Giáo trình Công tác xã hội với đối tượng mại dâm

doc 53 trang hapham 100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Công tác xã hội với đối tượng mại dâm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgiao_trinh_cong_tac_xa_hoi_voi_doi_tuong_mai_dam.doc

Nội dung text: Giáo trình Công tác xã hội với đối tượng mại dâm

  1. BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI Chủ biên: Ths. Tiêu Thị Minh Hường Ths. Nguyễn Thị Vân GIÁO TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI ĐỐI TƯỢNG MẠI DÂM Hà Nội, tháng 9 năm 2012 1
  2. MỤC LỤC BÀI 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MẠI DÂM 5 1. Vấn đề mại dâm trên thế giới và Việt Nam 5 2. Một số kiến thức liên quan đến mại dâm 10 3. Những vấn đề cơ bản mà người mại dâm ở Việt Nam đang phải đối mặt 16 4. Vai trò, nhiệm vụ của nhân viên CTXH trong hỗ trợ người mại dâm 18 5. Luật pháp, chính sách của nhà nước Việt Nam trong phòng chống tệ nạn mại dâm 22 BÀI 2: KỲ THỊ VỚI NGƯỜI MẠI DÂM VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP GIẢM KỲ THỊ 24 1. Khái niệm kỳ thị với người mại dâm 24 2. Ảnh hưởng của kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm 29 3. Các biện pháp giảm kỳ thị với người mại dâm 31 4. Kỹ năng truyền thông thay đổi hành vi cho người mại dâm 32 BÀI 3: CHĂM SÓC SỨC KHOẺ, CHỮA BỆNH VÀ PHÒNG NGỪA GIẢM TÁC HẠI CHO NGƯỞI MẠI DÂM 38 1. Chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ cho người mại dâm 38 2. Kỹ năng tham vấn, xử lý khủng hoảng cho người mại dâm 39 3. Các dịch vụ xã hội hỗ trợ cho người mại dâm 43 BÀI 4: HỖ TRỢ TÁI HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO NGƯỜI MẠI DÂM 45 1. Các mạng lưới hỗ trợ người mại dâm tái hoà nhập cộng đồng 45 2. Hỗ trợ việc làm cho người mại dâm tái hòa nhập cộng đồng 46 3. Các kỹ năng vận động nguồn lực 50 2
  3. CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI ĐỐI TƯỢNG MẠI DÂM Người biên soạn: Th.s Tiêu Thị Minh Hường Th.s Nguyễn Thị Vân - Thời gian: 45 tiết - Yêu cầu đối với giảng viên + Tốt nghiệp trình độ cử nhân các chuyên ngành xã hội, Công tác xã hội + Có kiến thức, kỹ năng về CTXH trong trợ giúp người mại dâm + Có hiểu biết tổng quan về tình hình mại dâm trên thế giới và Việt nam + Có kỹ năng sử dụng các phương pháp giảng dạy cùng tham gia, sử dụng các phương pháp: Thuyết trình, bài tập sắm vai, thảo luận nhóm - Yêu cầu đối với học viên: Học viên là những cán bộ Xã. Phường hiện làm công tác chuyên trách và bán chuyên trách thuộc lĩnh vực LĐTBXH - Yêu cầu về cách đánh giá: + Thông qua ý thức tham gia đầy đủ, nhiệt tình của học viên + Thông qua các bài thảo luận nhóm - Yêu cầu về địa điểm thực hiện đào tạo: Thuận lợi cho đi lại, yên tĩnh cho quá trình giảng dạy - Yêu cầu về công tác tổ chức: Phòng hội thảo đủ rộng cho 50 người, trang thiết bị đầy đủ( máy chiếu, máy tính, giấy khổ lớn, bút dạ, băng dính, kéo ) Phần 2- Nội dung - Mục tiêu chung: 3
  4. Cung cấp cho cán bộ xã hội kiến thức và kỹ năng cần thiết hỗ trợ cho đối tượng mại dâm trong truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng và hoạt động trợ giúp giảm tác hại - Mục tiêu cụ thể Sau khoá học học viên cần nắm được: + Tổng quan chung về tình hình tệ nạn mại dâm trên thế giới, trong khu vực và Việt Nam + Nắm vững các khái niệm liên quan đến mại dâm, nguyên nhân, hậu quả và những khó khăn mà người mại dâm ở Việt Nam đang phải đối mặt + Hiểu được mục đích, phương pháp, kỹ năng CTXH trong trợ giúp đối tượng mại dâm + Vận dụng kiến thức, kỹ năng trong triển trợ giúp đối tượng mại dâm tại cộng đồng - Cấu trúc nội dung môn học: 4
  5. BÀI 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MẠI DÂM 1. Vấn đề mại dâm trên thế giới và Việt Nam 1.1.Tình hình chung về mại dâm trên thế giới - Tại Đức có khoảng 400.000 người mại dâm thường xuyên và nhiều người mại dâm cơ hội, số lượng những người này khác nhau tùy theo định nghĩa. Trong đó ước lượng là 95% phụ nữ và 5% nam giới. - TP Cologne (Đức) bắt đầu thu thuế mại dâm từ năm 2004 để lấy tiền trang trải sau khi các cuộc cải cách về chính sách khiến thành phố này thiếu tiền nghiêm trọng. Theo quy định này mỗi cô gái bán hoa phải nộp 200 USD mỗi tháng thay vì tự nguyện khai thuế thu nhập như trước kia. - Mỗi năm số thuế này thu được trên 1 triệu USD. Theo ước lượng của Hiệp hội những người mại dâm- Hội Hydra và của các tổ chức giúp đỡ khác có từ 100.000 đến 200.000 phụ nữ người ngoại quốc làm việc tại Đức như là người hành nghề mại dâm, trong số đó phần lớn và ngày càng tăng là phụ nữ đến từ Đông Âu, Columbia và châu Phi phía nam sa mạc Sahara là những vùng người mại dâm bị đưa đến. Nhiều phụ nữ bị băng đảng tội phạm đưa vào và cưỡng bức làm mại dâm. - Mại dâm tại Đức được pháp luật quy định. Hành động trao đổi tình dục để lấy tiền, không còn là phạm pháp nữa, nhờ vào Luật này mà mại dâm trở thành một quan hệ trao đổi được pháp luật thừa nhận. - Tòa án châu Âu đã nêu rõ là hoạt động mại dâm là một trong các nghề nghiệp, "là một phần của cuộc sống kinh tế của cộng đồng" (phán quyết của Tòa án châu Âu, ngày 20/11/2001) 5
  6. - Tại Hàn Quốc: theo Bộ Giới tính và Công bằng Gia đình ước tính nghề mại dâm đóng góp khoảng 4% vào GDP của quốc gia này. Theo các tổ chức xã hội, ước có khoảng 1,2 triệu phụ nữ hoạt động mại dâm (20% phụ nữ 18 đến 29 tuổi). Ước tính chính thức của Chính phủ Hàn Quốc thì con số này trên 500.000 người. - Mại dâm tương đối ít bị xã hội cấm kỵ vì quan niệm tự do tình dục (tự nguyện quan hệ không phải trả tiền) như tại các nước phương Tây. Đối với nam giới, việc được xem là bình thường là khi dẫn người đối tác kinh doanh vào các club “nhạy cảm" do doanh nghiệp chi trả; đối với phụ nữ thì mại dâm gần như lúc nào cũng là tự nguyện và được xem hoàn toàn một cách thực dụng như là một biện pháp để có tiền nhanh hơn so với việc làm bình thường. Chủ đề thường xuyên của các tờ báo khôi hài ở Nhật minh họa điều này, khi người cha hay bạn trai gặp chính con gái hay người yêu của mình trong lúc đến chơi một club có tiếp viên nữ phục vụ. - Ngược lại, các geisha Nhật Bản là một hình thức ca nhạc giải trí, thư giãn mà trong đó cũng có thể có hành động trao đổi tình dục. - Tại Thụy Điển: Mại dâm nói chung là bị cấm nhưng trái lại với các quốc gia khác, người mua dâm phạm luật chứ không phải người bán dâm. - Hà Lan trước đây cấm mại dâm, nay đã thay đổi, được cả thế giới coi là có chính sách thoáng đáng lo ngại: Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh mại dâm Khu đèn đỏ ở thủ đô Amsterdam là trung tâm sex của Hà Lan. - Không chỉ có Hà Lan tổ chức các “khu đèn đỏ” kiểu này. Quanh các khu phố Băng Cốc (Thái Lan), Phnôm Pênh (Campuchia) chúng ta cũng gặp nhiều khu đèn đỏ tương tự. 6
  7. - Ở Anh, luật chống tội phạm tập trung vào các chủ chứa ma cô và bọn dắt mối Bản thân mại dâm không bị coi là tội phạm nếu gái mại dâm sống một mình, phòng của cô ta không phải là nhà chứa (nhà chứa được định nghĩa là nơi có ít nhất hai phụ nữ với mục đích mại dâm). - Ấn Độ: Cũng là một quốc gia không cấm đoán tệ nạn mại dâm. Bức hình dưới đây ghi lại một cuộc biểu tình của người bán dâm. - Mại dâm phổ biến rộng rãi ở Thái Lan. Ở Băng Cốc có tới 60.000 gái mại dâm và 350 quán rượu trá hình, 130 hiệu massage và 100 vũ trường cộng với các khách sạn giải trí hộp đêm và nơi trình diễn thoát y. Ủy ban quốc tế của các luật gia thống kê tổng số gái mại dâm của Thái Lan vào những năm đầu thế kỷ XXI là gần 1 triệu người. - Một thống kê của Bộ Lao động Philippines cho biết, số gái mại dâm phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch là 150.000 người. Campuchia các cơ sở dịch vụ tình dục có nhiều các cô gái trẻ chờ đợi phục vụ khách. Tiếng là các dịch vụ này do nhà nước quản lý, gái mại dâm được khám sức khỏe, có bảo hiểm y tế, nhưng thực tế đằng sau các dịch vụ tình dục là các thế lực “xã hội đen”. 1.2. Tình hình chung về tệ nạn mại dâm ở Việt Nam Ở Việt Nam, tuy quan hệ tình dục không được nhắc đến một cách phổ biến trong lịch sử nhưng ở rất nhiều nơi, vẫn còn tồn tại những hình thức quan hệ giới tính được thực hiện theo kiểu hành lễ, hoặc được trưng bày công khai như là biểu tượng văn hoá. Các kiểu lễ hội thờ sinh thực khí trong kho tàng văn hoá dân gian Việt Nam và các hoạt động hành lễ trong các lễ hội đó, có thể khiến một số người liên tưởng đến hình thức hành dâm vì mục đích tôn giáo, tín ngưỡng của con người 7
  8. Thời kỳ phong kiến: Nằm giữa Ấn Độ Trung Quốc, Việt Nam đã được du nhập những trào lưu tư tưởng lớn của hai tiểu lục địa này. Phật, Nho và Lão giáo giữ một vai trò chủ đạo, chi phối sâu sắc đời sống tinh thần của người Việt Nam. Phật giáo đề cao tinh thần tiết dục nói chung của con người, Nho giáo đánh giá cao tiết hạnh của người phụ nữ, đề cao sự ổn định trong gia đình cũng như sự chừng mực trong quan hệ tình dục của người đàn ông. Trong khuôn khổ của hai hệ thống giá trị này, người đàn ông đứng đắn chỉ thỏa mãn nhu cầu tình dục trong khuôn khổ gia đình mình. Mọi hành vi quan hệ tình dục ngoài hôn nhân bị lên án và tự do yêu đương không được khuyến khích. Tuyệt nhiên, không có sự xuất hiện của mại dâm. Thời kỳ thực dân và tư bản chủ nghĩa : Cùng với sự lan truyền của chủ nghĩa tư bản và sự hình thành đô thị, mại dâm được mặc nhiên thừa nhận như một hoạt động thị trường giữa cung và cầu và được du nhập vào Việt Nam ( khoảng từ đầu thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, ở miền nam Việt Nam là đến những năm 1975). Sự hình thành hệ thống đô thị với một số lượng người gia tăng nhanh chóng cũng như sự giảm sút của kiểm soát cộng đồng là những điều kiện xã hội cần thiết cho sự hình thành và phát triển mại dâm. “buổi giao thời, nó là hình thức sinh hoạt có tính văn hóa nhiều hơn như hát cô đầu, hát ả đào để cùng với thời gian, nhu cầu thỏa mãn tình dục vứt hẳn cái vỏ sinh hoạt văn hóa thanh cao để chấp nhận quan hệ xác thịt trần trụi được thanh toán bằng tiền” ( Đặng Cảnh Khanh, ). Trong thời kỳ thực dân, ở nước ta vẫn có những nơi mà việc mua bán dâm thực hiện công khai như các xóm điếm phục vụ cho đội quân viễn chinh Dưới chế độ thuộc địa, chính quyền thực dân duy trì chế độ mại dâm để thu thuế. Vì vậy, trong xã hội nảy sinh hai loại gái mại dâm: một loại có giấy phép hành nghề và phải nộp thuế cho chính quyền thuộc địa, một loại hành nghề tự do và tự đi 8
  9. kiếm khách. Hầu hết, gái mại dâm ở thời kỳ này đều là gái tự do và không có giấy tờ. Chiến tranh và sự du nhập văn hóa Mỹ những năm 60 của thế kỷ XX vào Việt Nam là một nhân tố quan trọng cho việc hình thành và phát triển công nghiệp tình dục ở miền nam Việt Nam. Thời kỳ đó, nhằm phục vụ cho đạo quân viễn chinh hơn nửa triệu người của Mỹ, một số lượng đông đảo gái mại dâm đã được hình thành nên ở các đô thị miền nam và hệ lụy của nó là biến mại dâm trở thành một hoạt động có tính chất công nghiệp Sau 1954, hoà bình lập lại ở miền Bắc. Chính quyền trong thời kỳ cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa đã thi hành hàng loạt các biện pháp để xoá bỏ mại dâm. Sự tăng cường vai trò của các thiết chế xã hội, đặc biệt là vai trò của dư luận xã hội trong việc kiểm soát và ngăn chặn những hiện tượng xấu đã khiến nạn mại dâm bị đẩy lùi. Từ khi nước ta bước vào giai đoạn đổi mới, thực hiện cơ chế thị trường với nhiều điều kiện thông thoáng cả về kinh tế và xã hội. Những thay đổi này, đã dẫn đến sự biến đổi nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội cũng như kéo theo sự gia tăng ồ ạt của các loại tệ nạn xã hội, trong đó có tệ nạn mại dâm. Hiện tượng mại dâm tập trung nhiều ở các đô thị lớn, các khu du lịch hoặc quanh các khu công nghiệp, nơi có nhiều nam công nhân lao động xa nhà. Người mại dâm thường hoạt động lén lút, núp bóng, trá hình.Hiện nay, mại dâm phát sinh thêm một số hình thức hoạt động mới, đó là sự chuyển đổi vai trò của người mua và người bán, ngoài mại dâm nữ còn có thêm mại dâm nam Theo báo cáo “ Công tác phòng chống mại dâm và cai nghiện ma túy” 9 tháng đầu năm 2011 của Cục Phòng chống tệ nạn xã hội, Bộ Lao động Thương binh Xã hội: trên cả nước hiện có 86.547 cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng 9
  10. để hoạt động mại dâm, cụ thể: 48.213 cơ sở lưu trú (khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ), 7.198 quán karaoke, 367 vũ trường, 1.831 cơ sở xông hơi, mát xa và 27.512 quán cà phê, giải khát, cơ sở hớt tóc, gội đầu. Gái bán dâm ngày càng trẻ hóa, từ 16 - 18 tuổi chiếm 15,3%, từ 25 - 35 tuổi chiếm 35% và đông nhất là lứa tuổi rất trẻ: từ 18 - 25 tuổi chiếm 42%, đa số có trình độ học vấn thấp. Hiện tượng mại dâm vẫn diễn ra phức tạp, trá hình tinh vi dưới nhiều hình thức và gây quan ngại cho người dân sống xung quanh khu vực có tụ điểm mại dâm. Hiện nay, theo số liệu báo cáo thống kê chưa đầy đủ của các địa phương, số người bán dâm có hồ sơ quản lý là 14.802 đối tượng trong tổng số ước tính trên 30.000 người bán dâm. Hoạt động mại dâm vẫn diễn ra công khai và biến tướng trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ, mại dâm sử dụng công nghệ thông tin hiện đại qua mạng, qua internet, mại dâm tại khu vực biên giới, cửa khẩu, bến cảng; mại dâm nam, mại dâm đồng giới gia tăng; mại dâm theo hình thức du lịch nước ngoài vẫn có xu hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng mua bán phụ nữ, trẻ em đưa vào các tụ điểm mại dâm trong nước. 2. Một số kiến thức liên quan đến mại dâm 2.1. Khái niệm mại dâm - Khái niệm mại dâm Mại dâm có nguồn gốc là tiếng Latinh là Prostituere, có nghĩa ban đầu là sự phơi bày cho người khác xem, về sau mại dâm mang thêm nghĩa là một tình trạng mua bán dâm, một hình thức kinh doanh. Theo cách hiểu thông thường, mại dâm được xem là việc trao đổi tình dục để lấy tiền hoặc bất kỳ một giá trị vật chất nào. Thực chất, đây là hoạt động nhằm 10
  11. cung cấp sự thoả mãn tình dục cho người khác vì mục đích kinh doanh. Hoạt động tình dục này được thực hiện ngoài phạm vi hôn nhân. Theo từ điển Hán Việt ( Đào Duy Anh, 1951): Mại dâm có nghĩa là bán dâm và mãi dâm có nghĩa là mua dâm. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền, hoặc lợi ích vật chất khác, trả cho nguời bán dâm để đươc giao cấu. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền, hoặc lợi ích vật chất khác. Tuy nhiên, càng về sau, theo ngôn ngữ thông thường, người ta có xu hướng sử dụng mại dâm và mãi dâm theo cùng một nghĩa bao hàm cả hoạt động mua dâm và bán dâm. Mại dâm có thể được định nghĩa như việc trao đổi sự thỏa mãn tình dục lấy tiền hoặc bất cứ một giá trị vật chất khác. Mại dâm là mọt công việc kinh doanh nhằm cung cấp sự thỏa mãn tình duc cho cá nhân ngoài phạm vi chồng và bạn bè (Khuất Thu Hồng, 1992,5). Như vậy, khái niệm mại dâm có thể được hiểu như sau: Mại dâm là hành vi trao đổi có tính chất mua bán ngoài phạm vi hôn nhân, trong đó người bán dâm lấy cơ thể của mình và các hình thức làm tình để làm phương tiện thực hiện mục đích kiếm tiền hoặc các giá trị vật chất khác nhằm thỏa mãn tình dục cho khách hàng Mại dâm là hoạt động dùng dịch vụ tình dục ngoài hôn nhân giữa người mua dâm và người bán dâm để trao đổi với tiền bạc, vật chất hay quyền lợi. Đây là một hoạt động bất hợp pháp ở nhiều quốc gia trên thế giới. - Một số khái niệm liên quan: Pháp lệnh Phòng chống mại dâm do Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành ngày 14/03/2003 đã định nghĩa một số khái niệm liên quan đến mại dâm như sau: 11
  12. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác đề được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu. Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê, hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm. Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp để thực hiện việc mua dâm, bán dâm. Bảo kê mại dâm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm Mại dâm là một hoạt động bất hợp pháp ở Việt nam. Điều 4 Pháp lệnh Phòng chống mại dâm nghiêm cấm các hành vi mua dâm, bán dâm và những hành vi khác như chứa mại dâm, tổ chức hoạt động mại dâm,cưỡng bức bán dâm, môi giới mại dâm, bảo kê mại dâm, lợi dụng kinh doanh dịch vụ để hoạt động mại dâm và các hành vi liên quan khác. (Quốc Hội VN 2003, Pháp lệnh phòng chống mại dâm) 2.2.Nguyên nhân phát sinh mại dâm * Nguyên nhân khách quan: Phần lớn gái mại dâm đều xuất thân từ những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, đó là: - Những gia đình nghèo khó, đông con, thiếu việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập thấp hoặc không ổn định, thậm chí trong gia đình “người làm thì ít, người ăn thì nhiều”. Từ cảnh túng quẫn đó lại không có nguồn sống nào khác, cộng thêm những áp lực khác của cuộc sống như nợ nần vây hãm, rủi ro, bệnh tật, 12
  13. sự khuyến dụ của bọn săn lùng gái vì vậy buộc người phụ nữ hoặc là con em trong gia đình họ phải bước vào con đường mại dâm để kiếm tiền một cách nhanh nhất mà không cần vốn để tồn tại cho bản thân và gia đình họ. - Những gia đình bị đỗ vỡ, xung đột, rạn nứt như bố mẹ ly hôn, đi tù, trẻ em sống trong những gia đình này thường là sống với bố dượng, dì ghẻ, ông bà già yếu với tuổi đời còn non nớt, gia đình lại nhiều cảnh ngang trái, không co sự quan tâm, giúp đỡ của người thân thì việc các em tham gia vào hoạt động mại dâm rất dễ xảy ra. - Gia đình của một số gái mại dâm đã có người hoạt động mại dâm hoặc là chủ chứa, cò mồi đây là môi trường thuận lợi cho việc hình thành nhận thức lối sống lệch lạc trong các thành viên của gia đình họ nói chung và việc quyết định thực hiện bán dâm của người phụ nữ nói riêng. Bên cạnh đó, môi trường xã hội cũng tác động rất lớn đến các cô gái đi vào con đường mại dâm, đó là: - Sự buông lỏng của các cấp chính quyền không quản lý được số lượng dân cư trú và dòng người chuyển từ nơi khác, các hoạt động văn hóa trá hình - Sự giáo dục lỏng lẻo, không thống nhất giữa gia đình và nhà trường, bố mẹ trong gia đình do bận rộn với công việc kiếm tiền, không có thời gian quan tâm đến con cái, bên cạnh đó lại bị bạn bè xấu lôi kéo thì dễ dàng đẩy các em vào con đường mại dâm. - Văn hóa phẩm đồi trụy tầm thường, lối sống ngoại lai đã thấm vào một bộ phận thanh niên nam nữ bằng nhiều con đường, đã có ảnh hưởng rất lớn khi mà mọi chuẩn mực chưa được định hình, nhất là đối với tuổi trẻ, lứa tuổi năng động nhất và cũng nhạy cảm đối với những cái mới lạ dẫn các em đến lối sống ngoại nhập không còn chọn lọc, thử làm liều ngay với chính mình. 13
  14. * Nguyên nhân chủ quan: - Trình độ văn hóa thấp, nhận thức về con người và xã hội thấp, dễ bị sa ngã trong những hoàn cảnh khó khăn và dễ bị sự lôi kéo của bạn xấu. - Coi thường dư luận xã hội, có thái độ không tốt với những người xung quanh, không nghe những lời khuyên bảo đúng, có thái độ lười lao động. - Do có định hướng giá trị sai lệch dẫn đến quan niệm sống không theo đạo đức truyền thống của dân tộc. Sống gấp, thích hưởng thụ, thích ăn chơi, đua đòi, thích chạy theo mốt. - Tác động của toàn cầu hóa cũng là một nguyên nhân khiến cho tệ nạn mại dâm ngày càng phát triển. 2.3.Ảnh hưởng của tệ nạn mại dâm đối với sự phát triển kinh tế xã hội - Về sức khỏe: Hoạt động mại dâm thường dẫn đến suy kiệt về sức khỏe của đối tượng, 100% gái mại dâm bị bệnh xã hội như giang mai, lậu, các bệnh viêm nhiễm đường tình dục dẫn đến ảnh hưởng tới sự phát triển giống nòi do bị bệnh tật, ảnh hưởng đến thế hệ tương lai, và hơn nữa mại dâm gắn liền với nhiễm HIV là con đường nhanh nhất, dễ nhất dẫn đến AIDS – một căn bệnh thế kỷ đang trở thành đại dịch, hủy hoại sự sống của mỗi con người, của cả nhân loại không xa xôi mà đang là sự thật bày ra trước mắt. - Về kinh tế: Đa phần những con người đi vào con đường mại dâm, đầu tiên là lười lao động, làm ít chơi nhiều, kinh tế gia đình ngày càng suy kiệt. Làm ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế đất nước, tệ nạn mại dâm làm ảnh hưởng lớn đến nguồn lao động, nguồn lực tạo ra của cải vật chất cho xã hội. 14
  15. Tệ nạn mại dâm gây ra thiệt hại về kinh tế cho việc chi phí về chăm lo cho họ bằng nhiều cách như khám chữa bệnh, phục hồi, dạy nghề, tạo công ăn việc làm, cứu trợ những nạn nhân mắc bệnh AIDS chi phí cho các hoạt động khác như tuyên truyền phòng, chống tệ nạn này Tệ nạn mại dâm làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của các dự án đầu tư trong và ngoài nước. - Về xã hội: Làm xói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc, làm tha hóa một bộ phận dân cư và một số cán bộ, đảng viên, viên chức Nhà nước. Con người đã sa vào tệ nạn mại dâm, với tinh thần bệnh hoạn, thích ăn chơi trụy lạc, trước hết đời sống gia đình lục đục, con cái mất cha mẹ, vợ lìa chồng, tan vỡ hạnh phúc làm xói mòn đạo đức xã hội, mất đi thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. Làm mất an toàn xã hội vì có liên quan đến những hành vi vi phạm pháp luật và là điều kiện làm nảy sinh các sai phạm khác; đồng hành với mại dâm là nghiện hút, cờ bạc, tội phạm hình sự (bảo kê, ma – cô), trộm cắp, bạo hành, ảnh hưởng nặng nề đến an toàn xã hội. Người ta cũng ví von rằng “mại dâm là bạn đồng hành với tội phạm và là hình bóng của AIDS”. Bởi vậy, việc ngăn chặn, bài trừ tệ nạn mại dâm đã và đang trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu không chỉ của riêng Đảng và Nhà nước ta mà còn là của toàn xã hội, của tất cả mọi người. 2.4.Đặc điểm tâm lý người mại dâm - Tầm nhìn hạn chế, suy nghĩ nông cạn, hời hợt, ít hiểu biết xã hội, ý thức được việc mình làm nhưng không quan tâm đến hậu quả cũng như tác hại của việc họ làm. Người mại dâm coi hành vi bán dâm như một công việc để kiếm tiền dễ dàng nên bất chấp dư luận, chuẩn mực đạo đức và luật pháp . 15
  16. - Xúc cảm, tình cảm của người mại dâm thường không ổn định, có nhiều xáo trộn, hay xúc động, dễ bị tổn thương - Về mặt ý chí: người mại dâm thường thiếu nghị lực, thiếu tự tin.Tình cảm mất cân bằng, không ổn định, hay nổi nóng. - Hệ thống nhu cầu của người mại dâm rất nghèo nàn. Chủ yếu tập trung vào sự thỏa mãn nhu cầu vật chất còn các nhu cầu văn hóa, tinh thần và nhu cầu giao tiếp có phần hạn chế. - Động cơ của người mại dâm khi đi bán dâm là vì tiền. Đồng tiền làm ra dễ dàng nên họ họ sẵn sàng bỏ ra ăn, chơi đua đòi - Quan hệ liên nhân cách của người mại dâm dễ bị những người xung quanh điều khiển rủ rê, lôi kéo, thiếu tính quyết đoán và không tự hành động theo bản thân - Quan niệm cuộc đời và định hướng giá trị của người mại dâm mang tính chất tiêu cực - Có không ít người mại dâm có tâm lý bất cần, trả thù đời, buông xuôi. Đặc biệt là người mại dâm nghiện ma túy, nhiễm HIV 3. Những vấn đề cơ bản mà người mại dâm ở Việt Nam đang phải đối mặt Hoạt động mại dâm không chỉ làm cho những người bán dâm bị người đời khinh rẻ, bị xã hội lên án mà bản thân họ cũng gặp không ít những khó khăn khi phải đối mặt như nguy cơ bị bạo hành tình dục hay bị khách quỵt tiền và bị giết. Chưa hết họ còn có thể bị chủ chứa bạo hành vì không chịu nghe lời và nhiễm các căn bệnh lây qua đường tình dục như HIV/AIDS, lậu, giang mai. 16
  17. Bị bạo hành tình dục, bạo hành thể chất là điểu không thể tránh khỏi đối với những người bán dâm bởi họ chỉ là công cụ thỏa mãn nhu cầu dục vọng của khách mua dâm chứ không phải là quan hệ bằng tình yêu, và họ phục vụ cho rất nhiều người đàn ông thì có người như thế này, người thế kia là bình thường. Thực tế có rất nhiều người đàn ông bệnh hoạn thích khi quan hệ phải dùng những biện pháp mạnh như đánh, đạp, véo và chỉ sung mãn khi thấy người tình của mình đau đớn. Hay cũng có rất nhiều người quá khỏe, nhu cầu của họ rất cao khi bản thân những cô gái này không thể đáp ứng được thì cũng sẽ bị đánh. Và việc bạo hành gái mại dâm còn đáng sợ hơn rất nhiều với những bạo hành khác bởi họ không thể lên tiếng, không được bảo vệ mà chỉ có thể im lặng chấp nhận, chịu đựng. Nguy cơ thứ hai mà gái mại dâm thường phải đối mặt đó chính là bị khách quỵt tiền và bị giết. Trên báo chí có rất nhiều vụ đăng tin gái mại dâm bị giết ở khách sạn này, nhà nghỉ nọ. Có rất nhiều khách mua dâm khi thỏa mãn nhu cầu của bản thân lại không muốn trả tiền hoặc không có tiền để trả nên tìm bài chuồn. Đây không chỉ xảy ra với một người mà hầu hết các cô gái này đều bị rơi vào hoàn cảnh này và không phải chỉ một lần bởi đàn ông nhiều người không phải ai cũng tốt. Nếu không cẩn thận thì nếu cứ đòi thì họ còn bị đánh thậm tệ. Bởi khi chấp nhận bước vào con đường này bản thân họ đã bị xem thường, họ không còn được xem là con người mà chỉ là những món hàng, những con rối mua vui cho đàn ông. Vậy họ làm gì được cảm thông, được trân trọng, và có nhiều người còn bị giết một cách dã man. Không phải bất cứ người bán dâm nào cũng đều là tự nguyện đi theo con đường này mà không ít cô gái là vì bị bán, bị lừa bắt phải bán dâm. Rất nhiều người khi chống cự không bán dâm thì bị chủ chứa đánh tới thừa sống thiếu chết, đánh không thương tiếc để làm gương cho người khác vì có hành vi chống đối hay 17
  18. muốn bỏ trốn, đánh xong thì nhốt, bỏ đói cho tới lúc nào chấp nhận làm theo yêu cầu của chúng. Họ không còn được xem là con người mà chỉ là những món hàng trong tay người khác, họ không có quyền được lên tiếng và môi trường của họ lại gặp không ít những nguy cơ, rủi ro. 4. Vai trò, nhiệm vụ của nhân viên CTXH trong hỗ trợ người mại dâm Con người khi sa ngã luôn cần một chỗ dựa một nơi khơi dậy niềm tin vào cuộc sống để họ có thể bước tiếp làm lại cuộc đời quên đi quãng thời gian đã qua.đó chính là vai trò lớn nhất của nhân viên công tác xã hội. Có thể mại dâm không thể hết trong một sớm một chiều nhưng hy vọng rằng với những hỗ trợ đúng đắn và kịp thời thì mại dâm hạn chế được phần nào tác hại của nó. - Vậy cần hiểu CTXH với người mại dâm là gì? Là sự vận dụng các kiến thức chuyên môn CTXH và các kiến thức liên quan đến mại dâm nhằm tác động khôi phục chức năng sinh, tâm lý và chức năng xã hội, giải quyết các vấn đề liên quan đến người mại dâm. Can thiệp, trợ giúp họ thoả mãn các nhu cầu. Đồng thời, ngăn chặn và giảm tác hại từ nhóm người này trong xã hội . - Mục đích của CTXH với người mại dâm - Trợ giúp người mại dâm nâng cao nhận thức - Trợ giúp người mại dâm thoả mãn các nhu cầu - Thay đổi tích cực nhận thức của cộng đồng: thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi đối với người mai dâm, gia đình người mại dâm 18
  19. - Tác động xây dựng chính sách và cơ chế phù hợp đảm bảo các điều kiện cần thiết cho người mại dâm hoàn lương: chính sách hỗ trợ, thực thi luật nghiêm túc (chẳng hạn: xử lý những trường hợp kỳ thị người mại dâm hoàn lương) - Khẳng định vai trò, ý nghĩa – giá trị của khoa học và nghề chuyên môn Công tác xã hội tác nghiệp trợ giúp với đối tượng đặc biệt: người mại dâm và gia đình người mại dâm, người liên quan đến mại dâm + Góp phần hạn chế sự lây lan của đại dịch HIV và những ảnh hưởng tiêu cực gây ra bởi sự kỳ thị hay hạn chế của những phương pháp, hoạt động giải quyết vấn đề liên quan đến nhóm mại dâm. - Các hoạt động của nhân viên CTXH hỗ trợ người mại dâm tại địa phương. + Đối với bản thân người mại dâm 1.Tiếp xúc để hiểu rõ hoàn cảnh của đối tượng, giải thích cho đối tượng rõ các nguy cơ về sức khỏe, an toàn khi bán dâm 2.Cùng bàn bạc với người mại dâm về các giải pháp, hướng thay đổi công việc trong tương lai. 3.Giới thiệu, kết nối các dịch vụ trợ giúp cho người mại dâm: khám chữa bệnh xã hội, cai nghiện, . Thuyết phục, động viên những mặt tốt của đối tượng, hướng thiện để đối tượng từ bỏ công việc đang làm. Cung cấp các hỗ trợ cần thiết khi họ sẵn sàng thay đổi( ví dụ: hổ trợ y tế, sinh hoạt giáo dục, lao động và vui chơi giải trí ). 4.Giới thiệu cho người bán dâm một số dịch vụ giảm tác hại: ví dụ như dịch vụ Bao cao su miến phí, bơm kim tiêm sạch 19
  20. 5.Hổ trợ tâm lý xã hội trong cộng đồng để giúp người mại dâm tái hòa nhập cộng đồng. ví dụ như thiết lập mối quan hệ thân thiện, tránh mặc cảm xa lánh người nghiện, cung cấp dịch vụ tư vấn khi cần thiết. 6.Tổ chức các câu lạc bộ, các nhóm đồng đẳng, có sinh hoạt định kỳ, các thành viên giúp đỡ nhau về mặt tâm lý để vượt qua sự cám dỗ của ma túy, các hoạt động giải trí khác nhằm làm đối tượng thích nghi trở lại với cuộc sống. 7.Liên hệ với các trung tâm giới thiệu việc làm, các cơ sở sản xuất để người mại dâm có việc làm, tự lập về kinh tế sau khi tái hòa nhập cộng đồng. 8.Giúp bản thân người mại dâm tự diều chỉnh bản thân để hòa nhập với gia đình, có trách nhiệm với gia đình. Đối với gia đình 1. Cung cấp thông tin cho gia đình về sự nguy hiểm của công việc, sự cám dỗ của các tệ nạn ma túy, buôn bán người 2. Giúp người mại dâm giải quyết các mối xung đột giữa các thành viên trong gia đình để họ được sống trong môi trường hòa thuận. 3. .Thuyết phục để gia đình quan tâm thương yêu và tin tưởng người mại dâm, gần gũi, dẫn dắt, nâng đỡ để họ vượt qua khó khăn. Từ đó họ tìm thấy được chỗ dựa về tinh thần, vật chất nhanh chóng thích ứng lại trong sinh hoạt và cuộc sống. 4. Kết hợp với các tổ chức xã hội để kết nối dịch vụ trợ giúp đồng bộ cho người mại dâm hoàn lương Đối với cộng đồng 1. .Tuyên truyền phổ biến kiến thức về tác hạị và nguy cơ bị lôi kéo vào con đường mại dâm và cách phòng chống tại cộng đồng. 20
  21. 2. .Giáo dục ý thức không xa lánh người maị dâm. Động viên mọi người có trách nhiệm nâng đỡ họ. 3. .Tạo điều kiện cho người mại dâm được học tập, làm việc tại cộng đồng. Hổ trợ các yếu tố vật chất, y tế vì khi mới trở về cộng đồng còn gặp nhiều khó khăn. 4. .Liên kết nhiều ngành, nhiều đoàn thể trong công việc chống nghiện mại dâm và buôn bán người. - Kiến thức, kỹ năng cần có của nhân viên CTXH trơ giúp người mại dâm Kiến thức: NVCTXH cần có kiến thức tổng quan về vấn đề mại dâm trên Thế giới và Việt Nam + Kiến thức về CTXH với người mại dâm + Các kiến thức tổng hợp về Chính sách xã hội, An sinh xã hội và Công tác xã hội + Đồng thời cần có kiến thức về các khoa học xã hội. Thái độ - Tôn trọng người mại dâm - Thái độ thấu cảm với người mại dâm - Thái độ tự chủ - Thái độ khách quan Kỹ năng 21
  22. - Kỹ năng giao tiếp: tiếp cận, tạo dựng niềm tin và duy trì mối quan hệ với người mại dâm và các đối tượng liên quan( chủ chứa, má mì, chủ nhà hàng khách sạn, công an, dân phòng ) - Kỹ năng thuyết phục - Kỹ năng thu thập, xử lý thông tin qua quan sát, điều tra, phỏng vấn . - Kỹ năng huy động, liên kết nguồn lực hỗ trợ và giải quyết vấn đề của người mại dâm 5. Luật pháp, chính sách của nhà nước Việt Nam trong phòng chống tệ nạn mại dâm Hệ thống văn bản pháp lý về phòng, chống mại dâm ở Việt Nam khá đầy đủ và đồng bộ từ các quy định về các nguyên tắc, biện pháp, trách nhiệm của các chủ thể khác nhau trong hoạt động phòng chống mại dâm cho đến các chế tài để xử lý các hành vi vi phạm. Pháp lệnh phòng, chống mại dâm được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 thông qua ngày 14 tháng 3 năm 2003 là văn bản pháp luật cao nhất cho đến nay đối với việc quản lý mại dâm ở Việt Nam. Pháp lệnh có 41 điều được quy định trong 6 chương. Ngoài ra còn có một số văn bản pháp luật khác như Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15/10/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm, một số điều của Bộ Luật Hình sự, pháp luật xử lý vi phạm hành chính, pháp luật phòng chống bạo lực gia đình. Các chương trình hành động, phòng chống tệ nạn mại dâm giai đoạn 2001 – 2005; Chương trình phối hợp liên ngành phòng, chống mại dâm giai đoạn 2006 – 22
  23. 2010; Chương trình hành động phòng, chống mại dâm giai đoạn 2011 – 2015 ( Quyết định số 679/QĐ-TTg ngày 10/5/2011) 23
  24. BÀI 2: KỲ THỊ VỚI NGƯỜI MẠI DÂM VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP GIẢM KỲ THỊ 1. Khái niệm kỳ thị với người mại dâm - Khái niệm tự kỳ thị, kỳ thị Các quan niệm, thái độ trái ngược nhau của cộng đồng đối với mại dâm và người mại dâm hiện nay thể hiện những thay đổi trong hệ thống giá trị và lối sống đang diễn ra trong xã hội Việt Nam. Nhìn chung thái độ của cộng đồng đối người là không tán thành với mại dâm. Kỳ thị theo nghĩa Hán việt, tức là nhìn, coi ai đó kỳ lạ, kỳ cục. Kỳ thị người mại dâm có nghĩa là gán cho người mại dâm một nhận dạng xấu, nhìn thấy ở họ sự khác biệt về hành vi và đánh dấu sự khác biệt đó như một điểm tiêu cực, một dấu hiệu bị ghét bỏ. Kỳ thị với người mại dâm là tin rằng người mại dâm ở vị trí thấp kém hơn những người “ bình thường” khác và họ làm những việc xấu xa trái với đạo đức và trái với chuẩn mực xã hội ( quan hệ tình dục với nhiều người, kiếm sống bằng thân thể của mình, phá hoại hạnh phúc gia đình người khác .) . Từ những suy nghĩ và quan niệm mang tính kỳ thị dẫn tới việc phân biệt đối xử với người mại dâm: đối xử không công bằng với người mại dâm, ví dụ: không cho họ có cơ hội tham gia các sinh hoạt cộng đồng, không thiết lập mối quan hệ xã hội với họ Nếu như kỳ thị tồn tại trong suy nghĩ, trong quan niệm, thì phân biệt đối xử chính là hành động, thể hiện bằng hành động. Kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm là một quá trình: thứ nhất là gán nhãn cho người mại dâm có sự khác biệt với phần đông những người khác. 24
  25. Thứ hai là coi những khác biệt đó chính là các hành vi tiêu cực. Thứ ba là có sự phân biệt rõ ràng giữa “ chúng ta” và “ bọn họ”, ví dụ: xa lánh, cô lập, khinh rẻ . Kỳ thị với người mại dâm có nhiều dạng thức khác nhau:Kỳ thị trong cảm nhận: nhận thức hoặc cảm giác/ thái độ về những người mại dâm. Kỳ thị về thể chất: liên quan đến hình dáng bên ngoài hoặc các bệnh lây truyền qua đường tình dục của người mại dâm. Kỳ thị về mặt đạo đức: như khinh bỉ, phê phán, lên án liên quan đến những hành vi tình dục được coi là phi đạo đức. Sự phân biệt đối xử này có thể bao gồm việc gây áp lực, hắt hủi trừng phạt Tự kỳ thị ( kỳ thị từ bên trong): người mại dâm tự mình có thái độ không chấp nhận bản thân, hoặc áp đặt cách nhìn tiêu cực đối với chính bản thân mình, tự tách mình ra khỏi cộng đồng, tự căm ghét xấu hổ phê phán bản thân mình. Phân biệt đối xử với người mại dâm có nhiều biểu hiện khác nhau trong đời sống xã hội: Lên án và sỉ nhục những người mại dâm về hành vi bị coi là phá hoại chuẩn mực xã hội. Cô lập và chối bỏ người mại dâm. Xa lánh bạn bè và gia đình của người mại dâm cũng bị kỳ thị vì quan hệ của họ với người mại dâm . - Biểu hiện của kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm Sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm diễn ra trong nhiều bối cảnh khác nhau của cuộc sống; trong gia đình, ngoài cộng đồng, tại cơ sở y tế và tại nơi làm việc của họ. Có rất ít nơi mà người mại dâm cảm thấy an toàn. + Biểu hiện của kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm ở trong gia đình Sống trong gia đình của mình, người mại dâm thường bị các thành viên trong gia đình lên án, chửi mắng và sỉ nhục vì đã phá hoại danh dự của gia đình và dòng họ. Không ít người mại dâm, đã không chịu được những áp lực đó, đành phải bỏ nhà ra đi. 25
  26. Cô lập và bị từ mặt ( không chấp nhận là con em trong gia đình) bị đuổi ra khỏi nhà, không cho tham dự việc gia đình. Khi người mại dâm bị ốm, không ai trong gia đình chăm sóc và hỏi han Gia đình muốn bảo vệ danh dự của họ bằng cách giấu việc có con em làm mại dâm với láng giềng + Biểu hiện của kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm ở cộng đồng Mọi người thường tỏ ra coi thường và tránh xa khi nhìn thấy người mại dâm trên đường, gọi người mại dâm bằng những ngôn từ miệt thị. Chỉ trích, bàn tán, nói xấu, nhìn họ với ánh mắt căm ghét. Lên án rằng người mại dâm phá hoại hạnh phúc gia đình, coi họ như những mầm bệnh và là nguyên nhân khiến đàn ông đi ngoại tình và chơi bời, là nguyên nhân làm băng hoại đạo đức xã hội. + Biểu hiện của kỳ thị và phân biệt đối xử tại cơ sở y tế Không khám xét kỹ và điều trị không thân thiện. Các nhân viên y tế có thể sử dụng ngôn từ mang tính phán xét và trách mắng, bình phẩm mang tính phán xét , ví dụ “ cô gieo gió thì gặp bão, làm nghề như cô thì sớm muộn cũng bị HIV”. Nhiều nhân viên y tế để người mại dâm phải chờ đợi rất lâu mới khám bệnh cho họ. Trong khi điều trị còn dùng ngôn từ mang tính lăng mạ, nói xấu hoặc không giữ bí mật thông tin và khám chữa bệnh cho người mại dâm một cách qua loa. Bàn tán, chỉ trỏ hoặc đem ra làm trò đùa với các cán bộ y tế và bệnh nhân khác. Tò mò về đời sống tình dục của người mại dâm hơn là điều trị bệnh cho họ. Vi phạm các nguyên tắc bảo mật thông tin về người bệnh. Nhân viên tại phòng khám bàn tán, truyền tai nhau về người mại dâm với các nhân viên và bệnh nhân khác. 26
  27. Từ chối cung cấp các dịch vụ: tư vấn, chẩn đoán, chăm sóc và điều trị. + Biểu hiện của kỳ thị và phân biệt đối xử từ phía khách mua dâm Lăng mạ, xỉ nhục người mại dâm, gọi họ bằng những ngôn từ xúc phạm, có thái độ khinh rẻ, bạo lực, đặc biệt khi khách hàng trong tình trạng say rượu Gian lận trong tiền bạc/ bóc lột: ví dụ quỵt tiền sau khi trả tiền, bắt người mại dâm phục vụ một nhóm khách hàng. Khách hàng cho rằng họ có thể làm bất cứ điều gì với người mại dâm nếu họ muốn; theo các cách quan hệ mà họ không muốn làm, kể cả hiếp dâm và quan hệ tình dục tập thể. Coi người mại dâm như người mạt hạng trong xã hội. Với quan niệm “ mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng” nên khi khách hàng đã trả tiền thì họ có thể làm bất cứ điều gì với người mại dâm, kể cả cưỡng hiếp. Nếu người mại dâm từ chối các yêu cầu của khách hàng, họ sẽ đe dọa và thậm chí đánh đập người mại dâm Ngay các chủ chứa cũng gọi người mại dâm bằng những cái tên chứa đầy sự kỳ thị. Họ luôn có tâm thế bắt người mại dâm phải tiếp khách liên tục, thậm chí tiếp khách mà không được trả tiền. Khi người mại dâm kiệt sức hoặc mang thai, họ thường bị những người này đuổi khỏi nơi ở, nơi làm việc. Nhiều chủ chứa còn ép buộc người mại dâm dùng ma túy để giữ chân hoặc để người mại dâm lệ thuộc hoàn toàn vào họ. - Nguyên nhân của kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm Sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm bắt nguồn từ những mối quan hệ quyền lực và bất bình đẳng giữa nam và nữ, đặc biệt là về tình dục và xuất phát từ những thành kiến với phụ nữ trong biểu hiện tình dục. Nam giới được quyền bộc lộ sự mạnh mẽ, sự từng trải trong kinh nghiệm tình dục. Thậm chí hành 27
  28. vi có nhiều bạn tình của nam giới còn được tán dương, coi đó điểm biểu hiện nam tính và là sự hấp dẫn. Trong khi đó, xã hội không chấp nhận bất kỳ một biểu hiện nào liên quan đến sự khêu gợi tính dục của nữ giới, coi những biểu hiện đó là sự sai lệch xã hội, gán cho nữ giới sự lệch chuẩn cả trong khía cạnh đạo đức. Vì vậy, hoạt động cung cấp dịch vụ tình dục của những cô gái mại dâm đương nhiên chịu nhiều sự phản đối của xã hội. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm xuất phát từ việc xã hội Việt Nam luôn coi trọng gia đình, gia đình là trung tâm xã hội Việt Nam. Xây dựng củng cố và bảo vệ gia đình là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người, vì vậy những hành vi gây tổn hại đến gia đình thường không nhận được sự khoan dung. Vì vậy, mại dâm nói chung và người làm công việc mại dâm bị lên án nặng nề, vì bị coi là phá hủy hạnh phúc gia đình. Nguyên nhân tiếp theo dẫn tới sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm là do quan niệm của xã hội đánh giá về chuẩn mực xã hội. Bất kỳ một xã hội nào cũng có những hệ thống giá trị và chuẩn mực biểu thị cho văn hóa của xã hội đó. Những chuẩn mực xã hội được hình thành dựa trên sự tán thành của số đông các cá nhân và các nhóm xã hội. Chuẩn mực xã hội giúp xã hội vận hành và tương đối ổn định. Việt Nam, là một quốc gia chịu ảnh hưởng đậm nét nền văn hóa Á Đông, những liên quan đến tình dục dường như bị né tránh và coi là điều cấm kỵ. Mọi hành vi quan hệ tình dục ngoài hôn nhân bị lên án và tự do yêu đương không được khuyến khích. Do vậy, hành vi mại dâm đương nhiên bị xã hội mang đậm nét Á Đông lên án, phê phán và người mại dâm phải chấp nhận sự định kiến của xã hội. Nguyên nhân dẫn tới sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm cũng một phần do hình thức bề ngoài của người mại dâm. Vì liên quan đến việc coi quan hệ tình dục là một loại hình dịch vụ , cần thu hút nhu cầu tình dục của người 28
  29. khác nên phần lớn người mại dâm có phong cách ăn mặc và cách trang điểm nhằm thu hút lượng khách hàng của họ. Chính vì vậy, họ dễ bị cộng đồng phán xét cách ăn mặc, cách trang điểm biểu hiện cho sự khêu gợi, không đứng đắn, dung tục hoặc lố lăng, thiếu văn hóa . Sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm, một phần do cách hiểu của cộng đồng luôn coi mại dâm là tội phạm nên đã cho rằng hành vi cung cấp dịch vụ tình dục sai lệch xã hội ở mức độ nghiêm trọng - cần loại bỏ ra khỏi đời sống cộng đồng. Thực tế, pháp lệnh mại dâm năm 2003 đã chỉ rõ mại dâm không phải là tôi phạm, mà là đối tượng được điều trị y tế và phục hồi chức năng, được hỗ trợ dạy nghề và chăm sóc sức khỏe để có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng. 2. Ảnh hưởng của kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm Do bị kỳ thị và phân biệt đối xử nên phần lớn người mại dâm chấp nhận sự lên án của xã hội, dẫn tới tự cô lập bản thân, buông xuôi , không sử dụng các dịch vụ xã hội, gặp những rào cản trong việc tiếp cận đến các dịch vụ can thiệp .Mặc dù ngày càng có nhiều hơn các trung tâm tư vấn xét nghiệm tự nguyện và các cơ sở điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, vẫn còn nhiều khó khăn trên thực tế khiến người mại dâm chưa sẵn sàng tìm đến những trung tâm này để nhận được những dịch vụ thích hợp. Thiếu thông tin về địa chỉ và hình thức hoạt động, lo ngại về sự kỳ thị và phân biệt đối xử tại các trung tâm dịch vụ, và các rào cản kinh tế như chi phí thuốc men hay chi phi đi lại là những rào cản khiến cho người mại dâm còn hạn chế trong việc tiếp cận đến các chương trình. Người mại dâm bị ảnh hưởng nặng nề trước sự kỳ thị và phân biệt đối xử nên thường có tâm lý e ngại, rụt rè, khó khăn khi tiếp cận các thông tin về dự phòng. Do đó họ không sử dụng các dịch vụ dự phòng và chăm sóc sức khỏe, 29
  30. không hợp tác với nhân viên cung cấp dịch vụ ( có những mâu thuẫn xung đột, hoặc không hợp tác với nhân viên cung cấp dịch vụ, không tuân thủ điều trị/ không quay lại kiểm tra hoặc khám định kỳ. Họ có thể trở nên ít quan tâm tới sức khỏe tình dục của mình, ví dụ: không sử dụng bao cao su một cách thường xuyên với khách hàng hay bạn tình/ chồng của mình. Do sự kỳ thị của nhân viên y tế, nên người mại dâm không muốn đến khám và điều trị tại phòng khám. Người mại dâm sau khi đến khám bệnh và ra về với cảm giác bị xúc phạm, bị sỉ nhục vì họ không được khám và điều trị theo đúng nghĩa. Nhiều người không đến khám nữa hoặc tìm tới những cơ sở khám chữa bệnh không đảm bảo chất lượng, và vì vậy họ không được điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục một cách hiệu quả, không nhận phát bao cao su miễn phí. Xu hướng di chuyển sang các địa bàn khác nhau của người mại dâm nhằm tránh sự kỳ thị và phân biệt đối xử của xã hội cũng đã đặt người người mại dâm vào một tình thế hết sức bất lợi, đó là : hạn chế họ tiếp cận và sử dụng các chương trình can thiệp về sức khỏe và hỗ trợ xã hội giành cho họ. Kỳ thị và phân biệt đối xử có thể là nguyên nhân khiến người mại dâm dấn sâu hơn vào con đường mại dâm và ma túy. Họ luôn cảm thấy xấu hổ, cô đơn và tội lỗi, trở nên bất cần, muốn trả thù đời, sử dụng ma túy, tự kỳ thị,không muốn thay đổi cuộc đời. Như vậy, kỳ thị và phân biệt đối xử của gia đình và xã hội không khích lệ được người mại dâm cố gắng thay đổi hoàn thiện cuộc sống của họ. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người mại dâm đã là một nhân tố quan trọng làm gia tăng nguy cơ nhiễm HIV trong những người làm mại dâm ( ISDS, 2011) và làm cho đại dịch này đi vào bí mật. 30
  31. Sự kỳ thị của gia đình và cộng đồng có thể là nguyên nhân xô đẩy một số người dấn sâu vào con đường mại dâm Người làm nghề mại dâm thường bị nhìn nhận là những người hư hỏng, ham vật chất thích hưởng thụ, bị coi rẻ Cho dù họ có cải tạo tốt, đã hoàn lương nhưng vẫn khó khăn để được cộng đồng xã hội chấp nhận như người bình thường khác, khó khăn trong tiếp cận việc làm, y tế Điều đó đã làm họ khó hòa nhập và có thể không có cơ hội bộc lộ bản thân và phát triển. Phần đông người mại dâm không dám kiếm tìm sự trợ giúp của pháp luật trong những trường hợp bị ngược đãi, hoặc phải chịu áp bức và bất công. Vì họ sợ bị công an bắt ( liên quan đến sự bất hợp pháp của hoạt động mại dâm), họ bị mặc cảm tội lỗi từ chính việc làm của mình, họ sợ gia đình, người thân phát hiện để lại tiếp tục kỳ thị và lên án họ. Do vậy, mặc dù thường xuyên bị bạo lực nhưng phụ nữ bán dâm không dám tìm đến sự trợ giúp của pháp luật 3. Các biện pháp giảm kỳ thị với người mại dâm - Tăng cường truyền thông nâng cao nhận thức, truyền thông giảm kỳ thị cho các cấp, các ngành, gia đình và cộng đồng - Nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về hoạt động mại dâm, đặc biệt là tiếp cận với những kinh nghiệm khác nhau trong việc hỗ trợ nhóm người mại dâm - Thực hiện hoạt động phòng ngừa và giảm hại,giảm phân biệt đối xử, hỗ trợ phát triển các hoạt động sinh kế khác cho người bán dâm. - Giúp cho người mại dâm phát triển các hoạt động sinh kế khác một cách hiệu quả chính quyền cần tăng cường giúp đỡ họ học nghề và nâng cao khả năng tiếp cận vốn, tái hoà nhập cộng đồng 31
  32. - Tạo điều kiện cho người hoạt động mại dâm được dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ can thiệp dự phòng lây truyền và các bệnh lây truyền qua đường tình dục - Cung cấp một số dịch vụ xã hội cho nhóm hoạt động mại dâm như cung cấp thông tin, nâng cao hiểu biết để giảm hại và nâng cao kiến thức về pháp luật, kiến thức về chăm sóc sức khỏe thông qua hoạt động của các câu lạc bộ. - Tăng cường kỹ năng ứng phó với sự kỳ thị của cộng đồng với người mại dâm 4. Kỹ năng truyền thông thay đổi hành vi cho người mại dâm Truyền thông thay đổi hành vi cho người mại dâm: là hoạt động truyền thông tác động đến cách ứng xử của người mại dâm một cách có mục đích rõ ràng và có kế hoạch cụ thể nhằm cải thiện các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của người mại dâm để đạt được sự thay đổi về kiến thức, kỹ năng, thái độ giúp đối tượng chấp nhận, thực hành và duy trì những hành vi tích cực tăng cường sức khoẻ. TTTĐHV và Thông tin-Giáo dục-Truyền thông (TT-DG-TT) cho người mại dâm đều là quá trình giao tiếp, đối thoại, trao đổi hai chiều; Có 2 kênh truyền thông chủ yếu: + Truyền thông trực tiếp: Giáo dục đồng đẳng, tập huấn, nói chuyện, sinh hoạt câu lạc bộ, tư vấn, + Truyền thông đại chúng: Bản tin, tạp chí, băng ghi tiếng, đài phát thanh, băng hình, truyền hình, . Muốn truyền thông có hiệu quả cho người mại dâm, người truyền thông phải nắm rõ đặc tính về xã hội, nhân khẩu học của người được truyền thông, như tuổi, giới, học vấn, tôn giáo, dân tộc, ngôn ngữ, phong tục, 32
  33. TTTĐHV và TTGDTT có sự khác nhau về mục đích và phương pháp: + Mục đích của TTGDTT là: Tập trung vào việc nâng cao nhận thức và kiến thức của người mại dâm, thay đổi thái độ từ đó có thể thay đổi hành vi của họ. + Mục đích của TTTĐHV là: Cải thiện các yếu tố ảnh hưởng đối với việc thực hiện hành vi, giúp người mại dâm lựa chọn, thực hiện hành vi và duy trì hành vi bảo vệ sức khỏe, sự an toàn và phòng tránh lây nhiễm HIV. - Các kỹ năng truyền thông cho người mại dâm + Kỹ năng tiếp cận người mại dâm Tiếp cận giúp cho cán bộ CTXH tìm hiểu rõ hơn về người mại dâm Kỹ năng tiếp cận giúp cho cán bộ CTXH thiết lập mối quan hệ bình đẳng, tin cậy lẫn nhau giữa can bộ CTXH với người mại dâm để có thể tạo cơ hội thuận lợi cho truyền thông. Những giây phút tiếp cận đầu tiên rất quan trọng và mở đầu cho cuộc gặp mặt cũng như quá trình tiếp tục truyền thông thay đổi hành vi Thiếu kỹ năng tiếp cận, cán bộ CTXH không thể tìm hiểu về vấn đề hành vi của người mại dâm hoặc khi cần thiết không biết cách hỗ trợ cho người mại dâm thoải mái đặt vấn đề hành vi mà họ muốn tìm hiểu Tư thế, tác phong của cán bộ CTXH cần giản dị, thân mật, ân cần, cởi mở để tạo ấn tượng gần gũi đồng cảm ngay từ lần đầu trong quá trình truyền thông thay đổi hành vi. Thái độ tôn trọng người mại dâm thể hiện ở chỗ cán bộ CTXH chấp nhận hành vi có nguy cơ của người mại dâm, không có thành kiến, không phê phán quá khứ hoặc hiện tại của họ, mà tập trung vào trao đổi về hành vi an toàn tình dục mong muốn trong tương lai, từ cuộc gặp truyền thông này. Hãy cùng hiểu biết và 33
  34. cởi mở với nhau, trao đổi về họ tên, tuổi, học vấn, sở thích, hoàn cảnh Hãy xoá đi những khác biệt nếu có về tuổi, giới tính, học vấn, sở thích và tìm ra những điểm tương đồng. Người mại dâm sẽ thoải mái hơn khi vấn đề mà họ đang suy nghĩ, băn khoăn, lo lắng được cán bộ CTXH chia sẻ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm sống hoặc có thể hỗ trợ về mặt tinh thần, vật chất và xã hội. Cán bộ CTXH nên khéo léo, tế nhị khi tìm hiểu về hành vi nguy cơ, về những yếu tố ảnh hưởng đến các hành vi nguy cơ; vận dụng các kỹ năng quan sát, lắng nghe, đặt câu hỏi, để có được những thông tin cần biết. Cán bộ CTXH dựa trên những thông tin thu thập được qua đối thoại và tương tác với NĐTT để xác định: Người mại dâm đang có hành vi nguy cơ nào, Lý do vì sao người mại dâm có hành vi đó (quan niệm sống, thái độ, giá trị tinh thần, điều kiện sống ), Người mại dâm đang ở bước nào của quá trình thay đổi hành vi, Người mại dâm có vấn đề sức khỏe sinh sản-tình dục (SKSS-TD) nào mà họ đang phải đối mặt Khả năng chấp nhận và thay đổi hành vi của người mại dâm (các điều kiện cần và đủ để đối tượng thay đổi hành vi), Các phương thức truyền thông nào có thể phù hợp với người mại dâm. + Kỹ năng quan sát Quan sát cũng là “lắng nghe”, nhưng là lắng nghe bằng mắt, nhận biết được sự việc một cách có chủ định và phân tích được sự việc đó. 34
  35. Kỹ năng quan sát giúp cho cán bộ CTXH thu thập được thông tin, hiểu được sơ bộ về tâm trạng, sức khoẻ và hoàn cảnh của người mại dâm Quan sát giúp cho cán bộ CTXH cảm nhận được sự thay đổi tâm trạng trong quá trình truyền thông. Một thoáng rùng mình, một giọt nước mắt từ từ lăn trên má, một thoáng im lặng và bẻ ngón tay, một ánh mắt nghi ngờ hoặc thất vọng giúp cho cán bộ CTXH điều chỉnh nội dung và cách truyền thông của mình. Hãy có ánh mắt thân thiện, tế nhị, cảm thông khi quan sát; tránh làm cho người mại dâm cảm thấy bị soi mói, theo dõi. + . Kỹ năng lắng nghe Lắng nghe là tập trung tư tưởng cao độ để thấu hiểu những âm thanh lọt vào tai, là biểu hiện của sự quan tâm, tôn trọng người mại dâm Kỹ năng lắng nghe giúp cho cán bộ CTXH thu thập được thông tin, hiểu được sâu hơn về tâm trạng, sức khoẻ và hoàn cảnh của người mại dâm; khuyến khích người mại dâm giãi bầy tâm sự của họ, kể cả những vấn đề riêng tư, thầm kín như đã có HIV. Lắng nghe giúp cho cán bộ CTXH cảm nhận được giọng nói và diễn biến cảm nhận của người mại dâm, từ đó có những cảm xúc từ đáy lòng mình và thực sự đồng cảm với người mại dâm Để lắng nghe tốt cán bộ CTXH cần tránh: - Bị chi phối bởi những sự kiện khác đang xẩy ra xung quanh nơi mình truyền thông hoặc ngay chính trong lòng mình, tránh theo đuổi những ý nghĩ riêng của mình - Cắt ngang khi người mại dâm đang nói, đang xúc động; tránh tỏ ra sốt ruột như nhìn đồng hồ hoặc có vẻ mặt thờ ơ, mệt mỏi. 35
  36. + Kỹ năng diễn đạt Diễn đạt là phát biểu, trình bày, nói lên suy nghĩ, tâm tư, ý kiến của mình, chia sẻ thông tin, kiến thức, kỹ năng, thái độ, quan điểm của mình, gợi ý và hướng dẫn về thay đổi hành vi. Kỹ năng diễn đạt rất quan trọng, làm cho tiếng nói và ngôn ngữ không lời (cử chỉ) của cán bộ CTXH có thêm trọng lượng, có sức thuyết phục, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo. Hãy sử dụng từ ngữ rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu; đưa ra những ví dụ cụ thể tại địa phương. Sử dụng các thiết bị trợ giúp (mô hình, tranh lật, băng ghi âm, băng ghi hình ) để giúp người nghe dễ hiểu. + Kỹ năng đặt câu hỏi Cán bộ CTXH sử dụng câu hỏi để làm rõ ý nghĩ, cảm xúc của ngươi mại dâm, hiểu rõ hơn tâm trạng và hoàn cảnh của họ. Hãy đặt câu hỏi rõ ràng, ngắn gọn, cụ thể và phù hợp với ngôn ngữ của người mại dâm Các câu hỏi phải tế nhị, nhất là khi hỏi những vấn đề riêng tư, bí mật. Sử dụng từ ngữ rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu. - Một số lưu ý khi làm truyền thông cho người mại dâm:  Âm lượng và nhịp điêu của giọng nói: không nên nói đều đều, đơn điệu. 36
  37.  Sử dụng ngôn ngữ không lời: Ngôn ngữ không lời có một vai trò quan trọng trong diễn đạt của cán bộ CTXH và làm tăng hiệu quả rõ rệt của truyền thông. Cán bộ CTXH cần luôn luôn ở trong một tư thế thoải mái, phối hợp lời nói với cử chỉ, dáng điệu trong khi nói, thể hiện sự tự tin của mình và làm cho tiếng nói có trọng lượng hơn. Nét mặt, ánh mắt, nụ cười là cửa sổ của ý nghĩ, cảm xúc và hỗ trợ cho lời nói , người nghe sẽ nhận thức được rõ nét hơn những điều đã nhận được Hãy duy trì giao tiếp bằng mắt với người mại dâm, bạn sẽ thể hiện sự tôn trọng họ và sẵn sàng lắng nghe, tiếp nhận phản hồi và chia sẻ ý kiến, cảm xúc. 37
  38. BÀI 3: CHĂM SÓC SỨC KHOẺ, CHỮA BỆNH VÀ PHÒNG NGỪA GIẢM TÁC HẠI CHO NGƯỜI MẠI DÂM 1. Chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ cho người mại dâm Thực hiện chữa trị, giáo dục cho người bán dâm tại các Trung tâm giáo dục lao động xã hội và tại cộng đồng. Tại Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội, người bán dâm được khám, chữa bệnh, nhất là các bệnh lây truyền qua đường tình dục; tham gia các hoạt động văn hóa, sinh hoạt nhóm; tham gia vận động thể thao, lao động trị liệu; can thiệp khủng hoảng và tư vấn tâm lý; hướng dẫn và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng sau khi hoàn thành thời gian phục hồi. Tổ chức học văn hóa, xóa mù chữ cho học viên chưa biết chữ đối tượng đang quản lý tại Trung tâm được học nghề và tạo việc làm. Tại cộng đồng, duy trì và thành lập mới các Câu lạc bộ, nhóm đồng đẳng hỗ trợ người mại dâm và người mại dâm hoàn lương, kết hợp cho vay tín dụng và trợ cấp khó khăn đã giúp người bán dâm tìm kiếm và tạo việc làm. Chính quyền, các đoàn thể các cấp đã thực hiện cảm hóa, giáo dục người bán dâm hoàn lương. Hoạt động can thiệp giảm thiểu lây nhiễm HIV gắn với vấn đề người mại dâm chủ yếu tập trung vào việc cung cấp thông tin, bao cao su, chuyển gửi tới dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện dành cho người mại dâm và các nhóm dân di biến động. Các hoạt động triển khai thực hiện của các cơ sở y tế nhà nước và tư nhân trên toàn quốc trong công tác phòng chống tệ nạn mại dâm – HIV gồm: - Tư vấn xét nghiệm tự nguyện HIV - Khám và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục 38
  39. - Khuyến khích sử dụng bao cao su - Tổ chức khám chữa bệnh định kỳ hàng quý cho người lao động tại những cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm. Chương trình này được thực hiện nhằm bảo vệ và giảm thiểu tác hại của tệ nạn mại dâm đối với người lao động làm việc ở những đơn vị kinh doanh dễ bị lợi dụng để tổ chức các hoạt động mại dâm. 2. Kỹ năng tham vấn, xử lý khủng hoảng cho người mại dâm - Kỹ năng tham vấn cho người mại dâm Tham vấn tâm lý cho người mại dâm là quá trình nhân viên CTXH sử dụng các kiến thức, kỹ năng chuyên môn và thái độ nghề nghiệp để thiết lập mối quan hệ tương tác tích cực với thân chủ nhằm giúp họ nhận thức được hoàn cảnh vấn đề để thay đổi cảm xúc, hành vi và tìm kiếm giải pháp có vấn đề của mình Khi tiến hành quá trình tham vấn cho người mại dâm, nhân viên CTXH cần nắm được các thông tin sau: - Thông tin chi tiết về thân chủ và ảnh hưởng từ các mối quan hệ( ông, bà, cha, mẹ, anh chị, em, bạn bè ) và cả những rắc rối mà họ đang gặp phải - Tiểu sử xã hội và văn hóa của mỗi thân chủ - Thâm niên bán dâm và hậu quả đối với cơ thể và tâm lý - Những nhu cầu cần hỗ trợ tức thời - Các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề và hỗ trợ Để quá trình tham vấn cho người mại dâm có hiệu quả nhân viên CTXH cần thực hiện các nguyên tắc sau: - Đảm bảo tính bảo mật của thông tin 39
  40. - Nhiệt tình, chân thành , hiểu biết và có thái độ quan tâm - Tôn trọng khách hàng - Chấp nhận, không phê phán - Có thái độ trung lập Một số kỹ năng quan trọng trong tham vấn cho người mại dâm - Kỹ năng lắng nghe tích cực - Kỹ năng quan sát - Kỹ năng đặt câu hỏi - Kỹ năng thấu cảm - Kỹ năng xử can thiệp khủng hoảng + Hiểu một cách đơn giản: khủng hoảng là trạng thái sốc tinh thần do một sự kiện hoặc một chuỗi những sự kiện bất thường gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tầm trọng tới cá nhân. Trong tình trạng này cá nhân thường cảm thấy mất cân bằng, căng thẳng và giảm sút các hoạt động chức năng vốn có. Những biểu hiện tâm lý của người mại dâm khi rơi vào khủng hoảng: . Cô đơn, cảm giác lạc long . Căng thẳng và sợ hãi . Bối rối, mệt mỏi . Vô vọng . Tuyệt vọng 40
  41. + Can thiệp khủng hoảng cho đối tượng tại Trung tâm là một quá trình chữa trị, hỗ trợ cho đối tượng đang trong cơn khủng hoảng để họ có thể đương đầu với khủng hoảng một cách có hiệu quả và trưởng thành từ đó Trong quá trình khủng hoảng hay ngay sau cơn khủng hoảng, đối tượng thường có xu hướng cảm thấy liều lĩnh, hoảng sợ, không nơi nương tựa và dễ bị tổn thương. Sự có mặt của một ai đó thể hiện sự săn sóc, hỗ trợ và sẵn sàng giúp đỡ sẽ có giá trị rất lớn và có thể giúp cho đối tượng trở lại trạng thái bình thường một cách nhanh hơn rất nhiều Như vậy can thiệp khủng hoảng giúp những người trải qua khủng hoảng nhận thức được điều gì đang và sẽ xảy ra, ghi nhận ảnh hưởng của những sự kiện này và học cách thức mới hoặc có hiệu quả hơn đẻ đương đầu với chúng + Một số dấu hiệu nhận biết đối tượng bị khủng hoảng * Dấu hiệu thể chất và sức khỏe: . Cơ bắp bị run hoặc bị co giật . Chóng mặt, khó thở hoặc bị ngất xỉu . Đau cổ và đau lưng . Ngủ nhiều hoặc ngủ ít hơn bình thường . Tim đập nhanh . Khó tập trung, mất trí nhớ hoặc khó giải quyết công việc hàng ngày . Suy nhược cơ thể, lo âu *Dấu hiệu về mặt cảm xúc Trong cơn khủng hoảng, cảm xúc có thể dâng cao đột ngột gây ra tình trạng mất cân bằng giữa lý trí và cảm xúc. Tại thời điểm đó đối tượng có thể có 41
  42. những cách phản ứng kỳ lạ, khó hiểu, đôi khi có vẻ điên rồ. Những phản ứng trong giai đoạn khủng hoảng có thẻ hoàn toàn trái ngược hoặc vượt xa với xu hướng bình thường của họ. * Dấu hiệu về mặt suy nghĩ Những người trải qua khủng hoảng có thể trở nên lẫn lộn và suy nghĩ hỗn độn, họ gặp rất nhiều khó khăn và thường suy nghĩ theo một hệ quả logics chủ quan. Đối tượng có thẻ đi từ ý kiến này sang ý kiến khác một cách lộn xộn, tạo sự giao tiếp rất khó kết nối. Đối tượng có thể cảm thấy mơ hồ, hoang mang , không chắc chắn * Dấu hiệu hành vi . Giảm dần việc thực hiện các chức năng . Xu hướng trở nên kích động trong các hành vi ứng xử . Xu hướng trở lên thờ ơ, vô cảm . Hành vi thể hiện sự phụ thuộc . Hành vi hủy hoại bản thân hoặc làm tổn thương người khác Nhân viên CTXH cần chú ý khi can thiệp khủng hoảng cho người mại dâm: - Can thiệp đúng lúc - Luôn sẵn sang - Luôn giúp đỡ - Đảm bảo với khách hàng đây chỉ là gai đoạn tạm thời - Giúp khách hàng tìm ra cách giải quyết vấn đề 42
  43. Các kỹ năng cần có trong can thiệp khủng hoảng - Có kỹ năng nhận biết, đánh giá mức độ khủng hoảng - Đánh giá được nguyên nhân, mức độ nguy hiểm tức thời và dự báo được hành vi tiếp theo - Có thể chuyển đối tượng đến một nơi an toàn hơn trong trường hợp bị đe dọa - Biết cách trấn an khách hàng - Giải thích với đối tượng rằng những tình cảm, cảm xúc họ đang trải qua là bình thường đối với những tình huống không bình thường đó. - Giúp đối tượng nhận ra khi nào những hành vi nhất định là không tốt cho họ sau khủng hoảng và hỗ trợ họ thích nghi với các hành vi mới có hiệu quả hơn - Nói chuyện với đối tượng, là cách thể hiện tốt nhất với đối tượng, họ sẽ có cảm giác an toàn và giảm được căng thẳng khi có người ở bên chia sẻ - Quan tâm đến cảm xúc của đối tượng - Có thể kết nối để tìm thêm sự hỗ trợ hoặc chuyển gửi dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng 3. Các dịch vụ xã hội hỗ trợ cho người mại dâm - Các mô hình hỗ trợ người mại dâm + Mô hình giáo dục tại xã, phường, thị trấn: Đây là hình thức giá dục với những người bán dâm thường xuyên từ đủ 14 tuổi trở lên để quản lý, giáo dục tại nơi cư trú. Thời hạn áp dụng với nhóm này từ 3 đến 6 tháng. Thời hạn giáo dục tại cơ sở sẽ được bàn giao cho khu dân cư. Quá trình tiếp nhận, giáo dục được quy 43
  44. định rõ trong nghị đinh 163/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định thi hành biện pháp giáo dục người mại dâm tại xã, phương, thị trấn( Phụ lục 1) + Mô hình hỗ trợ tại Trung tâm GDLĐXH Mô hình này tiến hành với đối tượng là người bán dâm có tính chất thường xuyên đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Không đưa vào cơ sở chữa bệnh người bán dâm dưới 16 tuổi và trên 55 tuổi (Nghị định 135/ 2004/NĐ-CP quy định về việc đưa người mại đam vào các cơ sở chữa bệnh - Các hoạt động giảm hại cho người mại dâm + Truyền thông thay đổi hành vi thông qua hoạt động nhóm đồng đẳng, chương trình giảm tác hại + Cung cấp và hướng dẫn sử dụng bơm kim tiêm sạch + Cung cấp và hướng dẫn sử dụng bao cao su.( hệ thống nhà thuốc, địa chỉ thân thiện mua bao cao su, bơm kim tiêm + Khám chữa bệnh lây qua đường tình dục; Xét nghiệm HIV và điều trị thuốc kháng vi rút. + Tổ chức các hoạt động nhóm đồng đẳng, chương trình giảm tác hại cho nhóm người mại dâm 44
  45. BÀI 4: HỖ TRỢ TÁI HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG CHO NGƯỜI MẠI DÂM 1. Các mạng lưới hỗ trợ người mại dâm tái hoà nhập cộng đồng Biện pháp hỗ trợ nào hiệu quả và phù hợp cho các đối tượng mại dâm đã hoàn lương là điều trăn trở của các nhà quản lý cũng như toàn xã hội. Giúp người mại dâm thay đổi nhận thức, hành vi tái hòa nhập cộng đồng là một chủ trương lớn của nhà nước. Hoạt động này đang được triển khai và thực hiện ở các trung tâm Lao động Xã hội, chi cục phòng chống tệ nạn xã hội, các cơ quan, câu lạc bộ trực thuộc hội phụ nữ Tuy nhiên, việc tái hòa nhập cộng đồng của người mại dâm còn gặp nhiều khó khăn nên sự thành công cần sự góp sức chung long của các tổ chức xã hội. - Sự hỗ từ nhóm gia đình: gia đình, người thân cần gắn bó, gần gũi khích lệ người mại dâm hoàn lương, đồng thời quản lý, giám sát trên cơ sở trang bi những kỹ năng quản lý và có biện pháp can thiệp khi cần thiết. Gia đình giữ vai trò là chỗ dựa về tinh thần cho người mại dâm ổn định tâm lý, đoạn tuyệt quá khứ và tự tin tiếp cận các dịch vụ việc làm. - Cán bộ CTXH tại cơ sở/ cán bộ trợ giúp cộng đồng cần tiếp cận giúp người mại dâm khi trở về cộng đồng xây dựng kế hoạch sinh hoạt bản thân, giám sát họ nghiêm túc thực hiện các chuẩn mực gia đình, xã hội. Đây chính là việc tang bị kỹ năng cho lối sống điều độ, không buông thả. Nâng cao ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội cho người mại dâm hoàn lương Cán bộ CTXH cơ sở còn cần tạo điều kiện giúp họ có trình độ kiến thức cơ bản một nghề hay một việc làm. Khi đã có thu nhập từ lao động họ sẽ nâng cao dần ý thức phấn đấu. 45
  46. Cung cấp cho người mại dâm kiến thức, kỹ năng sinh tồn, giúp họ có thể hoạt động bình thường trong cộng đồng và tự tin tiếp cận các dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm và tham gia tuyển dụng vào làm việc tại các doanh nghiệp Giúp đỡ người mại dâm được tham gia chương trình học nghề, tạo công ăn việc làm để hòa nhập cộng đồng. Việc làm ổn đinh, có thu nhập sẽ là yếu tố quan trọng cho người mại dâm không bị lôi kéo về con đường lầm lỡ trước đây. - Các CLB đông đẳng, hội phụ nữ, Đoàn thanh niên có vai trò quan trọng với người mại dâm hoàn lương. Đây là các tổ chức mà họ tìm thấy sự trợ giúp khi cần thiết trong quá trình tìm việc làm và tạo cơ hội cho họ tham gia các hoạt động xã hội để lấy lại niềm tin cho bản thân. - Cán bộ tư pháp: có khả năng cung cấp hiểu biết pháp luật, chính sách cho người mại dâm khi họ gặp khó khăn trong quá trình tái hòa nhập. 2. Hỗ trợ việc làm cho người mại dâm tái hòa nhập cộng đồng - Khái niệm việc làm - Theo Tổ chức lao động quốc tế ILO: khái niệm việc làm chỉ đề cập đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Theo đó, việc làm được phân thành 02 loại: + Việc làm có trả công/trả lương + Việc làm không được trả công nhưng vẫn có thu nhập - Ý nghĩa của việc làm đối với người mại dâm tái hòa nhập cộng đồng + Việc làm đáp ứng nhu cầu nuôi sống bản thân và gia đình + Việc làm giúp người mại dâm hoàn lương phục hồi sức khỏe + Việc làm giúp phục hồi các chức năng, các quan hệ xã hội 46
  47. + Việc làm tăng cường sự tự tin, giảm kỳ thị và tự kỳ thì Các chính sách an sinh xã hội đối với người mại dâm tái hòa nhập cộng đồng - Kết nối dạy nghề, tạo việc làm Điều 14 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm quy định nội dung cụ thể của biện pháp kinh tế - xã hội trong việc phòng, chống mại dâm bao gồm: 1. Giải quyết việc làm, tổ chức dạy nghề, hướng nghiệp, xoá đói, giảm nghèo cho những gia đình nghèo, những người không có việc làm. Tạo điều kiện trợ giúp những phụ nữ nghèo được vay vốn, tổ chức tư vấn và hướng dẫn họ tiếp cận với các dịch vụ sản xuất, kinh doanh, sử dụng vốn làm kinh tế để tăng thu nhập theo các chương trình, dự án nhằm ngăn chặn tệ nạn mại dâm phát sinh, phát triển; 2. Tổ chức chữa bệnh, giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm cho người bán dâm hoàn lương; trợ cấp khó khăn hoặc tạo điều kiện cho họ vay vốn, tư vấn, hướng dẫn phương pháp sản xuất, kinh doanh để họ có thu nhập ổn định; Theo đó, hiện nay Nhà nước có chính sách hỗ trợ người nghiện ma túy và người mại dâm học nghề ở trung tâm 05, 06 và ở cộng đồng. Hiện nay có trên 50% các đối tượng tại các trung tâm được học nghề. Chi phí học nghề cho các đối tượng đang ở mức thấp. Trong trung tâm, họ chỉ được đào tạo nghề ở trình độ sơ cấp, học nghề ngắn hạn với thời gian dưới 1 năm, chưa có điều kiện đào tạo nghề cho các đối tượng này ở trình độ trung cấp. Theo chính sách hiện hành, Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm sẽ giải quyết cho các doanh nghiệp vay, tùy vào số lượng lao động thu hút là nhiều hay ít, từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu đồng. Thời gian tới, chính sách này phải phổ biến rộng rãi để nhiều người dân được biết. Đồng thời, phải có sự phối hợp giữa 47
  48. các doanh nghiệp và chính quyền thì mới giải quyết được việc làm cho người mại dâm tái hòa nhập cộng đồng, . Chính quyền địa phương - nơi xác nhận các dự án vay vốn của doanh nghiệp - cần đưa khuyến nghị để gắn trách nhiệm xã hội đối với doanh nghiệp, để doanh nghiệp nhận một tỷ lệ lao động nhất định là đối tượng đặc thù nêu trên. Để giúp cho người mại dâm tái hòa nhập cộng đồng một cách hiệu quả, cần tăng cường giúp đỡ họ học nghề và nâng cao khả năng tiếp cận vốn. Cần thiết phải đầu tư dạy nghề trọng điểm, tạo sự kết nối và hỗ trợ giữa ba khâu: nhu cầu thị trường, đào tạo nghề và hỗ trợ giới thiệu việc làm. Đồng thời, xây dựng các mô hình hỗ trợ, tạo điều kiện cho người hoạt động mại dâm được dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ can thiệp dự phòng lây truyền HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục Chương trình đào tạo nghề cho người bán dâm được quy định cụ thể trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhằm tạo điều kiện giúp đối tượng rời xa tệ nạn và hòa nhập vào đời sống xã hội. Những chương trình và văn bản quy phạm pháp luật đã quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành, tổ chức chính trị - xã hội và cá nhân trong công tác hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người bán dâm và người nhiễm HIV hoà nhập cộng đồng. Công tác dạy nghề, giáo dục hoà nhập cho người mại dâm và người nhiễm HIV ở các Trung tâm giáo dục lao động xã hội ngày càng được cải thiện hơn về nội dung và chất lượng. Các trung tâm đã tổ chức dạy nghề kết hợp với lao động sản xuất phù hợp với khả năng của đối tượng, giúp cải thiện sinh hoạt hàng ngày và nâng cao năng lực tái hoà nhập cộng đồng cho đối tượng. Một số trung tâm đã gắn kết hoạt động dạy nghề với giới thiệu, tạo việc làm cho đối tượng thông qua 48
  49. thực hiện các chính sách hỗ trợ, vận động các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhận đối tượng vào làm việc hoặc gia công sản phẩm. - Hỗ trợ vay vốn Nghiên cứu chỉ ra rằng sự phân biệt đối xử là một rào cản đối với những người hoạt động mại dâm có ý định bỏ việc bán dâm và kiếm kế sinh nhai khác. Mặc dù Nhà nước có chính sách hỗ trợ vay vốn cho người hoạt động mại dâm trở về với cộng đồng, tuy nhiên, nhiều người không đăng ký vì lo sợ bị cộng đồng kỳ thị. Do vậy, số lượng người mại dâm tiếp cận vốn vay rất thấp. - Tổ chức các hoạt động xã hội, các câu lạc bộ, các nhóm đồng đẳng - Tuyên truyền, vận động về phòng, chống mại dâm. Việc tuyên truyền nâng cao nhận thức và hành vi về phòng chống mại dâm, giảm lấy nhiễm HIV/AIDS và giảm kỳ thị cần phải phát triển rộng khắp. Trước hết, các hoạt động truyền thông được hướng đến các cộng đồng dân cư, đến đội ngũ cán bộ làm công tác phòng chống tệ nạn xã hội, các nhóm đồng dẳng, các cơ quan tổ chức, các cá nhân và gia đình đặc biệt hướng vào các nhóm nguy cơ cao: nhóm mại dâm, nhóm tiêm chích ma túy, nhóm quan hệ tình dục đồng giới, nhóm di biến động( lái xe, công nhân các khu công nghiệp, nhóm người di cư từ nông thôn ra thành phố ) Về nội dung truyền thông cần tập trung vào cung cấp các kiến thức về HIV/AIDS, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, các biện pháp giảm hại( bơm kim tiêm sạch, bao cao su, ) các vấn đề liên quan đến sử dụng chất gây nghiện, buôn bán người Hình thức truyền thông có thể trực tiếp, gián tiếp thông qua các chương trình, diễn đàn, các buổi truyền thông tập trung, sinh hoạt nhóm đồng đẳng 49
  50. - Triển khai hoạt động phòng ngừa tệ nạn mại dâm Ngoài các hoạt động truyền thông nâng cao ý thức pháp luật liên quan đếm mại dâm còn triển khai đồng bộ nhiều hoạt động khác: giải quyết vấn đề thất nghiệp, việc làm, các chính sách về xóa đói giảm nghèo, tuyên truyền phòng chống các tệ nạn xã hội khác như nạn bạo lực gia đình, xâm hại tình dục trẻ em, buôn bán người 3. Các kỹ năng vận động nguồn lực 3.1. Kỹ năng tìm kiếm và thiết lập các mối quan hệ Đây là công việc đòi hỏi sự tận tâm, cam kết trước khi mạng lưới được thiết lập và triển khai các hoạt động huy động hiệu quả. Do đó, càn phải có ý thức tìm kiếm và nắm bắt các cơ hội tìm hiểu và tiếp cận các đối tác tiềm năng và cần phải có mối quan hệ rộng rãi. Để có và mở rộng được các mối quan hệ cần: - Tích cực tham gia vào các hội thảo chia sẻ - Lưu ý ghi chép các thông tin của các cơ quan tổ chức mà nhận thấy có khả năng tiếp cận để vận động - Luôn có các thông tin về cơ quan tổ chức của mình để chia sẻ cung cấp trong các cơ hội gặp gỡ các thành viên tiềm năng. VD khi đến dự các hội thảo, tọa đàm, các buổi làm việc với đối tác luôn mang theo tờ rơi giới thiệu về cơ quan/tổ chức mình - Liên tục cập nhật các thông tin đăng tải trên internet về sự ra đời của các tổ chức có liên quan tới mục đích xây dựng mạng lưới và huy động nguồn lực. - Sử dụng các hình thức giao tiếp thích hợp, liên tục cập nhật thông tin về tổ chức. 50
  51. Như vậy, khi tạo lập nhiều mối quan hệ sẽ giúp xây dựng được mạng lưới vững chắc với nhiều thành viên tham gia. Kết quả, tăng cường được sự hỗ trợ và chia sẻ từ mạng lưới. Chính vì vậy, sau khi có được các mối quan hệ cần có khả năng xây dựng và duy trì các mối quan hệ này. Một số điểm cần lưu ý trong việc duy trì các mối quan hệ: - Về thái độ: + Chân thành: là yếu tố đầu tiên và đảm bảo sự bền vững trong mọi mối quan hệ. Thông qua giao tiếp, hành vi bộc lộ thái độ chân thành của cá nhân, cơ quan, tới những thành viên trong việc trình bày mong muốn hợp tác cũng như những đóng góp của bản thân cơ quan tổ, chức mình. + Tôn trọng: thể hiện trong việc cư xử công bằng, không lấn át, để đối tác được tự quyết định hành động của mình khi tham gia. + Khiêm tốn - Việc cần làm: + Tìm kiếm và nhấn mạnh vào những điểm chung trong mục đích tôn chỉ + Tìm hiểu về thành viên có ý định tham gia + Có sự hiểu biết về khả năng tham gia, hỗ trợ và chia sẻ của thành viên . Thông qua các đồng nghiệp nơi làm việc hoặc các mối quan hệ khác, tìm hiểu về các cá nhân, nhóm tổ chức, cơ quan có quan tâm tới công việc của cơ quan, tổ chức của mình. + Tạo cơ hội tiếp xúc với các thành viên này để giới thiệu về tổ chức, đối tượng, hoạt động của mình với những khả năng về nguồn nhân lực, kĩ thuật, tài chính mà tổ chức bạn có thể có. 51
  52. Việc tìm kiếm và thiết lập mối quan hệ còn thực hiện qua các phương tiện giao tiếp khác, chẳng hạn như điện thoại, thư tín, thư mời.Tuy nhiên, dù giao tiếp qua hình thức nào đi chăng nữa, việc chứng tỏ sự chân thành, trung thực và tôn trọng luôn được đặt lên hàng đầu. 3.2.Kỹ năng duy trì các mối quan hệ Duy trì mối quan hệ với vai trò là một thành viên trong mạng lưới, ngoài những yêu cầu về thái độ và các phương pháp như đã đề cập ở trên, còn đòi hỏi sự lưu tâm và đáp ứng đối tác ở nhiều khía cạnh: sở thích, khả năng, những ngày có ý nghĩa đặc biệt vớí đối tác Cần chuẩn bị những cuộc thăm hỏi cá nhân, tặng quà hợp sở thích, tạo ra các cuộc vui chơi hoặc chia sẻ mang tính giáo dục. Đồng thời, phải thường xuyên khai thác thêm những khả năng đáp ứng khác của các thành viên và kiên trì duy trì các hoạt động này. Duy trì mối quan hệ cũng không khác với việc tạo lập mối quan hệ nó đòi hỏi những thái độ, hành vi tương tự như trên, cùng với việc lưu ý lôi kéo sự tham gia các bên vào các hoạt động như thăm nhau, tặng nhau chút quà, nhớ đến những ngày lễ của nhau. Cùng khi đó là cần tiếp tục khám phá những khả năng hỗ trợ từ các bên. 3.3.Kỹ năng khích lệ sự tham gia Việc huy động vào đóng góp ngân sách cho hoạt động từ thiện thường là những hoạt động mang tính tự nguyện, đặc biệt là từ các cá nhân và các tổ chức mà đối tượng phục vụ của họ không phải nhóm này. Chính vì vậy, để có được sự tham gia và duy trì sự hảo tâm này cần phải có được các kĩ năng khích lệ sau: - Hiểu tâm lý của cá nhân, đại diện cho các tổ chức tiềm năng. 52
  53. - Cung cấp các thông tin khích lệ lòng tự hào của cá nhân và tổ chức khi tham gia vào hoạt động từ thiện hoặc mạng lưới hỗ trợ. - Tạo các cơ hội để các cá nhân, tổ chức tham gia vào chiến dịch huy động nguồn lực được công chúng biết tới thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các hình thức phù hợp. - Không bỏ lỡ cơ hội khi cá nhân và tổ chức còn lưỡng lự, hỗ trợ quyết định tham gia của họ - Không bỏ qua việc cảm ơn những đối tác tích cực trong mạng lưới và những đơn vị cá nhân tham gia vào chiến dịch huy động - Chuẩn bị cơ cấu lãnh đạo và phân công hợp lý người đảm trách công việc cho các nhóm, chẳng hạn, nhóm chịu trách nhiệm ghi lại sự đóng góp và gói quà tặng, nhóm tiếp tục hoạt động huy động ngân sách, hoặc đảm trách hoạt động truyền thông - Lưu ý rằng, chìa khoá của thành công là tìm kiếm những tình nguyện viên có kiến thức về huy động ngân sách và đặc biệt cam kết với tổ chức cũng như sự nghiệp của tổ chức. Trước khi tiến hành thực hiện chiến dịch, cần phải trả lời các câu hỏi sau: - Tình trạng hiện nay về việc từ thiện tại địa bàn của bạn là gì? - Có tổ chức/ đơn vị nào cũng dự đinh triển khai chiến dịch không? - Chủ đề để phát động chiến dịch là gì? Có hấp dẫn không? - Hoàn cảnh hiện nay hỗ trợ hay cản trở chiến dịch của bạn? - Hình ảnh trước công chúng về cơ quan của bạn là gì? 53