Khóa luận Giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam

pdf 123 trang hapham 1270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_giai_phap_phat_trien_hoat_dong_bao_hiem_tin_dung_x.pdf

Nội dung text: Khóa luận Giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH QUỐC TẾ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM Họ và tên sinh viên : Nguyễn Trà My Lớp : Anh 2 Khóa : 45 Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Hiền Hà Nội, tháng 05 năm 2010
  2. MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 1 DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ 0 LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU 5 1. Tổng quan về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 5 1.1. Tổng quan về hoạt động tín dụng xuất khẩu 5 1.1.1. Khái niệm về tín dụng xuất khẩu 5 1.1.2. Phân loại tín dụng xuất khẩu 5 1.2. Tổng quan về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 9 1.2.1 Khái niệm về bảo hiểm 9 1.2.2. Tổng quan về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 11 1.3. Vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 15 1.3.1. Giúp các nhà doanh nghiệp an tâm hơn trước các rủi ro 16 1.3.2. Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tăng cường xuất khẩu và thúc đẩy sản xuất phát triển 17 1.3.3. Mở ra nhiều cơ hội đầu tư cho doanh nghiệp trong nước 18 2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 20 2.1. Nhân tố vĩ mô 20 2.2. Nhân tố vi mô 22 3. Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới trong việc phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và bài học cho Việt Nam 24 3.1. Kinh nghiệm của Brazil 24 3.1.1. Chính sách phát triển ngoại thương của Brazil 25 3.1.2. Hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Brazil từ năm 1962 đến năm 1992 26
  3. 3.1.3. Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu mới của Brazil (từ năm 1992 đến nay) 27 3.2. Kinh nghiệm của Mỹ 32 3.2.1. Khái quát chung 32 3.2.2. Vai trò của Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ 32 3.2.3. Chương trình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 33 3.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 35 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 39 1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua 39 1.1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ quý I/2007 đến quý I/2010 39 1.2. Một số hạn chế còn tồn tại 43 1.2.1. Về năng lực sản xuất hàng xuất khẩu 43 1.2.2. Về hoạt động xuất khẩu 44 1.3. Nguyên nhân của những hạn chế và kết luận 45 1.3.1. Nguyên nhân của những hạn chế 45 1.3.2. Kết luận 46 2. Thực trạng của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 46 2.1. Môi trường pháp lý 46 2.1.1. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 46 2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 53 2.2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng xuất khẩu 53 2.2.2. Thực trạng hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 59 CHƢƠNG III: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 64
  4. 1. Dự báo tình hình phát triển của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong thời gian tới 64 1.1. Cơ sở dự báo 64 1.1.1. Cơ hội đối với hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 64 1.1.2. Thách thức đối với hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 65 1.2. Dự báo 66 2. Định hƣớng triển khai và phát triển thị trƣờng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 67 2.1. Mục tiêu 67 2.2. Định hướng cho mô hình công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Nhà nước 68 2.2.1. Về hình thức tổ chức 68 2.2.2. Về cơ chế tài chính 69 2.2.3. Về sản phẩm cung cấp 70 2.2.4. Về cơ chế phí bảo hiểm 71 2.2.5. Về cơ chế bồi thường 72 3. Những giải pháp nhằm phát triển thị trƣờng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 73 3.1. Giải pháp vĩ mô 73 3.2. Giải pháp vi mô 74 3.2.1. Giải pháp cho khách hàng sử dụng (các doanh nghiệp xuất khẩu) 74 3.2.2. Giải pháp cho các nhà cung cấp dịch vụ 75 4. Kiến nghị nhằm phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 76 4.1. Kiến nghị đối với Chính phủ 76 4.2. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước 76 4.3. Kiến nghị đối với các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 78 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO a PHỤ LỤC i
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt TẮT WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới L/C Letter of Credit Thư tín dụng D/P Documents Against Payment Nhờ thu trả ngay (nhờ thu theo hình thức thanh toán giao chứng từ) D/A Documents Against Acceptance Nhờ thu trả chậm (nhờ thu theo hình thức chấp nhận thanh toán giao chứng từ) EC European Commission Uỷ ban châu Âu EU European Union Liên minh châu Âu IRB Brazilian Reinsurance Institute Viện tái bảo hiểm Brazil CAMEX Chamber of Foreign Trade Phòng Ngoại Thương COFIG Council of Financing and Hội đồng Tài trợ và Bảo lãnh Guarantee FGE Exports Guarantee Fund Quỹ bảo lãnh xuất khẩu SBCE Brazilian Export Credit Hãng bảo hiểm tín dụng xuất Insurance Agency khẩu Brazil CCC Commodity Credit Corporation Tập đoàn tín dụng thương mại OPIC Overseas Private Investment Tập đoàn đầu tư tư nhân nước Corporation ngoài
  6. NAC National Advisory Council on Hội đồng tư vấn quốc gia về International Monetary and các chính sách tài chính và Finance Policy tiền tệ quốc tế ODA Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức VDB Vietnam Development Bank Ngân hàng Phát triển Việt Nam OECD Organization for Economic Co- Tổ chức Hợp tác và phát triển operation and Development kinh tế SCM Agreement on Subsidies and Hiệp định về trợ cấp và các Countervailing Measures biện pháp đối kháng
  7. DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ Bảng 1: Xuất khẩu từ quý I/2007 đến quý I/2010 39 Bảng 2: Doanh số cho vay tín dụng xuất khẩu qua 3 năm từ 2007 đến 2009 53 Bảng 3: Cơ cấu doanh số cho vay theo thị trường 54 Hình 1: Sơ đồ quy trình hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đơn giản 12 Hình 2: Sơ đồ quy trình hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hiện đại 13 Hình 3: Biểu đồ về tình hình kim ngạch xuất khẩu cả nước trong giai đoạn từ quý I/2007 đến quý I/2010 40 Hình 4: Sơ đồ bộ máy hoạt động chính của mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 69
  8. 1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Cùng với những thành tựu to lớn của cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, quá trình hội nhập thương mại giữa các quốc gia trên phạm vi toàn thế giới ngày càng diễn ra với tốc độ chóng mặt. Nhiều cơ hội giao dịch thương mại hấp dẫn được mở ra cho các cường quốc kinh tế lớn cũng như các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên điều đó cũng có nghĩa các quốc gia tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế phải tự khẳng định vị thế của mình trong cuộc cạnh tranh có tính quốc tế ngày càng diễn ra gay gắt với các công ty và doanh nghiệp nước ngoài. Trong bối cảnh đó, nhu cầu mở rộng thị trường xuất khẩu đối với các doanh nghiệp là tất yếu. Tuy nhiên, khi thị trường xuất khẩu của Việt Nam mở rộng, trong quá trình cạnh tranh khốc liệt hơn với các doanh nghiệp nước ngoài, việc các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam gặp phải nhiều rủi ro trong hoạt động mua bán quốc tế là không thể tránh khỏi. Do vậy, việc tìm ra và áp dụng các hình thức hỗ trợ xuất khẩu mới thông qua việc hạn chế các rủi ro xảy ra trong hoạt động thương mại có tính toàn cầu như hiện nay tại Việt Nam là một yêu cầu hết sức cần thiết. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chính là một trong những hình thức đó. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đã xuất hiện trên thế giới từ khá sớm. Hiện nay, hình thức này được rất nhiều nước ưa chuộng, đặc biệt là ở Châu Âu (thể hiện ở 80% hàng hóa xuất khẩu tham gia loại hình bảo hiểm này)1. Tuy nhiên, ở Việt Nam đây vẫn còn là một hình thức bảo hiểm mới mẻ, chưa mấy phát triển. Việc thúc đẩy hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, phát triển mặt hàng và thị trường xuất khẩu, yên tâm hơn khi thâm nhập các thị trường xuất khẩu nhiều rủi ro. Thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Việt Nam hiện còn ở quy mô rất nhỏ và hoạt động còn chưa đáng kể. Hiện nay, loại hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn chưa phát triển và mới chỉ ở dạng các sản phẩm bảo hiểm đơn giản. Số lượng doanh 1 1&c=cat22102007143106861
  9. 2 nghiệp xuất khẩu áp dụng dịch vụ này vẫn còn hạn chế. Từ phía Nhà nước và các Bộ ngành, Việt Nam vẫn chưa chính thức ban hành chính sách và kế hoạch phát triển thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Đề án phát triển nghiệp vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hiện vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Giải pháp phát triển cho hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam” làm đề tài nghiên với hi vọng sẽ đưa ra được một cái nhìn tổng quan đối với hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay và từ đó đưa ra những dự báo, định hướng phát triển cùng với giải pháp cho loại hình hoạt động này trong thời gian tới. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Nghiên cứu nước ngoài về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Hiện nay, trên thế giới, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một trong những hình thức hỗ trợ xuất khẩu được sử dụng phổ biến và rộng rãi. Do vậy đã xuất hiện khá nhiều những bài báo, bài viết và tài liệu nghiên cứu về loại hình bảo hiểm này. Trong số đó, phải kể đến một số công trình nghiên cứu được đánh giá cao như “The Handbook of International Trade and Finance” của Ander Grath hoặc “Credit Management Handbook” của Burt Edward Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những lý luận chung về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở một số quốc gia trên thế giới, chứ chưa đi sâu phân tích kĩ về loại hình này ở một thị trường cụ thể nào. 2.2. Nghiên cứu trong nước về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Tại Việt Nam hiện nay, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu vẫn còn là một hoạt động mới mẻ, chưa thực sự phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong quá trình mua bán quốc tế của doanh nghiệp xuất khẩu trong nước với đối tác quốc tế. Bên cạnh đó, những tài liệu nghiên cứu về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nước ta vẫn còn khá hạn chế, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra cái nhìn tổng quát về loại hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, chứ chưa đi sâu phân tích các yếu tố ảnh hưởng cũng như nghiên cứu các giải pháp nhằm phát triển lâu dài hoạt động này tại Việt Nam trong tương lai.
  10. 3 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài được thực hiện với ba mục đích chính: Thứ nhất, làm rõ các khái niệm về bảo hiểm, tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng như những đặc điểm cơ bản và vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nhằm đưa lại cái nhìn tổng quan về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và kinh nghiệm của một số nước phát triển hoạt động này trên thế giới; Thứ hai, nghiên cứu thực trạng của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đồng thời làm rõ những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại trong việc áp dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam; Cuối cùng, trên cơ sở các phân tích trên, sẽ đưa ra những dự báo, định hướng phát triển cùng với giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, vốn còn rất mới mẻ tại Việt Nam này trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam, đặc biệt đi sâu phân tích kinh nghiệm của một số nước được coi là có hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phát triển mạnh trên thế giới, qua đó rút ra những bài học cũng như ảnh hưởng của bối cảnh kinh tế đến cách thức, quy mô của hoạt động này trong giai đoạn hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam, trong giai đoạn từ năm 2005 trở lại đây. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng chọn một số nước phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nhằm so sánh, phân tích và đánh giá những điểm mạnh và những mặt còn hạn chế của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở các nước này, qua đó có thể rút ra kinh nghiệm cho hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam. Khi lựa chọn một số nước phát triển để phân tích, đề tài cũng giới hạn sự lựa chọn chỉ ở hai nước là Brazil và Mỹ. Đây là hai trong số
  11. 4 những thị trường có tốc độ phát triển mạnh trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: phân tích - thống kê, tổng hợp khảo sát, hệ thống hoá và luận giải nhằm rút ra được những luận cứ logic nhất từ đó tổng hợp đánh giá đối tượng được nghiên cứu. Phương pháp so sánh cũng được áp dụng để nêu bật những điểm mạnh và cơ hội của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam so với hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại một số nước phát triển trên thế giới. 6. Kết quả nghiên cứu dự kiến Kết quả dự kiến của đề tài là đề xuất được các nhóm biện pháp trên nhiều phương diện (vĩ mô, vi mô, pháp lý), mang tính thực tiễn cao, có khả năng áp dụng trực tiếp vào thực tế, giúp các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước đề ra mục tiêu và phương hướng phát triển trong tương lai thông qua hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đang ngày càng trở nên phổ biến này, đồng thời làm cơ sở nghiên cứu cho các quyết định của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc vạch ra hướng đi và các giải pháp cụ thể hơn phù hợp với mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chƣơng 1: Tổng quan về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Chƣơng 2: Thực trạng về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp kiến nghị để phát triển và nâng cao hiệu quả thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Việt Nam trong thời gian tới.
  12. 5 CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU 1. Tổng quan về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 1.1. Tổng quan về hoạt động tín dụng xuất khẩu 1.1.1. Khái niệm về tín dụng xuất khẩu Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyển sử dụng vốn từ người cho vay sang người đi vay trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định (được gọi là lãi vay). Dựa trên khái niệm tín dụng nêu trên, có nhiều cách thức để phân chia hoạt động tín dụng thành các loại khác nhau như: tín dụng thương mại, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng Tuy nhiên phạm vi đề tài chỉ đề cập đến tín dụng xuất khẩu. “Tín dụng xuất khẩu” là khoản tín dụng dùng để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, cụ thể là khoản tín dụng của người xuất khẩu cấp cho người nhập khẩu hoặc khoản cho vay trung và dài hạn mà ngân hàng dùng để tài trợ cho các dự án và cung cấp vốn cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa. 1.1.2. Phân loại tín dụng xuất khẩu 1.1.2.1. Căn cứ vào chủ thể cấp tín dụng a. Nhà nước cấp tín dụng xuất khẩu Tín dụng xuất khẩu do Nhà nước cấp được chia thành 2 loại sau:  Nhà nước cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu nước ngoài: Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay với lãi suất ưu đãi để sử dụng số tiền đó mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn cho vay thường lấy từ Ngân sách Nhà nước. Việc cho vay này thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi cho nước cho vay vốn là những quốc gia có tiềm lực kinh tế. Hình thức này có tác dụng giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh được xuất khẩu vì có sẵn thị trường đồng thời giải quyết được tình trạng dư thừa hàng hoá ở trong nước.  Nhà nước cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu thường rất lớn. Người xuất
  13. 6 khẩu cần có một số vốn cả trước khi giao hàng và sau khi giao hàng để thực hiện một số hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cũng cần có thêm vốn để kéo dài các khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho người mua nước ngoài. Đặc biệt, khi áp dụng phương thức bán chịu, thu tiền hàng xuất khẩu sau thì việc cấp tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng hết sức quan trọng. Hiện nay, nhiều chương trình phát triển xuất khẩu không thể thiếu được việc cấp tín dụng của Chính phủ theo các điều kiện ưu đãi. b. Ngân hàng cấp tín dụng xuất khẩu: Các ngân hàng thường hỗ trợ cho các chương trình xuất khẩu bằng cách cung cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước và sau khi giao hàng, chủ yếu dưới hai hình thức là chiết khấu các giấy tờ có giá hoặc tạm ứng theo các chứng từ hàng hóa. Trên cơ sở đó, nhà xuất khẩu có thể nhận bộ chứng từ hàng hoá có kèm hối phiếu chấp nhận trả tiền của nhà nhập khẩu thông qua ngân hàng hoặc cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu có thể ký với nhau hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó qui định quyền của bên bán được mở một tài khoản để ghi nợ bên mua sau mỗi chuyến giao hàng mà bên bán đã thực hiện. Sau từng thời gian nhất định, nhà nhập khẩu sẽ phải thanh toán số nợ đó bằng chuyển tiền, chuyển séc hoặc bằng kỳ phiếu trả tiền ngay cho nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng. c. Tín dụng do nhà xuất khẩu cấp Lấy thời điểm chuyển giao hàng hoá làm mốc, tín dụng do nhà xuất khẩu cấp hàm ý người bán (hay nhà xuất khẩu) giao hàng trước và thu tiền sau, hay nói cách khác, người bán cung cấp cho người mua (hay nhà nhập khẩu) một khoản tín dụng theo sự thoả thuận giữa hai bên. Ngoài ra, tín dụng do nhà xuất khẩu cấp có thể hiểu là tín dụng dưới hình thức nhà xuất khẩu bán chịu, nhà nhập khẩu trả chậm với lãi suất ưu đãi mà người xuất khẩu dành cho người nhập khẩu. d. Tín dụng do nhà nhập khẩu cấp Tín dụng do nhà nhập khẩu cấp được hiểu là nhà nhập khẩu phải trả cho nhà xuất khẩu toàn bộ hoặc một phần tiền hàng trước khi nhà xuất khẩu chuyển giao hàng hoá dưới quyền định đoạt của người mua hoặc trong khoảng thời gian từ khi nhà xuất khẩu chấp nhận đơn hàng cho đến trước khi nhà xuất khẩu thực hiện đơn
  14. 7 hàng của nhà nhập khẩu. Việc ứng trước tiền phụ thuộc vào tầm quan trọng của hàng hoá, thời hạn sản xuất của hàng hoá, mối quan hệ giữa các bên giao dịch và tập quán trong ngành buôn bán có liên quan. Số tiền ứng trước chính là khoản tín dụng mà nhà nhập khẩu cung cấp cho nhà xuất khẩu. Do được cấp tín dụng nên vị thế tài chính của nhà xuất khẩu được củng cố, đồng thời nhà xuất khẩu chắc chắn bán được hàng. 1.1.2.2. Căn cứ vào quy trình xuất khẩu a. Tín dụng trước khi giao hàng (trước xuất khẩu) Loại tín dụng ngân hàng này cần cho người xuất khẩu để đảm bảo các khoản chi phí sau: - Mua nguyên vật liệu; - Sản xuất hàng xuất khẩu; - Sản xuất bao bì cho xuất khẩu; - Chi phí vận chuyển hàng ra đến cảng, sân bay để xuất khẩu; - Trả tiền cước phí vận tải, bảo hiểm, thuế Lãi suất tín dụng xuất khẩu là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh của người xuất khẩu. Vì vậy, nhiều nước đã cấp tín dụng với mức lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thương mại để người xuất khẩu có thể bán được sản phẩm với giá thấp, từ đó tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ nội địa ở thị trường nước ngoài. Lãi suất càng thấp thì chi phí xuất khẩu càng giảm và khả năng cạnh tranh của người xuất khẩu càng tăng. b. Tín dụng xuất khẩu sau khi giao hàng (sau xuất khẩu) Đây là loại tín dụng do ngân hàng cấp dưới hình thức mua (chiết khấu) hối phiếu xuất khẩu hoặc bằng cách tạm ứng theo các chứng từ hàng hoá. Loại hối phiếu này cùng với các điều kiện thanh toán do người xuất khẩu và nhập khẩu thoả thuận là những cơ sở quan trọng để ngân hàng cấp tín dụng sau khi giao hàng. Tín dụng sau khi giao hàng thường được vay cho các khoản tín dụng trước khi giao hàng. Mặt khác, nó còn được vay cho các khoản tiền thuế sẽ được hoàn lại trong tương lai cho người xuất khẩu.
  15. 8 Như vậy, tín dụng xuất khẩu trước và sau khi giao hàng theo mức lãi suất ưu đãi không đơn giản chỉ giúp người xuất khẩu thực hiện được chương trình xuất khẩu của mình, mà còn giúp họ giảm chi phí về vốn cho hàng xuất khẩu cũng như giảm giá thành xuất khẩu. Ngoài ra, tín dụng xuất khẩu còn giúp cho người xuất khẩu có khả năng bán hàng của mình theo điều kiện dài hạn đồng thời tăng sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trước sản phẩm của đối thủ trên thị trường nước ngoài. Người xuất khẩu cần nhận được các loại đảm bảo về tài chính từ phía ngân hàng bằng các loại trái phiếu, hoặc sự bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa là cần có sự bảo lãnh đối với hầu hết các dịch vụ xuất khẩu một cách gián tiếp. Điều đó cũng phụ thuộc vào khả năng và uy tín của người xuất khẩu. 1.1.2.3. Căn cứ vào sự đảm bảo a. Tín dụng xuất khẩu có bảo đảm Là hình thức cấp tín dụng nhằm phục vụ, liên quan đến hoạt động xuất khẩu dựa trên cơ sở các đảm bảo cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác, có thể là ngân hàng hoặc Nhà nước. Nếu xảy ra rủi ro đối với khoản tín dụng trên thì bên thứ ba sẽ phải chịu trách nhiệm. Thông thường Nhà nước phát hành bảo lãnh dưới hai hình thức là bảo lãnh trước ngân hàng cho nhà xuất khẩu và bảo lãnh trước khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu thực hiện cấp cho nhà nhập khẩu. Trong khi đó, các ngân hàng phát hành bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh nhằm cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn hoặc bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. b. Tín dụng xuất khẩu không có bảo đảm Là hình thức cấp tín dụng có liên quan hoặc nhằm phục vụ hoạt động xuất khẩu mà không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba và chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
  16. 9 1.2. Tổng quan về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 1.2.1 Khái niệm về bảo hiểm Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày, dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ gặp phải rủi ro bất ngờ xảy ra, ảnh hưởng đến tình hình tài chính cũng như ảnh hưởng đến đời sống của mỗi cá nhân. Rủi ro luôn xảy ra một cách bất ngờ, và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Con người không thể loại trừ được hoàn toàn rủi ro, mà chỉ có thể dự đoán và đưa ra các biện pháp phòng ngừa, hạn chế những tác động xấu và thiệt hại gây ra bởi rủi ro. Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp đối phó như:  Tránh né rủi ro: Ví dụ: để tránh tai nạn giao thông, hạn chế đi lại; tránh tai nạn lao động, người ta chọn những nghề không nguy hiểm  Ngăn ngừa tổn thất: tức là đưa ra các hành động nhằm làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ: phòng chống hoả hoạn, người ta thực hiện tốt phòng cháy chữa cháy; phòng tránh tai nạn, tham gia giao thông phải đúng luật  Chấp nhận rủi ro chủ động bằng cách lập quỹ dự phòng tài chính như tích luỹ để dành (tiết kiệm). Tuy nhiên giải pháp này chỉ áp dụng đối với những người có thu nhập cao và khả năng tích luỹ lớn, thường chỉ đáp ứng được những thiệt hại tài chính có quy mô nhỏ vì yêu cầu về chi phí để lập quỹ dự phòng rất lớn, thường chiếm khoảng 70-80% giá trị tổn thất dự tính.  Tương trợ nhau: Hình thức này ban đầu được hình thành một cách tự phát, sau này phát triển dần lên thành các tổ chức có quy định và quản lý chặt chẽ được gọi là hội tương hỗ. Đây chính là hình thức sơ khai của bảo hiểm. Như vậy, đứng trên góc độ tài chính, bảo hiểm là hệ thống các quan hệ phân phối theo nguyên tắc hoàn trả có điều kiện và không tương đương giữa những người góp vốn thành lập quỹ dự phòng chung (hay còn gọi là quỹ bảo hiểm) nhằm mục đích khắc phục hậu quả của những rủi ro bất ngờ, từ đó ổn định kinh doanh và đời sống.
  17. 10 Với cơ chế hoạt động là tạo ra một “sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít” trên cơ sở quy tụ nhiều người có cũng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những tổn thất, hoạt động bảo hiểm luôn gắn chặt, xoay quanh việc hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm. Nguồn thu hình thành quỹ bảo hiểm càng lớn khi số lượng người tham gia bảo hiểm càng đông. Số người tham gia bảo hiểm lớn hơn rất nhiều so với số người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro. Quỹ bảo hiểm trước hết và chủ yếu được sử dụng để bù đắp những tổn thất cho người được bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro được bảo hiểm. Ngoài ra, quỹ bảo hiểm còn được sử dụng để trang trải cho một số chi phí khác. Đối với người tham gia gặp phải rủi ro thì phí bảo hiểm nhỏ hơn rất nhiều so với số tiền bồi thường. Vai trò của bảo hiểm là hết sức to lớn đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, xã hội. Bảo hiểm có nhiều lợi ích khác nhau, trong đó phải kể đến những tác dụng quan trọng sau đây: Ổn định kinh doanh và đời sống bằng cách hạn chế rủi ro và mức độ tổn thất xảy ra: Bảo hiểm bồi thường những thiệt hại về tài chính do rủi ro bất ngờ gây nên. Từ đó giúp mỗi cá nhân, mỗi tổ chức hay doanh nghiệp khôi phục lại điều kiện kinh tế ban đầu, ổn định sản xuất kinh doanh và chính sự ổn định của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức sẽ tạo ra sự ổn định chung cho toàn xã hội. Đây có thể coi là vai trò quan trọng nhất của bảo hiểm xét trên phạm vi vĩ mô của nền kinh tế. Các công ty bảo hiểm sẵn sàng thanh toán các chi phí hợp lý đối với người thứ ba tham gia hạn chế tổn thất, vì vậy sẽ khuyến khích mọi người tích cực tham gia cứu chữa, do đó sẽ hạn chế được tổn thất có thể xảy ra. Góp phần tăng tỷ lệ tiết kiệm trong xã hội và phát triển thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán: Đứng trên góc độ của toàn nền kinh tế quốc dân, mỗi một cá nhân hay tổ chức khi tham gia bảo hiểm cũng có nghĩa đã thực hiện tiết kiệm để tăng tích luỹ vốn đầu tư phát triển nền kinh tế. Với việc thu phí bảo hiểm theo nguyên tắc ứng trước, các công ty bảo hiểm chiếm giữ một quỹ tiền tệ tạm thời nhàn rỗi rất lớn của người tham gia bảo hiểm, thể hiện cam kết của họ đối với người tham gia bảo hiểm này. Do vậy, các công ty bảo hiểm có thể sử dụng số tiền nhàn rỗi này đầu tư sinh lời mua trái phiếu, cổ phiếu, gửi tại ngân hàng hoặc
  18. 11 đầu tư vào thị trường bất động sản. Hiện nay trong số các tổ chức trung gian tài chính, bảo hiểm chỉ đứng vị trí thứ 2 sau các ngân hàng thương mại trong việc huy động và cung cấp vốn cho thị trường tài chính2. Tiết kiệm chi, tăng thu Ngân sách Nhà nước: Trước những tổn thất do thiên tai hoặc những rủi ro gây ra trên phạm vi diện rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định kinh tế xã hội, các công ty bảo hiểm sẽ gánh bớt cho Ngân sách Nhà nước những khoản chi trợ cấp cho các đối tượng tham gia bảo hiểm trong trường hợp gặp phải rủi ro. Bên cạnh đó, xét trên phạm vi của một quốc gia, khi bảo hiểm cung cấp dịch vụ cho các công ty đầu tư nước ngoài hay thực hiện bảo hiểm ra nước ngoài (xuất khẩu bảo hiểm) cũng có nghĩa là bảo hiểm góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước. 1.2.2. Tổng quan về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Để đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro và những tác động xấu của nó đến hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như sự ổn định tài chính cho các doanh nghiệp, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đã ra đời với vai trò là một công cụ hỗ trợ, thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc bảo vệ và bồi thường cho người xuất khẩu khi họ cấp tín dụng thương mại cho nhà nhập khẩu nước ngoài hoặc bảo vệ và bồi thường cho các ngân hàng khi ngân hàng cho vay trung hoặc dài hạn nhằm phục vụ các hoạt động liên quan đến xuất khẩu. Nói cách khác, mục đích của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là giúp các doanh nghiệp cũng như ngân hàng cấp tín dụng tránh được các rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng. Có hai loại rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng:  Rủi ro kinh tế (hay còn gọi là rủi ro thương mại): khả năng tài chính của người mua không đủ để thanh toán tín dụng (phá sản, thua lỗ kéo dài );  Rủi ro chính trị: những sự kiện xảy ra ngòai khả năng tài chính khiến cho người mua không thể thanh toán được khoản tín dụng (chiến tranh, khủng bố, đình công ). 2 Frederic S. Mishkin, Columbia University: “The Economics of Money, Banking, and Financial Markets”, Third Edition, Harper Collins Publishers, New York 1992.
  19. 12 Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được khuyến khích sử dụng cho những hợp đồng chấp nhận phương thức thanh toán ghi sổ hoặc trả chậm, và các hoạt động tài trợ vốn lưu động xuất khẩu. Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bao gồm các khiếu nại tổn thất do không thanh toán những khoản phải thu, phát sinh từ hoạt động buôn bán hoặc những khoản cho vay trung - dài hạn khi có các rủi ro chính trị hay kinh tế như đã trình bày ở trên. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được chia thành 2 loại:  Ngắn hạn: có thời hạn 12 tháng, là loại bảo hiểm cam kết bù đắp một tỷ lệ phần trăm nhất định giá trị hóa đơn khi xảy ra rủi ro kinh tế hoặc chính trị dẫn đến việc người mua không trả được tiền. Phần trăm bù đắp rủi ro thường dao động từ 80-95% tùy theo từng đối tượng cung cấp bảo hiểm (các công ty bảo hiểm tư nhân hoặc các ngân hàng xuất nhập khẩu của từng quốc gia).  Trung – dài hạn: bù đắp một tỷ lệ phần trăm nhất định giá trị hợp đồng ròng, thường đối với những hợp đồng máy móc hoặc vốn lớn có thời hạn trên 1 năm đến 10 năm, tùy quy định của từng công ty cung cấp bảo hiểm. Hình 1: Sơ đồ quy trình hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đơn giản Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được triển khai nhằm cải thiện cán cân thanh toán, phát triển kỹ năng tài chính của người xuất khẩu, nâng cao nhận thức của các
  20. 13 ngân hàng về tín dụng xuất khẩu, hỗ trợ hoạt động xuất khẩu vì lợi ích quốc gia cũng như tăng cường hoạt động hối đoái nhờ sự hỗ trợ của các khoản đầu tư nước ngoài. Hình 2: Sơ đồ quy trình hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hiện đại (1) Hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết. (2) Nhà nhập khẩu phải ứng trước một khoản đảm bảo (nếu Ngân hàng cho vay yêu cầu). (3) Ngân hàng cho vay mua bảo hiểm tín dụng tại một Tổ chức tín dụng xuất khẩu. (4) Nhà xuất khẩu thoả thuận các điều kiện và cam kết với Ngân hàng cho vay. (5) Thoả thuận cho vay giữa Ngân hàng cho vay và nhà nhập khẩu được ký kết. Số tiền cho vay chính bằng giá trị lô hàng trong hợp đồng xuất nhập khẩu. (6) Ngân hàng cho vay thanh toán cho nhà xuất khẩu giá trị lô hàng được mua bán. (7) Nhà nhập khẩu phải trả cho Ngân hàng cho vay số tiền đã vay (giá trị lô hàng sau khi trừ đi số tiền đảm bảo ban đầu, nếu có) và tiền lãi.
  21. 14 Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hoạt động dựa trên các nguyên tắc sau: a. Nguyên tắc hoạt động Nguyên lý cơ bản của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được thể hiện qua các điểm:  Hòa vốn (dài hạn), chỉ hỗ trợ những đối tượng có khả năng đảm bảo hoàn trả hợp lý;  Chia sẻ rủi ro; hỗ trợ tài chính cho khối doanh nghiệp tư nhân; hình thành tập quán kinh doanh tốt (trên cơ sở môi trường kinh doanh thân thiện, lành mạnh);  Quá trình giải quyết khiếu nại minh bạch, công bằng; hạn chế rủi ro thông qua hoạt động tái bảo hiểm và/ hoặc đồng bảo hiểm. b. Nguyên tắc bồi thường Trong hầu hết các hệ thống bảo hiểm tín dụng, người mua bảo hiểm (người xuất khẩu) sẽ được hưởng quyền lợi theo những điều khoản đã đặt ra trong trường hợp việc thanh toán bị chậm trễ hoặc bên nhập khẩu không có khả năng thanh toán. Một hợp đồng được coi là không thể thanh toán nếu như bên mua thanh toán muộn hơn hoặc không thể thanh toán sau một thời gian đã được quy định trong bảo hiểm. Khoảng thời gian này được tạm gọi là thời gian chờ. Thông thường thời gian chờ kéo dài 6 tháng sau ngày hết hạn của hóa đơn. Mặt khác, thông thường do tỷ lệ bảo hiểm thấp hơn 100% nên người mua bảo hiểm vẫn phải chịu một phần rủi ro phát sinh, đôi khi yêu cầu bồi thường bị khước từ khi không thích ứng được với những yêu cầu cụ thể trong quy định hợp đồng bảo hiểm. Ưu điểm của nguyên tắc này là giảm rủi ro khi người nhập khẩu không thanh toán, đảm bảo sự chủ động và yên tâm của người xuất khẩu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đồng thời giúp tăng độ an toàn của phương thức thanh toán ghi sổ/trả chậm trên thị trường toàn cầu.
  22. 15 Tuy nhiên, nguyên tắc bồi thường cũng có một số hạn chế như: doanh nghiệp phải chịu chi phí để mở và duy trì bảo hiểm; tỷ lệ bảo hiểm thường dưới 100% nên rủi ro không được phòng vệ hoàn toàn và đòi hỏi vốn lớn và quy trình kỹ thuật khá phức tạp. c. Nguyên tắc tính phí bảo hiểm Phí bảo hiểm được xác định dựa trên nguyên tắc: mức phí sẽ được xác định dựa trên mức độ rủi ro của khả năng thanh toán. Khả năng xảy ra rủi ro càng lớn thì phí bảo hiểm sẽ càng cao. Một số yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm:  Tình hình nước nhập khẩu: nước nào có môi trường càng ổn định thì mức phí càng thấp. Ngược lại với những nước có tình hình chính trị bất ổn thì mức phí bảo hiểm sẽ tăng lên;  Phương thức thanh toán: Rủi ro tăng dần theo thứ tự: L/C, D/P, D/A, tương ứng mức phí bảo hiểm tăng dần;  Thời hạn thanh toán: Thời hạn càng dài thì khả năng rủi ro càng lớn, phí bảo hiểm càng cao;  Mức độ bồi thường so với giá trị hợp đồng mua bán: mức độ càng cao thì phí càng lớn. 1.3. Vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Trước đây, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam được hưởng rất nhiều hỗ trợ như thưởng xuất khẩu, kinh phí xúc tiến thương mại, mua dự trữ hay kinh phí đào tạo, cụ thể hơn là cho vay xuất khẩu, cấp tín dụng ưu đãi. Tuy nhiên, hiện nay khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc tiếp tục thực hiện những ưu đãi trên sẽ không đơn giản. Vì sức ép của các cam kết quốc tế, cụ thể là những quy định của WTO sẽ xử phạt những hành vi trợ cấp trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu3, đòi hỏi nước ta phải đổi mới hoạt động hỗ trợ tài chính xuất khẩu. Do đó, việc áp dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là hết sức cần thiết vì những vai trò mà loại hình này đem lại. 3
  23. 16 Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có nhiều lợi ích khác nhau, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và đầu tư, tuy nhiên phải kể đến những tác dụng quan trọng sau đây: giúp cho các nhà doanh nghiệp an tâm hơn trước các rủi ro, khuyến khích xuất khẩu thúc đẩy sản xuất phát triển và mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp trong nước, bên cạnh đó còn cải thiện cho Ngân sách Nhà nước. 1.3.1. Giúp các nhà doanh nghiệp an tâm hơn trƣớc các rủi ro Trước tình hình nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam rất cần có sự bảo trợ nhằm giảm thiểu những rủi ro mà họ có thể gặp. Các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu như: hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ về xây dựng thương hiệu, hỗ trợ tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp trong việc phát triển các mặt hàng xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Sự xuất hiện của hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đã đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và đầu tư, đồng thời bảo hiểm cho các loại rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải, đặc biệt là những rủi ro về tài chính. Với ưu điểm hạn chế rủi ro, đảm bảo tính chủ động và bảo vệ tài chính cho các nhà xuất khẩu như được trình bày ở trên, hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn được đánh giá là một trong những biện pháp khuyến khích xuất khẩu có tác dụng rõ nét nhất trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia nói riêng và kinh tế quốc tế nói chung thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Có thể lấy cao su là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo của nước ta làm ví dụ điển hình cho mô hình gây quỹ và thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu nói trên nhằm giúp các doanh nghiệp tham gia hạn chế được rủi ro và bảo đảm tài chính trong quá trình mua bán quốc tế. Trước tình hình giá cả thường xuyên biến động lớn, nhằm giúp hội viên giảm thiểu rủi ro về giá, Hiệp hội cao su Việt Nam đã thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng cao su từ tháng 12/2006. Nguồn thu của Quỹ là từ 1% doanh thu xuất khẩu của các hội viên tham gia vào
  24. 17 Quỹ. Quỹ đã thu được 56 tỷ đồng năm 2009 và dự kiến năm 2010 là 62 tỷ đồng4. Mục đích của Quỹ là khắc phục, hạn chế rủi ro trong xuất khẩu cao su do thay đổi giá, thị trường mới chưa ổn định, rủi ro trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu đồng thời hỗ trợ cho hội viên vay trung và ngắn hạn để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu cao su, cũng như hoạt động xúc tiến thương mại. Hiện nay, ngành cao su có khoảng 100 doanh nghiệp xuất khẩu đến hơn 45 quốc gia, trong đó có 10 doanh nghiệp xuất khẩu lớn. Trong tương lai, sản lượng cao su Việt Nam xuất khẩu được dự kiến tăng gấp đôi, từ 600-700 ngàn tấn lên đến 1-1.2 triệu tấn vào năm 2020. Để thực hiện được mục tiêu nhu cầu mở rộng thị trường mới bên cạnh thị trường truyền thống, tiếp cận nguồn khách hàng tiềm năng, ngành cao su cần áp dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu vì đây là hình thức khuyến khích các nhà nhập khẩu nước ngoài mua sản phẩm Việt Nam khi Việt Nam muốn giới thiệu sản phẩm vào thị trường mới. Như vậy có thể thấy ngoài vai trò cơ bản nhất là hạn chế rủi ro thanh toán trong quá trình xuất nhập khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình giảm thiểu rủi ro về vốn cho các nhà đầu tư, cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu. 1.3.2. Khuyến khích các doanh nghiệp trong nƣớc tăng cƣờng xuất khẩu và thúc đẩy sản xuất phát triển Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một phương thức mới để chính phủ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước thay vì cho vay xuất khẩu với lãi suất thấp hay áp dụng các hình thức thưởng hoặc ưu đãi xuất khẩu như trước đây. Đây được coi là hình thức sẽ tiếp thêm sức mạnh cho nền xuất khẩu Việt Nam thông qua việc hạ giá thành cho sản phẩm xuất khẩu và giúp xuất khẩu Việt Nam giữ vững được vị thế trên các thị trường truyền thống. Từ trước cho tới nay, nhiều nhà kinh tế tỏ ra lo ngại vì các doanh nghiệp nước ta thường chỉ tập trung vào một thị trường nhất định với những mặt hàng cố định. Điều này hoàn toàn có thể lý giải bởi chúng ta xuất khẩu những mặt hàng có ưu thế sang những thị trường truyền thống mà chúng ta đã nghiên cứu và am hiểu lâu năm 4
  25. 18 nhằm tránh những khó khăn trong quá trình thâm nhập những thị trường mới xuất hiện, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tuy nhiên, trước bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang biến động hết sức phức tạp, việc đa dạng hoá thị trường đồng thời đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam chủ động trước những biến động về ngành hàng, mặt hàng được coi là một trong những biện pháp hết sức cần thiết. Nhằm hạn chế những lo lắng, trở ngại cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong quá trình thâm nhập vào thị trường mới, xuất khẩu chủng loại hàng mới, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một trong những hình thức giúp các doanh nghiệp yên tâm khi bước chân vào một thị trường mới mẻ, được đảm bảo thanh toán và thậm chí được thanh toán nhanh chóng nhờ có khoản tín dụng. Từ đó, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng sẽ giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, từng bước nâng cao và hoàn thiện hơn chất lượng, tăng tính cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu nhằm đáp ứng được những tiêu chí và yêu cầu kĩ thuật, chất lượng tầm quốc tế. Bên cạnh đó, trong trường hợp các doanh nghiệp xuất khẩu không đủ vốn để thực hiện hợp đồng mua bán quốc tế thì đi vay vốn được coi là cách thức phổ biến được các doanh nghiệp lựa chọn. Nhưng điều này cũng đồng nghĩa với việc tiền lãi mà các công ty xuất khẩu phải trả sẽ được tính thêm vào giá từng đơn vị sản phẩm khiến giá cả các mặt hàng xuất khẩu của nước ta trở nên kém cạnh tranh hơn so với sản phẩm của các nước khác. Trong khi đó, nếu áp dụng hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, các doanh nghiệp nội địa hoàn toàn có thể yên tâm khi hàng hoá xuất khẩu ra thị trường quốc tế vẫn giữ được tính cạnh tranh về giá cả, từ đó giành được lợi thế trong quá trình buôn bán quốc tế. Đảm bảo được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam sẽ là cơ sở quan trọng, tạo điều kiện cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của nước ta trong thời gian tới. 1.3.3. Mở ra nhiều cơ hội đầu tƣ cho doanh nghiệp trong nƣớc Trước hết, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn tín dụng. Từ trước đến nay, vốn luôn là một trong những trở ngại, cản trở các doanh nghiệp Việt Nam trong qúa trình thâm nhập thị trường quốc tế. Thực tế cho thấy, không ít doanh nghiệp có nguồn vốn lớn nhưng lại không biết tận dụng trong khi không ít trường hợp các nhà xuất khẩu Việt
  26. 19 Nam phải từ chối những hợp đồng quý giá chỉ vì không đủ vốn. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc các doanh nghiệp chiếm dụng vốn của nhau, bất kể là trong hay ngoài nước. Trong khi đó, khi áp dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ không chỉ được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng hết sức phong phú từ nước ngoài thông qua những hợp đồng có giá trị kí kết với đối tác nước ngoài, mà còn có thể tăng nhanh vòng quay vốn, qua đó nắm bắt những cơ hội đầu tư cũng như tăng cường khả năng tiếp cận những thị trường thương mại tiềm năng lớn đang trên đà phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới. Như vậy, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn là phương tiện quan trọng giúp doanh nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế và phát triển kỹ năng tài chính cho nhà xuất khẩu cũng như giúp các quốc gia cải thiện cán cân thanh toán, tạo công ăn việc làm cho người lao động, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá nền kinh tế đất nước. Ngoài ra, có thể thấy trước những rủi ro về kinh tế và chính trị trên phạm vi diện rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định kinh tế và xã hội, những nhà xuất khẩu hoặc những ngân hàng cho vay tham gia bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ được bồi thường thiệt hại từ các tổ chức bảo hiểm tín dụng để ổn định lại quá trình sản xuất kinh doanh. Điều đó có nghĩa là hình thức bảo hiểm này sẽ gánh bớt cho Ngân sách Nhà nước những khoản chi trợ cấp cho các đối tượng tham gia bảo hiểm trong trường hợp gặp rủi ro. Thêm vào đó, có thể thấy rằng nguồn thu Ngân sách Nhà nước chủ yếu được huy động từ thuế, tham gia dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng có nghĩa tham gia vào hình thức tiêu dùng dịch vụ nên người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm đóng thuế cho Nhà nước. Xét trên góc độ của các tổ chức kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, lợi nhuận thu được từ hoạt động này cũng phải có trách nhiệm đóng thuế thu nhập doanh nghiệp. Có thể nói, cùng với những ảnh hưởng tích cực tác động đến cán cân thanh toán cũng như toàn nền kinh tế quốc dân, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đã đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện cũng như tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
  27. 20 2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được coi là một công cụ hiệu quả nhằm hỗ trợ và bảo vệ các doanh nghiệp xuất khẩu. Đây là một hoạt động kinh doanh đặc thù, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của rất nhiều yếu tố, bao gồm những nhân tố vĩ mô cũng như những yếu tố vi mô. 2.1. Nhân tố vĩ mô Khi xét đến những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, không thể không tính đến những nhân tố vĩ mô liên quan trực tiếp đến tính chất của hoạt động này. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được sử dụng để giúp nhà xuất khẩu phòng ngừa hai loại rủi ro chủ yếu là rủi ro kinh tế và rủi ro chính trị. Những rủi ro này chịu ảnh hưởng rất lớn của tình hình kinh tế vĩ mô cũng như tình hình chính trị của nước nhập khẩu. Khi những yếu tố vĩ mô này thay đổi, rủi ro đối với hoạt động xuất khẩu cũng sẽ thay đổi theo, tạo ra ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Các nhân tố vĩ mô của nền kinh tế nước nhập khẩu cũng như nền kinh tế thế giới có thể kể đến khung pháp lý bao gồm những quy định, điều luật mang tính pháp lý liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, lãi suất, cầu hàng hóa dịch vụ nước ngoài, tỷ giá và chế độ tỷ giá và tình hình nền kinh tế vĩ mô.  Hành lang pháp lý: Hoạt động này thường được điều chỉnh trực tiếp bởi những đạo luật do Quốc hội hay Nghị viện ban hành, ví dụ như đạo luật Council Directive 98/29/EC được Ủy ban Châu Âu (EC) ban hành ngày 16/08/1998 về thi hành chính sách bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong các nước thành viên EU5. Ngoài những đạo luật trong nước, hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, với ý nghĩa là một phần của chính sách tín dụng xuất khẩu của các quốc gia, còn được đề cập trong thỏa thuận quốc tế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu chính thức của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD năm 20046. Tuy không trực tiếp đề cập đến các quy định về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, thỏa thuận này được đưa ra nhằm tạo khung 5 Trích dẫn một số nguyên tắc bảo hiểm trong Đạo Luật Council Directive 98/29/EC - xem Phụ lục số 1 6
  28. 21 pháp lý cơ bản cho các hoạt động hỗ trợ tín dụng xuất khẩu chính thức của các nước thành viên tham gia thỏa thuận. Thỏa thuận của OECD là không bắt buộc, nhưng nó lại tạo ra cơ sở pháp lý cho các nước chấp nhận thỏa thuận và cơ sở tham khảo của các nước khác khi xây dựng chính sách, quy định về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc hỗ trợ, cung cấp thông tin về cơ chế hoạt động cũng như những chính sách văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu từ phía các cơ quan Nhà nước cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cũng sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của loại hình này.  Khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu: Nếu mặt hàng xuất khẩu ra thị trường quốc tế không đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người nước ngoài, giá cả và chất lượng của hàng hoá xuất khẩu thiếu tính cạnh tranh sẽ làm giảm cầu nhập khẩu hàng hoá tại nước nhập khẩu. Điều này sẽ làm giảm số lượng xuất khẩu, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động xuất khẩu quốc gia. Từ đó dẫn đến nhu cầu sử dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu giảm. Do vậy, có thể thấy, bên cạnh những yếu tố khách quan như biến động của nền kinh tế toàn cầu ảnh hưởng đến lãi suất cũng như tỷ giá hối đoái thì khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu đóng vai trò không thể thiếu trong việc kích thích sự phát triển của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong việc hỗ trợ xuất khẩu của mọi quốc gia.  Sự phát triển của thị trường tài chính và các định chế tài chính cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu mỗi quốc gia. Ngày nay, sự phát triển của các thị trường tài chính đã giúp các công ty phòng ngừa được hầu hết các rủi ro trong thương mại quốc tế, đặc biệt là rủi ro tỷ giá. Thị trường tài chính và các định chế tài chính ngày càng khẳng định được vai trò không thể thiếu trong việc hỗ trợ hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phát huy được hết vai trò của mình trong việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu bất cứ quốc gia nào trên thế giới.  Sự ổn định của tỷ giá hối đoái cũng là một nhân tố vĩ mô quan trọng với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nói riêng. Ngày nay, mức độ rủi ro tỷ giá đã tăng lên thậm chí còn nhanh hơn tốc độ tăng khối lượng thương mại và đầu tư quốc tế. Điều này xảy ra là vì sự biến động của tỷ giá ngày càng trở nên khó kiểm soát với cường độ ngày càng mạnh hơn. Biến động tỷ
  29. 22 giá quá lớn sẽ gây ra những thiệt hại về chênh lệch tỷ giá cho các nhà xuất khẩu. Rủi ro thay đổi tỷ giá mà những nhà xuất khẩu và nhập khẩu phải đối mặt là rủi ro cơ bản nhất trong thương mại quốc tế mà thương mại nội địa không có. Bởi vậy, một trong các rủi ro chủ yếu được bảo hiểm cho các nhà xuất khẩu là rủi ro tỷ giá.  Cầu hàng hóa, dịch vụ nước ngoài có tác động trực tiếp đến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Nếu nước nhập khẩu có nhu cầu cao về hàng hóa nhập khẩu, lượng hợp đồng với doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tăng mạnh, dẫn đến nhu cầu bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng tăng mạnh. Đây là nhân tố vĩ mô có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.  Tình hình kinh tế vĩ mô đang trong điều kiện thịnh vượng hay suy thoái cũng tác động đến độ rủi ro của nhà nhập khẩu. Trong điều kiện kinh tế suy thoái, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ có nguy cơ phá sản cao hơn nhiều so với khi trong điều kiện kinh tế thịnh vượng. Nhà xuất khẩu nên đánh giá kỹ tình hình kinh tế của nước đối tác cũng như của nền kinh tế thế giới, và doanh nghiệp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng cần có sự xem xét các hợp đồng bảo hiểm cẩn thận trước khi chấp nhận hợp đồng, nhằm phòng ngừa mất mát do đền bù thiệt hại.  Lãi suất nội địa của nước nhập khẩu có tác dụng khuyến khích hay hạn chế nguồn tiền doanh nghiệp nhập khẩu có thể tiếp cận, ảnh hưởng đến năng lực tài chính của bên nhập khẩu và rủi ro không trả được tiền hàng.  Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình chính trị của nước nhập khẩu như chiến tranh, cấm vận hay tranh chấp giữa các đảng phái trong nước cũng được coi là những yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Những rủi ro chính trị xảy ra bất ngờ này đều sẽ gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp nhập khẩu. Các nhà bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ phải đền bù khi rủi ro vỡ nợ xảy ra do các nguyên nhân chính trị này. 2.2. Nhân tố vi mô Nhân tố vi mô tác động đến bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có thể coi là những yếu tố liên quan đến bản thân người cung cấp dịch vụ và đối tượng sử dụng dịch vụ này.
  30. 23 Về phía khách hàng sử dụng, tức là các doanh nghiệp xuất khẩu, yếu tố tác động đến hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu gồm có năng lực tài chính cũng như năng lực kinh doanh của doanh nghiệp và tầm nhìn chiến lược của doanh nghiệp đó. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một hình thức phòng ngừa rủi ro trong hoạt động xuất khẩu. Hoạt động này yêu cầu doanh nghiệp xuất khẩu phải có đủ năng lực tài chính để đảm bảo chi trả tiền bồi thường cho công ty cung cấp dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong tình huống xấu xảy ra đồng thời có khả năng trả mức phí dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được đánh giá là cao hơn so với các loại hình bảo hiểm khác khi sử dụng dịch vụ này. Các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ và vừa khó có khả năng tham gia dịch vụ này do nguồn vốn có hạn. Bên cạnh đó, nhận thức và tầm nhìn của doanh nghiệp cũng là nhân tố quan trọng đóng góp vào sự phát triển của thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Những doanh nghiệp xuất khẩu có tầm nhìn chiến lược muốn đảm bảo sự ổn định và bền vững của các hoạt động xuất khẩu sẽ đánh giá rất cao và sẵn sàng sử dụng dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu này. Từ phía các nhà cung cấp dịch vụ, các yếu tố về kỹ năng quản lý, tiềm lực về vốn và các chiến lược phát triển thị trường là những yếu tố vi mô tác động đến nguồn cung của sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Về kỹ năng quản lý, các công ty bảo hiểm cần có năng lực kinh doanh tốt, mạng lưới, mối quan hệ để thẩm định khách hàng nước ngoài cũng như các đối tác tái bảo hiểm. Mặt khác, để cung cấp được dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng, đặc biệt là những khách hàng mạo hiểm tham gia những hợp đồng có giá trị tiềm ẩn nhiều rủi ro, công ty bảo hiểm phải đủ năng lực tài chính để đảm bảo bảo hiểm được những đơn hàng giá trị lớn, có độ rủi ro cao. Chỉ những doanh nghiệp bảo hiểm đủ khả năng về tài chính và có mạng lưới quan hệ rộng mới đầu tư mạnh vào lĩnh vực này. Nói cách khác, tiềm lực vốn đủ mạnh cũng với kỹ năng quản lý chính là yếu tố quyết định ảnh hưởng tới cung bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Ngoài ra, không thể phủ nhận vai trò của các chiến lược phát triển thị trường trong việc giúp chính công ty cung cấp dịch vụ bảo hiểm hạn chế rủi ro trong quá trình cung cấp dịch vụ bảo hiểm, đặc biệt phải kể đến vai trò quan trọng của việc đủ khả
  31. 24 năng thẩm định khách hàng nước ngoài và tìm được đối tác tái bảo hiểm. Các chiến lược này sẽ quyết định vai trò sống còn của các công ty bảo hiểm trong nền kinh tế nói chung cũng như việc tiếp cận các khách hàng tiềm năng tham gia vào hoạt động ngoại thương của quốc gia nói riêng. Như vậy, các yếu tố vi mô liên quan trực tiếp đến bên cung cấp và sử dụng dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ vừa tác động trực tiếp đến cung và cầu của bản thân thị trường dịch vụ này, vừa quyết định mức độ phát triển và tính chuyên nghiệp của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của một quốc gia. 3. Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới trong việc phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và bài học cho Việt Nam 3.1. Kinh nghiệm của Brazil Trong số các nước cần tham khảo kinh nghiệm, tác giả lựa chọn đi sâu phân tích mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Brazil bởi những lý do sau: Thứ nhất, Brazil có đặc điểm kinh tế tương đối giống với Việt Nam vì cùng là một trong những nước được thiên nhiên ưu đãi với một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có thế mạnh về trồng trọt và xuất khẩu những mặt hàng nông phẩm trên thế giới như cao su, đường, gạo , thực hiện và duy trì nền kinh tế mở theo cơ chế thị trường, khuyến khích mở cửa tự do giao lưu và trao đổi buôn bán với nước ngoài. Thứ hai, cũng như Việt Nam, một trong những chính sách thương mại trọng tâm nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như được coi là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển của Brazil chính là hoạt động xuất khẩu. Trong thời kì hội nhập kinh tế thế giới, việc phát triển các biện pháp nhằm bảo trợ hoạt động xuất khẩu để giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp, trong đó có hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, là điều hết sức cần thiết. Nhận thức được vai trò quan trọng của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân, Chính phủ Brazil đã tiến hành nhiều thay đổi và cải cách nhằm xây dựng được mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có tính ưu việt được coi là mô hình lý tưởng cho các nước trong khu vực cũng như trên thế giới tham khảo và học tập.
  32. 25 Thực tế cho thấy, Brazil là một trong những quốc gia đi đầu trong việc phát triển thành công mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, đem lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho những nền kinh tế còn non trẻ nhưng hết sức có triển vọng trong quá trình toàn cầu hoá thương mại như Việt Nam. Chính vì những lý do trên, tác giả nhận thấy việc phân tích, đánh giá mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Brazil sẽ giúp Việt Nam có thêm những kinh nghiệm cũng như những bài học hữu ích trong quá trình hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. 3.1.1. Chính sách phát triển ngoại thƣơng của Brazil Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, các quốc gia đang phát triển như Brazil đã gặp phải không ít những khó khăn. Nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung, cũng như đẩy mạnh hiệu quả của hoạt động xuất khẩu nói riêng, Chính phủ Brazil đã xây dựng và tiến hành nhiều hoạt động nhằm cơ cấu hoá mô hình xuất khẩu qua đó khuyến khích các nhà xuất khẩu trong nước mở rộng phạm vi giao dịch ra nước ngoài. Một trong những chương trình trọng tâm của Brazil là Chương trình tài trợ xuất khẩu (PROEX) do Chính quyền liên bang xây dựng nhằm hỗ trợ cho những nhà xuất khẩu nội địa các điều kiện tài chính bình đẳng với các nhà xuất khẩu nước ngoài thông qua hai phương thức là Tài trợ kinh tế và Thuế7. Chương trình này đã đạt được thành công đáng kể khi thúc đẩy tổng kim ngạch xuất khẩu trong nước tăng trưởng 14% vào năm 2006 8. Bên cạnh đó, nhận thức được vai trò quan trọng của xuất khẩu trong sự phát triển chung của nền kinh tế, Chính phủ Brazil đã thực hiện chuyên môn hoá mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nhằm trang bị cho các nhà xuất khẩu nội địa một công cụ phòng tránh rủi ro hiệu quả, giúp Brazil tiến xa hơn trên con đường thương mại quốc tế. Dưới đây đề tài xin đi sâu phân tích tình hình hoạt động bảo hiểm tín dụng của Brazil trong hai giai đoạn: từ năm 1962 đến năm 1992 và từ năm 1992 đến nay. 7 Theo nghiên cứu về Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, Chương trình Minerva tháng 1/2004 của trường Đại học George Washington, Washington D.C, Mỹ. 8 - a0121283002
  33. 26 3.1.2. Hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Brazil từ năm 1962 đến năm 1992 Hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu xuất hiện ở Brazil vào năm 1962, được quy định bởi Sắc lệnh số 736 ban hành vào ngày 13/6/1962. Tuy nhiên cho đến khi Đạo Luật số 4678 ban hành vào ngày 16/6/1965 được ban hành, hoạt động này mới được công nhận. Đến ngày 18/1/1965 cùng với sự ra đời của Sắc lệnh số 57286, hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chính thức được coi là một trong những hoạt động kinh tế hợp pháp và được quy định trong văn bản pháp luật do Chính phủ Brazil ban hành. Chính phủ Brazil đã mất hơn 30 năm để xây dựng và hoàn thiện mô hình bảo hiểm tín dụng. Mặc dù vậy, các nhà xuất khẩu cũng như các ngân hàng trong và ngoài nước đều lựa chọn các loại hình đảm bảo khác do mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đòi hỏi các bên tham gia phải tiến hành quá nhiều thủ tục. Quá trình áp dụng mô hình này vào hoạt động thương mại thực tế cũng gây nên nhiều rắc rối phức tạp. Chính vì lý do này nên mặc dù được xây dựng nhằm thực hiện chức năng hỗ trợ xuất khẩu nhưng mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũ này lại đặt ra quá nhiều nghĩa vụ hành chính, đòi hỏi tính hợp pháp cũng như chứng minh tài chính của các bên tham gia. Điều này không phù hợp với những chính sách thúc đẩy xuất khẩu của chính phủ Brazil lúc bấy giờ. Do đó, hình thức này không được các doanh nghiệp xuất khẩu ủng hộ. Hệ thống bảo hiểm tín dụng xuất khẩu vốn được xem như một hệ thống mang tính cá nhân tại thời điểm đó lại chịu sự quản lý của Chính phủ thông qua một tổ chức nhà nước có tên gọi Viện tái bảo hiểm Brazil (Brazilian Reinsurance Institute- IRB)9. Dưới sự quản lý chặt chẽ của tổ chức này thì các công ty bảo hiểm quốc gia chỉ hoạt động đơn thuần như những trung gian hoặc đại lý bảo hiểm. Trong khi đó, Kho Bạc nhà nước, được đại diện bởi Viện tái bảo hiểm Brazil chịu trách nhiệm thanh toán và bù đắp hầu hết các rủi ro trong quá trình hoạt động của hệ thống, bao gồm tất cả những rủi ro chính trị và hơn 90% các rủi ro kinh doanh. 9
  34. 27 Thiếu sự kiểm soát hợp lý, hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Brazil trong những năm từ 1962 đến 1992 rõ ràng không những không đáp ứng được nhu cầu thực tế của nền kinh tế, mà còn gây ra những khó khăn cho những bên tham gia. Đó là:  Những nhà xuất khẩu Brazil không có được một công cụ đảm bảo hiệu quả, đáng tin cậy và dễ dàng sử dụng;  Viện tái bảo hiểm Brazil (IRB) đã đi chệch khỏi nhiệm vụ chính là tái bảo hiểm, và từ đó dẫn tới việc đem lại hình ảnh xấu trong công chúng doanh nhân;  Những ngân hàng không thể tài trợ những khoản tiền đáng kể cho những mặt hàng xuất khẩu sản xuất trong nước do thiếu những công cụ bảo đảm cần thiết;  Kho bạc Nhà nước phải gánh lấy tổn thất nghiêm trọng từ những rủi ro và không thể thu hồi nợ do những sai sót của hệ thống; và  Quốc gia mất cơ hội có được một cơ chế bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thích hợp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cũng như đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Trong năm 1998, Brazil đã xây dựng một mô hình mới của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nhằm sửa chữa những lỗi sai đã mắc phải trong quá khứ đồng thời giới thiệu một hình thức bảo hiểm mới dựa trên mối quan hệ đối tác giữa Nhà nước và một công ty bảo hiểm tư nhân. Cùng với sự nắm bắt mau lẹ và những kinh nghiệm vốn có của các công ty tư nhân, Brazil hi vọng sự hợp tác giữa Chính phủ và công ty bảo hiểm sẽ giúp hàng xuất khẩu nội địa mở rộng được thị phần trên thị trường thế giới cũng như thu hút được nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào mô hình mới này. 3.1.3. Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu mới của Brazil (từ năm 1992 đến nay) 3.1.3.1 Sự ra đời của các tổ chức tham gia bảo lãnh Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hiện thời của Brazil được thiết kế và bổ sung vào năm 1998 như một cách để sửa chữa những sai sót của mô hình cũ trong 30 năm từ năm 1962 đến năm 1992 chịu sự quản lý của cơ quan Nhà nước - Viện tái bảo hiểm Brazil (IRB).
  35. 28 Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hiện tại của Brazil có sự tham gia của bốn cơ quan. Đó là Phòng Ngoại thương (CAMEX), Hội đồng Tài trợ và bảo lãnh (COFIG), Quỹ bảo lãnh xuất khẩu (FGE) và Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil (SBCE). Dưới đây là chức năng và nhiệm vụ chính của từng cơ quan này:  Phòng Ngoại thương (CAMEX): gồm Hội đồng điều phối chịu trách nhiệm vạch rõ tất cả những chính sách ngoại thương của Brazil. Phòng Ngoại thương được điều hành bởi Hội đồng chủ tịch cộng hoà, bao gồm Bộ trưởng các Bộ Ngoại Thương, Công Nghiệp và Phát triển, chủ yếu chịu trách nhiệm về việc ban hành, thực hiện và điều phối những chính sách liên quan đến hoạt động ngoại thương của Brazil. Đặc biệt về hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, Phòng Ngoại thương sẽ xác định nguyên tắc chỉ đạo, những yêu cầu, thông số và điều kiện cũng như phạm vi những quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trên toàn thế giới áp dụng những điều kiện của các hình thức bảo lãnh.  Hội đồng Tài trợ và bảo lãnh (COFIG): được thành lập bởi Chính phủ thành lập thông qua Đạo Luật số 4933 ban hành vào ngày 18.2.2004 chịu trách nhiệm về quản lý mọi hoạt động đầu tư và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, nhằm điều tiết các hoạt động hỗ trợ về tài chính cũng như bảo lãnh, đồng thời liên kết chức năng của Hội đồng Quỹ bảo lãnh xuất khẩu và Uỷ ban tài trợ xuất khẩu (CCEX). Những nhiệm vụ chính của Hội đồng Tài trợ và bảo lãnh: - Thiết lập khả năng hoạt động cho Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil (SBCE) ; - Đưa ra những đề xuất nhằm cải thiện toàn bộ hệ thống nói chung cũng như Phòng Ngoại thương nói riêng; - Quyết định giá trị từng gói bảo hiểm của Chính phủ trong từng tình huống, sự kiện, thậm chí đối với những rủi ro không được lường trước; - Đặt ra những yêu cầu đối với nguồn dự trữ đảm bảo tính thanh khoản của Quỹ bảo lãnh xuất khẩu (FGE); - Chấp thuận những hoạt động vượt quá khả năng và phạm vi của Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil (SBCE); và - Xác định tỷ lệ phần trăm phí hoa hồng được tính cho từng khoản bảo lãnh.
  36. 29  Quỹ bảo lãnh xuất khẩu (FGE): được ra đời vào ngày 23.8.1999, với mục tiêu là bảo hiểm cho mọi hình thức bảo lãnh mà Chính phủ Brazil đưa ra trong mô hình hoạt động của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Mục đích chính của Quỹ bảo lãnh xuất khẩu là cung cấp những nguồn lực đủ để chi trả cho những khoản bảo lãnh trên nhằm tránh những rủi ro kinh tế, rủi ro chính trị và những rủi ro khác. Nói cách khác, Quỹ bảo lãnh xuất khẩu bảo hiểm cho mọi hình thức bảo lãnh nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của Brazil.  Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil (SBCE): là một công ty tư nhân vừa hoạt động trong phạm vi nguồn lực của Hãng, vừa phân tích, ký kết hợp đồng như một chi nhánh của Chính phủ liên bang. 3.1.3.2. Sự ra đời của Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil (SBCE) Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil là một công ty cổ phần ra đời vào tháng 6 năm 1997 với các cổ đông là Ngân hàng Quốc gia Brazil, Ngân hàng Phát triển Brazil, Bradesco, Sul America Seguros, Minas Brazil, UniBanco Seguros và một số các công ty thương mại xuất nhập khẩu khác10. Mục tiêu chính của Hãng là đưa ra thị trường một công cụ bảo đảm giúp những mặt hàng xuất khẩu của Brazil tránh được những rủi ro kinh tế có giá trị trong vòng 2 năm (được coi là trong ngắn hạn). Hoạt động như một chi nhánh của chính phủ Brazil, Hãng cũng giúp những mặt hàng xuất khẩu nội địa tránh được những rủi ro chính trị, rủi ro kinh tế và những rủi ro khác trong những khoảng thời gian vượt quá 2 năm (được coi là trung và dài hạn) thông qua việc ban hành và phân tích những chính sách phù hợp. Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil đã tạo được mạng lưới các chi nhánh trên phạm vi toàn cầu, trực tuyến với những thông tin về tài trợ và giao dịch của hơn 35 triệu người mua đăng ký. Bên cạnh đó, Hãng cũng đưa ra những khoản bồi thường tín dụng quốc tế với hơn 170 văn phòng luật sư trên thế giới. Chính sách bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil được thể hiện qua các nhân tố sau: 10
  37. 30 a. Rủi ro đƣợc bảo hiểm  Rủi ro kinh tế: hay còn gọi là rủi ro vỡ nợ do nhà nhập khẩu phá sản hoặc vì lý do kinh tế khác;  Rủi ro chính trị và những rủi ro khác: đây là những rủi ro bắt nguồn từ hoạt động xuất khẩu do những sự kiện gây trở ngại cho quá trình chuyển tiền để thanh toán cho nhà xuất khẩu, bao gồm chiến tranh, thiên tai, sung công, đình công tạm ngừng hoạt động sản xuất  Rủi ro trước vay nợ (rủi ro sản xuất): Rủi ro sản xuất xuất hiện khi người được bảo hiểm không có khả năng sản xuất hàng hoá hoặc cung cấp những dịch vụ mà nhà nhập khẩu đặt hàng vì những lý do về phía nhà nhập khẩu hoặc bởi cả 2 nước. Khoản chi phí bù đắp cho rủi ro này sẽ được tính toán dựa trên những chi phí mà nhà xuất khẩu phải gánh chịu cho đến khi hợp đồng bị phá vỡ.  Rủi ro vay nợ (rủi ro tín dụng xuất hiện sau khi hàng được chất lên tàu): Rủi ro tín dụng xuất hiện sau khi hàng được chất lên tàu hoặc sau khi nhà xuất khẩu hoàn thành mọi nghĩa vụ được thoả thuận trong hợp đồng. b. Chính sách khách hàng  Chính sách nhiều người mua: đưa ra những khoản bù đắp tổn thất cho tất cả mặt hàng xuất khẩu của người được bảo hiểm khi xảy ra rủi ro thanh toán. Theo chính sách nhiều người mua, hàng năm với những khoản tín dụng luân phiên thì khoản tiền này bù đắp tổn thất cho tất cả những khách hàng của người được bảo hiểm, qua đó giúp nhà xuất khẩu được lợi ở mức chi phí tỉ lệ nghịch với khối lượng hàng hoá được bảo hiểm. Lượng hàng hoá càng lớn, rủi ro càng được bù đắp nhiều và do đó, phí bảo hiểm càng rẻ.  Chính sách cá nhân - Hoạt động ngắn hạn (thời gian lên tới 2 năm): Đây là chính sách đưa ra khoản bảo hiểm bù đắp tổn thất trong một hoạt động cụ thể nhằm tránh rủi ro kinh tế, rủi ro chính trị và các loại rủi ro khác. Khoản bù đắp cho rủi ro kinh tế được hỗ trợ bởi Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil (SBCE) trong khi rủi ro chính trị được hỗ trợ bởi Quỹ bảo lãnh xuất khẩu (FGE).  Chính sách cá nhân - Hoạt động trung và dài hạn (thời gian từ 2 năm trở lên): Giống như chính sách cá nhân áp dụng trong ngắn hạn, chính sách này
  38. 31 cũng đưa ra khoản bảo hiểm bù đắp tổn thất trong một hoạt động cụ thể nhằm tránh rủi ro kinh tế, rủi ro chính trị và các loại rủi ro khác. Tuy nhiên, điểm khác biệt là khoản bảo hiểm để bù đắp tổn thất do rủi ro kinh tế và rủi ro chính trị gây ra đều được hỗ trợ bởi Quỹ bảo lãnh xuất khẩu (FGE). Trong khi đó, Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil (SBCE) lúc này hoạt động như một chi nhánh của Chính phủ. Trong đó, nhìn chung, những hoạt động trung và dài hạn thường liên quan tới những dự án kinh doanh những hàng hoá tư bản, các nghiên cứu, dịch vụ hoặc những hợp đồng có tính chất đặc biệt. c. Đối tƣợng hƣởng lợi  Theo chính sách tín dụng của nhà cung cấp: Theo chính sách này, nhà xuất khẩu được coi là người hưởng lợi. Nhà xuất khẩu có thể yêu cầu tái tài trợ, chuyển quyền bù đắp tổn thất bởi chính sách bảo hiểm cho ngân hàng tài trợ.  Theo chính sách tín dụng của người mua: Theo chính sách này, những ngân hàng chính là những người hưởng lợi. Nhà xuất khẩu được người mua thanh toán và những người mua này chính là những người nhận được tài trợ từ những ngân hàng tài trợ. d. Mức bảo hiểm Tỉ lệ phần trăm bảo đảm thay đổi tuỳ thuộc vào mức độ và loại rủi ro liên quan:  Rủi ro kinh tế nói chung: lên tới 90%;  Rủi ro kinh tế với những ngân hàng bảo lãnh: lên tới 95%; và  Rủi ro chính trị: lên tới 95%. e. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm được tính toán dựa trên từng trường hợp, tuỳ thuộc vào:  Lượng vốn được tài trợ khi bắt đầu đi vào hoạt động;  Khả năng tài chính của người nợ;  Vị trí, địa điểm của người nợ;  Loại rủi ro (rủi ro kinh tế, rủi ro chính trị, sản xuất hoặc rủi ro xuất hiện sau khi hàng được chất lên tàu);  Thời lượng của rủi ro.
  39. 32 3.2. Kinh nghiệm của Mỹ Sự lựa chọn thứ hai để phân tích là Mỹ. Mỹ là một trong những nước phát triển hàng đầu thế giới, đặc biệt là có hệ thống bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hoạt động hiệu quả với mô hình được phân đoạn chuyên môn hoá cao. Vì vậy, đề tài chọn Mỹ làm đối tượng nghiên cứu kinh nghiệm, trên cơ sở đó rút ra bài học cho Việt Nam. 3.2.1. Khái quát chung Trong cơ cấu nền kinh tế Mỹ, các nguồn hỗ trợ đối với những mặt hàng xuất khẩu từ phía Chính phủ được phân loại hết sức rõ ràng, bao gồm những nguồn vốn hỗ trợ trực tiếp nhằm cải thiện xuất khẩu và những nguồn hỗ trợ cho đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng với những công cụ hỗ trợ tài chính cho những nước đang phát triển. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực bảo hiểm và bảo lãnh thường có sự tham gia của ba cơ quan lớn là Ngân hàng Xuất nhập khẩu Ex-im bank, Tập đoàn tín dụng hàng thương mại (CCC - Commodity Credit Corporation) và Tập đoàn đầu tư tư nhân nước ngoài (OPIC - Overseas Private Investment Corporation) với ba mục tiêu là hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá dịch vụ, xuất khẩu những mặt hàng thiết yếu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đó, Ngân hàng Xuất nhập khẩu được coi là một đại diện của Chính phủ có nhiệm vụ phối hợp hoạt động với các cơ quan khác nhằm thúc đẩy xuất khẩu, đặc biệt là hỗ trợ đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ cho các nước đang phát triển là một trong những chiến lược xuất khẩu trọng tâm của Mỹ. Các hoạt động này được điều phối bởi Hội đồng tư vấn quốc gia về các chính sách tài chính và tiền tệ quốc tế (NAC - National Advisory Council on International Monetary and Financial Policy). Uỷ ban này gồm các thành viên của Kho bạc quốc gia, Bộ Thương mại, Ngân hàng Xuất nhập khẩu, Phòng thương mại, Quỹ dự trữ quốc gia và IDCA (một cơ quan có sự tham gia của Tập đoàn đầu tư tư nhân nước ngoài, Tập đoàn thương mại và phát triển Mỹ và Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ). 3.2.2. Vai trò của Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ Ngân hàng Xuất nhập khẩu của Mỹ được thành lập vào năm 1934 với nhiệm vụ chính là thúc đẩy giao dịch thương mại giữa Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Liên
  40. 33 bang Xô Viết. Tuy nhiên, đến năm 1945, mới được coi là một cơ quan của Chính phủ hoạt động dựa trên Đạo Luật Ngân hàng Xuất nhập khẩu do Chính phủ Mỹ phê chuẩn. Trên thực tế, Ngân hàng Xuất nhập khẩu cung cấp bảo lãnh các khoản vay và bảo hiểm tín dụng để tài trợ xuất khẩu11. Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ tiến hành sự thay đổi lớn nhất khi quyết định đưa mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu vào hoạt động vào năm 1992. Từ đó đến nay, các hoạt động của Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ được chia làm 2 mảng: hoạt động thương mại và hoạt động viện trợ các nước đang phát triển. Trong đó, nguồn tiền hỗ trợ cho hoạt động thương mại, cụ thể là cho hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đến từ 3 nguồn chủ yếu là: nguồn thu của Ngân hàng (thu từ chênh lệch cho vay, và thu phí bảo hiểm), các khoản vay từ Ngân khố quốc gia và các khoản được Ngân sách phân bổ dùng để hỗ trợ chi phí quản lý. Mục tiêu trọng tâm của Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ là đưa ra thị trường các loại hình bảo hiểm và bảo lãnh, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu nhận tài trợ xuất khẩu từ Chính phủ thông qua Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ và Ngân khố quốc gia. Với mục tiêu này, Ngân hàng hoạt động chủ yếu dựa trên hai chương trình: Tín dụng tài trợ trực tiếp và Tài trợ qua trung gian. 3.2.3. Chƣơng trình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Mục tiêu của chương trình là cung cấp những khoản tiền hỗ trợ nhằm giúp các nhà xuất khẩu cũng như các ngân hàng tránh được rủi ro trong quá trình giao dịch thương mại trừ những rủi ro gây ra trong quá trình vận chuyển hoặc do các bên vi phạm hợp đồng. Các khoản hỗ trợ có thể bù đắp cả rủi ro kinh tế lẫn rủi ro chính trị hoặc có thể chỉ bù đắp rủi ro chính trị và những rủi ro khác. Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Mỹ không có một mức hạn mức tín dụng nhất định cho các nước tham gia cũng như đối với từng giá trị giao dịch. Tuy nhiên, mô hình này có đưa ra những điều kiện để quyết định thời gian tối đa nhận tài trợ cho các nước tham gia nhận khoản hỗ trợ bù đắp rủi ro. Bên cạnh đó, theo mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Mỹ thì rủi ro do đồng tiền mất giá không được hỗ trợ bù đắp. 11 english/2003/February/20030226174156monsen@pd.state.gov0.704632.html
  41. 34 Tuy nhiên trong trường hợp nhà nhập khẩu gửi một khoản tiền bằng đồng tiền nội địa vào một ngân hàng và việc đồng tiền mất giá xảy ra vào thời điểm chuyển giao khoản tiền đó, thì đây được coi là rủi ro chính trị. Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Mỹ có ba loại chính sách cơ bản:  Chính sách nhiều ngƣời mua (hoặc nhiều khoản giao dịch): bù đắp một lượng lớn các đơn hàng mua ở nhiều nước khác nhau. Chính sách này chỉ được áp dụng trong ngắn hạn và quy định rằng người được bảo hiểm cần phải thoả thuận phần lớn số lượng hoặc tổng giá trị giao dịch với mục đích giảm thiểu rủi ro và tránh sự lựa chọn bất lợi. Điều này hàm ý rằng nhà xuất khẩu có thể cố tình gây ra những tác động xấu ảnh hưởng đến hoạt động của mình chỉ để nhận được tiền bảo hiểm. Chính sách này đặc biệt chú trọng tới các mặt hàng dân dụng thông thường, linh kiện điện tử, vật liệu thô, linh kiện lắp ráp và hầu hết các dịch vụ.  Chính sách một ngƣời mua (hoặc một giao dịch): bù đắp rủi ro đối với một hay nhiều mặt hàng xuất khẩu trong cùng một hợp đồng xuất nhập khẩu. Thời gian của hợp đồng có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn, cho phép người được bảo hiểm quyết định giá trị hàng hoá được bảo hiểm rủi ro.  Bảo hiểm trung hạn (đối với một khoản giao dịch): hỗ trợ tài chính dài hạn cho những nhà nhập khẩu quốc tế đối với các thiết bị tư liệu sản xuất hoặc những dịch vụ liên quan. Theo chính sách này, thời hạn tài trợ này có thể kéo dài lên tới 5 năm với giá trị tối đa là 10 triệu USD. Hơn thế nữa, nhà nhập khẩu có quyền yêu cầu giảm 15% giá trị thanh toán tính trên tổng giá trị hợp đồng. Những chính sách khác chú trọng vào các đối tượng kinh doanh đặc biệt như ngân hàng và các tổ chức tín dụng thuê mua. Một số chính sách áp dụng đối với các tổ chức tài chính là: chính sách tín dụng chứng từ ngân hàng, chính sách tín dụng đối với các tổ chức tín dụng đóng vai trò là người mua hoặc người bán. Bên cạnh những khoản hỗ trợ bù đắp rủi ro trên, mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Mỹ còn đưa ra những mô hình đặc biệt nhằm hỗ trợ các công ty nhỏ và vừa xuất khẩu trung bình dưới 5 triệu USD trong suốt hai năm qua12. Một trong 12 Theo nghiên cứu về Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, Chương trình Minerva tháng 1/2004 của trường Đại học George Washington, Washington D.C, Mỹ.
  42. 35 những chính sách bảo hiểm cho những công ty này là chính sách cho doanh nghiệp nhỏ được hỗ trợ tự động từ Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ với các mức bảo hiểm như sau:  Chính sách nhiều ngƣời mua: cung cấp các khoản bảo hiểm nhằm tránh những rủi ro kinh tế, rủi ro chính trị và các loại rủi ro khác cùng lúc, lên tới 90%, 95% hoặc 98% đối với các doanh nghiệp hoạt động ngắn hạn, tuỳ thuộc vào loại chính sách và loại sản phẩm xuất khẩu.  Chính sách một ngƣời mua: Trong ngắn hạn, những khoản bảo hiểm thường thay đổi khác nhau tuỳ từng loại rủi ro. Đối với rủi ro kinh tế, tỉ lệ bảo hiểm có thể lên tới 90%, 95% hoặc thậm chí 98% tuỳ vào loại sản phẩm và chính sách áp dụng. Còn đối với rủi ro chính trị và các loại rủi ro khác, tỉ lệ bảo hiểm có thể lên tới 100%. 3.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Trên cơ sở nghiên cứu mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Mỹ và Brazil và so sánh tính phù hợp của hai mô hình này đối với điều kiện Việt Nam, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau: Thứ nhất, về bộ máy hoạt động và quản lý, cần có sự chuyên môn hoá rõ rệt về vai trò cũng như trách nhiệm của các cơ quan tham gia điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Trong mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Brazil, có bốn cơ quan chính là Phòng Ngoại Thương, Hội đồng tài trợ bảo lãnh, Quỹ bảo hiểm xuất khẩu và Hãng bảo hiểm tín dụng Brazil tham gia với vai trò hết sức rõ ràng, có sự hỗ trợ bổ sung cho nhau trong quá trình hoạt động, tạo nên một bộ máy có tính hệ thống hết sức vững chắc. Trong khi đó, tại Việt Nam, hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu còn khá mới mẻ, những quy định, văn bản quy phạm pháp luật đối với hoạt động này còn hạn chế và hầu hết chưa được thực hiện. Do vậy, chưa thể xây dựng được một mô hình hoạt động chuyên môn với các cơ quan và tổ chức được phân công phạm vi hoạt động cũng như vai trò cụ thể như ở Brazil. Mặt khác, tại Việt Nam chưa có một cơ quan hay tổ chức nào chịu trách nhiệm điều hành quản lý và thực hiện mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Trong khi đó, theo như phân tích ở trên, trong mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Brazil và
  43. 36 Mỹ đều có sự tham gia của các Ngân hàng Nhà nước. Tại Mỹ tổ chức thực hiện bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một cơ quan của Chính phủ - Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ còn tại Brazil thì Hãng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Brazil (SBCE) kết hợp với Quỹ bảo lãnh Xuất khẩu (FGE) chịu trách nhiệm điều hành và quản lý mô hình này, bên cạnh đó còn có sự tham gia hỗ trợ của Ngân hàng Quốc gia Brazil và Ngân hàng Phát triển Brazil. Có thể thấy trên thế giới trong nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào nói chung cũng như trong hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, vai trò của Ngân hàng Xuất nhập khẩu hay Ngân hàng Phát triển Quốc gia là rất quan trọng. Các nghiệp vụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Ngân hàng Xuất nhập khẩu được phát triển từ thấp tới cao theo từng giai đoạn tuỳ theo diễn biến kinh tế cụ thể của mỗi quốc gia, thường bao gồm những hoạt động cơ bản như cung cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu nước ngoài, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu (gồm bảo lãnh vay vốn các Ngân hàng thương mại, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng ) và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Đối với nền kinh tế có tiềm lực tài chính có hạn như nước ta, việc xây dựng và phát triển một Ngân hàng Xuất nhập khẩu hay một Ngân hàng Phát triển Quốc gia có đủ trình độ và có khả năng tài trợ một cách toàn diện cho cả nhà xuất khẩu trong nước và nhà nhập khẩu nước ngoài dưới sự quản lý một cách có hệ thống của Nhà nước là điều hết sức cần thiết. Trên thực tế, để có được mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được coi là hình mẫu cho các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam noi theo, Brazil đã phải mất hơn 30 năm để sửa chữa những khuyết điểm cũng như cải thiện bộ máy điều hành. Điều đó cho thấy để bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thực sự đi vào môi trường kinh doanh đang trên đà hội nhập như ở nước ta là điều không thể đạt được một sớm một chiều. Do vậy, Nhà nước cần sớm thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ xuất khẩu đồng thời đẩy nhanh quá trình ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở nước ta. Bên cạnh đó, cần xây dựng mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có sự tham gia điều tiết từ các cơ quan Nhà nước với nhiệm vụ và chức năng cụ thể, khuyến khích các tổ chức tín dụng tham gia. Qua đó tạo nên sự liên kết thống nhất trong quá trình hoạt động cũng như trong quản lý đối với hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu này.
  44. 37 Thứ hai, khuyến khích các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp tư nhân tham gia và phát huy hết vai trò trong việc thúc đẩy hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu mở rộng. Có thể thấy, đối với Việt Nam, mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu của Brazil tỏ ra ưu việt hơn mô hình của Mỹ ở chỗ: trong khi ở Mỹ, hầu hết các khoản bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được đưa ra bởi các tổ chức tín dụng Nhà nước thì ở Brazil các khoản bảo hiểm này lại được cung cấp bởi tổ chức tín dụng tư nhân nhằm hỗ trợ các nhà xuất khẩu tránh các rủi ro trong phạm vi khả năng tài chính của mình. Đây có thể coi là cách giúp các doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng trong nước làm quen với hoạt động bảo hiểm mới này và qua đó linh hoạt, chủ động hơn trong quá trình xử lý các tình huống đồng thời có thêm kinh nghiệm khi tham gia giao lưu thương mại với các nước bạn. Đối với nền kinh tế đang trên đà hội nhập như Việt Nam, việc nhận thức được vai trò của các doanh nghiệp tư nhân trong công cuộc đổi mới đất nước cũng như khuyến khích bộ phận kinh tế này tham gia tích cực vào nền kinh tế mở quốc gia là một trong những chiến lược trọng tâm được Nhà nước ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, cần đề cao sự tham gia của những ngân hàng tư nhân trong việc tài trợ cho những mặt hàng xuất khẩu trung và dài hạn, hạn chế sự đòi hỏi đối với các nguồn lực công cộng trong những chương trình và dự án xuất nhập khẩu của Chính phủ. Đặc biệt, trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, việc hạn chế vai trò chủ đạo của Nhà nước trong quá trình quản lý đồng thời phát huy chức năng của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng thuộc khu vực kinh tế tư nhân sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế thị trường giúp Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận hơn với thị trường quốc tế. Thứ ba, mở rộng thời hạn bảo hiểm và đưa ra những mức phí ưu đãi nhằm khuyến khích và thu hút các doanh nghiệp xuất khẩu làm quen và sử dụng hiệu quả công cụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Tại Mỹ và Brazil, Chính phủ đều đưa ra mức phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng như tỉ lệ bảo hiểm ưu đãi đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây không những là một trong những chiến lược thu hút sự quan tâm và tham gia của các doanh nghiệp trong nước mà còn giúp đa dạng hoá
  45. 38 các gói bảo hiểm tín dụng trong hoạt động xuất khẩu, đem lại nhiều sự lựa chọn hơn, phù hợp với quy mô kinh doanh đối với các nhà xuất khẩu. Mặt khác, Nhà nước cần nhận thức rõ vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nói chung trong việc hỗ trợ hàng xuất khẩu ra thị trường quốc tế từ đó có những biện pháp hỗ trợ và đầu tư hợp lý nhằm phát triển loại hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hết sức mới mẻ nhưng cũng đầy tiềm năng này. Thứ tư, mở rộng đối tượng cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, không nên bó hẹp ở phạm vi các tổ chức tín dụng xuất khẩu Nhà nước như Ngân hàng Phát triển Quốc gia hay Ngân hàng Xuất nhập khẩu mà cần khuyến khích các công ty bảo hiểm tư nhân cũng tham gia vào mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, hoạt động như một tổ chức cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thực sự dưới sự quản lý của Nhà nước. Đây không chỉ là một trong những chiến lược đa dạng hoá đối tượng cung cấp loại hình bảo hiểm mới mẻ này, mà còn là chiến lược thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong sự phát triển của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hay bất cứ hoạt động hỗ trợ xuất khẩu mới mẻ, đầy tiềm năng nào. Thứ năm, cần quy định rõ đối tượng được bảo hiểm trong mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, cụ thể là khách hàng và ngành hàng được bảo hiểm. Về phía khách hàng sử dụng tức là các doanh nghiệp xuất khẩu hay các ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn, có thể phân loại các doanh nghiệp và các ngân hàng này theo phạm vi hoạt động (nhỏ, vừa, lớn) hoặc theo thời gian hoạt động (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) để đưa ra những mức bảo hiểm và kì hạn bảo hiểm phù hợp, đồng thời tạo sự thuận lợi trong quá trình quản lý của Nhà nước. Về phía ngành hàng được bảo hiểm, cũng cần chú trọng những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đóng góp phần lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia để đưa ra ưu đãi hỗ trợ xuất khẩu phù hợp. Bên cạnh đó, cũng cần xem xét và đánh giá đúng tiềm năng cũng như cơ hội xuất khẩu của một số ngành hàng khác, nhằm phát huy tối đa thế mạnh của hàng hoá, dịch vụ trong nước trên thị trường thế giới.
  46. 39 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua 1.1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ quý I/2007 đến quý I/2010 Dựa trên số liệu của Bộ Thương mại, đề tài xin đưa ra Bảng 1 với số liệu về kim ngạch xuất khẩu và cán cân thương mại cả nước trong giai đoạn từ quý I/2007 đến quý I/2010. Từ đó có Hình 3 là biểu đồ về diễn biến kim ngạch xuất khẩu cả nước cũng trong giai đoạn từ quý I/2007 đến quý I/2010. Bảng 1: Xuất khẩu từ quý I/2007 đến quý I/2010 (Đơn vị: tỷ USD) Xuất DN 100% Cán cân So với kim DN 100% DN Q Năm khẩu cả vốn trong DN vốn thƣơng mại ngạch xuất vốn trong vốn Quý nƣớc nƣớc FDI cả nƣớc khẩu (%) nƣớc FDI I 8,899 3,725 5,174 67 0.018 -1,680 1,747 II 9,156 3,924 5,232 -1,597 -0.407 -3,028 1,431 2007 III 9,975 4,017 5,958 -1,800 -0.448 -3,498 1,698 IV 9,984 3,998 5,986 -3,001 -0.751 -3,543 542 I 10,483 4,646 5,837 -1,316 -0.283 -2,910 1,594 II 14,242 6,579 7,663 -4,196 -0.638 -5,101 905 2008 III 17,827 7,548 10,279 -1,861 -0.247 -6,227 4,366 IV 20,354 9,256 11,098 -9,637 -1.041 -9,192 -445 I 14,733 6,254 8,479 -6,861 -1.097 -8,713 1,852 II 15,150 6,846 8,304 -9,564 -1.397 -10,179 615 2009 III 15,822 6,822 9,000 -711 -0.104 -2,586 1,875 IV 17,201 8,107 9,094 126 0.016 -1,952 2,078 2010 I 16,648 7,185 9,464 -7,753 -1.079 -10,121 2,368 Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình xuất khẩu qua từ quý I/2007 đến quý I/2010 của Bộ Thương mại.
  47. 40 Hình 3: Biểu đồ về tình hình kim ngạch xuất khẩu cả nƣớc trong giai đoạn từ quý I/2007 đến quý I/2010 (Đơn vị: tỷ USD) 25,000 20,000 15,000 10,000 5,000 0 I II III IV I II III IV I II III IV I 2007 2008 2009 2010 Xuất khẩu cả nước Trong phần này, đề tài sẽ đi sâu phân tích diễn biến xuất khẩu của Việt Nam trên góc độ hai nhân tố ảnh hưởng cơ bản đó là những ảnh hưởng từ các biến động của thị trường gây ra những rủi ro tác động đến hoạt động xuất khẩu (bao gồm rủi ro kinh tế và rủi ro chính trị) và năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Nhìn trên biểu đồ 1, có thể thấy rõ diễn biến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ từ quý I/2007 đến quý I/2010 được chia làm năm giai đoạn chính như sau:  Từ quý I/2007 đến quý I/2008: Trong thời gian này, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng khá ổn định, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước đạt tăng 22.1% so với năm 200613. Đây là giai đoạn sản lượng hàng xuất khẩu Việt Nam chủ yếu tập trung vào thị trường Mỹ, và coi đây là thị trường trọng điểm. Tuy nhiên đến quý IV/2007, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 0.09% so với quý III/2007. Điều này là do ảnh hưởng của kinh tế thế giới suy giảm xuất phát 13 Nguồn: Báo cáo tóm tắt về Thương mại Việt Nam năm 2007, phương hướng phát triển năm 2008 của Bộ Thương mại (tại Hội nghị Thương mại toàn quốc ngày 01-02 tháng 2/2008)
  48. 41 từ những biến động trên các thị trường trọng điểm của các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc Nhật Bản , kéo theo các rủi ro về kinh tế như sự bất ổn của tỷ giá hối đoái, cầu về nông sản, thuỷ sản giảm làm giảm giá hàng loạt mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu tăng rất chậm trong giai đoạn này. Đến quý I/2008, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt mức tăng trưởng 5% so với quý III/2007, mở đầu cho giai đoạn tăng trưởng cao nhất của kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ 2007 đến nay.  Từ quý II/2008 đến quý IV/2009: Trong giai đoạn này, do tình hình kinh tế thế giới phục hồi và chi phí sản xuất tăng. Bên cạnh đó, giá nông sản thế giới đang trên đà lên giá dẫn đến giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản vốn được coi là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam đã tăng nhanh. Mặc dù vậy, nhìn chung, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2008 tăng mạnh. Cũng trong giai đoạn này nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã có sự tăng cường đầu tư về chiều sâu để hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu chất lượng của thị trường nhập khẩu khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước ngày càng được đẩy mạnh. Đạt được kết quả trên là do các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng được cơ hội khi Việt Nam gia nhập WTO với các rào cản thuế quan và hạn ngạch bị dỡ bỏ, thuế suất thuế nhập khẩu vào các nước được cắt giảm Ngoài ra cũng nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta gia tăng nhanh chóng đã góp phần quan trọng trong việc tạo điều kiện về vốn và công nghệ cho việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.  Từ quý I/2009 đến quý II/2009: Đầu năm 2009, thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng lương thực khi giá hầu hết các nông sản chính như bắp, lúa mì, gạo đều tăng gấp 2-3 lần trong vòng chưa đầy 2 năm14. Cuộc khủng hoảng lương thực trong giai đoạn này đã kéo theo những biến động khó lường của thị trường thế giới. Điều này dẫn đến năng lực sản xuất và xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam có phần giảm sút so với thời gian trước. Cũng trong thời gian này, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là 14
  49. 42 Mỹ đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất chưa từng có. Điều này nhanh chóng dẫn đến sự bất ổn về tỷ giá hối đoái, giá trị đồng USD giảm mạnh. Các doanh nghiệp trong nước lo ngại những rủi ro về mặt kinh tế và chính trị khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sang thị trường vốn được coi là trọng điểm này. Đây chính là nguyên nhân khiến cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn này giảm mạnh.  Từ quý III/2009 đến quý IV/2009: Trong thời gian này, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và Bộ Tài chính Mỹ đang cố gắng hết sức trong việc đoạt quyền kiểm soát của các tập đoàn chuyên cho vay thế chấp của Mỹ nằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ. Cùng lúc đó, Ngân hàng Trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Điều này đã phần nào giúp cải thiện tình hình tài chính vốn đang trong giai đoạn hết sức khó khăn này, mở ra một hướng đi mới cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù khối lượng hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ có giảm sút do lo ngại những rủi ro về kinh tế lẫn chính trị xảy ra nhưng lại tạo điều kiện cho hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam thâm nhập được các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc Nhìn chung, trong giai đoạn này, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã có sự hồi phục đáng kể.  Từ quý I/2010 đến nay: Tốc độ tăng xuất khẩu 22% của bốn tháng đầu năm 2010 thấp hơn 25% so với cùng kì năm 200915, cho thấy xu hướng tăng trưởng xuất khẩu đang chậm lại. Bù đắp cho sự sụt giảm xuất khẩu dầu thô và một số mặt hàng chủ lực khác như gạo, xe đạp, phụ tùng xe đạp, sản lượng xuất khẩu của nhiều mặt hàng khác như dệt may, sản phẩm nhựa, hàng điện tử, các sản phẩm gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ, thuỷ sản đều tăng mạnh. Sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng trên là do tăng cả lượng và gía, tuy nhiên tăng về lượng đóng góp đáng kể. Bên cạnh đó, một số yếu tố khách quan có thể ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu như dịch cúm gia cầm, dịch sâu gây hại cho sản xuất nông nghiệp cũng gây khó khăn cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu trong thời gian tới. 15 Theo Báo cáo của Bộ thương mại về Tình hình xuất khẩu quý I/2010.
  50. 43 1.2. Một số hạn chế còn tồn tại 1.2.1. Về năng lực sản xuất hàng xuất khẩu Có thể thấy trong giai đoạn từ quý I/2007 đến nay, hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu của nước ta hiện nay đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nói trên vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định, thể hiện ở những mặt sau: Thứ nhất, quy mô sản xuất hàng xuất khẩu nhìn chung còn khá khiêm tốn so với năng lực tiềm năng của nền kinh tế. Tuy có sự tăng trưởng nhanh nhưng chưa thật sự ổn định và bền vững. Điều này chủ yếu là do đầu tư xã hội cho sản xuất hàng xuất khẩu (nhất là khu vực kinh tế có 100% vốn đầu tư trong nước) nhìn chung còn thấp, ảnh hưởng đến khả năng gia tăng quy mô sản xuất và xuất khẩu. Thứ hai, cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu còn lạc hậu, tỷ trọng hàng thô và hàng sơ chế tuy đã có giảm so với trước nhưng vẫn còn cao16, sản lượng có hàm lượng công nghệ cao còn nhỏ bé. Trong số sản phẩm công nghiệp chế tạo thì hàng gia công giá trị thấp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Việc sản xuất những mặt hàng này phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên và giá cả thị trường thế giới như hàng nông sản, thuỷ - hải sản, hay phụ thuộc vào bên trung gian thứ ba (phía đặt hàng gia công) như hàng dệt may, da giầy Thứ ba, việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nói chung, trong từng lĩnh vực ngành hàng nói riêng chưa bám sát tín hiệu của thị trường thế giới, do đó nhiều sản phẩm sản xuất ra để xuất khẩu nhưng không thể tiêu thụ được. Năng lực sản xuất, chất lượng, giá thành nhiều sản phẩm không đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Việc kiểm soát chất lượng sản phẩm xuất khẩu ngay từ khâu sản xuất còn chưa được coi trọng, chặt chẽ, triệt để, dẫn đến nhiều lô hàng, nhất là hàng thuỷ sản đã bị bạn hàng trả lại do không đảm bảo chất lượng vì có dư lượng chất kháng sinh trong sản phẩm hoặc sử dụng chất bảo quản vượt quá mức cho phép. 16 Kim ngạch xuất khẩu của nhóm ngành hàng này vẫn chiếm 43,9% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (Báo cáo tóm tắt về Thương mại Việt Nam năm 2007, phương hướng phát triển năm 2008 của Bộ Thương Mại, tại Hội nghị thương mại toàn quốc ngày 01-02 tháng 2/2008)
  51. 44 Thứ tư, năng lực cạnh tranh chưa được cải thiện rõ rệt trên cả 3 cấp độ (nền kinh tế, doanh nghiệp và mặt hàng xuất khẩu). Khi các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có quy mô còn nhỏ bé thì những cải cách ở cấp độ nền kinh tế nhằm năng cao khả năng cạnh tranh quốc gia và cải thiện môi trường kinh doanh chưa phát huy được hiệu quả. Điều này thể hiện ở chỗ trong thời gian qua các chỉ số đánh giá của tổ chức quốc tế về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đều ở mức độ thấp so với khu vực. Trong khi đó, quy mô đầu tư vào khâu sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng xuất khẩu còn chưa thoả đáng. 1.2.2. Về hoạt động xuất khẩu Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam đã được những kết quả tương đối khả quan nhưng những hạn chế không phải là ít. Các hạn chế lớn tập trung vào những mặt sau: Thứ nhất, quy mô xuất khẩu còn nhỏ bé, tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thứ hai, xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và thường bị ảnh hưởng bởi các cú sốc từ bên ngoài như sự biến động giá cả trên thị trường thế giới, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài . Trong khi đó, khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị trường xuất khẩu mới của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Thứ ba, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý, thể hiện trên cả ba phương diện: (1) chủng loại hàng hoá xuất khẩu còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới; (2) các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, chủ yếu vẫn là các mặt hàng như khoáng sản chịu ảnh hưởng trực tiếp tư những biến động chính trị trên thế giới (như dầu thô, than đá), nông - lâm - thuỷ hải sản , trong khi các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính chủ yếu vẫn mang tính chất gia công; (3) quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng công nghiệp hoá diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản, triệt để; cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua chủ yếu chuyển
  52. 45 dịch theo chiều rộng mà chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Thứ tư, năng lực cạnh tranh còn yếu kém ở cả 3 cấp độ (nền kinh tế, doanh nghiệp và mặt hàng xuất khẩu). Trong đó những hạn chế từ phía doanh nghiệp chuyển biến chậm: đại bộ phận có quy mô nhỏ, yếu về năng lực, kém về kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh thương mại quốc tế, phần nhiều doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh, xuất khẩu dài hạn, mức thụ động cao. 1.3. Nguyên nhân của những hạn chế và kết luận 1.3.1. Nguyên nhân của những hạn chế Thứ nhất, nếu như tăng trưởng kinh tế góp phần tích cực vào tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thì các bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới lại đem đến cho xuất khẩu Việt Nam những tác động ngược lại. Điển hình là cuộc khủng hoảng nhà đất Mỹ đã kéo theo cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động xuất khẩu của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, khiến cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2009 giảm mạnh. Thứ hai, các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, song đây lại chính là những mặt hàng mà giá cả thế giới biến động thất thường nhất. Thứ ba, năng lực dự báo, nhận biết các biến động bất thường, rủi ro tiềm ẩn trên thị trường quốc tế của các cơ quan quản lý còn hạn chế, trong khi khả năng thích ứng với bối cảnh mới của thị trường thế giới của các doanh nghiệp xuất khẩu còn yếu. Thêm vào đó, công tác của mạng lưới đại diện, đặc biệt về thương mại ở nước ngoài chưa thực sự hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu, các chương trình xúc tiến thương mại, nhỏ lẻ, rời rạc hiệu quả chưa cao. Thứ tư, những lúng túng, bị động trong việc khai thác các thị trường xuất khẩu thời gian qua xuất phát từ sự thiếu chuẩn bị của cả phía các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý Nhà nước chưa thực sự làm tốt công tác phổ biến, hướng dẫn và chuẩn bị điều kiện để đón những cơ hội về thị
  53. 46 trường xuất khẩu do các hiệp định và thoả thuận hợp tác thương mại đem lại, trong khi các doanh nghiệp lại mang nặng tư tưởng trông chờ vào những hướng dẫn, hỗ trợ của Nhà nước. 1.3.2. Kết luận Qua việc phân tích những nguyên nhân của các hạn chế còn tồn tại ở trên, có thể dễ dàng nhận thấy rằng nguyên nhân cơ bản của sự yếu kém về năng lực sản xuất hàng xuất khẩu cũng như về hoạt động xuất khẩu trong thời gian vừa qua tại Việt Nam chính là sự lúng túng của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước trong việc tự tăng cường khả năng phòng vệ trước các rủi ro từ những biến động bất thường khó lường của thị trường thế giới cũng như những rủi ro kinh tế trong quá trình giao dịch mua bán với các đối tác nước ngoài. Trong điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước chưa đủ khả năng dự báo, nhận biết những biến động bất lợi tiềm ẩn nhiều rủi ro của tình hình kinh tế thế giới thì việc đưa ra một công cụ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu mới nhằm hạn chế các rủi ro tiềm ẩn có khả năng phát sinh trong quá trình xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam ra các thị trường lớn trên thế giới là hết sức cần thiết. Đây không chỉ là biện pháp đẩy mạnh hoạt động tín dụng xuất khẩu kích thích xuất khẩu mà qua đó, còn tạo tâm lý yên tâm cho các doanh nghiệp trong tiến trình gia nhập thương mại kinh tế toàn cầu. Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tế, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đã ra đời ở Việt Nam như một công cụ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu quốc gia. Dưới đây, đề tài sẽ nghiên cứu thực trạng của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 2. Thực trạng của hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 2.1. Môi trƣờng pháp lý 2.1.1. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 2.1.1.1. Đối với hoạt động tín dụng xuất khẩu a. Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của Việt Nam
  54. 47 Với mục tiêu tăng cường hỗ trợ cho xuất khẩu và phù hợp với nguồn lực tài chính trong nước, chính sách tín dụng xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay tập trung vào các hình thức sau: a.1. Hình thức hỗ trợ xuất khẩu  Cho vay dự án đầu tư phục vụ xuất khẩu: - Đối tượng là các dự án đầu tư trong nước phục vụ cho xuất khẩu và các dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc danh mục Nhà nước khuyến khích. - Mức vốn cho vay tối đa bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án. - Thời hạn cho vay tối đa 15 năm. - Đồng tiền cho vay: đồng Việt Nam. Đối với các dự án có nhập thiết bị nước ngoài hoặc dựa án đầu tư ở nước ngoài có đủ nguồn ngoại tệ trả nợ thì được cho vay bằng USD. - Lãi suất cho vay cố định trong suốt thời gian thực hiện dự án và được xác định bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng phụ trội là 0.5%/năm. Trường hợp vay bằng USD thì mức lãi suất được xác định bằng lãi suất SIBOR 6 tháng cộng độ phụ trội là 2%/năm.  Cho vay ngắn hạn xuất khẩu: - Đối tượng bao gồm cho vay người bán (nhà xuất khẩu) và cho vay người mua (nhà nhập khẩu). + Cho vay người bán là cho vay nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ vay vốn tín dụng xuất khẩu quy định cho từng thời kỳ, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế, chiến lược xuất khẩu. + Cho vay người mua là cho vay nhà nhập khẩu nước ngoài mua hàng hoá, dịch vụ do Việt Nam sản xuất nằm trong danh mục hàng hoá, dịch vụ vay vốn tín dụng xuất khẩu, được Chính phủ hoặc Ngân hàng Trung ương nước nhập khẩu bảo lãnh. - Mức vốn cho vay tối đa bằng 85% giá trị hợp đồng xuất khẩu (bên bán), hợp đồng nhập khẩu (bên mua) đã ký kết hoặc giá trị L/C, hối phiếu hợp lệ tuỳ theo từng hình thức vay