Giáo trình Lý Luận văn học - Phạm Đăng Dư (Phần 2)

pdf 89 trang hapham 110
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lý Luận văn học - Phạm Đăng Dư (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ly_luan_van_hoc_pham_dang_du_phan_2.pdf

Nội dung text: Giáo trình Lý Luận văn học - Phạm Đăng Dư (Phần 2)

  1. Phần III Tác phẩm và loại thể văn học Ch−ơng I Tác phẩm nh− một chỉnh thể trung tâm của văn học I – Tác phẩm văn học là một chỉnh thể Sự vận động của một nền văn học bao giờ cũng dựa trên bốn yếu tố : thời đại – nhà văn – tác phẩm – ng−ời đọc, trong đó, tác phẩm là yếu tố trung tâm, quan trọng nhất. Tác phẩm văn học là đơn vị sáng tạo của nhà văn, là đối t−ợng th−ởng thức của ng−ời đọc, là kết quả của trình độ ý thức xã hội, ý thức thẩm mỹ thời đại, là chỉnh thể trung tâm của hoạt động văn học. Mọi quy luật, bản chất, đặc tr−ng, thuộc tính của văn học đều biểu hiện tập trung ở tác phẩm văn học, dù đó là một thiên sử thi đồ sộ hoặc chỉ là một câu tục ngữ ngắn gọn. Tác phẩm văn học tr−ớc hết là kết tinh của một quan hệ xã hội – thẩm mỹ nhiều mặt đối với đời sống. Tác phẩm văn học chính là th−ớc đo về tầm vóc tiếng nói nghệ thuật, chiều sâu phản ánh, trình độ nghệ thuật, tài năng sáng tạo của một tác giả, một dân tộc, một giai đoạn lịch sử. Các mối quan hệ văn học và hiện thực, văn học và giai cấp, nhân dân, văn học và triết học, chính trị, văn học và truyền thống văn hoá, t− t−ởng, nghệ thuật, chính là các bình diện bộc lộ giá trị đích thực của đời sống văn học mà chỉ có nghiên cứu tác phẩm văn học chúng ta mới có những nhận thức đó. Khi đã ra đời, tác phẩm văn học có một sinh mệnh riêng, tồn tại độc lập, v−ợt ra khỏi những dự tính ban đầu của nhà văn. Cuộc sống của nó có thể rất nhanh chóng rơi vào quên lãng song cũng có thể tr−ờng tồn cùng nhân loại. Nó có thể tập hợp những ng−ời cùng chí h−ớng, phân hoá những ng−ời khác lý t−ởng. Nó có thể đ−ợc tiếp nhận trong sự hồ hởi nồng nhiệt, hoặc trong sự căm phẫn lên án. Tác phẩm văn học, do vậy, chẳng những là một quan hệ xã hội mà còn là một quá trình xã hội, nghĩa là giá trị và ý nghĩa của nó luôn luôn biến đổi trong sự tiếp nhận. Đối với nhà nghiên cứu văn học, tác phẩm là đối t−ợng xem xét trực tiếp, chủ yếu. Nghiên cứu tác phẩm văn học để hiểu giá trị của nó, quy luật phản ánh đời sống của nó và sự phát triển của văn học. Có những giá trị tập trung nh− vậy chính vì tác phẩm văn học có một phẩm chất đặc biệt là tính chỉnh thể, nghĩa là tác phẩm có một sự thống nhất nội tại, mang tính tổ chức cao, tồn tại nh− một cơ thể sống. Đặc điểm này làm cho tác phẩm có một sức mạnh hoàn chỉnh, một sức sống độc lập tác động đến ng−ời đọc. Chỉnh thể là một tổng thể gồm các yếu tố có mối liên hệ mật thiết, 59
  2. nội tại, t−ơng đối vững bền, đảm bảo cho sự hoạt động của nó cũng nh− mối quan hệ với môi tr−ờng xung quanh. Chỉnh thể không phải là một tổng cộng giản đơn các yếu tố tạo nên nó. Một đống cát gồm vô số hạt cát rời rạc không phải là một chỉnh thể. Tổng cộng dây cung và cánh cung không làm thành cây cung có thể bắn đ−ợc tên. Chỉnh thể là một liên kết siêu tổng cộng đã tạo ra nội dung mới, chức năng mới vốn không có trong các yếu tố khi chúng tách rời ra. Chẳng hạn câu tục ngữ "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng" là một chỉnh thể, mà trong kết cấu vững bền của nó, mực và đèn, đen và sáng hàm chứa nội dung và ý nghĩa mà những chữ ấy thông th−ờng tách riêng ra không có đ−ợc. Về nguyên tắc, mọi tác phẩm văn học bất luận từ lớn hay nhỏ đều là những chỉnh thể nh− vậy. Tính chỉnh thể sở dĩ quan trọng đối với tác phẩm văn học bởi vì, chỉ trong tính chỉnh thể thì hình thức và nội dung đích thực của tác phẩm mới xuất hiện. Chẳng hạn, các chữ trong câu thơ phải đ−ợc kết hợp với nhau theo một cách nào đó mới tạo ra đ−ợc hình thức câu thơ lục bát hay câu thơ tự do có nhịp điệu và nhạc điệu riêng, một điều mà các chữ trong dạng tách rời không thể có đ−ợc. Cũng nh− vậy, sự liên kết giữa các chi tiết tạo hình, sự kiện theo một cách nào đó mới dựng lên đ−ợc phong cảnh, chân dung, nhân vật, cốt truyện, Và chính các yếu tố hình thức ấy góp phần thể hiện các nội dung cuộc sống và t− t−ởng, tình cảm t−ơng ứng. Nh− vậy, nội dung và hình thức tác phẩm vừa là hệ quả của sự thống nhất nội tại các yếu tố tác phẩm, vừa là quy luật chỉnh thể của tác phẩm. Nhà văn khi ch−a tạo nên chỉnh thể tác phẩm thì cũng ch−a tạo ra cho tác phẩm một nội dung và hình thức xác định. Nhà nghiên cứu khi xem xét sự phản ánh hiện thực của tác phẩm, nếu thoát ly tính chỉnh thể có nguy cơ dẫn đến việc đối chiếu trực tiếp, giản đơn các yếu tố tác phẩm với nguyên mẫu ở ngoài đời. Cách làm đó th−ờng không mang lại kết quả mong muốn. Chẳng hạn, có ý kiến cho chi tiết "Tiếng Ng−ời thét : Mau lên g−ơm lắp súng" trong bài Hồ Chí Minh của Tố Hữu "không giống" thực và Bác Hồ trong bài Sáng tháng Năm viết sau đó đ−ợc thể hiện giống hơn : "Giọng của Ng−ời không phải sấm trên cao, Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong −ớc". Thực ra, ở bài trên, Bác Hồ trong hình t−ợng ng−ời lính già chỉ huy đoàn quân thì giống, còn trong tr−ờng hợp d−ới, giữa khung cảnh gần gũi thân mật "Bàn tay con nắm tay Cha", thì lời Bác nhỏ nhẹ là giống. Cả hai đều thích hợp trong cấu tứ của mỗi bài. Rõ ràng chỉ có dựa vào tính chỉnh thể của tác phẩm mới có cơ sở để đánh giá đúng chân giá trị và phong cách nghệ thuật của tác phẩm. Dĩ nhiên, khi đánh giá một tác phẩm, việc đối chiếu với đời sống có ý nghĩa quan trọng nh−ng vấn đề đặt ra là đối chiếu trong chỉnh thể, trong toàn bộ, chứ không phải từng yếu tố cô lập, rời rạc. Chính vì tính chỉnh thể của tác phẩm văn học có tầm quan trọng nh− vậy mà từ x−a đến nay, không một tr−ờng phái lý luận mỹ học và văn học nào bỏ qua đ−ợc vấn đề đó. Nhìn chung, mỹ học cổ điển th−ờng xem tính chỉnh thể của tác phẩm văn học, nghệ thuật nh− là một phẩm chất tự sinh, thể hiện ở tính tổ chức cao, chặt chẽ, tác phẩm ví nh− cơ thể sống, tự nhiên. Đó là sự ghi nhận đúng nh−ng không khỏi có phần lý t−ởng hoá và thần bí hoá tính chỉnh thể. Arixtốt trong Nghệ thuật thơ ca đã xác định cơ sở của chỉnh thể tác phẩm là sự thống nhất hành động, là sự mô phỏng một hành động thống nhất. Trên cơ sở xem nghệ thuật là sự tự ý thức của một ý niệm tuyệt đối, mà sự tự ý thức ấy chỉ thực hiện trong những cá tính mang nhiệt tình của các lực 60
  3. l−ợng phổ biến, Hêghen đã xem tính cách là "Hình thức chỉnh thể nội tại" của tác phẩm. Biêlinxki khẳng định t− t−ởng là yếu tố quyết định của chỉnh thể tác phẩm : "Nh− một hạt giống vô hình, t− t−ởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ, và từ mảnh đất màu mỡ ấy nó triển khai và phát triển thành một hình thức xác định, thành các hình t−ợng tràn đầy vẻ đẹp và sức sống, và cuối cùng nó là một thế giới hoàn toàn đặc thù, nhất quán". Đề cao vai trò năng động của chủ thể nhà văn trong sáng tác, L. Tônxtôi nhấn mạnh đến thái độ đạo đức độc đáo của tác giả nh− là yếu tố then chốt của chỉnh thể tác phẩm, quy định sự liên kết mọi yếu tố, chi tiết để tạo thành tác phẩm : "Chất xi măng kết dính tác phẩm thành một khối và vì vậy mà sản sinh ra ảo giác về sự phản ánh sự sống là sự thống nhất của một thái độ đạo đức độc đáo của thế giới đối với đối t−ợng". Cũng có ý kiến cho rằng, phong cách và cá tính sáng tạo của nghệ sĩ là nguồn gốc tạo thành tính chỉnh thể của tác phẩm. Ngày nay, chỉnh thể tác phẩm đ−ợc nhận thức qua khái niệm "thế giới nghệ thuật". Khái niệm thế giới nghệ thuật dùng để chỉ một phạm vi đời sống chỉ có trong nghệ thuật. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đ−ợc coi là một thế giới, có không gian, thời gian riêng, quan niệm đạo đức riêng, thang bậc giá trị riêng, với các quy luật nghệ thuật đặc thù chi phối. Thế giới ấy có những kiểu ng−ời, kiểu sự kiện phù hợp. Thế giới truyện cổ tích là thế giới mà con ng−ời, loài vật, cây cối, thần phật, đều nói chung một thứ tiếng ng−ời, là thế giới của những điều kỳ diệu (đôi hài bảy dặm, nồi cơm Thạch Sanh, tấm thảm bay, ), ng−ời hiền gặp lành, kẻ ác bị trừng trị. Mỗi thế giới nghệ thuật ứng với một quan niệm của tác giả về con ng−ời và thế giới. Khái niệm này h−ớng ta tìm kiếm những quy luật chung, ý t−ởng chung chi phối tác phẩm nghệ thuật, mở ra khả năng thống nhất mọi yếu tố tác phẩm, bao quát đ−ợc tác phẩm nh− một chỉnh thể toàn vẹn, sinh động, có linh hồn. Để phân tích tính chỉnh thể, tức sự vẹn toàn thống nhất của tác phẩm, cần phải thừa nhận sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức. Sự thống nhất này diễn ra trên tất cả các cấp độ của chỉnh thể, từ bộ phận đến toàn thể. Chính trong mối quan hệ này ta nhận thấy, mọi bộ phận trong một chỉnh thể đều có nội dung và hình thức riêng của nó. Muốn nắm bắt hình thức và nội dung của tác phẩm, phải tìm hiểu sự liên kết, tác động và chuyển hoá lẫn nhau của các mặt nội dung, hình thức của tất cả các bộ phận của tác phẩm. Nh−ng chỉnh thể tác phẩm là rất đa dạng, các bộ phận của chúng có số l−ợng lớn và chất l−ợng khác nhau, không lặp đi lặp lại (chẳng hạn chỉnh thể một bài thơ so với chỉnh thể một bộ tiểu thuyết). Vì thế, tr−ớc hết phải nắm bắt đ−ợc cấu trúc chỉnh thể. Cấu trúc là ph−ơng thức tác động và quy định nhau của yếu tố (thành phần) của chỉnh thể. Nhiều mối liên hệ, tác động có ph−ơng thức giống nhau quy về một cấu trúc. Nhìn chung cấu trúc chỉnh thể tác phẩm đ−ợc chia gồm bốn cấp độ nh− sau : a) Cấp độ ngôn từ Đọc bất cứ tác phẩm văn học nào ta cũng bắt gặp một văn bản ngôn từ. Đó là lớp lời văn của tác phẩm, tạo thành khách thể tiếp nhận trực tiếp của ng−ời đọc. Lớp này bao gồm mọi thành phần của ngôn từ và lời văn nh− âm thanh, từ ngữ, nhịp điệu, câu, đoạn, ch−ơng, phần trong 61
  4. truyện; vần, nhịp điệu, câu thơ, khổ thơ trong câu thơ ; màn, lớp, cảnh trong kịch. Đặc điểm của lớp này là trực tiếp chịu sự quy định của các quy luật ngôn ngữ nh− ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, phong cách học ; đồng thời lại chịu sự chi phối của quy luật thơ văn, thể loại. Chỉnh thể phong cách ngôn ngữ và trần thuật xuất hiện ở lớp này. b) Cấp độ hình t−ợng Xuyên qua lớp ngôn từ ta bắt gặp các chi tiết tạo hình, các tình tiết, sự kiện và từ đó hiện lên các sự vật, phong cảnh, con ng−ời, quan hệ, xã hội, thế giới. Đó là lớp tạo hình và biểu hiện đ−ợc tổ chức theo nguyên tắc miêu tả, quan sát, ký ức, liên t−ởng, biểu hiện. Lớp này th−ờng có các bộ phận chính nh− nhân vật và hệ thống nhân vật, cốt truyện, không gian, thời gian, Ng−ời ta th−ờng gọi lớp này là "bức tranh đời sống", là "hình thức của bản thân đời sống" của tác phẩm. ở cấp độ này xuất hiện phong cách nghệ thuật của tác phẩm. c) Cấp độ kết cấu Toàn bộ tổ chức của các lớp trên cùng là sự thâm nhập, chi phối lẫn nhau của chúng, tạo thành cấp độ kết cấu của tác phẩm. Sự thống nhất văn bản với hình t−ợng tạo thành nghệ thuật trần thuật. Thành phần của nó bao gồm toàn bộ các liên hệ, ghép nối của các yếu tố hình t−ợng, các ph−ơng tiện tổ chức, sự phối hợp của các chủ thể lời văn với hình t−ợng. Lớp này trực tiếp do quy luật thể loại và ý đồ nghệ thuật của tác giả chi phối. d) Cấp độ chỉnh thể Sự thống nhất của cả ba lớp trên tạo thành lớp có ý nghĩa tồn tại trong toàn bộ chỉnh thể. Nó bao gồm các thành phần nh− đề tài, chủ đề, sự lý giải các hiện t−ợng đời sống, các cảm hứng đánh giá, cảm xúc, các tình điệu thẩm mỹ. Đây là cấp độ nội dung chỉnh thể chi phối toàn bộ tác phẩm. Cấp độ này trực tiếp bị chi phối bởi các nguyên tắc tạo hình của tác phẩm, lập tr−ờng t− t−ởng, tình cảm, vốn sống và các truyền thống văn hoá nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nhà văn, và tr−ớc hết, bị chi phối bởi bản thân hiện thực. Sự phân chia các cấp độ nh− trên phù hợp với kinh nghiệm của ng−ời đọc. Ng−ời đọc phải có trình độ văn hoá ngôn từ mới "qua" đ−ợc cấp độ ngôn từ, lại phải có kinh nghiệm sống mới đọc đ−ợc cấp độ hình t−ợng, phải có trình độ văn hoá nghệ thuật mới đọc ra lớp thứ ba và cuối cùng phải có một quan hệ t− t−ởng thẩm mỹ tích cực đối với đời sống mới chiếm lĩnh hết cấp độ cuối cùng. Sự phân chia ấy cũng phù hợp với cấu trúc chỉnh thể, bởi tác phẩm văn học là một chỉnh thể bao gồm nhiều cấp độ. Mỗi cấp độ này có quy luật và đặc điểm riêng của nó. Mọi yếu tố nội dung và hình thức đều tồn tại ở từng cấp độ, góp phần tham gia vào việc tạo hình thức và nội dung của tác phẩm. 62
  5. II – Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học 1. Nội dung của tác phẩm văn học Vấn đề nội dung và hình thức chiếm vị trí hết sức quan trọng bởi vì tr−ớc hết, nó gắn liền với bản chất, chức năng của văn học đối với đời sống, gắn với quy luật phát triển của văn học. Đối với từng tác phẩm, nội dung và hình thức là phạm vi chủ yếu thể hiện giá trị t− t−ởng và nghệ thuật của nó. Khái niệm nội dung và hình thức trong văn học có nhiều cấp độ. Nếu hiện thực trong toàn bộ quan hệ đối với con ng−ời là đối t−ợng của văn học thì tác phẩm văn học là hình thức phản ánh đời sống đặc thù. Nh−ng trong bản thân mình, tác phẩm văn học có nội dung và hình thức của nó. Nội dung của tác phẩm bắt nguồn từ mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Đó là một quan hệ nhất định của con ng−ời đối với hiện t−ợng đời sống đã đ−ợc phản ánh. Đó vừa là cuộc sống đ−ợc ý thức, vừa là sự ý thức, cảm xúc – đánh giá đối với cuộc sống đó. Nói cách khác, nội dung tác phẩm văn học là một thể thống nhất giữa khách quan và chủ quan, trong đó vừa có phần nhà văn khái quát, tái hiện đời sống khách quan vừa có phần bắt nguồn từ cảm xúc, huyết mạch, lý t−ởng của tác giả. Quả vậy, tác phẩm văn học bao giờ cũng tái hiện một đời sống, làm nhớ đến một hiện thực nào đó. arixtốt đã nói đến sự "mô phỏng" các tính cách, các hành động để tạo nên nội dung nghệ thuật. Nhà dân chủ cách mạng Nga Sécn−sépxki, với ý thức về sứ mệnh cải tạo xã hội của văn học, đã nhấn mạnh ph−ơng diện chủ quan trong nội dung tác phẩm. Ông nói tới ba khía cạnh của nội dung văn học : – Tái hiện các hiện t−ợng hiện thực mà con ng−ời quan tâm ; – Giải thích cuộc sống, làm sao cho nó tốt hơn ; – Đề xuất, phán xét đối với các hiện t−ợng đ−ợc mô tả. Ông khẳng định : "Thể hiện sự phán xét đó trong tác phẩm là một ý nghĩa mới của các tác phẩm nghệ thuật, nhờ đó nghệ thuật đứng vào hàng các hoạt động t− t−ởng, đạo đức con ng−ời". T− t−ởng văn học Trung Hoa từ th−ợng cổ cũng đã rất coi trọng nội dung khách quan của văn học. Khái niệm "đạo" ở các sách x−a thoạt kỳ thuỷ đ−ợc hiểu nh− quy luật khách quan vô hình, nh−ng thể hiện ở trong tất cả, sau đ−ợc các thánh hiền đúc kết thành kinh điển của đạo đức phong kiến, rồi biến thành "đạo thánh hiền", đ−ợc phô diễn thành các công thức nh− "văn dĩ minh đạo", "văn dĩ tải đạo". Ng−ời x−a coi đó là gốc của văn. Nh−ng cái đạo vô hình có thể hiện hình thành "đức", thành sự vận động của "khí", có thể tạo thành xu thế của tâm là "chí". Các yếu tố ấy đ−ợc coi là nội dung của văn thơ. Chẳng hạn "thơ để nói chí", "văn lấy khí là chủ", "văn làm sáng đức", "văn để chở đạo", Mặc dù ch−a phân biệt đ−ợc nội dung đặc thù của văn học, cũng nh− ch−a có ý niệm rạch ròi về đặc tr−ng "văn" của văn học, các công thức đó đã đề cập đến ph−ơng diện chủ quan của con ng−ời bao gồm tâm hồn ("chí"), tính cách ("khí"), ("thần khí"), phẩm chất ("đức", "đạo"). Tái hiện thế giới, biểu hiện tâm tình là nội dung của văn thơ. L−u Hiệp viết trong "Thiên vật sắc" của Văn tâm điêu long : "Nhà thơ cảm xúc tr−ớc sự vật, liên t−ởng đến các loại khôn 63
  6. cùng. Trong các cảnh bao la muôn vàn hình t−ợng, nhà thơ trầm ngâm, nghe ngắm, tả lại khí chất, vẽ lại dung mạo của chúng. Nhà thơ theo sự vật mà gửi tâm trí, lại còn thêm sắc thái, góp âm thanh, tâm trạng cũng vì thế mà bồi hồi". Đồng thời, nội dung văn học không chỉ là sự vô tình mà còn là sức mạnh giáo hoá, biến đổi phong tục mà L−u Hiệp gọi là phong trong quan niệm phong cốt. Ph−ơng diện chủ quan cũng không chỉ ở chỗ cảm xúc, mà còn là lý t−ởng và tinh thần ý chí chiến đấu cho lý t−ởng.Tinh thần đó đ−ợc truyền đạt trong câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu : "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm - Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà". Nh−ng nội dung của tác phẩm văn học không phải là số cộng giản đơn của hai ph−ơng diện khách quan và chủ quan mà là một quan hệ biện chứng xuyên thấm lẫn nhau của chúng. Nội dung đích thực của tác phẩm văn học là cuộc sống đ−ợc lý giải, đánh giá, −ớc mơ, là nhận thức và lý t−ởng, nỗi niềm đã hoá thành máu thịt hiển hiện, chứ không phải là khái niệm về hiện thực hoặc khái niệm về lý t−ởng và tình cảm. Nhà thơ Mai Khánh Du đời Tống (Trung Quốc) đã nói nội dung thơ là cái mà tác giả cảm thụ trong lòng. Nội dung tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao) không đơn giản là số phận của một kẻ bị l−u manh hoá trong xã hội thực dân phong kiến, mà còn là một lời tố cáo xã hội, một sự trình bày những khát vọng nhân đạo, một sự thức tỉnh đối với ng−ời đọc về khả năng thiện tính của con ng−ời. Nh− vậy, nội dung tác phẩm không phải giản đơn là cái hiện thực đ−ợc miêu tả mà là một quan hệ chủ quan – khách quan đ−ợc dấy lên trong tác phẩm. Đó là cái nội dung toàn vẹn, phong phú, nhiều bình diện độc đáo của nghệ thuật đòi hỏi phải thể hiện qua hình thức nghệ thuật. 2. Hình thức của tác phẩm văn học Hình thức là sự biểu hiện của nội dung, là cách thể hiện nội dung. Nhà văn sáng tạo hình thức phải dùng thủ pháp, ph−ơng tiện nghệ thuật. Nh−ng thủ pháp, ph−ơng tiện đ−ợc lẩy ra một cách trừu t−ợng cũng ch−a phải là hình thức. Chất liệu và ph−ơng tiện nghệ thuật chỉ trở thành hình thức nghệ thuật chừng nào nó trở thành sự biểu hiện của nội dung, trở thành hình thức có tính nội dung của một nội dung cụ thể. Chính vì vậy, hình thức của tác phẩm văn học mang tính thẩm mỹ, không lặp lại. Lấy thể lục bát mà nói, lục bát của Nguyễn Du, của ca dao, của Nguyễn Bính, của Tố Hữu đều không giống nhau. Lấy bài, thì lục bát trong Bà bủ, Bầm ơi, Việt Bắc, N−ớc non ngàn dặm của Tố Hữu đều không giống nhau. Lục bát trong bài Bà bủ đầy vẻ dân dã, thô mộc ; lục bát trong Việt Bắc đã đ−ợc trau chuốt đến mức tuyệt đỉnh của sự êm ái, réo rắt và hài hoà, nh−ng không mất vẻ hồn hậu của tiếng hát đồng quê; lục bát ở N−ớc non ngàn dặm là khúc trữ tình vừa phóng khoáng, vừa thâm trầm và nhịp điệu đa dạng. Là những nhà thơ, mấy ai lại không dùng ví von, nh−ng ví von của ca dao, của thơ Tố Hữu, Xuân Diệu, Chính Hữu, mỗi ng−ời mỗi khác. Cũng vậy, sự đối lập, t−ơng phản trong thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên với t−ơng phản trong câu thơ Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, chẳng ai giống ai. Hình thức mang tính nội dung chính là khái niệm chỉ hình thức nh− là ph−ơng thức hình thành, xuất hiện của một nội dung nhất định. Hình thức có mặt trong toàn tác phẩm. Hình thức không chỉ có trong ngôn ngữ, kết cấu, cốt truyện, những yếu tố vốn th−ờng coi là thuộc về hình thức. Hình thức có cả trong nhân vật. Khi nói nhân vật, ng−ời ta th−ờng phân tích tính cách, cả các chi tiết, hành động biểu hiện tính cách đó. Nh−ng nhân vật cũng có hình thức chi phối sự lựa 64
  7. chọn các chi tiết, hành động dùng để miêu tả nhân vật. Chẳng hạn hình thức nhân vật trong truyện cổ tích khác với hình thức nhân vật văn học viết. Hình thức nhân vật tự sự, kịch đều không giống nhau. Tính cách là nội dung xã hội của nhân vật đ−ợc thể hiện trong tính cụ thể cá biệt. Nh−ng tính cách cũng là sự phát hiện khái quát, sáng tạo độc đáo của nhà văn, mang dấu ấn của quan niệm nhà văn và của thời đại. Hình thức của tính cách là một dạng của quan niệm về tính cách, là quy luật chi phối sự miêu tả tính cách. Chẳng hạn, Từ Hải là một tính cách phản kháng triều đình chuyên chế, tìm kiếm tự do cá nhân, thiết lập công lý dân chủ, đ−ợc biểu hiện nổi bật qua các chi tiết tạo hình, biểu hiện của nhân vật. Tĩnh cách ấy có một hình thức là quan niệm con ng−ời hình thành trên cơ sở truyền thống nghệ thuật Trung Quốc và Việt Nam. Tr−ớc hết, đó là con ng−ời của chí khí mà mọi hành động, việc làm đều gắn với việc tỏ rõ chí khí. Thứ hai, đó là con ng−ời của vũ trụ, hành động theo tiếng gọi của "bốn ph−ơng" theo luật công bằng của tạo hoá. Thứ ba, Từ Hải đ−ợc miêu tả nh− một "đấng" tài tình trong hàng tài tử giai nhân. Quan niệm ấy đã quy định các nguyên tắc lựa chọn chi tiết và miêu tả nhân vật. Nó tạo cho nhân vật một vầng hào quang lãng mạn cổ x−a, một tầm cỡ hùng vĩ mà thực tại không dung và cũng không phù hợp với thực tại. Khi đặt Từ Hải vào lĩnh vực sống còn của hiện thực thì nhân vật sắc sảo bỗng trở nên "m−ời phân hồ đồ", và Từ Hải đã chết. Nhìn chung, đó cũng là quan niệm tác giả dùng để thể hiện các nhân vật tài tình khác của Truyện Kiều. Tính cách xã hội trong tác phẩm khác với tính cách xã hội trong thực tế ở chỗ nó đ−ợc khắc hoạ theo hình thức của nhân vật. Đề tài t− t−ởng là yếu tố nội dung đ−ợc thể hiện qua toàn bộ thế giới hình t−ợng nh− nhân vật, xung đột, cốt truyện, ngôn ngữ. Nh−ng mọi đề tài đều có hình thức riêng là không gian và thời gian, cách nhìn. T− t−ởng cũng có hình thức riêng mang tính lịch sử trong hình t−ợng. Chẳng hạn t− t−ởng tự do trong nhân vật Từ Hải. Đó là sự thoát khỏi thực trạng trói buộc, tự do vẫy vùng cho phỉ chí bình sinh trong vũ trụ, khác rất nhiều với t− t−ởng tự do ở Ph−ơng Tây đ−ơng thời, gắn liền với tự do kinh doanh, tự do trong xã hội, tự do cá tính. Tóm lại, hình thức tồn tại trong toàn tác phẩm nh− là tính xác định của nội dung, sự biểu hiện của nội dung. ứng với nội dung nhiều cấp độ có hình thức nhiều cấp độ. Tuy nhiên, hình thức tác phẩm không phải là tổng cộng của các mặt hình thức của các cấp độ, các yếu tố mà là một hệ thống hình thức chỉnh thể, trong đó chẳng những có sự thống nhất hình thức với nội dung mà còn có sự thống nhất quy định, phụ thuộc nhau giữa các mặt hình thức của các yếu tố, các cấp độ của chỉnh thể. Sự thống nhất đó tạo nên giá trị thẩm mỹ toàn vẹn của tác phẩm văn học. 3. Sự thống nhất nội dung và hình thức của tác phẩm văn học Trong những tác phẩm văn học có giá trị, hình thức thống nhất với nội dung. Có lẽ không ai diễn đạt sự thống nhất này mạnh mẽ hơn Biêlinxki. Nhà phê bình Nga viết : "Trong tác phẩm nghệ thuật, t− t−ởng và hình thức phải hoà hợp với nhau một cách hữu cơ nh− là tâm hồn và thể xác, nếu huỷ diệt hình thức thì cũng có nghĩa là huỷ diệt t− t−ởng và ng−ợc lại cũng vậy". Ông cho rằng : "Khi hình thức là biểu hiện của nội dung thì nó gắn chặt với nội dung tới mức nếu tách 65
  8. nó khỏi nội dung có nghĩa là huỷ diệt bản thân nội dung ; và ng−ợc lại, tách nội dung ra khỏi hình thức, có nghĩa là tiêu diệt hình thức". Trong tác phẩm văn học, hình thức là cái để biểu hiện nội dung, hình thức phải phù hợp với nội dung. Mối quan hệ này bắt nguồn từ chỗ nhà văn có nhu cầu phát biểu quan điểm, sự đánh giá về một nội dung nào đó của hiện thực d−ới hình thức nghệ thuật. Trong quan hệ nội dung và hình thức của tác phẩm văn học, nội dung đóng vai trò quyết định còn hình thức góp phần định hình và biểu hiện nội dung đó. Trong một tác phẩm cụ thể, nội dung quyết định việc lựa chọn hình thức thể loại, ngôn ngữ, nhân vật, kết cấu, chi tiết, Để diễn tả những xúc cảm của con ng−ời đối với thế giới, nghệ sĩ th−ờng tìm đến thể loại trữ tình. Với mục đích răn dạy, giáo huấn về chân lý đời sống phổ biến, giản dị, thể loại ngụ ngôn là rất phù hợp. Để trình bày dự cảm sâu xa về sự truyền kiếp của những số phận nh− Chí Phèo, Nam Cao đã để cho hình ảnh cái lò gạch xuất hiện đầu và cuối tác phẩm. Nội dung khiến xuất hiện hình thức phù hợp để biểu hiện nó. Do đó hình thức phù hợp với nội dung trở thành tiêu chuẩn để đánh giá tác phẩm nghệ thuật. Hêghen nói : "Chỉ những tác phẩm nghệ thuật mà nội dung và hình thức đồng nhất với nhau mới là những tác phẩm nghệ thuật đích thực". Nội dung quyết định hình thức không có nghĩa là thoạt đầu nhà văn sáng tạo toàn bộ nội dung, sau đó sáng tạo toàn bộ hình thức phù hợp. Hình thức xuất hiện ngay trong ý đồ và cấu tứ đầu tiên, sau đó nội dung tác phẩm cũng lớn lên, hoàn thiện và phong phú thêm cùng hình thức của nó. ở đây có sự chuyển hoá nội dung vào hình thức và ng−ợc lại. Hêghen nói : "Nội dung chẳng phải là cái gì khác, mà chính là chuyển hoá của hình thức vào nội dung, và hình thức cũng chẳng có gì khác hơn là sự chuyển hoá của nội dung vào hình thức". Sự chuyển hoá này diễn ra không phải theo một cách đơn giản và máy móc, nghĩa là một t− t−ởng, cảm xúc đ−ợc biến thành ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu và ng−ợc lại, ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu biến thành cảm xúc. Vấn đề là nội dung phải trở thành nội dung đ−ợc diễn đạt d−ới một hình thức cụ thể và ng−ợc lại. Ví nh−, tình cảm quê h−ơng (một nội dung) đã đ−ợc thể hiện trong những cảm xúc đối với dòng sông quê h−ơng (nội dung này mang tính hình thức hay là một nội dung đã đ−ợc diễn đạt bằng hình ảnh – một yếu tố hình thức). Ng−ợc lại, một hệ thống hình ảnh "con sông xanh biếc", "N−ớc g−ơng trong soi tóc những hàng tre", "Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi", "sông mở n−ớc ôm tôi vào dạ", (Nhớ con sông quê h−ơng – Tế Hanh) chính là yếu tố hình thức mang một nội dung cụ thể, hình ảnh cảm tính, cụ thể về con sông thân thuộc, yêu th−ơng trong dòng tình cảm quê h−ơng của nhà thơ. Trong sáng tạo nghệ thuật, sự chuyển hoá đó là tất yếu. Mỗi vật liệu tham gia vào tác phẩm nghệ thuật đều có một nội dung và hình thức của nó. Nhà văn đã biến đổi và phát triển nội dung và hình thức của chất liệu, biến chúng thành hình thức thống nhất, thể hiện nội dung duy nhất của tác phẩm. Tuy nhiên, hình thức cũng có tính độc lập t−ơng đối, có tính tích cực riêng biệt. Tính độc lập t−ơng đối này biểu hiện ở chỗ nó th−ờng có tính bảo thủ so với nội dung hoặc khi phù hợp với nội dung có thể phát huy mạnh mẽ sức tác động của nội dung, còn trong tr−ờng hợp ng−ợc lại, cũng có tác động không nhỏ. Gớt đã nói : "Những hình thức thơ ca khác nhau sẽ gây ra một ảnh h−ởng bí ẩn lớn lao. Nếu trình bày nội dung các bi ca La Mã của tôi d−ới thanh điệu và khuôn khổ hài kịch Đông Gioăng của Bairơn thì tất cả những điều đã nói trong đó sẽ trở nên thô bỉ". 66
  9. Chính sự thống nhất các yếu tố nội dung và hình thức đã tạo nên sức mạnh t− t−ởng – nghệ thuật của chỉnh thể tác phẩm văn học. Lịch sử văn học cho thấy, đúng nh− lời của nhà văn Xô viết Lêônốp : "Tác phẩm nghệ thuật đích thực, nhất là tác phẩm ngôn từ, bao giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung"(1). Sự phù hợp giữa hình thức và nội dung phải đ−ợc xem xét trong hiệu quả phản ánh những chân lý sâu sắc của đời sống, biểu hiện nổi bật tinh thần thời đại. Chỉ trong t−ơng quan đó, sự thống nhất nội dung và hình thức mới thật sự mang lại những giá trị lớn lao cho kho tàng văn nghệ dân tộc và thế giới. (1) Chuyển dẫn từ Khrápchenco, Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con ng−ời, NXB Khoa học xã hội, H., tr. 204. 67
  10. h−ớng dẫn học tập 1. Tính chỉnh thể của tác phẩm văn học là gì ? Tại sao phải nghiên cứu tác phẩm trong tính chỉnh thể của nó ? (Phân tích bằng ví dụ cụ thể). – Trong các yếu tố tạo nên quá trình văn học, tác phẩm là một sự kết tinh quan hệ lịch sử – xã hội, nghệ thuật nhiều mặt. – Có đ−ợc giá trị và sức mạnh nh− vậy bởi vì tác phẩm văn học là một chỉnh thể toàn vẹn, có một sức sống riêng biệt và độc lập, để qua đó, ng−ời đọc có thể tiếp nhận đ−ợc giá trị lịch sử, t− t−ởng xã hội, văn hóa nghệ thuật của tác phẩm. Khi nói đến tính chỉnh thể của tác phẩm văn học là nhấn mạnh đến sự thống nhất của tất cả các yếu tố trong tác phẩm để tạo nên một thực thể sinh động, toàn vẹn, có sức sống hoàn chỉnh nội tại. Chỉnh thể tác phẩm văn học là sự liên kết "siêu tổng cộng" các yếu tố trong tác phẩm (từ từ ngữ, nhịp điệu, hình ảnh đến nhân vật, kết cấu, ) để tạo thành những hình t−ợng, những t− t−ởng, những quan niệm với những chức năng mới, nội dung và ý nghĩa mới vốn không có khi chúng tách rời ra. Trong câu thơ của Nguyễn Bính : "Anh đi đấy, anh về đâu - Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm ", ý nghĩa trừu t−ợng của câu thơ (số phận lênh đênh, trôi dạt, vô h−ớng của kiếp ng−ời) là ý nghĩa có đ−ợc khi kết hợp câu hỏi : đi đấy, về đâu, khi hình ảnh cánh buồm đ−ợc lặp lại ba lần và mở ra vô định với dấu chấm lửng cuối câu. Trong kết cấu vững bền của câu thơ, hình ảnh cánh buồm đã hàm chứa những nội dung và ý nghĩa mà khi đứng tách riêng ra hình ảnh đó không có ý nghĩa nh− vậy. – Chỉ trong một chỉnh thể nhất định, mọi yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm mới có ý nghĩa nghệ thuật cụ thể. Sự xuất hiện của hình ảnh "áo anh sứt chỉ đ−ờng tà" là cái cớ dẫn đến lời tự giới thiệu của anh trai làng "Vợ anh ch−a có mẹ già ch−a khâu" (ca dao). Còn trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, "áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá" là dấu hiệu để xác định nét giống nhau của ng−ời lính cách mạng thời kháng chiến chống Pháp. Sự lặp lại của điệp khúc "Chú bé loắt choắt" trong đoạn cuối bài thơ L−ợm của Tố Hữu đã khẳng định L−ợm còn sống mãi với quê h−ơng đất n−ớc. – Tính chỉnh thể đã tạo nên sự thống nhất tất cả các yếu tố trong tác phẩm, từ chủ đề, nhân vật, cốt truyện, kết cấu ngôn ngữ, không gian, màu sắc, nhịp điệu, Đó là sự thống nhất trong một cách nhìn, một cách tiếp cận thế giới và các nguyên tắc thẩm mỹ tạo thành thế giới ấy theo quy luật của ph−ơng thức sáng tác, thể loại, phong cách thời đại và phong cách cá nhân. Vì thế khi phân tích tác phẩm, không nên tách rời các hiện t−ợng ra khỏi tính chỉnh thể của chính tác phẩm. Ví dụ, có ng−ời cho rằng, chi tiết "Tấm giết Cám, làm mắm rồi gửi về cho dì ghẻ" (Tấm Cám) là man rợ, không phù hợp với bản chất của một cô gái dịu hiền nh− Tấm. Thực ra, không nên cảm nhận chi tiết này nh− một chi tiết hiện thực, bởi vì, một trong những đặc điểm của nghệ thuật cổ tích là tính −ớc lệ. Có nghĩa là : các nhân vật, các sự kiện, các tình tiết không hoàn toàn đ−ợc hiểu "nh− thật", mà th−ờng mang một ý nghĩa biểu t−ợng nào đó. Tuy mang dấu vết của đời sống hiện thực, nh−ng hình t−ợng hình ảnh, chi tiết trong truyện cổ tích là hình t−ợng mang tính −ớc lệ. Trong Tấm Cám, "miếng trầu cô Tấm têm" mang ý nghĩa nhận dạng, giao duyên ; "con gà, đàn chim sẻ" : ng−ời giúp đỡ, phù trợ ; "chiếc hài" : vật giao duyên, t−ợng tr−ng cho vẻ xinh xắn, 68
  11. đẹp đẽ của ng−ời thiếu nữ. Và một loạt chi tiết không mang tính hiện thực : chôn x−ơng cá, rơi hài, biến thành vàng anh, cây xoan đào, khung cửi biết nói, Do vậy, việc Tấm giết Cám nên đ−ợc hiểu là một chi tiết −ớc lệ, diễn tả sự trả thù triệt để trong nghệ thuật truyện cổ tích. Tóm lại, mọi ý nghĩa về nội dung (xã hội, lịch sử, văn hoá, thẩm mỹ, ) và hình thức tác phẩm chỉ có thể đ−ợc thực hiện trong một chỉnh thể toàn vẹn, sinh động. 2. Lịch sử lý luận và mỹ học đã lý giải những nguyên nhân tạo thành tính chỉnh thể (sức mạnh thống nhất, toàn vẹn) của tác phẩm văn học nh− thế nào ? 3. Hãy trình bày khái niệm "thế giới nghệ thuật". Tại sao khái niệm này lại mở ra lại mở ra khả năng chiếm lĩnh tác phẩm một cách toàn diện ? Có thể dùng khái niệm này để nghiên cứu một tác giả, một phong cách không ? Chúng ta th−ờng dùng khái niệm một thế giới để chỉ một phạm trù của thiên nhiên hay của xã hội có các quy luật riêng của chúng. Chẳng hạn, "thế giới động vật", "thế giới thực vật", "thế giới văn minh". Khái niệm thế giới nghệ thuật cũng có ý nghĩa t−ơng tự nh− vậy, để chỉ một phạm vi đời sống chỉ có trong nghệ thuật và không tìm thấy ở trong thực tại, trong tâm lý. Thế giới nghệ thuật chỉ có thể giống với thực tại chứ không có trong thực tại và không có cách gì biến nó thành thực tại. Mỗi thế giới nghệ thuật có không gian, thời gian riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức riêng, thang bậc riêng. Chẳng hạn, trong truyện cổ tích, mọi sự thần kỳ đều có thể xảy ra, nh− nồi cơm ăn hết lại đầy, tiếng đàn đẩy lui quân giặc, trong một đêm có thể xây xong một lâu đài. Trong thế giới đó, con ng−ời đ−ợc h−ởng hạnh phúc chủ yếu vì họ có đức độ, ăn ở hiền lành. Trong thế giới các truyện Nôm, con ng−ời chủ yếu sống bằng đạo lý, chuẩn mực xử thế (trung, hiếu, tiết, nghĩa). Mỗi thế giới nghệ thuật lại ứng với một quan niệm của tác giả về con ng−ời và thế giới. Tác giả quan niệm con ng−ời nh− thế nào thì nhân vật hoạt động nh− thế ấy. Chị Dậu của Ngô Tất Tố dù đói ăn, chạy vạy đóng s−u cho chồng, lại đang nuôi con mọn nh−ng dung nhan không suy suyển, bao nhiêu cạm bẫy giăng ra, nh−ng chị vẫn bất khả xâm phạm. Khái niệm thế giới nghệ thuật h−ớng ta tìm kiếm những quy luật chung, ý t−ởng chung chi phối tác phẩm nghệ thuật, nắm bắt đ−ợc chỉnh thể và linh hồn của tác phẩm. Qua đó, khái niệm này đã mở ra khả năng chiếm lĩnh tác phẩm một cách toàn diện, từ nội dung đến hình thức. Với việc xác định đ−ợc những quy luật chung trong cách nhìn, cách tiếp cận và xây dựng thế giới nghệ thuật tác phẩm, từ đó cho phép xác định những quy luật chung của thế giới nghệ thuật một tác giả, một phong cách. 4. Nội dung của tác phẩm là gì ? 5. Hình thức tác phẩm là gì ? Các cấp độ hình thức. Thế nào là hình thức mang tính nội dung ? – Hình thức là sự biểu hiện của nội dung, là cách thể hiện nội dung. – Có thể hiểu hình thứccó hai cấp độ : cấp độ cảm tính và cấp độ quan niệm. Hình thức cảm tính bao gồm các yếu tố hình thức cụ thể : các biện pháp chuyển nghĩa, tu từ, kết cấu, tạo từ, đặt 69
  12. câu, Hình thức quan niệm bao gồm các quy luật tạo thành hình thức trên và chỉ bộc lộ qua cấp độ cảm tính. – Hình thức mang tính nội dung chính là cấp độ quan niệm của hình thức. – Khi nghiên cứu các tác phẩm của Nam Cao, ng−ời ta th−ờng thấy ông sử dụng biện pháp so sánh. So sánh là một biện pháp tu từ. Nếu thống kê đ−ợc các hình ảnh so sánh này, chúng ta mới đạt đ−ợc việc nghiên cứu hình thức ở cấp độ cảm tính. Nh−ng cần phải tìm đ−ợc quy luật của sự so sánh đó. Do quan niệm về con ng−ời bị huỷ hoại, tha hoá trong môi tr−ờng nên ông th−ờng so sánh con ng−ời với con vật, hoặc với cái xấu xí : mặt quỷ, mặt nh− lợn, mắt nh− ốc nhồi, vặn vẹo nh− con sâu, trông nh− ông lão sắp chết, trắng nh− con lợn cạo, răng y nh− chó, ria giống nh− cái sừng trâu, Đây chính là cấp độ quan niệm của hình thức. Phải nghiên cứu đ−ợc hình thức ở cấp độ này, chúng ta mới thấy rõ đ−ợc sự gắn bó chặt chẽ giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học. 70
  13. Ch−ơng II đề tài, chủ đề, t− t−ởng của tác phẩm I – Đề tài Đọc bất cứ tác phẩm văn học nào ta cũng gặp những ng−ời, những cảnh, những sự kiện, hiện t−ợng cụ thể. Phạm vi khuôn khổ của các hiện t−ợng, tâm trạng đ−ợc nhà văn miêu tả, biểu hiện trong tác phẩm đ−ợc coi là đề tài tác phẩm. Phạm vi miêu tả trực tiếp trong tác phẩm hết sức đa dạng : truyện loài vật, truyện cỏ cây, chim muông, đồ vật ; lại có cả chuyện thần tiên ma quái, truyện quá khứ, truyện viễn t−ởng mai sau, Vấn đề là ở chỗ, qua những đề tài cụ thể ấy, tác phẩm muốn khái quát một phạm vi hiện thực đời sống nhất định có ý nghĩa sâu rộng hơn. Giới hạn của phạm vi đề tài có thể xác định rộng hẹp khác nhau. Đó là phạm vi bề ngoài nh− : đề tài sản xuất, đề tài kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, Tuy nhiên, đối t−ợng khám phá của văn học là cuộc sống, là con ng−ời xã hội với tính cách và số phận của nó. Vì thế cần phải đi sâu vào ph−ơng diện bên trong của đề tài để xem đó là cuộc sống nào, con ng−ời nào đ−ợc miêu tả trong tác phẩm. Ví dụ, Tắt đèn thể hiện cuộc sống nghèo khổ cơ cực của ng−ời nông dân tr−ớc Cách mạng tháng Tám. Tuy nhiên, không nên đồng nhất đề tài với đối t−ợng nhận thức, chất liệu đời sống hay nguyên mẫu thực tế của các tác phẩm, bởi vì tất cả những điều đó nằm ngoài tác phẩm. Đề tài là đối t−ợng đã đ−ợc nhận thức, là kết quả lựa chọn của nhà văn, là sự phản ánh khái quát đối t−ợng. Lẫn lộn hai mặt này sẽ biến tác phẩm thành việc phân tích đối t−ợng đ−ợc miêu tả trong tác phẩm, xác định những đ−ờng nét lịch sử của nó, tìm ra bản chất xã hội của lập tr−ờng t− t−ởng và vốn sống của nhà văn quy định. Đề tài cũng là cơ sở để nhà văn khái quát chủ đề, xây dựng những hình t−ợng nghệ thuật, những tính cách điển hình. II – Chủ đề Chủ đề là vấn đề cơ bản của tác phẩm, là ph−ơng diện chính yếu của đề tài. Khi phản ánh hiện thực, nhà văn chẳng những xác định một phạm vi hiện thực đời sống, mà còn tập trung soi rọi một số vấn đề có ý nghĩa hàng đầu trong phạm vi đó. Có thể cùng h−ớng tới miêu tả, khái quát một phạm vi đời sống nh− trong tác phẩm của mình, mỗi nhà văn lại nêu ra, đề xuất những vấn đề khác nhau. Do đó, tuỳ thuộc ở trình độ và cái riêng trong t− t−ởng, ý đồ nghệ thuật của tác giả đ−ợc bộc lộ rõ trong chủ đề. Ví dụ, trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945, cùng h−ớng tới phản ánh cuộc sống đau khổ của ng−ời nông dân, ở tác phẩm Tắt đèn, Ngô Tất Tố đặt vấn đề số phận của ng−ời nông dân nghèo khổ bị bóc lột s−u thuế ; ở tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao lại nêu vấn đề về quá trình tha hoá, biến chất của những ng−ời nông dân l−ơng thiện d−ới sự áp bức bóc lột của bọn phong kiến thống trị. Chủ đề đóng góp vai trò rất lớn trong việc làm cho tác phẩm trở nên quan trọng và có ảnh h−ởng sâu rộng v−ợt quá phạm vi xác định của đề tài. Chẳng hạn, qua bài Tre Việt Nam, Nguyễn Duy đã đề cập tới truyền thống, phẩm chất con ng−ời Việt Nam từ x−a đến nay. Có thể nói chủ đề thể hiện bản sắc t− duy, chiều sâu t− t−ởng, khả năng thâm nhập vào 71
  14. bản chất đời sống của ng−ời nghệ sĩ. Về bản chất, chủ đề văn học không bao giờ là vấn đề đơn nhất ; vì thế, trong một tác phẩm văn học có nhiều chủ đề, song ở tác phẩm ấy bao giờ cũng có một chủ đề chính quán xuyến toàn bộ tác phẩm, các chủ đề phụ góp phần làm nổi bật chủ đề chính. Chủ đề chính của tác phẩm Tắt đèn là mâu thuẫn giữa quyền sống của ng−ời dân quê và chính sách s−u thuế hà khắc của chế độ thực dân phong kiến. Các chủ đề phụ là lòng tham vô độ, đạo đức thối nát, sự ngu ngốc, độc ác của bọn quan lại chức dịch, phẩm chất tốt đẹp của ng−ời dân quê, số phận của ng−ời phụ nữ và trẻ em, Lịch sử văn học cho thấy, chủ đề của tác phẩm văn học lớn bao giờ cũng vừa phản ánh sâu sắc những vấn đề có nội dung xã hội lịch sử xác định, vừa là mảnh đất xã hội, lịch sử cụ thể để qua đó, nhà văn nêu lên những vấn đề chung về sự tồn tại và phát triển của nhân cách con ng−ời, về ý nghĩa của cuộc sống. Về bản chất, chủ đề văn học không bao giờ là một vấn đề đơn nhất. Nếu trong thực tại, bản chất của con ng−ời đã là một tổng hòa của các quan hệ xã hội, thì điều đó có nghĩa là bất cứ một vấn đề nào của nhân sinh quan cũng liên quan tới hàng loạt vấn đề phức tạp khác của quan hệ xã hội. Trong các chủ đề của tác phẩm, có thể phân biệt ra chủ đề chính quán xuyến toàn tác phẩm và chủ đề phụ, cục bộ thể hiện qua các nhân vật hoặc tình tiết riêng lẻ. III – Các ph−ơng diện chủ quan của nội dung t− t−ởng tác phẩm – ý nghĩa của tác phẩm văn học Ng−ời ta th−ờng hiểu t− t−ởng là một phán đoán khái quát về hiện thực. Trong phán đoán đó bao giờ cũng chứa đựng một quan hệ có tính quy luật giữa các hiện t−ợng, sự vật của đời sống. Chẳng hạn, nếu nói "con ng−ời" thì tuy khái niệm đó cũng khái quát nh−ng ch−a bao hàm t− t−ởng. Nh−ng nếu nói : "Ng−ời với ng−ời là bạn", "Ng−ời ta là hoa đất", "Con ng−ời, hai tiếng tự hào", thì tr−ớc mắt ta đó là những t− t−ởng. T− t−ởng chẳng những bao giờ cũng nói lên một quan hệ có tính quy luật giữa các sự vật, mà còn biểu thị một thái độ, một nhiệt tình khẳng định, phủ định, một ý muốn. Lênin nói: "T− t−ởng – đó là nhận thức và khát vọng (mong muốn) của con ng−ời". T− t−ởng đó dĩ nhiên gắn liền với một thế giới quan, một lập tr−ờng giai cấp nhất định. T− t−ởng trong tác phẩm cũng là một khái quát gồm hai mặt đó, nh−ng không trừu t−ợng mà biểu hiện qua hình t−ợng nghệ thuật. T− t−ởng không tách rời khỏi đề tài và chủ đề, cảm hứng t− t−ởng, tình điệu thẩm mỹ. 1. Sự lý giải chủ đề Lý giải đời sống đ−ợc miêu tả là một ph−ơng diện cơ bản của nội dung t− t−ởng tác phẩm. Xác định nhiệm vụ của nghệ thuật, nhà phê bình Nga Sécn−sépxki nói : "Ngoài việc tái hiện đời sống, nghệ thuật còn có chức năng khác là thuyết minh cuộc sống"(1). Thuyết minh, trả lời, giải đáp vấn đề là nội dung của tác phẩm . (1) Sécn−sépxki, Bàn về quan hệ thẩm mỹ giữa nghệ thuật và hiện thực, Sđd, tr. 85 (tiếng Nga). 72
  15. Chủ đề và sự lý giải chủ đề không tách rời nhau nh−ng không phải là một. Nói đến lý giải là nói đến cơ sở t− t−ởng (các cơ sở thế giới quan, học thuyết đạo đức, chính trị, triết học, tôn giáo, ), sự phân tích các tính cách, xung đột, quan hệ, sự miêu tả, tái hiện tính cách và các hiện t−ợng trong đời sống. Các học thuyết và quan điểm t− t−ởng đóng vai trò rất quan trọng trong tác phẩm. Phân tích sự lý giải về mặt quan điểm cho thấy chiều sâu t− t−ởng mà tác phẩm đạt đ−ợc. Tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao nêu lên vấn đề số phận của tầng lớp trí thức nghèo và nhân dân lao động tr−ớc Cách mạng. Tác phẩm là tiếng kêu khẩn thiết về cuộc sống bấp bênh, mòn mỏi, trong đó mọi −ớc vọng cao cả, các tình cảm tốt đẹp và ngay cả sự sống cũng ngày một nhỏ bé đi, tầm th−ờng hơn và đang đứng trên bờ huỷ diệt. Tác giả đã lý giải vấn đề này nh− thế nào ? Tr−ớc hết, với lập tr−ờng nhân đạo chủ nghĩa, tác giả nhận ra những −ớc vọng trong phạm vi đời t−, những đòi hỏi phát huy tài năng, phát triển nhân cách. Cuộc sống cơm áo vật chất làm cho con ng−ời trở nên thấp hèn, những thói quen, thành kiến lạc hậu làm ng−ời ta không hiểu nhau. Thói nhu nh−ợc, sợ hãi đổi thay, sợ hãi những gì ch−a tới làm họ không v−ợt khỏi vòng luẩn quẩn để hành động quyết liệt đổi thay cuộc sống. Nh− vậy, chủ đề của tác phẩm đ−ợc lý giải chủ yếu bằng ph−ơng diện lối sống tâm lý, phong tục, sinh hoạt. Cách nhìn tuy ch−a mở rộng sang bình diện xã hội, lịch sử, ch−a thấy bóng dáng các sự kiện lịch sử xã hội đ−ơng thời, ch−a thấy viễn cảnh đời sống, nh−ng đã cho thấy nỗi đau quằn quại của những kiếp ng−ời chết mòn, nhu cầu bức thiết muốn đổi thay toàn bộ tồn tại để cứu vãn con ng−ời trong mỗi con ng−ời. T− t−ởng tác phẩm chủ yếu phải "toát ra" từ tình huống, tính cách, từ sự miêu tả các hiện t−ợng đời sống. Ăngghen từng nói : "Bất cứ sự miêu tả nào đồng thời cũng tất yếu là một sự giải thích". Sự lý giải bằng hình t−ợng nằm ngay trong t−ơng quan các nhân vật, trong các b−ớc ngoặt của đời sống, trong các hiện t−ợng đ−ợc miêu tả bằng cách lặp đi lặp lại một cách có quy luật. Đi vào thế giới tác phẩm, ta thấy đâu là nguyên nhân đích thực của nỗi bất hạnh của nhân vật Thuý Kiều. Thoạt đầu là thằng bán tơ vu oan, tiếp theo là quan xử oan, Bạc Hạnh, kế đến là "Họ Hoạn danh gia" và lũ gia nhân áp bức, cuối cùng là "quan tổng đốc trọng thần" lừa gạt. Thì ra kẻ hãm hại ng−ời tài trong Truyện Kiều rút lại chỉ có hai loại : lái buôn và quan lại, hai thế lực chủ yếu trong xã hội phong kiến suy tàn. Lái buôn biến họ thành món hàng, quan lại biến họ thành ph−ơng tiện. Đó chính là "điều trông thấy mà đau đớn lòng" của Nguyễn Du. 2. Cảm hứng t− t−ởng Nội dung t− t−ởng của tác phẩm văn học không bao giờ chỉ là sự lý giải dửng d−ng lạnh lùng mà gắn liền với xúc cảm mãnh liệt. Cảm hứng trong tác phẩm tr−ớc hết là niềm say mê khẳng định chân lý, lý t−ởng, phủ định sự giả dối và mọi hiện t−ợng xấu xa, tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với những nhân vật chính diện, là sự phê phán, tố cáo các thế lực đen tối, các hiện t−ợng tầm th−ờng. Cảm hứng của tác giả dẫn đến sự đánh giá theo quy luật của tình cảm. "Nghệ thuật vận dụng quy luật riêng của tình cảm". Niềm tin yêu, say mê và khẳng định t− t−ởng, chân lý làm cho cảm hứng trong tác phẩm th−ờng mang tính chất "thiên vị", "thiên ái" đối với nhân vật của mình, chân 73
  16. lý của mình. Trong Truyện Kiều, ng−ời đọc sảng khoái thấy nhà văn đứng hẳn về phía những ng−ời khao khát tự do, dân chủ, chẳng hạn, suy nghĩ "phạm th−ợng", phóng khoáng của Từ Hải : Chọc trời khuấy n−ớc mặc dầu Dọc ngang nào biết trên đầu có ai ! Nội dung của cảm hứng t− t−ởng trong tác phẩm bao giờ cũng là một tình cảm xã hội đã đ−ợc ý thức. Đó có thể là những tình cảm khẳng định nh− ngợi ca, vui s−ớng, biết ơn, tin t−ởng, yêu th−ơng, đau xót, th−ơng tiếc, Đó cũng có thể là những tình cảm phủ định các hiện t−ợng tiêu cực, xấu xa nh− tố cáo, căm thù, phẫn nộ, châm biếm, chế giễu, mỉa mai, Các tình cảm đó gợi lên bởi các hiện t−ợng xã hội đ−ợc phản ánh trong tác phẩm, tạo thành nội dung, cảm hứng của tác phẩm. 4. ý nghĩa của tác phẩm văn học Nội dung và sự cắt nghĩa tác phẩm văn học Các thành phần nói trên của nội dung tác phẩm không bộc lộ trực tiếp d−ới dạng suy lý, khái niệm (nếu có cũng không phải là chủ yếu) mà thể hiện qua toàn bộ thế giới hình t−ợng : tính cách, xung đột, cảnh vật, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ. Chúng tồn tại trong tác phẩm nh− những hàm nghĩa của hình t−ợng : đề tài, chủ đề, tính cách, sự lý giải, cảm hứng ở các cấp độ và phạm vi khác nhau của tác phẩm. Nh− vậy "cắt nghĩa" là con đ−ờng chiếm lĩnh nội dung tác phẩm một cách tự giác, là làm cho nội dung tác phẩm đ−ợc hiện thực hóa. Các cắt nghĩa đó một phần giống với sự cắt nghĩa mà mọi ng−ời có lý trí phải thực hiện khi đứng tr−ớc một tình huống, rơi vào một mâu thuẫn, đối diện một con ng−ời hay cảnh vật đời thực. Chỗ khác biệt là trong tác phẩm, ng−ời đọc tìm cái nghĩa đã đ−ợc khái quát, sáng tạo và biểu hiện bằng hình t−ợng, bổ sung cái "ý" của mình vào cái nghĩa đó. Giá trị và ý nghĩa nội dung của tác phẩm văn học đ−ợc đánh giá theo mức độ phản ánh chân thật và sâu sắc hiện thực đời sống. Đề tài, chủ đề tác phẩm văn học rất đa dạng nh−ng không phải mọi đề tài đều có giá trị, tầm vóc ngang nhau. Nghệ sĩ chỉ thật sự vĩ đại khi phản ánh khía cạnh quan trọng của cuộc sống. Chủ thể tác phẩm có thể đ−ợc lý giải từ nhiều góc độ, bình diện khác nhau, nh−ng bình diện xã hội, chính trị không coi nhẹ, bởi lẽ văn học là một hình thái ý thức xã hội, một hiện t−ợng t− t−ởng. Cảm hứng chủ đạo của tác phẩm chân thực khi nào khẳng định h−ớng tới các hiện t−ợng đời sống có ý nghĩa xã hội dân tộc tiến bộ, hoặc ng−ợc lại, sự phủ định nhằm vào các hiện t−ợng phản động, thoái hoá, bảo thủ, vô nhân đạo. 74
  17. h−ớng dẫn học tập 1. Đề tài của tác phẩm văn học là gì ? Cho ví dụ. 2. Chủ đề của tác phẩm văn học là gì ? Cho ví dụ. 3. Vận dụng sự hiểu biết về lý luận văn học, anh (chị) hãy chỉ ra đề tài và chủ đề bài thơ Ngựa biên phòng của Phan Thị Thanh Nhàn : Chú công an biên phòng Rạp mình trên l−ng ngựa Ngựa lao nhanh nh− bay Cả cánh rừng nổi gió. Ngựa phăm phăm bốn vó Nh− băm xuống mặt đ−ờng Mặc sớm rừng mù s−ơng Mặc đêm đông tê buốt. Chân ngựa nh− sắt thép Luôn săn đuổi quân thù Vó ngựa nh− có mắt Chẳng vấp ngã bao giờ Xong công việc trở về Ngựa b−ớc đi thong thả Chú công an đi bên Tay vỗ về l−ng ngựa. Chúng em trong bản nhỏ Phơi thật nhiều cỏ thơm Để mùa đông đem tặng Ngựa biên phòng yêu th−ơng. 75
  18. Ch−ơng III Nhân vật trong tác phẩm văn học I – Nhân vật và vị trí của nhân vật trong tác phẩm Văn học bao giờ cũng là chuyện của con ng−ời. Nói đến nhân vật văn học là nói đến con ng−ời đ−ợc nhà văn miêu tả, thể hiện trong tác phẩm. Nhân vật văn học có khi là con ng−ời có tên nh− Tấm, Cám, Thuý Kiều, chị Dậu, có khi không có tên nh− thằng bán tơ, những kẻ nịnh thần ; có khi là một hiện t−ợng nào đó của thiên nhiên mang nội dung biểu t−ợng. Nhân vật có thể đ−ợc thể hiện bằng những hình thức khác nhau. Đó có thể là những ng−ời đ−ợc miêu tả đầy đặn cả về ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách, tiểu sử nh− th−ờng thấy trong tác phẩm tự sự, kịch. Đó có thể là những ng−ời thiếu hẳn những nét đó, nh−ng lại có tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn nh− nhân vật ng−ời trần thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi niềm, ý nghĩ, cảm nhận nh− nhân vật trữ tình. Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì nó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình t−ợng. Văn học chỉ tái hiện đ−ợc đời sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò nh− những tấm g−ơng của cuộc đời. Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống của con ng−ời. Nhà văn sáng tạo nên nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan hệ về các cá nhân đó. Nói cách khác, nhân vật là ph−ơng tiện khái quát các tính cách, số phận con ng−ời và các quan niệm của chúng. Tính cách, trong ý nghĩa rộng nhất, chung nhất là sự thể hiện các phẩm chất xã hội – lịch sử của con ng−ời qua các đặc điểm cá nhân, gắn liền với phẩm chất tâm sinh lý của họ. Tính cách có hạt nhân là sự thống nhất của cá tính và cái chung xã hội, lịch sử, nh−ng ng−ời ta chỉ gọi là tính cách những ng−ời mà sự thống nhất kia biểu hiện một cách nổi bật các phẩm chất xã hội – lịch sử của nó. Tuy nhiên, tính cách là một hiện t−ợng xã hội – lịch sử xuất hiện trong hiện thực khách quan. Do đó, chức năng khái quát của nhân vật cũng mang tính chất lịch sử. Trong thời cổ đại, khi nhiệm vụ của xã hội con ng−ời là chinh phục thiên nhiên, khai phá địa bàn c− trú, tạo dựng dân tộc, chống ngoại xâm, thì xuất hiện các nhân vật thần thoại nh− Nữ Oa đội đá vá trời, Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, ứ ng với xã hội phân hóa giai cấp trên cơ sở chế độ t− hữu, nhân vật văn học lại khái quát các tính cách đối kháng về mặt phẩm chất. Đó là những nhân vật cổ tích với các tính cách ng−ời giàu, kẻ nghèo (Cây tre trăm đốt), ng−ời ác ng−ời thiện, có ý nghĩa xác định những chuẩn mực giá trị quan trọng trong quan hệ xã hội giữa ng−ời với ng−ời (Tấm Cám, Thạch Sanh). Nhân vật trong văn học dân gian nói chung, do đặc điểm truyền miệng th−ờng mang nội dung tính cách cô đọng, đơn giản mặc dù có giá trị khái quát cao và bền vững. Nhân vật văn học viết ngay từ đầu có khả năng khái quát tính cách một cách đầy đặn, nhiều mặt, chi tiết, (chẳng hạn nhân vật anh hùng ca của Hôme). Theo Hêghen, Asin trong Iliát có tính cách đa dạng, nhiều mặt : yêu mẹ Têlít, khóc th−ơng số phận Brêđêít khi nàng bị c−ớp đi, dám nổi giận chống agamennông khi danh dự bị xúc phạm. asin vui t−ơi dũng cảm, th−ơng bạn, đồng thời chàng cũng rất nóng nảy, hung hăng, hay hằn thù, tàn bạo với kẻ thù. Nh−ng chàng biết kính trọng ng−ời già ngay cả khi ng−ời đó là cha của kẻ thù mình. Hêghen cho rằng, có thể nói đó là một con ng−ời 76
  19. và mỗi nhân vật loại đó là một thế giới riêng biệt, sinh động. Trong Sử ký của T− Mã Thiên, ta cũng bắt gặp nhiều nhân vật cụ thể, sinh động, nhiều mặt nh− vậy. Chẳng hạn Hạng Vũ quyết đoán, liều lĩnh trong trận Cự Lộc, khảng khái cao th−ợng trong bữa tiệc ở Hồng Môn và nghĩa khí, đ−ợm tình bi tráng trong b−ớc "mạt lộ" ở Cai Hạ. Mỗi nhân vật nh− vậy đều khái quát những tính cách có ý nghĩa, có giá trị xuất hiện trong thời của nó. Những nhân vật khái quát nổi bật với những tính cách có ý nghĩa phổ biến sâu xa sẽ là những nhân vật điển hình. Tuy nhiên, không phải nhà văn nào trong tác phẩm nào cũng xây dựng đ−ợc những hình t−ợng của mình. Một hình t−ợng chỉ đ−ợc gọi là những hình t−ợng điển hình khi hình t−ợng ấy khái quát đ−ợc những nét, những t− t−ởng, những hiện t−ợng có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội lại đ−ợc miêu tả qua những chi tiết cụ thể, sinh động, hấp dẫn. Điển hình là sự khái quát cao của sáng tạo nghệ thuật. Theo Tr−ờng Chinh, "Điển hình trong nghệ thuật là những nét, những tính cách cơ bản nhất, bản chất nhất và nổi trội nhất trong đời sống xã hội đ−ợc tập trung biểu hiện và nâng cao qua sự sáng tạo của nghệ sĩ, nh−ng chung quy nó vẫn là cuộc sống"(1). Nh− vậy, nói đến điển hình là nói đến chất l−ợng phản ánh và sức tác động của hình t−ợng. Điển hình văn học là sự thể hiện nổi bật những vấn đề bản chất nhất của đời sống. Tuỳ những mức độ thành công của nhà văn khi xây dựng hình t−ợng mà ng−ời ta nói đến chi tiết điển hình Điển hình là một sáng tạo mà tiền đề của nó là nguồn hiện thực bên ngoài đ−ợc nó phản ánh. Theo cách hiểu truyền thống, điển hình đ−ợc cấu tạo sao cho phản ánh đ−ợc một loại hiện thực nào đó, khái quát đ−ợc các hiện t−ợng khác nhau về đời sống. Điển hình hoá đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn những nét, những tính cách quan trọng và có ý nghĩa lớn trong hiện thực. Nhà văn phải phát hiện ra những chi tiết, những quan hệ có ý nghĩa tiêu biểu, đồng thời phải xây dựng những hình t−ợng nghệ thuật sinh động nổi bật. Điển hình hoá cho phép nhà văn đ−ợc vận dụng các tình tiết ly kỳ, thậm chí có vẻ bề ngoài phi lý nữa, nh−ng thông qua các chi tiết ấy mà nêu bật đ−ợc bản chất của sự vật. Ví dụ việc nhà văn Vũ Trọng Phụng miêu tả hành động của tên Nghị Hách đòi mua gánh rạ của cô gái nông dân để nhồi vào lốp ô tô t−ởng nh− vô lý, song đó lại góp phần nói lên bản chất đê tiện của những tên địa chủ thời ấy. Nói tới điển hình hoá trong nghệ thuật là nói tới vốn sống phong phú, nói tới t− t−ởng, tình cảm lớn và tài nghệ cao c−ờng của nhà văn. Những cái vốn quý ấy càng nhiều bao nhiêu thì việc điển hình hoá trong nghệ thuật của ng−ời nghệ sĩ càng có giá trị sâu sắc bấy nhiêu. II – Loại hình nhân vật văn học Nhân vật trong văn học là một hiện t−ợng đa dạng và phong phú. Mỗi giai đoạn lịch sử, nhân vật trong văn học lại đ−ợc thể hiện gắn liền với một quan niệm nhất định. Ví dụ, nhân vật trong thần thoại khác với nhân vật trong truyền thuyết và cổ tích. Nhân vật trong văn học cổ điển khác với nhân vật trong văn học lãng mạn và hiện thực. Các loại nhân vật th−ờng đ−ợc miêu tả trong tác phẩm : (1) Hồ Chí Minh – Lê Duẩn – Tr−ờng Chinh, Về văn hoá nghệ thuật, NXN Sự thật, H., 1972, tr. 259. 77
  20. 1. Nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm Trong tác phẩm văn học th−ờng có một hay nhiều nhân vật. Các tác phẩm tự sự và kịch tr−ờng có nhiều nhân vật. Trong tr−ờng hợp đó, không phải mọi nhân vật trong tác phẩm đều có vai trò nh− nhau trong kết cấu và cốt truyện. Nhân vật chính đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện. Đó là con ng−ời liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản của mình. Nhân vật chính của Truyện Kiều là Thuý Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, Hoạn Th−, Tú Bà, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến, Đó là những ng−ời tham gia vào những sự kiện chính của tác phẩm. ở truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là Chí Phèo và Bá Kiến. ở các tác phẩm lớn có nhiều tuyến cốt truyện, số l−ợng nhân vật rất đông, chẳng hạn Thuỷ hử gồm hơn 400 nhân vật (trong đó có tới 108 nhân vật đ−ợc tác giả mô tả là những anh hùng L−ơng Sơn Bạc). Chiến tranh và hoà bình của L. Tônxtôi gồm hơn 570 nhân vật, nhân vật chính cũng có tới cả chục. Nhân vật chính đ−ợc khắc hoạ đầy đặn hơn, có tiểu sử, có nhiều tình tiết, nh−ng cái chính là thể hiện tập trung đề tài và chủ đề tác phẩm. Trong các nhân vật chính của tác phẩm lại có thể nhận thấy nổi lên những nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm từ đầu đến cuối về mặt nghĩa. Đó là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Đó là Thuý Kiều trong Truyện Kiều, chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Chí Phèo trong truyện cùng tên của Nam Cao, chị Sứ trong Hòn Đất của Anh Đức, Ngoài nhân vật chính, nhân vật trung tâm còn có nhân vật phụ. Nhân vật phụ mang tình tiết, sự kiện, t− t−ởng có tính chất phụ trợ, bổ sung, nh−ng không thể coi nhẹ nhân vật phụ. Chúng chẳng những là một bộ phận không thể thiếu của bức chân dung mà nhiều khi nhân vật phụ hàm chứa những t− t−ởng quan trọng của tác phẩm. Chẳng hạn thằng bán tơ trong Truyện Kiều, anh Hợi trong Tắt đèn, 2. Nhân vật chính diện và nhân vật phản diện Xét về hệ t− t−ởng, về quan hệ đối với lý t−ởng, các nhân vật lại có thể chia ra làm nhân vật chính diện (còn gọi là nhân vật tích cực) và nhân vật phản diện (còn gọi là nhân vật tiêu cực). Sự phân biệt nhân vật chính diện và nhân vật phản diện gắn liền với những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống xã hội, hình thành trên cơ sở đối lập giai cấp và quan điểm t− t−ởng. Nhân vật chính diện và nhân vật phản diện là những phạm trù lịch sử. Nhân vật chính diện mang lý t−ởng, đạo đức tốt đẹp của tác giả và thời đại. Đó là ng−ời mà tác phẩm khẳng định và đề cao nh− những tấm g−ơng về phẩm chất cao đẹp của con ng−ời một thời, trái lại, nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo lý và lý t−ởng, đáng lên án, phủ định. Nh− vậy, hai loại nhân vật này luôn luôn đối kháng nhau nh− n−ớc với lửa. 78
  21. Việc phân biệt nhân vật chính diện và phản diện đã có một lịch sử lâu đời. Có những thể loại nói chung chuyên viết về nhân vật chính diện nh− tụng ca, sử thi, bi kịch, Lại có những thể loại chuyên thể hiện nhân vật phản diện nh− thơ châm biếm, truyện c−ời, hài kịch, ở văn học cổ Việt Nam cũng có sự phân biệt nhân vật chính diện và phản diện nh− trong các truyện Phù Đổng Thiên V−ơng, Mỵ Châu – Trọng Thuỷ, trong các chuyện cổ tích Tấm Cám, Thánh Gióng, Cây tre trăm đốt, Trong văn học viết, nhân vật chính diện th−ờng là các nhà nho, các bậc tr−ợng phu tiết tháo coi thực hiện lý t−ởng nhà nho là lẽ sống của cuộc đời, những anh hùng giúp nhân dân cứu n−ớc nh− Lê Lợi (Đại cáo bình Ngô), Quang Trung (Hoàng Lê nhất thống chí), những nghĩa sĩ (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc), những ng−ời bình dân đấu tranh cho công lý xã hội nh− Ngọc Hoa (Phạm Tải – Ngọc Hoa), Từ Hải (Truyện Kiều). Các nhân vật chính diện nói trên đều có những nhân vật đối lập, là đối t−ợng lên án, phê phán của tác giả. Là một hiện t−ợng trong lịch sử, nhân vật chính diện cũng có hình thái lịch sử của nó. Trong văn học cổ đại, trung đại, trong văn học cổ điển chủ nghĩa, văn học lãng mạn thời kỳ đầu của Gorki, nhân vật chính diện đều là nhân vật lý t−ởng hoặc ít nhiều đều mang tính chất lý t−ởng. Nhân vật là hoá thân của lý t−ởng đ−ợc gọi là nhân vật lý t−ởng. Nh−ng nhiều khi nhân vật đ−ợc lý t−ởng hoá đều mang tính chất quy phạm và không tránh khỏi giản đơn, một chiều. Chẳng hạn L−u Bị tốt quá nhiều khi thành giả dối, Gia Cát L−ợng tài quá lắm khi nh− yêu tinh ! ở đây cần phân biệt nhân vật chính diện theo quan điểm chủ quan của nhà văn và nhân vật chính diện theo quan điểm khách quan của đời sống. Chỉ khi lý t−ởng nhà văn phù hợp với xu thế tiến bộ, khách quan của lịch sử mới có điều kiện xây dựng đ−ợc hình t−ợng nhân vật tích cực thuyết phục. Các nhà văn hiện thực đã đổi mới khái niệm nhân vật chính diện. Họ khẳng định nội dung lý t−ởng của nó, nh−ng giải phóng nó khỏi sự lý t−ởng hoá. Nhân vật chính diện ở đây mang những khả năng, mầm mống của lý t−ởng không có trong đời sống, thể hiện các khuynh h−ớng t− t−ởng xã hội tiến bộ. Rõ nhất là các nhân vật chính diện trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa nh− anh hùng Núp và các đồng chí của anh trong Đất n−ớc đứng lên, Mẫn và Thiêm trong Mẫn và tôi, chị Sứ trong Hòn Đất, Tiệp trong Bão biển, III – Các ph−ơng thức, ph−ơng tiện và biện pháp thể hiện nhân vật Nh− đã nói, nhân vật văn học chỉ xuất hiện qua sự trần thuật, miêu tả bằng ngôn ngữ. Các ph−ơng thức thể hiện nhân vật hết sức đa dạng. Văn học đa dạng đến đâu, các ph−ơng thức, ph−ơng tiện, thể hiện nhân vật đa dạng đến đó. ở đây chỉ nói những điều chung nhất. Tr−ớc hết nhân vật đ−ợc miêu tả bằng chi tiết. Đó là những biểu hiện mọi mặt của con ng−ời mà ng−ời ta có thể căn cứ để nhận biết về nó. Văn học dùng chi tiết để mô tả chân dung, ngoại hình, cả hành động, tâm trạng, thể hiện những quá trình nội tâm. Văn học cũng dùng chi tiết để mô tả ngoại cảnh, môi tr−ờng đồ vật xung quanh con ng−ời. 79
  22. Nhân vật còn đ−ợc thể hiện qua mâu thuẫn, xung đột, sự kiện. Các mâu thuẫn, xung đột bao giờ cũng có tác động làm nhân vật bộc lộ cái phần bản chất của sâu kín nhất của nó (chẳng hạn, sự áp bức của bọn cai lệ và ng−ời nhà lý tr−ởng làm bật lên nét quật khởi giấu kín bên trong ng−ời phụ nữ con mọn vốn hiền lành, nhịn nhục ở trong Tắt đèn, sự gặp gỡ với Thị Nở bỗng làm cho Chí Phèo trở lên hiền lành, l−ơng thiện). Nh−ng nhân vật th−ờng bộc lộ mình nhiều nhất qua hành động và nội tâm. Sự suy nghĩ của chị Dậu khi phải bán con, bán chó, hành động trả nắm bạc tr−ớc mặt quan phủ đã nói lên tính cách ngay thẳng của ng−ời phụ nữ nông dân. Có thể miêu tả nhân vật một cách trực tiếp qua ngôn ngữ trần thuật của nhà văn, nh−ng cũng có thể miêu tả gián tiếp qua sự cảm nhận của mọi ng−ời xung quanh đối với nhân vật. Nhân vật còn đ−ợc thể hiện bằng các ph−ơng tiện kết cấu, bằng các ph−ơng tiện ngôn ngữ, bằng các ph−ơng thức miêu tả riêng của thể loại. Sự thể hiện nhân vật văn học bao giờ cũng nhằm khái quát một nội dung đời sống xã hội và quan niệm của nhà văn về một loại ng−ời nào đó trong xã hội. Vì vậy, hình thức thể hiện của nhân vật phải đ−ợc xem xét trong sự phù hợp với nội dung nhân vật. Ph−ơng thức, biện pháp thể hiện đối với nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật chính diện và nhân vật phản diện không thể giống nhau. Đối với nhân vật chính, nhà văn dùng toàn bộ cốt truyện, sử dụng các sự kiện, hành động trọng yếu, nét bút sắc cạnh. Đối với nhân vật phụ, các sự kiện, chi tiết không thể làm che mờ nhân vật chính. Đối với nhân vật chính diện, nhà văn th−ờng dùng các biện pháp khẳng định, đề cao, thi vị hoá, tô đậm các hành động tốt đẹp. Đối với các nhân vật phản diện, ng−ời ta th−ờng dùng các biện pháp vạch mặt, tố cáo, châm biếm, mỉa mai, lố bịch hoá, Đối với việc khắc hoạ nhân vật tính cách, việc mô tả tâm lý, cá tính đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. ở đây các nhà văn chú ý tới các chi tiết thể hiện đời sống bên trong, các trạng thái cảm xúc, các quá trình tâm hồn của nhân vật : suy nghĩ của Bá Kiến tr−ớc cảnh Chí Phèo đến nhà ăn vạ, tâm trạng của Thuý Kiều qua đoạn "Trao duyên", Việc mô tả đồ vật, môi tr−ờng cũng là ph−ơng tiện quan trọng để thể hiện tâm lý nhân vật. Chẳng hạn trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tả vầng trăng, mặt biển, tiếng đàn, cũng là để phác hoạ tâm trạng của Thuý Kiều ; Nam Cao cũng là nhà văn sử dụng tài tình các chi tiết của ngoại giới để khắc hoạ tâm lý nhân vật. Đối với nhân vật tính cách, ngôn ngữ nhân vật cũng là biện pháp miêu tả tâm lý. Nhà văn không chỉ khai thác nội dung ý nghĩa của lời nói để góp phần bộc lộ tính cách nhân vật (ví dụ, ngôn ngữ của Kim Trọng khác hẳn với ngôn ngữ Mã Giám Sinh). Tóm lại, nhân vật là hình thức văn học để phản ánh hiện thực. Hình thức ấy rất đa dạng nhằm thể hiện các khía cạnh vô cùng phong phú của cuộc sống. Việc hình dung sự đa dạng của nhân vật là rất cần thiết để đi sâu tìm hiểu những nội dung phong phú đó trong di sản văn học nhân loại cũng nh− sự phong phú của văn học xã hội chủ nghĩa ngày nay. 80
  23. h−ớng dẫn học tập 1. Vai trò và vị trí của nhân vật trong tác phẩm văn học – Nhân vật trong văn học là gì ? – Trong tác phẩm ta th−ờng gặp những loại nhân vật nào ? Những loại nhân vật ấy gắn với sự phát triển của lịch sử ra sao ? (phân tích nhân vật trong truyện thần thoại, cổ tích, ). 2. Loại hình nhân vật là gì ? – Thế nào là nhân vật chính (cho ví dụ) ? – Thế nào là nhân vật trung tâm (cho ví dụ) ? – Thế nào là nhân vật phụ (cho ví dụ) ? Qua cuốn tiểu thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố, anh (chị) hãy xác định nhân vật nào là nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ ? – Nhân vật chính diện có đặc điểm gì ? – Nhân vật phản diện có đặc điểm gì ? – Vai trò của hai loại nhân vật này trong tác phẩm văn học. 3. Hãy trình bày các ph−ơng thức, ph−ơng tiện và biện pháp thể hiện nhân vật trong tác phẩm (chú ý ngoại hình, nội tâm, hành động, ngôn ngữ). Đọc truyện Bông sen trong giếng Ngọc sau đây, anh (chị) hãy phân tích nhân vật Mạc Đĩnh Chi. Bông sen trong giếng Ngọc 1) Ngày x−a, cách đây gần bảy trăm năm, có cậu bé Mạc Đĩnh Chi, con nhà nghèo, ng−ời đen đủi, xấu xí. Tuy còn nhỏ, nh−ng ngày nào cậu bé cũng vào rừng kiếm củi giúp mẹ. 2) Gần nhà Mạc Đĩnh Chi có một tr−ờng học, các bạn trong làng đến học đông vui. Không có tiền học nh−ng cậu bé rất thèm đ−ợc học. Mỗi lần gánh củi qua tr−ờng, cậu bé lại ngấp nghé học lỏm. Nhiều ngày nh− vậy, thầy đồ thấy cậu bé nhà nghèo mà hiếu học, cho phép cậu bé đ−ợc vào tr−ờng. Nhờ có trí thông minh, Mạc Đĩnh Chi nhanh chóng trở thành học trò giỏi nhất tr−ờng. Buổi tối, Mạc Đĩnh Chi mới có thì giờ đọc sách, vì ban ngày cậu phải đi làm việc khác. Không có dầu thắp, cậu bé đã nghĩ ra cách bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng lấy ánh sáng làm đèn. 3) Miệt mài học tập với ngọn đèn đom đóm ấy, chẳng bao lâu Mạc Đĩnh Chi trở thành ng−ời học rộng, tài cao, thi đỗ Trạng nguyên (khoa thi năm 1304). Nh−ng vì nhà vua thấy ông nghèo, lại xấu xí, có ý không muốn cho ông đỗ đầu, buộc ông phải làm một bài văn để thử tài. 81
  24. Mạc Đĩnh Chi làm ngay một bài phú lấy tên là Bông sen trong giếng Ngọc để tỏ rõ chí h−ớng và tài năng của mình. Bài phú rất hay, hay đến nỗi vua nhà Trần phải phong cho ông một chức quan to trong triều. Với lòng yêu n−ớc th−ơng dân, Mạc Đĩnh Chi đã làm nhiều việc cho đất n−ớc. (Theo Ngọn đèn đom đóm, Tập đọc 5, NXB Giáo dục, 1980) Anh (chị) chú ý tới những chi tiết nào để làm nổi rõ tính cách hiếu học của Mạc Đĩnh Chi ? 82
  25. Ch−ơng IV Kết cấu của tác phẩm văn học I – Khái niệm kết cấu của tác phẩm văn học 1. Kết cấu là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm Kết cấu là một ph−ơng diện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Trên một mức độ lớn, có thể nói sáng tác tức là kết cấu. Khi ng−ời ta nói xây dựng tác phẩm, xây dựng cốt truyện, xây dựng tính cách, xây dựng cấu tứ thơ, thì đã xem tác phẩm nh− một công trình kiến trúc. Từ những nhân vật khác nhau, trên một không gian nhất định, ng−ời ta có thể xây dựng nên những công trình hợp mục đích và hợp lý tối đa. Kết cấu trong tác phẩm văn học cũng vậy. Nó cũng nhằm tạo ra một công trình hợp mục đích và hợp lý tối đa. Thực vậy, nhiệm vụ của nhà văn là nhào nặn vốn sống để xây dựng thành những sinh mệnh nghệ thuật – tái hiện những bức tranh đời sống giàu tính khái quát, nghĩa là phải tổ chức lại chất liệu sống, bỏ bớt đi những cái thừa, phát triển thêm cái ch−a có, nối liền cái xa nhau, tạo thành một chỉnh thể mang giá trị nghệ thuật. Có ng−ời gọi kết cấu là nghệ thuật thống nhất những yếu tố khác thời gian và khác không gian. Có ng−ời lại gọi kết cấu là sự kết hợp yếu tố tinh thần với yếu tố vật chất, yếu tố vận động với yếu tố đứng im, yếu tố hữu hạn với yếu tố vô hạn, yếu tố chủ quan với yếu tố khách quan, Có thể nói, kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm, phục tùng đặc tr−ng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cơ sở và t− t−ởng trong tác phẩm. Cần phân biệt kết cấu nh− một ph−ơng diện hình thức của tác phẩm văn học với kỹ thuật, thủ pháp. Trong văn học, kỹ thuật và thủ pháp có ý nghĩa rất quan trọng. Chúng cũng là cách tổ chức, sắp xếp những yếu tố nghệ thuật để tạo nội dung tác phẩm. Nh−ng tr−ớc hết, thủ pháp là có hạn (các biện pháp chuyển nghĩa nh− ẩn dụ, so sánh, t−ợng tr−ng, ) còn kết cấu là vô hạn vì với mỗi nội dung lại có thể có các cách cấu tạo, các biện pháp chuyển nghĩa. ẩn dụ trong thơ cổ điển trang nhã và trau chuốt, còn ẩn dụ trong ca dao lại dân dã, thô sơ, bình dị. Đề cao thủ pháp lên hàng tiêu chuẩn cái hay cái đẹp, có nguy cơ dẫn đến chủ nghĩa hình thức. Các nhà nghiên cứu hình thức ở Nga những năm hai m−ơi của thế kỷ XX và ở ph−ơng Tây hiện đại xem tác phẩm thực chất là một hiện t−ợng kết cấu. Có ng−ời tuyên bố "nhân vật" chủ yếu, trung tâm của nghiên cứu văn học là thủ pháp, là kỹ thuật kết cấu. Chẳng hạn, đó là phép giấu "bí mật" của truyện, cách hãm chậm thời gian, cách làm thời gian đồng hiện. Nếu quả thật tác phẩm chỉ là vấn đề biện pháp, kỹ thuật thuần tuý thì chắc ng−ời ta dễ dàng đ−a ra quy trình sản xuất hàng loạt. Nh−ng thực tế văn học cho thấy, tác phẩm văn học là những sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Kết cấu chỉ có ý nghĩa khi nào nó phục vụ cho việc biểu hiện một nội dung nhất định. ở đây, cần phân biệt hai khái niệm kết cấu và cấu trúc. Cấu trúc là phần ổn định, bất biến của một chỉnh thể, ví dụ nh− ngôi nhà bao giờ cũng phải gồm các yếu tố : cửa, sàn, mái, t−ờng, Thiếu một yếu tố, chỉnh thể sẽ không còn là chính nó. Còn kết cấu là toàn bộ sự tổ chức của các yếu tố trong chỉnh thể ấy để đạt một mục đích tối −u nào đó. Trong chỉnh thể ngôi nhà, cách sắp 83
  26. xếp, tỷ lệ, chất liệu hình khối, màu sắc của cửa, sàn, mái, t−ờng chính là ph−ơng diện kết cấu. ở cấp độ nhỏ hơn, bản thân một yếu tố cũng có thể đ−ợc coi là một chỉnh thể và lại có kết cấu của riêng nó. Nếu coi bộ phận cửa trong ngôi nhà là một chỉnh thể, thì cấu trúc của nó sẽ bao gồm các kích th−ớc chiếm lĩnh trong không gian (chiều dài, chiều rộng, chiều cao). Còn cửa có thể hình chữ nhật, hình vuông, hình mái vòm, bằng gỗ, bằng kính, là thuộc về cách tổ chức sắp xếp, tức là ph−ơng diện kết cấu, để đạt đ−ợc một hiệu quả thẩm mỹ và sử dụng nhất định. Chủ nghĩa cấu trúc lại đ−a vấn đề kết cấu vào quỹ đạo của nó, xem kết cấu tác phẩm nh− một cấu trúc bất biến, với tham vọng phát hiện ra những yếu tố và quan hệ hữu hạn để giải thích hiện t−ợng văn học vô cùng đa dạng và phức tạp. Sự phân tích cấu trúc có thể cho thấy những đặc điểm quan trọng của văn học dân gian và văn học hiện đại. Nh−ng chạy theo cái hữu hạn đó, các nhà nghiên cứu cấu trúc lại th−ờng bỏ mất cái độc đáo, cá biệt, không lặp lại của tổ chức tác phẩm. Ng−ời ta có lý khi nhận xét rằng ph−ơng pháp cấu trúc không cho thấy đ−ợc tính nghệ thuật sinh động của hình thức tác phẩm. Cấu trúc tác phẩm chỉ là cái phần ổn định bất biến của kết cấu tác phẩm, chứ không phải toàn bộ kết cấu. Kết cấu là toàn bộ tổ chức tác phẩm trong tính độc đáo, sinh động, gợi cảm của nó. Cách tổ chức của thể loại, bố cục chung của một thể văn, nguyên tắc của một luật thơ cụ thể và cả mô hình t− duy của một số tác giả cố nhiên là rất quan trọng, nh−ng kết cấu tác phẩm trong phần sâu sắc nhất của nó không phải là sự liên kết theo những công thức, biện pháp sẵn có, mà là liên kết theo sự phát hiện đời sống và suy nghĩ của nhà văn, tạo thành một hệ thống liên kết tạo ra hiệu quả t− t−ởng – thẩm mỹ. Hiểu nh− vậy, mọi ph−ơng diện tổ chức tác phẩm, từ nhỏ nhất nh− ví von, ẩn dụ, mỉa mai, câu đoạn cho đến tổ chức trần thuật, hệ thống hình t−ợng, thể loại, cốt truyện, đều thuộc phạm vi kết cấu. Chúng kết hợp với nhau để tạo ra tính hình t−ợng và chiều sâu của nội dung tác phẩm. 2. Kết cấu là ph−ơng tiện khái quát nghệ thuật Là ph−ơng tiện khái quát nghệ thuật nghĩa là nhờ kết cấu mà các sự vật, hiện t−ợng, con ng−ời đ−ợc liên kết lại trong một chỉnh thể nội dung nhất định, và từ đó, bộc lộ quan điểm, t− t−ởng của nhà văn. Kết cấu ra đời cùng một lúc với ý đồ nghệ thuật của tác phẩm, cụ thể hoá cùng với sự phát triển của hình t−ợng. Việc đặt những hình ảnh và cảm xúc trong những kết cấu quan hệ không gian, thời gian, (quá khứ – hiện tại, hữu hạn – vô hạn, ngắn ngủi – tr−ờng tồn, còn – mất, thực – h−, xa – gần, mờ – tỏ, cao – rộng) đã diễn tả đ−ợc một cách độc đáo tâm trạng bàng hoàng, tiếc nuối, cô đơn của nhà thơ Thôi Hiệu khi nghĩ về thân phận của con ng−ời trong cảnh mênh mông tr−ờng tồn của vũ trụ (Hoàng Hạc lâu). Kết cấu còn góp phần làm cho nội dung chính yếu của tác phẩm đ−ợc nổi bật, cái quan trọng gây đ−ợc ấn t−ợng mạnh mẽ. Cái đối lập trong hình ảnh "Triệu tấn bom không thể nào làm xổ - Một hạt c−ờm trên cổ chim tơ" (Chế Lan Viên) biểu hiện sự bất diệt của đất n−ớc, con ng−ời Việt Nam những tháng ngày chống Mỹ. Kết cấu tác phẩm thể hiện quá trình lựa chọn, sắp xếp các tài liệu đời sống của nhà văn để biểu hiện một t− t−ởng nghệ thuật, một chân lý khái quát về đời sống. Nó cũng phản ánh quá trình t− duy của nhà văn, quá trình vận động của t− duy ấy. T− t−ởng sống động của nhà văn bao giờ cũng biểu hiện trong kết cấu và qua kết cấu. Kim Thánh Thán cũng có nhận xét rất sâu sắc về bố 84
  27. cục của truyện Thuỷ hử, ông viết : "Một bộ sách lớn gồm bảy m−ơi hồi, viết 108 ng−ời, nh−ng mở đầu ch−a viết 108 ng−ời vội mà miêu tả Cao Cầu tr−ớc đã. Đó là vì nếu không tả Cao Cầu tr−ớc, mà viết ngay 108 ng−ời thì tức là loạn nảy sinh từ d−ới. Nếu không viết 108 ng−ời tr−ớc, mà viết Cao Cầu tr−ớc thì tức là loạn nổi lên từ trên. Loạn sinh từ d−ới thì không thể biết đến đâu đ−ợc, nên tác giả phải tránh, loạn sinh từ trên thì không thể để lâu đ−ợc, tác giả rất lo vậy. Một bộ sách lớn bảy m−ơi hồi, mà mở đầu viết Cao Cầu tr−ớc, thật là có lý vậy". Các ví dụ đó cho thấy kết cấu luôn luôn là ph−ơng diện tổ chức hình t−ợng nghệ thuật và khái quát t− t−ởng – cảm xúc. Lựa chọn một kết cấu nào, nhà văn bao giờ cũng nhằm nâng cao sức biểu hiện của đề tài và chủ đề, tăng c−ờng sức tác động nghệ thuật, phục vụ tối đa cho nhiệm vụ nghệ thuật và t− t−ởng tác phẩm. 3. Các bình diện và cấp độ kết cấu Kết cấu là sự phối hợp liên kết các yếu tố các loại với nhau để tạo nên chỉnh thể tác phẩm. Khái niệm kết cấu đ−ợc mở rộng theo chiều ngang đ−ợc xem xét ở bình diện quy luật tổ chức thể loại : kết cấu tự sự, kết cấu kịch, kết cấu trữ tình. Mỗi thể loại văn học có những ph−ơng thức tổ chức riêng. Kết cấu vở kịch khác hẳn kết cấu một bài thơ trữ tình. Kết cấu một bài văn tế cũng khác hẳn một bài ký. Ngay kết cấu của các loại tiểu thuyết cũng không giống nhau. Chẳng hạn, tiểu thuyết ch−ơng hồi so với tiểu thuyết hiện đại. Kết cấu còn đ−ợc xem xét ở chiều dọc, tức là nghiên cứu mối quan hệ quy định và tuỳ thuộc của các cấp độ tác phẩm nh− một chỉnh thể. Kết cấu tồn tại ở hai cấp độ cơ bản : cấp độ hình t−ợng và cấp độ trần thuật. Cấp độ hình t−ợng gắn liền với toàn bộ tổ chức của thế giới nghệ thuật, bao hàm các hệ thống nhân vật, hệ thống các sự kiện, tình tiết và trình tự xuất hiện của chúng, t−ơng quan các chi tiết tạo hình, biểu hiện tạo nên bức tranh sinh động về cuộc sống, các t−ơng quan về không gian và thời gian. Đây là cấp độ kết cấu về bề sâu, gắn liền với ý đồ nghệ thuật và các tính cách đ−ợc phản ánh. Cấp độ trần thuật bao gồm sự liên tục của các biện pháp trần thuật, cũng nh− sự tổ chức của các câu, sự vận dụng các ph−ơng thức tu từ. ở cấp độ này, ng−ời ta th−ờng nói đến bố cục nh− là một kết cấu bề mặt, bao gồm sự sắp xếp, phân bố các phần của nội dung vào các mảng của trần thuật nh− ch−ơng, đoạn, II – Kết cấu hình t−ợng 1. Hệ thống hình t−ợng nhân vật Hệ thống hình t−ợng nhân vật là toàn bộ mối quan hệ qua lại của các yếu tố cụ thể, cảm tính tạo nên hình t−ợng nghệ thuật mà trung tâm là mối quan hệ của các nhân vật. ở ph−ơng diện kết cấu, hệ thống hình t−ợng bao gồm một phạm vi rộng hơn, gắn với tất cả chiều sâu, chiều rộng của phạm vi tác phẩm. Nói đến hệ thống nhân vật là nói đến sự tổ chức các quan hệ nhân vật cụ thể của tác phẩm. Các mối quan hệ th−ờng thấy của các nhân vật là đối lập, đối chiếu, t−ơng phản, bổ sung. Sự phản ánh hiện thực trong các mâu thuẫn xung đột và sự vận động dẫn đến việc tổ chức các nhân vật đối 85
  28. lập. Đó là sự đối lập giữa thiện và ác, tốt và xấu, giữa thống trị và bị thống trị, xâm l−ợc và chống xâm l−ợc, bóc lột và bị bóc lột. Nó gắn liền với sự đối lập của cá nhân về ph−ơng diện địa vị, cá tính, phẩm chất, chẳng hạn nh− dũng cảm và hèn nhát, trung thực và gian dối, trung thành và phản bội, ngay thẳng và nịnh bợ, tham lam và biết điều, Ta dễ dàng thấy đối lập trong đó các quan hệ giữa Lý Thông và Thạch Sanh ; Tấm và Cám ; Mỵ, A Phủ và bố con thống lý Pá Tra. Đó là sự đối lập của nhân cách, lý t−ởng, lẽ sống. Cái khéo của tác giả là làm cho các nhân vật đối lập thù địch có quan hệ với nhau, ràng buộc nhau ở ph−ơng diện nào đó, và do đó mà đối lập càng thêm gay gắt (chẳng hạn kết làm anh em, cùng quan hệ huyết thống, cùng chung lý t−ởng, chung đối t−ợng tranh chấp, hoặc loại trừ nhau vì mối thù, ). Quan hệ đối lập th−ờng loại trừ nhau một mất một còn, và th−ờng là cơ sở để tạo thành các tuyến nhân vật của tác phẩm. Quan hệ đối chiếu, t−ơng phản làm nổi bật sự đối lập và khác biệt của các nhân vật. Đó là thầy trò Đôn Kihôtê và Santrô Pansa của Xécvantét : một ng−ời cao và gầy, một ng−ời thấp và béo, một ng−ời bị đầu độc bởi những hoang t−ởng của tiểu thuyết hiệp sĩ, một ng−ời có trí óc lành mạnh, một ng−ời có lý t−ởng cao xa, một ng−ời thực dụng, thiển cận. Cả hai thầy trò nh− hai tấm g−ơng soi chiếu lẫn nhau. Sự t−ơng phản làm cho các đối lập, khác biệt hiện ra gay gắt. Đối chiếu là một mức độ thấp hơn của t−ơng phản. Chẳng hạn đối lập Thuý Kiều và Thuý Vân : sự vô tình của em càng tôn lên cái đa tình của chị. Đối chiếu, t−ơng phản là nguyên tắc kết cấu hết sức phổ biến. Nó chẳng những làm nổi bật các nhân vật khác tuyến mà còn làm cho các nhân vật cùng tuyến trở nên sắc nét. Chẳng hạn t−ơng phản giữa tính khí ba anh em L−u, Quan, Tr−ơng trong Tam quốc chí diễn nghĩa ; Tôn Ngộ Không, Tr− Bát Giới, Đ−ờng Tam Tạng trong Tây du ký. Quan hệ bổ sung là quan hệ của các nhân vật cùng loại, nhằm mở rộng phạm vi của một loại hiện t−ợng. Bên cạnh AQ còn có cu Don, V−ơng râu xồm, Ngò trong AQ chính truyện. Bên cạnh Chí Phèo còn có Binh Chức, Năm Thọ. Nhân vật bổ sung th−ờng là nhân vật phụ, làm cho nhân vật chính đậm đà, có bề dày. Chúng tuy mang tính chất phụ thuộc, nh−ng đồng thời cũng có tác dụng mở rộng đề tài. Hệ thống nhân vật là sự liên kết, tổ hợp nhân vật làm sao cho chúng phản ánh nhau, tác động nhau, soi sáng nhau để cùng phản ánh đời sống. 2. Hệ thống sự kiện Sự tổ hợp nhân vật không thể thực hiện đ−ợc nếu không có một hệ thống sự kiện t−ơng ứng. Sự kiện là những biến đổi, tác động, sự cố ý có ý nghĩa quan trọng đối với nhân vật, làm cho nhân vật và quan hệ của chúng không giữ nguyên hiện trạng mà phải biến đổi theo. Chính vì vậy, khái niệm sự kiện là rất quan trọng để lý giải tác phẩm. Sự kiện một mặt phản ánh các quan hệ, xung đột xã hội của các nhân vật, mặt khác lại có chức năng kết cấu, làm cho các nhân vật gần nhau hoặc xa nhau, chống nhau. Hệ thống sự kiện rất đặc tr−ng cho văn học. Nó vừa phản ánh sự vận động của đời sống, vừa tạo nên sự vận động trong tác phẩm. Sự kiện buộc nhân vật bộc lộ những gì thuộc bản chất của nó, và tự nó hợp thành lịch sử của nhân vật. Sự kiện mở ra những khả năng phát triển khác nhau cho nhân vật mà ng−ời đọc hứng thú chờ đợi. 86
  29. Hình thức tổ chức sự kiện cơ bản nhất của văn học là liên kết các sự kiện lại thành truyện, nh− trong tác phẩm tự sự và kịch. Tác phẩm trữ tình cũng hình thành trên cơ sở sự kiện nhất định, nh−ng khai thác cảm xúc suy nghĩ của con ng−ời tr−ớc các sự kiện đó. Truyện là chuỗi các sự kiện xảy ra liên tiếp trong không gian và thời gian cho nhân vật và có ý nghĩa đối với tác giả, có mở đầu, có phát triển, kết thúc, thể hiện những quan hệ, mâu thuẫn và quá trình nhất định của cuộc sống. Có truyện khái quát cả một phong trào, một thời đại hay một đời ng−ời. Truyện Kiều là chuyện một cuộc đời và một tấm lòng trong cơn dâu bể. Tắt đèn là chuyện tan vỡ của một gia đình nông dân d−ới ách s−u thuế tàn bạo. Trong chuyện lớn lại có chuyện nhỏ. Chẳng hạn, trong Tắt đèn có chuyện bán con, bán chó, chuyện lên hầu quan chủ, chuyện ở vú quan cụ, Cốt truyện là hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện. Bất cứ truyện lớn, nhỏ, cốt truyện nói chung bao gồm các thành phần chính : thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút. Thắt nút là sự xuất hiện các sự kiện đánh dấu điểm khởi đầu của một quan hệ tất yếu sẽ tiếp tục phát triển. Chẳng hạn, thắt nút cho mối tình Kim Kiều là phút gặp gỡ "Tình trong nh− đã mặt ngoài còn e" ; thắt nút cho cuộc tranh chấp với số mệnh là cuộc gặp gỡ với hồn ma Đạm Tiên : "Thấy ng−ời nằm đó biết sau thế nào". Đó là hai khía cạnh của một thắt nút lớn : đời Kiều sẽ trôi dạt về đâu ? Hạnh phúc có thực hay chiêm bao ? Phát triển là toàn bộ các sự kiện thể hiện sự triển khai, vận động của các quan hệ và mâu thuẫn đã xảy ra. Trong Truyện Kiều, đó là Kiều về nhà t− lự d−ới trăng, Kim về thuê nhà trọ học, Kim Kiều gặp mặt, thù tạc, thề −ớc, Kiều gặp gia biến, bán mình chuộc cha, Tiếp theo là cả một chuỗi sự kiện của m−ời lăm năm l−u lạc, chìm nổi. Cao trào hay còn gọi là điểm đỉnh, là sự kiện thử thách cao nhất, tột cùng nhất đối với nhân vật, là sự kiện dẫn đến b−ớc ngoặt lớn lao nhất trong sự phát triển của truyện. Chức năng của cao trào không chỉ là mài sắc các vấn đề của tác phẩm, mà còn đ−a đến chấm dứt sự phát triển. Sau cao trào thì chỉ có thể là thoái trào. Cao trào của Truyện Kiều là Từ Hải chết, Kiều bị bắt làm con hầu và bị gả cho ng−ời thổ quan. Đó là đỉnh cao của sự nhục nhã, đau đớn và vô nghĩa lý của cuộc đời Kiều. Toàn bộ −ớc mơ, tính toán, hy vọng của cô Kiều bị chà đạp không chút th−ơng tiếc : "Giết chồng mà lại lấy chồng – Mặt nào mà đứng ở trong cõi đời ?" Kiều tự tử và đ−ợc cứu, Nh−ng sau cao trào trên, Kiều không còn chí tiến thủ và −ớc mơ nữa, dù có đoàn viên, tái hợp sau này. Mở nút là sự kiện quyết định kề ngay sau cao trào. Nấc mở nút thứ nhất là Kiều tự tử. Sau đ−ợc cứu là Kiều gặp lại gia đình, về quê cũ và cuối cùng nối duyên với Kim Trọng trong tình "cầm cờ" ! Mở nút là sự xoá bỏ xung đột, nh−ng cũng không phải bao giờ cũng xoá bỏ mâu thuẫn. ý nghĩa mở nút của Truyện Kiều là ở đó, nhà thơ Xuân Diệu nhìn thấy đó là "bản cáo trạng cuối cùng". Đây là loại cốt truyện thể hiện ý nghĩa của chuỗi sự kiện trong mối liên hệ nhân quả liên tục, sắp xếp theo trình tự cuộc đời nhân vật. Còn có loại truyện mà cốt truyện không bao hàm đầy đủ các thành phần nh− trên. Đó là loại truyện có kết cấu để ngỏ nh− Tắt đèn, d−ờng nh− các sự kiện vẫn đang phát triển. Có loại truyện thay đổi trật tự cuộc đời nhân vật để nhằm khám phá ý nghĩa 87
  30. tâm lý, t− t−ởng, nhận thức của sự kiện đối với nhân vật. Chí Phèo của Nam Cao, Số phận con ng−ời của Sôlôkhốp là những ví dụ tiêu biểu. Khái niệm cốt truyện đôi khi còn dùng để chỉ sự lặp đi lặp lại th−ờng gặp ở một số mô típ hoặc tình huống cốt truyện. Chẳng hạn, mô típ dũng sĩ giết trăn tinh cứu ng−ời đẹp, rồi đ−ợc ng−ời đẹp đáp lại bằng tình yêu, hoặc tình huống đôi trai gái yêu nhau lại thuộc hai gia đình vốn thù nhau, hoặc thuộc hai giai cấp, đẳng cấp xã hội không thể dung hoà, hoặc hai ng−ời yêu nhau nh−ng một trong hai ng−ời giết hại ng−ời thân của ng−ời mình yêu, trở thành kẻ thù của gia đình ng−ời yêu, Các kiểu liên kết sự kiện nh− vậy do có ý nghĩa khái quát loại hình nhất định đối với các quan hệ nhân sinh mà đ−ợc văn học dân gian, văn học trung đại hoặc hiện đại sử dụng, đ−ợc vay m−ợn để làm s−ờn cho những cốt truyện mới. Chẳng hạn nh− Rômêô và Giuliét của Sếchxpia, Lơ Xít của Cornây. Dù m−ợn mô típ truyền thống nh−ng nội dung các vở kịch đều mang những sự kiện chứa đựng những nội dung và ý nghĩa mới mẻ. Rômêô và Giuliét là vấn đề khát vọng tự do tình yêu, thoát khỏi sự ràng buộc của thiên kiếp dòng họ, những luật lệ phong kiến chặt chẽ, hà khắc của thời đại Phục h−ng. Lơ Xít là tinh thần đề cao lý tính của thời đại, phục tùng chế độ quân chủ chuyên chế. Toàn bộ việc tổ chức hệ thống sự kiện (các thành phần cốt truyện, trật tự nhân quả, sự vận động mô típ truyền thống, ) đều nhằm tập trung thực hiện các chức năng cơ bản của nó : phơi bày các xung đột xã hội và thể hiện các số phận, tính cách con ng−ời. 3. Hệ thống cảm xúc Sự tổ chức hệ thống cảm xúc th−ờng xuất hiện trong thể loại thơ trữ tình. Để thống nhất một t− t−ởng và một tình cảm bao trùm trong tác phẩm cụ thể, các yếu tố không gian – thời gian, nội cảm – ngoại cảm, cảm xúc – ý thức, hình ảnh – âm thanh, đã đ−ợc liên kết trên nguyên tắc t−ởng t−ợng, trở thành các hình t−ợng tạo hình và biểu hiện. Tr−ớc hết, đó là sự liên kết và tổ chức sự vận động của cảm xúc và ý thức thông qua dòng liên t−ởng. Đó là sự thiết lập sự vật từ xa đến gần, đ−a các sự vật vốn xa nhau trở nên có quan hệ, liên kết không gian, thời gian, liên kết sự vật và cảm xúc. Dòng t− duy trữ tình sẽ nâng cao các hình ảnh đã chìm ngập đâu đó trong đáy sâu tâm hồn, làm sống dậy một loạt ấn t−ợng kinh nghiệm, loại bỏ, lựa chọn và kết hợp chúng, tạo thành những t−ơng quan, những thuộc tính thẩm mỹ mới. Trong cảm nhận về hạt gạo của Trần Đăng Khoa có cả nắng m−a, gió bão, h−ơng sen, hồ n−ớc, giọt mồ hôi của mẹ, Quê h−ơng của Đỗ Trung Quân là ấn t−ợng về chùm khế ngọt, b−ớm vàng bay, đ−ờng đi học, cầu tre nhỏ, ở đây, kinh nghiệm cá nhân (những hồi ức, đặc biệt là hồi ức ấu thơ) và kinh nghiệm tập thể (những ấn t−ợng mang tính cộng đồng) hoà trộn. Dòng ý thức trữ tình là đ−ờng dây nối liền những hiện t−ợng t−ởng chừng riêng rẽ thành một mạch nguồn thống nhất, xâu chuỗi các sự vật, biểu t−ợng, cung cấp cho các hiện t−ợng đời sống một ý nghĩa biểu tr−ng, bắc cầu hiện tại và quá khứ, t−ơng lai, nối vô thức và ý thức, d−ới ánh sáng của một ý t−ởng, một cảm xúc chủ đạo, theo những kết cấu cơ bản : đối lập, t−ơng đồng, tiếp cận, suy t−ởng. Dòng cảm xúc đi từ cảm giác, tri giác, hồi t−ởng, qua so sánh, khái quát, suy luận, phán đoán đã thể hiện quy luật vận động của tâm hồn và đời sống thông qua vô vàn các quan hệ 88
  31. đ−ợc tạo nên từ những nghịch lý, đối xứng, đồng nhất giữa khoảnh khắc – muôn đời, thực – h−, ảo – hiện, hữu – vô, xa – gần, động – tĩnh, vận động – bất biến, nhân – quả, quá khứ – hiện tại, riêng – chung, cá thể – nhân loại, Tạo dựng quan hệ là một trong những kết cấu cơ bản của hệ thống cảm xúc. Dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình th−ờng m−ợn t−ơng quan hai lớp hình t−ợng chủ thể – khách thể để tự tái hiện. Sự vận động của hai lớp hình t−ợng này phụ thuộc vào nhau dựa trên mối t−ơng đồng về nhịp điệu của vận động đời sống và vận động tâm hồn. Nỗi khao khát tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh đ−ợc che giấu d−ới hồn con sóng bền bỉ, đầy khắc khoải. Trong thơ tình yêu, hai lớp hình t−ợng này th−ờng là thiên nhiên và con ng−ời. Hệ thống anh – em đ−ợc triển khai song song cùng hệ thống t−ơng ứng : biển – trời, thuyền – biển, sóng – thuyền, trời – đất, cây – đ−ờng, sen – hồ, dâu – tằm, trầu vàng – cau xanh, Chúng chuyển đổi đặc điểm và phẩm chất cho nhau trên cơ sở những liên t−ởng t−ơng đồng. Việc tổ chức hệ thống cảm xúc trong mối t−ơng quan giữa các sự kiện, hình ảnh, nhân vật đều góp phần thể hiện t− t−ởng và tình cảm của nhân vật trữ tình. III – Kết cấu văn bản nghệ thuật Kết cấu văn bản nghệ thuật của tác phẩm văn học là sự tổ chức ở bình diện trần thuật. Đó là sự phân bố thế giới hình t−ợng qua một văn bản ngôn từ nhằm đạt đ−ợc hiệu quả t− t−ởng thẩm mỹ, bởi vì hình t−ợng đ−ợc xây dựng, tái hiện dần dần qua chuỗi ngôn từ văn bản. 1. Bố cục và thành phần của trần thuật Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn theo một cách nhìn, cách cảm nhận nhất định. Trần thuật là sự thể hiện hình t−ợng văn học, truyền đạt nó tới ng−ời th−ởng thức. Bố cục của trần thuật là sắp xếp, tổ chức sự t−ơng ứng giữa các ph−ơng diện khác nhau của hình t−ợng với các thành phần khác nhau của văn bản. Thực vậy, văn bản là một chuỗi ngôn từ gồm nhiều ch−ơng, tiết, đoạn, đoạn qua hàng, câu văn trong văn xuôi hoặc khổ thơ, dòng thơ ở trong thơ. Mỗi đoạn nh− vậy ứng với một nội dung nhất định, có nhiệm vụ trình bày những phần nhất định của hình t−ợng. Thành phần của trần thuật, tr−ớc hết ứng với thành phần của cốt truyện, nh−ng không phải khớp nhau một cách máy móc. Thành phần cốt truyện mang tính năng động, bao gồm các sự kiện, biến đổi. Có các đoạn văn ứng với các sự kiện đó. Nh−ng trần thuật còn bao gồm các thành phần có tính chất tĩnh tại nh− đoạn giới thiệu lai lịch (tiểu sử) nhân vật, trình bày tình trạng hiện tại, miêu tả chân dung, ngoại cảnh, tả đồ vật, môi tr−ờng, tái hiện tâm trạng, hồi t−ởng, các đoạn đối thoại có tính chất kịch, các đoạn độc thoại, những lời bình phẩm của tác giả bám sát theo hành động của nhân vật, Bên cạnh các thành phần ấy, còn có các truyện xen tăng c−ờng thêm sức khêu gợi, liên t−ởng, khái quát. Chẳng hạn chuyện cô tóc thơm trong M−ờng Giơn, chuyện Đạm Tiên trong 89
  32. Truyện Kiều. Các lời xen ngoại đề của tác giả có tính chất trữ tình hay triết lý trong các tác phẩm. Chẳng hạn, đoạn mở đầu đầy châm biếm của AQ chính truyện, đoạn nói về n−ớc Nga trong Những linh hồn chết, các đoạn lên án "số mệnh" trong Truyện Kiều. Không phải tác phẩm nào cũng đầy đủ ngần ấy thành phần. Có tác phẩm phát triển thành phần này, lại có tác phẩm phát triển loại thành phần kia. Trật tự liên kết của chúng lại càng thiên hình vạn trạng. Nhiệm vụ hàng đầu của bố cục là giải quyết mối t−ơng quan của thời gian cốt truyện và thời gian trần thuật theo một trật tự sau tr−ớc. Trong tác phẩm văn học, điểm mở đầu và điểm kết thúc của trần thuật không phải bao giờ cũng trùng hợp với điểm mở đầu và điểm kết thúc của cốt truyện. Trong văn học viết nói chung, tình hình ng−ợc lại. Tác phẩm th−ờng mở đầu khi sự kiện đã xảy ra rồi, và kết thúc ở điểm khi sự việc hoàn toàn xong xuôi. Do vậy, việc xác định điểm mở đầu và điểm kết thúc trong văn học có ý nghĩa nghệ thuật quan trọng. Việc xác định đúng điểm mở đầu và điểm kết thúc trần thuật sẽ có ý nghĩa lớn để làm nổi bật chủ đề. Chẳng hạn mở đầu bằng Nhật đảo chính Pháp và kết thúc bằng khởi nghĩa thắng lợi năm 1945, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi tập trung thể hiện vai trò tổ chức, lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng tháng Tám. Cũng nh− vậy, mở đầu bằng việc "hắn vừa đi vừa chửi" và kết thúc bằng cái chết bên xác kẻ thù trong truyện Chí Phèo, Nam Cao tập trung biểu hiện một vấn đề xã hội của nhân vật : niềm uất hận ch−a đ−ợc ý thức, lòng khát khao mơ hồ muốn trở lại làm ng−ời l−ơng thiện. Tác phẩm không thể đ−ợc mở đầu và kết thúc một cách ngẫu nhiên, tuỳ tiện, nếu nh− muốn nâng cao tầm t− t−ởng khái quát của nó. Sự phối hợp các thành phần trần thuật, sự luân phiên, phối xen các sự kiện và các đoạn tả cảnh, tả tình, hồi t−ởng sẽ tạo nên nhịp điệu của trần thuật. Chẳng hạn, sự gối đầu chồng chéo các sự kiện xảy ra với Thuý Kiều tạo một nhịp "gấp khúc" đầy những tan vỡ, đau đớn, lại phối xen với các đoạn tả xuân – thu luân phiên, tạo những khoảng th− giãn, hứa hẹn những đổi thay mới. Hoặc nh− luân phiên các đoạn kể về Bác Hồ thoắt ẩn, thoắt hiện trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của Trần Dân Tiên tạo cảm giác nhớ mong, đợi chờ th−ờng xuyên cho ng−ời đọc. Trong thơ trữ tình, mối quan hệ đầu – kết đặc biệt quan trọng. Mở đầu bao giờ cũng có tác động đ−a ng−ời đọc vào một không khí, một trạng thái cảm xúc nhất định. Dù tả cảnh gợi tình, hoặc khoan thai kể chuyện, hoặc bâng khuâng gợi hứng, hoặc đột ngột bàng hoàng, mở đầu của thơ th−ờng có tác động gây ấn t−ợng quan trọng. Phần kết th−ờng gắn với quan niệm về sự trọn vẹn, hoàn tất, vừa gợi lại phần thể hiện ở trên, vừa tạo d− âm trong lòng ng−ời đọc. Ng−ời x−a th−ờng cho rằng cái hay của một bài thơ th−ờng đọng ở câu kết : hoặc thu lại, hoặc mở ra, tạo nên ý mênh mang. ở đây, bố cục bài thơ phải xử lý mối t−ơng quan giữa lời thơ hữu hạn và ý thơ, tình thơ vô cùng. 2. Tổ chức điểm nhìn trần thuật Nghệ sĩ không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện về đời sống đ−ợc nếu không xác định cho mình một điểm nhìn đối với vật, hiện t−ợng nhìn từ góc độ nào, xa hay gần, cao hay thấp, từ bên trong ra hay bên ngoài vào, Do vậy, điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng đầu 90
  33. của sáng tạo nghệ thuật. Từ lâu, các nghệ sĩ bậc thầy và các nhà phê bình đã l−u ý tới vai trò của điểm nhìn trong kết cấu. Biêlinxki đã từng nói rằng, khi đứng tr−ớc một phong cảnh đẹp thì chỉ có một điểm nhìn làm cho ta thấy toàn cảnh và chiều sâu của nó. Nếu đứng gần quá hay xa quá, lệch về phía bên phải hay trái quá cũng sẽ làm cho phong cảnh mất vẻ toàn vẹn, hoàn mỹ. Nhà điện ảnh Xô viết Puđốpkin ví việc xác định địa điểm nhìn để tái hiện đời sống nh− mở một con đ−ờng đi vào rừng rậm. Xác định đúng, tạo cho ng−ời đi cái thế nhìn sâu trông xa, đ−a họ đến cái điểm nhận thức và cảm thụ mà nhà văn muốn đạt đến. Cái có vai trò quan trọng nhất trong trần thuật về hiện thực là quan điểm đánh giá – cảm thụ. Nh−ng quan điểm đánh giá – cảm thụ không thể có đ−ợc nếu thiếu một ý thức cụ thể. Nh− vậy là nó có mối t−ơng quan giữa quan điểm đánh giá – cảm thụ với các loại nhân vật của tác phẩm. Nhà văn có thể tiến hành trần thuật theo quan điểm của mình hoặc theo quan điểm của một trong số các nhân vật, hoặc kết hợp luân phiên các quan điểm của các nhân vật khác nhau. Nhân vật trong tác phẩm vừa là ng−ời đánh giá – cảm thụ, lại vừa là đối t−ợng của sự đánh giá – cảm thụ. Do đó hệ thống điểm nhìn đánh giá trong tác phẩm không phải một chiều. Xét về tr−ờng nhìn trần thuật, tức là điểm nhìn bao quát cái phần thế giới đ−ợc nhìn từ một chỗ đứng nào đó có thể chia ra làm hai loại : "tr−ờng nhìn tác giả" là trần thuật theo sự quan sát, hiểu biết của ng−ời trần thuật đứng ở ngoài truyện. Nó không bị hạn chế, mang lại một tính khách quan tối đa cho trần thuật. Truyện kể dân gian, kịch, truyện ký, tiểu thuyết nói chung trần thuật theo "tr−ờng nhìn tác giả". Loại "tr−ờng nhìn nhân vật" trần thuật theo quan điểm của một nhân vật trong tác phẩm, bị hạn chế bởi địa vị, hiểu biết, lập tr−ờng của nhân vật đó. Nh−ng loại này cho phép đ−a vào quan điểm riêng, sắc thái, tâm lý, cá tính, mang đậm tính chủ quan, tăng c−ờng chất trữ tình hoặc châm biếm. Tác phẩm trữ tình, tự truyện, tiểu thuyết trong văn học cận đại, hiện đại xuất hiện nhiều tác phẩm loại này. Nhật ký ng−ời điên, Tiếc th−ơng những ngày đã mất của Lỗ Tấn, Sống mòn, Đôi mắt của Nam Cao, Số phận con ng−ời của Sôlôkhốp, Vĩnh biệt Gunxar− của Aimatốp, đều theo lối này. Trong sáng tác, hai loại quan điểm trên nhiều khi không tách biệt nhau mà phối hợp, luân phiên nhau trong một hệ thống trần thuật phức tạp. Trong quá trình trần thuật, điểm nhìn đ−ợc chuyển từ tác giả sang nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác, mở rộng khả năng bao quát đánh giá của trần thuật. Chẳng hạn, ký sự Miền đất lửa của Vũ Kỳ Lân và Nguyễn Sinh kể lại sự tích anh hùng của quân dân Vĩnh Linh trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ. Trong phần ba nói về trận đánh máy bay Mỹ đầu tiên, tác giả đã trần thuật một sự kiện qua ba điểm nhìn : con mắt của nhà phóng viên, nhật ký của một pháo binh và những hồi ức của ng−ời dân th−ờng làm cho sự kiện đ−ợc soi sáng ở góc những độ khác nhau, bổ sung cho nhau. Xét về bình diện tâm lý, có thể phân biệt điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong. Điểm nhìn bên trong cho phép trần thuật qua lăng kính của một tâm trạng cụ thể , dễ dàng tái hiện các quá trình trong tâm hồn nhân vật. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, thoạt đầu trần thuật theo điểm nhìn bên ngoài của "một ai đi xa về", dần dần chuyển vào điểm nhìn bên trong của Mỵ, ngòi bút tác giả nhập hẳn vào Mỵ, khám phá cái bản năng ham sống mãnh liệt của Mỵ đã đ−a cô đến hành động cứu A Phủ và chạy thoát lên vùng du kích. Hoặc nh− trong truyện ký Sống nh− Anh của 91
  34. Trần Đình Vân, việc chuyển điểm nhìn trần thuật về anh Trỗi cho chị Quyên đã làm cho hình t−ợng ng−ời anh hùng trở nên thân thiết, trìu mến. Trên đây là những bình diện cơ bản của kết cấu. Thực tế, kết cấu tác phẩm rất đa dạng. Khi nghiên cứu, phân tích phải kết hợp với đặc điểm kết cấu thể loại và phong cách nhà văn, và nhất là phải xem xét theo chức năng biểu hiện nội dung của tác phẩm. Chỉ có nh− vậy mới phát hiện đ−ợc nội dung sâu sắc của tác phẩm và nắm bắt đ−ợc những hình thức kết cấu có giá trị. 92
  35. h−ớng dẫn học tập 1. Kết cấu nghệ thuật là gì ? Chức năng của kết cấu trong việc xây dựng hình t−ợng và bộc lộ t− t−ởng tác giả ? – Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp của tác phẩm, sự liên kết các bộ phận sao cho thể hiện đ−ợc t− t−ởng, tình cảm của tác giả. – Kết cấu tr−ớc hết đòi hỏi phải tổ chức hệ thống nhân vật. Ai chính, ai phụ, ai t−ơng đồng với ai để nhấn mạnh, ai t−ơng phản với ai để nổi bật. Cùng với nhân vật là tổ chức sự kiện. Nếu là tác phẩm tự sự thì tổ chức cốt truyện nh− thế nào, xác định mâu thuẫn chính, mâu thuẫn phụ. Nếu là thơ thì tổ chức ý chính, ý phụ. Tiếp đến là bố cục, tác phẩm bắt đầu từ đâu, kết thúc ở chỗ nào. Lại phải xác định trần thuật từ góc nhìn của ai, nhìn xa hay nhìn gần, theo giọng điệu nào. Dùng lời lạnh lùng hay thiết tha, mỉa mai hay ca ngợi. Lại phải xác định chỗ nào khiêu gợi, chỗ nào đánh lạc h−ớng ng−ời đọc, Tóm lại, kết cấu là ph−ơng diện rất phức tạp và tinh vi của tác phẩm. Tài kết cấu đ−ợc khen với tài của tạo hoá. – Kết cấu là ph−ơng tiện góp phần khái quát nghệ thuật. Nó giúp liên kết các hiện t−ợng, sự vật, con ng−ời trong một chỉnh thể nội dung nhất định, để từ những quan hệ rút ra đ−ợc những nội dung ý nghĩa đời sống, Ví nh− sắp xếp cảnh : "Cửa son r−ợu thịt ôi - Ngoài đ−ờng x−ơng chết buốt" (Đỗ Phủ) bên cạnh nhau đã làm tăng thêm sức tố cáo của bức tranh hiện thực đầy đau đớn. Nó làm nội dung chính yếu của tác phẩm đ−ợc nổi bật, cái quan trọng gây đ−ợc ấn t−ợng mạnh mẽ. Trong sự song hành của các nhân vật Binh Chức, Năm Thọ thì hình ảnh Chí Phèo lại càng tô đậm thêm bức tranh l−u manh hoá của những ng−ời bị đẩy vào b−ớc đ−ờng cùng (Chí Phèo – Nam Cao). Mái tóc của chị Sứ không phải ngẫu nhiên đ−ợc tác giả tập trung miêu tả nhiều đến nh− vậy, mà bởi vì mái tóc đó t−ợng tr−ng cho sức sống tự nhiên, mãnh liệt của ng−ời phụ nữ dịu dàng, chung thuỷ, kiên trung (Hòn Đất – Anh Đức). Kết cấu góp phần rất quan trọng trong việc miêu tả t− t−ởng, tình cảm của nhà văn. Ví nh− mô típ về những cái chết, những sự hy sinh cho Tổ quốc trong văn học thời kỳ 1945 - 1975 không bị diễn tả một cách bi luỵ, không bị coi là sự mất đi mà là sự thăng hoa, hồi sinh, là nguồn mạch của lòng căm thù và sức chiến đấu : đó là gieo mầm, là phù sa, là lời ca không tắt, là hoa trên đỉnh núi, là hồn bay giữa đồng, là trái tim nh− ngọc sáng ngời, là trong lửa hồng xuất hiện một vòng hoa, là bay lên bát ngát mùa xuân, với một điểm nhìn chiêm ng−ỡng cao cả và một th−ớc đo vĩnh cửu, thể hiện một quan niệm cách mạng lạc quan về sự hy sinh cho dân tộc. 2. Các dạng thức kết cấu cơ bản 3. Phân tích ph−ơng diện kết cấu để làm nổi rõ nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh : Tiếng suối trong nh− tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Cảnh khuya nh− vẽ, ng−ời ch−a ngủ Ch−a ngủ vì lo nỗi n−ớc nhà. 93
  36. Đặc điểm rõ nhất của kết cấu bài thơ là sử dụng các quan hệ trùng lặp và điểm nhìn. Câu 1 : Dùng âm thanh, cái động để diễn tả sự im lặng, cái tĩnh đến tuyệt đối thể hiện cảnh đêm đã về khuya, rất sâu lắng. Câu thơ có hai từ tiếng nh−ng không hề phá vỡ sự im lặng của cảnh. Câu 2 : Dùng màu sắc, hình khối, sự tĩnh tại của không gian để diễn tả sự quấn quýt, giao hoà của cảnh vật trong đêm đã khuya. Màu sắc lạnh, hình khối, điểm nhìn đi từ cao xuống thấp, nh−ng lại diễn tả đ−ợc sự nồng ấm quấn quyện của cảnh vật qua hai từ lồng. Câu 3 : Sự lặp lại cụm từ "ng−ời ch−a ngủ" mở ra một ph−ơng diện mới : lý do Bác ch−a ngủ vì lo nỗi n−ớc nhà. Bài thơ là kết quả của hai điểm nhìn : nghệ sĩ và chiến sĩ. Từ đó có thể thấy sự hài hoà trong nhân cách vị lãnh tụ của chúng ta. 94
  37. Ch−ơng V Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học I – Lời văn và ngôn ngữ văn học dân tộc 1. Lời văn của tác phẩm văn học là một hiện t−ợng nghệ thuật Mọi tác phẩm văn học đều đ−ợc viết hoặc kể bằng lời : lời thơ, lời văn, lời tác giả, lời nhân vật, gộp chung lại gọi là lời văn. Trong đời th−ờng không ai nói chuyện với nhau bằng thơ, bằng văn xuôi, hay bằng lời thoại kiểu kịch. Lời văn – thực chất cũng là dạng của ngôn từ nh−ng đã đ−ợc tổ chức theo quy luật nghệ thuật về mặt nội dung, ph−ơng pháp, phong cách, thể loại. Lời nói trong tác phẩm nghệ thuật không còn là hiện t−ợng ngôn ngữ mang chức năng giao tiếp thông th−ờng, mà đã đ−ợc đ−a vào một hệ thống giao tiếp khác. Chính vì vậy, vấn đề ngôn ngữ trong tác phẩm văn học và lời văn trong tác phẩm văn học không còn đồng nhất với nhau. Ng−ời học văn không những phải biết ngôn ngữ của tác phẩm văn học, mà hơn thế, phải chiếm lĩnh lời văn nghệ thuật của nó nữa. Lời văn cũng là một dạng của lời nói, nh−ng lời văn của tác phẩm khác hẳn lời nói thông th−ờng. Lời nói th−ờng giải quyết các nhiệm vụ tức thời, một lần, lời văn tác phẩm không chỉ có tác dụng đó, nó có tham vọng trở thành lời nói cho nhiều lần, với muôn đời. Lời nói trong quan hệ phụ thuộc vào hoàn cảnh nói mà ng−ời nghe phải biết đầy đủ hoàn cảnh đó thì mới hiểu đ−ợc. Nếu tách khỏi hoàn cảnh ấy, lời nói trở nên vô ý nghĩa, vô giá trị. Trái lại, lời văn nghệ thuật đ−ợc viết ra với dụng ý tạo nên một sản phẩm t−ơng đối độc lập với hệ thống giao tiếp tự nhiên. Nó có thể bị tách rời ngữ cảnh tức thời và tham gia vào nhiều ngữ cảnh khác. Lời nói thông th−ờng không trọn vẹn, đầy đủ. Lời văn, trái lại luôn luôn là hiện t−ợng trọn vẹn, đầu đủ để tự nó có thể thuyết minh ý nghĩa của nó trong môi tr−ờng giao tiếp văn học. Trong giao tiếp thông th−ờng ng−ời ta có thể nói bằng nhiều cách để diễn đạt một ý. Trong nghệ thuật, nhà văn hoàn thiện văn bản, tạo thành lời văn duy nhất hợp với ý tình định nói. Ng−ời đọc chỉ cần tập trung vào văn bản của cuốn tiểu thuyết Tắt đèn là hiểu đ−ợc thông điệp của nhà văn Ngô Tất Tố. Ng−ời đọc không cần nhất thiết phải biết tác phẩm này tác giả viết ở vùng quê nào, vào lúc nào, tác giả khi ấy đang làm gì, Dĩ nhiên, nếu ng−ời đọc hiểu đ−ợc hoàn cảnh sáng tác và tiểu sử của tác giả thì việc nghiên cứu và hiểu tác phẩm sẽ sâu sắc hơn. 2. Đặc tr−ng của lời văn trong tác phẩm văn học Ng−ời ta th−ờng nói lời văn trong tác phẩm văn học có tính hình t−ợng, tính gợi cảm, tính chính xác, tính hàm súc, Những nhận định đó đều rất đúng, nh−ng không nên quên rằng, đó cũng là tính chất của lời nói giao tiếp thông th−ờng. Chẳng hạn, lời của thầy giáo giảng bài, lời âu yếm chân tình, Thiếu các tính chất trên, ng−ời ta không thể đạt đ−ợc hiệu quả cao trong giao tiếp. Trong lời văn của tác phẩm văn học, các tính chất ấy phải đ−ợc hiểu với một nội dung sâu hơn, gắn liền với đặc tr−ng phản ánh đời sống của văn học. 95