Giáo trình Luật cạnh tranh - Lê Danh Vĩnh

pdf 203 trang hapham 2220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật cạnh tranh - Lê Danh Vĩnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_luat_canh_tranh_le_danh_vinh.pdf

Nội dung text: Giáo trình Luật cạnh tranh - Lê Danh Vĩnh

  1. GIÁO TRÌNH LUẬT CẠNH TRANH Tác giả: PGS.TS. Lê Danh Vĩnh (Chủ biên) Ths. Hoàng Xuân Bắc Ths. Nguyễn Ngọc Sơn Tháng 6 năm 2010
  2. GIÁO TRÌNH LUẬT CẠNH TRANH Tác giả: PGS.TS. Lê Danh Vĩnh (Chủ biên) Ths. Hoàng Xuân Bắc Ths. Nguyễn Ngọc Sơn
  3. MỤC LỤC LỜI GIỚI THIỆU 6 CHƯƠNG 1 10 TỔNG QUAN CHUNG VỀ CẠNH TRANH 10 CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH VÀ LUẬT CẠNH TRANH 10 I. TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH 10 1. Khái niệm cạnh tranh 10 2. Các hình thức tồn tại của cạnh tranh 16 3. Khái niệm chính sách cạnh tranh 25 II. VAI TRÒ, MỤC TIÊU CỦA LUẬT CẠNH TRANH 31 1. Vai trò của pháp luật cạnh tranh 31 2. Mục tiêu của Luật Cạnh tranh 35 3. Một số kết luận 43 III. LỊCH SỬ SỰ RA ĐỜI CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH TRÊN THẾ GIỚI 44 1. Tổng quan chung 44 2. Pháp luật cạnh tranh của Hoa Kỳ 47 3. Pháp luật cạnh tranh của EC 49 IV. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH 59 1. Sức mạnh thị trường 59 2. Khái niệm thị trường liên quan 60 3. Rào cản gia nhập thị trường 70 CHƯƠNG 2 74 HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 74 I. HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 74 1. Khái niệm, đặc điểm của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 74 2. Thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp 78 3. Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ (gọi tắt là thỏa thuận phân chia thị trường) 81 2
  4. 4. Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ 82 5. Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật công nghệ, hạn chế đầu tư 84 6. Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng 84 7. Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh 86 8. Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận 90 9. Thông đồng để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ 91 II. NGUYÊN TẮC XỬ LÝ CÁC THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 94 1. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị Luật Cạnh tranh cấm 94 2. Các trường hợp miễn trừ 97 CHƯƠNG 3 103 HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH VÀ VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH 103 I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH VÀ VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN NHẰM HẠN CHẾ CẠNH TRANH 103 1. Khái niệm, đặc điểm hành vi lạm dụng 103 2. Xác định vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền 109 II. CÁC HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN THEO LUẬT CẠNH TRANH 118 1. Nhóm hành vi lạm dụng mang tính bóc lột 118 2. Nhóm hành vi lạm dụng mang tính độc quyền 132 3. Hành vi lạm dụng của doanh nghiệp độc quyền 143 4. Nguyên tắc xử lý đối với các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh 143 CHƯƠNG 4 146 HÀNH VI TẬP TRUNG KINH TẾ 146 I. BẢN CHẤT CỦA HÀNH VI TẬP TRUNG KINH TẾ 146 1. Quá trình phát triển của pháp luật 3
  5. về hành vi tập trung kinh tế tại Việt Nam 146 2. Khái niệm và đặc điểm của các hành vi tập trung kinh tế 148 3. Nguyên nhân và tác động của hành vi tập trung kinh tế đối với thị trường cạnh tranh 150 4. Các hình thức tập trung kinh tế 155 II. KIỂM SOÁT HÀNH VI TẬP TRUNG KINH TẾ THEO LUẬT CẠNH TRANH 161 1 Nguyên tắc xử lý đối với tập trung kinh tế 161 2. Thủ tục thông báo về việc tập trung kinh tế 163 3. Các biện pháp xử lý vi phạm 164 III. THỦ TỤC THỰC HIỆN CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRÙ ĐỐI VỚI CÁC THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ TẬP TRUNG KINH TẾ 165 1. Bản chất của thủ tục miễn trừ 165 2. Thẩm quyền xem xét và quyết định cho hưởng miễn trừ 166 3. Thủ tục thực hiện 166 CHƯƠNG 5 169 PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 169 I. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 169 1. Hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh 169 2. Hành vi cạnh tranh trái với với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh 170 3. Hành vi gây thiệt hại, có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp khác và người tiêu dùng 171 II. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LUẬT CẠNH TRANH 173 1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn 173 2. Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh 175 3. Ép buộc trong kinh doanh 177 4. Gièm pha doanh nghiệp khác 178 5. Hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của người khác 180 6. Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh 181 7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 185 8. Phân biệt đối xử trong hiệp hội 187 9. Bán hàng đa cấp bất chính 189 4
  6. III. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH ĐƯỢC QUY ĐỊNH TRONG CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT KHÁC 199 1. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực giá 199 2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo 203 3. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp 203 CHƯƠNG 6 205 BỘ MÁY THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG CẠNH TRANH 205 I. TỔ CHỨC, BỘ MÁY THỰC THI LUẬT CANH TRANH 205 1. Yêu cầu của Luật Cạnh tranh về cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh 205 2. Kinh nghiệm của các nước trong việc tổ chức cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh 208 II. ĐIỀU TRA, XỬ LÝ VỤ VIỆC CẠNH TRANH 216 1. Các nguyên tắc chung trong tố tụng cạnh tranh 216 2. Quy trình, thời hạn điều tra 220 3. Phiên điều trần 221 4. Giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh 223 5. Xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh 224 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 226 DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT CIDA: Cơ quan phát triển quốc tế Canađa EU: Liên minh châu Âu EC: Cộng đồng châu Âu GATT: Hiệp định chung về thương mại và thuế quan OECD: Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế UNCTAD: Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển UN: Liên Hợp Quốc WTO: Tổ chức Thương mại thế giới 5
  7. LỜI GIỚI THIỆU Pháp luật cạnh tranh là lĩnh vực mới mẻ trong khoa học pháp lý của Việt Nam. Các công trình khoa học về lĩnh vực này chủ yếu phục vụ cho công tác xây dựng Luật Cạnh tranh. Trong công tác đào tạo bậc đại học chuyên ngành Luật học, nhiều cơ sở đào tạo đã đưa môn học Luật Cạnh tranh vào chương trình đào tạo trong bộ môn Luật Kinh doanh (Luật Kinh tế). Tuy nhiên, vẫn chưa có các giáo trình chính thức được biên soạn và công bố về vấn đề này. Để phục vụ cho công tác đào tạo chuyên ngành Luật, Đại học Kinh tế - Luật thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã mời ba tác giả: PGS. TS Lê Danh Vĩnh, Ths. Nguyễn Ngọc Sơn và Ths. Hoàng Xuân Bắc biên soạn giáo trình Luật Cạnh tranh làm tài liệu chính thức giảng dạy cho sinh viên. Việc biên soạn và xuất bản giáo trình này là một hoạt động trong khuôn khổ Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên giai đoạn III (EU - Việt Nam - MUTRAP III) với mục đích “Tăng cường năng lực của các bên liên quan đến chính sách cạnh tranh nhằm đảm bảo một sân chơi bình đẳng và công bằng cho mọi doanh nghiệp, bảo vệ người tiêu dùng thông qua việc thực thi Luật Cạnh tranh”. PGS. TS. Lê Danh Vĩnh là một trong những chuyên gia hàng đầu về Luật Cạnh tranh. Được đào tạo tiến sĩ tại Liên Xô và chủ nhiệm nhiều công trình khoa học về thương mại và các đề tài về pháp luật thương mại, PGS. TS. Lê Danh Vĩnh đã được Nhà nước giao trọng trách là Trưởng ban soạn thảo Luật Cạnh tranh từ khi Luật được bắt đầu xây dựng cho đến khi được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua, là Thứ trưởng Bộ Công Thương trực tiếp phụ trách việc thực thi Luật Canh tranh vào cuộc sống. Từ ngày 8 tháng 8 năm 2008, PGS. được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Cạnh tranh. Với những gì tích lũy trong quá trình soạn thảo, thực thi Luật, PGS. muốn chuyển tải tất cả những nền tảng lý luận và việc ứng dụng kinh nghiệm của các nước vào các quy định của Luật Cạnh tranh thành những kiến thức chuyên sâu trong đào tạo môn học Luật Cạnh tranh cho sinh viên chuyên ngành Luật học. Về cơ bản, Luật Cạnh tranh được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 3 tháng 12 năm 2004 có những điểm sáng sau: Thứ nhất, đây là đạo luật đầu tiên kết hợp các quy phạm luật nội dung và quy phạm luật hình thức. Với Luật Cạnh tranh, tố tụng cạnh tranh chính thức ra đời bên cạnh các luật tố tụng khác như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Thứ hai, Luật Cạnh tranh đã thành lập mới các thiết chế thực thi Luật lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Đó là Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh. Trong đó Hội đồng Cạnh tranh là một thiết chế khá đặc biệt: là một cơ quan hành chính nhưng lại có chức năng “xét xử” độc lập. 6
  8. Tuy nhiên, nếu so với các ngành luật khác, Luật Cạnh tranh kể cả ở phạm vi quốc tế, vẫn có lịch sử khá non trẻ. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế thế giới hiện nay, việc áp dụng Luật Cạnh tranh đang đặt ra nhiều vấn đề mới không dễ có câu trả lời trong một sớm một chiều. Dự án hy vọng giáo trình này sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích góp phần phố biến và nâng cao nhận thức về pháp luật cạnh tranh cũng như cách thức áp dụng Luật Cạnh tranh tại Việt Nam. Để giáo trình được hoàn thiện hơn trong những lần xuất bản sau, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp, phê bình của các doanh nghiệp, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu và toàn thể bạn đọc. Giám đốc dự án Nguyễn Thị Hoàng Thúy 7
  9. LỜI TÁC GIẢ Đã hơn 4 năm trôi qua kể từ khi Luật Cạnh tranh Việt Nam chính thức có hiệu lực thi hành. So với kinh nghiệm một trăm hai mươi năm của Hoa Kỳ và năm mươi hai năm của Cộng đồng châu Âu trong việc thực thi pháp luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền thì kinh nghiệm của hơn bốn năm thực thi Luật Cạnh tranh của Việt Nam quả là không đáng kể. Nhưng mỗi lần có dịp nhìn lại chặng đường xây dựng, ban hành và thực thi Luật Cạnh tranh Việt Nam, nay với tư cách Thứ trưởng Bộ Công Thương phụ trách việc thực thi Luật Cạnh tranh, trực tiếp làm Chủ tịch Hội đồng Cạnh tranh, tôi vẫn thấy nguyên niềm thích thú ngay từ ngày bắt tay xây dựng Luật Cạnh tranh đầu tiên ở Việt Nam. Khi được giao nhiệm vụ làm Trưởng Ban soạn thảo Dự án Luật Cạnh tranh, tôi vẫn gặp không ít khó khăn, bối rối. Việt Nam mới chỉ bước ra từ nền kinh tế kế hoạch hóa không lâu, cách hiểu về cạnh tranh vẫn còn chưa thống nhất trong các cơ quan quản lý Nhà nước, giới học giả và cộng đồng doanh nghiệp. Trước tình hình đó, Ban soạn thảo chúng tôi đã cho tập hợp tất cả các công trình nghiên cứu của học giả trong nước về chính sách cạnh tranh, về kiểm soát độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh. Trên cơ sở nghiên cứu kỹ những gì mà giới học giả Việt Nam đã tích lũy được, chúng tôi đã triển khai đồng thời ba hướng, đó là tổ chức hội thảo thu thập ý kiến của doanh nghiệp về thực trạng cạnh tranh trên thị trường, tổ chức nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài và tổ chức rà soát hệ thống pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Với sự phối hợp chặt chẽ của cộng đồng doanh nghiệp, các học giả trong nước và các chuyên gia nước ngoài, Ban soạn thảo đã hoàn thành Dự án Luật đúng thời hạn Quốc hội yêu cầu. Để chuyển tải được những gì mà mình tích lũy được trong quá trình tham gia xây dựng Dự án Luật, tôi cùng hai cộng sự là Ths. Nguyễn Ngọc Sơn và Ths. Hoàng Xuân Bắc đã viết cuốn sách “Pháp luật Cạnh tranh tại Việt Nam”. Sau đó, Đại học Kinh tế - Luật thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã mời chúng tôi viết cuốn sách này. Chúng tôi vô cùng trân trọng cơ hội này vì có dịp chia sẻ những suy nghĩ của mình về nội dung cũng như cách thức áp dụng Luật Cạnh tranh trong một tài liệu tham khảo chính thức của Đại học Kinh tế - Luật thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Việc biên soạn và xuất bản giáo trình này là một hoạt động trong khuôn khổ Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên giai đoạn III (EU - Việt Nam - MUTRAP III) với mục đích “Tăng cường năng lực của các bên liên quan đến chính sách cạnh tranh nhằm đảm bảo một sân chơi bình đẳng và công bằng cho mọi doanh nghiệp, bảo vệ người tiêu dùng thông qua việc thực thi Luật Cạnh tranh”. 8
  10. Chúng tôi cũng rất biết ơn nhiều người thân, bạn bè, đồng nghiệp của mình trong suốt quá trình biên soạn tài liệu này. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên giai đoạn III (EU - Việt Nam - MUTRAP III) đã hỗ trợ kinh phí cho việc biên soạn và xuất bản giáo trình này. Đặc biệt, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Văn Luân cũng như Hội đồng nghiệm thu đã cho nhiều ý kiến quý báu trong việc tu chỉnh. Song do có những hiểu biết hạn chế nhất định, cuốn sách này không trách khỏi những khiếm khuyết. Những quan điểm, nhận định trong cuốn sách này kể cả những sai sót là của cá nhân nhóm tác giả. Chúng tôi mong nhận được sự góp ý và trân trọng cảm ơn mọi ý kiến phê bình để có thể hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Hà Nội, tháng 6 năm 2010 TM. Nhóm tác giả PGS. TS Lê Danh Vĩnh THỨ TRƯỞNG BỘ CÔNG THƯƠNG CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CẠNH TRANH 9
  11. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CHUNG VỀ CẠNH TRANH, CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH VÀ LUẬT CẠNH TRANH I. TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH 1 Khái niệm cạnh tranh 1.1. Khái niệm, đặc trưng của cạnh tranh a. Khái niệm về cạnh tranh Cùng với sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, con người luôn đi tìm động lực phát triển trong các hình thái kinh tế xã hội. Đã có thời kỳ, thị trường, cạnh tranh và lợi nhuận được coi như là mặt trái gắn liền với chủ nghĩa tư bản và bị gạt ra khỏi công cuộc xây dựng thể chế kinh tế thời kỳ kế hoạch hóa tập trung. Lúc đó, các Nhà nước xã hội chủ nghĩa coi việc nắm giữ sức mạnh kinh tế kết hợp với yếu tố kế hoạch tập trung như là những động lực cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công bằng, dân chủ và văn minh. Với đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam thực sự thực thi những nguyên lý của cơ chế thị trường chưa từng được biết đến trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Chúng ta đã dần quen với việc vận dụng một động lực mới của sự phát triển là cạnh tranh. Cạnh tranh đã đem lại cho thị trường và cho đời sống xã hội một diện mạo mới, linh hoạt, đa dạng, phong phú và ngày càng phát triển, đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội mà trước đây người ta chỉ tìm thấy trong sách vở, như phá sản, kinh doanh gian dối, cạnh tranh không lành mạnh. Qua hơn 20 năm phát triển nền kinh tế thị trường, cạnh tranh không còn mới mẻ trong đời sống kinh tế - xã hội và trong khoa học pháp lý của Việt Nam. Song, trong công tác lập pháp và thực thi pháp luật cạnh tranh, chúng ta còn quá ít kinh nghiệm. Vì thế, việc hệ thống hóa các lý thuyết cạnh tranh mà các nhà kinh tế học, các nhà khoa học pháp lý đã xây dựng qua gần 5 thế kỷ của nền kinh tế thị trường là điều cần thiết. Cho đến nay, các nhà khoa học dường như chưa thể thoả mãn với bất cứ khái niệm nào về cạnh tranh. Bởi lẽ với tư cách là một hiện tượng xã hội riêng có của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh xuất hiện ở mọi lĩnh vực, mọi công đoạn của quá trình kinh doanh và gắn liền với bất cứ chủ thể nào đang hoạt động trên thị trường. Do đó, cạnh tranh được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau tùy thuộc vào ý định và hướng tiếp cận của các nhà khoa học. 10
  12. Với tư cách là động lực nội tại trong mỗi một chủ thể kinh doanh, cạnh tranh được cuốn Black’Law Dictionary diễn tả là “sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba”1. Với tư cách là hiện tượng xã hội, theo cuốn Từ điển Kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992, cạnh tranh được định nghĩa là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”2. b. Những đặc trưng cơ bản của cạnh tranh Mặc dù được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau, song theo các lý thuyết về kinh tế, cạnh tranh là sản phẩm riêng có của nền kinh tế thị trường, là linh hồn và là động lực cho sự phát triển của thị trường. Từ đó, cạnh tranh được mô tả bởi ba đặc trưng căn bản sau đây: Một, cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh Với tư cách là một hiện tượng xã hội, cạnh tranh chỉ xuất hiện khi tồn tại những tiền đề nhất định sau đây: - Có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu khác nhau. Kinh tế học đã chỉ rõ cạnh tranh là hoạt động của các chủ thể kinh doanh nhằm tranh giành hoặc mở rộng thị trường, đòi hỏi phải có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp trên thị trường. Một khi trong một thị trường nhất định nào đó chỉ có một doanh nghiệp tồn tại thì chắc chắn nơi đó sẽ không có đất cho cạnh tranh nảy sinh và phát triển. Mặt khác, khi có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp, song chúng chỉ thuộc về một thành phần kinh tế duy nhất thì sự cạnh tranh chẳng còn ý nghĩa gì. Cạnh tranh chỉ thực sự trở thành động lực thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh tốt hơn nếu các doanh nghiệp thuộc về các thành phần kinh tế khác nhau với những lợi ích và tính toán khác nhau3. - Cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do hành xử trên thị trường. Tự do khế ước, tự do lập hội và tự chịu trách nhiệm sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể chủ động tiến hành các cuộc tranh giành để tìm cơ hội phát triển trên thương trường. Mọi kế hoạch để sắp đặt các hành vi ứng xử, cho dù được thực hiện với mục đích gì đi nữa, đều hạn chế khả năng sáng tạo trong kinh doanh. Khi đó, mọi sinh hoạt trong đời sống kinh tế sẽ giống như những động thái của các diễn viên đã được đạo diễn sắp đặt trong khi sự tự do, sự độc lập và tự chủ của các doanh nghiệp trong quá trình tìm kiếm khả năng sinh tồn và phát triển trên thương trường không được đảm bảo. Hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các doanh nghiệp. Nói cách khác, cạnh tranh suy cho cùng là phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của người tiêu dùng4. Trong kinh doanh, lợi nhuận là động lực cho sự gia nhập thị trường, là thước đo sự thành đạt và là mục đích hướng đến của các doanh nghiệp. Kinh tế chính trị Macxít đã chỉ ra nguồn gốc của lợi nhuận là giá trị thặng dư mà nhà tư bản tìm kiếm được trong các chu trình của quá trình sản xuất, chuyển hoá giữa tiền - hàng. (1) Bryan A. Garner, Black’ Law Dictionary (St. Paul, 1999), tr 278. (2) Dẫn theo Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam (NXB chính trị quốc gia, 2004), tr 19. (3) PGS. Nguyễn Như Phát, TS. Trần Đình Hảo, Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam (NXB Công an nhân dân, 2001), chuyên đề “Một số đặc điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam có 11 ảnh hưởng tới Pháp luật cạnh tranh” của PGS Lê Hồng Hạnh. (4) PGS. Nguyễn Như Phát & Ths. Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường (Hà Nội: NXB Công an nhân dân, 2001).
  13. Trong chu trình đó, khách hàng và người tiêu dùng có vai trò là đại diện cho thị trường, quyết định giá trị thặng dư của xã hội sẽ thuộc về ai. Ở đó mức thụ hưởng về lợi nhuận của mỗi nhà kinh doanh sẽ tỷ lệ thuận với năng lực của bản thân họ trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, người tiêu dùng trong xã hội. Hình ảnh của cạnh tranh sẽ được minh họa bằng quan hệ tay ba giữa các doanh nghiệp với nhau và với khách hàng. Các doanh nghiệp đua nhau lấy lòng khách hàng. Khách hàng là người có quyền lựa chọn người sẽ cung ứng sản phẩm cho mình. Quan hệ này cũng sẽ được mô tả tương tự khi các doanh nghiệp cùng nhau tranh giành một nguồn nguyên liệu. Hiện tượng tranh đua như vậy được kinh tế học gọi là cạnh tranh trong thị trường. Từng thủ đoạn được sử dụng để ganh đua được gọi là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp. Kết quả của cuộc cạnh tranh trên thị trường làm cho người chiến thắng mở rộng được thị phần và tăng lợi nhuận, làm cho kẻ thua cuộc chịu mất khách hàng và phải rời khỏi thị trường. Ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng tranh giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm. Với sự giục giã của lợi nhuận, nhà kinh doanh khi tham gia vào thị trường luôn ganh đua để có thể tranh giành các cơ hội tốt nhất nhằm mở rộng thị trường. Với sự giúp đỡ của người tiêu dùng, thị trường sẽ chọn ra người thắng cuộc và trao cho họ lợi ích mà họ mong muốn. Trên thị trường, cạnh tranh chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp có chung lợi ích tiềm năng về nguồn nguyên liệu đầu vào (cạnh tranh mua); hoặc về thị trường đầu ra của sản phẩm (cạnh tranh bán) của quá trình sản xuất. Việc có cùng chung lợi ích để tranh giành làm cho các doanh nghiệp trở thành là đối thủ của nhau. Lý thuyết cạnh tranh xác định sự tồn tại của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp theo hướng xác định sự tồn tại của thị trường liên quan đối với các doanh nghiệp. Việc họ có cùng một thị trường liên quan làm cho họ có cùng mục đích và trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau. Theo kinh nghiệm pháp lý của các nước và theo Luật Cạnh tranh Việt Nam, thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm và thị trường địa lý. Việc xác định thị trường liên quan suy cho cùng là xác định khả năng thay thế cho nhau giữa sản phẩm của các doanh nghiệp trên một khu vực không gian nhất định. Trong đó, khả năng thay thế của các sản phẩm thường được mô tả bằng tính năng sử dụng, tính chất lý hoá và giá cả tương tự nhau. Mọi sự khác biệt của một trong ba dấu hiệu về tính năng sử dụng, tính chất lý hóa và giá cả sẽ làm phân hoá nhóm khách hàng tiêu thụ và làm cho các sản phẩm không thể thay thế cho nhau. Ví dụ, rượu Henessy ngoại nhập và rượu đế gò đen cho dù cùng được tiêu thụ trên thị trường Việt Nam, cùng có mục đích sử dụng giống nhau nhưng không thể cùng thị trường liên quan do giá cả và đặc tính lý hóa của chúng khác nhau quá xa. Các sản phẩm tương tự nhau của các doanh nghiệp khác nhau không thể thay thế cho nhau nếu chúng ở những vùng thị trường địa lý khác nhau vì sự khác nhau đó không đủ làm cho người tiêu dùng thay đổi thói quen sử dụng sản phẩm của doanh 12
  14. nghiệp này bằng sản phẩm tương tự của doanh nghiệp khác không cùng một khu vực với nó, cho dù có sự thay đổi về giá cả và các điều kiện mua bán có gây bất lợi cho người tiêu dùng. Nói tóm lại, chỉ khi nào xác định được các doanh nghiệp cùng trên một thị trường liên quan mới có thể kết luận được rằng các doanh nghiệp đó là đối thủ cạnh tranh của nhau. Khi họ có chung khách hàng hoặc đối tác để tranh giành, có chung một nguồn lợi ích để hướng đến mới có căn nguyên nảy sinh ra sự ganh đua giữa họ với nhau. Dấu hiệu mục đích vì lợi nhuận và vì thị trường phản ánh bản chất kinh tế của hiện tượng cạnh tranh. Từ đó có thể phân biệt cạnh tranh với các hiện tượng xã hội khác có cùng biểu hiện của sự ganh đua như: thi đấu thể thao hay các cuộc thi đua để tranh dành danh hiệu khác trong đời sống kinh tế - xã hội (ví dụ các cuộc thi để dành danh hiệu Sao vàng đất Việt ). Sự ganh đua trong thi đấu thể thao hay trong các cuộc thi tranh dành danh hiệu có thể đem lại vinh quang cho kẻ thắng và nỗi buồn cho người thất bại nhưng lại không đẩy người thua cuộc đi về phía cùng đường trong kinh doanh hay trong đời sống xã hội. Đồng thời, các bên trong cuộc thi đua hay thi đấu tranh dành những phần thưởng, danh hiệu mà Ban tổ chức cuộc thi trao tặng, người thắng cuộc được phần thưởng và những doanh nghiệp thua cuộc ra về tay không (không mất gì cho người thắng). Cạnh tranh đem về thị trường, khách hàng và các yếu tố kinh tế của thị trường của người thua cuộc cho doanh nghiệp thắng cuộc. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp cạnh tranh nhau trên thương trường luôn đưa đến kết quả bàn tay vô hình của thị trường sẽ lấy lại phần thị trường, lấy lại các yếu tố thị trường như vốn, nguyên vật liệu, lao động của người yếu thế và kinh doanh kém hiệu quả hơn để trao cho những doanh nghiệp có khả năng sử dụng hiệu quả hơn. Như thế, sẽ có kẻ mất và người được trong cuộc cạnh tranh. Người được sẽ tiếp tục kinh doanh với những gì đã gặt hái, còn doanh nghiệp thua cuộc phải thu hẹp hoạt động kinh doanh, thậm chí phải rời bỏ thị trường. Có thể nói, với đặc trưng này, cạnh tranh được mô tả như quy luật đào thải rất tự nhiên diễn ra trên thương trường. 1.2. Ý nghĩa của cạnh tranh Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường5. Nhờ có cạnh tranh, với sự thay đổi liên tục về nhu cầu và với bản tính tham lam của con người mà nền kinh tế thị trường đã đem lại những bước phát triển nhảy vọt mà loài người chưa từng có được trong các hình thái kinh tế trước đó. Sự ham muốn không có điểm dừng đối với lợi nhuận của nhà kinh doanh sẽ mau chóng trở thành động lực thúc đẩy họ sáng tạo không mệt mỏi, làm cho cạnh tranh trở thành động lực của sự phát triển. Theo đó, cạnh tranh có những vai trò cơ bản sau đây: a. Cạnh tranh đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng Trong môi trường cạnh tranh, người tiêu dùng có vị trí trung tâm, họ được cung phụng bởi các bên tham gia cạnh tranh. Nhu cầu của họ được đáp ứng một cách tốt (5)Cách diễn tả của PGS. Nguyễn Như Phát – sđd 13
  15. nhất mà thị trường có thể cung ứng, bởi họ là người có quyền bỏ phiếu bằng đồng tiền để quyết định ai được tồn tại và ai phải ra khỏi cuộc chơi. Nói khác đi, cạnh tranh đảm bảo cho người tiêu dùng có được cái mà họ muốn. Một nguyên lý của thị trường là ở đâu có nhu cầu, có thể kiếm được lợi nhuận thì ở đó có mặt các nhà kinh doanh, người tiêu dùng không còn phải sống trong tình trạng xếp hàng chờ mua nhu yếu phẩm như thời kỳ bao cấp, mà ngược lại, nhà kinh doanh luôn tìm đến để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách tốt nhất. Với sự ganh đua của môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách hạ giá thành sản phẩm nhằm lôi kéo khách hàng về với mình. Sự tương tác giữa nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh đã làm cho giá cả hàng hoá và dịch vụ đạt được mức rẻ nhất có thể; các doanh nghiệp có thể thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong khả năng chi tiêu của họ. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh loại bỏ mọi khả năng bóc lột người tiêu dùng từ phía nhà kinh doanh. Thị trường là nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng về trình độ công nghệ của người sản xuất. Trong mối quan hệ đó, sở thích của người tiêu dùng là động lực chủ yếu của yếu tố cầu; công nghệ sẽ quyết định về yếu tố cung của thị trường. Tùy thuộc vào khả năng tài chính và nhu cầu, người tiêu dùng sẽ quyết định việc sử dụng loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể. Phụ thuộc vào những tính toán về công nghệ, về chi phí nhà sản xuất sẽ quyết định mức độ đáp ứng nhu cầu về loại sản phẩm, về giá và chất lượng của chúng. Thực tế đã cho thấy, mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng phụ thuộc vào khả năng tài chính, trình độ công nghệ của doanh nghiệp. Những gì mà doanh nghiệp chưa thể đáp ứng sẽ là các đề xuất từ phía thị trường để doanh nghiệp lên kế hoạch cho tương lai. Do đó, có thể nói nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng (đại diện cho thị trường) có vai trò định hướng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Kinh tế học đánh giá hiệu quả của một thị trường dựa vào khả năng đáp ứng nhu cầu cho người tiêu dùng. Thị trường sẽ được coi là hiệu quả nếu nó cung cấp hàng hoá, dịch vụ đến tay người tiêu dùng với giá trị cao nhất. Thị trường sẽ kém hiệu quả nếu chỉ có một người bán mà cô lập với các nhà cạnh tranh khác, các khách hàng khác. b. Cạnh tranh có vai trò điều phối các hoạt động kinh doanh trên thị trường Như một quy luật sinh tồn của tự nhiên, cạnh tranh đảm bảo phân phối thu nhập và các nguồn lực kinh tế tập trung vào tay những doanh nghiệp giỏi, có khả năng và bản lĩnh trong kinh doanh. Sự tồn tại của cạnh tranh sẽ loại bỏ những khả năng lạm dụng quyền lực thị trường để bóc lột đối thủ cạnh tranh và bóc lột khách hàng. Vai trò điều phối của cạnh tranh thể hiện thông qua các chu trình của quá trình cạnh tranh. Dẫu biết rằng, cạnh tranh là một chuỗi các quan hệ và hành vi liên tục không có điểm dừng diễn ra trong đời sống của thương trường, song được các lý thuyết kinh tế mô tả bằng hình ảnh phát triển của các chu trình theo hình xoắn ốc. Theo đó, chu trình sau có mức độ cạnh tranh và khả năng kinh doanh cao hơn so với chu trình trước. Do đó, khi một 14
  16. chu trình cạnh tranh được giả định là kết thúc, người chiến thắng sẽ có được thị phần (kèm theo chúng là nguồn nguyên liệu, vốn và lao động ) lớn hơn điểm xuất phát. Thành quả này lại được sử dụng làm khởi đầu cho giai đoạn cạnh tranh tiếp theo. Cứ thế, kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh và cạnh tranh hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp có sự tích tụ dần trong quá trình kinh doanh để nâng cao dần vị thế của người chiến thắng trên thương trường. Trong cuộc cạnh tranh dường như có sự hiện diện của một bàn tay vô hình lấy đi mọi nguồn lực kinh tế từ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả để trao cho những người có khả năng sử dụng một cách tốt hơn. Sự dịch chuyển như vậy đảm bảo cho các giá trị kinh tế của thị trường được sử dụng một cách tối ưu. c. Cạnh tranh đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách hiệu quả nhất Những nỗ lực giảm chi phí để từ đó giảm giá thành của hàng hoá, dịch vụ đã buộc các doanh nghiệp phải tự đặt mình vào những điều kiện kinh doanh tiết kiệm bằng cách sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực mà họ có được. Mọi sự lãng phí hoặc tính toán sai lầm trong sử dụng nguyên vật liệu đều có thể dẫn đến những thất bại trong kinh doanh. Nhìn ở tổng thể của nền kinh tế, cạnh tranh là động lực cơ bản giảm sự lãng phí trong kinh doanh, giúp cho mọi nguồn nguyên, nhiên, vật liệu được sử dụng tối ưu. d. Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong kinh doanh Nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận đã thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để đáp ứng ngày càng tốt hơn đòi hỏi của thị trường, mong giành phần thắng về mình. Cứ như thế, cuộc chạy đua giữa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự phát triển không ngừng của khoa học, kỹ thuật trong đời sống kinh tế và xã hội. Trên thực tế, sự thay đổi và phát triển liên tục của các thế hệ máy vi tính và sự phát triển của hệ thống viễn thông quốc tế hiện đại cho thấy rõ vai trò của cạnh tranh trong việc thúc đẩy tiến bộ khoa học, kỹ thuật. đ. Cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc của sự đổi mới liên tục trong đời sống kinh tế - xã hội Nền tảng của quy luật cạnh tranh trên thị trường là quyền tự do trong kinh doanh và sự độc lập trong sở hữu và hoạt động của doanh nghiệp. Khi sự tự do kinh doanh bị tiêu diệt, mọi sự thi đua chỉ là những cuộc tụ họp theo phong trào, không thể là động lực đích thực thúc đẩy sự phát triển. Cạnh tranh đòi hỏi Nhà nước và pháp luật phải tôn trọng tự do trong kinh doanh. Trong sự tự do kinh doanh, quyền được sáng tạo trong khuôn khổ tôn trọng lợi ích của chủ thể khác và của xã hội luôn được đề cao như một kim chỉ nam của sự phát triển. Sự sáng tạo làm cho cạnh tranh diễn ra liên tục theo 15
  17. chiều hướng gia tăng của quy mô và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Việc vắng thiếu sự sáng tạo sẽ làm cho cạnh tranh trở thành những tua quay được lặp đi lặp lại ở cùng một mức độ, làm cho ý nghĩa của cạnh tranh - động lực của sự phát triển sẽ chỉ còn là những danh hiệu sáo rỗng. Sự sáng tạo không mệt mỏi của con người trong cuộc cạnh tranh nhằm đáp ứng những nhu cầu luôn thay đổi qua nhiều thế hệ liên tiếp là cơ sở thúc đẩy sự phát triển liên tục và đổi mới không ngừng. Sự đổi mới trong đời sống kinh tế được thể hiện thông qua những thay đổi trong cơ cấu thị trường, hình thành những ngành nghề mới đáp ứng những nhu cầu của đời sống hiện đại, sự phát triển liên tục của khoa học kỹ thuật, là sự tiến bộ trong nhận thức của tư duy con người về các vấn đề liên quan đến kinh tế - xã hội. Với ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, cạnh tranh luôn là đối tượng được pháp luật và các chính sách kinh tế quan tâm. Sau vài thế kỷ thăng trầm của của kinh tế thị trường và với sự chấm dứt của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, con người ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về bản chất và ý nghĩa của cạnh tranh đối với sự phát triển chung của đời sống kinh tế. Do đó, đã có nhiều nỗ lực xây dựng và tìm kiếm những cơ chế thích hợp để duy trì và bảo vệ cho cạnh tranh được diễn ra theo đúng chức năng của nó. 2 Các hình thức tồn tại của cạnh tranh Trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý, các nhà khoa học có nhiều cách phân loại cạnh tranh khác nhau để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu hoặc cho công tác xây dựng chính sách cạnh tranh. 2.1. Cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước Dựa vào vai trò điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh được chia thành hai loại: cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước. a. Cạnh tranh tự do Lý thuyết về cạnh tranh tự do ra đời vào thời kỳ giá cả tự do vận động lên xuống theo sự chi phối của quan hệ cung cầu, của các thế lực thị trường. Cùng với chủ nghĩa tự do trong thương mại, lý thuyết tự do cạnh tranh là ngọn cờ đấu tranh trước những nguy cơ can thiệp thô bạo từ phía công quyền vào đời sống kinh doanh, từ đó tạo môi trường cho chủ nghĩa tư bản phát triển trong những thời kỳ đầu của chúng. Ở một chừng mực nhất định, các quan điểm về tự do cạnh tranh đã tôn sùng và tạo điều kiện cho sự sáng tạo của con người vượt ra những quan niệm cổ hủ của tư tưởng 16
  18. phong kiến trọng nông. Khái niệm cạnh tranh tự do được hiểu từ sự phân tích các chính sách xây dựng và duy trì thị trường tự do, theo đó “thị trường tự do tồn tại khi không có sự can thiệp của Chính phủ và tại đó các tác nhân cung cầu được phép hoạt động tự do”6. Do đó, lý thuyết về cạnh tranh tự do đưa ra mô hình cạnh tranh mà ở đó các chủ thể tham gia cuộc tranh đua hoàn toàn chủ động và tự do ý chí trong việc xây dựng và thực hiện các chiến lược, các kế hoạch kinh doanh của mình. Mô hình cạnh tranh tự do ra đời cùng với quan điểm về bàn tay vô hình do nhà kinh tế học người Anh Adam Smith (1723-1790) đề xuất. Theo Adam Smith, sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào quy luật của tự nhiên vì cho rằng trong các hiện tượng tự nhiên luôn tồn tại một trật tự có thể thấy được qua quan sát hoặc bẳng cảm giác đạo đức. Do đó, cơ chế kinh tế và pháp luật nên tuân theo thay vì đi ngược lại các trật tự tự nhiên này. Trong tác phẩm Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc của cải của các dân tộc (1776), Ông tôn vinh vai trò điều tiết thị trường của bàn tay vô hình và cho rằng, sự tự do tự nhiên đã sản sinh ra một hệ thống điều tiết các quan hệ và các lợi ích thị trường đơn giản và rõ ràng. Theo đó, khi chạy theo lợi ích cá nhân, mỗi người đã vô tình đồng thời đáp ứng lợi ích của xã hội, cho dù trước đó họ không có ý định này (cơ chế này được gọi là sự điều hoà tự nhiên về lợi ích). Vì vậy, hệ thống cạnh tranh tự do tự nó đã sản sinh những quyền lực cần thiết để điều tiết và phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu. Vì vậy, công quyền không cần phải can thiệp sâu vào đời sống thị trường7. Bàn về cạnh tranh tự do, Adam Smith không loại bỏ vai trò của Nhà nước ra khỏi các quan hệ trên thương trường. Mặc dù cổ súy cho tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh, nhưng ông vẫn đề cao vai trò của công quyền trong việc đảm bảo trật tự thị trường. Theo đó, thị trường cần phải có sự can thiệp của Nhà nước thông qua hai nội dung: Thứ nhất, Nhà nước cần phải bảo vệ các ngành công nghiệp còn non trẻ bằng các hàng rào thuế quan; Thứ hai, Nhà nước phải thực hiện ba chức năng là đảm bảo an ninh, duy trì sự công bằng, xây dựng và bảo vệ các công trình công cộng. Ngày nay, lý thuyết về mô hình cạnh tranh tự do sơ khai kiểu của Adam Smith đã được một số người tự xưng là môn đệ của ông phát triển thành nhiều trường phái khác nhau. Sự phát triển đa dạng và phức tạp của các quan hệ trên thương trường với sự đan xen ngày càng chặt chẽ của nhiều dạng lợi ích đã làm nổi bật sự bất lực của bàn tay vô hình trong việc điều tiết cạnh tranh trên thương trường. Mô hình cạnh tranh tự do đã không còn là hình thức cạnh tranh lý tưởng được xưng tụng và áp dụng trong thực tế. Tuy nhiên, giá trị lịch sử của mô hình đó vẫn còn sáng mãi trong quan niệm và trong ý thức của loài người khi thiết kế các mô hình thị trường hoặc mô hình cạnh tranh trong thực tế của đời sống kinh tế - xã hội hiện đại. b. Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước Khác với cạnh tranh tự do, cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước là hình thức cạnh tranh mà ở đó Nhà nước bằng các chính sách và công cụ pháp luật can thiệp vào đời (6)David W. Pearce, Từ điển kinh tế học hiện đại (Hà Nội: tái bản lần 4, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 1999), tr 397. (7)David W. Pearce, sđd, tr 950-952. 17
  19. sống thị trường để điều tiết, hướng các quan hệ cạnh tranh vận động và phát triển trong một trật tự, đảm bảo sự phát triển công bằng và lành mạnh. Yêu cầu về sự điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh xuất phát từ nhận thức của con người về mặt trái của cạnh tranh tự do và sự bất lực của bàn tay vô hình trong việc điều tiết đời sống kinh tế. Với sự giục giã của lợi nhuận và khả năng sáng tạo những thủ pháp cạnh tranh trong kinh doanh, các doanh nghiệp khi tham gia thương trường đã không ngừng tiến hành cải tiến và nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý lao động, quản lý sản xuất kinh doanh để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh những tính toán để nâng cao khả năng kinh doanh một cách chính đáng, còn phát sinh nhiều toan tính không lành mạnh nhằm tiêu diệt đối thủ để chiếm lĩnh vị trí thống trị thị trường, giảm bớt sức ép của cạnh tranh, nhiều thủ đoạn chiếm đoạt thị phần của người khác một cách bất chính, lừa dối khách hàng để trục lợi . Những biểu hiện không lành mạnh ấy ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn độ phức tạp trong biểu hiện, làm ô nhiễm môi trường kinh doanh của thị trường. Trong khi đó, lý thuyết về cạnh tranh tự do tôn vinh khả năng tự điều tiết của thị trường và của cạnh tranh thông qua phương thức thưởng phạt theo quy luật tự nhiên. Thực tế lại cho thấy, khả năng điều tiết các quan hệ thị trường của bàn tay vô hình dường như chỉ thích hợp và phát huy tác dụng khi quan hệ cạnh tranh và hợp tác giữa các chủ thể là lành mạnh và công bằng. Một khi những toan tính đi ngược lại với các tiêu chuẩn đạo đức len lỏi vào các quan hệ đó thì bàn tay vô hình cũng bị mất đi tác dụng. Bởi lẽ với những người mong muốn có được lợi nhuận bất chấp đạo đức thì các biện pháp trừng phạt tự nhiên của thị trường và của truyền thống, tập quán kinh doanh sẽ không thể phát huy hiệu quả. Trong trường hợp này, xã hội và thị trường cần phải có thêm bàn tay hữu hình của một thế lực đủ mạnh, đứng trên các chủ thể kinh doanh (là những chủ thể có tư cách pháp lý bình đẳng nhau), bằng những công cụ cần thiết để ngăn chặn, trừng phạt những hành vi xâm hại trật tự công bằng của thị trường, khôi phục những lợi ích chính đáng bị xâm hại. Lịch sử phát triển của kinh tế thị trường đã chứng minh cho những lý lẽ trên và cũng đặt ra yêu cầu cho con người phải thay đổi nhận thức từ cạnh tranh tự do sang cạnh tranh có điều tiết. Trong thời kỳ đầu xây dựng và phát triển thị trường, Nhà nước tư bản cho dù đóng vai trò như người gác đêm (theo cách miêu tả của Macxit) hoặc con chó canh cửa (watch dog) - theo cách mô tả của những người chủ thuyết của kinh tế học cổ điển, cũng đã nhận ra được các tác hại của những toan tính lợi dụng tự do để cạnh tranh không lành mạnh, hòng trục lợi. Vì vậy, ngay từ những năm đầu của thế kỷ XIX, các Nhà nước tư bản đã vận dụng một vài nguyên tắc của dân luật để xử lý các hành vi không lành mạnh trong cạnh tranh và xác định trách nhiệm vật chất cho người vi phạm để khôi phục lại các lợi ích chính đáng bị xâm hại. Lý thuyết về cạnh tranh có điều tiết đã được các nhà kinh tế học và luật học phát triển thêm một bước khi nền kinh tế tư bản chuyển sang giai đoạn phát triển tư bản độc quyền. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp độc quyền và hành vi lạm dụng quyền lực thị trường của các nhà tư bản dẫn đến những cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đòi hỏi Nhà nước và pháp luật phải xuất 18
  20. hiện như một đối trọng với quyền lực kinh tế của các nhà độc quyền nhằm duy trì trật tự và hạn chế những khuyết tật mà tự do cạnh tranh gây ra, ngăn chặn khả năng lạm dụng vị trí độc quyền của những doanh nghiệp đang có vai trò thống trị. Cho đến nay, học thuyết về mô hình tự do cạnh tranh dường như đã kết thúc sứ mệnh lịch sử của nó, bởi hầu hết các nước đều đã làm quen và hài lòng với mô hình cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước. Lý luận cũng như thực tiễn của thị trường phải làm rõ vấn đề xác định chính xác mức độ và phương pháp, công cụ can thiệp của Nhà nước để điều tiết môi trường cạnh tranh nhằm vừa bảo vệ trật tự cạnh tranh vừa tôn trọng quyền tự do và tự chủ của các doanh nghiệp trên thương trường. Mọi sự can thiệp một cách thô bạo vào thị trường vừa làm méo mó diện mạo của cạnh tranh vừa xâm hại đến quyền tự do của các chủ thể kinh doanh. Có thể nói, việc phân chia và nghiên cứu cạnh tranh dưới các mô hình cạnh tranh tự do và cạnh tranh có điều tiết đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận để lý giải cho sự xuất hiện của Nhà nước vào đời sống cạnh tranh, làm cơ sở cho việc tìm kiếm những phương tiện để điều tiết thị trường. 2.2. Cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền Căn cứ vào tính chất mức độ biểu hiện, cạnh tranh được chia thành cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền. a. Cạnh tranh hoàn hảo Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà ở đó người mua và người bán đều không có khả năng tác động đến giá cả của sản phẩm trên thị trường. Trong hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả của sản phẩm hoàn toàn do quan hệ cung cầu, quy luật giá trị quyết định; không có sự tồn tại của bất cứ khả năng hay quyền lực nào có thể chi phối các quan hệ trên thị trường. Phân tích các yếu tố của thị trường, các nhà kinh tế học cho rằng, cạnh tranh hoàn hảo sẽ chỉ tồn tại khi có đủ 5 điều kiện sau đây: Một, số lượng doanh doanh nghiệp tham gia thị trường và số lượng khách hàng rất lớn, đủ để không một ai trong số họ có khả năng tác động đến thị trường. Do đó, thị phần của các doanh nghiệp và khả năng tiêu dùng của khách hàng là không lớn; Hai, sản phẩm tham gia thị trường phải đồng nhất, vì sự dị biệt trong sản phẩm là đối tượng của thị trường nên mức độ khác biệt giữa các sản phẩm tương tự có thể tạo ra quyền lực cho từng doanh nghiệp ở mức độ nhất định; Ba, thông tin trên thị trường là hoàn hảo. “Thông tin hoàn hảo là việc những người tham gia thị trường trong một nền kinh tế cạnh tranh nhận biết được đầy đủ và thấy trước được giá cả hiện nay và tương lai cũng như vị trí của hàng hoá và dịch vụ”8. Một khi thông tin thị trường được coi là hoàn hảo thì cả người mua và người bán đều không có cơ hội để lừa dối nhau nhằm nâng giá hay ép giá sản phẩm; Bốn, không có sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường, điều này có nghĩa là một thị trường cạnh tranh hoàn hảo luôn tồn tại sự tự do gia nhập của các doanh (8)David W. Pearce, sđd, tr 780. 19
  21. nghiệp tiềm năng. Dưới những phân tích của kinh tế học, tự do gia nhập được hiểu là các doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư “có thể và sẽ gia nhập vào thị trường nếu như họ quan sát thấy các doanh nghiệp khác đang kiếm được lợi nhuận nhiều hơn lợi nhuận bình thường. Tác động của sự gia nhập tự do này sẽ làm cho đường cầu của mỗi doanh nghiệp có chiều hướng đi xuống cho đến khi mỗi doanh nghiệp chỉ kiếm được lợi nhuận bình thường, tại thời điểm mà không còn sự kích thích nào cho doanh nghiệp muốn gia nhập”9; Năm, các yếu tố đầu vào của quy trình sản xuất được lưu thông tự do và các doanh nghiệp đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận với những yếu tố trên. Các yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu, lao động đều có khả năng ảnh hưởng đến năng lực kinh doanh và quyết định một phần vị trí của nhà kinh doanh trên thị trường, bởi lẽ nếu như một người có khả năng chi phối nguồn nguyên liệu đầu vào trong một ngành sản xuất, chắc chắn họ cũng sẽ khống chế sự vận động của các quan hệ sản xuất trên thị trường đó. Vì vậy, điều kiện về sự cân bằng của các yêu tố đầu vào đảm bảo cho doanh nghiệp có vị thế ngang nhau và cơ hội ngang nhau trong việc triển khai các chiến lược kinh doanh. Nhìn chung, những điều kiện để có cạnh tranh hoàn hảo là những tiêu chí nhằm gọt bỏ mọi nguy cơ hình thành các thế mạnh trên thị trường, đảm bảo không một ai (cả người bán lẫn người mua) có thể chi phối thị trường. Với mô hình thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các nhà kinh tế học xem khả năng của cạnh tranh tác động đến sự vận hành các quan hệ thị trường trong trạng thái tĩnh. Nói cách khác, cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mang tính lý thuyết dựa trên những điều kiện giả định của các nhà khoa học, mà không tồn tại trên thực tế. Sự vận động của các yếu tố trên thị trường như vốn, nguyên liệu, lao động và thị phần, kết hợp với bản tính hay thay đổi của người tiêu dùng đã làm cho thị trường không thể đồng thời tồn tại đủ các điều kiện nói trên. Các sản phẩm sẽ không thể đồng nhất trước sự phong phú và đa dạng của nhu cầu tiêu dùng trong xã hội, ngay cả với những mặt hàng đồng nhất do tự nhiên mà có như đường ăn, muối cũng đang có xu hướng đa dạng hóa. Mặt khác, sự mở rộng không ngừng của khái niệm thị trường sản phẩm lẫn thị trường địa lý làm cho khả năng hoàn hảo về thông tin là không thể xảy ra. Sự vận động không ngừng của thị trường đã phủ nhận khả năng tồn tại của một loại thị trường tĩnh theo kiểu lý thuyết về cạnh tranh hoàn hảo. b. Cạnh tranh không hoàn hảo Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó, các doanh nghiệp phân phối hoặc sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường10. Theo Từ điển kinh tế học hiện đại, cạnh tranh không hoàn hảo ra đời do sự khuyết đi một trong những yếu tố để tạo nên sự hoàn hảo của thị trường (đã đề cập đến ở phần cạnh tranh hoàn hảo). Trong thực tế, hình thức cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh phổ biến trên thị trường, ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành của nền kinh tế. Nếu như trong cạnh tranh hoàn hảo, không có ai có đủ khả năng chi phối thị trường, thì trong cạnh (9)David W. Pearce, sđd, tr 779. (10)PGS. Nguyễn Như Phát & Ths. Bùi Nguyên Khánh, sđd. 20
  22. tranh không hoàn hảo, do các điều kiện để sự hoàn hảo tồn tại không đầy đủ nên mỗi thành viên của thị trường đều có một mức độ quyền lực nhất định đủ để tác động đến giá cả của sản phẩm. Tùy từng biểu hiện của hình thức cạnh tranh này mà cách thức tác động đến giá cả sẽ là khác nhau. Kinh tế học chia cạnh tranh không hoàn hảo thành cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền nhóm: - Cạnh tranh mang tính độc quyền Lý thuyết về hình thức cạnh tranh mang tính độc quyền gắn liền với các công trình nghiên cứu của nhà kinh tế học người Mỹ Edward Chamberlin11 (1899-1967) và nhà kinh tế học người Anh Joan V. Robinson12 (1903-1983). Mặc dù là những nhà nghiên cứu độc lập nhưng trong các tác phẩm đã công bố, hai nhà khoa học này có nhiều quan điểm tương đồng trong việc mô tả về hiện tượng cạnh tranh mang tính độc quyền. Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thức cạnh tranh sản phẩm, mà mỗi doanh nghiệp đều có mức độ độc quyền nhất định vì họ có sản phẩm của riêng mình. Mặc dù các sản phẩm trên thị trường có thể thay thế cho nhau, song các doanh nghiệp luôn nỗ lực thực hiện cá biệt hoá sản phẩm của mình13. Sự thành công trong việc dị biệt hoá sản phẩm phù hợp với sự đa dạng và tính hay thay đổi của nhu cầu thị trường quyết định mức độ độc quyền và thành công của doanh nghiệp. Các tiêu chí được sử dụng để cá biệt hoá sản phẩm thường là mẫu mã, chất lượng, nhãn mác, dịch vụ bán hàng, . Chúng ta có thể tìm thấy sự hiện diện của cạnh tranh mang tính độc quyền trong thị trường của các ngành như hoá mỹ phẩm, may mặc, ôtô - Độc quyền nhóm Trong độc quyền nhóm, hình thức cạnh tranh được tồn tại trong một số ngành chỉ có một số ít nhà sản xuất và mỗi nhà sản xuất đều nhận thức được rằng giá cả của mình không chỉ phụ thuộc vào năng suất của chính mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của các đối thủ cạnh tranh quan trong trong ngành đó14. Ở mô hình độc quyền nhóm, người ta không cần quan tâm đến tính thuần nhất của sản phẩm mà nhấn mạnh đến số lượng thành viên của thị trường, đặc thù công nghệ của một số ngành sản xuất đòi hỏi quy mô tối thiểu có hiệu qủa lớn đến mức không phải ai cũng có thể đáp ứng. Chỉ một số lượng nhỏ doanh nghiệp với tiềm lực tài chính và khả năng về công nghệ có thể tham gia đầu tư, ví dụ như sản xuất ôtô, cao su, thép, xi măng.v.v. Khi đó, sự thay đổi về giá của mỗi doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp khác và ngược lại. Mặt khác, việc thay đổi sản lượng của doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp đến quan hệ cung cầu của sản phẩm và tác động đến sự thay đổi của giá cả sản phẩm. c. Độc quyền Độc quyền tồn tại khi chỉ có một doanh nghiệp duy nhất sản xuất hoặc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường mà không có sự thay thế từ các sản phẩm hoặc các chủ thể kinh (11)Với tác phẩm Lý thuyết cạnh tranh độc quyền xuất bản 1933. (12)Kinh tế học về cạnh tranh không hoàn hảo, xuất bản năm 1933. (13)Hình thức cạnh tranh mang tính độc quyền khuyết đi yếu tố về tính đồng nhất của sản phẩm nên là không hoàn hảo. (14)Đặng Vũ Huân, Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh và 21 kiểm soát độc quyền - Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1996), tr 21.
  23. doanh khác. Khi có vị trí độc quyền, thị trường sẽ trao cho doanh nghiệp quyền lực của mình, “khả năng tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định”15. Như vậy, độc quyền là một thuật ngữ để chỉ việc một doanh nghiệp nào đó duy nhất tồn tại trên thị trường mà không có đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp độc quyền có thể độc quyền nguồn cung (độc quyền bán) hoặc độc quyền cầu (độc quyền mua) trên thị trường. Cả hai trường hợp độc quyền này đều đem lại cho doanh nghiệp độc quyền khả năng khống chế ý chí của đối tác hoặc của khách hàng, tước bỏ khả năng lựa chọn của khách hàng, buộc họ chỉ còn một cơ may duy nhất là được giao dịch với doanh nghiệp độc quyền. Khi ấy, sự chi phối của doanh nghiệp độc quyền đến giá cả và những điều kiện thương mại khác dễ xảy ra. Những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành độc quyền bao gồm các loại sau đây: - Độc quyền hình thành từ quá trình cạnh tranh. Với tư cách là kết quả của quá trình cạnh tranh, độc quyền được tạo ra bởi sự tích tụ dần theo cơ chế lợi nhuận và các nguồn lực thị trường cứ tích tụ dần vào doanh nghiệp đã chiến thắng. Cứ như thế, sự bồi đắp về nguồn lực qua thời gian cho doanh nghiệp chiến thắng và sự ra đi của những doanh nghiệp thất bại đã hình thành nên thế lực độc quyền; - Độc quyền hình thành từ yêu cầu của công nghệ sản xuất hoặc yêu cầu về quy mô tối thiểu của ngành kinh tế kỹ thuật. Theo đó, trong những ngành kinh tế nhất định chỉ có những nhà đầu tư nhất định đáp ứng được yêu cầu về công nghệ hoặc về số vốn đầu tư tối thiểu mới có thể đầu tư kinh doanh có hiệu quả. Những điều kiện về công nghệ, về vốn tối thiểu đã loại bỏ dần những người không đủ khả năng, dẫn đến việc chỉ có một nhà đầu tư nào đó có thể đáp ứng được những điều kiện đó và thị trường đã trao cho người đủ điều kiện vị trí độc quyền. Trong đời sống kinh tế hiện đại, có thể tìm thấy những ngành có các yêu cầu công nghệ cao và vốn lớn như chế tạo máy bay, du lịch không gian. - Độc quyền hình thành từ sự tồn tại của các rào cản trên thị trường (barrier). Các rào cản đó bao gồm sự bảo hộ của Nhà nước (bao gồm bảo hộ bằng các quyết định hành chính cho các doanh nghiệp Nhà nước và bảo hộ các đối tượng thuộc sở hữu công nghiệp); sự trung thành của khách hàng; rào cản do lợi thế chi phí tuyệt đối của doanh nghiệp đang tồn tại, đã làm cản trở sự gia nhập thị trường của các nhà kinh doanh mới, từ đó củng cố và bảo vệ vị trí độc quyền của doanh nghiệp hiện đang tồn tại; - Độc quyền do sự tích tụ tập trung kinh tế. Tập trung kinh tế diễn ra thông qua việc sáp nhập, hợp nhất hoặc mua lại, liên doanh và những hình thức khác (ví dụ như việc kiêm nhiệm vị trí lãnh đạo trong nhiều doanh nghiệp), việc mua lại doanh nghiệp có thể hiểu là mua lại toàn bộ một doanh nghiệp hoặc mua một lượng đáng kể cổ phiếu của doanh nghiệp khác để có thể kiểm soát nó. Sự tồn tại của doanh nghiệp độc quyền có khả năng tập trung mọi nguồn lực thị trường để đầu tư hoặc phát triển nghiên cứu công nghệ, triển khai thực hiện những dự áp đầu tư đòi hỏi vốn lớn. Rất nhiều thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của nhân loại trong thế kỷ XXI đã được thực hiện dưới sự tài trợ của các doanh nghiệp hoặc các tập đoàn độc quyền. (15)David W. Pearce, sđd, tr 682 22
  24. Tuy nhiên, sự xuất hiện của độc quyền trong đời sống kinh tế sẽ triệt tiêu cạnh tranh, có thể gây ra những thiệt hại khó lường trước như: - Người tiêu dùng rất dễ bị bóc lột bởi việc doanh nghiệp độc quyền đặt ra các mức giá phi cạnh tranh (còn gọi là mức giá bóc lột); - Độc quyền có thể là nguyên nhân gây ra lãng phí cho xã hội bằng các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để củng cố hoặc duy trì độc quyền bằng mọi giá; - Độc quyền có thể bóp méo chi phí sản xuất. Doanh nghiệp độc quyền ít chịu sức ép cạnh tranh so với các doanh nghiệp cạnh tranh. Do đó nên sức ép giảm chi phí đối với doanh nghiệp độc quyền cũng thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp phải tồn tại trong môi trường cạnh tranh. Với cùng một loại hàng hoá sản xuất và cùng một lượng hàng hoá cung cấp cho người tiêu dùng, doanh nghiệp độc quyền thường có chi phí cao hơn so với doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh; - Độc quyền tạo ra sức ỳ cho bản thân doanh nghiệp độc quyền. Vì không phải chịu các sức ép từ cạnh tranh, nên các doanh nghiệp độc quyền không có động lực cải tiến kỹ thuật, cắt giảm chi phí và đầu tư phát triển công nghệ được bao bọc bởi hiệu quả kinh tế không từ khả năng kinh doanh mà từ vị trí độc quyền có thể khiến cho doanh nghiệp tự bằng lòng với những gì họ đang có. Những điều nói trên tạo ra sức ỳ nhất định cho doanh nghiệp. Những diễn biến xảy ra đối với các doanh nghiệp độc quyền của Việt Nam trong nhiều ngành là ví dụ điển hình. 2.3. Cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh Dựa vào tính lành mạnh và sự tác động của hành vi đối với thị trường, các hành vi cạnh tranh được chia làm 3 loại là cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh. a. Hành vi cạnh tranh lành mạnh Theo cuốn Black’s Law Dictionary, cạnh tranh lành mạnh được định nghĩa “là hình thức cạnh tranh công khai, công bằng và ngay thẳng giữa các đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh”16. Luôn là ước muốn của các doanh nghiệp có thái độ kinh doanh tử tế, của những nhà quản lý kinh tế, cạnh tranh lành mạnh đem lại hiệu quả tối ưu cho người tiêu dùng. Nuôi nấng và tô vẽ các nét đẹp truyền thống văn hiến vài nghìn năm, nền kinh tế lúa nước của người Việt Nam cũng phản ánh những quan niệm về cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động giao lưu thương mại. Những câu thành ngữ “buôn có bạn, bán có phường”, sự hình thành các trung tâm thương mại lớn như “nhất kinh kỳ, nhì phố hiến” đã cho thấy các thương nhân Việt Nam đã có thói quen yêu mến sự lành mạnh của cạnh tranh. Hiện nay, là khái niệm chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết, cạnh tranh lành mạnh không phải là khái niệm luật định cho dù bất cứ đạo luật cạnh tranh nào cũng đều hướng đến xây dựng và hoàn thiện một thị trường cạnh tranh lành mạnh. Trong khoa học pháp lý, người ta cũng chưa có được bất cứ khái niệm nào về cạnh tranh lành mạnh làm vừa lòng tất cả những nhà khoa học. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng đã có một sự thống (16)Bryan A.Garner, sđd, tr 279. 23
  25. nhất khi đưa ra những đặc trưng của cạnh tranh lành mạnh như sau: - Cạnh tranh bằng tiềm năng vốn có của doanh nghiệp; - Có mục đích thu hút khách hàng; - Không trái pháp luật và tập quán kinh doanh lành mạnh17. Cạnh tranh lành mạnh đem lại cho người tiêu dùng chất lượng sản phẩm ngày càng cao, sự đa dạng sản phẩm theo nhu cầu, giá cả hợp lý; đem lại cho đời sống kinh tế - xã hội những thành tựu phát triển của khoa học kỹ thuật, sự hợp lý trong việc sử dụng các nguồn lực kinh tế như: vốn, lao động, nguyên liệu. Đối với doanh nghiệp, cạnh tranh lành mạnh sẽ là trọng tài công bằng để lựa chọn những nhà kinh doanh có đủ năng lực, đủ bản lĩnh để tồn tại và kinh doanh hiệu quả. b. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh Điều 10 Bis Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định: “bất cứ hành vi cạnh tranh nào trái với các hoạt động thực tiễn, không trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”. Do ra đời từ bản tính hám lợi và ganh đua của con người trong kinh doanh, cạnh tranh luôn có tính hai mặt. Dưới góc độ tích cực, cạnh tranh đem lại các lợi ích cho xã hội, cho người tiêu dùng, cho doanh nghiệp. Song, ở chừng mực nào đó, khi nhu cầu lợi nhuận thúc giục và cám dỗ con người đến với những thủ đoạn thái quá trong cạnh tranh, thì các hành vi cạnh tranh ấy trở thành nỗi ám ảnh và có thể gây ra nhiều hậu quả bất lợi cho sự phát triển, xâm hại lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng. Lý thuyết cạnh tranh gọi đó là những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Mặc dù có nhiều cố gắng, song pháp luật các nước đều không thể đưa ra được khái niệm cạnh tranh không lành mạnh có thể bao quát được mọi biểu hiện trên thực tế. Vì vậy, nếu có đưa ra khái niệm cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật của các nước cũng phải kèm theo các quy định liệt kê từng hành vi cụ thể. Lý giải về điều này, Phó Giáo sư Nguyễn Như Phát cho rằng sức sáng tạo bất tận của các nhà kinh doanh đã làm cho phạm vi của hành vi không lành mạnh luôn thay đổi bằng sự xuất hiện của những thủ đoạn bất chính mới. Do đó, pháp luật với tính ổn định tương đối sẽ mau trở thành lỗi thời trước thực tế sinh động của thị trường. Với những lý do đó, lý thuyết về cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh cho dù có những cách thức tiếp cận có khác nhau, nhưng họ đều có sự thống nhất về những căn cứ để nhận dạng cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó, cạnh tranh không lành mạnh là hành vi: - Nhằm mục đích cạnh tranh phát sinh trong kinh doanh; - Trái với pháp luật cạnh tranh hoặc tập quán kinh doanh thông thường; - Gây thiệt hại cho đối thủ hoặc cho khách hàng. c. Hành vi hạn chế cạnh tranh Nếu như sự bất thành trong việc xây dựng mô hình cạnh tranh tự do đã chỉ ra cho (17)PGS. Nguyễn Như Phát – Ths. Bùi Nguyên Khánh, sđd. 24
  26. con người nhận biết được các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thì những thủ đoạn lũng đoạn thị trường của các tập đoàn kinh tế tư bản độc quyền ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ XIX đã cảnh báo cho con người về nguy cơ đe dọa cạnh tranh của quyền lực thị trường. Ban đầu, các hành vi lũng đoạn thị trường gây hậu quả xấu đến tình hình kinh tế - xã hội được coi là một dạng của cạnh tranh không lành mạnh. Cho đến nay, các nhà khoa học đã tách nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh ra khỏi khái niệm cạnh tranh không lành mạnh do những thiệt hại mà hành vi này xâm hại và những biểu hiện khách quan của chúng. Mặc dù được thực hiện từ các doanh nghiệp đều mang bản chất bất chính và có khả năng gây thiệt hại cho thị trường hoặc cho chủ thể khác, giữa hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh có những khác biệt cơ bản, theo đó, hành vi hạn chế cạnh tranh luôn hướng đến việc hình thành một sức mạnh thị trường hoặc tận dụng sức mạnh thị trường để làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị biến dạng. Có hai nội dung cần phải xác định đối với hành vi hạn chế cạnh tranh là: Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi có thể là một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp, các doanh nghiệp này hoặc là đã có sức mạnh thị trường, hoặc hướng đến việc hình thành nên sức mạnh thị trường bằng cách thỏa thuận hoặc tập trung kinh tế; Thứ hai, các hành vi được thực hiện nhằm mục tiêu làm biến dạng cạnh tranh, sự biến dạng của cạnh tranh có thể là làm thay đổi cấu trúc thị trường, thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, loại bỏ đối thủ, ngăn cản đối thủ tiềm năng để làm giảm đi sức ép cạnh tranh hiện có hoặc sẽ có, bóc lột khách hàng . Thông thường, hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm ba dạng hành vi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền để hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế. Như vậy, so với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thì các hành vi hạn chế cạnh tranh có khả năng gây thiệt hại cao hơn. Đồng thời do sự xuất hiện của quyền lực thị trường nên các biện pháp trừng phạt mang tính dân sự như bồi thường thiệt hai hay cải chính công khai sẽ không thể phát huy hiệu quả một cách tối ưu. Vì lẽ đó, công quyền thường không thể sử dụng cùng một loại biện pháp trừng phạt giống nhau để áp dụng cho cả hai loại hành vi trên. 3 Khái niệm chính sách cạnh tranh 3.1. Yêu cầu điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh Vai trò điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh là kết quả của sự nhận thức đối với thị trường và đối với cạnh tranh. Mặc dù ngay từ những ngày đầu khai sinh ra mô hình cạnh tranh tự do, nhà kinh tế học lỗi lạc Adam Smith đã đặt vai trò của Nhà nước trong 25
  27. mối quan hệ với cạnh tranh như một con chó canh cửa (watch dog) cho thị trường bằng chức năng chống ngoại xâm, đảm bảo trật tự xã hội và công bằng trong lợi ích. Nhưng sau đó, sự lên ngôi của bàn tay vô hình đã xoá mờ những cảnh báo của ông đối với những biến dạng của thị trường. Vì thế vai trò của Nhà nước trở nên mờ nhạt đối với cạnh tranh. Cho đến nay, khi nhận thức về tính hai mặt của cạnh tranh không còn nằm trong các lý thuyết kinh tế kinh điển hay hiện đại mà đã được kiểm chứng bởi thực tế thị trường thì yêu cầu điều tiết của Nhà nước lại càng trở nên bức thiết. Dưới góc độ lý luận luật học, vai trò điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh được xác lập dựa trên các quan điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, quan điểm về giới hạn của sự tự do. Ngay từ thời cổ đại, nhà triết gia Hecralit đã tuyên bố ta sẽ giải phóng các người bằng pháp luật. Tư tưởng về sự tự do không đồng nghĩa với tự do vô chính phủ đã được xây dựng và hoàn thiện cùng với những đấu tranh của loài người cho một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn. Theo đó, mọi sự tự do quá trớn và không trật tự đều tạo ra nguy cơ tiêu diệt tự do. Bởi hành vi tự do quá trớn của một người có thể xâm hại tự do của người khác và cuối cùng cả hai đều bị mất tự do. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự tồn tại của tự do, có như thế các nguồn lực thị trường mới có thể vận hành tốt và đem lại hiệu quả cho sự phát triển. Nhận thức về sự tự do luôn gắn liền với nhu cầu phải gạt bỏ các biểu hiện nhân danh tự do để hủy hoại sự tự do. Sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật sẽ giải phóng mọi sự kiềm toả của các biểu hiện bất chính đó đối với tự do của những người đang bị xâm hại. Thứ hai, khi đứng ngoài đời sống thị trường, các Nhà nước tư sản đã nhận thấy được sự bất lực của bàn tay vô hình trước những thủ đoạn bất tận và bất chính do con người thực hiện để giành giật lợi ích kinh tế trong cạnh tranh. Lý thuyết về khả năng điều tiết thị trường của bàn tay vô hình dường như chỉ đem lại hiệu quả tối ưu cho thị trường khi các quan hệ mà quyền lực của bàn tay vô hình điều kiển hoàn toàn lành mạnh, khi các nhà kinh doanh là những chính nhân quân tử thì các quy luật của thị trường mới có thể phát huy tác dụng. Bàn tay vô hình của thị trường chỉ có thể thưởng cho người giỏi giang và tước đi lợi ích của người yếu kém trong kinh doanh, mà không thể trừng phạt những nhà kinh doanh có các toan tính không lành mạnh. Các cuộc khủng hoảng kinh tế do những tập đoàn độc quyền vào cuối thế kỷ 19, những yêu sách đòi được bồi thường do bị chơi xấu của các doanh nghiệp, v.v đã cảnh tỉnh các Nhà nước tư sản, buộc họ phải xuất hiện với bàn tay hữu hình của quyền lực công để duy trì trật tự trong cạnh tranh và bảo vệ những lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Thứ ba, thừa nhận vai trò điều tiết của Nhà nước nhưng không phủ nhận giá trị của bàn tay vô hình mà Adam Smith đã đưa ra cách đây vài thế kỷ. Vai trò điều tiết có giới hạn của Nhà nước là sự hỗ trợ từ phía công quyền cho bàn tay vô hình của thị trường. Mọi biểu hiện không lành mạnh không thể bị loại bỏ bằng quyền lực của bàn tay vô hình sẽ bị điều tiết bởi các thiết chế quyền lực của bàn tay hữu hình của Nhà nước. Nói văn vẻ hơn, cần phải có cái bắt tay giữa quyền lực thị trường 26
  28. và công quyền trong việc điều tiết các quan hệ cạnh tranh trên thị trường. Có nghĩa là, sự can thiệp của Nhà nước luôn phải tôn trọng các quy luật chung vốn có của nền kinh tế, tránh gây nguy cơ đe dọa đến sự tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, trình độ điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh phụ thuộc vào sự khéo léo trong việc xác định mức độ và sự tinh tế của các phương pháp điều tiết mà Nhà nước sử dụng để tác động đến các quan hệ thị trường. Cho đến nay, tất cả các quốc gia thừa nhận và thực thi nền kinh tế thị trường đều đã thừa nhận vai trò điều tiết của Nhà nước đối với cạnh tranh. Trong các lý thuyết kinh tế hiện đại hay những nhà chủ thuyết làm mới lại các lý thuyết kinh tế cổ điển cũng đã khẳng định sự tất yếu và vai trò không thể thiếu của Nhà nước trong đời sống kinh doanh. Sự khác nhau chỉ là những nguyên tắc được đặt ra trong việc cân nhắc mức độ can thiệp của công quyền đối với thị trường cạnh tranh. Lịch sử phát triển của luật cạnh tranh trong gần hai thế kỷ qua đã cho thấy những thay đổi theo chiều hướng tích cực của ý thức pháp lý trong quan niệm và phương cách điều tiết thị trường của Nhà nước hiện đại. Các biện pháp mà Nhà nước sử dụng để điều tiết cạnh tranh gọi chung là chính sách cạnh tranh. 3.2. Khái niệm chính sách cạnh tranh Chính sách cạnh tranh bao gồm tất cả các biện pháp của Nhà nước nhằm duy trì cạnh tranh, một mặt chủ động tạo ra các tiền đề cho cạnh tranh, mở cửa thị trường, loại bỏ các barrier cản trở xâm nhập thị trường, mặt khác thực thi các biện pháp chống lại các chiến lược hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp18. Khái niệm chính sách cạnh tranh theo cách hiểu này bao gồm cả pháp luật, cơ chế bảo đảm thực hiện, cũng như những biện pháp kinh tế kích thích cạnh tranh trên thị trường. Có một cách hiểu chính sách cạnh tranh theo nghĩa hẹp, theo đó nó bao gồm các quy tắc và quy định nhằm thúc đẩy cạnh tranh trong một nền kinh tế quốc dân, một phần thông qua việc phân bổ có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên19. Với cách hiểu này, pháp luật cạnh tranh là nội dung cơ bản của chính sách cạnh tranh. Nó bao gồm các quy định chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và những biện pháp chống các hành vi hạn chế cạnh tranh. Trong phạm vi của nội dung này, chính sách cạnh tranh được giới thiệu theo nghĩa rộng, bao gồm tổng hợp các biện pháp xây dựng môi trường cạnh tranh trong đời sống kinh tế, các biện pháp duy trì trật tự cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Trong đó, nội dung quan trọng của pháp luật cạnh tranh với hai bộ phận cấu thành cơ bản là pháp luật chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống các hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo nghĩa rộng, chính sách cạnh tranh được xây dựng dựa trên những cơ sở khác nhau sau đây: Một, chủ trương phát triển kinh tế của quốc gia; , tình hình thực tế của đời sống kinh tế và tương quan cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế chính trên thị trường; (18)Lê Viết Thái, “Chính sách cạnh tranh một công cụ cần thiết trong nền kinh tế thị trường” trong Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 221/1996, tr 28. (19)Walter Goode, Từ điển chính sách thương mại quốc tế (sách dịch, NXB thống kê, 1997), tr 58. 27
  29. Ba, xu thế kinh tế quốc tế hiện đại; Bốn, tập quán kinh doanh truyền thống của quốc gia. Điều đó làm cho chính sách cạnh tranh của các nước luôn có những nết đặc thù khác nhau. Thậm chí ngay trong một quốc gia, chính sách cạnh tranh có nhiệm vụ và nội dung được thay đổi theo từng thời kỳ. Có thể thấy được những vấn đề nói trên bằng việc khảo cứu chính sách cạnh tranh của một số quốc gia điển hình. Chính phủ Hoa Kỳ với chủ trương thừa nhận tự do cạnh tranh, ngăn ngừa sự hình thành độc quyền và lạm dụng sức mạnh độc quyền để xâm hại lợi ích của các chủ thể khác nên chính sách cạnh tranh của nước này bao gồm luật chống độc quyền, các chính sách kinh tế khác (chính sách thuế, chính sách bảo hộ và hỗ trợ tài chính, nghiên cứu, triển khai ) để thúc đẩy và bảo vệ cạnh tranh trên thị trường. Trong khi đó, Việt Nam lại chủ trương xây dựng thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó thành phần kinh tế quốc doanh với sự hiện hữu của các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Do đó, chúng ta đã xác định sự cần thiết đối với độc quyền của doanh nghiệp Nhà nước trong các lĩnh vực thiết yếu, duy trì một thị trường cạnh tranh có mức độ. Bên cạnh đó, trong thực thi pháp luật còn tồn tại nhiều sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác nhau, làm cho chính sách cạnh tranh của Việt Nam sẽ có nhiều nội dung đặc biệt. Tại Nhật Bản, yếu tố truyền thống trong tập quán kinh doanh đã có ảnh hưởng lớn đến chính sách cạnh tranh. Văn hoá của người Nhật ủng hộ các doanh nghiệp thỏa thuận với nhau, thống nhất hành động và chấp nhận hạn chế cạnh tranh cho dù giá thị trường cao vì mục đích ổn định. Mặt khác, sau chiến tranh, thị trường Nhật bản chưa thừa nhận và phổ biến quan niệm cạnh tranh với nghĩa là sự ganh đua tự phát. Họ cho rằng, cạnh tranh là một hình thức quản lý của Nhà nước, chứ không phải là một nguyên tắc tổ chức của nền kinh tế. Vì thế chính sách cạnh tranh phải tập trung vào việc Chính phủ quản lý cho được những rủi ro và hạn chế cạnh tranh quá mức, Chính phủ phải kiểm soát sự gia nhập thị trường của doanh nghiệp để xây dựng cạnh tranh bằng cách xác định và cân đối quan hệ cung cầu20. Về vai trò của chính sách cạnh tranh, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội, mỗi quốc gia khác nhau sẽ trao cho chính sách cạnh tranh những nhiệm vụ khác nhau.Với sự ổn định về đầu tư, về trình độ công nghệ và nhịp độ tăng trưởng kinh tế, chính sách cạnh tranh của Hoa Kỳ tập trung vào các nhiệm vụ tăng phúc lợi cho người tiêu dùng và bảo vệ quá trình cạnh tranh, tăng hiệu quả kinh tế. Đối với Việt Nam, công cuộc đổi mới diễn ra xấp xỉ hai mươi năm, tuổi đời thị trường còn quá non trẻ, các thiết chế của thị trường chưa hình thành đầy đủ và chưa đồng bộ. Do đó, chính sách cạnh tranh còn tập trung vào việc xây dựng một thị trường cạnh tranh thực sự và hướng tới việc hình thành dần các thiết chế cần thiết để duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh. Các nhiệm vụ nổi bật trong quá trình đó là thu hút đầu tư để hình thành thị trường cạnh tranh; phân bổ các yếu tố sản xuất một cách tối ưu, chuyển nguồn lực xã hội từ nơi kém hiệu quả sang nơi hiệu quả hơn; xây dựng môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng; điều chỉnh hành vi cạnh tranh của các (20)Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh (NXB Giao thông vận tải, 2001), tr 376-377. 28
  30. doanh nghiệp; bảo vệ người tiêu dùng. 3.3. Nội dung của chính sách cạnh tranh Với vai trò xây dựng môi trường cạnh tranh sôi động, lành mạnh để khuyến khích cạnh tranh phát triển và bảo vệ sự lành mạnh của thị trường, chính sách cạnh tranh luôn bao gồm các nhóm nội dung sau đây: a. Tạo lập và thúc đẩy các cơ hội bình đẳng và không phân biệt đối xử trong cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh - Xóa bỏ các phân biệt đối xử về mặt pháp lý giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế: - Xóa bỏ cơ chế hai giá giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; - Xóa bỏ ưu đãi thuế và tài chính doanh nghiệp (xây dựng nghị định chung về thuế thu nhập doanh nghiệp, xóa bỏ mức hạn chế chi phí quảng cáo của doanh nghiệp trong nước); - Đẩy mạnh công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước; - Đưa cạnh tranh vào những lĩnh vực thuộc độc quyền Nhà nước (lĩnh vực điện, lĩnh vực hàng không, lĩnh vực viễn thông); - Minh bạch hóa hoạt động của cơ quan Nhà nước các cấp để ngăn cản các hành vi can thiệp vào môi trường cạnh tranh từ các cơ quan Nhà nước; - Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. b. Bảo vệ và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh - Xóa bỏ các trợ cấp của Nhà nước với doanh nghiệp, tách hỗ trợ tín dụng thương mại ra khỏi hỗ trợ mang tính chính sách (thành lập Ngân hàng chính sách chuyên cho vay xóa đói giảm nghèo); - Tổ chức nhiều giải thưởng tôn vinh doanh nghiệp hoạt động tốt (Sao đỏ, Sao vàng đất Việt); - Cải cách hành chính trong việc đăng ký bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp; - Tạo nhiều kênh để doanh nghiệp khiếu nại về thủ tục hành chính; - Tạo nhiều diễn đàn để doanh nghiệp lên tiếng cải thiện môi trường cạnh tranh (qua Phòng Thương mại và Công nghiệp, qua hiệp hội ngành nghề); - Xây dựng các thiết chế mới để bảo vệ cạnh tranh trên các thị trường đặc thù. c. Ngăn chặn các hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường - Luật hoá các nỗ lực chống lại hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh. - Ban hành đầy đủ các chế tài để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; - Xây dựng các thiết chế mới để xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh. 29
  31. d. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của doanh nghiệp và của người tiêu dùng bao gồm: - Xây dựng các công cụ bảo hộ mới được quốc tế chấp nhận (chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ); - Xây dựng các công cụ quản lý mới được quốc tế chấp nhận (thuế tuyệt đối, hạn ngạch thuế quan, giấy phép xuất nhập khẩu tự động); - Xây dựng các tiêu chí miễn trừ trong Luật Cạnh tranh. 3.4. Chính sách cạnh tranh và vấn đề tự do hóa thương mại Các định chế pháp lý của GATT và WTO sau này hướng đến việc tập trung xây dựng một hệ thống kinh tế quốc tế trên cơ sở nền tảng của nguyên lý thương mại tự do. Mục đích của thương mại tự do là giảm thiểu đến mức thấp nhất sự can thiệp của Nhà nước vào các dòng chảy thương mại xuyên biên giới nhằm xây dựng một thị trường chung lành mạnh và bình đẳng. Xây dựng và phát triển một thị trường thống nhất không đồng nghĩa với việc xoá bỏ những đặc thù về lợi thế thương mại của các quốc gia. Ngược lại, thương mại tự do tạo cơ hội cho sự liên kết kinh tế giữa các quốc gia bằng việc tập trung phát huy những lợi thế thương mại của mỗi nước. Bởi lẽ, không một quốc gia nào có tất cả các điều kiện giống nhau về thiên nhiên, khí hậu và thậm chí là tập quán kinh doanh. Những khác biệt ấy khiến cho mỗi quốc gia có được một lợi thế nhất định so với những nước khác. Thương mại tự do sẽ chuyển những lợi thế riêng ấy thành năng suất tối đa cho tất cả các thị trường. Điều này chỉ có thể có được khi mọi rào cản thương mại được tháo bỏ để hàng hoá và tư bản có thể được lưu thông tự do. Để xây dựng một thị trường tự do trên phạm vi toàn cầu hoặc khu vực, các nghĩa vụ pháp lý phát sinh đối với các quốc gia chủ yếu là xoá bỏ các rào cản thuế quan cũng như phi thuế quan, nhằm đảm bảo cho hàng hoá và dịch vụ của thương mại tự do có thể tự do di chuyển qua biên giới. Việc những rào cản thuế quan đang được xoá bỏ đến mức không còn sự khác biệt giữa hàng hoá nội địa và hàng nhập khẩu và các yếu tố liên quan đến chi phí vận chuyển và thông tin liên lạc ngày càng giảm dần dẫn đến sự gia tăng các cấp độ thương mại cũng như sự lệ thuộc lẫn nhau giữa thị trường của các quốc gia21. Ngoài ra, quá trình tự do hoá kinh tế diễn ra hiệu quả và đem lại cho thị trường của các quốc gia động lực phát triển mới đòi hỏi sự mở cửa, làm sạch thị trường bằng các công cụ chính sách và pháp lý phù hợp. Chỉ khi nào các phần thị trường ở mỗi nước thực sự lành mạnh thì thị trường chung được cấu thành từ đó mới có thể tránh được các mầm mống đe doạ đến sự phát triển. Về vấn đề này, có hai nội dung cần làm rõ như sau: Thứ nhất, sự thúc đẩy của lợi nhuận và sự bảo hộ của chính sách tự do hoá thương mại là mầm mống nảy sinh các toan tính không lành mạnh trên thị trường, bao gồm những hành vi phản cạnh tranh của các doanh nghiệp, những tính toán lạm dụng vị trí độc quyền của các thế lực tài chính lớn và sự liên kết của các nhóm doanh nghiệp hòng thiết lập một sức mạnh chung chi phối thị trường. Sự tồn tại và phát triển của những hành vi nói trên sẽ làm gia tăng nguy cơ đe doạ đến quá trình hình thành thị trường tự do bởi không có bất cứ nhà đầu tư tử tế nào lại (21)Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn (NXB Tư pháp, 2005). 30
  32. muốn đồng tiền của mình mạo hiểm trong môi trường kinh doanh bị vẩn đục và không công bằng. Khi đó, các lợi ích có thể có được từ quá trình tự do hoá thương mại có thể bị vô hiệu nếu pháp luật và các chính sách cạnh tranh không thể bao trùm toàn bộ nền kinh tế hoặc tính khả thi bị hạn chế. Mặt khác, với vai trò là cơ chế thiết lập, duy trì và bảo hộ cạnh tranh, chính sách cạnh tranh góp phần thúc đẩy sự hình thành các quan hệ thị trường cho đời sống kinh tế, hình thành cơ chế tự điều chỉnh của thị trường là những thiết chế cơ bản của quá trình tự do hoá thương mại. Ngoài ra, sự xuất hiện các thế lực kinh tế quốc tế với tiềm lực tài chính khổng lồ và dày dạn kinh nghiệm thương trường luôn là mối lo ngại cho các nước đang phát triển về nhu cầu xây dựng một nền kinh tế tự chủ, đòi hỏi các quốc gia này phải thiết kế một chính sách cạnh tranh hợp lý, đủ mạnh và khôn khéo để đối phó với các thủ đoạn không tử tế lợi dụng sự tự do hoá để gia nhập hòng chiếm lĩnh và chi phối thị trường của mình. Nếu các chính sách kinh tế nói chung và chính sách cạnh tranh nói riêng không đủ mạnh thì quá trình hội nhập kinh tế sẽ chỉ là quá trình một chiều mà thôi. Tòa án tối cao Hoa Kỳ đánh giá, chính sách cạnh tranh, các công cụ điều tiết cạnh tranh như là công cụ để bảo trợ cho quá trình tự do hoá thương mại, và đạo Luật Sherman như là một điều lệ toàn diện cho thương mại tự do nhằm mục đích bảo đảm cạnh tranh tự do và không gây cản trở. Thứ hai, khi thực thi chính sách thương mại tự do và chính sách cạnh tranh các nước luôn phải đảm bảo sự hỗ trợ hài hoà giữa hai công cụ này, theo đó, với nội dung là một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm luật lệ, quy định, hiệp định quốc tế và các quan điểm đàm phán được Chính phủ thông qua để đạt được mở cửa thị trường hợp pháp, chính sách thương mại tự do sẽ là cơ sở để hình thành một môi trường cạnh tranh sinh động. Ngược lại, với vai trò duy trì và đảm bảo sự lành mạnh của thị trường, chính sách cạnh tranh sẽ bảo hộ cho quá trình tự do và bảo vệ tự do thương mại. II. VAI TRÒ, MỤC TIÊU CỦA LUẬT CẠNH TRANH 1 Vai trò của pháp luật cạnh tranh 1.1. Tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng, tự do Cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện và bảo đảm cho cạnh tranh tồn tại là các quy định về tự do kinh doanh và quyền được tồn tại bình đẳng của các doanh nghiệp. Chỉ khi nào được tự do gia nhập thị trường, tự do giao kết và bảo đảm quyền sở hữu thì lúc đó các chủ thể tham gia thị trường mới có đủ năng lực để quyết định phương thức kinh doanh. Lúc đó, cạnh tranh mới có đất để tồn tại và phát huy tác dụng. 31
  33. Với tư cách là lĩnh vực pháp luật đặc thù của nền kinh tế thị trường, pháp luật cạnh tranh bảo vệ cạnh tranh bằng cách chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và loại bỏ mọi hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Vai trò bảo vệ thị trường lành mạnh của pháp luật được thực hiện theo cơ chế sau đây: - Trong thị trường tự do và lành mạnh, các doanh nghiệp tự quyết định việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ mà không chịu bất cứ sự chi phối nào từ phía Nhà nước và các doanh nghiệp khác. Người tiêu dùng mua những hàng hoá mà họ cần. Thị trường đưa các doanh nghiệp và người tiêu dùng đến với nhau. Cơ chế thị trường trong đó giá cả thay đổi theo sự vận động của cung cầu quyết định hành vi của các doanh nghiệp và nhu cầu của người tiêu dùng. - Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp gia nhập thị trường theo ý muốn, tồn tại bằng việc tạo ra lợi nhuận, và phải cạnh tranh nhau. Kết quả là, trong khi khi một vài doanh nghiệp thành công thì sẽ có những doanh nghiệp phải gánh chịu tổn thất, thậm chí là phải rời bỏ thị trường. Đây là quy tắc tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp và được tuân thủ theo các nguyên tắc của thị trường. Tuy nhiên, thực tế thị trường luôn nảy sinh những biểu hiện tiêu cực từ cạnh tranh. Do những thôi thúc từ nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận, bằng những toan tính không phù hợp với truyền thống kinh doanh lành mạnh, những biểu hiện tiêu cực đó đã xâm hại trật tự kinh doanh, đe dọa hoặc xâm hại trực tiếp đến lợi ích của đối thủ cạnh tranh hoặc của người tiêu dùng. Các hành vi hạn chế cạnh tranh trực tiếp xâm hại trật tự kinh tế, hủy hoại cạnh tranh và xâm phạm quyền tự do kinh doanh lành mạnh của các doanh nghiệp khác. Sự hỗn loạn của thị trường từ những hành vi bất chính trong cạnh tranh buộc pháp luật và Nhà nước vào cuộc để xắp xếp lại trật tự thị trường cho phù hợp với những nguyên tắc vốn có của nó. Sự can thiệp của Nhà nước bằng việc điều tiết cạnh tranh tạo ra chính sách cạnh tranh, thông qua việc xây dựng pháp luật cạnh tranh. - Pháp luật đảm bảo loại trừ những hành vi phản cạnh tranh trong việc đua tranh giành lợi nhuận trên thị trường. Từ đó, bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các thành viên thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh, bảo vệ sự lành mạnh của quan hệ thị trường. 1.2. Bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việc các doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh thường gây ra sự hiểu lầm là luật cạnh tranh chỉ đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho người tiêu dùng mà không đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc xoá bỏ mọi kiềm chế không phù hợp đối với hoạt động kinh doanh, pháp luật cạnh tranh có mục đích đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tự do trên một thị trường tự do. Với mục đích bất chính và với những thủ pháp không đàng hoàng, tất cả các hành vi bất chính trong cạnh tranh đều là những biến tướng của cạnh tranh, lợi dụng tự do để xâm hại đến trật tự cạnh tranh trên thị trường. Lúc này, cần có sự hiện diện của pháp luật cạnh tranh để lập lại trật tự thị trường, giải phóng các doanh nghiệp khác ra khỏi sự kiềm tỏa của những biểu hiện không lành mạnh. Mặt khác, với tư cách là nội dung quan trọng trong chính sách cạnh tranh, pháp 32
  34. luật cạnh tranh ngăn chặn các doanh nghiệp thu lợi nhuận bằng việc thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nâng cao nhận thức của xã hội về truyền thống kinh doanh buôn có bạn, bán có phường, khích lệ sự năng động, tự chủ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp. 1.3. Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Trên thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng của các doanh nghiệp cùng nhau giải quyết ba vấn đề cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào?. Giống như việc bỏ phiếu của cử tri trong các cuộc bầu cử, hành vi lựa chọn hàng hoá và dịch vụ có chất lượng, phù hợp với nhu cầu và túi tiền của người tiêu dùng là những hướng dẫn quan trọng liên quan đến hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp. Quyền bỏ phiếu và lựa chọn được gọi là quyền tối cao, quyết định vị trí trung tâm của người tiêu dùng trên thị trường mà bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại đều phải cung phụng. Để có thể tồn tại, các doanh nghiệp luôn tìm mọi phương cách và mọi thủ đoạn để lôi kéo khách hàng mua sản phẩm của mình. Trên thực tế, có nhiều trường hợp, hành vi của doanh nghiệp còn là sự xâm phạm, bóc lột khách hàng, thể hiện qua những nội dung sau đây: - Trong quan hệ giữa nhà sản xuất hoặc cung ứng sản phẩm và người tiêu dùng, thì người tiêu dùng luôn ở vị trí bất lợi. Tuy là mục tiêu hướng đến của quan hệ thị trường, là định hướng cơ bản cho hoạt động sản xuất và cung ứng của doanh nghiệp, nhu cầu của người tiêu dùng bị khống chế bởi khả năng đáp ứng và chịu sự kiểm soát từ các doanh nghiệp. Các nhà sản xuất và phân phối thường hiểu biết về hàng hoá và dịch vụ của họ hơn người tiêu dùng. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hàng hoá và dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho xã hội hiện đại. Có những trường hợp, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người tiêu dùng mà các do- anh nghiệp đã cung cấp các hàng hoá kém chất lượng. Khi phát hiện, người tiêu dùng không thể khiếu nại hay kiện tụng vì giao dịch đã hình thành hoàn toàn tự nguyện. - Dưới góc độ pháp luật, các giao dịch giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp là kết qủa của những thỏa thuận tự nguyện. Người tiêu dùng được quyền tự do lựa chọn hàng hoá, lựa chọn, thiết lập giao dịch với người cung cấp. Những thoả thuận đã hình thành và có hiệu lực thi hành làm cho người mua phải tự hài lòng với những gì mình đã lựa chọn. Có nhiều trường hợp việc thiếu những thông tin về hàng hoá, sự thuyết phục từ những nhà cung cấp và những thủ đoạn gian dối, che lấp những khiếm khuyết trong việc cung ứng và trong tính năng, kết cấu của sản phẩm đã dẫn đến việc hình thành thỏa thuận. Việc giao dịch của người tiêu dùng với doanh nghiệp về hình thức được hình thành theo sự lựa chọn và tự nguyện của người tiêu dùng. Vì thế, nguyên tắc trung thực trong khế ước của dân luật dường như chỉ còn mang tính hình thức mà không thể dùng làm căn cứ pháp lý bảo vệ quyền lợi của người đã bị lường gạt. Lúc này, sự trung thực trong cạnh tranh với những thiết chế cấm đoán của pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ sự trung thực của thị trường và lợi ích của người tiêu dùng. 33
  35. - Cạnh tranh vốn là sự ganh đua để lấy lòng khách hàng. Những hạn chế từ khả năng nhận biết tính trung thực của hành vi kinh doanh, sự phát triển không ngừng của tư duy sáng tạo trong thủ pháp kinh doanh làm cho người tiêu dùng từ vị trí trung tâm của thị trường thường được đi tàu bay giấy bằng các khẩu hiệu hoặc thủ đoạn tinh vi suy tôn họ lên vai trò của thượng đế. Đến khi thượng đế trở về với đời sống thực mới hiểu là bị mắc lừa. Các hành vi đó ngày càng đa dạng từ những trưng bày, quảng cáo sai sự thật cho đến những lời hứa thưởng gian dối Những hành vi bất chính này ảnh hưởng đến sự lựa chọn của người tiêu dùng và xâm hại đến lợi ích của những doanh nghiệp làm ăn chân chính. - Khi cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bị triệt tiêu bằng những thủ đoạn không lành mạnh hoặc bằng sự tích tụ, tập trung tất yếu của thị trường, dường như quyền lựa chọn của người tiêu dùng - quyền tối cao trên thị trường đã bị xâm phạm. Họ không còn khả năng lựa chọn vì chỉ có một loại sản phẩm do một hoặc một nhóm doanh nghiệp cung cấp. Lúc này, quyền được đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, lợi ích chung của xã hội sẽ bị hạn chế, bị xâm phạm nghiêm trọng và những lợi ích xã hội sẽ trở thành siêu lợi nhuận cho doanh nghiệp độc quyền. Từ đó, một trong những vai trò của pháp luật cạnh tranh là bảo vệ người tiêu dùng. Vai trò này được thể hiện qua các nội dung như bảo vệ người tiêu dùng trước những hợp đồng không trung thực và không công bằng theo hướng phải sửa đổi lại các điều khỏan không công bằng; đặt ra các quy định trong việc đảm bảo thông tin về sản phẩm, kiểm soát hoạt động quảng cáo, khuyến mãi và ngăn cấm các biểu hiện bất chính trong các lĩnh vực này; quy định trách nhiệm đối với những vi phạm có thể đe dọa đến quyền lợi của người tiêu dùng. 1.4. Thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả Quá trình toàn cầu hóa kinh tế với sự ra đời của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế thúc đẩy sự hình thành nên nhiều vùng thị trường khu vực và thế giới rộng lớn thông qua việc xóa bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan. Quan hệ thương mại quốc tế được biểu hiện thông qua sự dịch chuyển các nguồn đầu tư tư bản và các giá trị thương mại dưới hình thức hàng hoá hoặc dịch vụ giữa thị trường của các nước với nhau dựa trên quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy chế đãi ngộ quốc gia (NT). Hai quy chế này đảm bảo cho nguyên tắc tự do và bình đẳng thực sự phát huy được hiệu quả trong thương mại quốc tế cũng như bảo đảm cho hàng hoá được lưu thông một cách tự do trên tinh thần không phân biệt đối xử. Một khi sự tự do được đề cao như là nguyên lý bất khả xâm phạm với sự giục giã của quy luật giá trị và bản tính của con người sẽ xuất hiện những hành vi cạnh tranh tự phát có thiên hướng thái quá, cực đoan trong thương mại quốc tế - đây chính là mặt trái của tự do hóa thương mại. Nguyên tắc cạnh tranh lúc này không chỉ thể hiện ở sự ganh đua giữa các nhà sản xuất hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ, mà còn thể hiện ở sự đối đầu giữa hai thị trường, hai khu vực kinh tế. Trong quan hệ thương mại quốc tế, những thế lực kinh tế quốc tế hay dùng thủ đoạn lạm dụng thế mạnh tài chính để chiếm đoạt và thao túng thị trường của những nước đang phát triển, 34
  36. những nước có trình độ phát triển thấp hơn, bằng hai thủ đoạn phổ biến sau đây: - Các tập đoàn kinh tế đa quốc gia với tiềm lực tài chính khổng lồ, đã và đang dùng sức mạnh tài chính đó chiếm đoạt dần thị trường ở các nước mà họ đầu tư. - Hiện tượng cướp đoạt vốn liên doanh đang diễn ra phổ biến ở thị trường của các nước đang phát triển. Trong bối cảnh của toàn cầu hoá kinh tế, sự dịch chuyển vốn đầu tư qua lại giữa các thị trường là một trong những nội dung cơ bản của chính sách hội nhập mà các nước, không phân biệt trình độ phát triển, đang theo đuổi. Trong quan hệ về đầu tư vốn, sự liên kết giữa vốn đầu tư từ nước ngoài và các nguồn vốn nội địa là tất yếu, là hình thức quan trọng của hoạt động đầu tư quốc tế. Bên cạnh những tác động tích cực của xu thế đầu tư quốc tế đối với quá trình xây dựng những khu vực thị trường chung, xuất hiện những biểu hiện tiêu cực: liên kết vốn rồi sau đó dùng vốn liên doanh để đầu tư tìm kiếm, mở rộng thị trường. Trong thời gian mở rộng thị trường có hiện tượng báo lỗ đến khi bên liên doanh nội địa không thể kham nổi lỗ vì khả năng tài chính có hạn, dẫn đến việc bên nước ngoài thâu tóm toàn bộ vốn liên doanh bằng cách mua lại phần giá trị vốn của bên liên doanh nội địa. Các vụ việc liên quan đến các liên doanh ở Việt Nam chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là những thí dụ về biểu hiện tiêu cực trong đầu tư quốc tế. Trong bối cảnh đó, với tư cách là công cụ pháp lý được sử dụng để loại bỏ các biểu hiện không lành mạnh trên thị trường quốc gia, pháp luật cạnh tranh có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ sự lành mạnh và khả năng phát triển tự thân của nền kinh tế nội địa, thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng, hiệu quả trên tinh thần phát triển lợi thế so sánh của từng thị trường thành viên. 2 Mục tiêu của Luật Cạnh tranh 2.1. Duy trì tính cạnh tranh trên thị trường Xét theo nghĩa rộng, Luật Cạnh tranh ra đời là để bảo vệ quá trình cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Các quy phạm của luật cạnh tranh có mục tiêu tìm cách phát huy cạnh tranh hiệu quả và không bị bóp méo trên thị trường. Điều này không có nghĩa là trong một nền kinh tế thị trường, tất cả các ngành kinh tế đều bị thả cho cạnh tranh tự do, không kiểm soát. Các nước, tùy theo trình độ phát triển có thể mở cửa cho cạnh tranh ở các phạm vi khác nhau. Ở các nước phát triển, các lĩnh vực như dịch vụ y tế hoặc cung cấp các tiện ích cơ bản như giao thông công cộng, điện, gas, nước, phải chịu sự kiểm soát của Chính phủ. Ở các nước đang phát triển, phạm vi các lĩnh vực chịu sự can thiệp của Chính phủ thường lớn hơn, ví dụ như hàng không, khai thác khoáng sản, Ngoài ra, các nước có thể có quan điểm khác nhau về phạm vi tác động của các yếu tố xã hội đối với thị trường tự do. Ví dụ, ở Hoa Kỳ 35
  37. và Liên minh châu Âu, ngành nông nghiệp được bảo hộ thông qua các biện pháp trợ cấp, trợ giá và quyền mua can thiệp để điều tiết thị trường và như vậy ở các nước này, thị trường nông nghiệp là một thị trường tương phản với những gì mà một thị trường cạnh tranh yêu cầu. Từ góc độ kinh tế có thể nói mục tiêu duy nhất của luật cạnh tranh là duy trì tính cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, vị trí của Luật Cạnh trạnh không đơn giản chỉ có vậy. Nhiều ý kiến cho rằng nên theo đuổi một phạm vi mục tiêu rộng lớn hơn. 2.2. Tăng cường hiệu quả của nền kinh tế a. Duy trì cạnh tranh hiệu quả Nhiều nhà kinh tế cho rằng mục tiêu chính của luật cạnh tranh là thúc đẩy và duy trì một quá trình cạnh tranh hiệu quả, từ đó đạt được cách thức phẩn bổ hiệu quả hơn các nguồn lực22. Các nhà kinh tế đi theo cách tiếp cận này thuộc trường phái kinh tế học công nghiệp và đặc biệt là kinh tế học phúc lợi. Các nhà kinh tế này tìm cách chứng minh tại sao cạnh tranh lại được cho là làm ra lợi ích lớn nhất cho xã hội và để đạt được hiệu quả. Để có thể hiểu những vấn đề này tốt hơn trước tiên chúng ta cùng nhau nghiên cứu qua một số khái niệm cơ bản của kinh tế học vi mô. b. Các thuật ngữ kinh tế cơ bản - Đường cong của cầu và thặng dư của người tiêu dùng Người tiêu dùng không đồng nhất về văn hóa tiêu dùng. Họ có những ưu tiên khác nhau, có thu nhập khác nhau và kết quả là sẽ sẵn sàng trả những mức giá khác nhau cho một hàng hóa cụ thể. Mức giá tối đa mà một người tiêu dùng sẵn sàng trả cho một hàng hóa là mức giá đặc cược của anh ta. Khi người tiêu dùng mua số lượng hàng hóa càng lớn thì anh ta sẽ phải trả càng ít cho các đơn vị sản phẩm mua thêm. Về lý thuyết, các nhà cung cấp có thể ép mỗi người tiêu dùng chấp nhận một mức giá khác nhau nhưng trên thực tế, điều này thường không khả thi. Do đó, nhà cung cấp phải xem xét mối quan hệ giữa sự sẵn sàng trả giá của người tiêu dùng và số lượng hàng hóa sẽ được mua trên thị trường một cách tổng thể. Nếu chỉ có những người mua sẵn sàng trả giá cao được cung cấp, số lượng hàng hoá được sản xuất sẽ ít hơn trong trường hợp nếu người mua là người trả giá thấp hơn được cung cấp. Trái lại, để bán được số lượng hàng hóa lớn hơn thì mức giá bán cần phải giảm để phù hợp với người mua chỉ sẵn sàng trả giá thấp. Mối quan hệ giữa giá bán và lượng cung được thể hiện bởi đường cong của cầu thị trường. Đường cong cầu thông thường có xung hướng chéo xuống từ trái sang phải. Nếu chúng ta giả sử rằng giá thị trường là 500 đồng chúng ta có thể thấy một số người tiêu dùng sẽ chỉ phải trả 500 đồng cho một hàng hoá mà họ có thể trả mức giá cao hơn thế. Điều này dẫn đến một hiện tượng được kinh tế học gọi là thặng dư của người tiêu dùng và được chỉ ra bởi vùng gạch chéo ở Đồ thị 1. Đó là sự khác nhau giữa mức giá sẵn sàng trả của người mua và mức giá thị trường23. - Độ co dãn của cầu (22)J. Vickers and D. Hay, ‘The Economics of Market Dominance’ in D. Hay and J. Vickers (eds.), The Economics of Market Dominance (OUP, 1987), tr 2. (23)The concept of comsumer surplus was fist described by Alfred Marshall, Principles of 36 Economics, (8th edn., Macmillan, 1920).
  38. Số lượng tại đó một lượng hàng hoá được yêu cầu sẽ tăng khi giá giảm (và ngược lại) sẽ phụ thuộc vào thị trường đang nghiên cứu và độ co giãn của cầu đối với sản phẩm. Độ co giãn giá của cầu đo tính nhạy cảm của số lượng hàng hoá được yêu cầu căn cứ vào giá. Cầu sẽ được cho là không co giãn nếu một lượng tăng về giá dẫn đến việc giảm không đáng kể về cầu. Ví dụ, cầu đối với dầu mỏ là không co giãn vì trong nhiều lĩnh vực sử dụng dầu mỏ không có sản phẩm thay thế để có thể thực hiện chức năng tương tự. Trái lại, cầu là co giãn nếu một sự tăng giá dẫn đến giảm đáng kể về cầu. Ví dụ, cầu đối với ô tô 4 chỗ là co giãn. Giá Thặng dư người tiêu dùng Giá cạnh tranh Số lượng Đường cong của cầu và thặng dư của người tiêu dùng Ở góc độ kỹ thuật, độ co giãn giá của cầu là sự thay đổi phần trăm về số lượng của một sản phẩm được yêu cầu chia cho những thay đổi phần trăm tương ứng trong giá của nó. Kết quả sẽ là một số âm vì sự giảm cầu sẽ được thể hiện dưới dạng số âm từ điểm xuất phát. Nếu cầu với một sản phẩm nào đó giảm 2 phần trăm là kết quả của việc tăng giá 1 phần trăm, sự thay đổi của cầu sẽ được thể hiện là -2 phần trăm. Độ co giãn của cầu khi đó sẽ là -2 chia cho 1 (lượng tăng giá), bằng -224. Điển hình, độ co giãn giảm theo chiều đi xuống của đường cầu, do đó ở mức giá cao hơn cầu co giãn hơn. Lý thuyết kinh tế đặt đường phân cách giữa cầu co giãn và cầu không co giãn (24)Các nhà kinh tế thường thể hiện con số này mà không dùng dấu âm (bởi vì nó luôn luôn âm). Số âm càng lớn thì độ co giãn càng lớn, ví dụ, độ co giãn là - 5 sẽ lớn hơn độ co giãn là -1. 37
  39. ở mức -1. Cầu là co giãn ở mức thấp hơn hay nói cách khác là âm hơn mức -1. Cầu không co giãn trong khoảng -1 và 0. Nhưng có một điều, trên thị trường khi mà cầu không co giãn, sự thiếu hụt hàng hoá sẽ dẫn đến mức giá cao hơn. Một vụ mùa thất bát có thể lại tốt hơn cho người sản xuất lương thực so với một vụ mùa bội thu. Cụ thể là vì sương muối mà sản lượng cà phê của Brazil vào năm 1995 bị giảm sút nhưng vì cung giảm nên cà phê lại được giá25. Vị trí của một doanh nghiệp đơn lẻ trên thị trường sẽ khác với vị trí của tất cả các nhà sản xuất trên thị trường như một thể thống nhất. Như trên đã nói, nhu cầu xăng là không co giãn nhưng giá cho bất kỳ nhãn hàng nào cũng co giãn. Nếu Petrolimex có tăng giá xăng nhưng Petro Vietnam không làm như vậy, các lái xe sẽ tìm đến cây xăng của Petro Vietnam và mua xăng ở đây. Tuy nhiên, nếu tất cả người bán xăng cùng nhau thống nhất tăng giá xăng, lượng xăng được yêu cầu có lẽ sẽ không thay đổi nhiều. - Độ co giãn chéo của cầu Độ co giãn của cầu đo mối quan hệ giữa giá của sản phẩm và cầu đối với sản phẩm đấy còn độ co giãn giá chéo của cầu lại đo nhu cầu đối với một sản phẩm (A) tăng bao nhiêu khi giá của một sản phẩm khác (B) tăng lên. Nó được đo bằng sự thay đổi phần trăm về số lượng được yêu cầu đối với sản phẩm A chia cho sự tăng lên về phần trăm trong giá của B. Độ co giãn chéo của cầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định thị trường sản phẩm liên quan. Độ co giãn giá chéo là dương nếu tăng giá ở sản phẩm B dẫn đến sự tăng về cầu đối với sản phẩm A và điều này cho thấy rằng A và B là các sản phẩm thay thế được cho nhau. Sự thiếu hụt cà phê ở Việt Nam, dù rằng dẫn tới việc tăng giá cà phê, không khiến cho người tiêu dùng ngừng mua cà phê và không làm cho người tiêu dùng chuyển sang mua chè. Điều này chỉ ra rằng người tiêu dùng không coi chè là một sản phẩm thay thế cho cà phê và rằng nhu cầu cà phê là không co giãn. Một điểm quan trọng cần lưu ý là việc khi xem xét hai sản phẩm có thể có sự co giãn giá chéo theo một hướng này và không theo hướng khác. Mặc dù người uống cà phê có thể không mua chè khi giá cà phê tăng, điều này không có nghĩa là người uống chè không muốn mua cà phê nếu có sự tăng giá tương tự đối với chè. Nếu các sản phẩm là bổ sung cho nhau chứ không phải là thay thế nhau thì chỉ số co giãn giá chéo có thể âm chứ không phải luôn dương. Nếu giá xăng tăng, cầu đối với ô tô động cơ lớn dùng nhiều gas có thể giảm xuống. - Tối đa hoá lợi nhuận Kinh tế học phúc lợi giả định rằng các công ty sẽ hành xử một cách hợp lý và theo cách nào đó để có thể tối đa hoá lợi nhuận26 còn trên thực tế các công ty có luôn luôn hành xử như vậy không thì phải xem xét thêm.27 Cụ thể là, với một công ty có vị trí độc quyền, ban giám đốc có thể thích một “cuộc sống yên ổn” để tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng với các hoàn cảnh khác thì chưa chắc đã thế. Chỉ có điều chắc chắn là một (25)D. Begg, S. Fischer, and R. Dornbusch, Economics (7th edn., McGraw-Hill, 2003), tr 46. (26)Lợi nhuận chính là sự chênh lệch giữa tổng chi phí sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ và doanh thu thu được từ việc bán hàng hoá dịch vụ. 38
  40. công ty sẽ không để bị thua lỗ trong dài hạn vì nếu thế nó chắc chắn sẽ bị phá sản. Còn nếu một công ty không đem lại lãi cho các cổ đông của nó sẽ hấp dẫn đối với một kẻ chuyên mua lại và sẽ dễ dàng trở thành nạn nhân trong một phi vụ mua lại công ty. - Tính kinh tế nhờ quy mô Tính kinh tế nhờ quy mô xảy ra khi chi phí sản xuất bình quân một hàng hoá giảm xuống nếu hàng hoá đó được sản xuất với số lượng lớn. Nếu một nhà máy chỉ sản xuất một sản phẩm khi đó sản phẩm đó phải gánh chịu toàn bộ chi phí xây dựng và vận hành nhà máy. Tuy nhiên, nếu nhà máy đó sản xuất 10.000 sản phẩm thì chi phí sẽ được chia đều cho 10.000 chứ không phải chia cho 1. Tất nhiên là, một số chi phí (chi phí khả biến) có thể tăng lên cùng với sản xuất (ví dụ như năng lượng, lao động dù rằng chúng có thể không tăng tỷ lệ với số đơn vị sản phẩm tăng thêm). Tuy nhiên, có một số chi phí có thể không tăng, ví dụ như đối với việc giao hàng, người lái xe tải sẽ được trả tiền như cũ và xăng sẽ tốn như cũ không cần biết là xe tải đó chở đầy hàng hay chỉ chở một nửa trọng tải. Tính kinh tế nhờ quy mô có kết quả trong trường hợp đạt được hiệu quả trong sản xuất vì sản lượng tăng lên28. Tuy nhiên, chắc chắn sẽ đến một điểm khi mà chi phí bình quân ngừng giảm và không còn thu được tính kinh tế nhờ quy mô nữa. Điểm đó được gọi là quy mô hiệu quả tối thiểu (MES). MES có ý nghĩa đặc biệt lớn với luật cạnh tranh vì nó có tác dụng rất lớn trong việc xác định cấu trúc thị trường. Trường hợp MES là rất lớn trong tương quan với thị trường, như việc một nhà sản xuất phải cung cấp một số lượng lớn sản phẩm trên thị trường trước khi đạt được MES, khi đó chỉ một số công ty, có lẽ chỉ một công ty có thể hoạt động hiệu quả trên thị trường. Tuy nhiên, trên một thị trường cạnh tranh, MES chỉ ở mức thấp so với tổng cầu thì sẽ có nhiều công ty có thể hoạt động trên thị trường đó. c. Hiệu quả động lực Toàn bộ phân tích ở trên về hiệu quả và không hiệu quả trong sản xuất và phân bổ là không toàn diện. Người ta đã khẳng định rằng ở điểm cân bằng tĩnh nơi mà công nghệ là cố định và các chi phí có liên quan đến một mức độ nhất định. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều thị trường là động, phát triển liên tục với việc ra đời sản phẩm và công nghệ mới. Một đánh giá chính xác hơn về phúc lợi của người tiêu dùng sẽ có được nếu tác động của những đổi mới đó được tính đến. Điều này liên quan đến việc chấp nhận (27)Có một lập luận về chủ đề này. Một công trình có ảnh hưởng mạnh là The Modern Corporation and Private Property của A.A. Berle và G.C.Means (revised edn. 1968, Harcourt Brace and World, 1932). Tranh luận về chủ đề này là cuốn Corporate Power and Responsibility của J.E. Parkinson (OUP, 1993). Sự nghi ngờ này phát sinh một phần vì sự chia tách sở hữu từ việc kiểm soát ở tất cả các dạng công ty trừ công ty nhỏ nhất. Trong các lớp tổ chức phức tạp tạo thành công việc kinh doanh hiện đại, các quyết định có thể được đưa ra bởi các giám đốc và người điều hành đang đối diện với những sự kiện tương lai bất định và một số lượng lớn các biến số. Kỳ vọng của họ có thể bị đặt nhầm chỗ, họ có thể không thích nắm lấy rủi ro, và họ có thể lo lắng nhất về sự tồn tại của công ty hay của cá nhân họ hay sự tăng trưởng của công ty hơn là lợi nhuận. Quá trình quản lý công ty có thể theo đuổi chính sách thoả dụng. Đây là lý thuyết về hành vi của công ty mà trái với lý thuyết về tối đa hoá lợi nhuận. Thoả dụng là khi quá trình quản lý thông qua những mục tiêu nhất định về lợi nhuận, về bán hàng, vv và cố gắng đáp ứng, nhưng không nhất thiết phải vượt quá chúng. Ban đầu, những mục tiêu có thể không được đặt ra ở mức cao, do đó quá trình quản lý sẽ không coi là thất bại nếu nó không đạt được những mục tiêu này, và sẽ là không sẵn sàng ở vào vị trí cần thiết trong trường hợp các cổ đông yêu cầu mục tiêu cao hơn trong tương lai. Xem thêm H. A. Simon, ‘Theories of Decision-making in Economic and Behavioral Sciences’ (1959) 49 American Economic Review 253 và Parkinson, tr 66-7. (28)Tính kinh tế nhờ phạm vi là các nhân tố (như dây chuyền lắp ráp dùng chung hay cán bộ kiêm nhiệm) có thể giúp các công ty tiết kiệm chi phí bằng việc sản xuất nhiều loại hàng hoá hơn là chỉ sản xuất những sản phẩm cá biệt của riêng họ. 39