Giáo trình Giáo dục quốc phòng - An ninh

pdf 137 trang hapham 1690
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Giáo dục quốc phòng - An ninh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_giao_duc_quoc_phong_an_ninh.pdf

Nội dung text: Giáo trình Giáo dục quốc phòng - An ninh

  1. TRƢỜNG CĐ CÔNG THƢƠNG. TP.HCM KHOA GD THỂ CHẤT – QUỐC PHÕNG HỌC PHẦN I MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ Bài 1: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC I - MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU: 1.1: Mục đích: Giới thiệu cho sinh viên nắm vững đối tƣợng, phƣơng pháp, nội dung nghiên cứu môn học Giáo dục quốc phòng an ninh, góp phần bồi dƣỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực, trung thành với lý tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.2: Yêu cầu: Mỗi sinh viên cần xác định trách nhiệm, thái độ đúng trong học tập môn học Giáo dục quốc phòng – an ninh, từ đó tích cực tham gia xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngay khi đang học tập, rèn luyện tại trƣờng và ở mỗi vị trí công tác sau này. II – GIỚI THIỆU VỀ MÔN HỌC. 2.1. Đặc điểm môn học: GDQP – AN là môn học đƣợc luật định, nó đƣợc thể hiện rất rõ trong đƣờng lối giáo dục của Đảng và đƣợc thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nƣớc, nhằm giúp cho sinh viên thực hiện mục tiêu “hình thành và bồi dƣỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Kế tục và phát huy những kết quả đã thực hiện Chƣơng trình huấn luyện quân sự phổ thông (theo NĐ 219/CP của Chính phủ năm 1961), Giáo dục quốc phòng (năm 1991), trong những năm qua, để để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và phù hợp với quy chế giáo dục – đào tạo trình độ đại học, năm 2000 chƣơng trình môn học tiếp tục đƣợc bổ sung, sửa đổi; đến năm 2007 thực hiện chỉ thị 12/ CT của Bộ chính trị và nghị định 116/NĐ của Chính phủ về Giáo dục quốc phòng – an ninh, môn học Giáo dục quốc phòng đƣợc lồng ghép nội dung Giáo dục an ninh thành môn học Giáo dục quốc phòng – an ninh. Nhƣ vậy trong từng giai đoạn cách mạng, chƣơng trình môn học Giáo dục quốc phòng – an ninh đều có những đổi mới phục vụ cho sự nghiệp Giáo dục nói chung và công tác quốc phòng an ninh nói riêng trong từng thời kì, gắn kết chặt chẽ các mục tiêu của giáo dục – đào tạo với quốc phòng - an ninh. Giáo dục quốc phòng – an ninh là môn học bao gồm kiến thức khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa học kĩ thuật quân sự và thuộc nhóm các môn học chung, có tỉ lệ lí thuyết chiếm trên 70% chƣơng trình môn học. Nội dung bao gồm những kiến thức cơ bản về đƣờng lối quốc phòng, quân sự của Đảng, công tác quản lí Nhà nƣớc về quốc phòng, an ninh; về kĩ năng quân sự, an ninh cần thiết đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Giáo dục quốc phòng – an ninh góp phần xây dựng , rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong khoa học ngay khi sinh viên đang học tập trong Học viện và khi ra công tác. Giảng dạy và học tập tốt môn học Giáo dục quốc phòng – an ninh là góp phần đào tạo cho ngành chính viễn thông một đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lí, chuyên môn nghiệp vụ có ý thức, năng lực sẵn sàng tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên mọi cƣơng vị công tác. 2.2 Chương trình: Chƣơng trình môn học GDQP - AN cho sinh viên thực hiện theo quyết định số:81/QĐ - BGD & ĐT ban hành ngày 24 tháng12 năm 2007 của Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Chƣơng trình đƣợc xây dựng trên cơ sở phát triển trình độ các cấp học dƣới, bảo đảm liên thông, logíc; mỗi học phần là những khối kiến thức tƣơng đối độc lập, tiện cho sinh viên tích lũy trong quá trình học tập. Kết chƣơng trình gồm 3 phần chính: Phần 1: Mục tiêu, thời gian, thời điểm thực hiện. Phần 2: Tóm tắt nội dung các học phần và chƣơng trình. Học phần I : Đƣờng lối quân sự của Đảng, 45 tiết. Học phần II: Công tác quốc phòng, an ninh, 45 tiết. Học phần III: Quân sự chung, 45 tiết. Học phần IV: Chiến thuật và kĩ thuật bắn súng tiểu liên AK, 30 tiết. Sinh viên đại học học 4 học phần, 165 tiết; sinh viên cao đẳng học 3 học phần (I,II.III), 135 tiết. Phần 3: Tổ chức thực hiện chƣơng trình; phƣơng pháp giảng dạy, học và đánh giá kết quả học tập. III – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Đối tƣợng nghiên cứu của môn học bao gồm đƣờng lối quốc phòng, quân sự của Đảng, công tác quốc phòng, an ninh, quân sự và kĩ năng quân sự cần thiết. 3.1: Nghiên cứu về đường lối quân sự của Đảng: Nghiên cứu những quan điểm cơ bản có tính lí luận của Đảng về đƣờng lối quân sự nhƣ: Những vấn đề cơ bản của học thuyết Mác – lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc; quan - 1 -
  2. . điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân, an ninh nhân dân; về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cƣờng củng cố quốc phòng, an ninh và một số nội dung cơ bản vè nghệ thuật quân sự Việt Nam qua các thời kì. Nghiên cứu đƣờng lối quân sự của Đảng góp phần hình thành niềm tin, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng và lí tƣởng cho sinh viên. 3.2: Nghiên cứu về công tác quốc phòng, an ninh: Nghiên cứu những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ, nội dung công tác quốc phòng, an ninh của Đảng hiện nay nhƣ: Xây dựng lực lƣợng quân tự vệ, lực lƣợng dự bị động viên và động viên công nghiệp, phòng tránh, đánh trả chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao của đối phƣơng, đánh bại chiến lƣợc “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù đối với cách mạng Việt Nam; một số vấn đề về dân tộc, tôn giáo và đấu tranh phòng chống lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền an ninh biên giới quốc gia; đấu tranh phòng chống tội phạm và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Nghiên cứu và thực hiện tốt công tác quốc, an ninh để xây dựng lòng tin chiến thắng trƣớc mọi âm mƣu, thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam. 3.3: Nghiên cứu về quân sự và kĩ năng quân sự cần thiết: Nghiên cứu các kiến thức nhƣ: những kiến thức cơ bản về bản đồ, địa hình quân sự, các phƣơng tiện chỉ huy chiến thuật và chiến đấu; tính năng, cấu tạo, tác dụng, sử dụng và bảo quản các loại vũ khí bộ binh AK, CKC, RPD, RPK, B40,B41; tính năng, kĩ thuật sử dụng thuốc nổ; phòng chống vũ khí hủy diệt lớn; vết thƣơng chiến tranh và phƣơng pháp xử lí; một số vấn đề về điều lệnh đội ngũ và chiến thuật chiến đấu bộ binh. Kiến thức về quân sự trong môn học là những kiến thức phổ thông, sinh viên cần nghiên cứu đặc điểm, nguyên lí, tác dụng, tính năng hiểu rõ bản chất các nội dung kĩ thuật, chiến thuật bộ binh; về khả năng sát thƣơng, với các phƣơng pháp phòng tránh đơn giản, hiệu quả. Trên cơ sở đó nghiên cứu thực hành các bài tập sát với thực tế, thành thạo các thao tác kĩ thuật, chiến thuật trong chiến đấu. Đồng thời có thể ứng dụng kĩ thuật này khi tham gia dân quân, tự vệ theo qui định của pháp luật. IV. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC. Việc nghiên cứu môn học Giáo dục quốc phòng – an ninh đòi hỏi phải nắm vững cơ sở phƣơng pháp luận, phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với đối tƣợng, phạm vi và tính chất đa dạng của nội dung môn học này. 4.1: Cơ sở phương pháp luận: Cơ sở phƣơng pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu giáo dục quốc phòng – an ninh là học thuyết Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Trong đó những quan điểm của các nhà kinh điển Mác – Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội, về xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân là nền tảng thế giới quan, nhận thức luận của sự nghiên cứu, vận dụng đƣờng lối quân sự của Đảng và những vấn đề cơ bản khác của giáo dục quốc phòng – an ninh. Việc xác định học thuyết Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là cơ sở phƣơng pháp luận, đòi hỏi quá trình nghiên cứu, phát triển giáo dục quốc phòng - an ninh phải nắm vững và vận dụng đúng đắn các quan điểm tiếp cận khoa học nhƣ: - Quan điểm hệ thống: Đặt ra yều cầu nghiên cứu, phát triển các nội dung của giáo dục quốc phòng – an ninh một cách toàn diện, tổng thể,, trong mối quan hệ phát triển giữa các bộ phận, các vấn đề của môn học. - Quan điểm lịch sử, logíc: Trong nghiên cứu giáo dục quốc phòng – an ninh đòi hỏi phải nhìn thấy sự phát triển của đối tƣợng, vấn đề nghiên cứu theo thời gian, không gian với những điều kiện lịch sử, cụ thể để từ đó giúp ta phát hiện, khái quát, nhận thức đúng những quy luật, nguyên tắc của hoạt động quốc phòng, an ninh. - Quan điểm thực tiễn: Chỉ ra phƣơng hƣớng cho việc nghiên cứu giáo dục quốc phòng – an ninh là phải bán sát thực tiễn xây dựng quân đội và công an nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay. 4.2: Các phương pháp nghiên cứu: Với tƣ cách là bộ môn khoa học nằm trong hệ thống khoa học quân sự, phạm vi nghiên cứu của giáo dục quốc phòng – an ninh rất rộng, nội dung nghiên cứu đa dạng, đƣợc cấu trúc theo hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp luôn có sự kế thừa và phát triển. Vì vậy giáo dục quốc phòng – an ninh đƣợc tiếp cận nghiên cứu với nhiều cách thức, phù hợp với tính chất của từng nội dung và vấn đề nghiên cứu cụ thể. Trong nghiên cứu phát triển nội dung giáo dục quốc phòng – an ninh với tƣ cách là một bộ môn khoa học cần chú ý sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học. Trƣớc hết cần sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết nhƣ phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa, mô hình hóa, giả thuyết nhằm thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu về quốc phòng, an ninh để rút ra kết luận khoa học cần thiết, không ngừng bổ xung, phát triển làm phong phú nội dung GDQP – AN. Cùng với phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết, cần nghiên cứu sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn nhƣ quan sát, điều tra, khảo sát thực tế, nghiên cứu các sản phẩm quốc phòng, an ninh, tổng kết kinh nghiệm, thí nghiệm, thực nghiệm nhằm tác động trực tiếp vào đối tƣợng trong thực tiễn từ đó khái quát bản chất, quy luật cảu các hoạt động quốc phòng, an ninh; bổ xung làm phong phú nội dung cũng nhƣ kiểm định tính sát thực, tính đúng đắn của các kiến thức quốc phòng - an ninh. Trong nghiên cứu lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng quốc phòng, an ninh cần sử dụng kết hợp các phƣơng pháp dạy học lí thuyết và thực hành nhằm bảo đảm cho ngƣời học vừa có nhận thức sâu sắc về đƣờng lối, nghệ - 2 -
  3. . thuật quân sự, nắm chắc lí thuyết kĩ thuật và chiến thuật, vừa rèn luyện phát triển đƣợc các kĩ năng công tác quốc phòng, thuần thục các thao tác, hành động quân sự. Đổi mới phƣơng pháp dạy học GDQP – AN theo hƣớng tăng cƣờng vận dụng các phƣơng pháp dạy học tiên tiến kết hợp với sử dụng các phƣơng tiện kĩ thuật dạy học hiện đại. Trong quá trình học tập nghiên cứu các đề, các nội dung GDQP – AN cần chú ý sử dụng các phƣơng pháp tạo tình huống, nên vấn đề, đối thoại, tranh luận sáng tạo; tăng cƣờng thực hành, thực tập sát với thực tế chiến đấu, công tác quốc phòng; tăng cƣờng thăm quan thực tế, viết thu hoạch, tiểu luận; tăng cƣờng sử dụng các phƣơng tiện kĩ thuật, thiết bị quân sự hiện đại phục vụ cho các nội dung học tập; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lƣợng học tập, nghiên cứu môn học GDQP – AN. Bài 2 MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XHCN I – MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU. 1.1: Mục đích: Bồi dƣỡng cho sinh viên hiểu đƣợc một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh quân đội và bảo vệ tổ quốc, từ đó góp phần xây dựng niềm tin, trách nhiệm và tích cực đấu tranh để bảo vệ quan điểm tƣ tƣởng đó trong tình hình hiện nay. 1.2: Yêu cầu: Hiểu đúng, đủ nội dung của bài, phát huy trí sáng tạo của tuổi trẻ, tích cực hoạt động, góp phần bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay. II – NỘI DUNG: 2.1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH 2.1.1:Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh. - Chiến tranh là một hiện tượng lịch sử xã hội Chiến tranh là một vấn đề phức tạp, trƣớc Các Mác, Ăng Ghen đã có nhiều nhà tƣ tƣởng đề cập đến vấn đề này, song đáng chú ý nhất là tƣ tƣởng của C.Ph. CLaudơvít, Ông quan niệm: Chiến tranh là một hành vi bạo lực dùng để buộc đối phƣơng phải phục tùng ý trí của mình. Chiến tranh là sự huy động không hạn độ, sức mạnh đến tột cùng của các bên tham chiến. Ở đây C.Ph. CLaudơvít đã chỉ ra đƣợc đặc trƣng cơ bản của chiến tranh đó là sử dụng bạo lực. Tuy nhiên Ông chƣa luận giải đƣợc bản chất của hành vi bạo lực ấy. Đứng vững trên lập trƣờng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên các luận cứ khoa học và thực tiễn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã kế thừa tƣ tƣởng đó và đi đến khẳng định: Chiến tranh là một hiện tượng chính trị-xã hội có tính lịch sử, đó là cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nước (hoặc liên minh giữa các nước) nhằm đạt mục đích chính trị nhất định. Các ông đã phân tích chế độ công xã nguyên thuỷ và chỉ ra rằng, thời kỳ công xã nguyên thuỷ kéo dài hàng vạn năm, con ngƣời chƣa hề biết chiến tranh. Vì đặc trƣng của chế độ này là trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất hết sức thấp kém, tổ chức xã hội thì còn sơ khai, con ngƣời sống hoàn toàn phục thuộc vào tự nhiên. Động cơ cơ bản của sự phát triển xã hội công xã nguyên thuỷ là cuộc đấu tranh giữa con ngƣời với tự nhiên. Trong xã hội đó, các mâu thuẫn và xung đột giữa các bộ lạc, kể cả xung đột vũ trang chỉ là thứ yếu, không mang tính xã hội. Những cuộc đấu tranh tranh giành đất đai, các khu vực săn bắn hái lƣợm, các bãi chăn thả các hành động đó chỉ là đấu tranh để sinh tồn. Trong các cuộc xung đột ấy tuy đã có yếu tố bạo lực vũ trang, nhƣng những yếu tố bạo lực vũ trang đó chỉ có ý nghĩa để thoả mãn các nhu cầu kinh tế trực tiếp của các bộ tộc, bộ lạc. Vì vậy Các Mác, Ăng Ghen coi đây nhƣ là một hình thức lao động nguyên thuỷ. Các xung đột ở xã hội công xã nguyên thuỷ không phải là chiến tranh, đó chỉ là những cuộc xung đột mang tính tự phát ngẫu nhiên. Nhƣ vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin chiến tranh là những kết quả của những quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội. Nhƣng nó không phải là những mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời nói chung. Mà nó là mối quan hệ giữa những tập đoàn ngƣời có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Khác với các hiện tƣợng chính trị - xã hội khác, chiến tranh chiến tranh đƣợc thể hiện dƣới một hình thức đặc biệt, sử dụng một công cụ đặc biệt đó là bạo lực vũ trang. Bất chấp thực tế đó, các học giả tƣ sản cho rằng chiến tranh đã có ngay từ khi xuất hiện xã hội loài ngƣời và không thể nào loại trừ đƣợc nó. Mục đích của họ là để che đậy cho hành động chiến tranh xâm lƣợc do giai cấp tƣ sản phát động. - Nguồn gốc nảy sinh chiến tranh: Chiến tranh bắt nguồn từ chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước. Bằng thế giới quan và phƣơng pháp luận duy vật biện chứng cùng sự kết hợp sáng tạo phƣơng pháp logíc và lịch sử C. Mác và Ăng Ghen lần đầu tiên trong lịch sử đã luận giải một cách đúng đắn về nguồn gốc nẩy sinh chiến tranh. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: sự xuất hiện và tồn tại của chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất là nguồn gốc sâu xa (nguồn gốc kinh tế), suy đến cùng đã dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh. - 3 -
  4. . Đồng thời, sự xuất hiện và tồn tại của giai cấp và đối kháng giai cấp là nguồn gốc trực tiếp (nguồn gốc xã hội) dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh. Quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài ngƣời đã chứng minh cho nhận định trên. Trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc”, Ph. Ăngghen chỉ rõ: Trải qua hàng vạn năm trong chế độ cộng sản nguyên thủy, khi chƣa có chế độ tƣ hữu, chƣa có giai cấp đối kháng thì chiến tranh với tính cách là một hiện tƣợng chính trị xã hội cũng chƣa xuất hiện. Mặc dù thời kì này đã xuất hiện những cuộc xung đột vũ trang. Nhƣng đó không phải là một cuộc chiến tranh mà chỉ là một dạng “Lao động nguyên thủy”. Bởi vì, xét về mặt xã hội, xã hội công xã nguyên thủy là một xã hội không có giai cấp, bình đẳng, không có tình trạng phân chia thành kẻ giàu, ngƣời nghèo, kẻ đi áp bức bóc lột và ngƣời bị áp bức bóc lột. Về kinh tế, không có của “dƣ thừa tƣơng đối” để ngƣời này có thể chiếm đoạt thành quả lao đông của ngƣời khác, mục tiêu của các cuộc xung đột đó chỉ để tranh giành các điều kiện tự nhiên thuận lợi để tồn tại nhƣ; nguồn nƣớc, bãi chăn thả, vùng săn bắn hay hang động Về kĩ thuật quân sự, trong các cuộc xung đột này, tất cả các bên tham gia đều không có lực lƣợng vũ trang chuyên nghiệp, cũng nhƣ vũ khí chuyên dùng. Do đó, các cuộc xung đột vũ trang này hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên tự phát. Theo đó Ph. Ăngghen chỉ rõ, khi chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột từ đó xuất hiện và tồn tại chiến tranh nhƣ một tất yếu khách quan. Chế độ áp bức bóc lột càng hoàn thiện thì chiến tranh càng phát triển. Chiến tranh trở thành bạn đƣờng của mọi chế độ tƣ hữu. Tiếp tục phát triển những luận điểm của C. Mác, Ph.Ăngghen về chiến tranh trong điều kiện lịch sử mới, Lênin chỉ rõ : Trong thời đại ngày nay còn chủ nghĩa đế quốc thì còn nguy cơ xẩy ra chiến tranh, chiến tranh bắt nguồn từ chính bản chất của chủ nghĩa tƣ bản, chủ nghĩa đế quốc, chiến tranh là bạn đƣờng của chủ nghĩa đế quốc. Nhƣ vậy, chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất, có đối kháng giai cấp và có áp bức bóc lột. Chiến tranh không phải bắt nguồn từ bản năng sinh vật của con ngƣời, không phải là định mệnh và cũng không phải là hiện tƣợng tồn tại vĩnh viễn. Muốn xoá bỏ chiến tranh thì phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra nó. - Bản chất của chiến tranh là kế tục sự nghiệp chính trị bằng thủ đoạn bạo lực. Bản chất chiến tranh là một trong những nội dung cơ bản, quan trọng nhất của học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh, quân đội. Theo V.I. Lênin: "Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác" (cụ thể là bằng bạo lực). Theo V.I. Lênin, khi phân tích bản chất chiến tranh, nhất thiết phải có quan điểm chính trị - giai cấp, xem chiến tranh chỉ là một hiện tƣợng lịch sử cụ thể. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin: "Chính trị là sự phản ánh tập trung của kinh tế", "Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc", chính trị là sự thống nhất giữa đƣờng lối đối nội và đƣờng lối đối ngoại, trong đó đƣờng lối đối ngoại phụ thuộc vào đƣờng lối đối nội. Lênin chỉ rõ “mọi cuộc chiến tranh đều gắn liền với chế độ chính trị sinh ra nó”, chính trị chi phối chiến tranh từ đầu đến cuối. Nhƣ vậy, chiến tranh chỉ là một thời đoạn, một bộ phận của chính trị, nó không làm gián đoạn chính trị. Ngƣợc lại, mọi chức năng, nhiệm vụ của chính trị đều đƣợc tiếp tục thực hiện trong chiến tranh. Giữa chiến tranh và chính trị có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó chính trị chi phối và quyết định toàn bộ tiến trình và kết cục chiến tranh, chính trị chỉ đạo toàn bộ hoặc phần lớn tiến trình và kết cục của chiến tranh, chính trị quy định mục tiêu và điều chỉnh mục tiêu, hình thức tiến hành đấu tranh vũ trang. Chính trị không chỉ kiểm tra toàn bộ quá trình tác chiến, mà còn sử dụng kết quả sau chiến tranh để đề ra những nhiệm vụ, những mục tiêu mới cho giai cấp, xã hội trên cơ sở thắng lợi hay thất bại của chiến tranh. Ngƣợc lại, chiến tranh là một bộ phận, một phƣơng tiện của chính trị, là kết quả phản ánh những cố gắng cao nhất của chính trị. Chiến tranh tác động trở lại chính trị theo hai hƣớng tích cực hoặc tiêu cực; hoặc tích cực ở khâu này nhƣng lại tiêu cực ở khâu khác. Chiến tranh có thể làm thay đổi đƣờng lối, chính sách, nhiệm vụ cụ thể, thậm chí có thể còn thay đổi cả thành phần của lực lƣợng lãnh đạo chính trị trong các bên tham chiến. Chiến tranh tác động lên chính trị thông qua việc làm thay đổi về chất tình hình xã hội, nó làm phức tạp hoá các mối quan hệ và làm tăng thêm những mâu thuẫn vốn có trong xã hội có đối kháng giai cấp. Chiến tranh có thể đẩy nhanh sự chín muồi của cách mạng hoặc làm mất đi tình thế cách mạng. Chiến tranh kiểm tra sức sống của toàn bộ chế độ chính trị xã hội. Trong thời đại ngày nay mặc dù chiến tranh có những thay đổi về phƣơng thức tác chiến, vũ khí trang bị "song bản chất chiến tranh vẫn không có gì thay đổi, chiến tranh vẫn là sự tiếp tục chính trị của các nhà nƣớc và giai cấp nhất định. Đƣờng lối chính trị của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn luôn chứa đựng nguy cơ chiến tranh, đƣờng lối đó đã quyết định đến mục tiêu chiến tranh, tổ chức biên chế, phƣơng thức tác chiến, vũ khí trang bị" của quân đội do chúng tổ chức ra và nuôi dƣỡng. - Tính chất của chiến tranh: Xuất phát từ địa vị lịch sử của các giai cấp đối với sự phát triển của xã hội từ mục đích chính trị của chiến tranh. Các Mác, Ăng Ghen đã phân chia chiến tranh thành: chiến tranh tiến bộ và chiến tranh phản động. Chiến - 4 -
  5. . tranh tiến bộ bao gồm: những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc chống lại bọn thực dân xâm lƣợc và những cuộc nội chiến của giai cấp bị áp bức bóc lột. Chiến tranh phản động là những cuộc chiến tranh đi xâm lƣợc đất đai, nô dịch các dân tộc khác. Từ đó, các ông xác định thái độ ủng hộ những cuộc chiến tranh tiến bộ, chính nghĩa và phản đối những cuộc chiến tranh phản động, phi nghĩa. Lênin phân loại chiến tranh dựa trên các mâu thuẫn cơ bản của thời đại mới và đã phân chiến tranh thành: chiến tranh cách mạng và chiến tranh phản cách mạng hay còn gọi là: chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Ngƣời xác định thái độ là: giai cấp vô sản cần lên án các cuộc chiến tranh phản cách mạnh, phi nghĩa, ủng hộ các cuộc chiến tranh cách mạng, tự vệ chính nghĩa. 2.1.2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh: - Phân biệt rõ sự đối lập mục đích chính trị của chiến tranh xâm lược và chiến tranh chống xâm lược. Trên cơ sở lập trường của chủ nghĩa duy vật biên chứng, Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng đắn bản chất, quy luật của chiến tranh, tác động của chiến tranh đến đời sống xã hội Khi nói về bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã khái quát bằng hình ảnh "con đỉa hai vòi", một vòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi hút máu nhân dân lao động thuộc địa. Trong hội nghị Véc – Xây, Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất, bộ mặt thật của sự xâm lƣợc thuộc địa và chiến tranh cƣớp bóc của chủ nghĩa thực dân Pháp. "Ngƣời Pháp khai hoá văn minh bằng rƣợu lậu, thuốc phiện". Nói về mục đích cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Ngƣời khẳng định: "Ta chỉ giữ gìn non sông, đất nƣớc của ta. Chỉ chiến đấu cho quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Còn thực dân phản động Pháp thì mong ăn cƣớp nƣớc ta, mong bắt dân ta làm nô lệ". Nhƣ vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc chiến tranh do thực dân Pháp tiến hành ở nƣớc ta là cuộc chiến tranh xâm lược. Ngƣợc lại cuộc chiến tranh của nhân ta chống thực dân Pháp xâm lƣợc là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền và thống nhất đất nƣớc. - Xác định tích chất xã hội của chiến tranh, phân tích tính chất chính trị - xã hội của chiến tranh xâm lược thuộc địa, chiến tranh ăn cướp của chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra tính chất chính nghĩa của chiến tranh giải phóng dân tộc. Trên cơ sở mục đích chính trị của chiến tranh, Hồ Chí Minh đã xác định tính chất xã hội của chiến tranh, chiến tranh xâm lƣợc là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lƣợc là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa. Kế thừa và phát triển tƣ tƣởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt Nam. Ngƣời khẳng định: "Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực, độc lập tự do không thể cầu xin mà có đƣợc, phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền". Bạo lực cách mạng theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đƣợc tạo bởi sức mạnh của toàn dân, bằng cả lực lƣợng chính trị và lực lƣợng vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. - Hồ Chí Minh Khẳng định: Ngày nay chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta là chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hồ Chí Minh luôn coi con ngƣời là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Ngƣời chủ trƣơng phải dựa vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh để "xây dựng lầu thắng lợi". Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân là một trong những di sản quý báu của Ngƣời. Tƣ tƣởng này đƣợc Hồ Chí Minh trình bày một cách giản dị, dễ hiểu nhƣng sinh động và rất sâu sắc. Chiến tranh nhân dân dƣới sự lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến tranh toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân và đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tƣ tƣởng của Ngƣời đƣợc thể hiện rõ nét trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp ngày 19 - 12 - 1946: "Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì ngƣời già, ngƣời trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc hễ là ngƣời Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gƣơm dùng gƣơm, không có gƣơm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nƣớc". Để đánh thắng giặc Mĩ xâm lƣợc, Ngƣời tiếp tục khẳng định: "Ba mƣơi mốt triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kì già trẻ, gái trai, phải là ba mƣơi mốt triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mĩ cứu nƣớc, quyết giành thắng lợi cuối cùng". Theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh của toàn dân, trong đó phải có lực lƣợng vũ tranh nhân dân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn dân phải đi đôi với kháng chiến toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên tất cả các mặt trận : quân sự ; chính trị ; kinh tế ; văn hoá; ngoại giao Sự khái quát trên đã phản ánh nét đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới và là một sự phát triển đến đỉnh cao tƣ tƣởng vũ trang toàn dân của chủ nghĩa Mác – lênin. Sự phát triển sâu sắc làm phong phú thêm lí luận mác xít về chiến tranh nhân dân trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Đối với chủ tịch Hồ Chí Minh, ngăn chặn đƣợc chiến tranh là thƣợng sách, Ngƣời cố gắng dùng các phƣơng thức ít đổ máu để giành và giữ chính quyền. Khi đã phải dùng chiến tranh thì sự hi sinh mất mát là không tránh khỏi, do đó, Ngƣời thƣờng xuyên nhắc nhở các cấp, các ngành, toàn dân phải ghi ơn những ngƣời đã ngã xuống cho độc lập tự do của Tổ Quốc, phải chăm sóc gia đình thƣơng binh liệt sĩ và đối xử khoan hồng - 5 -
  6. . với tù, hàng binh dịch. Tƣ tƣởng nhân văn trong quân sự của Hồ chí Minh đƣợc kết tinh trong truyền thống “ Đại – Nghĩa- Trí –Tín - Nhân”, “mở đường hiếu sinh” cho kẻ thù của truyền thống Việt nam, nó độc lập hoàn toàn với tƣ tƣởng hiếu chiến, tàn ác của thực dân, đế quốc xâm lƣợc. Trong lĩnh vực nghệ thuật quân sự, chủ tịch Hồ chí Minh luôn lấy tƣ tƣởng chiến lƣợc tiến công, giành thế chủ động, đánh địch bằng sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lƣợng hình thức quy mô và mọi lúc mọi nơi. Khéo léo nhuần nhuyễn các yếu tố: Thiên thời, địa lợi nhân hoà với: Chí, dũng, lực, thế thời, mƣu để đánh thắng địch một cách có lợi nhất tổn thất ít nhất. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghệ thuật tiến chiến tranh toàn dân, toàn diện của Việt Nam đã phát triển đến đỉnh cao. -Kháng chiến lâu dài dựa vào sức minh là chính Xuất phát từ hoàn cảnh nƣớc ta là một nƣớc nghèo, kinh tế kém phát triển, vừa giành đƣợc độc lập lại phải đƣơng đầu với thực dân, đế quốc có tiềm lực kinh tế quân sự mạnh hơn ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trƣơng “vừa kháng chiến vừa kiến quốc” để xây dựng và phát triển lực lƣợng ta, bảo đảm ta càng đánh càng trƣởng thành. Ngƣời chỉ đạo: phải trƣờng kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, “trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”. Trƣờng kỳ là đánh lâu dài, lấy thời gian làm lực lƣợng để chuyển hoá so sánh dần dần thế và lực của ta, giành thắng lợi từng bƣớc, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Tự lực cánh sinh là dựa vào sức mình, không ỷ lại, “phải đem sức ta mà giải phóng cho ta”, nhƣng đồng thời phải hết sức tranh thủ sự đồng tình giúp đỡ của quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn hơn địch để đánh và thắng chúng. Tƣ tƣởng cơ bản của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh đã trở thành tƣ tƣởng chỉ đạo xuyên suốt và là nguồn gốc thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta. Ngày nay những tƣ tƣởng đó còn nguyên giá trị, định hƣớng của Đảng ta trong việc đề ra những quan điểm cơ bản tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. 2.2: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUÂN ĐỘI 2.2.1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quân đội - Khái niệm về quân đội: Theo Ăngghen, “Quân đội là một tập đoàn người có vũ trang, có tổ chức do nhà nước xây dựng để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến tranh phòng ngự” Cùng với việc nghiên cứu về chiến tranh, Ph. Ăngghen đã vạch rõ: quân đội là một tổ chức của một giai cấp và nhà nƣớc nhất định là công cụ chủ yếu để tiến hành chiến tranh. Trong điều kiện chủ nghĩa tƣ bản đã phát triển sang chủ nghĩa đế quốc Lênin nhấn mạnh, chức năng cơ bản của quân đội đế quốc là phƣơng tiện quân sự để đạt mục tiêu chính trị đối ngoại và duy trì quyền thống trị của bọn bóc lột đối với nhân dân lao động trong nƣớc. - Nguồn gốc ra đời của quân đội: Từ khi quân đội xuất hiện đến nay, đã có không ít nhà lí luận đề cập đến nguồn gốc, bản chất của quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhƣng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới lí giải đúng đắn và khoa học về hiện tƣợng chính trị xã hội đặc thù này. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra đời của quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế - xã hội và khẳng định : quân đội là một hiện tƣợng lịch sử, ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài ngƣời, khi xuất hiện chế độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất và sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Chính chế độ tƣ hữu và đối kháng giai cấp đã làm nẩy sinh nhà nƣớc thống trị bóc lột. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và đàn áp quần chúng nhân dân lao động giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lƣợng vũ trang thƣờng trực làm công cụ bạo lực của nhà nƣớc. Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng là nguồn gốc ra đời của quân đội. Chừng nào còn chế độ tư hữu, còn chế độ áp bức bóc lột thì quân đội vẫn còn tồn tại. Quân đội chỉ mất đi khi giai cấp, nhà nước và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong. - Bản chất giai cấp của quân đội: C. Mác, Ăngghen lý giải sâu sắc bản chất quân đội, quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nƣớc nhất định. Bản chất giai cấp của quân đội là bản chất của giai cấp của nhà nƣớc đã tổ chức, nuôi dƣỡng và sử dụng nó. Bản chất giai cấp của quân đội không phải tự phát hình thành mà phải trải qua quá trình xây dựng lâu dài và đƣợc củng cố liên tục. Bản chất giai cấp quân đội là tƣơng đối ổn định, nhƣng không phải là bất biến. Sự vận động phát triển bản chất giai cấp của quân đội bị chi phối bởi nhiều yếu tố nhƣ: giai cấp, nhà nƣớc, các lực lƣợng, tổ chức chính trị xã hội và việc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ trong quân đội. Do sự tác động của các yếu tố trên mà bản chất giai cấp của quân đội có thể đƣợc tăng cƣờng hoặc bị phai nhạt, thậm chí bị biến - 6 -
  7. . chất và tuột khỏi tay nhà nƣớc, giai cấp đã tổ chức ra, nuôi dƣỡng quân đội đó. Sự thay đổi bản chất giai cấp quân đội diễn ra dần dần thông qua việc tăng cƣờng hoặc suy yếu dần các mối quan hệ trên. Trong tình hình hiện nay, các học giả tƣ sản thƣờng rêu rao luận điểm "phi chính trị hoá quân đội", cho quân đội phải đứng ngoài chính trị, quân đội là công cụ bạo lực của toàn xã hội, không mang bản chất giai cấp. Thực chất quan điểm "phi chính trị hoá quân đội" của các học giả tƣ sản nhằm làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm giảm sức mạnh chiến đấu, từng bƣớc làm thoái hoá về chính trị tƣ tƣởng, phai nhạt bản chất cách mạng của quân đội. Đó là một mục tiêu quan trọng trong chiến lƣợc "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc. Mặt khác, mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng tác động không nhỏ tới tăng cƣờng bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng của quân đội. Những biểu hiện cƣờng điệu lợi ích vật chất, lề thói thực dụng, cơ hội về chính trị, sự suy giảm về đạo đức cách mạng là những cản trở trong xây dựng quân đội cách mạng hiện nay. -Sức mạnh chiến đấu của quân đội Theo C. Mác, Ăngghen sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố nhƣ: con ngƣời, các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, vũ khí trang bị, khoa học quân sự và phƣơng thức sản xuất. Các ông rất chú trọng đến khâu đào tạo cán bộ chính trị quân sự, đánh giá nhận xét về tài năng của nhiều nhà quân sự trong lịch sử, đồng thời phê phán sự yếu kém của nhiều tƣớng lĩnh quân sự. Bảo vệ và phát triển lí luận của C.Mác, Ăngghen về quân đội, Lênin chỉ rõ sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó khẳng định, vai trò quyết định của nhân tố chính trị tinh thần trong chiến tranh, Ngƣời nói: “trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi, thất bại đều tuỳ thuộc vào trạng thái chính trị tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trƣờng quyết định”. - Nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của Lênin Lênin đã kế tục, bảo vệ và phát triển lí luận của C.Mác, Ăngghen về quân đội và vận dụng thành công xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản ở nƣớc Nga Xô viết. Ngay sau khi Cách mạng tháng 10/1917 thành công, các thế lực thù địch điên cuồng chống phá nƣớc Nga Xô viết. Để bảo đảm thành quả cách mạng. Lênin yêu cầu phải giải tán ngay quân đội cũ, nhanh chóng thành lập quân đội kiểu mới (Hồng quân) của giai cấp vô sản, Lênin đã xác định những nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, chiến đấu, chiến đấu của Hồng quân. Ngày nay những nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của Lênin vẫn giữ nguyên giá trị, đó là cơ sở lý luận cho các Đảng cộng sản đề ra phƣơng hƣớng tổ chức xây dựng quân đội của mình. 2.2.2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội: - Khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn đề có tính quy luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu phải dùng bạo lực cách mạng để giành và giữ chính quyền. Theo Ngƣời, tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc nhƣng phải lấy lực lƣợng vũ trang nhân dân(LLVTND) làm nòng cốt. Vì vậy, ngay từ đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phải “tổ chức quân đội công nông”, chuẩn bị lực lƣợng tổng khởi nghĩa. Xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ngày 22 - 12 - 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của quân đội ta hiện nay đƣợc thành lập. Sự ra đời của quân đội xuất phát từ chính yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở nƣớc ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, kẻ thù sử dụng bạo lực phản cách mạng để áp bức nô dịch dân tộc ta. Do vậy, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp chúng ta phải tổ chức ra bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Để thực hiện đƣợc mục tiêu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức ra lực lƣợng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc mà tiền thân của nó là những đội xích vệ đỏ, du kích vũ trang, sau đó phát triển thành quân đội nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lƣợng vũ trang cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động, đấu tranh với kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc. Quá trình xây dựng chiến đấu và trƣởng thành của quân đội ta luôn luôn gắn liền với phong trào cách mạng của quần chúng, với các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chính từ thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng, những thăng trầm của chiến tranh, những thử thách ác liệt cùng với những hi sinh to lớn mà phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ" đƣợc rèn luyện, kiểm nghiệm nghiêm ngặt nhất và đƣợc phát triển lên những đỉnh cao. Ngay từ khi mới thành lập mặc dù đại bộ phận cán bộ chiến sĩ xuất thân từ nông dân nhƣng tất cả họ đều là những ngƣời có lòng yêu nƣớc mãnh liệt, trí căm thù giặc sâu sắc. Trải qua những năm tháng phục vụ trong quân đội họ không ngừng đƣợc nâng cao giác ngộ cách mạng, chuyển từ giác ngộ dân tộc lên giác ngộ giai cấp, từ tinh thần độc lập dân tộc lên ý thức xã hội chủ nghĩa, chuyển lập trƣờng của giai cấp - 7 -
  8. . xuất thân sang lập trƣờng giai cấp công nhân để xem xét giải quyết đánh giá công việc. Sự thống nhất hữu cơ trên, từ nét đặc thù về chế độ chính trị, bản chất Nhà nƣớc, giai cấp tổ chức, nuôi dƣỡng và sử dụng quân đội. Quân đội nhân dân Việt Nam sinh ra từ các phong trào cách mạng của quần chúng, đƣợc nhân dân nuôi dƣỡng, đùm bọc, che trở và tiếp sức, lại đƣợc tổ chức giáo dục rèn luyện bởi Đảng Cộng sản Việt Nam - Ngƣời đại biểu trung thành cho lợi ích giai cấp, dân tộc và nhân dân, vì vậy quân đội luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. - Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Với cƣơng vị là ngƣời tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng xuyên coi trọng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội. Bản chất giai cấp công nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành chiến tranh nhân dân chống thực dân, đế quốc xâm lƣợc. Trong xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến giáo dục, nuôi dƣỡng các phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị và coi đó là cơ sơ, nền tảng để xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện. Trong buổi lễ phong quân hàm cho các cán bộ cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 22 - 12 - 1958, Ngƣời vừa biểu dƣơng, vừa căn dặn: "Quân đội đã hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho, đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, chiến đấu anh dũng, công tác và lao động tích cực, tiết kiệm, cần cù, khiêm tốn, giản dị, đoàn kết nội bộ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, sẵn sàng khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ". Lời căn dặn của Ngƣời là sự khái quát các phẩm chất, tiêu chí của bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Trong bài nói chuyện tại buổi chiêu đãi mừng quân đội ta tròn hai mƣơi tuổi ngày 22 - 12 -1964, một lần nữa Hồ Chí Minh lại khẳng định, bản chất giai cấp của quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của giai cấp, nhà nƣớc. Ngƣời viết: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vƣợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Quân đội nhân dân Việt Nam đƣợc Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, đƣợc nhân dân hết lòng yêu thƣơng, đùm bọc, đồng thời đƣợc kế thừa những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến và lịch sử đấu tranh dựng nƣớc gắn liền với giữ nƣớc oanh liệt. Do đó, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển, quân đội ta luôn thực sự là một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. - Khẳng định, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Đây là một trong những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển lí luận về quân đội. Ngƣời lập luận, bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của quân đội ta là một thể thống nhất, xem đó nhƣ là biểu hiện tính quy luật của quá trình hình thành, phát triển quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản. Trong bài Tình đoàn kết quân dân ngày càng thêm bền chặt 3 - 3 - 1952, Ngƣời viết: "Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để giành lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác". -Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là một nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản. Bắt nguồn từ nguyên lí chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm đến công cụ đặc biệt này để nó thực sự trở thành lực lƣợng nòng cốt trong đấu tranh giai cấp, kể cả tiến hành chiến tranh. Để phát huy nhân tố con ngƣời. Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng xuyên chăm lo đến đời sống vật chất tinh thần của bộ đội, khuyên răn, động viên, và biểu dƣơng kịp thời những gƣơng “người tốt, việc tốt”. Ngƣời nói: “Tướng là kẻ giúp nước, tướng giỏi thì nước mạnh, tướng xoàng thì nước hèn” do đó, phải chăm lo xây dựng cán bộ có đủ đức, đủ tài, Ngƣời đòi hỏi mỗi cán bộ phải có đủ tƣ cách: Trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ngƣời tổ chức lãnh đạo giáo dục và rèn luyện quân đội - là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Trong suốt quá trình xây dựng chiến đấu và trƣởng thành của quân đội, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự chăm lo đặc biệt đối với quân đội. Điều này đƣợc thể hiện rõ nét trong cơ chế lãnh đạo: tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội trong thực hiện chế độ công tác đảng, công tác chính trị. Nhờ đó, Quân đội nhân dân Việt Nam trở thành một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Thành tựu to lớn trong tăng cƣờng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội ta là, Đảng đã đào tạo nên những thế hệ "Bộ đội cụ Hồ", một mẫu hình mới của con ngƣời xã hội chủ nghĩa trong quân đội kiểu mới. Nhƣ vậy, không có một Đảng Cộng sản chân chính, không có một giai cấp công nhân Việt Nam cách mạng, kiên định lập trƣờng xã hội chủ nghĩa, thì quân đội nhân dân Việt Nam không thể giữ vững đƣợc bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu lí tƣởng chiến đấu của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một Quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục. - Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của quân đội Mục tiêu lí tƣởng chiến đấu của quân đội ta là thực hiện mục tiêu lí tƣởng các mạng của Đảng, của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc: Gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Hiện nay quân đội ta có hai nhiệm vụ chính. Một là, xây dựng - 8 -
  9. . một đội quân ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Hai là, thiết thực tham gia lao động sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội". Nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay là phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trƣớc tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng và của quân đội, ngoài nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, quân đội phải tham gia vào nhiệm vụ xây dựng đất nƣớc, sản xuất ra của cải vật chất và tiến hành công tác huấn luyện. Đây là vấn đề khác về chất so với quân đội của giai cấp bóc lột. Quân đội ta có ba chức năng: Là đội quân chiến đấu, là đội quân công tác, là đội quân sản xuất. Ba chức năng đó phản ánh cả mặt đối nội, đối ngoại của quân đội. Với tƣ cách là đội quân chiến đấu, quân đội luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu chống xâm lƣợc, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội, tham gia vào cuộc tiến công địch trên mặt trận lí luận, chính trị - tƣ tƣởng, văn hoá; là đội quân sản xuất, quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời sống cho bộ đội, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng, phát triển đất nƣớc, trong điều kiện hiện nay, quân đội còn là lực lƣợng nòng cốt và xung kích trong xây dựng kinh tế - quốc phòng ở các địa bàn chiến lƣợc, nhất là ở biên giới, biển đảo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ và ở những địa bàn có những tình huống phức tạp nảy sinh ; là đội quân công tác, quân đội tham gia vận động quần chúng nhân dân xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, góp phần tăng cƣờng sự đoàn kết giữa Đảng với nhân dân, quân đội với nhân dân; giúp dân chống thiên tai, giải quyết khó khăn trong sản xuất và đời sống, tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ và chấp hành đúng đƣờng lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc. Thực tiễn 67 năm xây dựng, chiến đấu, trƣởng thành của quân đội ta đã chứng minh: Quân đội đã thực hiện đầy đủ và thực hiện xuất sắc ba chức năng trên cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công hiển hách trong chiến tranh giải phóng. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quân đội có vai trò hết sức nặng nề. Quân đội luôn phải là đội quân cách mạng, lực lƣợng chính trị, công cụ vũ trang sắc bén của Đảng, có sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh bại mọi kẻ thù, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ Để thực hiện vai trò đó, cần đổi mới nhận thức về các chức năng của quân đội cho phù hợp với tình hình mới. 2.3: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XHCN 2.3.1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nhận định về khả năng giành thắng lợi của cách mạng vô sản. Các Mác, Ăng Ghen đã cho rằng “cuộc cách mạng CSCN không những có tính chất dân tộc mà sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ở nước Nhật, ở Anh, Mỹ, Pháp, và Đức”. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, thời C.Mác, Ăngghen sống, vấn đề bảo vệ Tổ quốc XHCN chƣa đặt ra một cách trực tiếp. Bài học kinh nghiệm của công xã Pari có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo vệ thành quả cách mạng, sau khi giai cấp vô sản giành đƣợc chính quyền nhƣng đây mới chỉ là ý kiến ban đầu về bảo vệ Tổ quốc XHCN. Học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN là một cống hiến mới của Lênin vào kho tàng chủ nghĩa Mác, nó đáp ứng trực tiếp nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCNXH ở nước Nga.Học thuyết đó chỉ ra một số vấn đề sau: - Bảo vệ tổ quốc XHCN là tất yếu, khách quan: + Ngay sau khi CM tháng 10 Nga thành công, CNĐQ tìm mọi cách tiêu diệt Nhà nƣớc XHCN đầu tiên trên thế giới. Lênin đã chứng minh tính tất yếu khách quan phải bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp vô sản chống lại sự tấn công vũ trang của Nhà nƣớc Tƣ bản, đế quốc. Bởi vì bản chất của CNĐQ là xâm lƣợc phải ngăn chặn mƣu đồ của chúng. + Lênin viết: “Kể từ ngày 25/10/1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành “bảo vệ Tổ quốc” nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc XHCN”. Cống hiến quan trọng của Lênin ở chỗ lần đầu tiên làm sáng tỏ mục tiêu bảo vệ Tổ quốc XHCN: bảo vệ Tổ quốc bao giờ cũng gắn với bảo vệ chế đô, “Bảo vệ XHCN với tính cách là bảo vệ tổ quốc”. + Lênin nhấn mạnh: “Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc XHCN phải tiến hành ngay khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, kéo dài đến hết thời kỳ quá độ cho đến khi nào không còn sự phản kháng của giai cấp Tư bản - đế quốc”. - Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc, toàn thể giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động. + Trong những năm đầu của chính quyền Xô viết, Lênin trực tiếp lãnh đạo xây dựng đất nƣớc, chống lại sự can thiệp của các nƣớc đế quốc, tƣ bản và tiến hành nội chiến cách mạng. Đó là những năm tháng cực kỳ khó khăn, gian khổ. Ngƣời chỉ rõ: “Bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của giai cấp vô sản trong nước, nhân dân lao động và giai cấp vô sản thế giới có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ - 9 -
  10. . Tổ quốc XHCN”. Ngƣời nhắc nhở mọi ngƣời phải cảnh giác đánh giá đúng kẻ thù, tuyệt đối không chủ quan “Phải có thái độ nghiêm túc đối với quốc phòng”. Ngƣời luôn lạc quan tin tƣởng ở sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngƣời nói: “Không bao giờ người ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà đa số công nhân và nông dân đã biết, đã cảm và trông thấy họ bảo vệ chính quyền của mình, chính quyền Xô viết, chính quyền của những người lao động, rằng họ bảo vệ sự nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ bảo đảm cho họ, cũng như con cái họ, có khả năng hưởng thụ mọi thành quả văn hóa, mọi thành quả lao động của con người”. - Bảo vệ Tổ quốc XHCN, là phải thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng gắn với phát triển KT-XH + Học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN của Lênin đã khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc XHCN là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả, mang tính cách mạng, chính nghĩa và có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, sự nghiệp đó phải được quan tâm, chuẩn bị chu đáo và kiên quyết”. Lênin đã đƣa ra nhiều biện pháp về bảo vệ Tổ quốc nhƣ: Củng cố chính quyền Xô viết ở các cấp; Bài trừ nội phản, tiêu diệt bạch vệ; Đẩy mạnh phát triển kinh tế văn hoá, khoa học kỹ thuật, vận dụng đƣờng lối đối ngoại khôn khéo, kiên quyết về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lƣợc, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; Hết sức chăm lo xây dựng quân đội kiểu mới. Lênin cùng Đảng Bôn- Sê-Vích Nga lãnh đạo nhân dân, tranh thủ thời gian hoà bình, xây dựng đất nƣớc mạnh lên về mọi mặt, từng bƣớc biến các tiềm lực thành sức mạnh hiện thực của nền quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc XHCN. - Đảng cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN: + Lênin chỉ ra rằng: Đảng cộng sản phải lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đảng phải đề ra chủ trƣơng, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng kiến để lôi kéo quần chúng và phải có đội ngũ Đảng viên gƣơng mẫu, hi sinh. Trong quân đội, chế độ chính uỷ đƣợc thực hiện, cán bộ chính trị đƣợc lấy từ những đại biểu ƣu tú của công nhân, thực chất đó là ngƣời đại diện của Đảng, để thực hiên sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Đảng hƣớng dẫn, giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội , các đoàn thể nhân dân lao động. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN. 2.3.2: Tư tưởng Hồ chí Minh về bảo vệ Tổ quốc XHCN Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc XHCN là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về bảo vệ Tổ quốc XHCN vào tình hình cụ thể Việt Nam. Tư tưởng của Người là: -Bảo vệ Tổ quốc XHCN là tất yếu khách quan thể hiện ý chí quyết tâm của nhân dân ta. + Tính tất yếu khách quan bảo vệ Tổ quốc đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Các vua hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”, ý chí giữ nƣớc của Ngƣời rất sâu sắc, kiên quyết. Trong lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đêm ngày 19/12/1946 Ngƣời nói: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “ Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”. + “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, Đảng phái, dân tộc. Ai có súng thì dùng súng, ai có gươm thì dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.”. Ngay sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, trƣớc sự uy hiếp của thực dân, đế quốc và bọn phả động các loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta đề ra nhiều biện pháp thiết thực cụ thể để giữ vững chính quyền nhân dân chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng đinh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi”. Trong lời di chúc cuối cùng Ngƣời căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta cũng phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tƣ tƣởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. -Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập dân tộc và CNXH là nghĩa vụ trách nhiệm của mọi công dân. + Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc là sự gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, là sự thống nhất giữa nội dung dân tộc, nội dung giai cấp và nội dung thời đại. - 10 -
  11. . + Xác định bảo vệ Tổ quốc XHCN là trách nhiệm, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi ngƣời dân Việt Nam yêu nƣớc. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản tuyên bố: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Khi Pháp trở lại xâm lƣợc nƣớc ta Ngƣời kêu gọi “hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp đê cứu Tổ quốc”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc Ngƣời kêu gọi nhân dân cả nƣớc quyết tâm chiến đâu thắng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới thống nhất nƣớc nhà. - Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của cả Dân tộc, cả nước kết hợp với sức mạnh thời đại. + Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đó là sức mạnh của toàn dân tộc, toàn dân, của từng ngƣời dân, của các cấp, các ngành, từ trung ƣơng đến cơ sở, là sức mạnh của các nhân tố chính tri, quân sự, kinh tế, văn hoá – xã hội, sức mạnh truyền thống với sức mạnh hiên tại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Khi nói về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, đồng bào ta Ngƣời khẳng định: “sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc, dù địch hung hãn, xảo quyệt đến mức nào đụng đầu vào bức tường đó chúng đều thất bại”. + So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lƣợc, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Ngƣời phân tích: “Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết toàn dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ to lớn của các nước XHCN anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất định thắng”. Để bảo vệ Tổ quốc XHCN Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và củng cố nền QPTD, ANND, xây dựng QĐND coi đó là lực lƣợng chủ chốt để bảo vệ Tổ quốc. Ngƣời căn dặn chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nƣớc, bảo vệ công cuộc xây dựng CNXH. - Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN. + Đảng ta là ngƣời lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng và chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên CNXH, đồng thời tiếp tục đấu tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình, góp phần bảo vệ công cuộc hoà bình ở Á đông và trên thế giới” và khẳng định “Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chính phủ, với sự đoàn kết nhất chí, lòng tin tưởng vững chắc vào tinh thần tự lực cánh sinh của mình, với sự giúp đỡ vô tư của các nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhất là nhân dân các nước Á phi, nhân dân ta nhất định khắc được mọi khó khăn, làm tròn được mọi nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và chính phủ đã đề ra”. + Quán triệt tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc, ngày nay toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Việt Nam XHCN. Tóm lại: + Học thuyết Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh quân đội và bảo vệ Tổ quốc XHCN mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó là cơ sở lý luận để Đảng cộng sản đề ra chủ trương, đường lối, chiến lược xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng LLVTND và bảo vệ Tổ quốc XHCN. + Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ - Chí – Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc XHCN vẫn còn nguyên giá trị, chúng ta nắm vững những nội dung cơ bản đó, vận dụng sáng tạo và chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong gia đoạn mới. Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại mọi sự xuyên tạc, bôi nho của kẻ thù, bảo vệ và phát triển sáng tạo những nội dung đó trong điều kiện lịch sử mới. + Là sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông – những cán bộ khoa học kĩ thuật tương lai của ngành, cÇn tích cực học tập, nghiên cứu nhận thức đúng đắn các nội dung trên, từ đó xây dựng niềm tin và có ý thức trách nhiệm góp phần tích cực bảo vệ và phát triển những nội dung đó để tham gia xây dựng tiềm lực quốc phòng của ngành vững mạnh góp phần bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy thông tin liên lạc bí mật, kịp thời thông suốt thời bình cũng như thời chiến để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là: Xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. III - CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất chiến tranh ? 2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội ? 3. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ? - 11 -
  12. . 4. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ? 5. Quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp cơ bản của Đảng ta về bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới ? 6. Sự khác nhau của CLauZoVit và Lênin về bản chất của chiến tranh ? Bài 3 XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN, BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VN-XHCN Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần phải có sức mạnh tổng hợp. Một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải có đƣợc nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Điều đó chỉ có đƣợc khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lƣợng, mọi cấp, mọi ngành ý thức đầy đủ đƣợc nghĩa vụ, trách nhiệm đối với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Từ đó, vận dụng vào thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. I– MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU 1.1: Mục đích: Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về tính chất, quan điểm, nội dung cơ bản và những biện pháp chủ yếu xây dựng nền QPTD, ANND từ đó góp phần xây dựng niềm tin và có quyết tâm cao bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN. 1.2: Yêu cầu: Đề cao trách nhiệm hiểu đúng, đủ nội dung của bài phát huy tính sáng tạo của tuổi trẻ tích cực hoạt động góp phần xây dựng nền QPTD, ANND vững mạnh. II – NỘI DUNG 2.1: VỊ TRÍ, ĐẶC TRƯNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN 2.1.1: Vị trí - Một số khái niệm + Quốc phòng toàn dân: Là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát triển theo phƣơng hƣớng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cƣờng và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí, điều hành của Nhà nƣớc, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hoà bình, ổn định của đất nƣớc, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lƣợc và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc, phản động; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.” + “Nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nƣớc đƣợc xây dựng trên nền tảng nhân lực, vật lực, tinh thần mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cƣờng” + An ninh nhân dân: “1.Là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân tiến hành, lực lƣợng an ninh nhân dân làm nòng cốt dƣới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của Nhà nƣớc. Kết hợp phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các biện pháp nghiệp vụ của lực lƣợng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm mƣu và hành động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, cùng với quốc phòng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2. Bộ phận của lực lƣợng vũ trang nhân dân Việt Nam có vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. An ninh quốc gia có nhiệm vụ: đấu tranh làm thất bại mọi âm mƣu hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Chính quyền, các lực lƣợng vũ trang và nhân dân.” + Nền an ninh là sức mạnh về tinh thần, vật chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nƣớc, giữ nƣớc của toàn dân tộc đƣợc huy động vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó lực lƣợng chuyên trách bảo vệ an ninh nhân dân làm nòng cốt. - Vị trí - 12 -
  13. . Xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mƣu, hành động xâm hại phá hại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã khẳng định: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng - an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lƣợc gắn bó chặt chẽ” 2.1.2: Đặc trưng Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của ta có những đặc trƣng: - Nền quốc phòng toàn dân, ANND chỉ có mục đích duy nhất là tự vệ chính đáng Đặc trƣng thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền quốc phòng, an ninh của những quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa với các nƣớc khác. Chúng ta xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. - Đó là nền quốc phòng, an ninh vì dân, của dân và do toàn thể nhân dân tiến hành Đặc trƣng vì dân, của dân, do dân của nền quốc phòng, an ninh nƣớc ta là thể hiện truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc. Đặc trƣng vì dân, của dân, do dân và mục đích tự vệ của nền quốc phòng, an ninh cho phét huy động mọi ngƣời, mọi tổ chức, mọi lực lƣợng đều thực hiện xây dựng nền quốc phòng, an ninh và đấu tranh quốc phòng, an ninh. Đồng thời, đƣờng lối của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về quốc phòng, an ninh phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân. - Đó là nền quốc phòng, an ninh có sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố tạo thành Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng, an ninh nƣớc ta tạo thành bởi rất nhiều yếu tố nhƣ chính trị, kinh tế, văn hoá, tƣ tƣởng, khoa học, quân sự, an ninh, cả ở trong nƣớc, ngoài nƣớc, của dân tộc và của thời đại, trong đó những yếu tố bên trong của dân tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là cơ sở, tiền đề và là biện pháp để nhân dân đánh thắng kẻ thù xâm lƣợc. - Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được xây dựng toàn diện và từng bước hiện đại Việc tạo ra sức mạnh quốc phòng, an ninh không chỉ ở sức mạnh quân sự, an ninh mà phải huy động đƣợc sức mạnh của toàn dân về mọi mặt chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, khoa học. Phải kết hợp hữu cơ giữa quốc phòng, an ninh với các mặt hoạt động xây dựng đất nƣớc, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại. Xây dựng nền quốc phòng, an ninh toàn diện phải đi đôi với xây dựng nền quốc phòng, an ninh hiện đại là một tất yếu khách quan. Xây dựng quân đội nhân dân, công an nhân dân từng bƣớc hiện đại. Kết hợp giữa xây dựng con ngƣời có giác ngộ chính trị, có tri thức với vũ khí trang bị kĩ thuật hiện đại. Phát triển công nghiệp quốc phòng, từng bƣớc trang bị hiện đại cho các lực lƣợng vũ trang nhân dân. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với tăng cƣờng quốc phòng, an ninh. - Nền quốc phòng toàn dân gắn chặt với nền an ninh nhân dân Nền quốc phòng và nền an ninh nhân dân của chúng ta đều đƣợc xây dựng nhằm mục đích tự vệ, đều phải chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giữa nền quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân chỉ khác nhau về phƣơng thức tổ chức lực lƣợng, hoạt động cụ thể, theo mục tiêu cụ thể đƣợc phân công mà thôi. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh phải thƣờng xuyên và tiến hành đồng bộ, thống nhất từ trong chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch xây dựng, hoạt động của cả nƣớc cũng nhƣ từng vùng, miền, địa phƣơng, mọi ngành, mọi cấp. 2.2: XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN VỮNG MẠNH ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 2.2.1: Mục đích xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh - Tạo sức mạnh tổng hợp của đất nƣớc cả về chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, công nghệ để giữ vững hoà bình, ổn định, đẩy lùi, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lƣợc dƣới mọi hình thức và quy mô. - 13 -
  14. . - Tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nƣớc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tƣ tƣởng văn hoá, xã hội; giữ vững ổn định chính trị, môi trƣờng hoà bình, phát triển đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. 2.2.2: Nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân an ninh nhân dân vững mạnh - Xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Lực lƣợng quốc phòng, an ninh là những con ngƣời, tổ chức và những cơ sở vật chất, tài chính đảm bảo cho các hoạt động đáp ứng yêu cầu của quốc phòng, an ninh. Từ đặc trƣng của nền quốc phòng, an ninh ở nƣớc ta thì lực lƣợng quốc phòng, an ninh của nền quốc phòng toàn dân an ninh nhân dân bao gồm lực lƣợng toàn dân (lực lƣợng chính trị) và lực lƣợng vũ trang nhân dân. Lực lƣợng chính trị bao gồm các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và những tổ chức khác trong đời sống xã hội đã đƣợc phép thành lập và quần chúng nhân dân. Lực lƣợng vũ trang nhân dân bao gồm quân đội nhân dân, dân quân tự vệ, công an nhân dân. - Xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh là xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2.2.3: Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh ngày càng vững mạnh Tiềm lực quốc phòng, an ninh là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiềm lực quốc phòng, an ninh đƣợc thể hiện ở trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, nhƣng tập trung ở tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học, công nghệ; tiềm lực quân sự, an ninh. Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh là tập trung xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học, công nghệ và xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh. - Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần. + Tiềm lực chính trị, tinh thần của nền của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về chính trị, tinh thần có thể huy động tạo nên sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tiềm lực chính trị, tinh thần đƣợc biểu hiện ở năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lí điều hành của Nhà nƣớc; ý chí, quyết tâm của nhân dân, của các lực lƣợng vũ trang nhân dân sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tình huống. Tiềm lực chính trị tinh thần là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh của quốc phòng, an ninh, có tác động to lớn đến hiệu quả xây dựng và sử dụng các tiềm lực khác, là cơ sở, nền tảng của tiềm lực quân sự, an ninh. + Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân cần tập trung: Xây dựng tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà nƣớc, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; nâng cao cảnh giác cách mạng; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thực hiện tốt giáo dục quốc phòng, an ninh. - Xây dựng tiềm lực kinh tế + Tiềm lực kinh tế của nền phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về kinh tế của đất nƣớc có thể khai thác, huy động nhằm phục vụ cho quốc phòng, an ninh. Tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân đƣợc biểu hiện ở nhân lực, vật lực, tài lực của quốc gia có thể huy động cho quốc phòng, an ninh và tính cơ động của nền kinh tế đất nƣớc trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Tiềm lực kinh tế tạo sức mạnh vật chất cho nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, là cơ sở vật chất của các tiềm lực khác. + Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là tạo nên khả năng về kinh tế của đất nƣớc. Do đó, cần tập trung vào: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cƣờng quốc phòng, an ninh; phát triển công nghiệp quốc phòng, trang bị kĩ thuật hiện đại cho quân đội và công an. Kết hợp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với cơ sở hạ tầng quốc phòng; không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho các lực lƣợng vũ trang nhân dân. Có kế hoạch chuyển sản xuất từ thời bình sang thời chiến và duy trì sự phát triển của nền kinh tế. - 14 -
  15. . - Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ + Tiềm lực khoa học, công nghệ của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn) và công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động để phục vụ cho quốc phòng, an ninh. Tiềm lực khoa học, công nghệ đƣợc biểu hiện ở: Số lƣợng, chất lƣợng đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, cơ sở vật chất kĩ thuật có thể huy động phục vụ cho quốc phòng, an ninh và năng lực ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học có thể đáp ứng yêu cầu của quốc phòng, an ninh + Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là tạo nên khả năng về khoa học, công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động phục vụ cho quốc phòng, an ninh. Do đó, phải huy động tổng lực các khoa học, công nghệ quốc gia, trong đó khoa học quân sự, an ninh làm nòng cốt để nghiên cứu các vấn đề về quân sự, an ninh, về sửa chữa, cải tiến, sản xuất các loại vũ khí trang bị. Đồng thời phải thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học, kĩ thuật. - Xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh + Tiềm lực quân sự, an ninh của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động tạo thành sức mạnh phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, an ninh, cho chiến tranh. Tiềm lực quân sự, an ninh đƣợc biểu hiện ở khả năng duy trì và không ngừng phát triển trình độ sẵn sàng chiến đấu, năng lực và sức mạnh chiến đấu của các lực lƣợng vũ trang nhân dân; nguồn dự trữ về sức ngƣời, sức của trên các lĩnh vực đời sống xã hội và nhân dân có thể huy động phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, an ninh, cho chiến tranh. Tiềm lực quân sự, an ninh là nhân tố cơ bản, là biểu hiện tập trung, trực tiếp sức mạnh quân sự, an ninh của nhà nƣớc giữ vai trò nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. + Tiềm lực quân sự, an ninh đƣợc xây dựng trên nền tảng của các tiềm lực chính trị tinh thần, kinh tế, khoa học công nghệ. Do đó, xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh, cần tập trung vào: Xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện. Gắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc với quá trình tăng cƣờng vũ khí trang bị cho các lực lƣợng vũ trang nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ trong lực lƣợng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bố trí lực lƣợng luôn đáp ứng yêu cầu chuẩn bị đất nƣớc về mọi mặt, sẵn sàng động viên thời chiến. Tăng cƣờng nghiên cứu khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay và nâng cao chất lƣợng giáo dục quốc phòng. Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh trong ngành Bƣu chính viễn thông: Ngay từ trong thời bình cần phải có kế hoạch và chuẩn bị nhân lực ( cán bộ khoa học kĩ thuật) và vật lực (phƣơng tiện kĩ thuật thông tin liên lạc) để sẵn sàng huy động phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt an toàn, bí mật. 2.2.4: Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc: - Thế trận quốc phòng, an ninh là sự tổ chức, bố trí lực lƣợng, tiềm lực mọi mặt của đất nƣớc và của toàn dân trên toàn bộ lãnh thổ theo yêu cầu của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. - Nội dung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân: Gồm: Phân vùng chiến lƣợc về quốc phòng, an ninh kết hợp với vùng kinh tế trên cơ sở quy hoạch các vùng dân cƣ theo nguyên tắc bảo vệ đi đôi với xây dựng đất nƣớc. Xây dựng hậu phƣơng, tạo chỗ dựa vững chắc cho thế trận quốc phòng, an ninh. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) tạo nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Triển khai các lực lƣợng trong thế trận; tổ chứ c phòng thủ dân sự, kết hợp cải tạo địa hình với xây dựng hạ tầng và các công trình quốc phòng, an ninh. 2.3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHÍNH XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, AN NINH NHÂN DÂN HIỆN NAY: 2.3.1: Thường xuyên thực hiện tốt công tác giáo dục quốc phòng - an ninh Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị và Nghị định 116/2007/NĐ-CP của Thủ tƣớng Chính phủ. Nội dung giáo dục quốc phòng, an ninh phải toàn diện, coi trọng giáo dục tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc, chế độ xã hội chủ nghĩa; nghĩa vụ công dân đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; âm mƣu, thủ đoạn của địch; đƣờng lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về quốc phòng, an ninh. Làm cho mọi ngƣời, mọi tổ chức biết tự bảo vệ trƣớc sự chống phá của các thế lực thù địch. Phải vận dụng - 15 -
  16. . nhiều hình thức, phƣơng pháp giáo dục tuyên truyền để nâng cao hiệu quả, chất lƣợng giáo dục giáo dục quốc phòng, an ninh. 2.3.2:Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước, trách nhiệm triển khai thực hiện của các cơ quan, tổ chức và nhân dân đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Cụ thể hoá các nội dung lãnh đạo về quốc phòng - an ninh và bổ sung cơ chế hoạt động của từng cấp, từng ngành, từng địa phƣơng, đặc biệt chú trọng khi xử trí các tình huống phức tạp. Điều chỉnh cơ cấu quản lí Nhà nƣớc về quốc phòng, an ninh của bộ máy Nhà nƣớc các cấp từ Trung ƣơng đến cơ sở. Tổ chức phân công cán bộ chuyên trách để phát huy vai trò làm tham mƣu trong tổ chức, thực hiện công tác quốc phòng, an ninh. Chấp hành nghiêm Quy chế 107/2003/ QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về phối hợp quân đội với công an và Nghị quyết 51- NQ/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một ngƣời chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội nhân dân Việt Nam. 2.3.3: Nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân cho học sinh, sinh viên trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là trách nhiệm của toàn dân. Mọi công dân, mọi tổ chức, lực lƣợng đều phải tham gia theo phạm vi và khả năng của mình. Đối với sinh viên, phải tích cực học tập nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt, nắm vững kiến thức quốc phòng, an ninh, nhận thức rõ âm mƣu, thủ đoạn hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó, tự giác, tích cực luyện tập các kĩ năng quân sự, an ninh và chủ động tham gia các hoạt động về quốc phòng, an ninh do Học viện, phƣờng, thành phố triển khai. Kết luận Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là thành tựu to lớn và rất quan trọng trong công cuộc đổi mới , đã làm cho thế và lực đất nước ta mạnh lên rất nhiều tạo tiền đề vật chất và tinh thần để nhân dân tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Trong khi đó tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng phức tạp chứa đựng nhiều yếu tố khó lường, bên cạnh thời cơ thuận lợi còn nhiều khó khăn và thách thức. Để bảo vệ vững chắc tổ quốc VNXHCN, yêu cầu khách quan là phải xây dựng nền QPTD vững mạnh. đây là một chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, nhà nước và nhân dân ta. Là sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm , tích cực, tự giác học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tích cực tham gia vào các hoạt động quốc phòng an ninh của Học viện góp phần vào việc xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh của ngành và sự nghiệp BVTQ, xây dựng tiềm lực, thế trận QPTD, ANND bảo đảm cho đất nước hoà bình ổn định, vững bước đi tới tương lai thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”. III: CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Nêu vị trí, đặc trưng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. 2. Trình bày mục đích, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Liên hệ thực tiễn và trách nhiệm của bản thân ? 3.Quốc phòng là gì? Tại sao phải xây dựng tiềm lực quốc phòng trong các ngành khoa học- kĩ thuật? Là cán bộ chủ chốt của ngành bưu chính viễn thôngAnh (Chị) phải làm gì để bảo đảm xây dựng tiềm lực quốc phòng của ngành vững mạnh? - 16 -
  17. Bài 4 CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM Xà HỘI CHỦ NGHĨA I– MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU 1.1: Mục đích: Giới thiệu cho sinh viên hiểu đƣợc mục đích, tính chất, đối tƣợng, đặc điểm, những quan điểm cơ bản và nội dung chủ yếu của CTND bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN, từ đó góp phần xây dựng niềm tin, trách nhiệm trong bảo vệ tổ quốc. 1.2: Yêu cầu: Có thái độ nghiêm túc trong học tập, hiểu đúng đủ các nội dung của bài, đề cao trách nhiệm của tuổi trẻ góp phần cùng toàn dân thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. II– NỘI DUNG: 2.1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC. 2.1.1: Mục đích, đối tượng của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. - Mục đích của chiến tranh nhân dân Khái niệm: Chiến tranh nhân dân Việt Nam là quá trình sử dụng tiềm lực của đất nƣớc, nhất là tiềm lực quốc phòng an ninh, nhằm đánh bại ý đồ xâm lƣợc lật đỏ của kẻ thù đối với cách mạng nƣớc ta. Nhằm mục đích: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nƣớc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; giữ vững ổn định chính trị và môi trƣờng hoà bình, phát triển đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa”. - Đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. + Đối tƣợng tác chiến: §èi t•îng t¸c chiÕn : Chñ nghÜa ®Õ quèc vµ c¸c thÕ lùc ph¶n ®éng cã hµnh ®éng ph¸ ho¹i, x©m l•îc lËt ®æ c¸ch m¹ng, hiÖn nay chóng thùc hiÖn chiÕn l•îc "DiÔn biÕn hoµ b×nh" b¹o lo¹n lËt ®æ ®Ó xo¸ bá chñ nghÜa x· héi ë n•íc ta vµ s½n sµng sö dông lùc l•îng vò trang hµnh ®éng qu©n sù can thiÖp khi cã thêi c¬. - Âm mƣu, thủ đoạn chủ yếu của kẻ thù khi xâm lƣợc nƣớc ta. Thực hiện đánh nhanh, thắng nhanh, kết hợp tiến công quân sự từ bên ngoài vào với hành động bạo loạn lật đổ từ bên trong. Đồng thời kết hợp với các biện pháp phi vũ trang để lừa bịp dƣ luận. Lực lƣợng tham gia với quân đông, vũ khí trang bị hiện đại. Khi tiến công thƣờng trong giai đoạn đầu sẽ bao vây, phong toả sau sử dụng hoả lực đánh bất ngờ, ồ ạt. Giai đoạn thực hành thôn tính lãnh thổ có thể đồng thời hỗ trợ của bạo loạn lật đổ ở bên trong của các lực lƣợng phản động và sử dụng các biện pháp chính trị, ngoại giao để lừa bịp dƣ luận. Khi tiến hành chiến tranh xâm lƣợc địch có điểm mạnh, yếu sau: Mạnh: Có ƣu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự, kinh tế và tiềm lực khoa học công nghệ. Có thể cấu kết đƣợc với lực lƣợng phản động nội địa, thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào Yếu: Đây là cuộc chiến tranh phi nghĩa, chắc chắn bị nhân loại phản đối. Dân tộc ta có truyền thống yêu nƣớc, chống xâm lƣợc, chắc chắn sẽ làm cho chúng bị tổn thất năng nề, đánh bại xâm lƣợc của địch. Địa hình thời tiết nƣớc ta phức tạp khó khăn cho địch sử dụng phƣơng tiện, lực lƣợng. 2.1.2: Tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc. - Tính chất. + Là cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lấy lực lƣợng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. - 27 -
  18. + Là cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập tự do của dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nƣớc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng. - Là cuộc chiến tranh mạng tính hiện đại (hiện đại về vũ khí, trang bị, tri thức và nghệ thuật quân sự). Nhƣng trƣớc tiên ở đây hiện đại đòi hỏi phải hiện đại về côn ngƣời, con ngƣời phải nắm bắt đƣợc khoa học kỹ thuật và chỉ có làm chủ đƣợc khoa học kỹ thuật thì mới điều khiển, sử dụng đƣợc các loại vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại và mới biết đƣợc cách phòng tránh và đánh trả cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao. - Đặc điểm của chiến tranh nhân dân. Chiến tranh nhân dân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới có những đặc điểm cơ bản sau: + Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, chúng ta tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhằm góp phần thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Do vậy, chúng ta có thể tập hợp, động viên và phát huy cao độ, đông đảo đƣợc sức mạnh của toàn dân cả nƣớc, chung sức đánh giặc. + Trong cuộc cuộc chiến tranh, nhân dân ta phải bảo vệ đƣợc độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cuộc chiến tranh mang tính độc lập, tự chủ, tự lực tự cƣờng, dựa vào sức mình là chính, nhƣng đồng thời cũng đƣợc sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của cả loài ngƣời tiến bộ trên thế giới, tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia và quốc tế, dân tộc và thời đại để đánh thắng chiến tranh xâm lƣợc của kẻ thù. + Chiến tranh diễn ra khẩn trƣơng, quyết liệt phức tạp ngay từ đầu và trong suốt quá trình chiến tranh. Tiến hành chiến tranh xâm lƣợc nƣớc ta, địch sẽ thực hiện phƣơng châm chiến lƣợc đánh nhanh giải quyết nhanh. Quy mô chiến tranh có thể lớn và ác liệt ngay từ đầu. Kết hợp tiến công hoả lực với tiến công trên bộ, tiến công từ bên ngoài kết hợp với bạo loạn lật đổ ở bên trong và bao vây phong toả đƣờng không đƣờng biển và đƣờng bộ để nhằm tới mục tiêu chiến lƣợc trong thời gian ngắn. +Hình thái đất nƣớc đƣợc chuẩn bị sẵn sàng, thế trận quốc phòng, an ninh nhân dân ngày càng đƣợc củng cố vững chắc, có điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp chủ động đánh địch ngay từ ngày đầu và lâu dài. 2.2: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TRONG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC. Từ trong thực tiễn, Đảng ta nhận định: Trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới. Nhƣng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ còn xảy ra nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Nếu đất nƣớc phải đối mặt với một cuộc chiến tranh xâm lƣợc mới của kẻ thù, chúng ta cần nắm vững một số quan điểm cơ bản của Đảng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. 2.2.1: Tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Kết hợp tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương với tác chiến của các binh đoàn chủ lực. - Vị trí: Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt, thể hiện tính nhân dân sâu sắc trong chiến tranh. Khẳng định, đây là cuộc chiến tranh của dân, do dân và vì dân với tinh thần đầy đủ nhất. Là điều kiện để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến tranh. - Nội dung thể hiện: + Trong điều kiện mới, ta vẫn phải “ lấy nhỏ thắng lớn”, “ lấy ít địch nhiều”, để đánh thắng những đội quân mạnh hơn ta gấp nhiều lần, Đảng ta không chỉ dựa vào lực lƣợng vũ trang mà phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc + Động viên toàn dân đánh giặc, chúng ta phải động viên và tổ chức quần chúng cùng lực lƣợng vũ trang nhân dân trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống lại chiến tranh xâm lƣợc của kẻ thù. Đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, bằng những cách đánh độc đáo, sáng tạo +Toàn dân đánh giặc phải có lực lƣợng nòng cốt là lực lƣợng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: dân quân tự vệ, bộ đội địa phƣơng và bộ đội chủ lực. Dân quân tự vệ làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc ở cơ sở; bộ đội địa phƣơng và dân quân tự vệ làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phƣơng. Bộ đội chủ lực cùng lực lƣợng vũ trang địa phƣơng làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trên chiến trƣờng cả nƣớc. - 28 -
  19. + Tiến hành chiến tranh toàn dân, đó là truyền thống, đồng thời là quy luật giành thắng lợi trong chiến tranh của dân tộc ta chống những kẻ thù xâm lƣợc lớn mạnh hơn ta nhiều lần. Tổ tiên ta đã tiến hành chiến tranh nhân dân để đánh thắng các triều đại phong kiến phƣơng Bắc xâm lƣợc, cũng nhƣ dƣới sự lãnh đạo của Đảng dân tộc ta đã đánh thắng giặc Pháp và chống Mỹ xâm lƣợc. Ngày nay, chúng ta phải kế thừa và phát huy truyền thống ấy lên một trình độ mới phù hợp với điều kiện mới, thực hiện chiến tranh toàn dân đánh thắng cuộc tiến công xâm lƣợc của địch. - Biện pháp thực hiện: Tăng cƣờng giáo dục quốc phòng cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. Không ngừng chăm lo xây dựng các lực lƣợng vũ trang vững mạnh toàn diện, đặc biệt là chất lƣợng chính trị. Không ngừng nghiên cứu nghệ thuật quân sự, nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần đây ở trên thế giới để phát triển nghệ thuật quân sự lên một tầm cao mới. Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc 2.2.2:Tiến hành chiến tranh toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá và tư tưởng, lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong chiến tranh. - Vị trí: Quan điểm trên có vai trò quan trọng, vừa mang tính chỉ đạo và hƣớng dẫn hành động cụ thể để giành thắng lợi trong chiến tranh. - Nội dung: + Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện cả sức mạnh vật chất tinh thần của quốc gia, nhƣng chiến tranh của ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ, cách mạng. Để phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân, đánh bại chiến tranh tổng lực của địch, chúng ta phải đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế văn hoá tƣ tƣởng. Mỗi mặt trận đấu tranh đều có vị trí quan trọng của nó. + Tất cả các mặt trận đấu tranh trên phải kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và tạo điều kiện cho đấu tranh quân sự giành thắng lợi trên chiến trƣờng và cùng với đấu tranh quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh. + Truyền thống và kinh nghiệm của cuộc chiến tranh giải phóng và giữ nƣớc trong lịch sử ông cha ta cũng nhƣ dƣới sự lãnh đạo của Đảng, chứng tỏ nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn diện, đấu tranh với địch trên nhiều mặt nhƣng chủ yếu đã đánh địch và thắng địch trên mặt trận quân sự, nhờ đó mà nhân dân ta đã giành đƣợc thắng lợi, giành và giữ nền độc lập dân tộc. Tình hình thế giới ngày nay diễn biến phức tạp và có những thay đổi sâu sắc, đất nƣớc đứng trƣớc những thuận lợi mới và những thách thức mới đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cùng nỗ lực phấn đấu làm thất bại âm mƣu và các mục tiêu chiến lƣợc của địch, giành thắng lợi toàn diện cho chiến tranh. - Biện pháp thực hiện: + Đảng phải có đƣờng lối chiến lƣợc, sách lƣợc đúng, tạo thế và lực cho từng mặt trận đấu tranh tạo nên sức mạnh, trƣớc mắt đấu tranh làm thất bại chiến lƣợc “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của địch. Động viên sức mạnh của toàn dân tiến hành đấu tranh trên các mặt trận khi kẻ thù phát động chiến tranh xâm lƣợc. + Phải vận dụng sáng tạo nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh thích hợp trên từng mặt đồng thời có nghệ thuật chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ các mặt trận đấu tranh trong từng giai đoạn cũng nhƣ quá trình phát triển của chiến tranh. Song, phải luôn quán triệt, lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trƣờng là yếu tố quyết định để kết thúc chiến tranh. 2.2.3: Chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực để đủ sức đánh được lâu dài, ra sức thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian của chiến tranh giành thắng lợi càng sớm càng tốt. - Kẻ thù xâm lƣợc nƣớc ta là nƣớc lớn, có quân đông, trang bị vũ khí, kỹ thuật cao, có tiềm lực kinh tế quân sự mạnh hơn ta nhiều lần. Chúng dựa vào sức mạnh quân sự ƣu thế áp đảo đối với ta để thực hiện “đánh nhanh, giải quyết nhanh” theo học thuyết tác chiến “không – bộ – biển” nhằm đạt mục địch chiến tranh xâm lƣợc. - 29 -
  20. - Vì vậy, trƣớc hết ta phải chuẩn bị mọi mặt trên cả nƣớc cũng nhƣ từng khu vực đủ sức đánh đƣợc lâu dài, ra sức tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, chủ động đối phó và giành thắng lợi trong thời gian cần thiết. Trên cơ sở đó ta mới dồn sức để rút ngắn thời gian của chiến tranh giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Ta kiên quyết ngăn chặn địch không cho chúng mở rộng để thu hẹp không gian của chiến tranh. Mặt khác cũng phải chuẩn bị sẵn sàng để thắng địch trong điều kiện chiến tranh mở rộng. 2.2.4: Kết hợp kháng chiến với xây dựng, vừa kháng chiến vừa xây dựng, ra sức sản xuất thực hành tiết kiệm giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta càng đánh càng mạnh. Đây là một kinh nghiệm đồng thời là truyền thống chống giặc ngoại xâm trƣớc kia cũng nhƣ cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nếu chiến tranh xảy ra, chúng ta phải tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, cuộc chiến đó sẽ diễn ra quyết liệt ngay từ đầu. Qui mô chiến tranh, thƣơng vong về ngƣời, tiêu hao về vật chất kỹ thuật sẽ rất lớn, nhu cầu bảo đảm cho chiến tranh và ổn định đời sống nhân dân đòi hỏi cao và khẩn trƣơng. Muốn duy trì đƣợc sức mạnh để đánh thắng kẻ thù xâm lƣợc lớn, ta cần phải có tiềm lực kinh tế quân sự nhất định bảo đảm cho tác chiến giành thắng lợi. Vì vậy trong chiến tranh ta phải: vừa kháng chiến, vừa duy trì và đẩy mạnh sản xuất bảo đảm nhu cầu vật chất kỹ thuật cho chiến tranh ổn định đời sống nhân dân. Ta phải thực hành tiết kiệm trong xây dựng và trong chiến tranh lấy địch đánh địch, giữ gìn và bồi dƣỡng lực lƣợng ta, không ngừng tăng thêm tiềm lực của chiến tranh, càng đánh càng mạnh. 2.2.5: Kết hợp đấu tranh quân sự với bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, trấn áp kịp thời mọi âm mưu và hành động phá hoại gây bạo loạn . - Hiện nay kẻ địch đang đẩy mạnh chiến lƣợc “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nƣớc ta. Nếu chiến tranh nổ ra, địch sẽ tăng cƣờng đánh phá ta bằng nhiều biện pháp: tiến hành chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp, lợi dụng dân tộc, tôn giáo, các tổ chức phản động chống đối để kích động, chia rẽ, làm mất ổn định chính trị, gây rối loạn lật đổ ở hậu phƣơng ta để phối hợp lực lƣợng tiến công từ ngoài vào. - Vì vậy, đi đôi với đấu tranh quân sự trên chiến trƣờng, ta phải kịp thời trấn áp mọi âm mƣu và hành động phá hoại của địch ở hậu phƣơng ta, bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc hậu phƣơng, giữ vững sự chi viện sức ngƣời, sức của cho tiền tuyến càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. 2.2.6: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tinh thần tự lực tự cường, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới - Cuộc chiến tranh xâm lƣợc của địch là tàn bạo và vô nhân đạo sẽ bị nhân dân tiến bộ trên thế giới phản đối - Đoàn kết mở rộng quan hệ tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân nƣớc có quân xâm lƣợc. 2.3: MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC. 2.3.1: Tổ chức thế trận chiến tranh nhân dân: - Thế trận chiến tranh nhân dân là sự tổ chức bố trí lực lƣợng để tiến hành chiến tranh và hoạt động tác chiến. - Thế trận chiến tranh bố trí rộng trên cả nƣớc nhƣng phải có trọng tâm, trọng điểm. Xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh toàn diện, có khả năng độc lập tác chiến, đồng thời phối hợp với bộ đội chủ lực và đơn vị bạn đánh địch, liên tục dài ngày, liên kết thành thế trận làng nƣớc. 2.3.2: Tổ chức lực lượng chiến tranh nhân dân. - Lực lƣợng chiến tranh nhân dân là toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện lấy lực lƣợng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân làm nòng cốt - Lực lƣợng toàn dân đƣợc tổ chức chặt chẽ thành lực lƣợng quần chúng rộng rãi và lực lƣợng quân sự - Lực lƣợng vũ trang nhân dân đƣợc xây dựng vững mạnh toàn diện, coi trọn cả số lƣợng và chất lƣợng, trong dó lấy chất lƣợng là chính, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở. - 30 -
  21. 2.3.3: Phối hợp chặt chẽ chống quân địch tiến công từ bên ngoài vào và bạo loạn lật đổ từ bên trong. Kẻ thù xâm lƣợc nƣớc ta có thể sẽ sử dụng lực lƣợng tiến công từ bên ngoài vào và bạo loạn lật đổ ở bên trong, đánh nhanh giải quyết nhanh, vì vậy buộc ta phải chủ động ngăn chặn ý đồ của chúng, không để kẻ địch cấu kết với nhau Trong quá trình chuẩn bị lực lƣợng vũ trang phải có kế hoạch, phƣơng án chiến đấu và đƣợc quán triệt tới mọi ngƣời kết hợp giải quyết tốt các tính huống chiến đấu diễn ra. Kết luận. - Cuộc chiến tranh xâm lược nước ta nếu xảy ra, kẻ thù sẽ sử dụng quân số đông, vũ khí kĩ thuật hiện đại chống lại cuộc chiến tranh đó, chúng ta vẫn phải tiến hành CTND, thực hiện toàn dân đánh giặc. Phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tiến công địch toàn diện, trên tất cả các mặt trận bằng mọi phương tiện vũ khí kĩ thuật cả thô sơ và hiện đại, đánh bại âm mưu chiến lược từng thủ đoạn tác chiến, tiến tới đánh bại ý trí xâm lược của kẻ thù, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN Việt Nam. - Để giành thắng lợi chiến tranh đó, đất nước ta phải chuẩn bị mọi mặt, có tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh vững chắc, chính trị ổn định, tăng cường cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình ngăn ngừa khả năng chiến tranh có thể xảy ra. - Là sinh viên Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông trong tương lai là những cán bộ khoa học kĩ thuật, nghiệp vụ của ngành Bưu chính viễn thông cần tích cực học tập nghiên cứu củng cố lòng tin vào niềm tự hào của dân tộc và tích cực đóng góp tài năng, trí tuệ, công sức của mình vào nhiệm vụ xây tiềm lực quốc phòng, an ninh của ngành vững mạnh góp phần xây dựng nền QPTD, ANND sẵn sàng tham gia đánh giặc khi đất nước có chiến tranh xảy ra. III- CÂU HỎI ÔN TẬP: 1. Mục đích, tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc. 2. Quan điểm của Đảng về chiên tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. 3. Tại sao phải tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, hiện đại? - 31 -
  22. Bài 5 XÂY DỰNG LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VỮNG MẠNH ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. I– MỤC ĐÍCH ,YÊU CẦU: 1.1: Mục đích: Bồi dƣỡng cho sinh viên nắm đƣợc những đặc điểm, quan điểm và nguyên tắc, phƣơng hƣớng cơ bản và những biện pháp chủ yếu xay dựng LLVT nhân dân trong tình hình mới, từ đó góp phần xây dựng tình cảm,trách nhiệm của tuổi trẻ trong xây dựng LLVT vững mạnh. 1.2: Yêu cầu: Có thái độ nghiêm túc trong học học tập, hiểu đúng đủ các nội dung của bài, bƣớc đầu vận dụng góp phần xây dựng LLVT ngay mình đang học tập. II – NỘI DUNG: 2.1: ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM NGUYÊN TẮC CƠ BẢN XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN. 2.1.1: Khái niệm: Lực lƣợng vũ trang nhân dân là các tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, có nhiện vụ "chiến đấu giành và giữ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nƣớc. Là lực lƣợng xung kích trong khởi nghĩa toàn dân giành chính quyền, là lực lƣợng nòng cốt của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân". Khái niệm trên đã chỉ ra: + LLVTNDVN là tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý. + Nhiệm vụ của LLVTNDVN là: Chiến đấu giành và giữ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. - Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả cách mạng - Cùng toàn dân xây dựng đất nƣớc. - Là lực lƣợng nòng cốt trong khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và chiến tranh nhân dân. - 34 -
  23. Cơ cấu tổ chức LLVTND ta: LLVTND LLVT thƣờng trực LLVT quần chúng QĐND CAND DQ-TV DBĐV CA – T - TP Bộ Bộ Bộ đội đội đội chủ địa biên Quận, huyện CA lực phƣơ Phò ng ng CA phƣờng -xã Trong đó: Bộ đội chủ lực: Bao gồm các quân đoàn, các binh chủng kỹ thuật, các học viện nhà trƣờng trong toàn quân. Bộ đội địa phƣơng: gồm các quân khu, bộ chỉ huy quân sự tỉnh (TP), BCH quân sự huyện(quận, thị xã). Bộ đội biên phòng: là các đơn vị biên phòng làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia. 2.1.2: Đặc điểm liên quan đến xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. - Cả nước đang thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá ta quyết liệt. + Đất nƣớc đã hoà bình thống nhất, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội với 2 nhiệm vụ chiến lƣợc, đây là điều kiện thuận lợi cho xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Hai nhiệm vụ chiến lƣợc có mối quan hệ chặt chẽ, tác động với nhau để cùng thực hiện mục tiêu “dân giầu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Do đó, trong khi chúng ta đặt nhiệm vụ trọng tâm vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, không đƣợc một phút lơi là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. + Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đẩy mạnh chiến lƣợc “Diễn biến hoà bình" chống phá cách mạng. Đây là một khó khăn lớn cho ta trong xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân, vì chiến lƣợc “Diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc chúng xác định chống phá ta mọi mặt trong đó Lực lƣợng vũ trang nhân dân là một trọng điểm, với mục tiêu là vô hiệu hoá, phi chính trị hoá Lực lƣợng vũ trang nhân dân. Do đó, cần phải nắm chắc âm mƣu, thủ đoạn chiến lƣợc "diễn biến hoà bình" của địch để có kế hoạch phòng ngừa, bảo đảm xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân vững mạnh về mọi mặt. - Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong điều kiện quốc tế đã thay đổi, có nhiều diễn biến phức tạp. Tình hình thế giới. Chủ nghĩa xã hội ở Đông âu Liên Xô sụp đổ, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới gặp nhiều khó khăn. Nhƣng trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhƣng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, chạy đua vũ trang (nhất là chạy đua vũ khí hạt - 35 -
  24. nhân), hoạt động khủng bố, tranh chấp biên giới, tài nguyên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Khu vực Đông Nam Á, vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, các nƣớc lớn đang tăng cƣờng ảnh hƣởng của mình để lôi kéo các nƣớc AS EAN. - Sự nghiệp đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đất nước ta bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập kinh tế thế giới toàn diện hơn. Thuận lợi cơ bản: Tiềm lực và vị thế của nƣớc ta đƣợc tăng cƣờng, Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đƣờng lối độc lập tự chủ, sáng tạo. Nhân dân ta có truyền thống yêu nƣớc, đoàn kết, tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Lực lƣợng vũ trang ta tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân. Trên cơ sở phát huy những thuận lợi của nƣớc ta trong Hiệp hội AS EAN, thành viên Tổ chức Thƣơng mại thế giới để giữ vững môi trƣờng hoà bình để phát triển kinh tế theo đinh hƣớng xã hội chủ nghĩa đó là nền tảng vững chắc để xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Thách thức lớn: Nƣớc ta vẫn tồn tại những thách thức lớn đƣợc Đại hội Đảng lần thứ X đề cập: Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nƣớc trong khu vực và trên thế giới; tình trạng suy thoái về chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng; những biểu hiện xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa; các thế lực thù địch thực hiện chiến lƣợc “diễn biến hoà bình”, bạo loạn đổ. Hiện nay và trong những năm tới, chúng ta đang đứng trƣớc nhiều vấn đề phải giải quyết, trong đó có mâu thuẫn chủ yếu là: Nhu cầu phải đầu tƣ cho quốc phòng – an ninh, cho xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân ngày càng lớn và cấp thiết, nhƣng khả năng của nền kinh tế, ngân sách của Nhà nƣớc là rất hạn hẹp. - Thực trạng của lực lượng vũ trang nhân dân ta. Trong những năm qua, lực lƣợng vũ trang ta đã có bƣớc trƣởng thành lớn mạnh cả về bản lĩnh chính trị, chất lƣợng tổng hợp, trình độ chính quy, sức mạnh chiến đấu không ngừng đƣợc nâng lên. Đã hoàn thành tốt cả ba chức năng, xứng đáng là lực lƣợng nòng cốt đi đầu giải quyết hiệu quả những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp mà Đảng, Nhà nƣớc giáo cho. Song, trên thực tế cần tập trung tháo gỡ một số vấn đề sau: + Về chất lƣợng chính trị: Trên thực tế, trình độ lý luận, tính nhạy bén, sắc sảo và bản lĩnh chính trị của không ít cán bộ, chiến sĩ ta chƣa tƣơng xứng với vị trí, yêu cầu, nhiệm vụ của lực lƣợng vũ trang trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. + Về khả năng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lƣợng vũ trang nhân dân còn những mặt hạn chế, chƣa đáp ứng đƣợc các tình huống phức tạp (nếu xảy ra). Công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ còn có những nội dung bất cập, chƣa thật sát nhiệm vụ và năng lực thực hành theo cƣơng vị đảm nhiệm. + Về trình độ chính quy của quân đội ta chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu tác chiến hiện đại và chƣa tƣơng xứng với công tác xây dựng. Chấp hành kỷ luật của một bộ phận lực lƣợng vũ trang còn chuyển biến chậm, vẫn để xảy ra những vụ việc, ảnh hƣởng đến sức mạnh chiến đấu của lực lƣợng vũ trang. + Về trang bị của lực lƣợng vũ trang còn lạc hậu và thiếu đồng bộ. + Vấn đề nghiên cứu phát triển hoàn thiện nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời kỳ mới cần đƣợc tổ chức một cách khoa học, phối hợp chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo và thực tiễn 2.1.3: Những quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ mới. - Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lực lượng vũ trang nhân dân . + Ý nghĩa: Đây là quan điểm, nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lƣợng vũ trang sẽ quyết định bản chất cách mạng, mục tiêu, phƣơng hƣớng chiến đấu, đƣờng lối tổ chức và cơ chế hoạt động của lực lƣợng vũ trang nhân dân, bảo đảm nắm chắc quân đội trong mọi tình huống. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua đã chứng minh điều đó. + Nội dung: Đảng cộng sản Việt Nam độc tôn duy nhất nắm quyền lãnh đạo lực lƣợng vũ trang nhân dân theo nguyên tắc “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”, Đảng không nhƣờng hoặc chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất cứ giai cấp, lực lƣợng, tổ chức nào. Đảng có hệ thống tổ chức từ Trung ƣơng đến cơ sở, lãnh đạo mọi hoạt động lực lƣợng vũ trang. - 36 -