Khóa luận Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam

pdf 110 trang hapham 3572
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_hien_trang_va_giai_phap_phat_trien_du_lich_cua_huy.pdf

Nội dung text: Khóa luận Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam

  1. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hoá xã hội và hoạt động du lịch đang được phát triển một cách mạnh mẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Du lịch không chỉ để con người nghỉ ngơi, giải trí mà còn thoả mãn nhu cầu to lớn về mặt tinh thần. Mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi tỉnh thành đều có những đặc trưng riêng về tự nhiên, lịch sử văn hoá , truyền thống thu hút khách du lịch. Thông qua việc phát triển du lịch sự hiểu biết và mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các tỉnh thành trong cả nước ngày càng được mở rộng vì nền hoà bình và tình hữu nghị trên toàn thế giới. Ngày nay du lịch mang tính nhận thức và tính phổ biến với mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, củng cố hoà bình hữu nghị giữa các dân tộc trong nước và trên toàn thế giới. Ở nước ta trong những năm gần đây ngành du lịch cũng từng bước phát triển ổn định. Trong hoạt động du lịch, kinh tế đối ngoại của nước ta du lịch giữ vai trò quan trọng là nhân tố tích cực góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, rút ngắn thời gian khoảng cách so với trình độ phát triển của các nước trong khu vực. Với phương châm “Muốn là bạn với tất cả các nước” “Việt Nam được coi là điểm đén của thiên nhiên kỉ mới ngày càng là sự quyến rũ tiềm ẩn” đối với du khách trong nước và ngoài nước. Thêm vào đó đời sống của người dân ngày càng được nâng cao và cải thiện hơn thì du lịch trở thành nhu cầu không thể thiếu, đó cũng là cơ hội để ngành du lịch Việt Nam phát triển. Cùng với quá trình đô thị hoá, công nghiệp oá đất nước nhu cầu du lịch của con người ngày càng gia tăng. Đặc biệt khi mà nhà nước ban hành chế độ làm việc 40h/tuần, người dân có nhiều thời gian rỗi hơn để đến những nơi có không khí trong lành xoá tan đi sự căng thẳng giữa phố phường chật hẹp đông đúc Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 1
  2. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Kim Bảng là một vùng đất có bề dày lịch sử, lại là huyện giàu tiềm năng nhất của tỉnh Hà Nam. Do quá trình đô thị hoá ngày nay đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nơi trên cả nước. Do đó quá trình đô thị hoá diễn ra trên địa bàn tỉnh Hà nam cũng không phải là ngoại lệ. Việc đi du lịch cuối tuần, nghỉ dưỡng, tham quan nhất là ở những địa bàn gần đang là xu thế chung của xã hội. Do vậy việc phát triển du lịch của huyện Kim Bảng có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống của người dân huyện Kim Bảng nói riêng cũng như người dân trong tỉnh nói chung. Kim Bảng là huyện có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch có phong cảnh đẹp, những hang động kỳ thú, những danh thắng cảnh nổi tiếng, có cánh rừng rộng lớn với không gian trong lành mang đến cho du khách gần xa sự thoải mái dễ chịu mỗi khi đến tham quan du lịch huyện. Mặc dù hiện nay du lịch huyện Kim Bảng đã có bước phát triển nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Do điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật và cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn và yếu kém, các tài nguyên chưa được khai thác hết. Du lịch huyện Kim Bảng nói riêng, du lịch Hà Nam nói chung cần nhanh chóng nắm lấy cơ hội phát triển nhằm phát huy những thế mạnh sẵn có, tranh thủ tận dụng những thuận lợi khách quan để vươn lên phát triển bền vững. Với mong muốn tìm hiểu, bước đầu tập dược nghiên cứu khoa học và mong muốn được góp một phần bé nhỏ của mình vào sự phát triển chung của du lịch huyện Kim Bảng nói riêng và du lịch tỉnh Hà nam nói chung nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng du lịch huyện Kim Bảng, đáp ứng nhu cầu của quần chúng nhân dân trong tỉnh khi chất lượng cuộc sống ngày càng phát triển. Chính vì vậy mà tác giả đã chọn đề tài: “ Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp cho mình. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 2
  3. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Xuất phát từ việc tổng hợp tài liệu về phát triển du lịch và thực tiễn kinh doanh du lịch trên địa bàn huyện Kim Bảng, Khoá Luận xác định mục đích nghiên cứu của đề tài như sau: Đề tài được trình bày nhằm nêu lên tài nguyên và thực trạng hoạt động du lịch huyện Kim Bảng. Từ đó thấy được những thành công và hạn chế trong phát triển du lịch của huyện. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp khắc phục những hạn chế nhằm khai thác tốt hơn nữa tiềm năng du lịch góp phần đưa du lịch huyện Kim Bảng trở thành điểm sáng trong du lịch Hà nam nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung. Để đạt được các mục tiêu trên đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ sau: -Tổng quan cơ sở lý luận về phát triển du lịch -Tìm hiểu hiện trạng hoạt động phát triển du lịch huyện Kim Bảng. -Trên cơ sở đó đề xuất một số định hướng và giải pháp khắc phục khai thác tiềm năng vốn có của du lịch huyện Kim Bảng. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. Nghiên cứu hiện trạng phát triển du lịch huyện Kim Bảng trong mối quan hệ với các ngành kinh tế khác của địa phương, từ đó đưa ra những giải pháp trong thời gian tới để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Hà Nam, đưa du lịch huyện Kim Bảng phát triển cùng nhịp với các huyện trong tỉnh. Đề tài được nghiên cứu trên pham vi địa bàn của huyện Kim Bảng. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn này tác giả đã sử dụng các phương pháp: tổng hợp, so sánh, phân tích Ngoài ra cón có các phuơng pháp - Phƣơng pháp thu thập và xử lý số liệu: Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 3
  4. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Đây là phương pháp quan trọng cho việc thực hiện đề tài. Để có được các thông tin đầy đủ về mọi mặt tự nhiên, kinh tế, xã hội trong khu vực. Cần tiến hành thu thập thông tin tư liệu về nhiều lĩnh vực nhiều nguồn sau đó xử lý chúng để có các tư liệu cần thiết phục vụ cho việc nghên cứu. - Phƣơng pháp khảo sát thực địa Khảo sát thực địa là phương pháp truyền thống trong nghiên cứu địa lý đặc biệt là trong việc nghiên cứu tiềm năng, hiện trạng phát triển du lịch. Tác giả tiến hành khảo sát thực địa tại địa bàn, làm việc với cơ quan địa phương Kết quả điều tra thực địa là cơ sở ban đầu và là điều kiện thẩm định lại một số nhận định trong giáo trình nghiên cứu. Thông qua đó đã cho phép đề ra những giải pháp khắc phục những nhược điểm, phát huy những ưu điểm. Đây là phương pháp khoa học nhất để thu hút được số liệu tương đố chính xá về số lượng khách, nhu cầu sở thích của khách và những dịch vụ mà khách quan tâm. - Phƣơng pháp điều tra xã hội học Là phương pháp lấy ý kiến của khách du lịch, người dân địa phương, về chất lượng, quy mô, diện tích sức hấp dẫn của tài nguyên 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận,T ài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung khoá luận được bố cục thành 3 chương như sau: Chương I: Cơ sở lý luận chung của đề tài Chương II: Hiện trạng hoạt động du lịch của huyện Kim Bảng Chương III: Định hướng - Giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 4
  5. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam CHƢƠNG I :CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm về du lịch Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế- xã hội phổ biến không chỉ các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nayvẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch. Thuật ngữ du lịch trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp với ý nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được la tinh hoá thành tornus và sau đó thành tiếng pháp tourisme, tourism trong tiêng Anh Trong tiếng Việt thuật ngữ Tourism được dịch qua tiếng Hán: Du co nghĩa là đi chơi, lịch có nghĩa là từng trải. Năm 1963 với mục đích quốc tế hoá tại hội nghị Liên Hợp Quốc về du lịch ở Rô Ma các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ, hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ” . Đây là cơ sở cho định nghĩa du khách đẫ được liên minh quốc tế các tổ chức du lịch của tổ chức du lịch thế giới thông qua. Trong cuốn cơ sở địa lí du lịch và dịch vụ thăm quan với một số nội dung khá chi tiết nhà địa lía Belarus đã nhấn mạnh “ Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi có liên quan đến di cư và lưu trú tạm thời ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm mục đích phát triển thể chất, tinh thần nâng cao trình đọ nhận thức, văn hoá hoặc hoạt động thể thao, kèm theo việc tiếp thu những giá trị về tự nhiên, kinh tế văn hoá và dịch vụ.” Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 5
  6. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Theo luật du lịch Việt Nam năm 2006: “ Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. 1.1.2. Khái niệm khách du lịch Du khách là những người từ nơi khác đến vào thời gian rảnh rỗi của họ với mục đích thoả mãn tại nơi đến về nghiên cứu nâng cao hiểu biết, phục hồi sức khoẻ, xây dựng hay tăng cường tổ chức của con người, tăng cường tình cảm của con người với nhau hoặc với tự nhiên, thư giãn giải trí hoặc thể hiện mình kèm theo việc tiếp thu những giá trị tinh thần hay vật chất và các dịch vụ do các cơ sở của ngành du lịch cung ứng. Theo Luật du lịch Việt nam có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 Khách du lịch được định nghĩa như sau: “ Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch trừ trường hợp đi học, phải làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.” Luật du lịch Việt Nam năm 2006 phân loại Khách du lịch như sau: - Khách du lịch quốc tế + Là người nước ngoài hoặc người Việt nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch. + Là công dân Việt Nam hy người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài. + Mục đích chuyến đi của họ là thăm quan tham dự hội nghị, khảo sát thị trường. -Khách du lịch nội địa + Là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. 1.1.3. Khái niệm khu, điểm du lịch  Khái niệm khu du lịch Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 6
  7. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Các nhà khoa học du lich Trung Quốc đã đưa ra khái niệm và đặc điểm về khu du lịch: “ Khu du lịch được xác định là đơn vị cơ bản để làm quy hoạch và quản lý du lịch, là thể tổng hợp địa lí lấy chức năng du lịch làm chính và nội dung quy hoạch quản lí để triển khai các hoạt động du lịch.” Theo khoản 7 điều 7 chương 1 Luật du lịch Việt Nam năm 2006: “ Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch, ưu thế nổi bật về cảnh quan thiên nhiên được quy hoạch đầu tư phát triển, nhằm thoả mãn các nhu cầu đa dạng của khách du lịch đem lại hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường.”  Khái niệm điểm du lịch Theo định nghĩa chung nhất điểm du lịch là những chỗ hoặc cơ sở mà khách du lịch muốn đến và lưu trú, điểm du lịch có thể là những chỗ không có dân cư. Đó là định nghĩa rộng của điểm du lịch. Tuy nhiên trong kinh tế du lịch, điểm du lịch là một nơi một vùng hay một đất nước có sức hấp dẫn đặc biệt đối với dân ngoài địa phương và có những thay đổi nhất định trong kinh tế do hoạt động du lịch tạo nên. Theo định nghĩa trên thì điểm du lịch có thể là bất cứ điểm lớn hoặc điểm nhỏ có tài nguyên du lịch( Tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn) và có hoạt động du lịch phát triển. Nếu xét dưới góc độ tiến trình vận động có lẽ nên đưa ra cặp khái niệm điểm du lịch và điểm tài nguyên du lịch. Điểm tài nguyên du lịch là nơi ở có ít hay nhiều nguồn tài nguyên du lịch có sức hấp dẫn đối với khách song chưa được tổ chức khai thác. Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. Điểm tài nguyên du lịch có thể chưa phải là điểm du lịch song nó có thể trở thành điểm du lịch khi không có việc tổ chức khai thác. Ngược lại điểm du lịch cũng có thể trở thành điểm tài nguyên du lịch khi sản phẩm du lịch đi vào giai đoạn thoái trào, hoạt động kinh doanh du lịch ngừng trệ. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 7
  8. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Theo luật du lịch Việt Nam năm 2006: “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch.” 1.1.4. Khái niệm tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố quan trọng đối với phát triển kinh tế và đời sống con người, hiểu theo nghĩa rộng tức: “ Tài nguyên là bao gồm tất cả các nguồn lực, năng lượn và thông tin có trên trái đất đồng thời trong không gian vũ trụ liên quan mà con người có thể sử dụng phục vụ đời sống cho sự nghiệp phát triển của mình.” Các yếu tố tài nguyên liên quan đến các điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử văn hoá, kinh tế- xã hội vốn có trong tự nhiên hoặc do con người tạo dựng nên, các yếu tố này luôn luôn tồn tại và gắn liền với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội đặc thù của mỗi vùng miền, mỗi địa phương. Nhưng các yếu tố này chỉ trở thành tài nguyên du lịch khi được đầu tư quy hoạch và phát triển, được khai thác và sử dụng cho mục đích phát triển du lịch. Trong pháp lệnh du lịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1999) thì tài nguyên du lịch được hiểu là : “ Cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, các giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo coả con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch ,khu du lịch nhằm tạo ra sức hấp dẫn du lịch. Tại khoản 4 điều 4 chương 1 Luật du lịch Việt Nam năm 2005 quy định: “ Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch,điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.” Tài nguyên du lịch có thể được hiểu là tài nguyên du lịch đang khai thác và tài nguyên du lịch chưa được khai thác. Mức độ khai thác các tiềm năng liên quan đến tài nguyên du lịch phụ thuộc vào các tiềm năng, tài Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 8
  9. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam nguyên vốn có còn tiềm ẩn, trình độ phát triển khoa học công nghệ tạo ra các phương tiện để khai thác các tiềm năng tài nguyên đó. Khái niệm tài nguyên du lịch: “ Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hoá lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần phục vụ và phát triển thể lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du lịch.” 1.2. Đặc điểm và vai trò của tài nguyên du lịch đối với phát triển du lịch 1.2.1. Đặc điểm chung của tài nguyên du lịch Để có thể sử dụng, bảo vệ và phát triển tài nguyên du lịch đạt được hiệu quả bền vững thì cần phải tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm của nguồn tài nguyên này. Tài nguyên du lịch sẽ mang cả những đặc điểm của tài nguyên nói chung và những đặc điểm riêng liên quan tới tính chất của ngành du lịch. Theo chương 2 điều 13 Luật du lịch Việt nam năm 2005 thì tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm: Truyền thống văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, công trình lao động sáng tạo của con người và các di tích văn hoá vật thể và phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Đặc điểm cơ bản của tài nguyên du lịch -Tài nguyên du lịch vốn sẵn có trong tự nhiên hoặc trong đời sống xã hội -Tài nguyên du lịch phần lớn được sử dụng tại chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch. Du khách muốn thưởng thức các snr phẩm du lịch phải đến tận nơi có tài nguyên du lịch đó. Đây là một đặc tính phân biệt các tài nguyên du lich với các dạng tài nguyên khác.Những tài nguyên như: sông, núi, rừng , biển những tài nguyên văn hoá như các công trình kiến trúc, các di tích, danh lam đều có thể di dời. Ngay cả các di tích văn hoá phi vật thể thì cũng chỉ có Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 9
  10. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam một số loại hình có thể đưa đi phục vụ ở những nơi khác như ca múa nhạc dân tộc, trò chơi dân gian Tuy nhiên, ngay cả những loại hình này cũng thực sự phát huy hết giá trị của chúng ngay ở trên que hương sản sinh ra chúng. -Tài nguyên du lịch có khả năng khai thác quanh năm, có những loại ít lệ thuộc váo thời vụ. Sự lệ thuộc là do đặc điểm tự nhiên, khí hậu, phong tục tập quán, nghi lễ tôn giáo đặc điểm các hoạt động tạo ra tính chất mùa vụ của các hoạt động du lịch. Do vậy cần nghiên cứu các khía cạnh ưu thế của tài nguyên để hạn chế tính mùa vụ. -Tài nguyên du lịch không chỉ có giá trị hữu hình mà còn có giá trị vô hình. Bởi giá trị hữu hình tài nguyên du lịch là phương tiện vật chất trực tiếp tham gia vào việc hình thành nên các sản phẩm du lịch. Ví dụ Một số món ăn truyền thống là sản phẩm du lịch được hình thành trên cơ sở vật chất hữu hình. Giá trị vô hình được thể hiện ở chỗ du khách ngoài ăn ngon ra còn cảm nhận về tâm lí thẩm mỹ khi thưởng thức các món ăn, làm cho con người thoả mãn về tinh thần. Chính vì vậy nhiều tài nguyên càng khai thác thì giá trị càng tăng bởi sự hiểu bit van nhận thức của con người về tài nguyên đó. -Tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng có giá trị thẩm mỹ, giá trị lịch sử, tâm linh, giả trí có sức hấp dẫn với du khách chúng có thể là hữu hình nhưng cững có thể là vô hình “ Thậm chí có thể nói bất cứ một tồn tại khách quan nào trên thế giới đều có thể cấu thành tài nguyên du lịch, bất cứ không gian nào con người có thể vươn tới đều có thể có tài nguyên du lịch miễn là chúng có thể đáp ứng điều kiện phù hợp cung như các nhu cầu đa dạng cử khách. Ví dụ : Đối với loại hình du lịch tham quan, nghiên cứu phục vụ cho mục đích nâng cao các nhận thức của khách du lịch thì cần có các loại tài nguyên du lịch như lễ hội, văn hoá các tộc người, các bảo tàng, các làng nghề truyền thống, hang động các Vườn quốc gia, khu bảo tồn, các di sản thiên Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 10
  11. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam nhiên thế giới có phong cảnh đẹp Tài nguyên du lịch để phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng hoặc chữa bệnh lại là các nguồn nước khoáng, bùn chữa bệnh, các bãi biển đẹp có nhiều ánh nắng, các vùng núi có khí hậu mát mẻ trong lành van phong cảnh đẹp -Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để hình thành các sản phẩm du lịch; sản phẩm du lịch được tạo nên bởi nhiều yếu tố song trước hết là tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch càng đặc sắc, độc đáo thì giá trị của sản phẩm du lịch càng cao, càng hấp dẫn. -Tài nguyên du lịch đóng vai trò quan trọng trong tổ chức lãnh thổ du lịch, hệ thống lãnh thổ du lịch thể hiện mối quan hệ về không gian của các yếu tố cấu tạo nên nó, tài nguyên du lịch là yếu tố quyết định sự phân bổ không gian, quy mô lãnh thổ của hệ thống du lịch. -Tài nguyên du lịch có tính hấp dẫn, các học giả Trung Quốc coi đây là đặc điểm thì chúng không thể được coi là tài nguyên du lịch van chúng không còn tồn tại nếu đánh mất tính hấp dẫn. Vì vậy quá trình khai thác cần quan tâm, bảo vệ nâng cấp tài nguyên đảm bảo tài nguyên giữ được tính hấp dẫn của nó. 1.2.2.Vai trò của tài nguyên du lịch Vai trò của tài nguyên du lịch đối với các hoạt động du lịch được thể hiện cụ thể trên các mặt sau: - Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để tạo thành các sản phẩm du lịch. Trong các hệ thống lãnh thổ du lịch, tài nguyên du lịch là những phân hệ giữ vai trò quan trọng và quyết định sự phát triển du lịch của hệ thống lãnh thổ du lịch. Đặc biệt tài nguyên du lịch có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với các phân hệ khác và với môi trường kinh tế- xã hội. Do vậy tài nguyên du lịch là một nhân tố quan trọng hàng đầu để tạo nên sản phẩm du lịch. Để hấp dẫn và đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách, các sản phẩm du lịch cũng cần phải đa dạng phong phú đặc sắc, mới mẻ. Chính sự phong phú va Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 11
  12. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam đa dạng của tài nguyên du lịch đã tạo nên sự phong phú đa dạng hấp dẫn của sản phẩm du lịch. Tài nguyên du lịch càng đặc sắc độc đáo thì giá trị sản phẩm du lịch và độ hấp dẫn của du khách sẽ càng tăng. Có thể nói chất lượng của tài nguyên du lịch sẽ là yếu tố quan trọng mang tính quyết định để tạo nên quy mô số lượng, chất lượng sản phẩm du lịch và hiệu quả của hoạt động du lịch. - Tài nguyên du lịch là mục đích chuyến đi của du khách và tạo những điều kiện thuận lợi để đáp ứng các nhu cầu của họ trong chuyến đi. Hoạt động du lịch có phát triển hay không, hiệu quả kinh doanh cao hay thấp phụ thuộc vào yếu tố cầu du lịch, đặc biệt là khách du lịch. Khách du lịch nói chung đặc biệt là khách du lịch thuần tuý mục đích chuyến đi của du khách không chỉ để hưởng thụ các dịch vụ lưu trú ăn uống đi lại , mua sắm Phần lớn khách du lịch thể hiện chuyến đi du lịch để thưởng thức tìm hiểu cảm nhận các giá trị của tài nguyên du lịch, con người và kinh tế xã hội tại các điểm đến. Du khách có quyết định thực hiện chuyến đi du lịch hay không phụ thuộc vào các giá trị của tài nguyên nơi đến. Do vậy mỗi địa phương, mỗi quốc gia muốn phát triển du lịch đạt được hiệu quả cao, hấp dẫn du khách cần quan tâm đầu tư cao cho việc bảo tồn tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, công tác xúc tiến phát triển du lịch. - Tài nguyên du lịch là cơ sở quan trọng để phát triển loại hình du lịch: Trong quá trình phát triển du lịch không ngừng đáp ứng các yêu cầu và thoả mãn các mục đích của khách du lịch, các loại hình du lịch mới cũng không ngừng xuất hiện và phát triển. Các loại hình du lịch ra đời đều phải dựa trên cơ sở của tài nguyên du lịch. Hoạt động du lịch mạo hiểm được tổ chức trên cơ sở tài nguyên du lịch như: núi, các hang động, các khu rừng nguyên sinh, các vịnh trên đảo có phong cảnh đẹp du lịch nghỉ dưỡng, tắm khoáng được phát triển ở những vùng có suối khoáng, du lịch nghỉ dưỡng thường tổ chức ở những khu vực, Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 12
  13. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam miền núi cao có khí hậu mát mẻ, các bãi tắm đẹp có nhiều ánh nắng và chính sự xuất hiện của các loại hình du lịch làm cho nhiều yếu tố của tự nhiên và xã hội trở thành tài nguyên du lịch. Nếu không có các di tích lịch sử, di tích cách mạng, không có các lễ hộ truyền thống thì không thể tạo nên loại hình du lịch văn hoá được. - Tài nguyên du lịch là một bộ phận cấu thành quan trọng của tổ chức lãnh thổ du lịch trong phạm vi lãnh thổ cụ thể, mọi hoạt động du lịch đều phải phản ánh một tổ4 chức không gian du lịch nhất định. Hệ thống lãnh thổ du lịch thể hiện mối quan hệ về mặt không gian của các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau cấu tạo nên nó. Các yếu tố đó là khách du lịch, tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch đội ngũ cán bộ công nhân viên tổ chức điều hành quản lý du lịch. Hệ thống lãnh thổ du lịch có nhiều cấp phạm vi khác nhau từ điểm du lịch đến trung tâm du lịch đến tiểu vùng du lịch, á vùng du lịch. Dù ở phân vị nào thì tài nguyên du lịch cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lãnh thổ du lịch, là yếu tố cơ bản hình thành nên điểm du lịch, tạo điều kiên có thể khai thác một cách có hiệu quả nhất các tiềm năng của nó. Do điểm phân bố của tài nguyên du lịch trong tổ chức lãnh thổ du lịch đã hình thành nên các điểm, các cụm, các trung tâm du lịch và các tuyến du lịch. Từ các tuyến điểm này quá trình khai thác sẽ được lựa chọn sắp xếp thành các tour du lịch tức là sản phẩm du lịch cụ thể cung cấp cho khách du lịch. Tổ chức lãnh thổ du lịch hợp lí sẽ góp phần hiệu quả cao trong việc khai thác các tài nguyên du lịch nói riêng cũng như trong mọi hoạt động du lịch nói chung. Hiệu quả phát triển du lịch của các hệ thống lãnh thổ du lịch phụ thuộc vào rất nhiều vào tài nguyên du lịch. Vì vậy trong quá trình phát triển du lịch mỗi doanh nghiệp, địa phương và mỗi quốc gia khi tiến hành quy hoạch phát triển du lịch, xây dựng các chiến lược, chính sách phát triển du lịch cần phải Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 13
  14. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam điều tra đánh giá xác thực nguồn tài nguyên du lịch, đồng thời cần thực thi các chính sách, chiến lược giải pháp quản lí bảo vệ tôn tạo, phát triển và khai thác nguồn tài nguyên du lịch hợp lí đúng đắn và hiệu quả theo quan điểm phát triển du lịch bền vững. 1.3. Tài nguyên du lịch tự nhiên 1.3.1. Khái niệm tài nguyên du lịch tự nhiên Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất địa hình địa mạo, các thành phần tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên, các quá trình biến đổi chung hoặc có thể được khai thác và sử dụng vào đời sống sản xuất của con người. Theo khoản 1 điều 13 chương II Luật du lịch Việt nam quy định: “ Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất địa hình, địa mạo, khí hậu thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan tự nhiên đang được khai thác hoặc có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch” 1.3.2. Đặc điểm tài nguyên du lịch tự nhiên Tài nguyên du lịch tụ nhiên có các đặc điểm sau: -Nếu được quy hoạch, bảo vệ, khai thác hợp lí theo hướng bền vũng thì phần lớn các loại tài nguyên du lịch tự nhiên được xếp vào loại tài nguyên vô tận tài nguyên có khả năng tái tạo hoặc có quá trình suy thoái chậm. Ví dụ : Tài nguyên nước theo quy luật tuần hoàn nếu rừng được bảo vệ và khai thác hợp lí, tài nguyên nước không bị ô nhiễm bởi các chất thải từ đời sống cũng như sản xuất, tài nguyên nước được xếp vào loại tài nguyên vô tận. -Tài nguyên địa hình, địa chất nếu được khai thác bảo tồn hợp lí không phá vỡ cảnh quan, loại tài nguyên có thể khai thác được nhiều lần thời gian làm cho chúng tự thay đổi phải tính đến từ nghìn năm cho đến hàng triệu năm. -Hầu hết việc khai thác tài nguyên du lịch tự nhiên chịu ảnh hưởng nhiều vào điều kiện thời tiế, việc tổ chức tour leo núi, tham quan các vùng núi hay đi nghỉ biển, tham quan sông nước phụ thuộc vào rất nhiều điều kiện thời tiết. Đặc biệt không thể tổ chức các tour du lịch sông nước vào mùa lũ, không Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 14
  15. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam thể tắm biển vào mùa rét. Vào mùa khô trữ lượng nước của các thác nước hồ nước hệ thống sông cạn nước nên khó khăn cho hoạt động du lịch thể thao nước và tham quan sông nước. -Một số điểm phong cảnh và du lịch dựa vào tài nguyên thiên nhiên thường nằm xa các khu đông dân cư. Đặc điêm này một mặt gây tốn kém, khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động du lịch ,mặt khác nó là nhân tố góp phần làm cho tài nguyên du lịch tự nhiên hấp dẫn, được bảo tồn tốt hơn ít chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi các hoạt động kinh tế xã hội. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 15
  16. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam 1.3.3. Các dạng tài nguyên lịch tự nhiên Theo các căn cứ và sơ đồ phân loại tài nguyên du lịch thì có một số thành phần tự nhiên hập dẫn du khách đã, đang hoăc có thể được khai thác phục vụ cho mục đích du lịch như địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn va sinh vật. - Địa hình + Đối với hoạt động du lịch, điều quan trọng nhất là đặc điểm hình thái địa hình nghĩa là các dấu hiệu bên ngoài của địa hình và các dạng đặc biệt của địa hình có sức hấp dẫn để khai thác du lịch . + Đặc điểm hình thái của địa hình gồm :núi đồi, đồng bằng và các kiểu địa hình đặc biệt như karstơ (đá vôi) và kiểu địa hình bờ biển. + Địa hình đồng bằng khá đơn điệu nhưng có thể tác động gián tiếp đến du lịch thông qua các hoạt động nông nghiệp, văn hoá do con người tạo ra. + Địa hình đồi núi thấp với không gian thoáng đãng và bao la thích hợp với các loại hình như : Cắm trại, tham quan. Hơn nữa vùng đồi lại là nơi có những di tích khảo cổ và tài nguyên văn hoá lịch sử độc đáo, tạo khả năng phát triển loại hình du lịch như: tham quan theo chuyên đề, nghiên cứu khoa học + Địa hình núi có sức hấp dẫn hơn cả đối với du lịch, có thể phát triển các loại hình du lịch khác nhau như: leo núi, thể thao, tham quan, nghỉ dưỡng, nghỉ mát sinh thái. Thường kết hợp các loại tài nguồn tài nguyên du lịch khác như động thực vật, nguồn nước, khí hậu tạo nên nguồn tài nguyên du lịch tổng hợp có khả năng tổ chức các loại hình du lịch ngắn ngày cũng như dài ngày. + Các dạng địa hình đặc biệt gồm có địa hình karstơ là kiểu địa hình tạo nên do sự lưu thông của nước trong các đá dễ hoà tan như đá vôi, đá phấn va thạch cao gồm karstơ ngầm ( hang động), karstơ ngập nước, karstơ trên cạn. - Khí hậu + Khí hậu là thành phần quan trọng của môi trường tự nhiên đối với hoạt động du lịch. Trong các chỉ tiêu khí hậu đáng chú ý là hai chỉ tiêu: nhiệt Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 16
  17. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam độ không khí và độ ẩm. Ngoài ra còn một số yếu tố khác như: gió, lượng mưa, thành phần lý hoá của không khí áp suất của khí quyển, ánh nắng mặt trời và các hiện tượng thời tiết đặc biệt. + Để đánh giá các điều kiện khí hậu đối với hoạt động du lịch cần phải đánh giá ảnh hưởng của các điều kiện đó tới sức khoẻ con người và các loại hình du lịch. Nhìn chung những nơi có khí hậu điều hoà thường được khách du lịch ưa thích. Những cuộc thăm dò cho thấy khách du lịch thường tránh những nơi quá lạnh, quá ấm hoặc quá nóng hay quá khô. Những nơi có nhiều gió cũng không thích hợp cho sự phát triển du lịch. Mỗi loại hình du lịch đòi hỏi những khí hậu khác nhau. Ví dụ: Khách du lịch đi biển thường ưa thích những điều kiện khí hậu thuận lợi: số ngày mưa tương đối ít với thời vụ du lịch, số ngày nắng trung bình ngày cao, nhiệt đọ trung bình của không khí vào ban ngày không cao lắm, nhiệt độ nước biển điều hoà, thích hợp nhất đối với khách du lịch tắm biển là nhiệt độ nước biển 20 độC- 25độC. Khí hậu tạo nên tính mùa vụ trong du lịch + Mùa du lịch cả năm thích hợp với loại hình du lịch chữa bệnh muối khoáng du lịch trên núi cả mùa đông và mùa hè. + Mùa đông là mùa du lịch trên núi, du lịch thể thao, leo nnúi + Mùa hè là du lịch có thể phát triển nhiều loại hình du lịch: du lịch biển.du lịch trên núi,du lịch đồng bằng- nhân văn, du lịch trung du – nghiên cứu - Tài nguyên nước Tài nguyên nước bao gồm nước chảy trên mặt và nước ngầm Nguồn nước mặt bao gồm đại dương, biển, sông, suối, karstơ, thác nước.Trong tài nguyên nước phải nói đến tài nguyên nước khoáng chủ yếu là nước dưới đất có giá trị du lịch an dưỡng và chữa bệnh. Để thuận lợi cho việc Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 17
  18. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam chữa bệnh các nhà bác học đã tiến hành nghiên cứu, tiến hành phan loại nước khoáng vào mục đích chữa bệnh khác nhau. + Nhóm nước khoáng Cacbonic là nhóm nước khoáng quý có công dụng giải khát rất tốt và chữa một số bệnh như cao huyết áp, sơ vỡ động mạch nhẹ, các bệnh về hệ thần kinh ngoại biên. + Nhóm nước khoáng Silic có công hiệu đối với các loại bệnh về dường tiêu hoá, thầm kinh, phụ khoa. Ở Việt nam có hai nhà nghỉ an dưỡng sử dụng nguồn nước khoáng này ngoài ra còn nhiều nhóm nước khoáng khác với ý nghĩa du lịch chữa bệnh khác nhau. - Tài nguyên sinh vật Tài nguyên sinh vật chủ yếu phát triển du lịch sinh thái. Các chỉ tiêu đánh giá tài nguyên động thực vật phục vụ mục đích tham quan du lịch. + Thảm thực vật phong phú điển hình + Có loài đặc trưng trong khu vực, loài đặc hữu, loài quý hiếm với thế giới va trong nước. + Có một số động thực vật( thú, chim, bò sát, côn trùng ) phong phú hoặc điển hình cho vùng. + Có các loại khai thác đặc sản phục vụ nhu cầu khách du lịch. + Thực vật đoọng vật có màu sắc hấp dẫn, vui mắt, một số loài phổ biến dễ quan sát bằng mắt thường, ống nhòm hoặc tai nghe tiếng hót tiếng kêu có thể chụp ảnh được. + Đường xá (đường mòn) thuận tiện cho việc đi lại quan sát vui chơi. + Chỉ tiêu đối với săn bắn thể theo: quy định loài được săn bắn là loài phổ biến không ảnh hưởng đến số lượng quỹ gen loài đối với hoạt động(ở dưới nước, mặt đất, trên cây) nhanh nhẹn có địa hình tương đối dễ vận động, xa khu cư trú của nhân dân, cơ quan quân đội Ngoài ra khu vực dành cho săn bắn thể thao phải tương đối rộng, đảm bảo tầm bay của đạn, đảm bảo an Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 18
  19. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam toàn tuyệt đối cho khách du lịch, phải cấm dùng súng quan sự,mìn và chất nổ nghiêm trọng. + Chỉ tiêu với nghiên cứu khoa học: Nơi có hệ thực vật, động vật phong phú đa dạng Nơi còn tồn tại loài quý hiếm Nơi có thể đi lại quan sát và chụp ảnh đựoc Có quy định mẫu của cơ quan quản lý. 1.4. Tài nguyên du lịch nhân văn 1.4.1. Khái niệm tài nguyên du lịch nhân văn Theo điều 13 Luật du lịch Việt nam năm 2005 thì: “ Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hoá, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian,di tích lịch sử cách mạng, khảo cổ kiến trúc, công trình lao động sáng tạo của con người và các di tích văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể sử dụng phục vụ mục đích du lịch.” 1.4.2. Đặc điểm của tài nguyên du lịch nhân văn Tài nguyên du lịch nhân văn do con người sáng tạo ra nên có những đặc điểm rất khác biệt so với tài nguyên tự nhiên -Khách với tài nguyên du lịch tự nhiên thường là để thoả mãn các nhu cầu nghỉ dưỡng, thu giãn hay để hoà mình với tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị về nhận thức nhiều hơn giá trị về giải trí. Tài nguyên du lịch nhân văn thu hút khách có nhu cầu nhận thức, nhu cầu hiểu biêt về một số nền văn hoá hay lịch sử nào đó. -Việc tìm hiểu các đối tượng nhân tạo diễn ra trong một thời gian ngắn nó thường kéo dài một vài giờ cũng có thể một vài phút. Do vậy trong khuôn khổ một chuyến du lịch khách có thể hiểu rõ nhất nhiều đối tượng nhân tạo. Tài nguyên du lịch nhân văn thích hợp nhất đối với loại hình nhận thức theo lộ trình. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 19
  20. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam -Số người quan tâm đến tài nguyên du lịch nhân văn thường có văn hoá cao hơn, thu nhập và yêu cầu cao hơn. -Tài nguyên du lịch nhân văn thường tập trung ở các điểm quần cư va các thành phố lớn nên có thể tiếp cận dễ dàng với nguồn tài nguyên này. -Ưu thế to lớn của tài nguyên du lịch nhân văn là đại bộ phận không có tính mùa vụ, không bị phụ thuộc vào các điều kiện thời gian va các điều kiện tự nhiên khác. Vì thế tạo nên khả năng sử dụng tài nguyên nhân văn ngoài giới hạn của các mùa chính do các tài nguyên gây ra giảm nhẹ tính mùa vụ nói chung của các dòng du lịch. -Sở thích của những người tìm đến du lịch nhân văn rất phức tạp và rất khác nhau. Nó gây ra nhiều khó khăn trong việc đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn. Khác với tài nguyên du lịch tự nhiên có một số phương pháp đánh giá định lượng tài nguyên, tiêu chuẩn đánh giá tài nguyên nhân văn chủ yếu dựa vào cơ sở định tính cảm xúc và trực cảm. Việc tìm tòi tài nguyên du lịch nhân văn chịu ảnh hưởng mạnh của các nhân tố: độ tuổi, trình độ, văn hoá, hứng thú, nghề nghiệp, thành phần dân tộc, thế giới quan, vốn tri thức -Tài nguyên du lịch nhân văn ở mỗi vùng, mỗi quốc gia thường mang những giá trị đặc sắc riêng. Do điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội là những nhân tố nuôi dưỡng tạo thành tài nguyên du lịch nhân văn ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia có những giá trị riêng, góp phần tạo nên những sản phẩm du lịch độc đáo có sức cạnh tranh và hấp dẫn du khách riêng.Do vậy trong quá trình khai thác bảo tồn tài nguyên du lịch nhân văn cần coi trọng việc bảo vệ phát huy giá trị độc đáo của tài nguyên. 1.4.3. Các dạng tài nguyên du lịch nhân văn Tài nguyên du lịch nhân văn là tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo do con người sáng tạo ra. Các dạng tài nguyên du lịch nhân văn: Là những sản phẩm văn hoá được con người sáng tạo ra trong suốt quá trình phát triển lịch sử, ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia do những yếu tố hình thành, nuôi dưỡng Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 20
  21. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam rất đa dạng và phong phú. Cho đén nay dựa vào đặc tính vật chất có hình thể có thể nhìn hoặc sờ thấy được hoặc không có hình thể hay sự tồn tại hình thể liên tục các nhà nghiên cứu phân tài nguyên du lịch nhân văn thành hai loại chính là tài nguyên du lịch nhân văn vật thể và tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể. -Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể + Di sản văn hoá thế giới vật thể +Các di tích lịch sử văn hoá, danh thắng cấp quốc gia và địa phương + Các cổ vật và bảo vật quốc gia + Các công trình đương đại Tài nguyên nhân văn vật thể thực chất là những di sản văn hoá, hấp dẫn du khách có thể bảo tồn khai thác vào mục đích phát triển du lịch, mang lại hiệu quả về kinh tế xã hội và môi trường. Theo Luật di sản văn hoá việt nam năm 2003: “ Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử- văn hoá, khoa học bao gồm các di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.” -Tài nguyên nhân văn phi vật thể Tài nguyên nhân văn phi vật thể là di sản văn hoá phi vật thể có giá trị hấp dẫn du khách, có thể bảo tồn, khai thác phục vụ mục đích du lịch mang hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường. Theo Luật di sản văn hoá của Việt nam năm 2003 : “ Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử- văn hoá, khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết được lưu truyền miệng, truyền nghề, trình diễn va các hình thức lưu truyền khác bao gồm: tiếng nói chữ viết, tác phẩm văn học nghệ thuật, kho học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống,lễ hội, bí quyết nghề thủ công truyền thống, tri thức về y dược cổ truyền, văn hoá ẩm thực, trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gián.” Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 21
  22. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Như vậy tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể gồm các dạng tài nguyên dưới đây: + Di sản văn hoá thế giới truyền miệng và phi vật thể + Các lễ hội truyền thống +Nghề và làng nghề thủ công truyền thống + Văn hoá truyền thống +Văn hoá ẩm thực + Văn hoá ứng xử phong tục tập quán + Thơ ca, văn học + Văn hoá các tộc người + Các phát minh sáng kiến khoa học Các hoạt động văn hoá thể thao, kinh tế xã hội có tính sự kiện -Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể Di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh của mỗi dân tộc mỗi quốc gia được phân thành các dạng sau: Di tích khảo cổ, di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật, các danh lam thắng cảnh các công trình đương đại + Loại hình di tích văn hoá khảo cổ: Các di tích khảo cổ là những di tích văn hoá lịch sử bị vùi lấp trong lòng đất hoặc hiển diện trên mặt đất, được phát hiện khi các nhà khoa học hoặc các cá nhân nghiên cứu khai quật thấy. Là những ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hoá thuộc về thời kì lịch sử xã hội loài người chưa có văn tự vào thời gian nào đó trong lịch sử cổ đại. Đa số các di tích lịch sử văn hoá khảo cổ nằm sâu trong lòng đất cũng có trường hợp tồn tại trên mặt đất. Các di tích khảo cổ còn được gọi là các di chỉ khảo cổ. Các di tích khảo cổ thường bao gồm các loại: di chỉ cư trú, di chỉ mộ táng, những công trình kiến trúc cổ, những đô thị cổ, những tàu thuyền đắm. Các di chỉ cư trú thường tìm thấy trong hang động, các thềm sông cổ, các bãi hoặc sườn đồi gần các hồ nước hoặc bầu nước, một số đảo gần bờ. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 22
  23. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam + Các di tích lịch sử Các di tích lịch sử là những địa điểm, những công trình kỉ niệm, những vật kỉ niệm, những kỉ vật ghi dấu những sự kiện lịch sử, những cuộc chiến đấu, những danh nhân, anh hùng dân tộc của thời kỳ nào đó trong quá trình lịch sử của mỗi địa phương mỗi quốc gia. Báo cáo tóm tắt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch việt nam thời kì 1995- 2010 của tổng cục du lịch Việt nam ghi rõ: “ Những di tích lịch sử là một bộ phận không thể tách rời của di sản quốc gia, chúng bao gồm tất cả các danh thăng cảnh, công trình kỷ niệm hoặc kỷ vật thuộc về một thời kỳ nào đó của lịch sử đất nước và đem lại lợi ích quốc gia về phương diện lịch sử, nghệ thuật và khảo cổ.” Các di tích lịch sử thường bao gồm: Di tích ghi dấu về dân tộc hộc, di tích ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng tiêu biểu, có ý nghĩa quyết định cho việc xây dựng, phát triển bảo vệ của một đất nước, một địa phương di tích ghi dấu chiến công chống xâm lược, di tích ghi dấu cuộc đời sự nghiệp của các danh nhân, cac vị anh hùng dân tộc, di tích ghi dấu kết quả lao động sáng tạo vinh quang của quốc gia, dân tộc ghi dấu tội ác của thực dân, đế quốc + Các di tích kiến trúc nghệ thuật Các di tích kiến trúc nghệ thuật bao gồm các công trình kiến trúc có giá tri cao về kĩ thuật xây dựng cũng như mỹ thuật trang trí hoặc các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, các bức bích hoạ, các công trình kiến trúc, ngoài ra trong các di tích này còn chứa đựng nhiều cổ vật bảo vật quốc gia, vật kỉ niệm và những giá trị văn hoá phi vật thể như truyền thống văn hoá,truyền thuyết, các giá trị lịch sử, tâm linh, tôn giáo Các di tích kiến trúc nghệ thuật bao gồm: Chùa, đình, đền, miếu, các toà thàng, lăng mộ, các tháp, nhà cổ, các tác phẩm điêu khắc hội hoạ nổi tiếng nhà thờ bia ký + Các danh lam thắng cảnh Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 23
  24. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Theo luật Di sản văn hoá việt nam năm 2003 : : Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học + Các công trình đương đại Là nhưũng công trình kiến trúc được xây dựng trong thời kỳ hiện đại, có giá trị kiến trúc về mỹ thuật, khoa học kĩ thuật xây dựng, kinh tế văn hoá thể thao hấp dẫn du khách có thể là đối tượng tham quan nghiên cứu, vui chơi giải trí, chụp ảnh kỷ niệm hấp dẫn thu hút khách du lịch Các công trình đương đại bao gồm: hệ thống các bảo tàng, các sân vận động quốc gia, các trung tâm hội nghị, hội thảo, các toà nhà, các công trình giao thồng, thông tin liên lạc có giá trị về nhiều mặt hấp dẫn du khách. -.Tài nguyên du lịch phi vật thể +Di sản văn hoá truyền miệng và phi vật thể của nhân loại Năm 1989 tại phiên họp Đại hội đồng UNESCO đã đưa ra hai chính sách: Công nhân danh hiệu cho một sản phẩm văn hoá phi vậ thể, danh hiệu ấy gọi là Kiệt tác di sản văn hoá truyền miệng van phi vật thể của nhân loại. Di sản văn hoá phi vật thể và truyền miệng luôn luôn được gĩư gìn trình diễn, bổ sung truyền lại cho lớp trẻ thông qua trí nhớ và tài năng của nghệ nhân +Các lễ hội Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá tập thể của nhân dân sau thời gian lao động vất vả. Lễ hội là dịp để mọi người thể hiện lòng nhớ ơn tổ tiên, những người có công với địa phương, với đất nước, có liên quan đến nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng. Ôn lại những giá trị văn hoá nghệ thuật truyền thống hoặc hướng về một sự kiện lich sử- văn hoá, kinh tế của địa phương của đất nước hoặc là những hộat động vui chơi giải trí, là dịp để tăng thêm tinh thần đoàn kết cộng đồng. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 24
  25. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Như vậy lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hoá truyền thống có sức lôi cuốn đông đảo người tham gia và trở thành như cầu trong đời sống tâm linh của nhân dân và là tài nguyên du lịch hấp dẫn du khách. - Các lễ hội thường bao gồm 2 phần: phần lễ và phần hội Phần lễ được tổ chức để tưởng niệm về một sự kiện lịch sử trọng đại, tưởng niệm tôn vinh những danh nhân, các vị anh hùng dân tộc. + Phần nghi lễ trong lễ hội có ý nghĩa thiêng liêng chứa đựng những giá trị văn hoá truyền thống, giá trị thẩm mỹ và tư duy triết học của cộng đồng. +Phần hội: Thường tổ chức các trò chơi dân gian, biểu diễn văn hoá nghệ thuật , yếu tố nuôi dưỡng lễ hội là kinh tế- xã hội và tự nhiên nên nội dung của phần hội không chỉ giữ nguyên những giá trị văn hoá truyền thống mà luôn có xu hướng bổ sung thêm những thành tố văn hoá mới. + Thời gian tổ chức lễ hội : Các lễ hội thường được tổ chức nhiều vào sau mùa vụ sản xuất, mùa mà thời tiết phong cảnh đẹp là mùa xuân và mùa thu. Các giá trị văn hoá lịch sử của lễ hội là nguồn tài nguyên du lịch quý giá để tổ chức triển khai các loại hình du lịch tham quan, nghiên cứu chuyên đề lễ hội hoặc kết hợp với các loại hình hu lịch tham quan nghiên cứu , mua sắm +Nghề và làng nghề thủ công truyền thống Nghề thủ công truyền thống là những nghề mà bí quyết về công nghệ sản xuất ra các sản phẩm mang những giá trị thẩm mỹ, tư tưởng triết học, tâm tư tình cảm ước vọng của con người. Nghề thủ công truyền thống là nghề sản xuất mà các nghệ thuật( hay còn gọi là bí quyết nghề nghiệp) do những nghệ nhân dân gian sáng tạo, gìn giữ phát triển va truyền từ đời này sang đời khác cho những người cùng huyết thống hoặc ở cùng làng bản. Chính vì vậy, nghệ thuật sản xuất hàng thủ công cổ truyền và các làng nghề thủ công truyền thống là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn quý giá hấp Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 25
  26. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam dẫn du khách nhất là du khách quốc tế đến từ các quốc gia công nghiệp phát triển, nơi mà nghề và làng nghề thủ công truyền thống đã bị mai một nhiều. +Văn hoá nghệ thuật Trong quá trình phát triển ở mỗi quốc gia, các nghệ nhân dân gian cùng với nhân dân đã sáng tạo, nuôi dưỡng, bảo tồn được nhiều làn điệu dân ca, điệu múa, bản nhạc, các loại nhạc cụ, các loại hình biểu diễn nghệ thuật nói chung Những giá trị văn hoá nghệ thuật là những món ăn tinh thần của nhân dân thể hiện giá trị thẩm mỹ, truyền thống và bản sắc văn hoá, tâm tư tình cảm ước vọng của con người. Nhìn chung các giá trị văn hoá nghệ thuật đặc sắc là những kiệt tác di sản văn hoá phi vật thể và truyền miệng thế giới, không ngừng góp phần tạo ra sự đa dạng về sản phẩm du lịch, mà có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách. Bởi vi, tài nguyên du lịch văn hoá nghệ thuật vừa mang lại cho du khách sự thư gian, vui vẻ, nâng cao đời sống tinh thần làm lãng quên bao vất vả thường nhật, vừa mang lại sự nhận thức, cảm nhận cái đẹp giúp cho du khách tận dụng thời gian rảnh rỗi. +Văn hoá ẩm thực Mỗi một vùng đất, mỗi một quốc gia có điều kiện tự nhiên, đặc điểm lịch sử phát triển kinh tế xã hội, văn hoá riêng nên cũng có nhiều món ăn, đồ uống đặc sản riêng. Nghệ thuật ẩm thực là giá trị văn hoá của mỗi quốc gia được sáng tạo, bảo tồn, bồi đắp qua nhiều thời đại, là dấu ấn của mỗi vùng đất đối với du khách. Khi đi du lịch, du khách không chỉ mong muốn được đáp ứng nhu cầu đi lại lưu trú, mua sắm, chiêm ngưỡng nâng cao nhận thức về các loại tài nguyên mà họ còn mong muốn được thưởng thức các món ăn, đồ uống đặc sắc của những địa phương, nâng cao nhận thức giá trị nghệ thuật ẩm thực của những quốc gia khác nhau. 1.5. Mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch với hoạt đông du lịch Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 26
  27. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Nói về tài nguyên thì có thể thấy tài nguyên bao gồm tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Hai loại tài nguyên này được coi là tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn du khách. Tài nguyên du lịch tự nhiên hấp dẫn khách bởi sự độc đáo hoang sơ của nó còn tài nguyên du lịch nhân văn lại hấp dẫn thu hút khách bởi sự phong phú đa dạng độc đáo và tính truyền thống tính địa phương của nó. Các tài nguyên ( tự nhiên và nhân văn) là cơ sở tạo nên loại hình du lịch nghỉ dưỡng, tham quan, nghiên cứu Mặt khác do nhận thức văn hoá là yếu tố thúc đẩy động cơ đi du lịch của khách. Như vậy tài nguyên du lịch vừa là yếu tố cung vừa là yếu tố cầu của hệ thống du lịch. Tài nguyên du lịch còn là yếu tố tác động không nhỏ đến tính thời vụ, tính nhịp điệu trong hoạt động du lịch. Mối quan hệ tương tác giữa hoạt động du lịch với tài nguyên du lịch -Hoạt động du lịch tác động đến tài nguyên du lịch nước ta ở cả hai mặt: tích cực va tiêu cực + Tác động tích cực: Tạo ra hiệu quả tốt đối với việc tiến hành nghiên cứu, xếp hạng tôn vinh giá trị của tài nguyên. Nghiên cứu đánh giá, sử dụng hợp lý, bảo tồn phục hồi tài nguyên môi trường, tạo tài nguyên du lịch mới sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế trực tiếp và gián tiếp nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng, thúc đẩy kinh tế- xã hội ở các quốc gia và các địa phương. +Tác động tiêu cực: Gây nên sự lãng phí, tiêu tốn suy kiệt tài nguyên, suy thoái môi trường, suy giảm chất lượng cuộc sống cộng đồng, suy giảm những ngành sản xuất truyền thống, gây dịch bệnh tệ nạn xã hội Như vậy tài nguyên du lịch và hoạt động du lịch có mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau. Muốn phát triển du lịch đựơc phải có tài nguyên, du lịch phát triển góp phần vào việc bảo tồn, phát triển tài nguyên, tài nguyên phát triển tài nguyên, tu bổ giữ gìn những giá trị đích thực của tài nguyên.Có bảo vệ được những giá trị của tài nguyên thì hoạt động du lịch mới phát triển thu Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 27
  28. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam hút được nhiếu khách lá tăng doanh thu từ hoạt đông du lịch ngược lại hoạt động du lịch nhằm bảo vệ các giá trị của tài nguyên. 1.6. Một số kinh nghiệm khai thác tài nguyên du lịch ở một số trọng điểm du lịch ở nƣớc ta Tại Ninh Bình Ninh Bình là tỉnh có tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú. Địa danh này nằm ở vị trí cửa ngõ cực nam của tam giác châu thổ sông hồng và miền bắc,nơi có nhiều danh lam thắng cảnh gắn với vùng đất kinh đô của Việt nam thế kỷ X với nhiều di tích lịch sử. Trong quy hoạch phát triển vùng kinh tế duyên hải Bắc bộ, Ninh Bình được ưu tiên phát triển thành một trung tâm du lịch, tỉnh phấn đấu trở thành thành phố du lịch. Tiềm năng phát triển du lịch của Ninh Bình: Ninh Bình cùng với Hạ long là 2 đỉnh cạnh đáy của tam giác châu thổ sông Hồng, với địa hình Karstơ được biến đổi địa chất theo thời gian và phù sa bồi đắp tạo cho Ninh Bình một “ Hạ long trên cạn” với vô số các hang động, đầm hồ, núi ngập nước có giá trị phát triển du lịch. Ninh Bình hội tụ đầy đủ các yếu tố của một Việt nam thu nhỏ: có rừng, núi, sông, biển với các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển thế giới, khu du lịch quốc gia. Ninh Bình là mảnh đất giàu tiềm năng du lịch văn hoá vì đây từng là kinh đô của Việt nam ở thế kỷ X nơi phát tích 3 triều đại Đinh-Lê- Lý, mà bằng chứng để lại là hàng loạt các đền chùa, đình đài, di tích lịch sử. Trong khánh chiến chống ngoại xâm nơi đây có phòng tuyến Tam Điệp, chiến khu Quỳnh Lưu hành cung Vũ lam thời Trần và là địa bàn trọng yếu của chiến dịch Hà Nam Ninh lịch sử. Ngoài ra Ninh Bình còn có lợi thế về địa lý: Cửa ngõ miền bắc, nằm trên hệ thống giao thông xuyên việt, với nhiều dự án cao tốc được triển khai. Sự phát triển du lịch Ninh Bình nằm trong tổng thể du lịch của Việt nam đã hình thành một tứ giác tăng trưởng du lịch: Hà nội- Hải phòng- Quảng ninh- Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 28
  29. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Ninh bình, qua quốc lộ 1A quốc lộ 10 va các sân bay Cát Bi, Nội Bài, hệ thống cảng biển cảng sông. Thủ đô Hà Nội là một trong những đầu mmòi du lịch Việt Nam . Ninh Bình có ưu thế rõ rệt về không gian và thời gian của vùng phụ cận Hà nội nên không bị tính mùa vụ trong du lịch chi phối. Sức ép đô thị mạnh mẽ của Hà nội và các tỉnh châu thổ sông Hồng cũng tạo co Ninh Bình một lợi thế to lớn phát triển du lịch cuối tuần. Theo thống kê năm 2008 Ninh Bình đón được 1.900.888 lượt khách đạt 108,62% kế hoạch năm, tăng 25,18% so với năm 2007. Trong đó có 584.400 lượt khách quốc tế. Năm 2009, Ninh bình đã đón gần 2.390.000 triệu lượt khách du lịch tăng 26% so với cùng kỳ năm 2008 trong đó khách quốc tế có gần 602.000 lượt( trong khi Việt Nam đón được3.400.088 lượt khách quốc tế). Doanh thu từ du lịch đạt gần 253 tỷ đồng tăng 55,8% so với cùng kỳ năm 2008. Tuy nhiên kinh tế du lịch Ninh Bình vẫn còn yếu kém: Tỷ lệ lưu trú thấp; hoạt động du lịch chủ yếu vẫn là khai thác thiên nhiên; Cơ sở hạ tầng hạn chế, công tác tuyên truyền, quảng bà, quản lý còn yếu kém Được tính xác định là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn(định hướng thu nhập du lịch thuần tuý >10%). Trong những năm gần đây, ngành du lịch Ninh Bình đang khai thác hiệu quả những tiềm nang, thế mạnh góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của toàn tỉnh. Qua ví dụ về tỉnh Ninh Bình cho ta thấy một số bài học kinh nghiệm khai thác tài nguyên du lịch rút ra ở đây là đó là : việc khai thác đi đôi với bảo vệ, đầu tư , chỉ có khai thác mà không bảo tồn gìn giữ sẽ là giảm đi sức hấp dẫn của các diểm du lịch và là bào mòn các giá trị vốn có của tài nguyên -Bài học kinh nghiệm vế cách tổ chức, quản lý đường lối, chính sách phát triển du lịch đúng đắn của nhà nước và chính quyền địa phương vào hoạt động du lịch . Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 29
  30. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam -Bái học kinh nghiệm về đầu tư xây dưng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng đặc biệt là đầu tư xây dưng thêm các cơ sở lưu trú phục vu cho du lịch. -Bài học kinh nghiệm về công tác xúc tiến tuyên truyền, quảng bá hình ảnh nâng cao sức hấp dẫn cho các điểm du lịch thu hút được nhiều khách du lịch đến với tỉnh làm tăng thêm nguồn thu lớn cho tỉnh nói chung và cho đất nước nói riêng. Vì vậy công tác quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, hạ tầng là việc làm quan trọng và cần thiết không chỉ đối với Ninh Bình mà còn cần thiết, quan trọng đối với cả huyện Kim Bảng tỉnh Hà nam và các huyện của tỉnh khác. CHƢƠNG II: HIỆN TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LICH CỦA HUYỆN KIM BẢNG 2.1. Giới thiệu khái quát về huyện Kim Bảng 2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lí Kim Bảng là huyện bán sơn địa có 7/19 xã miền núi trong huyện có hai thị trấn đó là thị trần Quế và thị trấn Ba Sao. Là huyện nằm ở phái tây bác của tỉnh Hà Nội và thuộc khu vực châu thổ sông Hồng. Vị trí địa lí ở vào khoảng 200 35’ vĩ độ bắc, 1050 60’ kinh độ đông, cách Hà Nội khoảng 60km. Phía tây bắc giáp huyện Ứng Hoà, Mỹ Đức Hà Nội , phía tây giáp huyện Lạc Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 30
  31. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Thuỷ tỉnh Hoà Bình, phía đông giáp huyện Duy Tiên và thành phố phủ lý, phía nam giáp Thanh Liêm gần trục quốc lộ 1A, 21A, 21B, 38B. Diện tích đất tự nhiên 198.3 km2, điểm dài nhất là 18.7km, điểm rộng nhất là 24,2km. Dân số Kim Bảng năm 2008 có 134,2 nghìn người va 35.586 hộ, mật độ dân số trung bình là 718 người/ km2, tỷ lệ tăng dân số hàng năm là 1,12%. Về cơ cấu giới tính nữ còn chiếm tỷ trọng cao do hậu quả của chiến tranh lâu dài, nay trong thời kỳ hoà bình đang có xu hướng chuyển đổi để cân bằng về cơ cấu giới tính của toàn huyện. 2.1.1.2. Đặc điểm địa hình Kim Bảng là huyện có quy mô diện tích lớn nhất trong 5 huyện, thị của tỉnh Hà Nam. Do nằm trong vùng chuyển tiếp giữa vùng trũng của đồng bằng sông Hồng .DoKim Bảng nằm trong vùng tiếp xúc giữa vùng trũng đồng bằng sông Hồng và dải đá trầm tích ở phía tây nên có địa hình đa dạng. Phía bắc sông Đáy là đồng bằng thấp với các dạng địa hình ô trũng, phía Nam sông Đáy là vùng đồi núi có địa hình cao, tập trung nhiều đá vôi, sét. Địa hình gồm có vùng núi, đồi thấp và đồng bằng; trong đó đồi và núi chiếm 37% diện tích còn lại là đồng bằng chiếm 63% diện tích toàn huyện. Tổng diện tích đất của huyện là 18.487,2 ha trong đó đất nông nghiệp chiếm 42,3%, đất lâm nghiệp 32%, đất chuyên dùng 12,5%, đất khu dân cư 3,3% và đất chưa sử dụng 9,8% vùng đồng bằng có đất phù sa được bồi va đất phù sa không được bồi, đất phù sa gley Kim Bảng được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho nguồn tài nguyên khoáng sản giàu có vào loại hàng đầu của tỉnh Hà Nam. Huyện Kim Bảng có những mỏ đá vôi như: Bút Sơn với trữ lượng 62 triệu tấn, mỏ sét Khả Phong 2,3 triệu m3, mỏ sét Ba Sao 5 triệu m3, mỏ than bùn Tam Chúc khoảng hơn 10 triệu m3 Tạo nguyên liệu cho sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng tại chỗ. Địa hình Kim Bảng rất đa dạng có vùng đồi núi, nửa đồi núi và vùng chiêm trũng. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 31
  32. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Trên các dãy núi đá vôi chạy dọc phía hữu ngạn sông Đáy có nhiều hang động đẹp như: Ngũ Động Sơn, Hang Dơi, Hang Vac Ba Sao Dãy Bát Cảnh Sơn bao gồm 8 quả núi nằm ở xã Tượng Lĩnh, là một cảnh đẹp đã được sách “ Lịch triều hiến chương loại chí” ca ngợi, dãy núi đá vôi với hàng tỷ m3, là kho tài nguyên quý giá của huyệnva ngành sản xuất vật liệu xây dựng Kim Bảng. Những dãy núi còn có nhiều đá quý vân mây, đá màu da báo ở Thanh Sơn, đá trắng ở Liên Sơn. Bên cạnh các hang động đẹp Kim Bảng còn có hệ thống các hồ Tiền Lục Nhạc- Hậu Thất Tinh ( còn gọi là hồ Tam Chúc), Thung Vạc Tất cả những hang động này đã trở thành cụm di tích trong quần thể du lịch chung của huyện Kim Bảng và của tỉnh Hà Nam. Vùng đồng bằng phía đông và phía bắc huyện nằm phía tả ngạn sông Đáy có địa hình bằng phẳng, độ cao chênh lệch nhau trong từng cánh đồng, tạo thành nhiều khu ngập nước. Vùng tả ngạn sông Đáy là một vùng đồng bằng rộng lớn, chủ yếu là đất phù sa trẻ độ phì cao thuộc 13/19 xã, thị trấn của huyện. Bên cạnh vùng tả ngạn ngăn cách bởi con sông Đáy là vùng hữu ngạn, đây là vùng bán sơn địa có những cánh đồng lớn nhỏ khác nhau nhưng chủ yếu là đất rừng rộng lớn 7.400 ha. Đất ở đây chủ yếu là đất nâu vàng trên phù sa cổ, đất đỏ vàng trên đá phiến sét. Đất thấp lượn sóng, độ cao 15-80m, độ dốc nhỏ từ 10- 15 độ. Hình thành hệ sinh thái đồi và vườn đồi thích hợp cho chế độ canh tác nông – lâm nghiệp kết hợp với các cây trồng như cây ăn quả, cây thuốc, cây công nghiệp kết hợp với chăn nuôi đại gia súc. Đây là kho tiền vàng quý giá của huyên Kim Bảng. Hiện nay huyện đã tiến hanh khai thác đi đôi với việc bảo vệ rừng đồi này để phát triển kinh tế. Trong tương lai cả vùng hữu ngạn sẽ là nơi phân bổ lao động của vùng đồng bằng vào khai thác đât hoang hoá. Nơi đây sẽ là vùng trù phú và sầm uất của huyện. 2.1.1.3. Khí hậu Khí hậu thuỷ văn của huyện Kim Bảng mang đặc điểm chung của khu vực đồng bằng sông Hồng: Chủ yếu là chế độ nhiệt đới gió mùa có mùa động Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 32
  33. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam lạnh nhiệt độ trung bình năm dao động từ 230 C – 240 C , mùa đông nhiệt độ trung bình là 19 độC, tháng giêng và tháng 2 là tháng lạnh nhất có năm nhiệt độ xuống thấp chỉ vào khoảng 60 C đến 80 C. Mùa hạ nóng ẩm, nhiệt độ trung bình là từ 27 độC, nóng nhất vào tháng 6 và tháng 7 nhiệt độ có khi lên cao nhất tới 36-380 C. Nắng cả năm có tổng số trung bình giờ nắng là: 1276 giờ, số giờ nắng phụ thuộc theo mùa. Các tháng hè số giờ nắng nhiều, cao nhất là vào các tháng 5,6,7 và tháng 10. Ngược lại vào mùa đông thì trời lại âm u, độ ẩm trong không khí cao có tháng chỉ có tới 17-18 giờ nắng ( Tháng 2/1997) còn trung bình chiếm 28% số giờ nắng trong năm. Độ ẩm giữa các tháng có sự chênh lệch nhau không lớn lám, giữa tháng khô nhất và tháng ẩm nhất độ ẩm chỉ chêng nhau 12%. Các tháng hanh khô là từ tháng 10,11 và tháng 6, độ ẩm trung bình tối đa là 92% và tối thiểu là 80%, đây là độ ẩm đặc trưng cho khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Lượng mưa trung bình trong năm là 1800- 2200mm trong đó thấp nhất là 1300mm và cao nhất là 4000mm. Năm mưa nhiều nhất là 2400mm,năm mưa ít nhất là 1200mm, được chia làm hai mùa đó là mùa khô và mùa mưa. -Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 lượng mưa chiếm 85% có năm đến 90% lượng mưa cả năm. Có những năm cá biệt, mùa mưa kết thúc muộn kéo dài sang tháng 11 vẫn còn mưa lớn và chiếm tới 20% lượng mưa cả năm. Mưa nhiều nhất vào tháng 7,8,9 mưa nhiều tập trung gây lụt nhất khi mưa kết hợp với bão làm nước lũ lên cao. -Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 của năm trước đến tháng 4 của năm sau, lượng mưa thời gian này chiếm 29% lượng mưa của cả năm. Mưa ít nhất là vào tháng chạp, tháng giêng, tháng 2, có tháng không có trận mưa nào. Cũng có năm mưa muộn gây ảnh hưởng đến việc gieo trồng vụ đông hoặc mưa sớm gây trở ngại cho thu hoạch vụ chiêm xuân. Gió thay đổi theo mùa, tốc độ trung bình từ 2 đến 2,3 m/s. Mùa đông chủ yếu là gió mùa đông bắc với tần suất từ 60-70%. Tốc độ trung bình là từ Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 33
  34. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam 2-2,6m/s lớn hơn cả mùa hạ, cuối đông gió chuyển hướng sang hướng Đông. Những ngày đầu có gió mùa đông bắc thường ở cấp 4, cấp 5. Mùa hạ hướng gió hình thành là hướng Đông Nam có tần suất từ 50-70% tốc độ gió là 1,9- 2,2 m/s khi có bão tốc độ gió cực đại đạt gần 40m/m. Đầu mùa hạ thường xuất hiện gió Tây Nam, phơn tây nam khô và nóng. Với khí hậu như trên của huyện phù hợp để phát triển một số loại hình du lịch nghỉ dưỡng 2.1.1.4. Sông ngòi Hệ thống sông ngòi của huyện nay chỉ có 2 con sông lớn chảy qua địa phận huyện đó là sông Đáy và sông Nhuệ, Sông Đáy là một nhánh của sông Hồng chảy qua địa phận tỉnh Hà Tây ( nay là Hà Nội ) xuống Hà Nam, Ninh Bình rồi đổ ra cửa Đáy. Sông chảy xuyên qua 10 xã của huyện với chiều dài là gần 18km và cắt huyện ra làm hai phần, được gọi là tả ngạn và hữu ngạn sông Đáy. Sông Đáy chảy theo hướng tây bắc đông nam có chiều rộng là khoảng từ 100-120m. Sông Đáy hiện đang là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho toàn huyện Kim Bảng và thị xã Phủ Lý, ngoài ra, nó còn cung cấp một lượng nước đáng kể cho sản xuất nông nghiệp và các hoạt động công nghiệp. Sông Nhuệ chảy ở phía đông huyện qua hai xã Hoàng Tây và Nhật Tựu, với chiều dài là 10km, chiều rộng trung bình của sông là 80-100m, sông Nhuệ chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, chủ yếu cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp của hai xã. Do sông Đáy chảy xuyên qua địa phận huyện, có độ sâu tương đối, lại kéo dài từ Hà Tây xuống Ninh Bình, nên giao thông đường thuỷ khá tốt, thuận lợi cho thuyền bè qua lại. Nhiều xã ở Kim Bảng đã khai thác được nguồn nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt như Nhật Tân, Nhật Tựu, Văn Xá, Đồng hoá Ngoài ra Kim Bảng còn có nguồn nước mặt sông Đáy rất dồi dào, đủ phục vụ cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp, đời sống dân sinh, đáp ứng yêu cầu phát triển của huyện những năm tới. Đồng thời hệ thống sông ngòi của huyện hiện nay có thể Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 34
  35. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam phát triển một số loại hình du lịch trên sông như loại hình du lịch sinh thái trên sông 2.1.1.5. Sinh Vật Sinh vật của Kim Bảng tương đối đa dạng, tập trung và có giá trị nhất đối với hoạt động du lịch, cũng như việc phục vụ cho hoạt động lâm nghiệp. Đó là diện tích rừng trong núi chạy theo hình cánh cung tạo thành một bức tường thành án ngữ ở phía tây của huyện. Diện tích rừng hiện nay của huyện là vào khoảng 7.400 ha ( 6431 ha rừng tự nhiên và 969 ha rừng trồng ), với nhiều loại sinh vật có giá trị, trong đó thực vật, động vật là vào khoảng 903 loài bao gồm cả thực vật bậc cao và thực vật bậc thấp thuộc 594 chi và 217 họ, trong đó có nhiều loài cây có giá trị: Lim , sến, tau, gụ, mật, chò chỉ Các loài cây thuốc như: Tam thất, mã tiên, cam thảo ngoài ra còn có các loài cây ăn quả khác có giá trị cao: Vải, nhãn. Đây không chỉ là lá phổi mà còn là kho vàng tiền của huyện. Rừng Kim Bảng là rừng nhiệt đới ẩm gió mùa, thảm thực vật phát triển quanh năm và là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật. Tuy nhiên hiện nay do tình trạng khai thác lâm nghiệp không có quy hoạch nên diện tích rừng đã giảm nhiều so với những năm của thập kỷ 70-80, khi đó diện tích rừng Kim Bảng vào khoảng 9000-11.000 ha cùng với rừng Hoà Bình tạo thành một lá phổi xanh rất lớn. Theo thống kê của phòng tự nhiên và môi trường huyện Kim Bảng thì hiện nay hệ động vật trong rừng Kim Bảng chỉ còn lại rất ít đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Động vật với 19 loài thú, 38 loài chim, 23 loài bò sát, 6 loài ếch nhái, 18 loài cá, 17 loài côn trùng, ngoài ra còn một số loài sinh vật khác. Thảm thực vật ngoài các giá trị kinh tế và tác động phòng hộ giữ đất, giữ nước là nơi trú ẩn, sinh sống của các loài động vật thì nó cũng là đối tượng tham quan hấp dẫn khách du lịch ưa thích loại hình du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu hoặc san bắn Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 35
  36. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam 2.1.2Tài nguyên du lịch nhân văn của huyện Kim Bảng 2.1.2.1. Di tích lịch sử-văn hoá và danh thắng cảnh Theo thống kê của sở văn hoá thông tin tỉnh Hà Nam thì hiện nay toàn huyện Kim Bảng có 176 di tích lịch sử các loại trong đó có 8 di tích cấp quốc gia, 8 di tích cấp tỉnh. Bảng1:Bảng các di tích xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh ( Nguồn: Phòng văn hoá thông tin huyện Kim Bảng) ST Tên di tích xếp hạng Tên di tích xếp Địa điểm di tích Địa điểm di tích T cấp Quốc gia hạng cấp tỉnh 1 Đình Cao Xã Thanh Sơn- Đền Do Lễ Xã Liên Sơn-huyện huyện Kim Bảng Kim Bảng 2 Đình Phương Thượng Xã Lê Hồ-huyện Đình Lạc Nhuế Xã Đồng Hoá- Kim Bảng huyện Kim Bảng 3 Đình Phương Lâm Xã Đồng Hoá- Văn Chỉ Đồng Lạc Xã Đồng Hoá- huyện Kim Bảng huyện Kim Bảng 4 Chùa Bà Đanh Xã Ngọc Sơn-huyện Đình Khuê Khẩu Xã Kim Bình- Kim Bảng huyện Kim Bảng 5 Chùa Quế Lâm Thị Trấn Quế-huyện Đình Thuỵ Sơn Xã Tân Sơn-huyện Kim Bảng Kim Bảng 6 Đền Ba Dân Xã Tân Sơn-huyện Đình Hồi Trung Xã Thuỵ Lôi- Kim Bảng huyện Kim Bảng 7 Đình Nhật Tân Xã Nhật Tân-huyện Đình Phù Lưu Xã Nguyễn Uý- Kim Bảng huyện Kim Bảng 8 Đền Trúc Xã Thi Sơn-huyện Đình Yên Phụ Xã Nhật Tựu- Kim Bảng huyện Kim Bảng Do có nhiều hạn chế trong việc thu thập tài liệu và giới hạn của một bài khoá luận nên ở đây em xin giới thiệu một vài di tích tiêu biểu có giá trị đối với du lịch của huyện, của tỉnh. - Khu danh thắng Bát Cảnh Sơn - Khu danh thắng Núi Ngọc- Chùa Bà Đanh - Khu danh thắng Đền Trúc- Ngũ Động Sơn - Đền Ba Dân - Chùa Quế Lâm Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 36
  37. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam -Hang Luồn-Ao Dong - Hồ Tam Chúc - Quần thể di tích thắng cảnh Bát Cánh Sơn Quần thể di tích thắng cảnh Bát Cảnh Sơn nằm ở xã Tượng Lĩnh huyện Kim Bảng- Hà Nam. Từ thành phố Phủ Lý, theo quốc lộ 22 đi 13km là đến quần thể danh thắng Bát Cảnh Sơn ( hoặc có thể đi từ Đồng Văn theo quốc lộ 60). Xã Tượng Lĩnh được thiên nhiên ưu đãi với địa hình tự nhiên có nhiều tiềm năng phong phú. Dãy Bát Cảnh Sơn đứng bên tả ngạn sông Đáy, dựa lưng vào vòng cung Nam Công ( Kim Bảng- Hà Nam) và Tuyết Sơn, Hương Tích- Hà Tây tạo thành thế núi hình sông kỳ thú. Xét tổng thể ở phạm vi rộng thì Bát Cảnh Sơn là cụm du lịch của quần thể Hương Tích bởi hai thắng cảnh này rất gần nhau, tiếp giáp với nhau liền mạch trong dãy núi đá vôi Hà Nam- Hà Tây ( nay là Hà Nội). Theo vị trí địa lý hành chính Bát Cánh Sơn là “ tiểu thắng cảnh” là cửa ngõ Hương Sơn, nằm trong xã Tượng Lĩnh, nơi ngã ba của huyện Kim Bảng ( Hà Nam), Mỹ Đức, Ứng Hoà ( Hà Tây nay là Hà Nội) Từ lâu dãy Bát Cảnh Sơn ( dãy núi có tám cánh được coi là thắng cảnh của trấn Sơn Nam. Theo lịch triều hiến chương loại chí ( phần dư địa chỉ) của Phan Huy Chú thì vào thế kỉ thứ XVI Nghị Tổ Trịnh Doanh qua đây chiêm ngưỡng đã ví Bát Cảnh Sơn với Tiêu Tương bên Trung Quốc và cho lập hành cung để đi về thưởng ngoạn. Xưa kia, ở Bát Cảnh Sơn có 8 ngôi chùa và một ngôi miếu thờ đại thần linh được bài trí xây dựng theo thuyết bát quái ngũ hành. Có thể do tám ngôi chùa mà vùng đất này được đặt tên là Bát Cảnh Sơn? Ngày nay, mặc dù một vài cảnh quan đã bị huỷ hoại vì chiến tranh nhưng hàng năm khách vãn cảnh chùa Hương và khách du lịch thập phương vẫn về thăm với một số lượng Khá đông. Bát Cảnh Sơn gồm: + Đền Tiên Ông Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 37
  38. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Đền Tiên Ông (Đền Ông) được xây dựng vào đời vua Trần Nhân Tông trên lưng chừng núi Tượng Lĩnh, cao khoảng 200m giống hình con voi phủ phục ( nhân dân thường gọi là voi quỳ). Núi Tượng Lĩnh là điểm đầu tiên trong hệ thống Bát Cảnh Sơn. Đền Tiên Ông thờ Nam Thiên Đại thành Hoàng, Thành tổ Thiên Vương Bồ Tát. Sự tích tiên ông được truyền thuyết kể rằng: cha mẹ của Tiên Ông quê ở Từ Sơn ( Bắc Ninh) là quan to trong triều nhà Trần, có tới 23 thê thiếp mà vẫn chưa có con trai. Đến khi đi kinh lý ở trấn Sơn Nam, tại xã Thịnh Đại ( nay là xã Đại Cuơnh huyện Kim Bảng) thân phụ ngài lấy tới thê thiếp thứ 24 mới sinh được ngài. Ngài sinh ra đã có tướng mạo khác thường, lớn lên chỉ một lòng đèn hương thờ Phật. Ngài chu du khắp nơi tìm thầy học đạo. Vào một ngày ngài đến khu Quang Thừa ( nay là xã Tượng Lĩnh), thấy dãy Bát Cảnh Sơn hùng vĩ bèn lập một ngôi chùa dưới chân núi động Tam Giáo để thờ Phật và thờ tổ tiên, cha mẹ gọi là chùa Tam Giáo. Sinh thời ngài có rất nhiều công lao đối với nhân dân địa phương như cứu giúp kẻ nghèo khó, chữa bệnh cứu người, khi đắc đạo ngài hoá thân vào cây “Đại Nại” và dặn rằng hãy lấy cây gỗ đó để tạc tượng thờ, còn lầy đồng tạc tượng thờ thần. Dân nhớ ơn lập đền thờ tạc tượng gỗ và tượng đồng theo lời dặn của ngài. Các pho tượng rất linh thiêng trải bao lần đền bị chiến tranh giặc giã phá huỷ, pho tượng đã nhiều phen bị mang đi nhưng không ai đụng tới được. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đã mang tượng đồng ở đền thờ ngày đi đúc tiền đồng nhưng búa rìu không chạm được vào tượng, tượng chỉ đổ mồ hôi còn quân lính chạm vào tượng thì bị rìu chặt vào chính thân mình. Nguyễn Hữu Chỉnh sợ hãi khấn rằng, nếu ngài linh thiêng thì hãy cho sông Châu bên mưa bên tạnh. Quả nhiên là ứng nghiệm. Cuối cùng Nguyễn Hữu Chỉnh phải sai quân lính mang tượng trả lại về đền. Nhiều vị vua chúa như Lê Thái Tổ, Lê Dụ Tông, Trịnh Doanh, Trịnh Tùng, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huy Oánh là con cầu tự của ngài. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 38
  39. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Nhớ ơn ngài cứ đến ngày rằm tháng 6 hàng năm hai làng Thịnh Đại, Quang Thừa tổ chức lễ hội rất long trọng, khách thập phương ở nhiều nơi cũng về tham dự. + Chùa Ông Phía trước đền Tiên Ông là một hồ nước lớn hình bán nguyệt bao quanh phía bắc núi Tượng Lĩnh. Hồ có diện tích 320 mẫu có nước quanh năm, độ sâu trung bình là 4-5m. Truyền thuyết kể lại trước đây ở giữa hồ có một ngôi chùa, gọi là chùa Ông. Năm 1901 do ảnh hưởng của lũ lụt chùa bị cuốn trôi. Hiện nay hồ có nhiều loại cá to diện tích mặt nước có thể khai thác du thuyền và câu cá. + Chùa Tam Giáo Chùa được xây dựng dưới chân núi, ở đây có một suối nước chảy từ lòng núi ra, tương truyền dồng suối này mỗi ngày chảy ra hai bát gạo và hai đồng tiền đủ cho nhà sư sinh sống. Sau có kẻ tham bit chuyện đã đục cho miệng suối rộng ra từ đấy gạo, tiền không chảy ra nữa. Trong thời kỳ kháng chiến chống pháp chùa là căn cứ hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Trung ương và tỉnh , chùa từng là kho tiếp liệu của công binh xưởng liên khu III lại vừa là văn phòng thường trực liên khu III những năm 1947- 1950. Trên đường từ dền Tiên Ông đến chùa Tam Giáo trước đây có rất nhiều hang động đẹp, đến nay do biến động của thiên nhiên, do sự khai thác của con người, nhiều hang động đã bị phá huỷ. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 39
  40. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam + Chùa Kiêu, Chùa Bà, Chùa Dâu, Chùa Cả, Chùa Bông, Chùa Vân Mộng Tất cả những ngôi chùa trên từng tạo thành một quần thể vừa linh thiêng vừa là danh thắng đẹp mắt. Tiếc rằng cho đến nay 6 ngôi chùa kể trên đều không còn, chùa đã bị san bằng, có chùa chỉ còn lại nền móng. Cách chùa Tam Giáo 150m đi ngược lên đnhỉ núi là chùa Kiêu. Chùa Kiêu nằm trên đỉnh núi cao, từ đây có thể bao quát một vùng rộng lớn pvía đông nam xã Tượng Lĩnh. Hiện nay chùa chỉ còn nền móng và một động nhỏ rộng 10m vuông. Dọc đường có 3 tấm bia khắc vào vách núi. Bên cạnh động có khối đá vuông mặt nhẵn nhịu trên có ghi chữ Hán “ Nhật Nguyệt trường quang”. Tục truyền ngày xưa cứ đêm trăng sáng, Tiên Ông cùng ngồi đánh cờ với các quan trời. Từ chùa Kiêu vượt qua đường đèo và 3 thung lũng qua 5 ngọn núi là đến chùa Vân Mộng. Tương truyền chùa Vân Mộng là nơi thiền sư Nguyễn Minh Không đã từng tu hành và trụ trì Chùa Vân Mộng nằm trên sườn núi chênh vênh quyện cùng khói mây huyền ảo xung quanh có rất nhiều hang động lớn nhỏ kỳ thú, bí ẩn có những hang sâu 30m rộng khoảng 300m vuông như hang Dơi hang Bạc, hang Vàng Từ đây có thể đến thung Bế, thung Vạc của xã Tân Sơn. Hiện nay chùa chie còn nền móng cũ và một vài hiện vật như bia khắc vào vách núi bát hương đá, đá tảng kê chân cột. Phía tây chùa có nui Hai Quả cao chót vót lung chừng núi có hang Dơi, vì vậy ở đây có rất nhiều Dơi đến trú ngụ, có những con to như cái quạt giấy. Cửa hang hình miệng rồng, hang sâu 50m. Đặc biệt trong hang có hồ nước nhỏ, vòm hang có nhiều nhũ đá tự nhiên với hình thù kỳ lạ đẹp mắt. Ngoài ra vùng Bát Cảnh Sơn xưa kia còn có các ngôi chùa Bà hiện nay không còn dấu tích để lại. Địa linh nhân kiệt, Bát Cảnh Sơn không chỉ nổi tiếng là danh thắng mà còn nổi tiềng về người hiền tài. Huyện Kim Bảng có 5 nhà khoa bảng thì Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 40
  41. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Tượng lĩnh có tới 3 người. Tượng lĩnh còn được coi là nơi phát tích truyện trầu cau vì ở đây còn có suối Cau trong dãy núi đái vôi( nay gọi là suốt Tân Lang) có chợ trầu ( nay là chợ Dầu). Với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú với những dấu tích xưa còn lại quần thể Bát Cảnh Sơn nếu được khai thác đúng hướng chắc chắn sẽ trở thành 1 điểm du lịch sinh thái- văn hoá hấp dẫn trên đất Kim Bảng – Hà Nam - Khu danh thắng Núi Ngọc- Chùa Bà Đanh + Núi Ngọc Núi Ngọc nằm ở thôn Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng- Hà Nam. Núi Ngọc cách Chùa Bà Đanh 100m về phía Bắc. Từ thành phố Phủ Lý ngược sông Đáy 7km tới bến Đanh đi tiếp 100m là đến núi Ngọc. Quả núi nằm sát mặt sông Đáy. Núi Ngọc là một ngọn núi đá vôi trong hệ thống núi đá kéo dài từ Hoà Bình xuống hướng tây bắc đông nam qua xã Tượng Lĩnh- Khả Phong- Liên Sơn của huyện Kim Bảng. Tuy nhiên núi Ngọc nằm tách riêng, ngăn cách vệt dãy núi kia bằng con sông Đáy. Núi Ngọc không cao lắm. Ở đây cây cối mọc nhiều, cây to cây nhỏ mọc chen nhau cành lá xum xuê do dân địa phương có ý thức giữ gìn. Trên núi có một cây si cổ thụ tương truyền có tới hàng trăm tuổi. Đứng trên ngọn núi du khách có cảm tưởng như được tách riêng biệt khỏi sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống hiện đại để hoà mình vào sự yên tĩnh thuần khiết của thiên nhiên với núi sông cây cỏ. Ngày nay dưới chân núi có một ngôi đền thờ một ông nghè có công với dân làng. Nối giữa chùa Bà Đanh với núi Ngọc là một bãi rộng trồng cây lưu niên chủ yếu là vải thiều, nhãn tuỳ thời vụ có xen ca ngô lúa. Nằm hoà toàn biệt lập với khu dân cư trên núi, dưới sông gần đền, gần chùa núi Ngọc quả là một thắng cảnh của đất Kim Bảng một địa điểm du lịch đầy hấp dẫn. + Chùa Bà Đanh Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 41
  42. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Chùa Bà Đanh còn được gọi là Bảo Sơn Tự, nằm ở thôn Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. Từ thành phố Phủ lý qua cầu Hồng Phú, theo đường 21, đến cây số 7, qua cầu Quế, đi thêm 2km là đến chùa. Cũng như các ngôi chùa khác chùa Bà Đanh thờ Phật, song ở chùa Bà Đanh ngoài tượng Bồ Tát còn có tượng của Thái Thượng Lão Quân, tượng Nam Tào, Bắc Đẩu và các tượng của tín ngưỡng Tứ Phủ, một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Có tượng của hệ thống Tứ Phủ vì chùa thờ Tứ Pháp. Sự tích Tứ Pháp với các bà mẹ Mây (Pháp Vân), Mưa ( Pháp Vũ), Sấm (Pháp Lôi), Chớp ( Pháp Điện), như là sự hỗn dung Phật giáo với tín ngưỡng dân gian bản địa đã được chép trong Truyện Man Nương của Lĩnh Nam chính quái (Trần Thế Pháp thế kỉ XIV Vũ Quỳnh- Kiều Phú, 1942). Câu chuyện về gốc tổ Tứ Pháp được hình thành từ mẹ Man Nương đã lan truyền khắp vùng đồng bằng Bắc bộ và cũng được lưu hành ở đây. Người dân Kim Bảng tin rằng, từ khi thờ Tứ Pháp, vùng Bắc Ninh được mưa thuận gió hoà, phong dăng hoà cốc, mùa màng bội thu. Do vây, họ bèn họp nhau lên xứ bắc để xin chân nhang về thờ. Các làng Vân Lâm, Đặng Xá, Vân Châu, Bầu thôn, Bài lễ đã xin chân nhang tạc tượng Tứ Pháp để thờ, từ đó tục thờ Tứ Pháp được lan truyền ở các xã vùng ven sông Đáy tỉnh Hà Nam. Dân làng Đanh cũng đang có ý định xin chân nhang ở Bắc Ninh về thờ thì xảy ra một câu chuyện lạ. Địa phương còn lưu hành một truyền thuyết sau: Trước đây, ở vùng này luôn gặp mưa to, gió lớn nên việc sản xuất gặp nhiều khó khăn, mùa màng thất bát gây ra cảnh đói kém triền miên. Cho đến một hom một cụ già cao tuổi trong làng nằm mộng thấy một người con gái trẻ trung, xinh đẹp, đoan trang khuôn mặt phúc hậu, vầng trán và đôi mắt thông minh hiện ra nói rằng: Ta được thần cho về đây để chăm nom và chỉ khu rừng đầu làng làm nơi dựng chùa. Nơi ấy bấy giờ là vạt rừng rậm rạp, có nhiều cây cổ thụ, sát bờ sông là một hòn núi nhỏ, nhô mình ra mặt nước, trong rừng rộn rã tiếng chim, quang cảnh thật là thần tiên. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 42
  43. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Ngôi chùa ban đầu được xây dựng tranh tre nứa lá đơn sơ, đến năm Vĩnh Trị, đời Lê Hy Tông, khu rừng mới được mở mang quang đãng để xây lại chùa cho khang trang. Khu vực này cấm người dân làm nhà ở nên cảnh chùa càng thêm trang nghiêm, vắng vẻ. Ngôi chùa được xây dựng ít lâu thì có một cây mít cổ thụ ở quang chùa bỗng dưng bị gió to quật đổ. Dân làng đã đẵn lấy gỗ để tìm thợ về tạc tượng. Bỗng nhiên có một khách thập phương tìm đến chùa nói rằng mình làm nghề tạc tượng và được báo mộng đến đây. Người khách tả hình dáng và dung nhan người con gái đã báo mộng thì thấy giống hệt vị thần đã báo mộng cho cụ già trong làng. Năm ấy gặp mùa mưa lũ, nước sông dâng cao tạc tượng gần xong thì dưới bến nước trước chùa có vật lạ, nửa nổi, nửa chìm, không trôi theo dòng nước, đẩy ra mấy lần lại trôi trở lại. Thấy chuyện lạ, dân làng vớt lên xem thì hoá ra đó là một cái ngai bằng gỗ bèn rước ngay vào chùa. Thật lạ lùng pho tượng tạc xong thì đặt vừa khít vào ngai. Từ đó trong vùng mưa thuận gió hoà,mùa màng bội thu, tiếng đồn thánh Bà Bảo Sơn linh ứng lan truyên khắp nơi, khách thập phương về lễ rất đông. Những người làm nghề sông nước xuôi ngược qua đoạn sông này gặp mưa lũ đều lên chùa thắp hương cầu mong yên ổn. Truyền thuyết này có đôi nét gần gũi với truyền thuyết Man Nương những chi tiết như cây gỗ trôi song ( Truyện Man Nương) và ngai gỗ trôi song (truyền thuyết về Bà Đanh), ở bản chất của vị thàn cả hai nơi thờ đều là nữ thần nông nghiệp. Ngoài ra, ở truyền thuyết về Bà Đanh ta còn thấy bóng dáng của tục thờ thần sông nước của nhân dân vùng ven sông Đáy. Chùa quay mặt ra hướng nam mạn sông Đáy. Phía ngoài cùng, giáp với đường đi và gần bờ sông là cổng tam quan của chùa. Công trình này được tôn cao vượt hẳn lên năm bậc và hai đầu xây bít đốc. Tam quan có ba gian, hai tầng. Tầng trên có hai lợp mái, lợp bằng ngói nam xung quanh sàn gỗ hàng lan can và những chấn xong, con tiện, tầng này sử dụng làm gác chuông, ba Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 43
  44. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam gian dưới có hệ thống cánh cửa bằng gỗ lim. Phía ngoài cửa hai bên là hai cột đồng trụ được xây nhô hẳn ra. Trên nóc tam quan đắp một đôi rồng trầu vào giữa. Hai bên cổng chính là hai cổng nhỏ có tám mái, cửa phía trên lượng cong hình bán nguyệt. Ngày thường, khách ra vào lễ chủ yếu đi bằng cửa bên này, chỉ khi nào nhà chùa có đại lễ thì cửa chính ở giữa mới đựoc mở. Qua cổng tam quan là khu vườn hoa, sân lát gạch, hai dãy hành lang hai bên. Nhà bái đường có 5 gian, hai đầu xây bít dốc, lợp ngói nam. Nhà trung đường 5 gian hai đầu xây bít dốc,, lợp ngói nam, cửa đức bàn nối liền với toà bái đường. Nhà thượng điện có 3 gian, hai bên xây tường bao, phía trưứoc là hệ thống cửa gỗ lim. Lòng nhà ở đây so với khu bái đường và trung đường thì hẹp hơn nhưng được xây cao hẳn lên. Nằm về phía tây khu chùa là khu nhà ngang gồm năm gian, ba gian vừa dùng làm nơi thờ các vị tổ đã trụ trì ở đây, hai gian đầu hồi được ngăn thành 2 gian buồng làm nơi ở cho người tu hành. Đằng trước nhà tổ là một sân gạch, phía ngoài là khu vườn để trồng hoa với cây lưu niên. Phía đông của khu chùa là phủ thờ Mẫu làm giáp với dãy trung đường. Toàn bộ khu vực chùa có tường bao quanh. Chùa Bà Đanh là một hệ thống tổng thể bao gồm nhiều công trình với 40 gian nhà. Theo nhân dân địa phương cho biết thì ngôi chùa đã được xây dựng từ lâu đời nhưng được trùng tu nhiều lần. Các công trình còn lại đều được xây dựng từ thế kỷ XIX trở lại đây. *Giá trị kiến trúc điêu khắc dân gian của chùa Bà Đanh Xưa nay khi nhắc tới chùa Bà Đanh, người ta thường hiểu đó là ngôi chùa có cảnh quan sơn thuỷ hữu tình, thanh u, cô tịch và linh thiêng nổi tiếng một thời. Chùa có vẻ đẹp cổ kính, thâm nghiêm vào loại hiếm có của tỉnh Hà Nam. Chính giữa hệ thống của bức bàn bằng gỗ lim của tầng dưới tam quan có bức chạm ngũ phúc (5 con dơi ngậm chữ thọ). Ở mỗi cột trụ được thiết kế nhô hẳn ra phía ngoài hai tường bên, nghệ nhân xưa đều đắp nổi tường hình tứ linh: long, ly, quy, phượng theo thế đối xứng, cầu kỳ, uyển chuyển. Trên Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 44
  45. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam nóc tam quan có đắp một đôi rồng chầu mặt nguyệt bằng vôi cát và mảnh sứ, mang phong cách rồng thời Nguyễn. Đáng chú ý nhất ở tam quan là đôi rồng đá và đôi hổ đá được bố trí dọc theo hai bên bậc lên xuống, theo thế đối xứng, chầu vào nhà Bái đường. Nếu so với tượng đôi rồng chầu mặt nguyệt trên nóc tam quan, thì tượng đôi rồng đá dưới chân trong tam quan được trổ đơn giản, hiền lành hơn, còn phảng phất bóng dáng con rắn, chứ chưa mang hình kỳ đà. Tương tự như thế, đôi hổ đá ngồi chếch 45 độ phía sau, cũng được chạm trổ đơn giản, hiền lành, không dữ tợn như tượng ngũ hổ các nơi thờ khác. Đây là những di vật thuộc loại quý hiếm đầy chất dân gian rất cần được bảo vệ. Gần như toàn bộ nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc của ngôi chùa tập trung thể hiện ở nhà bái đường - nơi hành lễ thường ngày của các nhà sư và các phật tử. Nhà bái đường năm gian, khung gỗ lim, đầu hồi bít đốc và cũng đắp nổi hai con rồng. Quan sát từ giữa sân gạch, người ta sẽ thực sự hứng thú khi được chiêm ngưỡng hệ thống tượng đắp nổi theo đề tài “Tứ long chầu mặt nguyệt” trên nóc nhà mái đường. Cả bốn con rồng, từ kiểu dáng thân hình uốn lượn, đến mắt, râu, vuốt, vây đều rất sinh động, uyển chuyển, mà cũng rất dữ dội, tưởng như đang vờn nhau, bay lượn trong khoảng không bao la. Phong cách rồng thời Nguyễn thể hiện ở đây rất đậm nét. Đầu hai dãy hành lang và liền với nhà bái đường là hai cột trụ cao vút, sừng sững, uy nghi. Trên mỗi cột đều đắp nổi hình tứ linh: long, ly, quy, phượng theo thế đối xứng, gợi cảm giác hài hoà, cân đối, vững bền. Từng đường nét của hình long, ly, quy, phượng đều toát ra vẻ tỷ mỷ, đông phu, tài hoa của các nghệ nhân xưa. Tài năng chạm khắc của nghệ nhân xưa thể hiện trên sáu cột cái của toà nhà này. Vì kèo thứ nhất (tính từ Tây sang Đông) một mặt áp tường, chạm mặt hổ phù, trúc hoá long, hoa hồng, quả đào, quả lựu. Vì kèo thứ hai, mặt trước chạm “Ngũ phúc” (năm con dơi), hoa mai, hoa hồng dàn tranh, bút lông quả và bầu rượu, mặt sau chạm (ngũ long tranh châu), hoa hồng, hoa lan, mai hoá. Vì kèo thứ ba, mặt trước chạm “Tứ linh” Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 45
  46. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam (long, ly, quy, phượng), “Tùng mã” (từng và ngựa), “Mai điểu’ (hoa mai và chim), quá giang chạm đàn tranh, đàn nguyệt, phách, mặt sau, chạm “Tứ linh”, bầu rượu, cuốn thư. Vì kèo thứ tư, mặt trước phía trên chạm “Lưỡng long chầu nguyệt”, phía dưới chạm "Tứ linh", quá giang: chạm hoa hồngcây tùng, cuốn thư, kim tiền, đàn và sáo. Vì kèo thứ năm, mặt trước chạm mặt hồ phù, nghê chầu hai bên, mai hoá, quá giang chạm: quả đào, phật thủ, quả lựu, hoa hồng, cuốn thư và con dơi, mặt sau: chạm “Ngũ phúc”, quả đào, hoa hồng, cuốn thư. Vì kèo thứ sáu, (một mặt áp tường) chạm mặt hổ phù, thông hoá long, trúc hoá long, trên quá giang chạm quả đào, mai, trúc, nho, lựu, đào mai, quạt vải. Ngoài sáu vì kèo còn có sáu cột cái bằng gỗ lim, đứng giáp ranh giữa nhà bái đường và nhà trung đường. Trên mỗi thân cột đều chạm chìm hình rồng leo chầu vào ban thờ ở giữa gian thứ ba với các nét chạm rất tinh xảo. Về mặt đề tài, nếu là động vật, thì nghệ nhân đắp nổi hay chạm theo đề tài: “Tứ long” (long, ly, quy, phượng), “Ngũ phúc” (năm con dơi), “Lưỡng long chầu nguyệt”, “Ngũ long tranh châu”, “Tứ long chầu mặt nguyệt”, nếu là thực vật, thì có các đề tài: “Tứ quý” (Tùng, cúc, trúc, mai), “Bát quả” (đào, nho, lựu, vả, phật thủ), nếu là thực vật kết hợp, thì các các đề tài: “Mai điểu” (Hoa mai và chim), “Tùng mã” (cây tùng và ngựa), “Trúc hóa long”, “Thông hoá long” Ngoài ra, còn có đề tài quen thuộc như đàn tranh, đàn nguyệt, phách, sáo, bút lông, bầu rượu, quạt quả vả mà dân gian vẫn hiểu là “Bát bảo” (tám loại quý). Trong quá trình sáng tạo, nghệ nhân xưa đã kết hợp thể hiện những đề tài ước lệ tượng trưng của nghệ thuật mang tính cung đình (“Tứ linh”, “Ngũ phúc”, “Lương long chầu nguyệt”, “Ngũ long tranh châu”, “Mai điểu”, “Tứ quý”, “Tùng mã”) với những đề tài thuộc nghệ thuật dân gian như “Ngũ quả”, “Bát quả”, đàn, sáo, nhị, phách. Lối thể hiện phối hợp khéo léo giữa lối chạm nổi, chạm long với lối chạm chìm. Tất cả đều được cách điệu hoá mà vẫn có hồn, sinh động. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 46
  47. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Trong nhá thượng đường của chùa Bà Đanh, có nhiều tượng thờ như tượng Tam thế, tượng Ngọc Hoàng và Thái thượng Lão Quân, tượng Bà chúa Đanh. Có thể coi pho tượng Bà Đanh là một trung tâm của chùa. Tượng được tạc theo tư thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bong ( chứ không phải là toà sen), với khuôn mặt đẹp, hiền từ đầy nữ tính, gần gũi va thân thiết, chứ không có dáng vẻ siêu thoát, thần bí như các tượng Phật khác. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên về hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc chùa Bà Đanh. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 47
  48. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam -Khu danh thắng Đền Trúc- Ngũ Động Sơn + Đền Trúc Đền Trúc nằm trong khu danh thắng Đền Trúc- Ngũ Động Thi Sơn, thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyên Kim Bảng. Từ thành phố Phủ Lý theo quốc lộ 21, đến cây số 8 ( hoặc theo đường thuỷ thì cũng từ Phủ Lý ngược thuyền sông Đáy 8km) là tới khu danh thắng Đền Trúc. Khu danh thắng này rộng 10 ha, có phong cảnh thiên nhiên hữu tình, có núi non trùng điệp, rừng trúc nên thơ. Đến đây bạn sẽ được chiêm ngưỡng muôn hình kỳ lạ của nhũ đá và nghe thấy những bản hoà tấu của gió của đá trong một “ sân khấu” thiên nhiên đầy huyền ảo. Đền Trúc nằm lặng lẽ bên bờ sông Đáy, ngay dưới chân núi Thi Sơn, với phong cảnh Ngũ Động kỳ thú. Sở dĩ có tên là Đền Trúc là bởi vì xưa kia xung quanh đền là một khu rừng trúc rậm rạp rộng tới hàng chục mẫu. Ngày nay, rừng trúc không còn nữa nhưng bao quanh đền vẫn còn một lớp trúc khá dầy. Nếu đi thuyền đến đền thì phải đi qua hơn chục bậc bằng gạch mới lên tới cổng đền. Cổng đền gồm 4 cột đồng trụ, 2 cột chính ở giữa hai cột nhỏ ở hai bên. Hai cột chính cao trên 6m được chia thành 3 phần: phần dưới là một khối chữ nhật, các mặt đều có gờ chỉ tạo thành những khung cân đối. Chữ được nhấn chìm vào trong vữa tường. Trên phần này là một khối vuông, bốn mặt hình tứ linh và trên cùng là một đôi nghê dắp cân đối, dáng vẻ quay mặt vào nhau. Qua một sân gạch rộng trên 10m là đến nhà tiền đường. Công trình này gồm 5 gian xây cao trên mặt sàn được đặt thành 3 cấp, 2 đầu hồi bít dốc. Mặt đằng trước hai đấu hồi xây sát tường phía ngoài từ tàu mái đến thềm chính giữa để một cửa sổ hình chữ thọ. Ba gian giữa là hệ thống cửa gỗ được là vào sát hàng cột quan. Tường đầu hồi và cả hai phía đằng trước xây nhô ra, phía ngoài cùng được xây dựng cùng phong cách với nhà tiền đường: xây bít dốc, khung gỗ lim, kéo giá chiêng và lợp ngói nam. Ngăn cách Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 48
  49. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam giữa nhà tiền đường với hậu cung là một khoảng sân hẹp có tường nối nhà bán mái với bể non bộ. Đền trúc được tu sửa nhiều lần, lần cuối cùng vào những năm đầu của thế kỷ XX. Hiện nay đền còn lại toà tiền đường và hậu cung. Ở toà tiền đường, những mảng chạm khắc trong kiến trúc ở đền Trúc tại những phần chính chỉ là những nét điểm xuyết. Đó là những chiếc lá lật, những cụm mây tỏa ở trên các kẻ, các con rường, là những chiếc đấu đỡ các trụ được chạm những hình cánh sen bao quanh. Riêng ở hai vì kéo giáp hồi tại phần chồng rường nằm giữa cột cái và cột quân được chạm khắc toàn bộ với đề tài tứ linh. Bao trùm lên toàn bộ bức chạm là con rồng thân uốn lượn bay trong mây và chiếm tới một nửa diện tích, nằm gần chọn vẹn ở phía trên. Chính giữa là một đầu rồng nhô ra từ trong một đám mây. Với nối diễn tả hai mặt vừa nhìn từ trên xuống đồng thời từ một phía bên trong vào, người xem không chỉ thấy rõ độ lớn của thân mà còn hình dung ra độ dài của con vật linh thiêng. Con rồng như đang bay trên mây và những cụm mây cũng như đang bay trên bầu trời. Không gian và sinh vật đều ở trạng thái động. Trong một mảng rất đẹp, bằng những nét chạm phóng khoáng mềm mại cùng với bố cục hợp lý, nghệ nhân dân gian đã tạo nên một không gian vừa có chiều sâu lẫn cả chiều rộng. Trên một con rường dài nhất nằm dưới cùng là hình ảnh ba con vật còn lại của bộ tứ linh được bố cục từ trái sang phải. Con rùa ở dưới nước, con lân sống trên mặt đất và con phượng đang tung bay. Ba con vật tiêu biểu sống trong ba không gian tiêu biểu: Đất, nước, bầu trời, đó là biểu tương thiêng liêng của thiên nhiên trong quan niệm của dân gian. Hậu cung có khung và hệ thống cửa được làm bằng gỗ lim, phía trên cửa đựơc chạm khắc đề tài tứ quý với những đường nét mềm mại và hài hoà. Đền Trúc thờ vị an hùng dân tộc Lý thường Kiệt, phía trước nhìn ra bờ sông, phía sau thờ Mẫu hậu và công chúa rất linh. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 49
  50. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Đền Trúc nằm ở cửa ngõ đồng bằng Bắc bộ theo đường núi hoặc đường sông đều có thể đi vào vùng núi non trùng điệp Hoà Bình Tây Bắc Gần đền còn có chùa Bà Đanh được tiếng linh thiêng và Ngũ Động Thi Sơn gồm năm động liên hoàn ( có động lớn chứa được hàng ngàn người), nằm trong dãy núi Cấm, đã đi vào thơ ca Việt Nam từ xa xưa. Trên núi này có một loài cỏ tên là cỏ thi, ai tìm được vào giờ chính ngọ tức là tìm được huyệt quý, không thành đế vương thì ít ra cũng đỗ đạt hiển vinh. Ngành du lịch Hà Nam đang đầu tư lớn vào khu vực này với hy vọng sẽ thu hút được nhiều khách du lịch. + Ngũ Động Sơn Ngũ Động Sơn thuộc xã Thi sơn huyện Kim Bảng. Từ thị xã Phủ lý đi ngược thuyền sông Đáy 8km là đến đông, hoặc từ Phủ Lý qua cầu Hồng Phú theo quốc lộ 21, đến cây số 8 là tới cửa động. Ngũ Động Sơn là năm hang nối liền nhau tạo thành một dẫy động liên hoàn, có chiều dài hơn 100m trong một lòng quả núi. Núi này có tên là núi Cuốn Sơn ( Quyển Sơn) vì liên quan tới truyền thuyết về lá cờ của Lý Thường Kiệt bay lên núi và cuộn lại trên núi. Núi còn có tên là Cấm Sơn vì núi này rất thiêng, không ai dám động vào một cây cỏ, cành khô trên núi, tương truyền trên núi có cỏ thi để chữa bệnh nên núi còn gọi là núi Thi Sơn. Hang Ngũ Động nằm trong lòng núi Cấm thuộc địa phận xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng. -Đền Ba Dân Đền Ba Dân thuộc thôn Thuỵ Sơn, xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng. Xưa đền là của chung 3 xã (Thuỵ Lôi Hạ, Hồi Trung và Trung Hoà) nên còn gọi là đền Ba Xã. Được xây dựng vào thế kỉ thứ X, trải qua nhiều lần tu sửa, lần gần đây nhất là vào thế kỷ XX. Đền Ba Dân toạ lạc áp sát chân núi Nguỳ, biệt lập làng xóm chừng 500m. Trong núi có nhiều hang động với nhiều thạch nhũ đẹp mắt. Tại đây còn có ngôi chùa gọi là Hương Đài Động Tự (Chùa Động Hương Đài), theo truyền thuyết lúc sinh thời, Đinh Nga và mẹ ông thường Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 50
  51. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam hay vào đây lễ phật. Khi ông mất, nhân dân địa phương tránh tên huý của mẹ ông nên đổi tên núi Nguỳ thành núi Nguỳa. Xung quanh đền có nhiều cây cổ thụ hàng trăm tuổi khiến công trình và cảnh quan hoà nhập với nhau tạo nên sự kỳ thú và hấp dẫn. Đền Ba Dân nay vẫn còn lưu giữ khá nhiều đồ thờ cổ tự cổ thư quý hiếm có giá trị nghệ thuật điêu khắc như kiệu bát cống, Hương án, Đại tự, hoành phi, quán tẩy, long ngai. Cổ long ngai có ở chính tẩm tương đối lớn, được tạo dáng công phu và sơn son thiếp vàng lộng lẫy, đặt trong một cỗ và phần lưng ngai chạm rồng chầu, rồng leo, rồng cuốn khúc cùng các hoạ tiết vân án quấn quýt sinh động Một số di vật khác như cặp sấu đá trên mình điểm vẩy như rồng, chân tạo các hoạ tiết lá đề, là hoả cách điệu. Kiến trúc chạm khắc ở Đền Ba Dân phản ánh sự chuyển tiếp giữa hai phong cách tạo hình hậu Lê và đầu Nguyễn. Các mảng chạm khắc trên hệ thống vì kèo, mê côn trên các đồ thờ tự có giá trị nghệ thuật cao là di sản văn hoá quý giá rất đáng tự hào của nhân địa phương. Đền Ba Dân được Bộ văn hoá thông tin xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia, gần các danh lam thắng cảnh nổi tiếng của huyện Kim Bảng thuận tiện cho tour du lịch của du khách. -Chùa Quế Lâm Chùa Quế Lâm thuộc thôn Vân Lâm- thị trấn Quế, nằm trên địa bàn cổ có bề dầy lịch sử văn hoá. Mảnh đất này phía tây có hệ thống “Bát Cảnh” là tám cảnh đẹp nổi tiếng, xa xưa các bậc đế vương thường ghé thăm, thưởng ngoạn, đề thơ ca ngợi. Phía tây nam là dòng sông Đáy lịch sử hiền hoà uốn lượn, cùng với đồng ruộng, đầm hồ, làng mạc tiềm ẩn vẻ đẹp kỳ thú, hào hứng trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Quế Lâm đã từng trải qua phong ba nên công trình, quý danh cũng như địa điểm chùa cổ không còn nữa. Ở thời Lê chùa có tên gọi là Pháp Vân, sau lại gọi là “ Vân Lâm Tự” theo địa danh quê hương. Thế kỷ XIX đổi thành Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 51
  52. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam chùa Khánh Vân, đầu thế kỷ XX gọi là chùa Cảnh Khánh và cách gọi dân gian là chùa Bến (vì chùa ở đây gần bến đò sông Đáy). Nhưng cổ tự Quế Lâm cũng đã bị chuyển dịch, thậm chí còn bị huỷ hoại, bị hư hỏng nhiều lần. Trên vị trí hiện tại, công trình cũng trả qua nhiều lần tu sửa biến đổi, kể cả quá trình mà nhân dân địa phương cũng như thập phương phát tam công đức phục hồi bái đường, tam quan chùa vừa qua để bảo tồn di sản văn hoá chốn tâm linh ngàn xưa để lại. Công trình chùa Quế Lâm thờ phật, với phật pháp “ Tam Thân” biểu tượng ba giai đoạn tu hành; quá khứ, hiện tại, vị lai của đạo phật. Quá khứ là thời kỳ tu hành khổ hạnh, hiện tại tức thời kỳ phật đang ngự trị để hướng thiện cho đời giúp cho mọi người phấn đấu đến đỉnh cao ấm no hạnh phúc. Sau đó là giai đoạn được toại nguyện( vị lai), phải chăng phật pháp “Tam Thân” là bài học răn đời, khuyến khích mọi người phấn đấu tu luyện để đạt đỉnh cao trong cuộc sống. Theo ngọc phả trên thì từ ngày nhân dân Vân Lâm tạc tượng thờ Đại Thánh Pháp Vân Phật, mọi sự trong thôn đều được an bình, mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, nên nhiều nơi trong vùng biêt tiếng, họ kéo nhau về làm lễ tham gia tổ chức lễ hội lớn để kỷ niệm ngài thành lập miếu, tạc tượng thờ. Một số địa phương xung quanh Vân Lâm như Đông Xá, Bài Lễ, Vân Châu thấy sự an linh cũng tiếp tục lập miếu tạc tượng thờ như Vân Lâm. Tục thờ Đại Thánh Pháp Vân phật tại chùa Quế Lâm được các thế hệ câc dòng họ trong thôn xã duy trì trân trọng. Được các triều đại ban sắc phong tặng, tôn làm thượng đẳng phúc thần. Các bậc quan chức dưới thời phong kiến, các văn thần sỹ tử đến vãn cảnh chiêm bái đều tỏ lòng thành kính để thờ dâng câu đối thờ. Nhà thơ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến cũng đã cùng phu nhân về đây tiến cúng 80 quan tiền xanh và một mẫu ruộng vào cửa tam bảo. Nhân dân địa phương, nhân dân các phủ huyện cũng tiến cúng tiền và hàng chục mẫu ruộng vào cửa tam bảo Quế Lâm. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 52
  53. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Cổ tự Quế Lâm không còn bụi thời gian thuỷ tai đã làm mắt đi những công trình buổi nguyên sơ. Ngôi chùa Quế Lâm mà Hoàng Đế Trần Nhân Tông tới vãn cảnh đề thơ, quan Hành Khiển Trương Hán Siêu đến tham và thổ lộ tâm tình đã đi vào dĩ vãng. Thế kỷ 15,16,17,18 cổ tự Quế Lâm cũng được tu sửa trang hoàng, mở mang nội tự, tam bảo. Sang thế kỷ XIX vào triều Minh Mệnh thứ 15 (1834) công trình lại được sửa sang, đầu thế kỷ XX chùa được thay đổi một số cấu kiện bằng đá. Tuy công việc còn nhiều, nhưng hiện tại công trình đã là một hệ thống hạng mục chủ yếu của cảnh chùa. Đó là ba toà bái đường, đệ nhị cung, tam bảo làm theo kiểu “ Tiền chữ Nhật, Hậu chữ Đinh”. Phía trước công trình có hệ thống tam quan kiểu chồng diêm khá đẹp mắt. Công trình tam quan, nơi được tái tạo trên cơ sở nền móng cũ vào cuối năm 1994. Tam quan có ba bộ mái cong làm kiểu chồng diêm hai tầng, làm duyên cho ba cửa “giả quan”, “trung quan” , “ vô quan”. Đây là ba cửa thật nhưng lại không như triết lí nhà phật: “sắc sắc, không không” ( có có ,không không), có nghĩa là phật ở tại tâm hoặc “phật tức tâm”, “ tâm tức phật”. Tam quan có đường nết cong cong duyên dáng, có các đường mây tản ở góc đao, kim nóc. Đã hoà đồng với cảnh trí, trời mây, sóng nước trên hồ, đã có sự gợi cảm đối với người qua đây. Và đây cũng là niêm vui của ba con quê hương, khi đứng từ xa nhìn thấy chùa cổ. “ Cổ miếu trang thành tân cảnh sắc Trung khu phựng sự cựu quy mô” (Đền cũ điểm tô màu sắc mới, Khu trung thờ phụng theo nếp xưa.) Phía ngoài tam quan có hệ thống cây lưu niên, tạo vẻ tĩnh mịch thiền môn. Công trình cây cảnh hoà đồng, được soi bóng trên hồ nước làm cho cảnh chùa Quế Lâm đậm vẻ thiền va u tịch như có sức mạnh cuốn hút nhân tam, đồng thời làm tăng thêm nét hữu tình cho cho một làng quê thi vị. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 53
  54. Hiện trạng và giải pháp phát triển du lịch của huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam Từ những giá trị lịch sử, giá trị kiến trúc mỹ thuật đáng được trân trọng. Chùa Quế Lâm thị trấn Quế - Kim Bảng- Hà Nam đã được Bộ văn hoá thông tin ký Quyết định số 310 QĐBT ngày 13-03-1996 công nhận chùa là di tích cấp quốc gia và cấp bằng di tích lịch sử văn -Hồ Tam Chúc Đến với nơi đây ngoài việc tham quan một hệ thống các điểm du lịch tự nhiên nổi tiếng như: Thung Vạc- Thung Trứng, Thiên Cung Đệ Nhất Động, Hang Dơi và một cánh rừng rộng lớn thì du khách còn được thưởng thức thú ẩm thực đặc sắc từ các nguồn của núi rừng Ba Sao, của Tiền Lục Nhạc và sông hồ. Quần thể sinh thái, thảm thực vật đa dạng ở các rừng núi thấp, các sườn đồi tạo nên không khí trong lành để du khách dạo chơi, ngắm cảnh. Các loại cây gỗ quý như: Lim, sến, táu, chò chỉ ,các loại cây ăn quả như: Cam, nhãn, vải, mận, đào không chỉ là sản phẩm quý mà còn là ngôi nhà của các loài chim, động vật sinh sống. Ngoài cảnh quan núi rừng sinh động đó du khách còn được ngắm nhìn các loài động vật, thực vật trong hồ Tam Chúc. Từ trên cao nhìn xuống du khách có thể thấy sáu quả núi độc lập quần tụ và đứng hài hoà giữa hồ đó chính là các núi: Núi Ngao, Núi Xếp Vàng, Núi Đền, Núi Giữa Đồng, Núi Tam Chúc và Núi Trọng Đũa, tất cả như sáu nốt nhạc trong khuôn nhạc, chúng tựa như những mâm xôi dùng để tế bảy ngôi sao trên bảy đỉnh núi. Thật không ngoa khi có người mệnh danh hồ Tam Chúc là “ Hạ Lang cạn” của Kim Bảng. Phía sau hồ có cánh rừng trúc và bảy ngọn núi cao, đó là Thất Tinh. Có lẽ vì thế mà người ta gội đó là Tiền Lục Nhạc - Hậu Thất Tinh. Trong núi bảy ngọn có 3 động thiên tạo được gọi là Tam Thai. Trên núi, nhiều loài thực vật chen nhau mọc tầng tầng lớp lớp dưới những tán cây cổ thụ. Các loài chim quý từ nhiều nơi về đây làm tổ, bay nhảy và hót véo von. Sự kết hợp hài hoà, tự nhiên của sơn thuỷ đó đã tạo thành nên một trong những vùng đất đẹp và hữu tình nhất của trấn Sơn Nam xưa. Sinh viên: Nguyễn Thị Vân Anh - Lớp VH1001 54