người ta tìm thấy một số người khi sinh ra thiếu chất indoxin (đây là một dạng hóoc môn tương ứng với chất á phiện), và những người này thường có tâm trạng không vui. Vì thế những người này có xu hướng bổ sung chất tương tự như á phiện giúp cơ thể họ tạo nên sự cân bằng, giúp cho họ có tâm trạng vui vẻ hoạt bát giống như những người đã có đủ chất này trong cơ thể một cách tự nhiên. Hoặc insulin là hóc môn chuyển hóa lượng đường trong cơ thể, khi mất cân bằng chuyển hóa insulin thì cần phải đưa lượng insulin từ ngoài vào để cân bằng chuyển hóa. Điều thú vị là không phải tất cả gien liên quan đến hành vi sử dụng chất gây nghiện đều có hại, một số gien lại mang tính bảo vệ. Ví dụ, nhiều người châu Á thiếu gien giúp cho việc chuyển đổi chất khi uống rượu. Kết quả là khi họ uống rượu mặt của họ dễ dàng đỏ, họ luôn cảm thấy chóng mặt và khó chịu dù chỉ uống một lượng nhỏ. Ở nhóm người này, việc thiếu yếu tố gien này lại trở thành yếu tố bảo vệ, tỷ lệ hấp thụ và uống rượu ở họ thấp hơn so với nhóm không bị thiếu hụt về gien này. Việc nghiên cứu và chỉ ra mối liên quan giữa yếu tố gien cũng như sự mất cân bằng chuyển hóa trong cơ thể người và sử dụng chất gây nghiện/ma túy, có tác dụng dự báo và giúp cho con người biết được họ đang mang gien di truyền có nguy cơ lệ thuộc vào chất gây nghiện/ ma túy, từ đó giúp cho họ sớm định hướng và đưa ra những quyết định an toàn có lợi cho bản thân. Tuy nhiên gien không phải là yếu tố quyết định đối với việc sử dụng hay lệ thuộc vào ma túy. Nhiều nghiên cứu của các nhà tâm lý học và xã hội học đã chỉ ra việc sử dụng hay lệ thuộc vào ma túy còn phụ thuộc vào sự tương tác giữa con người và xã hội và việc hành vi của chúng ta chịu sự ảnh hưởng như thế nào trong xã hội ấy. II. Các thuyết Tâm lý học Các nhà tâm lý học đã giải thích nguy cơ cũng như sự lệ thuộc chất gây nghiện ở con người theo những hướng khác nhau. Các lý giải tập trung vào giải thích quá trình lệ thuộc chất gây nghiện gắn với sự hình thành hành vi trên cơ sở của các kích thích mang tính củng cố, tăng 42 CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy
  41. cường, hay thưởng phạt. Cũng có lý giải dựa vào căn cứ của những cơ chế tâm lý, mối quan hệ, hay đặc điểm nhân cách, cảm giác của bản thân cá nhân dẫn tới sự lệ thuộc chất gây nghiện. Các nhà tâm lý xác định các yếu tố chính gây nghiện có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mỗi cá nhân. Chính các yếu tố bên trong nội tâm hoặc những sự kiện xảy ra trong môi trường sống đã ảnh hưởng tới cuộc sống của cá nhân. Quá trình diễn ra bên trong cơ thể bao gồm: các quá trình tâm lý; những trải nghiệm tích lũy được trong quá khứ như niềm tin, ý tưởng, những kỳ vọng, thái độ và giá trị; các quá trình nhận thức, tình cảm và suy nghĩ Sự ảnh hưởng trực tiếp của môi trường đến cuộc sống của cá nhân người nghiện bao gồm: sự kiện và hiện tượng trong môi trường sống. Mỗi lý thuyết có cách lý giải riêng về nghiện, cơ chế gây nghiện cũng như cách can thiệp giúp đỡ người lạm dụng chất gây nghiện. Mỗi cách lý giải đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định theo quan điểm chủ đạo của lý thuyết. 1. Thuyết phân tâm Các nhà tâm lý học phân tâm (người đại diện cho học thuyết này là Sigmund Freud) giải thích việc sử dụng ma túy của cá nhân là có liên quan tới những xung đột tâm lý trong quá trình phát triển đặc biệt ở giai đoạn đầu đời của cá nhân. Cách tiếp cận này cho rằng việc nghiện ma túy là sự hóa giải những rối nhiễu mà cá nhân gặp phải trong giai đoạn đầu đời. Tâm lý học phân tâm cho rằng những xung đột tâm lý ở tuổi ấu thơ bị dồn nén và nó thường được bùng phát khi đến tuổi thanh thiếu niên. Ma túy là một trong những phương thức để đứa trẻ giải tỏa những xung đột này. Đây cũng là một cách giải thích cho việc lứa tuổi bắt đầu sử dụng ma túy thường là tuổi thanh thiếu niên. Những rối nhiễu trong tương tác với cha mẹ với đứa trẻ cũng dễ tạo nên cảm giác lo âu. Người ta cũng xem đây như một trong nguyên nhân tiềm ẩn của việc sử dụng ma túy sau này của cá nhân. Theo lý thuyết phân tâm người ta nghiện là do mất cân bằng tâm lý, là do sự xung đột giữa cái bản năng (Id) và cái siêu tôi (super Ego) trong cấu trúc nhân cách của mỗi con người. Khi bắt đầu dùng chất gây nghiện, có thể cá nhân chưa nghiện, nhưng dùng nhiều lần, lặp đi lặp lại và không kiểm soát được liều lượng dùng cũng như số lần dùng bị phụ thuộc vào chất đó thì sẽ bị nghiện. Và một khi người sử dụng ma túy trở thành nghiện, việc họ luôn thôi thúc tìm kiếm sử dụng ma túy là do sự đòi hỏi của cái bản năng phải được thỏa mãn để não bộ sản sinh ra một lượng Dopamine (chất dẫn truyền thần kinh) làm cho cơ thể có thể cảm thấy phấn khích và thích thú, hoặc endorphins tác động làm điều hòa thân nhiệt cơ thể và giảm đau (lúc này phần bản năng kiểm soát họ hơn là bản ngã hoặc siêu bản ngã). Khi đứa trẻ gặp vấn đề gì trong mối quan hệ gia đình và bạn bè, trẻ bị ức chế, căng thẳng thần kinh các cơ chế tự vệ sẽ xuất hiện CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy 43
  42. để bảo vệ cái tôi (Ego). Những điều trẻ muốn làm, muốn thể hiện với người khác thường bị che giấu, bị dồn nén, trẻ có thể rơi vào tình trạng lo âu, ám ảnh. Vì vậy trẻ thường tìm kiếm và thực hiện những hành vi nhằm thỏa mãn cái bản năng. Chẳng hạn: Trong thời kỳ thanh niên và đầu tuổi trưởng thành, xung lực tính dục được chuyển thành những hành động cụ thể nhằm thỏa mãn xung lực tính dục. S. Freud, người sáng lập ra trường phái phân tâm, tập trung vào vấn đề tính dục – “là vấn đề cốt lõi cho hệ thống lý luận của mình. Đó là cơ sở giải thích mọi hiện tượng tinh thần của cá nhân: sự dồn nén và sự chống đối cái vô thức của ý thức là yếu tố dồn nén và chống đối ham muốn tính dục; sự đòi hỏi, thôi thúc thỏa mãn cái cái bản năng về nguyên thủy là sự thôi thúc thỏa mãn nhu cầu tính dục; cơ chế tự vệ của cái tôi để giải tỏa khỏi sự căng thẳng, lo âu cũng chủ yếu hướng tới giải tỏa sự dồn nén và ẩn ức cá nhân và sự thoái lui, cố định nhân cách qua các giai đoạn lứa tuổi được quy về sự thành thục, di chuyển và thoái lui, cố định khoái cảm tính dục; căn nguyên sâu thẳm của mọi hành vi lầm lỡ, của giấc mơ và của các chứng bệnh rối nhiễu tâm thần cũng chính là do các xung lực khoái cảm tính dục thời ấu thơ bị kìm nén, không được thỏa mãn hoặc không đúng lúc, đúng nơi”(Phan Trọng Ngọ, 2003). Tư tưởng chủ đạo của S.Freud là hầu hết các hoạt động tâm thần được diễn ra trong tầng vô thức và được thúc đẩy bởi các xung lực bản năng. Dựa trên đó người ta giải thích người lạm dụng chất gây nghiện và ngày càng muốn sử dụng nhiều hơn nữa là do sự lôi kéo, thúc đẩy bởi một nguồn năng lượng tiềm tàng trong vô thức. Hầu hết người sử dụng chất gây nghiện đều nhận thức rõ hậu quả của việc nghiện ma túy có liên quan tiêu cực đến nhiều lĩnh vực khác nhưng họ vẫn không thể kiểm soát được khả năng sử dụng của bản thân, họ muốn bỏ muốn cai nghiện mà vẫn tái nghiện là do nguồn năng lượng mang tính bản năng, nguyên thủy trong tầng vô thức thúc đẩy. Tuy nhiên, một số nhà Phân tâm học sau này đã khẳng định vai trò của cái tôi (Ego) không chỉ phụ thuộc vào cái bản năng (Id). Cái tôi (Ego) có năng lượng và chức năng của chính mình mang tính độc lập. Cái tôi (Ego) hoạt động theo nguyên tắc nên có khả năng điều khiển và có thể giải quyết được mâu thuẫn giữa cái bản năng (Id)và cái siêu tôi/siêu bản ngã (SuperEgo). Như vậy đối với những người sử dụng chất gây nghiện thậm chí cả những người nghiện ma túy vẫn có khả năng giữ được cân bằng tâm lý, giải tỏa được những xung đột giữa cái bản năng và cái siêu tôi/siêu bản ngã để trở về với cái tôi hiện thực. Để làm được điều này phải có sự cố gắng nỗ lực của người sử dụng ma túy kết hợp với phương pháp phân tích tâm lý do chính các nhà phân tâm thực hiện. Các nhà phân tâm học sau S.Freud như: S. Freud-Anna (1895-1982) (con gái út của Freud); Eric Ericson(1902-1994); Karl Jung(1875-1961) Theo S.Freud, con người là sản phẩm của các trải nghiệm thời thơ ấu của mình và bị quyết định bởi tính dục. Còn đối với K.Jung con người không chỉ bị quy định bởi quá khứ mà còn bởi cả những mục đích, những mong đợi và hi vọng vào tương lai của mình. Sự hình thành nhân cách không hoàn thành vào lúc 5 tuổi mà có thể thay đổi và hoàn thiện trong cả cuộc đời con người. Ông đưa ra khái niệm “vô thức tập thể”- là cấp độ sâu hơn của hành động tâm lý, chứa đựng kinh nghiệm bẩm sinh của 44 CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy
  43. các thế hệ trước cũng như của những tổ tiên, động vật (Phan Trọng Ngọ, 2003. Tr. 327). Vô thức tập thể nằm sâu hơn tầng vô thức cá nhân mà ở đó chứa đựng những kinh nghiệm được tích lũy từ các thế hệ trước, bao hàm của cả tổ tiên động vật. Đây cũng là cơ sở để người ta lý giải tại sao vấn đề về nghiện lại không chỉ thuộc về lĩnh vực tâm lý, tình cảm mà còn thuộc về lĩnh vực khác như sinh học, xã hội và văn hóa Nghiên cứu và làm việc với người sử dụng ma túy cần phải nghiên cứu lịch sử gia đình, tiểu sử cá nhân trong bối cảnh lịch sử xã hội nhất định. Theo S. Freud mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là rất quan trọng. Từ khi dậy thì trở đi, cá nhân mỗi người phải huy động hết năng lực trong mình để tách khỏi cha mẹ để trở nên độc lập trở thành một thành viên của xã hội, của cộng đồng. Và khi đưa điều này vào ứng dụng trong lý giải vấn đề nghiện của người nghiện, sự tách rời này không thể thực hiện được do có sự rối loạn trong nơron thần kinh. Điều này khiến cho mối quan hệ giữa cha mẹ và trẻ xuất hiện những triệu chứng bệnh lý. Trẻ sẽ bị lệ thuộc vào cha mẹ, lo lắng và sợ hãi bị bỏ rơi. Mặc dù trẻ xác định cha mẹ là người tốt nhất với chúng nhưng chúng lại có thái độ thù địch cha mẹ mình. Đây là những triệu chứng bất thường người lạm dụng ma túy hay thể hiện, nó liên quan tới việc họ nhận thức được tác hại của việc sử dụng ma túy nhưng họ không thể từ bỏ. Trên cơ sở lý thuyết phân tâm, hành vi của người nghiện ma túy được giải thích xuất phát từ căn nguyên thiếu thốn tình cảm trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Nó là cả một lịch sử lâu dài từ khi trẻ sinh ra và lớn lên, trẻ bị thiếu hụt cái tôi (Ego) vì cái bản năng (Id) phát triển lấn át cái tôi. Callahan (1977) cho rằng có mối quan hệ giữa sự sợ hãi và sự lệ thuộc ma túy. Và việc sử dụng chất gây nghiện giúp cho cá nhân làm giảm đi những vấn đề họ phải chịu đựng mặc dù nó chỉ là những cảm giác nhất thời chỉ có tác dụng an thần, thậm chí là che đậy, phong tỏa nỗi sợ hãi trong họ. Khi cai nghiện, sự sợ hãi trở nên mãnh liệt ở người đang cố cai nghiện và đó cũng là lý do khiến cho những người này càng dễ trở nên nghiện lại. Sự sợ hãi thường bị che khuất bởi vô thức, khiến con người không nhận biết được. Cũng có tác giả cho rằng việc sử dụng và nghiện ma túy là cách mà đứa trẻ đến tuổi thanh thiếu niên muốn tạo nên tính cách riêng của mình và muốn tách khỏi người mẹ, chống lại sự lệ thuộc vào người mẹ (Jammer, 1989). Khi này ma túy được xem như vật gì đó thay thế cho người mẹ của đứa trẻ khi còn ở tuổi nhỏ. Do vậy để can thiệp cai nghiện người ta thường cố tìm ra những yếu tố gây lo hãi mang tính vô thức, từ đó giúp cá nhân vượt qua sự lo âu. Nếu con người biết được nó, vượt qua nó thì họ sẽ không cần sử dụng đến chất gây nghiện. Cách can thiệp của ông là liệu pháp trường tư duy mà ở đó ông sử dụng các hệ thống năng lượng (huyệt, cơ, não, tư duy ) giúp con người hình thành và phát triển các khả năng tích cực cho cuộc sống và gạt bỏ những cảm xúc tiêu cực. CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy 45
  44. Myers, Richardson (1977) cũng khẳng định rối loạn tâm trạng, cảm giác lo âu dự báo cho khả năng nghiện ma túy cao. Với cách tiếp cận này người ta cho rằng để can thiệp nghiện ma túy ở con người cần hóa giải những xung đột vô thức của người nghiện để từ đó họ từ bỏ ma túy và không phụ thuộc vào nó nữa. Tóm lại theo thuyết phân tâm học, mỗi một con người thì có 3 phần: bản năng, bản ngã/cái tôi và siêu bản ngã/siêu tôi. Những dấu ấn từ thời thơ ấu và rối nhiễu tâm thần học đã góp phần làm cho bản năng vượt trội hơn so với siêu bản ngã. Việc mất cân bằng giữa bản năng và siêu bản ngã/siêu tôi khiến cho một người dễ dàng tìm đến sử dụng và lạm dụng chất gây nghiện để tạo ra một sự cân bằng về tâm lý. 2. Thuyết nhận thức xã hội Một trong những tác giả ứng dụng thuyết cái tôi hiệu quả vào giải thích cho hành vi nghiện ma túy là A. Bandura. Theo thuyết nhận thức xã hội, việc đánh giá của xã hội về cái tôi hiệu quả cùng với tự đánh giá của mỗi cá nhân là yếu tố thúc đẩy hoạt động cụ thể để đi tới mục đích. Niềm hy vọng thành công thúc đẩy con người hoạt động, bên cạnh đó thông tin phản hồi từ xã hội tạo nên cái tôi hiệu quả của cá nhân từ đó đóng góp vào tạo nên thành công. Nếu cá nhân có cảm giác về cái tôi không hiệu quả, họ sẽ cảm thấy mình yếu đuối cùng với sự đánh giá tiêu cực của xã hội sẽ làm họ giảm đi niềm tin vào bản thân, từ đó họ dễ làm điều gì đó trong đó có sử dụng ma túy để khẳng định bản thân, Những người sử dụng và thường tái nghiện là những người có cái tôi không hiệu quả, có cái nhìn tiêu cực về bản thân. Cái tôi hiệu quả thể hiện ở ý thức tự trọng, tự đánh giá và sự thành thạo của cá nhân khi giải quyết những vấn đề của cuộc sống. Dựa trên lý thuyết của A.Bandura có thể giải thích nếu tạo nên cái tôi hiệu quả ở mỗi cá nhân sẽ tác động tới điều chỉnh hành vi của người nghiện. Người không sử dụng ma túy hoặc đã sử dụng rồi có thể cai nghiện khi họ nhận thức tích cực về bản thân mình, họ xác định được khả năng đối đầu và ứng phó với các sự kiện diễn ra trong cuộc sống thậm chí bản thân họ có năng lực khắc phục những trở ngại. Họ không ngừng tìm kiếm và khám phá những thử thách, phát huy sức mạnh của mình để đạt được mục đích đã xác định. Việc giúp cho cá nhân nhận thức cái tôi của mình tích cực sẽ giúp họ điều chỉnh hành vi nghiện ma túy. Theo ông nhận thức của xã hội, đánh giá của xã hội tích cực giúp cá nhân nhận thức được khả năng của mình theo hướng tích cực, tạo nên ý nghĩa quan trọng cho khả năng của bản thân, điều này có ý nghĩa rất lớn để họ giải quyết vấn đề. Đây chính là việc giúp họ tạo nên cái tôi hiệu quả cho bản thân và nó có ý nghĩa quan trọng hơn cả khả năng thực sự của họ. Khi 46 CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy
  45. cá nhân có được cái tôi hiệu quả tức là họ đã có khả năng đánh giá tích cực được bản thân trong các nỗ lực từ bỏ ma túy. Trong can thiệp điều trị nghiện những chương trình trị liệu hướng tới tăng cường cái tôi hiệu quả sẽ giúp cho họ vượt qua sự sợ hãi, cảm giác bất lực để ứng phó ứng hợp lý với hoàn cảnh. Bên cạnh đó, lý thuyết này cũng đề cập đến việc thay đổi hành vi không bình thường thậm chí là hành vi rối nhiễu bằng phương pháp “Mô hình hóa”. Có nghĩa là bản thân khách hàng muốn cai nghiện thì cần học tập qua quan sát mô hình hóa trong những tình huống nhất định. Chẳng hạn: khách hàng có thể xem video clip phim về những tấm gương của những người đã từ bỏ thành công ; những hình ảnh về gia đình: cha mẹ, vợ chồng, con cái phải chịu liên lụy như thế nào khi trong gia đình có một người nghiện ma tuý. Hoặc họ có thể nâng cao nhận thức về những vấn đề cơ bản của nghiện, cơ chế gây nghiện, các phương pháp trị liệu thay đổi hành vi qua học tập quan sát mô hình. Thông qua quan sát mô hình, A. Bandura khẳng định sự phát triển của nhận thức cá nhân từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng. Như vậy bản thân người nghiện ma túy không những có thể thay đổi được nhận thức mà còn thay đổi được cảm xúc và hành vi nghiện. Vị thành niên phụ thuộc vào chất gây nghiện thường bị thiếu hụt cái tôi nghiêm trọng. Chúng nhận thấy bản thân mình không nhạy cảm với sự thay đổi của cuộc sống và bị hạn chế trong việc quan tâm hay tò mò khám phá những cơ hội như: giáo dục, việc làm, vui chơi, giải trí lành mạnh Họ dường như bị rối loạn mãn tính ngay từ những năm đầu đời nên phản ứng đều bị hạn chế. Họ thường trải nghiệm cuộc sống nghèo nàn và không có cảm giác hài lòng trong cuộc sống mà chấp nhận sự thất vọng. Họ sẵn sàng từ chối nhiệm vụ, bỏ học ở trường, không hoàn thành công việc nơi công sở, họ không thể hình thành mục tiêu định hướng. Khả năng kiềm chế của họ cũng kém đi Vì vậy họ thường tìm kiếm và sử dụng heroin để đối phó với sự thất vọng và đau khổ, giảm thiểu sự lo lắng vì khi sử dụng heroin họ tìm thấy cảm giác thoải mái, thư giãn và yên bình. Hull J.G, Young R.D. (1986) đưa ra giả thuyết về mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiện và khả năng nhạy cảm và những trải nghiệm thất bại của cá nhân. Họ thấy rằng người thường có nhạy cảm cao cũng thường sử dụng chất gây nghiện nhiều hơn để làm giảm các trải nghiệm tiêu cực trong cuộc sống của mình. Qua nghiên cứu so sánh giữa những người dễ nhạy cảm, quan tâm tới thành công nhiều hơn với nhóm người ít nhạy cảm, ít quan tâm nhiều tới sự thành công hay thất bại, kết quả cho thấy những người nhạy cảm, hướng tới thành công thường dùng nhiều rượu hơn sau khi gặp thất bại so với nhóm người ít quan tâm tới sự thành công hay thất bại. Các nhà tâm lý học theo hướng này cũng giải thích việc cá nhân sử dụng chất gây nghiện nhằm giải tỏa những cảm giác tiêu cực mà họ đang phải đối mặt. Từ những kết quả nghiên cứu này họ CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy 47
  46. đưa ra đề xuất can thiệp đó là cần can thiệp “cái tôi”, giúp họ có sự nhạy cảm, nhận thức về bản thân một cách hợp lý để từ đó vượt qua những khó khăn trong cuộc sống một cách phù hợp. Như vậy, theo học thuyết nhận thức xã hội đã giải thích việc một số người có nhận thức về bản thân hoặc do xã hội đánh giá, nhận thức rằng họ kém cỏi (cái tối yếu kém), thì thường có nguy cơ sử dụng và lạm dụng chất gây nghiện cao hơn người khác. Họ sử dụng và nghiện là do những tác động tích cực của ma túy, vì khi sử dụng họ cảm thấy tự tin và dũng cảm hơn, quên đi những yếu kém của bản thân hoặc khẳng định mình không yếu kém. 3. Thuyết hành vi – Học tập xã hội Thuyết học tập xã hội giải thích việc sử dụng ma túy như là hành vi nhằm giải quyết vấn đề họ đang gặp phải từ đó giúp họ thích nghi và hòa nhập xã hội. Sử dụng ma túy giúp họ xóa bỏ những cảm giác tự ti, mặc cảm về bản thân khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống. Trong những giai đoạn đầu của quá trình phát triển “Thuyết hành vi” những khái niệm cơ bản là “kích thích-S” và “phản ứng-R” (S-R). J.Watson nhà hành vi học đã khẳng định cần phải nghiên cứu hành vi của cơ thể nói chung bao gồm những phản xạ tự nhiên và những phản xạ đạt được kết quả nhất định tác động đến môi trường xung quanh. Ông gọi chung là “Phản ứng vận động”- phản ứng có thể là công khai hay ngầm ẩn. Phản ứng công khai là những phản ứng bên ngoài và có thể quan sát được, còn phản ứng ngầm ẩn là sự co bóp của các cơ quan bên trong, sự tiết dịch, các xung động thần kinh diễn ra bên trong cơ thể, đó là những thành tố của hành vi và có thể quan sát được qua việc sử dụng thiết bị. Điều này lý giải những người sử dụng ma túy không chỉ là những biểu hiện hành vi hút, chích bên ngoài mà bao hàm cả những hành vi bên trong cơ thể như sự co bóp các cơ bắp, sự truyền dẫn các xung động thần kinh Khi chất gây nghiện được đưa từ bên ngoài vào trong cơ thể sẽ làm cho cơ thể có những phản ứng nhất định cả bên trong và bên ngoài. Điều này lý giải tại sao người sử dụng ma túy không chỉ thay đổi những biểu hiện bên ngoài mà còn thay đổi cơ bản những biểu hiện bên trong cơ thể như cấu trúc não bộ, hệ thần kinh, các cơ quan nội tạng Tuy nhiên tư tưởng của J. Watson còn hạn chế ở việc phủ nhận ý thức như là một dạng đặc biệt điều chỉnh được hành vi, quy hành vi về các hành động thích ứng với kích thích bên ngoài cơ thể, tuyệt đối hóa môi trường bên ngoài, đồng nhất các nguyên tắc hoạt động sống của người và vật, đồng thời phủ nhận cả các cơ chế của hoạt động thần kinh. Muốn thay đổi được hành vi nghiện chỉ tập trung vào thay đổi môi trường sống, tạo điều kiện thay đổi các yếu tố kích thích bên ngoài tác động lên cơ thể (Phan Trọng Ngọ, 2003) Thuyết hành vi mới đã đưa các biến cố trung gian vào công thức Kích thích (S)- Phản ứng (R), họ xem xét và đưa yếu tố tâm lý - ý thức là một trong những yếu tố quan trọng trong hành vi. Một 48 CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy
  47. trong số thuyết hành vi có ảnh hưởng quyết định là thuyết hành vi nhận thức của E.C.Tolman và thuyết hành vi diễn dịch giả thuyết của K. Hull. Tác giả E.CTolman cho rằng hành vi bao gồm 5 biến độc lập: các kích thích của môi trường, các động cơ tâm lý, di truyền, sự dạy học từ trước và tuổi tác. Điều này lý giải tại sao hành vi nghiện không chỉ xuất phát từ một yếu tố nhất định mà luôn bị ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác nhau như sự sẵn có ma túy trong môi trường xã hội, yếu tố tâm lý bên trong, yếu tố sinh học, giáo dục và tuổi tác. (Phan Trọng Ngọ, 2003) Tác giả B. F. Skinner với nghiên cứu hành vi tạo tác (Operant) và kích thích củng cố. Theo ông, nếu như hành vi có điều kiện xuất hiện nhằm tiếp nhận một kích thích củng cố thì hành vi tạo tác xuất hiện nhằm tạo ra kích thích củng cố. Điều đó nghĩa là không chỉ làm đúng thì có được các kích thích củng cố (phần thưởng) mà còn tạo ra kích thích củng cố. Cường độ của hành vi tạo tác tăng lên nếu hành vi được kèm theo kích thích củng cố. Điều này lý giải cho việc khi một người sử dụng ma túy có những cảm giác phê, sướng, hưng phấn hoặc khích thích (những cảm giác tích cực được tạo ra) thì người đó luôn muốn thực hiện lại hành vi sử dụng ma túy để tiếp tục củng cố những cảm xúc tích cực. Bên cạnh đó hành vi tạo tác còn tác động đến môi trường xung quanh con người. B.F Skinner còn khẳng định: hậu quả của hành vi- những cái củng cố là các lực kiểm soát rất mạnh mẽ, nếu kiểm soát được củng cố thì kiểm soát được hành vi. Như vậy có thể ứng dụng “củng cố” hiệu quả trong việc giúp người sử dụng các chất dạng thuốc phiện có thể kiểm soát được hành vi sử dụng chất gây nghiện. Điều quan trọng phải làm sáng tỏ hành vi được củng cố và giúp cho có ý định cai các chất dạng thuốc phiện tin cậy vào củng cố. Có hai loại củng cố: củng cố tích cực và củng cố tiêu cực. Củng cố tích cực là sự củng cố hành vi bằng cách thể hiện một kích thích mong muốn sau khi xuất hiện hành vi. Chẳng hạn người đã cai được heroin, nhưng sẽ rơi vào trạng thái thèm nhớ, vì vậy mỗi khi xuất hiện cơn thèm nhớ thay vì việc biểu hiện cách cũ là tìm kiếm thuốc để sử dụng sẽ được thay bằng việc làm các cách để vượt qua cơn thèm nhớ (trò chuyện cùng bạn, người yêu, làm một công việc mình yêu thích ). Việc này chứng minh cho sự củng cố tích cực từ những điều mà người cai nghiện đã đạt được trong thời gian không sử dụng ma túy. “Thuyết hậu hành vi mới” bao gồm thuyết hành vi xã hội của J.Mid (1863 - 1931) và thuyết học tập xã hội của D.Rotter. J. Mid đã đưa ra quan điểm về tính có sẵn ngay từ đầu của hành vi. Ông nói: “Chúng tôi cố gắng giải thích hành vi cá nhân bằng các thuật ngữ hành vi có tổ chức của nhóm xã hội. Không giải thích được hành động xã hội nếu nó được thiết kế từ các kích thích và phản ứng. Nó phải được lấy như một chỉnh thể cơ động mà không có một bộ phận nào của nó được xem xét và nhận thức một cách tự thân”. Điều này lý giải tại sao những người sử dụng chất gây nghiện nhất là ma túy thường liên quan từ người này đến người khác. Nó liên quan đến sự trải nghiệm các chất dạng thuốc phiện của mỗi cá nhân từ các yếu tố: bản thân cá nhân, môi trường xã hội và chất gây nghiện họ sử dụng. Khi con người sử dụng ma túy, dường như CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy 49
  48. họ thực hiện các vai trò khác nhau, họ có thể đứng ở vị trí của người khác để cảm nhận thế giới xung quanh và đứng ở vị trí của họ để trải nghiệm bản thân. Cảm giác lâng lâng, phê phê của ma túy gây nên khiến họ có cảm nhận mình là người lý tưởng nào đó mà thực tế họ không thể có được. Ngay từ đầu ý thức cá nhân đã mang tính liên nhân cách nên người sử dụng ma túy thường ít khi dùng một mình mà dùng cùng nhóm người. Thuyết học tập xã hội giải thích hành vi nghiện có thể học được từ những người xung quanh thông qua quan sát và học tập mô hình. Một khi hành vi sử dụng ma túy đã học được thì nó được duy trì bởi các yếu tố nhận thức, kỳ vọng. Mặc dù những kích thích bên ngoài và củng cố có ảnh hưởng đến hành vi của con người nhưng bản chất và mức độ ảnh hưởng đó do nhân tố nhận thức của chủ thể quy định. Như vậy quá trình nhận thức là yếu tố quan trọng để hòa giải các ảnh hưởng từ môi trường. Do đó khi can thiệp cho người lạm dụng ma túy có thể giúp họ học tập những hành vi mới lành mạnh để thay thế hành vi sử dụng ma túy. Theo thuyết hành vi học tập thì con người có thể tự điều chỉnh được hành vi của mình thông qua những tiêu chuẩn bên trong như ý chí, quyết tâm đánh giá và tự đánh giá bản thân cũng như hành vi của mình, tự đánh giá sự tương tác giữa môi trường và hành vi của bản thân. Những người lạm dụng ma túy thường hay nghi ngờ khả năng của mình trong việc phục hồi tái phát vì thiếu hụt cái tôi hiệu quả. Vì vậy, cần giúp họ khẳng định được bản thân bằng việc học tập những hành vi mới tích cực. Cũng có nhà theo thuyết hành vi giải thích việc sử dụng lặp đi lặp lại ma túy được xem như hành vi được củng cố bằng những cảm giác tích cực họ có được khi sử dụng chất gây nghiện, đồng thời họ gạt bỏ những tình cảmtiêu cực. Người ta giải thích sự nghe thấy, hình ảnh, sự kiện gắn với ma túy như là một dạng kích thích có điều kiện, chính những yếu tố đó gây cảm giác thiếu thuốc ở người nghiện ma túy. Từ những giải thích trên, các nhà trị liệu theo hướng này đề xuất cách thức can thiệp nên đi cùng với môi trường có các giá trị tích cực, trải nghiệm tích cực đối với người nghiện, điều này sẽ giúp họ thiết lập và củng cố các phản xạ có điều kiện, nói cách khác là thiết lập và củng cố những hành vi tích cực. Đây là căn cứ cho việc thiết lập môi trường gia đình và xã hội đặc biệt trong gia đình khi cần có những người cha mẹ có kỹ năng để biết cách ứng xử và điều tiết cách ứng xử của mình với con cái khi họ có những đứa trẻ bị lệ thuộc vào ma túy. Một khía cạnh khác giải thích việc sử dụng ma túy hay chất gây nghiện theo thuyết hành vi, là những người có vấn đề về hành vi thì có nguy cơ sử dụng ma túy hay chất gây nghiện cao hơn những người bình thường khác. Ví dụ, trong lớp học, hay gia đình hay một khu phố nhỏ nào đó có người thường hay gây rối, mất trật tự, gây hấn, quậy phá người khác, phản kháng các ý kiến lặp luận của những người xung quanh thì chính người này có nguy cơ tìm đến sử dụng ma túy hay chất gây nghiện cao hơn những người khác. 50 CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy
  49. 4. Thuyết hệ thống Cá nhân tồn tại trong một hệ thống: gia đình, trường học, cộng đồng, hàng xóm Những vấn đề nghiện cần được xem xét trong một chuỗi các yếu tố xung quanh họ chứ không chỉ bản thân người nghiện Ví dụ như mâu thuẫn trong gia đình có nguy cơ sẽ gây bất ổn tâm lý của các thành viên trong gia đình. Madanes (1984) cho rằng xung đột giữa cha và mẹ khiến cho trẻ có thể có các hành vi rối nhiễu và hành vi này được nhìn nhận như một cách phản ứng của trẻ để níu kéo cha mẹ, giúp cho cha mẹ giảm bớt những xung đột và trở lại bình thường như vốn có. Liên hệ với trường hợp gia đình có con nghiện ma túy, ông giải thích rằng lúc đầu chỉ là hành vi chống đối bố mẹ, sau đó có thể vi phạm pháp luật từ không công khai rồi tiến tới công khai. Cũng từ đó trật tự gia đình, tuyền thống văn hóa gia đình sẽ bị thay đổi. Sức ép tạo nên trong gia đình không phải là người cha, mẹ mà là người con nghiện ma túy. Nói chung khi làm việc với người sử dụng ma túy và người nghiện, các nhà tâm lý cho rằng không chỉ duy trì các phương pháp trị liệu chủ đạo mà còn chia sẻ mục tiêu về cân bằng tâm lý giữa các hệ thống. Sử dụng thuốc trong y tế cần có sự cải thiện tập trung vào sự sống và ngăn ngừa những yếu tố nguy cơ có liên quan đến nghiện. Các nhà tâm lý học lâm sàng nhấn mạnh các ứng dụng có sự cân bằng tâm lý giữa các hệ thống bên trong cơ thể con người và hệ thống bên ngoài cũng như mục tiêu cân bằng giữa sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần. Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng: các nhà tham vấn/tư vấn và nhà giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và giúp người sử dụng ma tuý thay đổi được hành vi nhằm tăng cường sức khỏe và phúc lợi của cộng đồng. Trong điều trị lâm sàng của việc nghiện cần nâng cao các liệu pháp trị liệu thay thế bằng thuốc về mặt thực thể, nhận thức và thay đổi hành vi về mặt tâm lý. Để điều trị thành công với người nghiện ma túy và nghiện rượu theo các nhà tâm lý cần phải giúp cho khách hàng và nhân viên tư vấn hiểu được sâu sắc cơ chế thực của việc nghiện giúp họ đóng một vai trò tích cực trong việc hỗ trợ chính bản thân hiểu về những động lực trong tầng vô thức để họ có được sự thay đổi tích cực. Thực tế trong cuộc sống hàng ngày của người lạm dụng chất gây nghiện không thể tránh khỏi những căng thẳng (stress) do phải đối mặt với những áp lực từ gia đình cũng như môi trường xã hội. Vì vậy, phải giúp họ học được cách rèn luyện để tăng cường sức mạnh của bản thân để tránh những cảm xúc và suy nghĩ tiêu cực thông qua những biểu hiện yêu thương bằng cả trái tim và tâm trí của khách hàng và của tư vấn viên. CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy 51
  50. 5. Thuyết các yếu tố xã hội Những nhà khoa học theo trường phái này có nhiều yếu tố xã hội tác động và dần tới vấn đề nghiện ví dụ như cảm giác bị cô lập, loại trừ khỏi xã hội, sự thất bại trong học tập, lao động đặc biệt là đối với thanh thiếu niên. Người ta cũng tìm thấy có tỷ lệ thuận giữa tỷ lệ thất nghiệp và việc sử dụng ma túy ở thanh niên. Những tệ nạn xã hội, những tiêu cực xã hội cũng được xem là một trong những yếu tố làm gia tăng việc sử dụng ma túy nhất là ở lớp trẻ. Cuộc sống hiện đại với sự độc lập, tự lập cao của cá nhân, sự phá vỡ cơ cấu gia đình truyền thống, thay vào đó là gia đình hạt nhân, hay cuộc sống đơn thân khiến cho con người có xu hướng đơn lẻ, cô đôc nhiều hơn. Do mối quan hệ xã hội gia đình lỏng lẻo, trong khi bản lĩnh của trẻ ở tuổi thanh thiếu niên chưa vững vàng, điều này khiến cho dễ tìm tới những giá tiêu cực ngoài gia đình và cùng với nó là sự phản kháng và chống đối xã hội cũng một phần nhằm khẳng định vị trí của họ tỏng xã hội. Ma túy chính là giải pháp cho mục đích này. Sự thiếu hụt tương tác giữa cha mẹ với con cái hay sự kiểm soát quá nghiêm khắc với con cái cũng được đề cập tới như là một nguyên nhân tiềm ẩn của của việc lạm dụng chất gây nghiện ở đứa trẻ. Do vậy người ta khuyến cáo tăng cường sự giao tiếp giữa cha mẹ và con cái sẽ tăng cường vốn xã hội, khả năng ứng phó của trẻ với những khó khăn từ đó hạn chế những nguy cơ hay những hành vi tiêu cực ở trẻ. Cha mẹ trong gia đình có ảnh hưởng rât lớn tới xu hướng sử dụng ma túy ở con cái của họ. Nếu cha mẹ lạm dụng chất gây nghiện sẽ có nguy cơ cao đối với việc sử dụng các chất gây nghiện ở trẻ sau này (Chassin, 1998). Sự vắng thiếu sự chăm sóc của cha mẹ với con cái cũng là tiềm ẩn cho việc sử dụng ma túy ở trẻ sau này (Gorsuch và Butler, 1976). Trẻ không được cha mẹ hay ai đó chăm sóc, trẻ dễ bị ảnh hưởng xấu bởi mối quan hệ bạn bè, hàng xóm, cộng đồng không tích cực. Trẻ sống trong môi trường xã hội luôn chịu ảnh hưởng của các yếu tố xã hội bao gồm yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ. Tuy nhiên khi trẻ sống trong môi trường sống không an toàn, không lành mạnh thì các yếu tố bảo vệ sẽ bị hạn chế thay vào đó là yếu tố nguy cơ lấn át. Tuy nhiên, một số tài liệu khác lại chỉ ra mối quan hệ khác biệt giữa trẻ em sống trong gia đình kinh tế khá giả dễ bị lạm dụng ma túy nhiều hơn trẻ sống trong gia đình có kinh tế hạn chế. Tuy nhiên hiện tượng trẻ sống trong gia đình nghèo lại bị ép buộc vào con đường buôn bán ma túy bởi các yếu tố nguy cơ trong xã hội như bạn bè xấu lôi kéo, sức ép từ những người buôn ma túy hay từ chính các nhu cầu mong muốn làm giàu nhanh chóng của người nghèo. Thậm chí trong môi trường sống dễ dàng tiếp cận được với các chất gây nghiện sẵn có. Chẳng hạn 52 CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy
  51. như một công nhân xây dựng về bản chất tốt đẹp, ngoan hiền chưa bao giờ sử dụng chất gây nghiện nhưng khi đi làm trong môi trường xây dựng có nhiều người sử dụng, anh ta dễ dàng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố đó. Hoặc anh ta làm việc trên vùng núi cao, nơi thuốc phiện có thể được trồng ngay những con đường đi có thể ngắt được cả hoa, quả Như vậy, các yếu tố tiêu cực trong môi trường xã hội (gia đình hay ngoài xã hội, cộng đồng dân cư, lớp học, nơi làm việc ) có thể là những nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp tới việc sử dụng chất gây nghiên (ma túy) của cá nhân. Việc can thiệp điều trị nghiện cần tác động tạo thay đổi cả các yếu tố từ môi trường xung quan người nghiện III. Các học thuyết xã hội học 1. Mô hình các yếu tố ảnh hướng đến việc sử dụng chất gây nghiện Trong thế kỷ XVII, tiệc rượu thường được tổ chức trong các buổi lễ hội trang trọng của xã hội. Ở nhiều nơi, rượu còn được coi là một thứ có giá trị trong cộng đồng. Tuy nhiên cũng tại thời điểm này con người dần được coi là tách biệt khỏi thiên nhiên, có ý chí tự do và có khả năng chịu trách nhiệm cho hành vi của họ. Điều này trái ngược với quan điểm của hành vi động vật được xem như là kết quả của những ham muốn sinh học. Những người lạm dụng rượu sẽ được xem là những người đáng bị trừng phạt vì không kiểm soát được thói quen của họ. Điều này trùng với quan điểm của Thomas Szasz trong năm 1960 liên quan đến việc điều trị của các cá nhân bị bệnh tâm thần. Ông đưa ra rằng một người nào đó gán nhãn là “điên” là để loại bỏ trách nhiệm cá nhân của người đó. Gắn trách nhiệm với những hành vi của họ sẽ khiến con người sống có trách nhiệm hơn trong xã hội. Thế kỷ XIX và khái niệm đầu tiên về Bệnh tật liên quan tới sử dụng rượu Tại thời điểm đó, mọi người coi việc uống rượu như như một điều ác, người uống rượu được xem là nạn nhân của rượu. Khái niệm bệnh tật đầu tiên về việc nghiện ngập đã coi việc nghiện rượu là một căn bệnh. Người nghiện rượu được xem như là thụ động và chịu tác động của việc nghiện tiềm chất. Thế kỷ XX và khái niệm thứ hai về bệnh Chính phủ ở một số quốc gia lúc này nhận thức được rằng việc cấm tiêu thụ rượu là có vấn đề và ngược lại, rượu sẽ mang lại một khoản thu nhập đáng kể cho ngân sách qua việc thu thuế. CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy 53
  52. Do đó thái độ về hành vi uống rượu đã trở nên thoáng hơn. Chỉ có một bộ phận nhỏ những người uống rượu quá nhiều mới bị coi là có vấn đề. Số những người uống rượu còn lại thì dần được chấp nhận trong xã hội như là một thói quen bình thường. Mô hình phụ thuộc về thể chất Trước kia những giải thích về mặt sinh-hóa về các vấn đề nghiện đã tập trung sự chú ý vào việc con người sử dụng thuốc phiện hoặc morphin để cố gắng ngăn chặn sự suy yếu của thể chất. Những giải thích này đưa ra một giả thuyết rằng trong cơ thể con người có những chất làm suy yếu sức khỏe và chỉ có thuốc phiện hoặc ma túy mới có thể đối kháng với các chất đó và từ đó làm suy giảm bệnh tật. Giả thuyết cũng chỉ ra rằng bệnh tật là rất khó chữa trị và do đó chúng ta phải có trách nhiệm cung cấp thuốc phiện hoặc ma túy ngày càng nhiều hơn cho cơ thể của chúng ta. Tuy nhiên quan điểm này sau đó đã bị bác bỏ vì bệnh tật vẫn còn sau khi thuốc đã hết. Từ đó đã có sự giải thích chính xác hơn được đưa ra. Thuật ngữ “thể chất phụ thuộc hoặc sinh lý phụ thuộc” được sử dụng để mô tả trạng thái ngưng thuốc sẽ gây ra các hội chứng cai. Bản thân mô hình này cũng không giải thích sự khác biệt giữa các cá nhân cũng như mô hình bệnh tật. Hai mô hình này không tương thích nhưng lại thường được kết hợp với nhau. Ví dụ, có thể là một căn bệnh làm thay đổi tốc độ của sự phụ thuộc thể chất, hoặc có thể có một căn bệnh có thể thay đổi độ nhạy cảm của một người với thuốc. Mô hình củng cố tích cực Một giả thiết được tạo ra cho đến giữa những năm 1950 là hành vi nghiện là hành vi chỉ có ở con người. Những thí nghiệm để tạo ra việc nghiện ở các loài vật khác sẽ không thành công. Giả thuyết này vẫn được công nhận cho đến khi có những đột phá về công nghệ được thực hiện vào những năm 1950. Vào thời điểm đó, một số nhà nghiên cứu bắt đầu cho thấy động vật trong phòng thí nghiệm sẽ tìm hiểu để thực hiện một số hành vi mà chúng học được qua việc tiêm chích ma túy. Do ảnh hưởng của mô hình bị phụ thuộc thể chất, những nghiên cứu đầu tiên giả định rằng sự phụ thuộc về thể chất là rất cần thiết đối với việc tự cai nghiện. Vì vậy, chuột và khỉ lần đầu tiên được thí nghiệm thông qua việc giả định bị phụ thuộc vào thể chất. Ban đầu người ta chích morphin vào cơ thể chúng trong 1 khoảng thời gian. Sau đó, chúng được đặt trong một căn phòng có một đòn bẩy để cung cấp morphine thông qua một cái ống. Các loài động vật một cách nhanh chóng học được cách làm thế nào để lấy chất morphine đó. Và điều này chứng tỏ thuốc đã 54 CHƯƠNG 2 –– Các lý thuyết về nghiện ma túy