Giáo trình Luật môi trường
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật môi trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
giao_trinh_luat_moi_truong.docx
Nội dung text: Giáo trình Luật môi trường
- LUẬT MÔI TRƯỜNG Hoàng Nhất – K55B4LKT- Khoa luật- ĐH Vinh Vinh, Ngày 06/03/2016
- - Hoàng Văn Nhất Mục lục: Chương I. Thực trạng pháp luật LỜI NÓI ĐẦU Môi trường và những yếu tố trong nó luôn là một vấn đề nóng bỏng, thu hút được nhiều sự quan tâm của đa số các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là trong thời kỳ phát triển hiện nay, khi xu hướng toàn cầu hóa, công nghiệp hóa đang trên đà phát triển. Việt Nam ta cũng không nằm ngoài xu thế đó. Là một nước đang phát triển, từng bước chuyển mình sang nền kinh tế công nghiệp lớn, kèm theo đó là đời sống dân cư ngày càng phát triển, đô thị hóa cao và điều này đã đặt Việt Nam ta đứng trước nguy cơ môi trường bị tàn phá nặng nề. Môi trường bị suy thoái kéo theo các yếu tố trong nó cũng đang dần giảm sút nghiêm trọng về số lượng và chất lượng. Trong đó có một thành phần không nhỏ của môi trường là đa dạng sinh học cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Con người đã sống hàng nghìn năm trong sự đa dạng sinh học, phụ thuộc và sự đa dạng sinh học. Tuy nhiên không phải ở giai đoạn lịch sử nào con người cũng nhận thức được tầm quan trọng sống còn của đa dạng sinh học. Có lẽ chính vì thế, khái niệm đa dạng sinh học còn hết sức mới mẻ so với lịch sử tri thức nhân loại. Đa dạng sinh học với tư cách là một vấn đề được nhiều quốc gia quy định, nhất là sau khi xuất hiện Công ước quốc tế về đa dạng sinh học năm 1992 và được 150 quốc gia ký tham gia. Từ đó nó đã trở thành một vấn đề pháp lý quốc gia, quốc tế 1
- và được hầu hết các nước trên thế giới quan tâm. Việt Nam ta cũng vậy, tuy vấn đề môi trường nói chung và đa dạng sinh học nói riêng vẫn còn mới mẻ đối với nước ta song Đảng và Nhà nước ta cũng đã có những sự quan tâm nhất định. Đảng và Nhà nước đã đặt ra những phương pháp bảo tồn đa dạng sinh học mang lại hiệu quả cao như tuyên truyền thuyết phục, phương pháp kinh tế đặc biệt việc áp dụng điều chỉnh bằng pháp luật là một phương pháp được cho là đem lại hiệu quả khá cao, điều chỉnh bằng pháp luật để bảo tồn đa dạng sinh học thể hiện ở việc ra các điều luật, nghị quyết, nghị định quy định về vấn đề này. Tuy nhiên so với các quốc gia khác trên thế giới cũng như so với yêu cầu thực trạng của đa dạng sinh học thì sự quan tâm, chú ý cải tạo, bảo tồn đa dạng sinh học của Đảng, Nhà nước cũng như toàn xã hội vẫn còn nhiều thiếu sót. Vấn đề đa dạng sinh học ở nước ta vẫn còn đang rất nóng bỏng thể hiện ở sự suy thoái trên mọi lĩnh vực, mọi vùng dân cư Để có cái nhìn và cách hiểi chính xác, từ đó rút ra những đánh giá về thực trạng cũng như sự hợp lý, những tồn tại của các quy định pháp luật về đa dạng sinh học, chúng ta cần đi sâu nghiên cứu kỹ hơn về vấn đề này. Đây cũng chính là lý do để chúng em lựa chọn đề tài tìm hiểu này: Chương I: Khái niệm, ý nghĩa của bảo vệ đa dạng sinh học 1.1 Các khái niệm 1.1.1. Đa dạng sinh học Đa dạng sinh học là khái niệm được hiểu khác nhau nếu tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Nhưng dù tiếp cận ở góc độ nào thì các định nghĩa về đa dạng sinh học đều thừa nhận mối liên hệ giữa các giống loài, sự phụ thuộc vào nhau giữa chúng trong quá trình tiến hóa và phát triển. Đa dạng sinh học cấu thành nền tảng của cuộc sống trên trái đất, cuộc sống của cả con người lẫn các thực thể sống. Công ước quốc tế về đa dạng sinh học đã đưa ra định nghĩa sau về đa dạng sinh học: “Đa dạng sinh học có nghĩa là tính đa dạng biến thiên giữa các sinh vật sống của tất cả các nguồn bao gồm các sinh thái tiếp giáp, trên cạn, biển, các hệ sinh thái thủy vực khác và tập hợp sinh thái mà chúng là một phần. Tính đa dạng này thể hiện ở trong mỗi loài, giữa các loài và hệ sinh thái.” - Thành phần của đa dạng sinh học gồm: + Đa dạng về gen: là toàn bộ các gen chứa trong tất cả cá thể thực vật, động vật, nấm, vi sinh vật. Các nhiễm sắc thể, các gen và các ADN chính là những dạng vật chất di truyền tạo ra những tính chất đặc trưng của từng cá thể trong mỗi loài và từ đó tạo ra sự đa dạng của nguồn gen. + Đa dạng loài: là toàn bộ những sự khác nhau trong một nhóm và giữa các nhóm loài cũng như giữa các loài trong tự nhiên. Sự đa dạng này bao gồm số lượng vô cùng lớn các loài thực vật, động vật và vi sinh vật. Sự đa dạng loài thể hiện trong số lượng khổng lồ các loài thực vật, động vật tồn tại trên trái đất. Theo ước 2
- tính của các nhà khoa học thì có khoảng 10 triệu loài khác nhau đang tồn tại. Tuy nhiên chỉ có một phần trong số đó hiện đã xác định được. Tuy những số liệu khoa học về số giống loài trên trái đất có khác nhau trong các nghiên cứu về sinh học song sự đa dạng về giống loài là thực tế không thể phủ nhận. + Đa dạng hệ sinh thái: là sự phong phú về trạng thái và loại hình của các hệ sinh thái khác nhau. Hệ sinh thái là một hệ thống các quần thể sinh vật sống và phát triển trong một môi trường nhất định, quan hệ tương tác với nhau và với môi trường đó. Trong mỗi hệ sinh thái, những sinh vật bao gồm cả con người tạo thành một tổng thể và tương tác với nhau, với không khí, nước, đất bao quanh chúng. Như vậy sự đa dạng hệ sinh thái là khái niệm chỉ toàn bộ các quần thể thực vật, động vật và các quá trình sinh học khác nhau. Sự đa dạng hệ sinh thía không đơn thuần là sự tổng cộng các hệ sinh thái, các loài và các vật chất di truyền khác nhau. Nó có mối quan hệ tương tác, những phụ thuộc lẫn nhau và cùng nhau tạo nên sự sống. 1.1.2. Bảo vệ (bảo tồn) đa dạng sinh học Bảo tồn đa dạng sinh học là quá trình quản lý mối tác động qua lại giữa con người với các gen, các loài và các hệ sinh thái nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho thế hệ hiện tại và vẫn duy trì tiềm năng của chúng để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các thế hệ tương lai. Để có thể tiến hành các hoạt động quản lý nhằm bảo tồn đa dạng sinh học, điều cần thiết là phải tìm hiểu những tác động tiêu cực, các nguy cơ mà loài hiện đang đối mặt và từ đó xây dựng các phương pháp quản lý phù hợp nhằm giảm đi các tác động tiêu cực của các nguy cơ đó và đảm bảo sự phát triển của loài và hệ sinh thái đó trong tương lai. Hiện nay có các phương thức bảo tồn chủ yếu là bảo tồn tại chỗ (In-situ) và bảo tồn chuyển vị (Ex-situ).Trong khi phương thức bảo tồn tại chỗ là nhằm bảo tồn các hệ sinh thái và các sinh cảnh tự nhiên để duy trì và khôi phục quần thể các loài trong môi trường tự nhiên của chúng, phương thức bảo tồn chuyển vị bao gồm các hoạt động nhằm bảo tồn các loài mục tiêu bên ngoài nơi phân bố hay môi trường tự nhiên của chúng. Hai phương thức bảo tồn này có tính chất bổ sung cho nhau. Những cá thể từ các quần thể dược bảo tồn Ex-situ có thể được đưa vào thiên nhiên nơi có phân bố tự nhiên của chúng để tăng cường cho các quần thể đang được bảo tồn In-situ và việc nghiên cứu các quần thể được bảo tồn Ex-situ có thể cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về các đặc tính sinh học của loài và từ đó hỗ trợ cho việc hình thành các chiến lược bảo tồn hiệu quả hơn cho các quần thể được bảo tồn In-situ. 3
- Tuy nhiên, dưới áp lực ngày càng tăng của sự thay đổi khá nhanh các điều kiện môi trường, đặc biệt do sự nóng lên toàn cầu, mục tiêu của một chiến lược bảo tồn nguồn gen thực vật là không chỉ bảo tồn các khác biệt di truyền hiện có mà còn tạo ra các điều kiện phù hợp cho việc tăng sự thích nghi và sự tiến hóa tương lai của loài. Vì vậy, các nhà khoa học bảo tồn đã đề xuất khái niệm bảo tồn nguồn gen động cho thực vật. Điều cốt lỏi của khái niệm này là khuyến khích tính thích nghi của loài bằng cách đặt các quần thể bảo tồn trong quá trình chọn lọc tự nhiên và rồi trong quá trình tiến hóa theo các hướng khác biệt để đa dạng hóa nguồn gien của loài, chuẩn bị cho việc thích nghi rộng hơn của loài đối với các điều kiện môi trường khác nhau. Theo cách thức bảo tồn này, nguồn gen của các loài thực vật sẽ được bảo tồn trong một quá trình động thay vì chỉ được duy trì như đúng tình trạng di truyền mà chúng vốn có. 1.2. Khái niệm theo quy định của Pháp luật Theo Công ước về Đa dạng sinh học (ĐDSH) được đưa ra năm 1992 tại hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và sự phát triển, ĐDSH được định nghĩa là toàn bộ sự phong phú của các thế giới sống và các tổ hợp sinh thái mà chúng là thành viên, bao gồm sự đa dạng bên trong và giữa các loài và sự đa dạng của các hệ sinh thái. Mức độ ĐDSH của một quần xã sinh vật thể hiện ở 3 dạng: đa dạng về loài – là tính đa dạng các loài trong một vùng; đa dạng di truyền – là sự đa dạng về gen trong một loài; đa dạng hệ sinh thái – là sự đa dạng về môi trường sống của các sinh vật trong việc thích nghi với điều kiện tự nhiên của chúng. Tính đa dạng là một phạm trù bao trùm toàn bộ các thành phần tạo ra của hệ sinh thái đảm bảo sự duy trì một hệ sinh thái đa dạng và phong phú. Theo Luật ĐDSH năm 2008 của Việt Nam, ĐDSH được định nghĩa như sau: “ĐDSH là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên” (khoản 5 Điều 3). Có thể nhận thấy rằng khái niệm ĐDSH theo pháp luật của Việt Nam cụ thể, rõ ràng và chính xác hơn so với khái niệm trong Công ước ĐDSH nêu trên. Điều này thể hiện ở một số điểm như: (i) Luật ĐDSH xác định rõ sự phong phú về “gen” còn Công ước ĐDSH lại nêu chung chung là “sự đa dạng bên trong”; (ii) Luật ĐDSH xác định rõ đa dạng về “loài sinh vật” chứ không chỉ là “các loài” như trong Công ước ĐDSH; (iii) Luật ĐDSH xác định rõ sự đa dạng về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong “tự nhiên” còn Công ước ĐDSH chưa nêu rõ ý này. Bên cạnh đó, Luật ĐDSH còn định nghĩa “Bảo tồn đa dạng sinh học” là việc bảo vệ sự phong phú của các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, đặc thù hoặc đại diện; bảo vệ môi trường sống tự nhiên thường xuyên hoặc theo mùa của loài hoang dã, cảnh quan môi trường, nét đẹp độc đáo của tự nhiên; nuôi, trồng, chăm sóc loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; lưu giữ và bảo quản lâu dài các mẫu vật di truyền (khoản 1 Điều 3). 4
- 1.3. Khái quát thực trạng Đa dạng sinh học của Việt Nam hiện nay Việt Nam được biết đến như là một trung tâm ĐDSH của thế giới với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú và đa dạng. Nằm ở vùng Đông Nam châu Á với diện tích khoảng 330.541 km2, Việt Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002 - Chiến lược quốc gia quản lý hệ thống khu bảo tồn của Việt Nam 2002 - 2010). Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu của Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động, thực vật thuộc vùng Ấn Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Inđo - Malaysia. Các đặc điểm trên đã tạo cho nơi đây trở thành một trong những khu vực có tính ĐDSH cao của thế giới, với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của thế giới (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002 - Báo cáo quốc gia về các khu bảo tồn và Phát triển kinh tế). ĐDSH có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự nhiên và cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người và sự bền vững của thiên nhiên trên trái đất. Theo ước tính giá trị của tài nguyên ĐDSH toàn cầu cung cấp cho con người là 33.000 tỷ đô la mỗi năm (Constan Za et al-1997). Đối với Việt Nam nguồn tài nguyên ĐDSH trong các ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thủy sản hàng năm cung cấp cho đất nước khoảng 2 tỷ đô la (Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam - 1995)[2]. Các hệ sinh thái rừng, đất ngập nước, biển, núi đá vôi, với những nét đặc trưng của vùng bán đảo nhiệt đới, là nơi sinh sống và phát triển của nhiều loài hoang dã đặc hữu, có giá trị, trong đó có những loài không tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Việt Nam cũng là nơi được biết đến với nhiều nguồn gen hoang dã có giá trị, đặc biệt là các cây thuốc, các loài hoa, cây cảnh nhiệt đới, Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã (WWF) đã công nhận Việt Nam có 3 trong hơn 200 vùng sinh thái toàn cầu; Tổ chức bảo tồn chim quốc tế (Birdlife) công nhận là một trong 5 vùng chim đặc hữu; Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) công nhận có 6 trung tâm đa dạng về thực vật[3]. Việt Nam ta có điều kiện địa lý khá thuận lợi, nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có hệ thống sông ngòi, kênh rạch lớn, vùng biển thuận lợi, nhiều thủy hải sản Những yếu tố vô cùng thuận lợi này đã tạo nên một sự đa dạng sinh học hết sức đồ sộ kể cả về nguồn gen, giống loài và hệ sinh thái. Việt Nam ta đã được đánh giá là một trong 16 quốc gia có đa dạng sinh học cao nhất thế giới, một quốc gia có “rừng vàng biển bạc”. Nguồn tài nguyên đa dạng sinh học ở nước ta thể hiện sự phong phú cụ thể là: 5
- + Hệ sinh thái đa dạng cả trên đất liền, trên biển và một số hệ sinh thái tiêu biểu là: hệ sinh thái rừng, hệ sinh thái ngập mặn, hệ sinh thái rặng san hô, hệ sinh thái đầm phá vũng vịnh. + Giống loài của Việt Nam cũng rất đa dạng: kết quả điều tra cho thấy nước ta có 12 973 loài thực vật, 276 loài và phân loài thú, 828 loài chim, 258 loài bò sát, 186 loài giun, 82 loài ếch nhái, 544 loài cá nước ngọt, 2038 loài cá biển. Trong đó có nhiều loài động thực vật quý hiếm, đem lại giá trị kinh tế cao. Nguồn tài nguyên dồi dào này là nguồn cung cấp lương thực thực phẩm, nguồn nguyên liệu dồi dào cho cộng đồng dân cư đông đúc như Việt Nam. Nhưng trước sự tàn phá nặng nề của con người và những ngoại cảnh tự nhiên khác, nguồn đa dạng sinh học này đang ngày một cạn kiệt, giảm sút. Tuy nhiên, hiện nay ĐDSH ở nước ta đang bị suy thoái nhanh. Sự suy thoái nguồn đa dạng sinh học ở Việt Nam diễn ra trên mọi phương diện, mọi nguồn động thực vật, cụ thể là: - Suy thoái rừng: Rừng là nơi có độ đa dạng sinh học phong phú nhât, đó là nơi cư trú, phát triển của nhiều loài động vật, thực vật và vi sinh vật. Tốc độ giảm sút diện tích rừng ở nước ta khá cao. Năm 1943 diện tích rừng nước ta chiếm 50% diện tích cả nước, đến nay chỉ còn 33,2%. Sự giảm sút của rừng kéo theo sự mất đi của nhiều hệ sinh thái. Các loài động thực vật quý hiếm cũng đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Nguy cơ mất đi 28% loài thú, 10% loài chim, 21% loài bò sát và lưỡng cư tồn tại ở nước ta là hiện hữu. Cùng với chúng, nguồn gen vô cùng quý giá và không thể tái tạo được cũng sẽ biến mất vĩnh viễn. - Suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước: việc phá các vùng rừng đước nguyên sinh để nuôi tôm, cộng với việc thiếu bảo vệ cần thiết dẫn đến việc cháy các khu rừng ngập mặn khiến cho hệ sinh thái đất ngập nước bị thu hẹp dần và có nguy cơ tuyệt chủng. - Suy thoái hệ sinh thái biển: việc khai thác quá mức các vùng biển gần bờ với những phương thức đánh bắt lạc hậu (mìn, chất độc ) cùng với việc quy hoạch sử dụng đất ven biển chưa tốt đang làm hủy diệt hàng loạt đa dạng sinh học biển. Các hệ sinh thái rặng san hô cũng đứng trước nguy cơ bị tàn phá bởi con người. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, tốc độ suy giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam đang ở mức đáng báo động, sự suy thoái nghiêm trọng này đặt các giống loài trước nguy cơ bị tuyệt chủng, gây tác đỗngấu đến môi trường và các hệ sinh thái, các nguồn gen quý Diện tích các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh. Nhiều loài hoang dã có giá trị bị suy giảm hoàn toàn về số lượng hoặc bị đe dọa tuyệt chủng ở mức cao. Các nguồn gen hoang dã cũng đang trên đà suy thoái nhanh và thất thoát nhiều. Suy thoái ĐDSH dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến 6
- môi trường sống của con người, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước. Nhiều hệ sinh thái và môi trường sống bị thu hẹp diện tích và nhiều Taxon loài và dưới loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng trong một tương lai gần[4]. Những giá trị của ĐDSH lại chưa được nhận thức một cách đầy đủ. Sự khai thác quá mức các giống loài, nguồn gen động thực vật để phục vụ cho các nhu cầu trước mắt của con người, đặc biệt là trong một số năm gần đây đã đẩy nhanh tốc độ suy thoái ĐDSH ở Việt Nam. Những mối đe doạ chính đối với sự ĐDSH của Việt Nam là tình trạng khai thác rừng quá mức, tập quán du canh du cư, tình trạng lấn chiếm đất trồng trọt, ô nhiễm nguồn nước, sự xuống cấp của môi trường ven biển và những đòi hỏi đặt ra với nông dân trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Những sức ép khác là tình trạng dân số tăng nhanh và các hoạt động phát triển nông nghiệp ở mức độ cao. Nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đang được đề xuất - như đập nước hay đường quốc lộ - và những dự án này cũng gây nguy hại tới ĐDSH, nếu không được quy hoạch và quản lý tốt. Thách thức lớn nhất của Việt Nam là phải nhìn nhận sự ĐDSH quý báu của mình như là một tài sản quý và làm thế nào để cân đối nhu cầu phát triển với nhu cầu bảo tồn[5]. Bên cạnh đó, việc sử dụng phân bón, các loại thuốc bảo vệ mùa màng, thuốc kích thích tăng trưởng một cách bừa bãi trong phát triển nông nghiệp ở nước ta cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm đi số lượng các loài sinh vật có ích, giảm tính ĐDSH, làm mất vệ sinh an toàn thực phẩm, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người, làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí. Một số hiện trạng và diễn biến suy thoái ĐDSH ở nước ta có thể được mô tả như sau: - Hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên nước ta hiện đang phải chịu sức ép nặng nề từ các hoạt động phát triển kinh tế. Hệ sinh thái rừng tự nhiên có nhiều biến động lớn trong hơn nửa thế kỷ qua. Độ che phủ rừng tăng nhưng phần lớn diện tích tăng là rừng trồng, nếu tính về giá trị ĐDSH thì cao. Hầu hết các vùng tự nhiên còn lại đều đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Diện tích rừng nguyên sinh chưa bị tác động chỉ còn tồn tại trong các vùng rừng nhỏ, rời rạc tại các khu vực núi cao của miền Bắc và Tây Nguyên. Đây là mối đe doạ lớn đối với các cấu thành ĐDSH của rừng bao gồm cả các loài thực vật và động vật phụ thuộc vào rừng. - Xu hướng quần thể của rất nhiều loài thực vật đang suy giảm, càng ngày càng có nhiều loài hơn phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Hoạt động buôn bán động thực vật hoang dã chưa giảm bớt cũng là một trong những nguyên nhân tác động xấu tới số lượng các loài trong tự nhiên. - Hệ sinh thái nông nghiệp và giống cây trồng, vật nuôi bị ảnh hưởng. Các giống cây trồng mới có năng suất cao ngày càng được đưa nhiều vào sản xuất và chiếm diện tích ngày càng lớn. Do đó các giống địa phương ngày càng bị thu hẹp 7
- diện tích, vì vậy nhiều nguồn gen quý của địa phương, đặc biệt là các nguồn gen chống chịu sâu bệnh bị mai một. - Từ năm 1990 đến nay, diện tích rừng liên tục tăng, trong đó rừng trồng tăng rất nhanh, chỉ sau chưa đầy 15 năm rừng trồng đã tăng lên 4 lần. Diện tích rừng tự nhiên tang lên trên 1 triệu ha, nhưng chủ yếu là rừng phục hồi. Đến năm 2004, tỷ lệ che phủ của rừng đạt 36,7%. Tuy nhiên, chất lượng của rừng vẫn chưa được cải thiện. Phần lớn rừng tự nhiên hiện nay thuộc nhóm rừng nghèo, trong khi đó rừng nguyên sinh chỉ còn 0,75 triệu ha phân bố rải rác. Những khu rừng tự nhiên ít bị tác động, còn tương đối nguyên sinh và có giá trị cao về đa dạng sinh học tập trung chủ yếu ở các khu rừng đặc dụng. Riêng rừng trồng có diện tích trên 2 triệu hecta, chiếm tỷ lệ 18% diện tích có rừng. Rừng trồng công nghiệp hiện nay mang tính thuần loại về cây trồng cao, do vậy tính ĐDSH thấp. - Trong những năm gần đây, việc khai thác và sử dụng đất ngập nước diễn ra một cách ồ ạt thiếu quy hoạch, nhiều diện tích rừng ngập mặn và các vùng đất ngập nước khác bị chuyển thành đất canh tác nông nghiệp hoặc nuôi trồng thuỷ sản, làm cho diện tích đất ngập nước bị thu hẹp, tài nguyên suy giảm, kéo theo đó là các tai biến xói lở, bồi tụ và môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Diện tích đầm nuôi tôm tăng dần theo thời gian thì diện tích rừng ngập mặn cũng giảm dần tương ứng. Trước đây, rừng ngập mặn trải dài suốt dọc bờ biển, nhưng hiện nay diện tích này đã giảm đi rất nhiều, gây suy thoái hệ sinh thái rừng ngập mặn làm thiệt hại không nhỏ cho vùng đất ngập nước ven biển và cho các ngành kinh tế quan trọng trong khu vực. - ĐDSH biển bị khai thác quá mức. Nguồn lợi hải sản suy giảm nhanh: trữ lượng hải sản của Việt Nam năm 2003 là 3.072.800 tấn, giảm 25% so với năm 1990 (4,1 triệu tấn). Nhiều loài tôm, cá kinh tế đã bị giảm sút cả về số lượng lẫn chất lượng, thay vào đó thành phần cá tạp trong sản lượng tăng lên. Danh sách các loài thuỷ hải sản bị đe doạ, có nguy cơ tuyệt chủng tăng từ 15 loài, năm 1989, lên 135 loài vào năm 1996. Các rạn san hô đang suy giảm về độ phủ. Hầu hết các rạn san hô đang bị đe doạ, trong đó có 50% ở mức bị đe doạ cao và 17% ở mức bị đe doạ rất cao. Khai thác quá mức đang bị đánh giá là mối đe doạ lớn cho khoảng một nửa số rạn san hô. Có nhiều nơi độ phủ giảm đến trên 30%. Điều này cho thấy rằng rạn san hô đang bị phá huỷ và có chiều hướng suy thoái. - Hiện nay, nguồn gen (cây trồng, vật nuôi và cây thuốc) đang được các cơ quan, tổ chức trong nước, quốc tế nghiên cứu, thu thập, khai thác và phát triển thành thương phẩm có giá trị kinh tế. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp, chưa có sự chia sẻ lợi ích giữa người sở hữu và người khai thác, sử dụng nguồn gen, 8
- cũng như chia sẻ một phần lợi nhuận thu được để góp phần duy trì và phát triển tài nguyên. Tri thức bản địa ở nước ta rất phong phú. Tri thức bản địa đã được thừa nhận như một nguồn tài nguyên quan trọng không kém các nguồn tài nguyên hữu hình khác. Tuy nhiên, tri thức bản địa cũng đang bị mất mát nhiều theo thời gian do chưa ý thức được tầm quan trọng của nguồn tài nguyên này. Ngoài ra, cũng như nguồn gen, việc chia sẻ lợi ích giữa người sở hữu và người khai thác, sử dụng tri thức bản địa không lúc nào cũng được thực hiện một cách công bằng. Để bảo tồn tri thức bản địa cần có sự phối hợp giữa người dân, nhà nước và các nhà khoa học. Việc xây dựng các chính sách khai thác, phát triển và chia sẻ lợi ích nguồn gen và tri thức bản địa chưa được quan tâm đúng mức. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái nguồn đa dạng sinh học ở Việt Nam, trong đó chủ yếu là những nguyên nhân xuất phát từ con người, từ sự kém hiểu biết và thiếu ý thức của con người. Những nguyên nhân này cũng không nằm ngoài những nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học trên thế giới. Cơ bản có thể kể đến như sau: - Chuyển đổi mục đích sử dụng đất thiếu quy hoạch. - Khai thác và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học. - Các loài sinh vật ngoại lai xâm lại. - Ô nhiễm môi trường. - Cháy rừng. - Thiên tai. - Quản lý còn nhiều bất cập. Sự suy giảm đa dạng sinh học trước hết là do hậu quả của chiến tranh để lại. Trong chiến tranh, trung bình một người Việt Nam phải chịu 356kg bom đạn, ngoài ra còn có ảnh hưởng của chất độc hóa học, đặc biệt là từ “chất diệt cỏ” Điôxin. Những chất độc này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn gen, giống loài và hệ sinh thái cũng như con người Việt Nam. Một nguyên nhân nữa dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học là do ô nhiễm môi trường, trong một thời gian dài nước ta không chú ý đến môi trường và các yếu tố của môi trường, dẫn đến tình trạng ô nhiễm kéo dài, gây ảnh hưởng đến điều kiện sống của các giống loài. Việc khai thác môi trường quá mức của con người cũng góp phần không nhỏ vào việc làm suy thoái đa dạng sinh học. Sự khai thác quá mức ở đây được hiểu là sự khai thác quá mức so với khả năng tái tạo của các nguồn đa dạng sinh học, điều này làm suy giảm cả về chất lượng và số lượng của đa dạng sinh học. Xuất phát từ tập quán du canh du cư có từ rất lâu đời của người Việt Nam nên môi trường cũng như đa dạng sinh học bị suy giảm. Khi người dân thay đổi chỗ là khi họ đã khai thác kiệt quệ đa dạng sinh học ở chỗ ở cũ và tiếp tục phá vỡ hệ thống đa dạng sinh học tại chỗ ở mới, dẫn đến sự tàn phá nghiêm trọng đối với nguồn đa dạng sinh học ở những nơi này. 9
- Sự suy giảm nghiêm trọng nguồn đa dạng môi trường còn xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và những tác động của thương mại quốc tế. Cụ thể: + Khi loài người tiến hành phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật Họ sẽ tiến hành thay thế các giống loài cũ bằng các giống loài mới cho năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, từ đó làm mai một các nguồn gen bản địa. + Sự xâm nhập của các loài lạ vào nước ta gây tác động đến các loài sinh vật bản địa. Các loài lạ này là các loài không có nguồn gốc bản địa, được du nhập từ nơi khác về theo nhiều con đường khác nhau (theo gió, dòng chảy, phương tiện giao thông ). Khi xâm nhập vào nước ta, nó có thể thích nghi hoặc không thích nghi, từ đó gây ra một số vấn đề xấu như: cạnh tranh với loài bản địa về thức ăn, nơi sống; ăn thịt các loài bản địa; phá hủy hoặc làm thoái hóa môi trường sống bản địa; truyền bệnh cho các loài bản địa. Điều này được chứng minh rõ qua một vài hiện tượng đã xảy trước đây như nạn ốc bươu vàng ở miền Trung nước ta, nạn cá vược ở sông Nin du nhập vào hồ Victoria ở châu Phi + Nhu cầu phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật thể hiện ở hoạt động biến đổi gen cũng gây suy giảm đa dạng sinh học. Một số loài được biến đổi gen có đặc tính kháng kháng sinh, rồi lây sang cả những loài chưa biến đổi gen, điều này khiến cho chúng ta gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát dịch bệnh lây lan. + Nhu cầu này còn khiến cho đa dạng sinh học phải chịu ảnh hưởng của cơ chế kết thúc nảy mầm. Cơ chế này làm cho hạt giống chỉ nảy mầm ở thế hệ thứ nhất còn sang thế hệ sau, nó không nảy mầm được nữa. Vì vậy, cơ chế này gây ảnh hưởng xấu đến giống của cây trồng. - Ngoài ra, nhận thức của cộng đồng về môi trường cũng như về đa dạng sinh học còn thấp nên việc quan tâm, bảo tồn đa dạng sinh học vẫn còn xa lạ đối với đa số người dân. - Cuối cùng, sự suy giảm đa dạng sinh học ở nước ta còn bắt nguồn từ những tồn tại trong quản lý nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học, đặc biệt là những vấn đề quản lý đa dạng sinh học bằng pháp luật. Như vậy, có thể thấy có nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho nguồn tài nguồn tài nguyên ĐDSH của Việt Nam đã và đang bị suy giảm. Trong đó, nguyên do cơ bản nhất là ĐDSH luôn thay đổi cùng sự tiến hoá của sinh vật trong quá trình hình thành loài mới, trong sự tham gia vào hoặc sự mất đi của một loài. Nguyên nhân gây ra các biến đổi đó là do sự biến đổi bất thường của tự nhiên hoặc do hoạt động của con người. Để khắc phục tình trạng trên Chính phủ Việt Nam đã đề ra nhiều biện pháp, cùng với các chính sách kèm theo nhằm bảo vệ tốt hơn tài nguyên ĐDSH của đất nước. Tuy nhiên, thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến bảo tồn ĐDSH cần phải giải quyết như quan hệ giữa bảo tồn và phát triển bền vững hoặc tác động của 10
- biến đổi khí hậu đối với bảo tồn ĐDSH, Trước khi có Luật ĐDSH được ban hành năm 2008, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do còn nhiều tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật về ĐDSH[8] gây ra nhiều khó khăn trong quản lý, bảo tồn và phát triển ĐDSH. Sau khi Luật này được ban hành, có hiệu lực vào ngày 01/07/2009, hệ thống pháp luật về ĐDSH đã được thống nhất, quy về một mối. Tuy nhiên, nhận thức được bảo tồn ĐDSH là vấn đề phức tạp với nhiều nội dung khác nhau (nhất là trong điều kiện Luật mới ban hành) nên việc đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này cũng như hiệu quả áp dụng, thi hành trong giai đoạn hiện nay là một điều cần thiết để hoàn thiện các quy định cũng như đẩy mạnh việc thực thi trong thực tế. 1.4. Ý nghĩa, giá trị của đa dạng sinh học: Đa dạng sinh học có tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với sự phát triển bền vững của nhân loại. Đa dạng sinh học có những giá trị kinh tế, môi trường và cuộc sống to lớn mà chỉ mới đến vài thập kỷ gần đây chúng ta mới ý thức được một cách đầy đủ. Các giá trị đó là: - Giá trị kinh tế của đa dạng sinh học: nó là nền tảng phát triển của các cộng đồng từ xưa đến nay. Đa dạng sinh học với tư cách là nhân tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của con người là điều không thể nào phủ nhận. Nó là nguồn cung cấp nguyên liệu cho sự tồn tại và phát triển của con người. - Giá trị khoa học của đa dạng sinh học: đa dạng sinh học còn có tác dụng trong chữa bệnh (nhiều loài cây, con được dùng làm thuốc chữa bệnh) và trong nghiên cứu khoa học (để làm thí nghiệm, cấy ghép ). - Giá trị môi trường của đa dạng sinh học: đa dạng sinh học là một yếu tố cấu thành nên môi trường, do vậy sự tồn tại của nó làm cân bằng sinh thái, làm môi trường trong lành (có một số loài cây hút bụi, độc tố; một số loài thủy sinh có khả năng làm sạch nguồn nước ). Đa dạng sinh học được ví như “lá phổi” của trái đất. - Ngoài ra, đa dạng sinh học còn đem lại giá trị thẩm mỹ, vui chơi, giải trí cho con người. Như vậy, từ những giá trị của đa dạng sinh học, ta thấy nó là một yếu tố không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của con người chúng ta. Vậy mà hãy xem thực trạng đa dạng sinh học ở nước ta đang rơi vào tình trạng suy thoái đến mức nào. Chương II: Các quy định của pháp luật về bảo vệ đa dạng sinh học 2.1. Các quy định quản lý - Luật đất đai 2003 - Luật Thủy sản 2003 - Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004 - Luật bảo vệ môi trường 2005 11
- - Công ước đa dạng sinh học: Công ước Đa dạng sinh học là một hiệp ước khung được thông qua tại Hội Nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển bền vững năm 1992 tại Rio de Janero (Brazin), có hiệu lực từ ngày 29/12/1993. Tính đến tháng 5 năm 2009 đã có 191 quốc gia là thành viên của Công ước này. Việt Nam đã chính thức gia nhập Công ước vào ngày 16/11/1994. Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường làm cơ quan đầu mối, giúp Chính phủ tổ chức thực hiện Công ước này. Mục tiêu chính của Công ước nhằm bảo tồn đa dạng sinh học; sử dụng bền vững các thành phần của đa dạng sinh học; và chia sẻ công bằng và hợp lý những lợi ích thu được từ việc sử dụng tài nguyên sinh học. Để đạt được mục tiêu trên, nội dung cơ bản của Công ước tập trung vào bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững các thành phần của đa dạng sinh học; tiếp cận và chuyển giao công nghệ; quản lý công nghệ sinh học và chia sẻ lợi ích. Ngoài ra, Công ước cũng quy định về các biện pháp khuyến khích bảo vệ đa dạng sinh học, hợp tác quốc tế; trao đổi thông tin; các nguồn tài chính và cơ chế tài chính, v.v trong việc bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học trên phạm vi toàn cầu. Thực hiện các nội dung trên, các nước cam kết tiến hành một số họat động chính như: xây dựng hệ thống khu bảo tồn, trong đó tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái; bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật và tài nguyên di truyền; kiểm soát và quản lý rủi ro của sinh vật biến đổi gen đối với môi trường, đa dạng sinh học và sức khoẻ con người; kiểm soát các loài sinh vật ngoại lai xâm hại môi trường. - Luật Đa dạng sinh học do Quốc hội ban hành ngày 13 tháng 11 năm 2008 số 65/2010/NĐ: Luật đa dạng sinh học của Quốc hội khóa XII, kỳ thứ tư số 20/2008/QH12 qua ngày 13 tháng 11 năm 2008. Luật dành riêng một Chương IV với 18 điều quy định về bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật. Theo đó, các loài động vật hoang dã sẽ được xem xét đưa vào Danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ nhằm bảo vệ những vật nuôi đặc hữu hoặc có giá trị đang bị đe dọa tuyệt chủng, quy định loài hoang dã bị cấm khai thác và loài hoang dã được khai thác có điều kiện trong tự nhiên. Luật cũng quy định về khu bảo tồn, phân cấp khu bảo tồn và những hành vi bị cấm trong khu bảo tồn. Luật bắt đầu có hiệu lực từ 01/7/2009. - Nghị định của Chính phủ số 65/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật đa dạng sinh học. - Luật bảo vệ và phát triển rừng (2004): Luật bắt đầu có hiệu lực từ 01/04/2005. Theo đó, những hành vi săn, bắn, bắt, bẫy, nuôi nhốt, giết mổ động vật rừng trái phép bị nghiêm cấm. Đồng thời Luật cũng quy định việc khai thác, động vật rừng phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tuân theo các quy định của pháp luật về bảo tồn động vật hoang dã. Việc Kinh doanh, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, quá cảnh thực vật rừng, 12
- động vật rừng phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. - Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2003 của Chính phủ về bảo tồn và khai thác bền vững các vùng đất ngập nước - Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30/03/2006 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm: Nghị định đã phân chia động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm thành 02 nhóm tùy theo mức độ nguy cấp và sự bảo vệ của pháp luật đối với các loài đó. Trong đó: Nhóm IB: Nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại Nhóm IIB: Hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại - Quyết định số 212/2005/QĐ-TTg ngày 26 tháng 8 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý an toàn sinh học đối với các biến đổi gen; sản phẩm, hàng hóa có nguồn gốc từ sinh vật biến đổi gen - Nghị định 82/2006/NĐ-CP ngày 10/08/2006 của Chính phủ về quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất, nhập nội từ biển, quá cảnh, nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng và trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm: Nghị định quy định trình tự, thủ tục cụ thể hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất khẩu, nhập nội từ biển, quá cảnh, nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng, trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật (kể cả loài lai) hoang dã nguy cấp, quý, hiếm, bao gồm: Mẫu vật các loài động vật, thực vật hoang dã quy định tại các Phụ lục I, II và III của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES). Mẫu vật các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm theo quy định của pháp luật Việt Nam. - Nghị định 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ: Nghị định quy định hệ thống các tiêu chí để đánh giá và xác định loài ĐVHD đưa vào Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Theo đó, loài được đưa vào Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ nếu (i) Số lượng cá thể còn ít hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng và (ii) Là loài đặc hữu có một trong các giá trị đặc biệt về khoa học, y tế, kinh tế; sinh thái, cảnh quan, môi trường và văn hóa – lịch sử. Nghị định cũng quy định nguyên tắc bảo tồn các loài ĐVHD nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ và cơ chế chặt chẽ để quản lý việc khai thác; trao đổi, mua bán, tặng cho, thuê, lưu giữ, vận chuyển mẫu vật; nuôi trồng và cứu hộ loài thuộc Danh mục loài được ưu tiên bảo vệ. Nghị định này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. 13
- - Danh mục các loài thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam cần được bảo vệ, phục hồi và phát triển và Danh mục những đối tượng bị cấm khai thác theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Danh mục các loài thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam cần được bảo vệ, phục hồi và phát triển được ban hành kèm theo Quyết định 82/2008/QĐ-BNN ngày 17/07/2008 về việc công bố Danh mục các loài thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam cần được bảo vệ, phục hồi và phát triển. Theo đó, Danh mục áp dụng các tiêu chuẩn của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế IUCN (Phiên bản 2.2, 1994) và Sách đỏ Việt Nam 2007 để đánh giá mức độ quý hiếm của loài thủy sinh theo các bậc: Tuyệt chủng (EX); Tuyệt chủng ngoài thiên nhiên (EW); Rất nguy cấp (CR); Nguy cấp (EN); Sẽ nguy cấp (VU). Danh mục những đối tượng bị cấm khai thác (thủy sản) được ban hành kèm theo Thông tư 62/2008/TT-BNN ngày 20/05/2008 sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 02/2006/TT- BTS ngày 20 tháng 03 năm 2006 của bộ Thủy sản hướng dẫn thị hành Nghị định số 59/2005/NĐ-CP ngày 04/05/2005 của Chính phủ về Điều kiện sản xuất kinh doanh một số ngành nghề thủy sản. - Quyết định 95/2008/QĐ-BNN ngày 29/09/2008 về việc ban hành Quy chế quản lý gấu nuôi: Quyết định này là sự kế thừa Quyết định 02/2005/QĐ-BNN ngày 05/01/2005 về việc ban hành Quy định về quản lý gấu nuôi nhốt trong đó thể hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc quản lý số lượng gấu đang nuôi nhốt và ngặn chặn gấu mới từ tự nhiên bị bắt vào các trang trại. Tại Quyết định này, mọi hành vi săn bắn, bẫy bắt, mua, bán, giết mổ, vận chuyển, quảng cáo, xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất khẩu gấu và sản phẩm, dẫn xuất từ gấu trái với quy định của pháp luật đều bị nghiêm cấm. Ngoài ra, Quyết định cũng đặt ra quy định về điều kiện chuồng, trại, vệ sinh, thú ý và các điều kiện đăng ký trại nuôi gấu. - Thông tư 47/2012/TT-BNNPTNT ngày 25/09/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về quản lý khai thác từ tự nhiên và nuôi động vật rừng thông thường Ngày 25/09/2012, Bộ NN&PTNT đã ban hành Thông tư số 47/2012/TT- BNNPTNT về quản lý khai thác từ tự nhiên và nuôi động vật rừng thông thường. Thông tư này liệt kê 160 loài động vật rừng thông thường được phép khai thác và nhân nuôi vì mục đích thương mại, theo các quy định đưa ra trong thông tư - Thông tư số 18/2004/TT-BTNMT ngày 23 tháng 8 năm 2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2003 của Chính phủ về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước - Các pháp lệnh về giống cây, giống vật nuôi. 14
- 2.1.1.Những quy định về bảo tồn đa dạng nguồn gen - Các quy định pháp luật về bảo vệ nguồn gen xuật hiện đầu tiên là Quy chế quản lý và bảo tồn nguồn gen thực vật, động vật và vi sinh vật ban hành kèm theo Quyết định số 2117/1997/QĐ-BKHCN&MT ngày 30/12/1997 của Bộ trưởng Bộ khoa học công nghệ và môi trường. Những đòi hỏi cơ bản của Công ước đa dạng sinh học được thể hiện khá rõ nét trong bản Quy chế này. Cụ thể: + Bản quy chế khẳng định việc bảo tồn, lưu giữ nguồn gen là nhằm bảo vệ tài nguyên di truyền để cung cấp nguồn nguyên liệu khởi thủy phục vụ công tác nghiên cứu khoa học cải tạo giống, đảm bảo duy trì tính đa dạng sinh học. + Bản quy định cũng đã bước đầu xác định một số nội dung giải pháp của hoạt động bảo tồn nguồn gen và những đối tượng cần ưu tiên. + Việc quy định nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền quản lý và thực hiện hoạt động bảo tồn và lưu giữ nguồn gen cũng được bản Quy chế này xác định - Ngoài ra pháp luật về bảo vệ nguồn gen còn được phát triển thêm một số bước rất lớn thông qua việc ban hành Pháp lệnh số 15/2004/PL-UBTVQH về giống cây trồng và Pháp lệnh số 15/2004/PL-UBTVQH về giống vật nuôi. Hai văn bản có hiệu lực pháp lý cao này đã kế thừa các văn bản pháp luật trước đó song nội dung điều chỉnh của chúng đã cụ thể và có giá trị định hướng hành vi mạnh hơn. - Như vậy có thể kết luận lại là pháp luạt về bảo tồn, kiểm soát nguồn gen phaủi đảm bảo được những mục đích sau đây: + Bảo đảm tính ổn định của nguồn gen trong tự nhiên từ đó góp phần bảo tồn đa dạng sinh học trong tự nhiên. + Lưu giữ tính đa dạng của nguồn gen, hạn chế đến mức tối đa sự suy thoái nguồn gen. + Kiểm soát có hiệu quả hoạt động biến đổi gen và việc ứng dụng các thành tựu này trong đời sống con người, hạn chế những tác động tiêu cực của hoạt động này tới đời sống con người và môi trường. - Pháp luật về kiểm soát và bảo tồn nguồn gen có phạm vi rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực và có sự đan xen với các lĩnh vực pháp luật về các nguồn tài nguyên khác như pháp luật bảo vệ rừng, thủy sản Vì vậy nội dung pháp luật kiểm soát nguồn gen được trình bày tập trung vào 2 vấn đề là pháp luật về kiểm soát các loài lạ và pháp luật về an toàn nguồn gen. a. Pháp luật về kiểm soát các loài lạ: Loài lạ là các loài sinh vật không thuộc bản địa. Chúng có đặc điểm là sinh sản rất nhanh, biên độ sinh thái rộng, thích ứng nhanh với các thay đổi của môi trường, khả năng cạnh tranh về nguồn thức ăn, nơi cư trú lớn, khả năng phát tán nhanh. Các loài này có thể tiêu diệt các loài bản địa, ảnh hưởng đến đa dạng sinh 15
- học và mật cân bằng sinh thái. Vì vậy cần phải có những quy định cụ thể để kiểm soát chúng, góp phần bảo tồn và phát triển các nguồn gen bản địa. Hoạt động kiểm soát các loài lạ được thể hiện ở một số quy định sau: * Quy định của pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu động, thực vật hoang dã: - Để có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu động thực vật, ngoài việc phải đáp ứng những điều kiện theo quy định của pháp luật như điều kiện về chủ thể, điều kiện về lĩnh vực hoạt động phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện theo quy định của pháp luật môi trường về xuất khẩu, nhập khẩu các loài động vật hoang dã. - Việc xuật nhập khẩu các loài động vật, thực vật hoang dã chỉ được thực hiện khi cơ quan có thẩm quyền khoa học CITES Việt Nam (Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia hoặc Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường thuộc Đại học quốc gia Hà Nội) tư vấn rằng, việc xuất khẩu, nhập khẩu những loài đó không làm ảnh hưởng đến sự tồn tại bền vững của loài đó và các loài khác hiện có trong tư nhiên và Cơ quan thẩm quyền quản ký CITES Việt Nam (Văn phòng CITES Việt Nam tại Cục kiểm lâm thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn) cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sau khi đã xem xét các điều kiện cụ thể. Các điều kiện cụ thể này phụ thuộc vào mức độ quy hiếm của loài động thực vật được xuất nhập khẩu. - Trong quá trình thưc hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu phải tuân thủ các quy định về kiểm dịch động vật, thực vật. Cấm nhập khẩu, quá cảnh động thực vật chưa qua kiểm dịch vi sinh vật ngoài danh mục cho phép (quy định tại khoản 10 điều 7 Luật bảo vệ môi trường 2006). * Quy định của pháp luật về nhập khẩu động vật, thực vật làm giống: - Tổ chức, cá nhân muốn nhập khẩu động, thực vật làm giống vào Việt Nam phải đáp ứng những điều kiện sau: + Có giấy chứng nhận kiểm dịch do cơ quan nhà nước có thẩm quền của nước xuất khẩu cấp. + Không có sinh vật gây hại, nếu có thì đã qua xử lý. - Trong trường hợp phát hiện thấy loài động, thực vật nhập khẩu nhiễm sinh vật lạ có khả năng gây hại cho môi trường hoặc có tiềm năng gây tác hại nghiêm trọng tài nguyên sinh vật thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cơ quan hải quan; cơ quan có thẩm quyền về kiểm dịch động, thực vật) có thể áp dụng các biện pháp sau: + Loài động, thực vật nhập khẩu nhiễm sinh vật lạ có khả năng gây hại chưa có trên lãnh thổ Việt Nam mà thuộc danh mục đối tượng kiểm dịch của Việt Nam thì không được phép nhập khẩu và phải trả về nơi xuất xứ hoặc tiêu hủy. + Loài động, thực vật nhập khẩu nhiễm sinh vật lạ có khả năng gây hại có phân bố hẹp trên lãnh thổ Việt nam mà thuộc danh mục đối tượng kiểm dịch của 16
- Việt Nam hoặc những sinh vật gây hại khác thì trước khi đưa vào nội địa phải thực hiện các biện pháp xử lý triệt để. - Các loài động, thực vật được nhập khẩu để làm giống phải được nuôi trồng thử nghiệm tại địa điểm đã đăng ký. Khi đến địa điểm nuôi trồng, tổ chức, cá nhân nhập khẩu giống phải khai báo với cơ quan nhà nước về kiểm dịch động, thực vật để tiếp tục theo dõi sinh vật gây hại. Chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại địa điểm nuôi trồng kết kuận loại giống nhập khẩu không mang vi sinh vật gây hại thì mới được đưa ra sản xuất. Thời gian theo dõi đối với từng loài do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định. - Các loài động vật, thực vật mới nhập khẩu làm giống mà trước đây chưa được nuôi trồng ở Việt Nam phải qua khảo nghiệm hoặc sản xuất thử trước khi đưa vào sản xuất đại trà. Căn cứ vào kết quả khảo nghiệm, sản xuất thử, Bộ trưởng Bộ chủ quản (Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triên nông thôn hoặc Bộ trưởng Bộ thủy sản) quyết định cho phép khu vực hóa hoặc cho phép đưa vào sản xuất. * Quy định của pháp luật về kiểm soát hoạt động di chuyển các loài lạ từ khu vực này sang khu vực khác trên lãnh thổ Việt Nam: - Việc di chuyển các loài động vật, thực vật làm giống kể cả các loài lạ từ khu vực này sang khu vực khác trên lãnh thổ Việt Nam chỉ phải thực hiện các quy định về kiểm dịch động, thực vật, đặc biệt trong trường hợp đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền công bố dịch. - Pháp luật hiện hành chưa có các quy định cụ thể về việc đánh giá những rủi ro về môi trường (kiểm nghiệm, sản xuất thử) khi các loài này xâm nhập vào khu vực mới. b. Các quy định pháp luật về an toàn nguồn gen: Bao gồm: *Các quy định bảo tồn, lưu giữ nguồn gen: - Quy định bảo tồn, lưu giữ nguồn gen có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên di truyền (nguồn gen) nhằm cung cấp nguồn nguyên liệu khởi thủy phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, cải tạo giống, bảo đảm duy trì được tính đa dạng sinh học và những tiền đề cần thiết về tài nguyên sinh học cho phát triển bền vững nền nông, lâm, ngư nghiệp hiện tại cũng như tương lai. - Các đối tượng cần đưa vào bảo tồn, lưu giữ bao gồm: + Ưu tiên các nguồn gen quý, hiếm đặc thù của Việt Nam và đang có nguy cơ bị biến mất. + Các nguồn gen cần cho công tác nghiên cứu, lai tạo giống và phục vụ đào tạo. + Các nguồn gen đã được đánh giá các chỉ tiêu sinh học. + Các nguồn gen được nhập từ nước ngoài đã được ổn định và thuần hóa ở Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất. - Hoạt động bảo tồn, lưu giữ nguồn gen có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức như: 17
- + Thành lập và quản lý các Khu bảo tồn thiên nhiên, các trung tâm cứu hộ động vật hoang dã, đảm bảo các điều kiện về môi trường sống. + Nuôi trồng các loài động vật, thực vật cần lưu giữ tại các cơ quan tham gia mạng lưới bảo tồn, lưu giữ nguồn gen. + Thành lập các Ngân hàng gen - Các hình thức bảo tồn, lưu giữ này được thực hiện bởi cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân (trong đó có cả tư nhân). Đối với từng hình thức bảo vệ, lưu giữ, pháp luật hiện hành có những quy định cụ thể về thành lập, tổ chức và hoạt động cũng như quyền và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được giao thực hiện bảo vệ, lưu giữ nguồn gen. * Các quy định về kiểm soát hoạt động biến đổi gen (GMO) và các sản phẩm đã bị biến đổi gen: - Hiện nay ở các nước phát triển, vấn đề có chập nhận GMO hay không đang còn được bàn luận và tranh cãi. Việt Nam cũng đang bước đầu tiếp cận với hoạt động biến đổi gen và sản phẩm biến đổi gen. Các cơ sở nghiên cứu về vấn đề này đã, đang được thành lập và đi vào hoạt động. - Các quy định kiểm soát hoạt động biến đổi gen hiện hành được ban hành rải rác trong các văn bản pháp luật và bao gồm những quy định mang tính nguyên tắc như: + Nghiêm cấm đưa các động vật, thực vật lạ vào các vùng ngập nước làm biến đổi gen các động vật, thực vật tại chỗ (điều 7 Nghị định 109/2003 ngày 23/9/2003 về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước). + Đối với những giống cây trồng nhân bản bằng phương pháp vô tính phải sảnh xuất từ giống gốc đã được cơ quan có thẩm quyền công nhận (Quyết định số 34/2001 ngày 30/3/2001 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành Quy định về kinh doanh giống cây trồng vật nuôi). + Giống cây trồng mới chọn tạo trước khi đưa vào sản xuất đại trà phải qua khảo nghiệm hoặc sản xuất thử (điều 9 Nghị định số 07/CP ngày 5/2/1996 về quản lý giống cây trồng). + Thực phẩm có gen đã bị biến đổi hoặc nguyên liệu thực phẩm có gen đã bị biến đổi phải ghi trên nhãn bằng tiếng Việt: “thực phẩm có gen đã bị biến đổi (điều 20 Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm ngày 7/3/2003). - Quy chế Quản lý an toàn sinhg học quy định về kiểm soát hoạt động biến đổi gen và việc đưa những sản phẩm của chúng vào ứng dụng, với những nội dung chủ yếu sau: + Thực hiện nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ về gen (quy định tại điều 4 Luật bảo vệ môi trường 2005). + Việc khảo nghiệm và đánh giá, quản lý rủi ro do sinh vật biến đổi gen gây ra đối với sức khỏe con người và môi trường. Cụ thể là tổ chức, cá nhân tiến hành khảo nghiệm đối với sinh vật biến đổi gen, sản phẩm hàng hóa có nguồn gốc từ 18
- sinh vật biến đổi gen phải tuân thủ các điều kiện được quy định tại điều 5 Luật bảo vệ môi trường 2005. + Tại các điều 6, điều 7, điều 8 Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định về sản xuất, kinh doanh, theo dõi và giám sát ảnh hưởng của sản phẩm biến đổi gen. + Quy định điều kiện và quá trình kiểm soát đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu sinh vật biến đổi gen và sản phẩm của sinh vật biến đổi gen (điều 9, điều 10 Luật bảo vệ môi trường 2005). 2.1.2. Những quy định pháp luật về bảo tồn đa dạng loài: - Bảo vệ đa dạng loài và bảo vệ đa dạng nguồn gen gắn liền với nhau. Không có da dạng loài thì không thể có đa dạng nguồn gen và ngược lại, không có đa dạng nguồn gen sẽ không có đa dạng loài. Vì vậy, các quy định pháp luật về bảo vệ loài một phần cũng có nội dung tương tự như các quy định pháp luật về bảo tồn đa dạng nguồn gen. - Bảo vệ đa dạng loài được pháp luật nước ta quan tâm rất sớm dưới dạng các biện pháp bảo vệ nguồn tài nguyên và các loài động vật quý, hiếm. Một số các quy định pháp luật về đa dạng loài, cụ thể là: + Chỉ thị 359/TTg ngày 29/5/1996 về những biện pháp cấp bách bảo vệ và phát triển các loài động vật hoang dã. + Nghị định số 139/2004/NĐ-CP ngày 25/6/2004/ của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng. + Pháp lệnh thú y 2004. + Luật thủy sản 2004. + Nghị định số 32/2006/NĐ-CP quy định về việc bảo vệ các giống loài động, thực vật nguy cấp, quý, hiếm. + Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật Đây là những văn bản pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng loài. - Như vậy, so với lĩnh vực đa dạng nguồn gen và đa dạng hệ sinh thái thì bảo tồn đa dạng loài có nhiều cơ sở pháp lý vững chắc hơn do có những văn bản pháp quy tương đối hoàn chỉnh. Trong đó, pháp lệnh giống cây trồng và giống vật nuôi năm 2004 đã tạo ra được cơ sở vững chắc hơn cho hoạt động bảo tồn đa dạng loài. Cụ thể: + Pháp lệnh giống cây trồng 2004 và pháp lệnh giống vật nuôi 2004 quy định về quản lý và bảo tồn nguồn gen cây trồng, vật nuôi; nghiên cứu, chọn, tạo, khảo nghiệm, kiểm định, kiểm nghiệm, công nhận, bảo hộ giống cây trồng, vật nuôi mới; bình tuyển, công nhận cây mẹ, cây đầu dòng, vườn giống, rừng giống và giống vật nuôi mới; sản xuất, kinh doanh giống cây trồng, vật nuôi; quản lý chất lượng giống cây trồng, vật nuôi. + Pháp lệnh này còn quy định đối tượng áp dụng là các tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động trong lĩnh vực giống cây trồng, vật 19
- nuôi trên lãnh thổ Việt Nam. Trong trường hợp mà điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì áp dụng điều ước quốc tế đó. + Ngoài ra, pháp lệnh giống vật nuôi, cây trồng 2004 còn đưa ra nhiều khái niệm, nhiều quy định, nguyên tắc có liên quan đến hoạt động quản lý và bảo tồn đa dạng loài một cách rõ ràng, cụ thể 2.1.3. Những quy định về bảo tồn đa dạng hệ sinh thái: - Bảo vệ đa dạng hệ sinh thái ở nước ta được quy định trong một số văn bản: + Luật bảo vệ môi trường: quy định về các khái niệm hệ sinh thái, bảo vệ các hệ sinh thái thông qua các quy định về điều tra, đánh giá để lập quan hệ bảo vệ dưới hình thức các khu bảo tồn thiên nhiên. + Luật bảo vệ và phát triển rừng: quy định bảo vệ hệ sinh thái rừng. + Luật thủy sản: quy định về việc bảo vệ hệ sinh thái rặng san hô. + Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 về bảo tồn và phát triển các vùng đất nông nghiệp. - Các văn bản cụ thẻ quy định về bảo tồn hệ sinh thái là: a. Hệ sinh thái rừng: Trong số các hệ sinh thái, thì hệ sinh thái rừng được pháp luật quan tâm bảo vệ sớm nhất. - Văn bản đầu tiên có ý nghĩa đối với bảo tồn hệ sinh thái rừng là Quyết định số 119/TTg ngày 22/4/1980 của Chính phủ quy định về hệ sinh thái vùng núi Ngọc Linh (trước khi có Luật môi trường 1993). Trong văn bản này quy định về việc các khu bảo tồn, các khu rừng cấm được thành lập để bảo vệ hệ sinh thái. - Tiếp đó là việc thành lập các khu rừng cấm trong Pháp lệnh bảo vệ rừng ngày 6/9/1972. Trong pháp lệnh này quy định về những khu rừng cấm lần đâu tiên được thành lập. Sau này, trong Quyết định số 1171/QG của Bộ lâm nghiệp ngày 30/12/1986, khái niệm rừng cấm được thay đổi bằng khái niệm rừng đặc dụng. - Ngoài ra, hệ sinh thái rừng còn được đề cập trong mục 2 chương III Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004. - Gần đây nhất, Chính phủ còn ra Nghị định số 32/2006/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng Việt Nam. Đối tượng áp dụng của Nghị định này là các cơ quan Nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động liên quan đến quản lý thực vật, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm tại lãnh thổ Việt Nam. - Như vậy, các văn bản pháp luật về việc bảo tồn hệ sinh thái rừng đều đưa ra một cách khá cụ thể về các quy định có liên quan đến việc bảo tồn và phát triển hệ sinh thái này trên đủ mọi phương diện như: + Pháp luật quy định về hoạt động lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, thống kê theo dõi diễn biến tài nguyên rừng. 20
- + Việc thực hiện các hoạt động giao rừng, cho thuê rừng và thu hồi rừng cũng được quy định cụ thể bởi pháp luật. + Ngoài ra, các văn bản pháp luật còn quy định trách nhiệm tự kiểm soát suy thoái rừng và nghĩa vụ của chủ rừng đối với từng loại rừng cụ thể. + Việc kiểm soát suy thoái động vật, thực vật rừng hoang dã, quý hiếm cũng là một vấn đề được đề cập khá nhiều trong các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này. + Và cuối cùng, pháp luật cũng không quên đặt ra những quy định cụ thể về hệ thống các cơ quan kiểm soát suy thoái rừng và giao trách nhiệm giải quyết cho nhưng cơ quan này. b. Hệ sinh thái đất ngập nước: Có rất nhiều văn bản pháp luật quy định về việc bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nước. Cụ thể là: - Sớm nhất trong tất cả các văn bản pháp luật quy định về bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nước là Chỉ thị 169/CT ngày 18/8/1992 về hệ sinh thái đất ngập nước vùng Đồng Tháp Mười. - Tiếp đó là chỉ thị số 432/TTg ngày 7/8/1995 và Chỉ thị số 12/TTg ngày 6/1/1996. - Việc bảo tồn và phát triển hệ sinh thái đất ngập nước cũng được đề cập đến trong những chương, điều cụ thể của Luật tài nguyên nước 1998 và Luật thủy sản 2003. - Trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo tồn đa dạng hệ sinh thái đất ngập nước thì Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 về bảo tồn và phát triển các vùng đất ngập nước là Nghị định có ý nghĩa quan trọng nhất. + Điều 1 trong Nghị định này đã định nghĩa vùng đất ngập nước bao gồm những vùng đất ngập nước có hệ sinh thái đặc thù, đa dạng sinh học cao, có chức năng duy trì nguồn nước và cân bằng sinh thái, có tầm quan trọng đối với quốc gia. + Các biện pháp bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nước được quy định trong văn bản này rất cụ thể và có tính khả thi. Chẳng hạn như Nghị định bắt buộc phải tiến hành bảo hộ các vùng đất ngập nước dưới dạng khu Ramsar, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo tồn loài và khu bảo tồn sinh cảnh. c. Hệ sinh thái rặng san hô - Hệ sinh thái rặng san hô là hệ sinh thái quan trọng ở vùng biển. Vì vậy, các văn bản pháp luật quy định về việc bảo tồn hệ sinh thái rặng san hô được quy định chủ yếu trong các văn bản pháp luật về bảo tồn và phát triển môi trường biển. - Hệ sinh thái rặng san hô được đề cập một cách khái quát trong Luật thủy sản 2003. Hiện nay chưa có một văn bản pháp luật riêng biệt nào được ban hành để điều chỉnh hoạt động bảo tồn hệ sinh thái rặng san hô. - Các quy định liên quan chủ yếu đến hệ sinh thái rặng san hô bao gồm các quy định bảo vệ các loài thủy sinh được coi là nguồn lợi thủy sản. Điều 5, điều 8, 21
- điều 9 Luật thủy sản 2003 được coi là có thể áp dụng đối với việc bảo vệ hệ sinh thái rặng san hô và hệ sinh thái biển khác. 2.2. Các quy định xử lý vi phạm - Bộ Luật Hình Sự (1999, sửa đổi bổ sung năm 2009) Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 đã có quy định về Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm tại Điều 190. Khi Bộ luật Hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Điều 190 được sửa đổi thành Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Theo đó, các hành vi săn bắt, giết, vận chuyển, buôn bán, nuôi nhốt trái phép động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc vận chuyển, buôn bán trái phép sản phẩm, bộ phận cơ thể của của loại động vật đó có thể bị phạt lên tới 7 năm tù giam. - Thông tư Liên tịch 19/2007/TTLT/BNN&PTNT-BTP-BCA-VKSNDTC- TANDTC ngày 08/03/2007 hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Thông tư liên tịch này hướng dẫn thực hiện Điều 190 Bộ luật Hình sự 1999 về Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý, hiếm. Theo đó, những loài động vật quý hiếm là những loài thuộc nhóm IB của Nghị định 32/2006/NĐ-CP. Đồng thời thông tư cũng hướng dẫn cụ thể căn cứ để đánh giá hành vi vi phạm là gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng để áp dụng tình tiết định khung tăng nặng. Cụ thể, Thông tư ban hành Phụ lục về việc xác định số lượng cá thể động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm nhóm IB để làm căn cứ xác định. Ví dụ, hành vi vi phạm liên quan đến gấu, 1 cá thể là gây hậu quả nghiêm trọng, 2 đến 3 cá thể là hậu quả rất nghiêm trọng, từ 4 cá thể trở lên là đặc biệt nghiêm trọng; trong khi chỉ cần vi phạm đối với 1 cá thể hổ là đã gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. - Nghị định 103/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 09 năm 2013 Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản Nghị định 103/2013/NĐ-CP quy định các hành vi khai thác, mua bán, thu gom, nuôi, lưu giữ, sơ chế, chế biến các loài thủy sinh nguy cấp quý hiếm hoặc khai thác, thu gom, sơ chế, bảo quản, vận chuyển các loài thủy sản trong danh mục cấm khai thác sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tối đa lên đến 100 triệu đồng tùy thuộc vào khối lượng của loài thủy sinh hoặc thủy sản. Toàn bộ số thủy sinh quý hiếm/ thủy sản sẽ bị tịch thu và thả lại môi trường sống của chúng (nếu còn sống) hoặc chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền để xử lý (nếu đã chết) - Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 22
- Nghị định 157/2013/NĐ-CP là văn bản quy định mức độ xử phạt hành chính đối với các vi phạm trong hoạt động quản lý, phát triển, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản (trong đó có ĐVHD). Theo đó, căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà các hành vi săn, bắn, bẫy, bắt; nuôi, nhốt, lấy dẫn xuất từ động vật rừng; giết động vật rừng; vận chuyển lâm sản trái pháp luật hoặc mua, bán, cất giữ, chế biến, kinh doanh lâm sản không có hồ sơ hợp pháp hoặc có hồ sơ hợp pháp nhưng lâm sản không đúng nội dung hồ sơ sẽ bị xử phạt đến 500 triệu đồng đối với cá nhân và 1 tỉ đồng đối với tổ chức. - Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường Nghị định 179/2013/NĐ-CP là văn bản quy định mức độ xử phạt hành chính đối với các vi phạm trong lĩnh vực môi trường. Trong đó, Điều 42 có quy định về mức độ xử phạt đối với hành vi lưu giữ trái phép bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của loài động vật hoang dã thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ với mức xử phạt tối đa lên đến 500 triệu đồng đối với cá nhận và 1 tỉ đồng đối với tổ chức - Thông tư 90/2008/TT-BNN ngày 28/08/2008 hướng dẫn xử lý tang vật là động vật rừng sau khi xử lý tịch thu Những tang vật là động vật rừng thu được trong các vụ vi phạm sẽ được xử lý lần lượt theo trình tự quy định tại thông tư này căn cứ mức độ nguy cấp, quý hiếm của từng nhóm (IB, IIB, Phụ lục I CITES, Phụ luc II CITES hay động vật rừng thông thường). Việc xử lý cũng căn cứ vào loại tang vật là động vật rừng còn sống, đã chết hay bộ phận, sản phẩm của chúng, là loài trong nước hay nhập khẩu. Ví dụ, đối với động vật rừng nhóm IB trong nước và còn sống được xử lý theo thứ tự sau: (i) Thả lại nơi cư trú tự nhiên; (ii) chuyển giao cho Trung tâm cứu hộ động vật nếu bị thương, ốm, yếu cần cứu hộ; (iii) Chuyển giao cho các cơ sở nghiên cứu khoa học (bao gồm cả cơ sở nghiên cứu nhân giống), giáo dục môi trường; (iv) Bán cho các vườn thú, đơn vị biểu diễn nghệ thuật, cơ sở gây nuôi động vật hợp pháp theo quy định của pháp luật; (v) Tiêu hủy các cá thể động vật rừng mang bệnh hoặc trong trường hợp không xử lý được bằng các biện pháp trên. Trường hợp đã chết hoặc bộ phận, sản phẩm của loài nhóm IB thì (i) Chuyển giao cho cơ quan khoa học, cơ sở đào tạo, giáo dục môi trường, bảo tàng chuyên ngành, cơ quan quản lý chuyên ngành, trung tâm cứu hộ loài đó để làm tiêu bản hoặc chuyển giao cơ sở y tế để nghiên cứu, bào chế thuốc; (ii) Tiêu hủy trong trường hợp tang vật mang bệnh hoặc không xử lý được bằng biện pháp trên. Chương III: Thực tiễn áp dụng đa dạng sinh học 23
- Sự phát triển của pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học ở nước ta gắn liền với sự phát triển của pháp luật về môi trường và về từng yếu tố môi trường nói riêng.Tuy nhiên sự gắn kết giữa pháp luật về môi trường và đa dạng sinh học ở nước ta bắt nguồn từ mối quan hệ tự nhiên giữa đa dạng sinh học và môi trường. Vì Vậy. Những quy định Pháp luật về đa dạng SINH học ở Việt Nam được viện dẫn tản mác trong pháp luật về môi trường có liên quan đến việc bảo vệ hệ thực vật và động vật. Điều này cho thấy ở Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật nào có quy định về bảo tồn đa dạng sinh học với tư cách là một lĩnh vực cụ thể, độc lập tương đối trong hệ thống pháp luật môi trường. Các quy định của pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ đa dạng sinh học nước ta nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật được ban hành chủ yếu trong đầu những năm 90. Các quy định này hiện chưa đươc tập hợp hóa và pháp điển hóa thành 1 lĩnh vực riêng biết về đa dạng sinh học. Nhưng đặc biệt, việc Việt Nam phê chuẩn công ước quốc tế về đa dạng sinh học đã tạo tiền đề cho việc phát triển lĩnh vực pháp luật về đa dạng sinh học với tư cách là một bộ phận quan trọng của pháp luật về mội trường. Pháp luật về đa dạng sinh học được cấu thành bởi 3 nguồn chính là pháp luạt bảo vệ đa dạng nguồn gen, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái. 3.1. Đánh giá về thực trạng pháp luật Việt Nam trong việc bảo tồn đa dạng sinh học - Qua những tìm hiểu về các quy định pháp luật về việc bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học ở Việt Nam, ta có thể khẳng định rằng ở Việt Nam ta hiện nay chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về đa dạng sinh học với tư cách là một hệ thống lĩnh vực pháp lý độc lập. Việc bảo vệ đa dạng sinh học hiện đang được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật có giá trị pháp lý khác nhau, do nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau ban hành. Mỗi văn bản đó chỉ đề cập đến một khía cạnh hoặc một vài khía cạnh nào đó của đa dang sinh học. Do vậy, có nhiều nội dung chỉ được đề cập điều chỉnh một cách sơ sài hoặc thậm chí chưa được điều chỉnh, dẫn đến việc bỏ sót một số vấn đề quan trọng 3.1.1.Về tính hợp hiến, hợp pháp Pháp luật ĐDSH hiện nay nhìn chung đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp. Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH (đặc biệt là Luật ĐDSH) có nội dung không vi phạm Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001); tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong hoạt động bảo vệ môi trường và được ban hành đúng trình tự, thủ tục cũng như thẩm quyền theo quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay. 3.1.2. Đánh giá quy định pháp luật về bảo tồn nguồn gen 24
- - Đã có 1 số định nghĩa về nguồn gen: nguồn gen động vật,thực vật, vi sinh vật, nguồn gen cây trồng, nguồn ghen vật nuôi - Có quy chế quan lý và bảo tồn nguồn gen thực vật, động vật và vi sinh vật nhưng giá trị thực hiện chưa cao do hiệu lực pháp lý còn thấp và còn thiếu tính quy phạm nên khó khăn trong việc định hướng hành vi - Các quy định hiện hành về kiểm soát nguồn gen còn tản mạn,chưa đảm bảo giải quyết những vấn đề thực tế đặt ra. - Hoạt động loài lạ động vật, thực vật hoang dã và động vật, thực vật làm giống) mới chỉ tập trung vào quá trình kiểm soát qua biên giới và thông qua hoạt động kiểm dịch động vật, thực vật. - Chưa có những quy định nhằm xác định đặc tính sinh học của sinh vật và kiểm soát các nguy cơ có thể xảy ra cho nguồn gen bản địa - Đã có những pháp lệnh về giống cây trồng, giống vật nuôi có ý nghĩa lớn đối với bảo vệ đa dạng nguồn gen, tuy nhien phạm vi điều chỉnh còn hạn chế. - Quy định về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích hầu như chưa được đặt ra. Đây là 1 hoạt động rất mới mẻ nó chưa được nhiều sự quan tâm cũng như nhận thức được xã hội về vấn đề này còn rất hạn chế. - Một thực tế cho thấy, khi chưa có quy định nhằm áp dụng những biện pháp thận trọng mang tính phòng ngừa để kiểm soát sự di chuyển của các loài lạ đặc biệt là các loài lạ có nguy cơ cao thì những biện pháp mang tính đối phó do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng sẽ đem lại hiệu quả không cao - Pháp luật kiểm soát hoạt động biến đổi gen và sản phẩm của chúng còn chưa hoàn thiện. Việc pháp luật không xác định rõ trách nhiệm của cơ quan quan lý nhà nước trong việc điều tra, áp dụng các biện pháp cần thiết trong việc ngăn ngừa tác hại tới môi trường và sức khỏe con người trong trường hợp các loài động vật, thực vật biến đổi gen có thể làm phát sinh những hậu quả không thể lường trước. 3.1.3 Đánh giá các quy định pháp luật về bảo tồn đa dạng loài - Các quy định về vấn đề bảo tồn đa dạng loài được xem là khá đầy đủ, chi tiết. Các quy định này được ra đời từ khá sớm. - Việc bảo vệ đa dạng loài, đặc biệt là các loài động, thực vật hoang dã, quý hiếm được quy định khá rõ trong Luật bảo vệ môi trường. Luật bảo vệ và phát triển rừng, luật thủ sản và khá nhiều các văn bản khác do các chủ thể khác nhau ban hành - Có sự phân chia các loài động vật theo môi trường sống khác nhau, từ đó có thể chia ra việc quản lý chúng thuộc thẩm quyền của các cơ quan khác nhau và việc bảo vệ chúng được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật khác nhau. Điều này phần nào giúp chúng ta có thể quy định về việc bảo tồn chúng một cách sâu hơn, cụ thể hơn. 25
- - Tuy nhiên, việc quản lý và bảo vệ các loài trên cạn cũng như dưới nước chưa có sự thống nhất. - Pháp luật về bảo vệ và phát triển các loài thực vật mới tập trung điều chỉnh một nhóm các sản phẩm từ thực vật rừng mà chưa có các quy định mang tính cụ thể, chi tiết. - Quy định việc lấy mẫu tài nguyên sinh vật trong rừng chưa chặt chẽ. - Danh mục động vật hoang dã, quý hiếm bộc lộ một số điểm bất cập so với tình hình thực tế, như: + Chưa xây dựng đầy đủ các tiêu chí để xác định mức độ quý hiếm của các loài động, thực vật. + Chưa cập nhật thường xuyên và đầy đủ các thông tin khoa học. - Chưa có căn cứ pháp lý chặt chẽ trong việc điều tra, nghiên cứu khoa học, đánh giá tính chất và mức độ quý hiếm của các loài sinh vật. 3.1.4. Đánh giá các quy định pháp luật về bảo tồn đa dạng hệ sinh thái - Các quy định về bảo tồn đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam ta được xem là cụ thể và khá rõ ràng hơn so với quy định pháp luật về bảo tồn đa dạng loài và đa dạng nguồn gen. - Các quy định này được chia thành từng nhóm căn cứ vào từng loại hệ sinh thái từ đó dễ dàng hơn trong việc quản lý bảo tồn từng loại hệ sinh thái. - Tuy nhiên, việc phân chia ra thành các hệ sinh thái khác nhau trong đa dạng sinh thái với các loại quy định pháp luật khác nhau điều chỉnh sẽ làm hạn chế hiệu quả áp dụng. 3.2. Hạn chế. Pháp luật về đa dạng sinh học còn một số thiếu sót, chưa hoàn thiện 3.2.1. Thiếu các quy định về thuế sử dụng các thành phần môi trường Thuế là khoản đóng góp của các thể nhân và pháp nhân theo luật định nhằm đáp ứng yêu cầu chi tiêu của Nhà nước. Như vậy, trường hợp này, thuế sử dụng các thành phần môi trường sẽ có xu hướng tăng thêm thu nhập cho ngân sách quốc gia. Bên cạnh đó, thuế sử dụng các thành phần môi trường còn có mục đích giảm tốc độ khai thác lãng phí tài nguyên thiên nhiên, sử dụng tài nguyên một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên không tái tạo. Thuế sử dụng các thành phần môi trường bao gồm: thuế sử dụng đất, thuế rừng, thuế thu năng lượng đó là các loại thuế dùng để điều tiết thu nhập của những hoạt động khai thác tài nguyên, các thành phần môi trường. Từ trước đến nay, tình trạng khai thác bừa bãi, sử dụng lãng phí tài nguyên thiê nhiên rất phổ biến dẫn đến các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường. Trước thực tế trên, việc phát triển 26
- và cải tiến các loại thuế sử dụng thành phần môi trường sẽ đóng góp vai trò cốt yếu như một công cụ kinh tế hạn chế những nhu cầu không quan trọng và xác định mức tối đa khi sử dụng và khai thác tài nguyên thiên nhiên, từ đó có cơ chế quản lý, điều chỉnh các hoạt động kỹ thuật tài nguyên thiên nhiên trong khả năng tái tạo, đảm bảo và khuyến khích những hoạt động hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. 3.2.2. Thiếu quy định về chế tài đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến ĐDSH Chẳng hạn, pháp luật đất đai hiện nay tuy đã có một số quy định về việc sử dụng đất nông nghiệp liên quan đến việc bảo vệ môi trường (BVMT), tuy nhiên, những quy định đó mới chỉ dừng lại ở việc bảo vệ và làm tăng độ màu của đất, còn các quy định mang tính chế tài đối với việc sử dụng hoá chất bừa bãi gây ô nhiễm đất, nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp dẫn đến mất hay phá vỡ các hệ sinh thái và các sinh cảnh thì chưa được quy định. Pháp luật hiện hành mới chỉ quy định việc xử phạt hành chính đối với hành vi làm giảm khả năng sản xuất của đất nông nghiệp, mà chưa có các quy định về sử phạt hành chính đối với hành vi gây suy thoái, ô nhiễm khi sử dụng các loại đất khác. 3.2.3. Một số hạn chế khác của Luật ĐDSH năm 2008 Thứ nhất, một số quy định trong Luật ĐDSH năm 2008 còn chưa rõ ràng, chưa cụ thể (ví dụ như Mục 3 Chương II - Phần kiểm soát các loài ngoại lại xâm hại). Bên cạnh đó, các điều khoản giao Chính phủ quy định còn khá nhiều (ví dụ như khoản 2 Điều 27, khoản 2 Điều 30, ) sẽ làm cho Luật còn chung chung, khó áp dụng trong thực tế. Thứ hai, các quy định về dịch vụ môi trường liên quan đến đa dạng sinh học, bồi thường thiệt hại về đa dạng sinh học còn sơ sài, chung chung, chưa rõ ràng. Các điều luật đưa ra mới chỉ gợi mở vấn đề chứ chưa đi vào nội dung chính của vấn đề, còn phụ thuộc vào “sự hướng dẫn chi tiết” của Chính phủ. Thứ ba, về các quy định về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích (Access to genetic resources and Benefit Sharing) từ việc tiếp cận nguồn gen. Vấn đề này được quy định tại Mục 1 Chương V của Luật ĐDSH (từ Điều 55 đến Điều 61) và một số điều khoản tại Mục 2 Chương V đã thể hiện tương đối đấy đủ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế: nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia tối cao, vĩnh viễn đối với nguồn gen và trách nhiệm quốc gia giữ gìn và bảo tồn nguồn gen trên lãnh thổ nước mình và sử dụng bền vững; nguyên tắc đồng ý thông báo trước và cùng thoả thuận; nguyên tắc chia sẻ công bằng và hợp lý nguồn gen. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu căn cứ vào các Điều 55, 56, và 61 của Luật ĐDSH thì khó có căn cứ để chia sẻ lợi ích cho cộng đồng ở các vùng đệm của các khu bảo tồn, trong 27
- khi cộng đồng là đối tượng cần được ưu tiên chia sẻ lợi ích để khuyến khích họ tham gia bảo tồn theo cách tiếp cận bảo tồn dựa trên cộng đồng. Ngoài ra, Luật cũng chưa đề cập đến các vấn đề căn bản như: hình thức chia sẻ, tỷ lệ phân chia lợi ích giữa các bên, thẩm định và xác định giá trị của nguồn gen làm căn cứ phân chia lợi ích, các quy định về thoả thuận chuyển giao công nghệ bản quyền và sáng chế Bên cạnh đó, Luật cũng chưa định rõ cơ quan nào được phép tiếp nhận và cấp phép tiếp cận nguồn gen, Thứ tư, so với các Luật Thuỷ sản năm 2003, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 và Luật BVMT năm 2005, trong Luật ĐDSH năm 2008 không có các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về ĐDSH (cho dù đó là các quy định dẫn chiếu đến các văn bản pháp luật khác). Điều này sẽ làm cho Luật khó thực thi và thiếu đi tính răn đe. 3.2.4.Thiếu các văn bản pháp luật liên ngành điều tiết hoạt động bảo tồn ĐDSH Vấn đề bảo tồn và phát triển ĐDSH đã được thống nhất trong một hành lang pháp lý chung là Luật ĐDSH năm 2008. Tuy nhiên, vẫn có các văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh vấn đề này, ví dụ như Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Thuỷ sản năm 2003, và trong mối tương quan với các văn bản này, Luật ĐDSH được xem là luật khung. Trong khi đó, một điều có thể nhận thấy là Việt Nam vẫn còn thiếu các văn bản pháp luật liên ngành (giữa các Bộ, ngành) để điều chỉnh cơ chế phối hợp trong hoạt động bảo tồn ĐDSH. Đây là một thiếu sót khá lớn bởi Luật ĐDSH chỉ là luật khung, còn việc điều chỉnh cụ thể lại là các văn bản chuyên ngành, do đó, việc thiếu sót những văn bản liên ngành sẽ gây khó khăn trong sự kết hợp giữa các ngành trong hoạt động này, dẫn đến một hậu quả là hiệu quả của hoạt động bảo tồn ĐDSH không đạt được như ý muốn, tách riêng, nhỏ lẻ giữa các ngành, thiếu tính gắn kết và đồng bộ, Hơn nữa, ĐDSH là một đối tượng đặc biệt, cần có sự phối hợp giữa các ngành, các thành phần của xã hội thì mới mong có được kết quả bảo tồn và phát triển như mong muốn. 3.2.5. Pháp luật về đa dạng sinh học chưa bảo đảm được tính thống nhất - Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Thủy sản còn có các quy phạm không thống nhất, thậm chí còn khác nhau. Ngay cả việc sử dụng các thuật ngữ cơ bản cũng còn có sự khác nhau. Điều này cũng có thể lý giải được khi các luật nhìn nhận đa dạng sinh học từ góc độ chuyên ngành của mình nên thiếu sự bao quát và tính chính xác. - Một số thuật ngữ pháp lý chưa được sử dụng thống nhất trong các văn bản pháp luật, như bảo tồn tại chỗ với bảo tồn nội vi, bảo tồn nguyên vị, bảo tồn ngoại vi với bảo tồn chuyển vị Việc sử dụng không thống nhất các thuật ngữ nêu trên khiến cho hoạt động giải thích và áp dụng pháp luật gặp không ít khó khăn. 28
- 3.2.6. Pháp luật về đa dạng sinh học chưa bảo đảm tính khả thi cao - Một số quy định pháp luật về bảo vệ đa dạng sinh học còn mang tính tuyên ngôn hoặc ở mức chung chung, thiếu cụ thể, không có tính khả thi. Nhiều quy định thiếu tính định hướng hành vi cụ thể nên khó áp dụng trên thực tế. Nhiều qui định không tính toán đến các yếu tố khách quan của đời sống kinh tế - xã hội. - Các quy định về đa dạng sinh học hiện đang nằm rải rác ở nhiều văn bản có giá trị pháp lý khác nhau, mà chưa được pháp điển hoá trong một văn bản pháp lý có hiệu lực cao, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến nội dung chính của đa dạng sinh học. Điều này đã làm hạn chế rất nhiều đến hiệu quả áp dụng pháp luật. Ví dụ, việc quản lý và bảo tồn nguồn gen động vật, thực vật, vi sinh vật là một trong những nội dung chính của bảo tồn đa dạng sinh học, nhưng hiện tại mới chỉ được đề cập trong một văn bản pháp luật do cấp bộ ban hành (Quyết định 2117/1997/QĐ-BKHCNMT). - Các quy định pháp luật về bảo vệ gen, kiến thức bản địa, di truyền cây thuốc, bảo hộ quyền của tổ chức, cá nhân lai tạo giống vật nuôi mới, vấn đề bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với tạo giống mới còn mờ nhạt. 3.2.7. Về tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật ĐDSH Nhìn chung, các chính sách, các quy hoạch cũng như chiến lược về bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH của Nhà nước ta đã được công khai qua các phương tiện truyền thông cũng như công báo. Bên cạnh đó, về mặt nội dung của các quy phạm pháp luật, một số vấn đề như quy hoạch hệ sinh thái tự nhiên, quy hoạch bảo tồn thiên nhiên đã được quy định khá rõ ràng, xác định được các nội dung quan trọng nên có khả năng thực thi một cách minh bạch. Tuy nhiên, khi triển khai, một số vấn đề khác lại có nhiều bất cập. Ví dụ như các quy định về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích (như đã phân tích) còn thiếu những quy định quan trọng (như hình thức chia sẻ lợi ích), chưa xác định được cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và cho phép tiếp cận nguồn gen, quyền lợi của cộng đồng dân cư ở vùng đệm giữa các khu bảo tồn Hơn nữa Chính phủ cũng chưa ban hành các văn bản hướng dẫn vấn đề này một cách chi tiết và cụ thể. 3.3. Các vụ án liên quan đến pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học - Bài viết “Báo động tình trạng buôn bán động, thực vật hoang dã trái phép” ngày 28/02/2006 trên báo Việt báo ( tinh-trang-buon-ban-dong-thuc-vat-hoang-da-trai-phep/40125101/188/) - Bài viết “Chặn buôn bán động vật hoang dã ở “vùng nóng”” ngày 29/06/2011 trên báo Tin mới ( hoang-da-o-vung-nong-01545413.html) 29
- - Bài viết “Phát hiện vụ buôn bán động vật hoang dã lớn nhất VN” ngày 11/07/2012 trên báo Tin mới ( vat-hoang-da-lon-nhat-vn-01968626.html) - Bài viết “Phát hiện, xử lý nhiều vụ buôn bán động vật hoang dã” ngày 20/12/2012 trên báo Tin mới ( buon-ban-dong-vat-hoang-da-01685582.html) - Bài viết “92% nhà hàng tại chùa Hương ngang nhiên bán động vật hoang dã”ngày 01/03/2013 trên báo Tin mới ( chua-huong-ngang-nhien-ban-dong-vat-hoang-da-011225939.html) - Bài viết “Xử nghiêm vụ bán động vật hoang dã ở chùa Hương” ngày 12/03/2013 trên báo Tin mới ( hoang-da-o-chua-huong-011246624.html) - Bài viết “Lãnh án vì mua bán động vật hoang dã, quý hiếm” ngày 21/02/2014 trên báo Thanh niên ( hoang-da-quy-hiem.aspx) - Bài viết “Bắt kẻ buôn bán động vật hoang dã quý hiếm” ngày 04/04/2014 lấy từ báo Dân Việt ( dong-vat-hoang-da-quy-hiem.htm) - Bài viết “Vụ chặt phá rừng Vườn quốc gia Mũi Cà Mau: Công an vào cuộc” ngày 11/10/2012 trên báo Thanh niên ( mui-ca-mau-cong-an-vao-cuoc.aspx) - Bài viết “Khởi tố vụ phá rừng Pơ mu tại Vườn Quốc gia Vũ Quang” trên báo Người đưa tin ( quoc-gia-vu-quang-a79583.html) - Bài viết “Những đối tượng trong vụ chặt phá rừng lớn nhất Hà Tĩnh” trên báo Người đưa tin ( tuong-trong-vu-chat-pha-rung-lon-nhat-ha-tinh-a66925.html) - Bài viết “Khởi tố 5 vụ án hủy hoại rừng” trên trang Báo mới ( - Bài viết “Khởi tố đối tượng chặt phá 1,6ha rừng” ngày 07/04/2014 trên báo Công an nhân dân ( VN/bandoc/2014/4/227633.cand) 3.4. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học 3.3.1.Cần hủy bỏ, sửa đổi các VBPL không còn phù hợp với thực tiễn, bổ sung hay ban hành mới các VBPL mới về đa dạng sinh học 30
- Phần lớn các văn bản hiện nay mới chú ý đến đối tượng là các hệ sinh thái rừng, đất ngập nước còn hệ sinh thái biển và ven bờ mới chỉ được điều chỉnh bởi các văn bản có tính riêng biết, các thể cho từng vùng hay cho một giống, loài. Cần có sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật quy định về đa dạng sinh học khác nhau, tránh có sự chồng chéo, mâu thuẫn, gây ra sai sót, khó khăn khi áp dụng thực hiện trong thực tế. a. Xây dựng, hoàn thiện và bổ sung một số vấn đề về bảo tồn Đa dạng sinh học Về quy hoạch bảo tồn ĐDSH. Đối chiếu với các luật khác cho thấy, hiện tồn tại quá nhiều loại quy hoạch. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng (Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004); Quy hoạch khu bảo tồn (KBT) vùng nước nội địa, KBT biển (Luật Thuỷ sản năm 2003); QHBT và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước (Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 của Chính phủ về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước); QHBT ĐDSH (Luật ĐDSH 2008). Điều này được dự báo là nảy sinh nguy cơ trùng lặp, chồng chéo, lãng phí nguồn lực trong các công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch. Do vậy, cần cân nhắc một số vấn đề sau: Thứ nhất, nhất thể hoá các loại quy hoạch có chung tính chất bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và ĐDSH. Không nên tiếp cận việc xây dựng quy hoạch theo hướng chia cắt các hệ sinh thái rừng, biển, đất ngập nước như trước đây mà nên xây dựng theo hướng xác định các mức độ cần thiết, mức độ ưu tiên bảo tồn ĐDSH. Thứ hai, trong trường hợp chưa đạt được việc nhất thể hoá các loại quy hoạch thì cần phải chỉ rõ mối quan hệ giữa các quy hoạch bảo vệ rừng, QHBT đất ngập nước, QHBT đất ngập nước chuyên ngành, QHBT biển nêu trên với QHBT ĐDSH thuộc phạm vi quản lý của các bộ, cơ quan ngang bộ[1]. Những nội dung liên quan đến chi trả dịch vụ môi trường Chi trả dịch vụ HST (Payments for Ecosystems Services - PES) hay còn gọi là chi trả dịch vụ môi trường[2] (Payments for Environment Services - PES) là công cụ kinh tế, sử dụng để những người được hưởng lợi từ các dịch vụ HST chi trả cho những người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển các chức năng của HST đó. Ví dụ, rừng đầu nguồn có tác dụng giữ nước, duy trì chất lượng nước, chống sạt lở đất và lũ lụt cho hạ lưu Vì vậy, những người được hưởng lợi ở hạ lưu cần chi trả một khoản tương xứng cho những người trực tiếp tham gia duy trì và bảo vệ các chức năng của rừng đầu nguồn. 31
- Hiện đã có các quy định về chính sách thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng tại Quyết định số 380/2008/QĐ-TTg ngày 10/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó, dịch vụ môi trường rừng bao gồm cả yếu tố cảnh quan và ĐDSH. Tuy nhiên, do chính sách này chỉ áp dụng thí điểm trong thời hạn 02 năm và với 07 tỉnh, thành phố (gồm: Lâm Đồng, Sơn La, Đồng Nai, Hoà Bình, Bình Thuận, Ninh Thuận, TP. Hồ Chí Minh) nên các quy định hướng dẫn thi hành Luật ĐDSH 2008 được ban hành trong thời gian tới (thời gian còn hiệu lực của việc thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng) cần chú ý đến các loại hình của dịch vụ môi trường có liên quan đến ĐDSH, thời gian và đối tượng áp dụng để tránh sự trùng lặp, chồng chéo giữa các văn bản[3]. Hơn nữa, đây là một vấn đề còn mới trong pháp luật ĐDSH của Việt Nam nên chúng ta cũng cần quan tâm, học hỏi những kinh nghiệm quốc tế điều chỉnh vấn đề này để góp phần mang lại hiệu quả thi hành cao cho công cụ hữu hiệu này[4]. Thành lập Quỹ bảo tồn ĐDSH quốc gia để sử dụng vào việc quản lý và bảo tồn ĐDSH; Xây dựng cơ chế thu và sử dụng Quỹ; Tăng cường phát huy tác dụng của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam; Xây dựng đề án 1% ngân sách cho công tác bảo vệ môi trường và các nguồn thu từ các dịch vụ ĐDSH; Quy định cơ chế thu và chi Quỹ cho công tác quản lý và bảo tồn ĐDSH. b. Định hướng xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn Thi hành Luật Đa dạng sinh học trong thời gian đến Hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng một dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật ĐDSH nhưng trong đó chưa có những nội dung quan trọng khác (do đó cần được nghiên cứu ban hành sớm). Phạm vi điều chỉnh của dự thảo Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật ĐDSH về quy hoạch bảo tồn ĐDSH; khu bảo tồn; bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật; bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên di truyền. Bên cạnh đó, một số vấn đề quy định trong Luật ĐDSH cần được quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành bổ sung như việc chuyển tiếp các khu bảo tồn thiên nhiên khi Luật ĐDSH có hiệu lực và một số vấn đề khác cũng được đưa vào dự thảo Nghị định. Xuất phát từ nhu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực ĐDSH, Chính phủ có thể ban hành Nghị định xử lý vi phạm hành chính về bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH trên cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 78 Luật ĐDSH 2008; Nghị định hướng dẫn về Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ việc tiếp cận nguồn gen (hướng dẫn vấn đề này nên xác định cụ thể cư dân cộng đồng tại vùng đệm của các khu bảo tồn là một bên liên quan trong ba bên được chia sẻ lợi ích theo quy định tại Điều 61 của Luật ĐDSH năm 2008; quy định đầy đủ nội dung các vấn đề trình tự, thủ tục tiếp cận nguồn gen, quản lý, chia sẻ lợi ích thu được, ); Nghị định về quản lý rủi ro của sinh vật biến đổi gen và mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi 32
- gen đối với ĐDSH và dịch vụ môi trường liên quan đến ĐDSH; Nghị định về việc điều tra, nghiên cứu, quan trắc và quản lý thông tin về ĐDSH[5]; Dự kiến trong năm 2011, Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành các Quyết định về việc ban hành quy chế quản lý khu bảo tồn và quy hoạch tổng thể ĐDSH toàn quốc đến năm 2020[6]. Bên cạnh đó, cần phải sửa đổi, ban hành mới các Thông tư liên tịch giữa Bộ Tài Nguyên và Môi trường với các Bộ có liên quan, cụ thể như sau[7]: - Sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 01/2003/TTLT-BTNMT-BNV giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường ở địa phương. - Thông tư liên tịch giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc khảo nghiệm và cấp phép nuôi trồng sinh vật ngoại lai. - Thông tư liên tịch giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về quản lý các loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ. - Thông tư liên tịch giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về cơ chế tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích. - Thông tư quy định hệ thống phân loại đất ngập nước Việt Nam. - Thông tư hướng dẫn trình tự, các bước lập, thẩm định, phê duyệt điều chỉnh quy hoạch bảo tồn ĐDSH. - Thông tư quy định về quan trắc và chế độ báo cáo ĐDSH. c. Cần có sự học hỏi, tiếp thu pháp luật các nước trên thế giới trong quá trình hoàn thiện pháp luật về Đa dạng sinh học ĐDSH là sự phong phú và đa dạng của sự sống, có vai trò sống còn đối với Trái đất. ĐDSH có nhiều giá trị to lớn, tập trung vào ba nhóm: giá trị kinh tế, giá trị nhân văn, và giá trị tài nguyên và môi trường. Việc bảo vệ các giá trị của ĐDSH là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, các nước có Luật ĐDSH đã quản lý và bảo vệ tốt nguồn tài nguyên đa dạng sinh học, đồng thời hạn chế các hoạt động làm suy giảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và 33
- ĐDSH. Vì vậy, việc tham khảo pháp luật nước ngoài về ĐDSH là hết sức cần thiết cho việc xây dựng pháp luật về ĐDSH ở Việt Nam[8]. Có thể đưa ra đây một số kinh nghiệm của các nước về các nội dung của vấn đề bảo tồn và phát triển ĐDSH của các nước như sau[9]: (i) Quy hoạch bảo tồn thiên nhiên (kinh nghiệm của Hungary): Để xác định nhiệm vụ và chính sách của nhà nước liên quan đến bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH; bảo đảm điều tra, đánh giá, bảo tồn và phục hồi các giá trị thiên nhiên và cảnh quan, nơi cư trú tự nhiên, các loài động, thực vật hoang dã và các di sản thiên nhiên; điều phối các nhiệm vụ liên quan, Hungary xây dựng quy hoạch tổng thể bảo tồn thiên nhiên quốc gia trong khuôn khổ của Chương trình bảo vệ môi trường quốc gia. Quy hoạch tổng thể bao gồm: xác định ranh giới các khu vực tự nhiên, xác định các quá trình và hoạt động quan trọng đối với bảo tồn đa dạng sinh học; các yêu cầu chung, nhiệm vụ của ngành và liên ngành để bảo tồn khu vực tự nhiên và giá trị thiên nhiên; các định hướng trung hạn và dài hạn để bảo tồn các khu vực và giá trị thiên nhiên cần được bảo vệ, thành lập các khu bảo tồn mới; các định hướng trung hạn và dài hạn để thành lập và duy trì mạng sinh thái và hành lang sinh thái; các định hướng trung hạn và dài hạn để thành lập và duy trì các hệ thống và khu vực nhạy cảm về môi trường; chương trình trung hạn và dài hạn cho nghiên cứu, phát triển, nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục và phổ biến hoạt động bảo tồn thiên nhiên; các nguyên tắc thành lập và hoạt động của hệ thống quan sát, thu thập dữ liệu, đăng ký và đánh giá các giá trị tự nhiên. (ii) Thành lập và quản lý các khu bảo tồn (kinh nghiệm của Nam Phi) Hệ thống khu bảo tồn của Nam Phi được phân hạng: - Khu bảo tồn thiên nhiên đặc biệt; - Khu di sản thế giới; - Khu rừng phòng hộ đặc biệt; - Lưu vực chân núi. Các khu bảo tồn ở Nam Phi được phân thành khu bảo tồn quốc gia, khu bảo tồn tỉnh và khu bảo tồn địa phương. Khi các khu bảo tồn được công bố, kế hoạch quản lý được xây dựng nhằm bảo vệ, bảo tồn và quản lý các khu bảo tồn. 34
- Bộ Môi trường và Du lịch chịu trách nhiệm thành lập và quản lý hệ thống khu bảo tồn. (iii) Quản lý hệ sinh thái, vùng sinh thái (kinh nghiệm của Slovenia) Về bảo tồn kiểu nơi cư trú, Luật bảo tồn thiên nhiên Slovenia quy định việc duy trì kiểu nơi cư trú ở trạng thái thuận lợi góp phần bảo tồn hệ sinh thái. Kiểu nơi cư trú ở trạng thái thuận lợi trong các điều kiện sau: phạm vi tự nhiên và khu vực của nó bao hàm trong phạm vi chung và ổn định; cấu trúc kiểu nơi cư trú và các quá trình tự nhiên hoặc sử dụng hợp lý bảo đảm khả năng tự bảo tồn của nó; không có các quá trình có thể huỷ hoại cấu trúc và chức năng của nó và do vậy đe doạ khả năng tự bảo tồn trong tương lai dự báo được; bảo đảm trạng thái thuận lợi của kiểu nơi cư trú đặc trưng. Khu vực quan trọng sinh thái: Là khu vực của kiểu nơi cư trú, một bộ phận của nó hoặc đơn vị hệ sinh thái lớn góp phần quan trọng vào bảo tồn ĐDSH. Khu vực quan trọng sinh thái bao gồm: - Khu vực kiểu nơi cư trú về đặc trưng sinh học là đặc biệt đa dạng hoặc được bảo tồn tốt; - Khu vực kiểu nơi cư trú hoặc đơn vị hệ sinh thái lớn góp phần quan trọng vào duy trì cân bằng tự nhiên bằng cách phân bố cân bằng về địa lý sinh vật với các khu vực quan trọng sinh thái khác và bằng cách tạo mạng sinh thái; - Đường di trú của động vật; - Khu vực đóng góp quan trọng vào dòng gen (genetic flow) giữa các quần thể của các loài động vật hoặc thực vật. Chính phủ xác định khu vực quan trọng về sinh thái và bảo đảm bảo vệ chúng thông qua các biện pháp bảo vệ các đặc trưng tự nhiên có giá trị; Nguyên tắc thực hiện, chế độ bảo tồn hoặc định hướng phát triển cụ thể hoá trong tư liệu là cơ sở nhiệm vụ của quy hoạch không gian và sử dụng tài sản thiên nhiên. Khu vực bảo vệ đặc biệt: Là khu vực quan trọng sinh thái, quan trọng để duy trì hoặc đạt tình trạng thuận lợi của các loài, nơi cư trú và kiểu nơi cư trú. Chính phủ quy định và bảo đảm bảo vệ chúng thông qua các biện pháp bảo vệ đặc trưng tự nhiên có giá trị. Nguyên tắc thực hiện, chế độ bảo vệ hoặc định hướng phát triển 35
- cụ thể hoá trong tư liệu là cơ sở nhiệm vụ của quy hoạch không gian và sử dụng tài sản thiên nhiên. (iv) Bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật (kinh nghiệm của Trung Quốc) Luật Bảo vệ đời sống hoang dã của Trung Quốc quy định Nhà nước bảo vệ đời sống hoang dã và môi trường sống của chúng và nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân săn bắn, đánh bắt và phá hoại đời sống hoang dã. Các sở, ban, ngành quản lý đời sống hoang dã các cấp giám sát và quan trắc tác động của môi trường đối với đời sống hoang dã, thường xuyên tiến hành điều tra các nguồn tài nguyên hoang dã và lưu trữ thông tin. Đồng thời, Luật cũng có những quy định nghiêm cấm săn bắn, đánh bắt hoặc giết hại các loài hoang dã thuộc danh mục được bảo vệ đặc biệt của Nhà nước; khuyến khích thuần hoá và gây giống các loài hoang dã; nghiêm cấm săn bắn hoặc đánh bắt các loài hoang dã và các hoạt động khác làm hại đến đời sống và sinh sản của các loài hoang dã trong các khu bảo tồn và các khu vực gần khu săn bắt và trong các mùa gần mùa săn bắn Bất cứ ai đánh bắt hoặc giết hại bất hợp pháp các loài hoang dã thuộc danh mục bảo vệ của Nhà nước sẽ bị khởi tố trách nhiệm hình sự. (v) Tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích (kinh nghiệm của Costa Rica) Luật ĐDSH Costa Rica quy định Nhà nước xây dựng các chính sách tiếp cận các nguồn gen và hoá chất sinh học của ĐDSH được bảo tồn nội vi hay ngoại vi. Các chính sách này sẽ đưa ra các quy định chung về việc tiếp cận các nguồn gen và hoá chất sinh học nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến ĐDSH. Các yêu cầu cơ bản trong việc tiếp cận là: - Sự đồng ý trước của đại diện nơi tiếp cận; - Sự đồng ý nói trên phải được thông qua bởi Văn phòng Kỹ thuật của Uỷ ban; - Các điều khoản chuyển giao công nghệ và phân phối công bằng lợi nhuận nếu có; - Xác định đóng góp của những hoạt động nói trên đối với việc bảo tồn các loài và hệ sinh thái; 36
- - Sự uỷ quyền cho một công dân đại diện hợp pháp trong nước nếu việc tiếp cận liên quan đến những thể nhân sống ở nước ngoài. d. Bổ sung chế tài đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường dẫn đến mất hay phá vỡ các hệ sinh thái và các sinh cảnh[10] - Bổ sung chế tài đối với hành vi sử dụng hóa chất bừa bãi gây ô nhiễm đất, nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp vào Nghị định số 182/2004/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; - Quy định hình thức xử phạt với các hành vi sử dụng làm xói mòn đất đai, sa mạc hoá đất đai, hành vi làm ô nhiễm đất trong thăm dò, khai thác khoáng sản hoặc sản xuất gạch ngói và các vật liệu xây dựng khác; - Bổ sung quy định xử phạt vi phạm hành chính với hành vi gây suy thoái, ô nhiễm khi sử dụng các loại đất khác (ngoài đất nông nghiệp) vào Nghị định số 182/ 2004/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. e. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã thể hiện tinh thần áp dụng chính sách kinh tế là một trong những chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường: “Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ môi trường” (Khoản 2 Điều 5). Trên cơ sở đó, Điều 112 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định về thuế môi trường; Điều 113 quy định về phí bảo vệ môi tr¬ường và Điều 114 quy định về ký quỹ cải tạo, phục hồi môi tr¬ường trong hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên. Theo quy định này, trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục xây dựng và ban hành các chính sách và văn bản pháp luật sau: - Luật Thuế Bảo vệ môi trường Nội dung chính của Luật này là phải khoanh vùng được các đối tượng nộp thuế và mức thuế phải phù hợp để vừa phải đảm bảo phát triển ngành khai thác các loại tài nguyên thiên nhiên vừa đảm bảo khai thác trong khả năng tái tạo đối với các loại tài nguyên tái tạo được và không tái tạo được và bảo vệ môi trường. Chính vì thế tất cả các tổ chức kinh doanh không phân biệt ngành nghề, hình thức khai thác, hoạt động thường xuyên hay không thường xuyên, có địa điểm hay không có 37
- địa điểm cụ thể, sử dụng và khai thác các thành phần môi trường, tài nguyên thiên nhiên của đất nước đều phải nộp thuế (phí) và mức phí có thể nên thay đổi theo hướng từ sản lượng thành phần môi trường được khai thác sang trữ lượng các thành phần môi trường được khai thác, có như thế mới khuyến khích các hoạt động khai thác, sử dụng các biện pháp tận thu, vừa tiết kiệm được tài nguyên thiên nhiên, vừa bảo vệ được môi trường. Các khoản thuế thu được phải được trích một phần xứng đáng để đầu tư trở lại cho vấn đề khắc phục và tái tạo môi trường. Điều này có thể thực hiện được khi hình thành cơ chế hoạt động của hệ thống quĩ môi trường và các ooại thuế sử dụng các thành phần môi trường sẽ là một trong nguồn cơ bản của quĩ môi trường. - Nghị định về hạn ngạch khai thác tài nguyên, ví dụ khai thác, đánh bắt thuỷ sản, khai thác khoáng sản, Hạn ngạch khai thác này có thể chuyển nhượng thông qua các giấy phép. - Nghiên cứu xây dựng văn bản sử dụng các loại công cụ khác như đặt cọc - hoàn trả, thưởng phạt, phí gây ô nhiễm phục vụ cho mục đích bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ ĐDSH nói riêng. 3.3.2. Hoàn thiện các biện pháp quản lí đa dạng sinh học. Thống nhất các biện pháp quản lý các khu bảo tồn( rừng, biển, đất ngập nước ) bằng việc xây dựng ban hành quy chế quản lý các khu bảo tồn. Cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa các Bộ với nhau. Để các quy định của pháp luật ĐDSH nói chung và Luật ĐDSH nói riêng sớm đi vào cuộc sống, cần tiến hành khẩn trương các hoạt động hỗ trợ: - Đưa bảo tồn ĐDSH vào giảng dạy trong nhà trường để giáo dục cho cộng đồng ngay từ khi còn nhỏ; - Giới thiệu, tập huấn cho các cán bộ liên quan từ Trung ương đến địa phương về nội dung của Luật ĐDSH, các văn bản hướng dẫn thi hành và cách thức tổ chức thực hiện; - Tuyên truyền, phổ biến về nội dung của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành cho cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về việc bảo tồn ĐDSH; 38
- - Tăng cường năng lực quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước về ĐDSH từ Trung ương đến địa phương; - Nâng cao nhận thức và hình thành ý thức trách nhiệm về bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH cho cộng đồng; - Thường xuyên xem xét, bổ sung và điều chỉnh lại Kế hoạch hành động ĐDSH quốc gia nhằm bảo đảm sự phù hợp của kế hoạch này với các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; - Xây dựng kế hoạch hành động ĐDSH cho các vùng; - Củng cố và mở rộng hệ thống quản lý các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, đồng thời phân cấp mạnh về quản lý. Xúc tiến xây dựng hệ thống bảo tàng thiên nhiên, từ cấp quốc gia đến cấp cơ sở để phục vụ các hoạt động nghiên cứu khoa học, phổ biến kiến thức, thăm quan, học tập, tuyên truyền, giáo dục về lịch sử phát triển tự nhiên và bảo tồn ĐDSH; - Đẩy mạnh công tác kiểm kê ĐDSH, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên động, thực vật; xây dựng, ban hành và phổ biến rộng rãi các Sách đỏ Việt Nam về các giống, loài quí hiếm để có chính sách bảo tồn nghiêm ngặt; - Đào tạo về bảo tồn ĐDSH cho các cán bộ quản lý rừng và các khu bảo tồn, các nhà khoa học và các đối tượng có liên quan; - Tiến hành nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ phục vụ việc khai thác và sử dụng bền vững các giá trị của ĐDSH, đặc biệt trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp và y tế. Khuyến khích việc nghiên cứu và áp dụng các tri thức bản địa trong việc sử dụng và bảo tồn ĐDSH; - Xây dựng và thử nghiệm một số đề án du lịch sinh thái; - Khuyến khích các cộng đồng xây dựng và thực hiện những quy ước chung nhằm bảo vệ ĐDSH tại địa phương; - Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực bảo vệ ĐDSH. 3.3.3. Đào tạo cán bộ về quản lí khoa học và môi tường, giáo dục, tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về bảo vệ môi trường 39
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục Pháp luật về môi trường. Phát huy tối đa hiệu quả hoạt động của hệ thống quản lí thông tin dữ liệu môi trường phục vụ quản lí Nhà nước về bảo vệ môi trường. 3.3.4. Xây dựng và hoàn thiện các chế tài trong việc xử lí các VBPL về đa dạng sinh học Sửa đổi, bổ sung những quy định xử phạt hành chính cho phù hợp với yêu càu về quản lí đa dạng sinh học hiện nay, ví dụ như những hành vi vi phạm về nhập khảu trái phép các sinh vật lạ, sinh vật biến đổi gen và sản phẩm của chúng, xuất khẩu trái phép tài nguyên. Xây dựng, ban hành các quy định về giải pháp bồi thường thiệt hại gây ra cho môi trường nói chung và cho các hệ sinh thái, giống, loài, tài nguyên gen nói riêng. Ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể việc xử phạt đối cới tội phạm về môi trường theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999. 3.3.5. Đánh giá tác động môi trường cho những dự án để ngăn ngừa những tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học Cần phải bổ sung thêm những quy định cụ thể về hình thức và mức độ tham gia của cộng đồng trong việc đánh giá tác động môi trường, giám sát các hoạt động của dự án sau khi đã có quyết định phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường. 3.3.6. Phát triển bền vững ngành du lịch sinh thái Cần phải tạo ra một cơ sở pháp lí cho hoạt động này. Ví dụ như: tạo cơ chế khuyến khích phát triển du lịch sinh thái, quy định về trách nhiệm bảo vệ hệ sinh thái, tài nguyên sinh học của từng đối tượng du khách, của những người, những tổ chức có trách nhiệm quản lí du lịch sinh thái. 3.3.7. Chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học Việt Nam được biết đến như một trung tâm ĐDSH của thế giới, với các hệ sinh thái tự nhiên, loài và nguồn gen phong phú, đa dạng. Tuy nhiên ĐDSH ở nước ta hiện đang suy thoái nhanh, với sự thu hẹp về diện tích của khu có ĐDSH cao, sự suy giảm và thất thoát số loài, số lượng cá thể và nguồn gen hoang dã. Bảo tồn ĐDSH đã được Việt Nam xác định là một trong 3 nội dung quan trọng nhất của công tác bảo vệ môi trường bên cạnh phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng của tính ĐDSH, Việt Nam đã tiến hành nhiều biện pháp tích cực để bảo vệ và quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên của mình. Một số kế hoạch chiến lược đã được Chính phủ và các bộ, ngành có liên quan xây dựng và 40
- đã, đang dần dần được triển khai thực hiện như: chiến lược bảo tồn Quốc gia (1985); kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững (1991); kế hoạch hành động lâm nghiệp nhiệt đới (1991); kế hoạch hành động ĐDSH Việt Nam (1995). Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH là một trong ba nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ môi trường (bên cạnh các nhiệm vụ phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường) được đề cập đến trong Văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo tồn ĐDSH đã được xây dựng và đang từng bước được hoàn thiện. Chính phủ Việt Nam đã sớm đề ra các chính sách bảo tồn ĐDSH. Đã có trên 60 văn bản pháp luật được ban hành kể từ 1958 đến nay. Bên cạnh đó, chúng ta cũng đã tham gia và ký kết các điều ước quốc tế về ĐDSH và tiến hành nội luật hóa các quy định của các điều ước này vào pháp luật quốc gia. Bộ Tài nguyên & Môi trường đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về ĐDSH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 thực hiện Công ước ĐDSH và Nghị định thư Cartagena về An toàn sinh học tại Quyết định số 79/2007/QĐ-TTg ngày 31/5/2007. Mục tiêu lâu dài của Kế hoạch hành động bảo vệ đa dạng sinh học của Việt Nam là bảo vệ sự đa dạng, độ phong phú và đặc sắc của sinh giới Việt Nam trong khuôn khổ của sự phát triển bền vững, bao gồm: - Bảo vệ các hệ sinh thái đặc thù của Việt Nam, các hệ sinh thái nhạy cảm đang bị đe doạ thu hẹp hay bị huỷ hoại do các hoạt động phát triển kinh tế của con người gây ra. - Bảo vệ các thành phần của đa dạng sinh học đang bị đe doạ do khai thác quá mức hay bị bỏ lãng quên. - Phát huy và phát hiện giá trị sử dụng của các thành phần đa dạng sinh học trên cơ sở khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và phát triển bền vững các giá trị tài nguyên thiên nhiên, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một trong những nguyên nhân của hiện trạng suy thoái ĐDSH của Việt Nam hiện nay được cho là do Việt Nam chưa có một bộ luật thống nhất và hệ thống để bảo vệ ĐDSH. Luật ĐDSH ra đời và chính thức có hiệu lực vào ngày 01/07/2009 được kỳ vọng sẽ lấp đầy khoảng trống này. Các chủ trương trên của Đảng và Nhà nước 41