Kinh nghiệm sử dụng tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường của cộng đồng người Thái tại ven hồ thủy điện Sơn La

pdf 9 trang hapham 1620
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm sử dụng tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường của cộng đồng người Thái tại ven hồ thủy điện Sơn La", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkinh_nghiem_su_dung_tai_nguyen_gan_voi_bao_ve_moi_truong_cua.pdf

Nội dung text: Kinh nghiệm sử dụng tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường của cộng đồng người Thái tại ven hồ thủy điện Sơn La

  1. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 29, Số 3 (2013) 26‐34 Kinh nghiệm sử dụng tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường của cộng đồng người Thái tại ven hồ thủy điện Sơn La Đỗ Xuân Đức Trường Cao đẳng Sơn La, thành phố Sơn La, Việt Nam Nhận ngày 24 tháng 6 năm 2013 Chỉnh sửa ngày 29 tháng 8 năm 2013; chấp nhận đăng ngày 12 tháng 9 năm 2013 Tóm tắt: Bài báo tập trung làm rõ kinh nghiệm truyền thống trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên: đất, rừng, nước của người Thái tại khu vực tái định cư ven hồ thủy điện Sơn La; chỉ ra kinh nghiệm canh tác trên đất dốc, kinh nghiệm khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn lợi mang lại từ tài nguyên đất, rừng, nguồn nước hồ thủy điện đối với các hoạt động sinh kế cộng đồng phù hợp trong điều kiện môi trường mới ven hồ, góp phần hạn chế bồi lắng lòng hồ. Trên cơ sở tham vấn cộng đồng, bài báo đề xuất áp dụng cho việc bảo vệ tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học khu vực ven hồ thủy điện Sơn La: kết hợp chặt chẽ giữa luật sử dụng tài nguyên đất, nước, rừng với thực hiện quy ước sử dụng, bảo vệ môi trường trong cộng đồng người Thái; giải quyết việc giao đất, giao rừng đến từng hộ gia đình tái định cư sinh sống ven hồ tạo cơ sở pháp lý cho cộng đồng sở hữu đất, rừng; nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế sinh thái bền vững trên cơ sở đánh giá tài nguyên khu vực ven hồ gắn với bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn lợi tự nhiên, bảo vệ các cảnh quan, hệ sinh thái lòng hồ hướng đến mục tiêu phát triển bền vững vùng hồ thủy điện Sơn La. Từ khóa: Kinh nghiệm truyền thống, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, cộng đồng người Thái, ven hồ thủy điện Sơn La. 1. Đặt vấn đề * điểm hồ thủy điện Sơn La chính thức được vận hành vào năm 2012, ba xu hướng cư dân gắn bó Hồ chứa nước thủy điện Sơn La có diện tích sinh kế với khu vực ven hồ đã xuất hiện: những 2 2 gần 225km , diện tích lưu vực: 43.760 km , hộ dân không di chuyển đến nơi ở mới mà tìm 3 dung tích hồ chứa 9,26 tỷ m , mực nước dâng cách ở lại khai thác diện tích bán ngập ven lòng bình thường 215m, tạo nên một “Biển hồ” (hồ hồ; những cư dân thuộc diện tái định cư di vén nước rộng lớn) trên vùng Tây Bắc. Công trình sinh sống ven hồ; cư dân tự do đến sinh sống này một mặt tác động đến địa hình, khí hậu, đa tìm kiếm nguồn sinh kế mới từ vùng hồ. Trên dạng sinh học, môi trường vùng Tây Bắc, mặt địa bàn hai huyện Mường La, Quỳnh Nhai (Sơn khác, tác động làm biến đổi không gian cư trú, La), tập trung nhiều xã, bản làng người Thái, phương thức canh tác sản xuất, sinh kế truyền La Ha, Xinh Mun, Kháng, đặc biệt người thống của cộng đồng nhiều dân tộc thiểu số Tây Thái có số bản tái định cư nhiều nhất, văn hóa Bắc tại hai tỉnh Sơn La và Lai Châu. Kể từ thời Thái có ảnh hưởng lan tỏa đến các dân tộc ___ khác sinh sống quanh vùng hồ. * ĐT: 84-946647056 Email: ducdx.vns@gmail.com 26
  2. Đ.X. Đức / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 29, Số 3 (2013) 26‐34 27 Xã Mường Chiên, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Thái tái định cư ven hồ phát triển ổn định, bền Sơn La thuộc diện tái định cư di vén của công vững và sử dụng hợp lý tài nguyên, nguồn lợi trình thủy điện Sơn La. “Xã có tổng diện tích tự vùng hồ mang lại. nhiên 8.233,0ha, dân số 1.574 nhân khẩu với 385 hộ, bình quân nhân khẩu 4,45 người/hộ, mật độ dân số bình quân 21 người/km2, có 708 2. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu lao động (chiếm 45% dân số), lao động nông nghiệp 659 người (chiếm 93,0% số lao động), Nghiên cứu tri thức, kinh nghiệm dân gian 100% cư dân là dân tộc Thái”(1) [1]. Mường trong quản lý, khai thác nguồn tài nguyên thiên Chiên có 5 bản, trong đó 4 bản nằm ven hồ là: nhiên; mối quan hệ giữa sinh kế với khai thác, Bản Bon với 102 hộ (359 nhân khẩu), Bản Hua sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường; nghiên Sát 84 hộ (335 nhân khẩu), Bản Nà Sản 63 hộ cứu tương tác giữa sinh kế cộng đồng và tài nguyên thiên nhiên ở các vùng đất ngập nước, với 256 nhân khẩu, ít nhất là bản Hé 40 hộ (169 vùng hồ thủy điện được đề cập tới trong nhiều nhân khẩu). Xã Mường Chiên cách trung tâm công trình trên thế giới “(Sáng kiến phát triển huyện mới Quỳnh Nhai hơn 30km về phía Bắc, và thách thức với quản lý tài nguyên bền vững giao thông chủ yếu bằng đường thủy. Vốn là và sinh kế trong hồ Tana khu vực Bắc Ethiopia” cư dân nông nghiệp, trước đây người Thái ở [2]; “đặc trưng sinh kế đánh cá quy mô nhỏ hồ Mường Chiên chủ yếu canh tác ruộng nước và Singkara, Tây Sumatra, Indonesia” [3]; “sự thay nương rẫy, khi môi trường sống trong thung thế sinh kế lựa chọn cho các cộng đồng di rời lũng và canh tác lúa nước truyền thống thay do hồ chứa tích nước Kulekhani, Nepal)” [4]. đổi. Để thích ứng được với điều kiện sản xuất, Ở Việt Nam những năm gần đây xuất hiện sinh kế mới khu vực ven hồ, người Thái đã vận hướng nghiên cứu tri thức bản địa trong sử dụng các tri thức dân gian về đất, rừng, nước dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường trong cộng vào khai tác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên. đồng dân tộc thiểu số nhằm tìm ra những bài Các tri thức này vốn góp phần quan trọng tạo học, kinh nghiệm, sáng kiến phát triển bền vững dựng nên bản sắc văn hóa Thái trước đây, hiện cộng đồng: “Các tộc người ở miền núi phía Bắc tại được vận dụng hiệu quả vào quá trình thích Việt Nam và môi trường” [5]; “Tri thức địa ứng với môi trường sinh thái mới ven hồ. Đây phương của người dân sống trong vườn quốc là nét văn hóa truyền thống mang bản sắc văn gia và khu bảo tồn thiên nhiên” [6]; “Tri thức hóa cộng đồng, phản ánh những quy định ứng địa phương của người Mường trong sử dụng và xử, thích ứng giữa con người trong điều kiện quản lý tài nguyên thiên nhiên” [7]; “Luật tục môi trường tự nhiên, sinh thái vùng Tây Bắc. Thái” [8]. Đến nay, biện pháp sử dụng hợp lý Do đó, vận dụng và phát huy vốn tri thức dân tài nguyên bảo vệ môi trường từ cộng đồng gian được thể hiện qua kinh nghiệm, tập quán đang được xem là nhân tố quan trọng trong sản xuất, các điều khoản trong luật tục quy định chiến lược bảo vệ môi trường ở Việt Nam. khai thác sử dụng tài nguyên được xem là nhân Hướng tiếp cận tham vấn cộng đồng được tố quan trọng hàng đầu góp phần bảo vệ môi vận dụng trong nghiên cứu kinh nghiệm sử trường, cảnh quan, các hệ sinh thái vùng lòng dụng tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường ở hồ bền vững, đồng thời giúp cộng đồng người cộng đồng người Thái ven hồ thủy điện Sơn La tại bốn bản ở xã Mường Chiên: bản Bon, bản ___ Hua Sát, bản Nà Sản, bản Hé. Các phương pháp (1) Ủy ban Nhân dân xã Mường Chiên: Đề án xây dựng điều tra được sử dụng thông qua bảng hỏi Nông thôn mới giai đoạn 2012-2020 xã Mường Chiên, (phiếu điều tra), mỗi bảng hỏi có 49 câu hỏi, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La, Sơn La, 2011, tr.3.
  3. 28 Đ.X. Đức / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 29, Số 3 (2013) 26‐34 200 phiếu điều tra cho 04 bản. Phỏng vấn sâu Chiên, đất trồng lúa nước bị ngập dưới lòng hồ, các gia đình, điều tra mẫu 80 hộ gia đình, số do vậy ở nơi mới người dân chủ yếu khai thác mẫu được chọn ngẫu nhiên từ 5% số hộ theo đất nương rẫy để trồng ngô, sắn phục vụ cho danh sách lập thành 3 nhóm: hộ làm nương rẫy, cuộc sống và sinh kế hàng ngày. Tiếp đến, đất hộ chăn nuôi, hộ khai thác thủy sản trên hồ, tổ rừng (cả rừng tự nhiên và rừng trồng) đóng vai chức cuộc họp dân, thảo luận nhóm ở bốn bản trò quan trọng thứ hai 71%. Theo họ, đất rừng và tổ chức một cuộc họp tại UBND xã Mường mang lại rất nhiều sản phẩm phục vụ sinh kế Chiên có sự tham gia của tất cả cán bộ lãnh đạo, của người dân như: gỗ, mây, củi, mật ong, các ban ngành ở xã, các trưởng bản, đại diện, thuốc nam, tre, nứa, măng, nấm, thức ăn, ngoài toàn thể các hộ gia đình của xã, các tài liệu tổng ra rừng còn bảo vệ bản làng khỏi lũ lụt và xói hợp báo cáo từ năm 2008 đến tháng 8/2013. Số mòn, sạt lở đất. Cuối cùng là đất vườn (46%), liệu thu thập được từ cuộc điều tra được kiểm nơi cung cấp rau, thực phẩm, nơi phơi ngô, sắn, tra mã hoá và nhập vào hệ thống cơ sở dữ liệu nuôi gia súc, gia cầm hàng ngày của người dân. trên máy tính sử dụng phần mềm Excel và Thông qua họp dân, ghi nhân ý kiến cộng SPSS. Kết quả điều tra, khảo sát trên cơ sở đồng tại bốn bản được nhóm nghiên cứu khảo phỏng vấn sâu, quan sát kết hợp với số liệu sát có “97,8 % người dân phản ánh về tình trạng phân tích định lượng từ kết quả phiếu điều tra, thiếu đất sản xuất và mong muốn được giao đồng thời so sánh nhận thức của nhiều người, nhiều đối tượng tham gia về tình hình sử dụng thêm đất để canh tác nương rẫy và trồng rừng tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học, bảo vệ sản xuất từ diện tích đất chưa sử dụng ở khu rừng, nguồn nước, động vật quý hiếm trong vực vùng đệm trên cốt 218m do UBND xã cộng đồng người Thái ở Mường Chiên sinh Mường Chiên đang quản lý” [10]. sống ven hồ thủy điện Sơn La. Thực hiện phương pháp phiếu điều tra 63 hộ dân kết hợp phỏng vấn sâu một số hộ gia 3. Kết quả nghiên cứu đình tại bản Nà Sản (Mường Chiên), khẳng định canh tác nương rẫy đóng vai trò quan trọng 3.1. Kinh nghiệm khai thác sử dụng đất dốc ven trong sinh kế hàng ngày của họ, mặc dù sinh hồ sống tại các bản ven hồ nhưng 54 hộ gia đình gắn bó hoàn toàn với canh tác nương rẫy, chỉ có Trong cơ cấu sử dụng đất ở Mường Chiên 9 hộ gia đình sinh sống bằng đánh bắt cá, thả đó có nhiều loại: “Đất nông nghiệp, (bao gồm tôm. Tuy nhiên, những hộ gia đình này không nương rẫy) chiếm tỷ trọng diện tích lớn: hoàn toàn bỏ hẳn canh tác nương rẫy mà vẫn 6.208,06 ha, tương đương với 75,40% tổng diện kết hợp canh tác nương rẫy với nghề đánh bắt tích tự nhiên”(2) [9]. Kết quả phân tích phiếu điều tra phản ánh 96% người dân nơi đây đánh thủy sản trên lòng hồ. giá cao vai trò, tầm quan trọng của đất nương Với tất cả các loại nương rẫy, người Thái ở rẫy bởi sau khi di vén lên sinh sống ở Mường bản Nà Sản sử dụng biện pháp canh tác liên ___ hoàn theo chu trình: chọn đất, dọn xới đất, (2) Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường Sơn La: không cuốc đất, trồng tỉa, chăm sóc thu hoạch, Dự án quy hoạch, sử dụng đất đai đến năm 2020 và kế luân canh trong 1 năm. Hệ thống canh tác hoạch sử dụng đất đai 5 năm (2011-2015), xã Mường nương rẫy truyền thống của người Thái bản Nà Chiên, huyện Quỳnh Nhai; Báo cáo chuyên đề bước 2, Phân tích đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và Sản có nhiều mặt tích cực trong quản lý bảo vệ biến đổi khí hậu: hiện trạng sử dụng đất, kết quả thực hiện tài nguyên đất dốc ven hồ thủy điện Sơn La. Họ quy hoạch sử dụng đất kỳ trước và tiềm năng đất đai, Sơn tìm được nhiều loại đất khác nhau dựa vào các La, 2011, tr.7.
  4. Đ.X. Đức / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 29, Số 3 (2013) 26‐34 29 biểu hiện của thực vật, mầu sắc, độ ẩm của đất. bắt đầu phát nương vào khoảng tháng 2 dương Theo thông tin thu được từ 100 phiếu điều tra lịch (tháng 7 lịch Thái), phát nương xong, và phỏng vấn sâu. Người dân thường chọn đất nương được ủ trong vòng 1 tháng cho cây, cỏ canh tác dưới những khu rừng, đất không quá khô, sau khi ủ vào tháng 3 dương lịch (tháng 8 dốc đứng, phía trên đất nương là khu rừng lịch Thái), trời khô nóng người dân bắt đầu đốt nhiều cây, tốt hơn cả là có nhiều cây to, phía cây cỏ và dọn nương. Người Thái có kinh trên dốc đứng để mưa chảy trôi đất ở trên nghiệm chống cháy lan ra các khu vực xung xuống nương, giúp nương thêm mầu mỡ. Khi quanh bằng cách tạo mảng nương không có cây chọn đất tránh những khoảng đất có nhiều cỏ cỏ khô gần khu vực bên cạnh khi đốt. Sau khi tranh, vì nơi đây đất xấu, chọn đất có mầu đen, đốt tro than được vãi đều khắp nương, đến đất có nhiều đá không được chọn. Người chọn tháng 4, tháng 5 dương lịch bắt đầu vào mùa đất làm nương thường là đàn ông. Thời điểm mưa Tây Bắc, người Thái bắt đầu gieo hạt. Y Tháng dương lịch Tháng âm lịch Lịch Thái Công việc 1-2 1 7 Phát nương, gieo ngô sớm 3 2 8 Đốt nương, gieo ngô sớm 4 3 9 Làm cỏ nương ngô sớm, tra lúa nương 5 4 10 Làm cỏ, chăm sóc cây trồng trên nương 6 5 11 Làm cỏ nương ngô, nương sắn 7 6 12 Làm cỏ lúa nương 8 7 1 Chăm sóc làm cỏ nương, thu ngô trên nương 9 8 2 Thu hoạch lúa nương (Lịch canh tác trên đất nương của người Thái ở Bản Nà Sản - Mường Chiên - Quỳnh Nhai) [11]. Một số hộ gia đình được phỏng vấn sâu phá hoại cây non và bắp, lúa nương, củ, quả khi cho biết 90% gieo hạt vào cuối tháng 4 dương sắp chín, họ sử dụng hàng rào bằng cây gỗ bảo lịch, kỹ thuật gieo hạt là chọc lỗ, tra hạt. Nam vệ xung quanh, sử dụng hình nộm người. giới đi trước tra lỗ, phụ nữ, trẻ con đi sau tra Công cụ thu hoạch lúa trên nương rẫy: dao, hạt, lấp đất. Người dân giải thích, cách làm như nhíp, liềm, néo, thậm chí là một ống tre, nứa trên chống lãng phí đất, tránh chim ăn hạt, tiết làm nhọn, chéo một đầu, việc thu hoạch chỉ tập kiệm lao động, không mất công tỉa bớt đi cây trung vào các sản phẩm chính như: hạt lúa, quả con, cây đủ khoảng cách sinh trưởng. Thông thường mật độ chọc lỗ, tra hạt 25-30 lỗ trên m2. ngô, hạt đỗ, đậu, quả bí, bầu, dưa. Các phần phụ Mỗi lỗ 3-5 hạt, cây được trồng theo hàng ngang còn lại bao gồm tất cả rơm, rạ, thân, rễ, lá, bẹ có vai trò cản nước, chống rửa trôi khi mưa ngô để lại nương rẫy, một phần do nương rẫy xuống. Khi cây cao 20cm, các hộ gia đình bắt xa nhà, di chuyển bằng thuyền nên không thể đầu làm cỏ, cuốc xới nhẹ. Trong điều kiện canh mang về nhà được. Mặt khác họ để lại phần rễ, tác trên thế đất dốc ven hồ như vậy được xem là thân, lá, cây đã thu hoạch nhằm bảo vệ đất khỏi biện pháp bảo vệ mầu đất không bị rửa trôi khi bị trôi mầu khi mưa lũ về, kinh nghiệm thu mưa lớn. Nương được làm cỏ 2-3 lần. Người hoạch truyền thống như vậy cho thấy đất sẽ dân làm cỏ vào lúc trời nắng cây cỏ bị tiêu diệt được bảo vệ tốt hơn cho mùa sau, đất được giữ triệt để, đất chóng khô và thoáng khí, khi mưa ẩm, tăng độ mùn, tránh mất nước đến vụ sau. xuống cây trồng lớn nhanh hơn. Người Thái ở Đây là cách giữ đất khá hiệu quả của người bản Nà Sản không sử dụng phân bón hóa học và Thái trong điều kiện canh tác trên đất dốc khu thuốc trừ sâu trong quá trình canh tác nương rẫy vực ven hồ. ven hồ. Nhằm tránh muông thú, chim, thú nhỏ f
  5. 30 Đ.X. Đức / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 29, Số 3 (2013) 26‐34 Phát nương Đốt, dọn nương Gieo hạt Cho đất nghỉ Thu hoạch Chăm sóc (Chu trình sử dụng đất nương của người Thái ở Bản Nà Sản - Mường Chiên - Quỳnh Nhai) [12]. Trong quá trình canh tác trên đất dốc ven Kết quả điều tra, 100% người dân có ý thức bảo hồ, người Thái ở bản Nà Sản có nhiều cách xen vệ rừng, nhất là rừng nguyên sinh, rừng phòng canh và luân canh. Mục đích là không lãng phí hộ, hiện tượng chặt phá, đốt rừng là hoàn toàn đất, tăng các sản phẩm thu được và tận dụng không có, rừng phòng hộ ven hồ, rừng nguyên đất, nếu đất xấu không trồng lúa nương thì sinh được bảo vệ tốt. Có được ý thức như vậy, chuyển sang trồng ngô, trồng sắn. Họ luân canh người dân ở các bản ven hồ thuộc xã Mường cây trồng theo hướng: lúa, ngô, sắn, bông,vv Chiên thực hiện đầy đủ những điều quy định Đất trồng lúa bao giờ cũng là loại tốt nhất, trong luật tục, quy ước bảo vệ rừng đầu nguồn, khoảng nương mới phát, mới đốt ưu tiên trồng bảo vệ rừng phòng hộ được người dân ký cam lúa nương (vụ 1), một số đất trồng ngô nếu độ kết cùng thực hiện. phì kém hơn. Sau đó, nếu đất đã giảm chất dinh Trong điều kiện địa hình núi cao, người dưỡng do mưa, do đất không được bổ sung dinh Thái ở ven hồ tại Mường Chiên canh tác theo dưỡng, nương sẽ được chuyển sang trồng ngô, phương cách xen canh nhằm hạn chế quá trình sắn, bông, chàm. Trong quá trình canh tác nếu xói mòn, rửa trôi trên đất có độ dốc lớn. Ý kiến cây trồng chính như lúa nương, ngô, sắn mọc cộng đồng phản ánh, việc đốt rừng làm rẫy, trên quá thưa, không đều, các loại cây khác sẽ được thực tế vẫn còn nhưng với các loại rừng non, gỗ trồng xen vào chỗ trống. Họ chú ý đến đặc tính tạp, ít có giá trị kinh tế. “Khi đốt rừng làm của cây trồng để chọn cây xen canh thích hợp, nương, người Thái có ý thức bảo vệ những khu cây lúa, ngô khi lớn sẽ vươn cao được trồng xen rừng xung quanh, bằng cách dọn sạch những dưa, bầu, bí, đậu sống bò ngang mặt đất. Xen cành khô, cỏ úa, tạo nên khoảng trống giữa rẫy canh đảm bảo đất dốc được che phủ kỹ hơn, của mình với các khu vực khác, tránh không để giảm xói mòn do mưa lũ, đồng thời có thể cải lửa đốt rẫy lan rộng, gây nên cháy rừng” [9]. tạo đất tạo thêm nguồn thức ăn cho người, gia Nếu cháy rừng sẽ bị xử phạt theo luật tục, súc trong mùa khô. hương ước bảo vệ rừng. 3.2. Kinh nghiệm bảo vệ rừng ven hồ 3.3. Kinh nghiệm bảo vệ nguồn nước Trước đây, người Thái chủ yếu canh tác lúa Kết quả điều tra, phỏng vấn sâu những nước, từ năm 2007 thực hiện việc di cư lên nơi người làm nghề đánh bắt thủy sản ven hồ và cư ở mới, diện tích đất canh tác lúa nước không dân địa phương phản ánh, trước đây người Thái còn, người dân chuyển sang làm nương, rẫy, Mường Chiên gắn cuộc sống của họ với dòng trồng ngô, sắn, chăn nuôi gia súc và trồng rừng. suối nhỏ (người Thái gọi là Nậm) và sông Đà.
  6. Đ.X. Đức / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 29, Số 3 (2013) 26‐34 31 Tùy thuộc vào đặc điểm của các khúc sông trên wophatox), dùng xung điện (acquy), duốc cá sông Đà, dòng suối, ao hồ mà người Thái có bằng vôi bột, bằng bả độc để đánh cá. Nếu vi những cách đánh bắt khác nhau: “dùng vó, vợt, phạm bị xử phạt rất nặng theo quy định trong thả lưới quăng chài, dùng lá có vị đắng, độc (lá hương ước, ngoài ra còn bị truy cứu trách cơi), cá dưới sông phải nước này sẽ bị say nổi nhiệm hình sự. Nước sinh hoạt hàng ngày được lên trên mặt nước” [10]. Khi thực hiện di vén lấy từ mó nước rồi dùng hệ thống ống nhựa dẫn nơi ở mới trên khu vực lòng hồ, các con suối nước về nhà, người Thái ở Mường Chiên quy nhỏ, ao hồ nhỏ gia đình không còn, thay vào đó định rõ trong luật tục bảo vệ nguồn nước mó là hồ nước mênh mông, có độ sâu trung bình dùng cho cả cộng đồng: cấm thả gia súc gần mó 150 - 200m. Người dân phải thay đổi cách ứng nước, thường xuyên vệ sinh xung quanh mó xử với nguồn nước mới cho phù hợp. “Họ dùng nước. vó bè, câu để câu cá (mỗi dây có khoảng vài chục lưỡi câu). Dây câu thường được làm từ 3.4. Kinh nghiệm bảo vệ các loài thú quý hiếm những loại dây rất chắc. Có nhiều loại lưỡi câu với các kích cỡ nhỏ to khác nhau để câu các Các bản ven hồ thủy điện Sơn La thuộc xã loại cá khác nhau (chép, lăng, chiên, ), mồi để Mường Chiên còn giữ được rừng phòng hộ, câu thường là giun hay dế mèn, tra mồi vào lưỡi nguyên sinh.Trong rừng có một số loại thú, câu rồi thả xuống sông chờ cá đến ăn và mắc chim quý hiếm, chim, thú nhỏ. Người Thái coi câu, giờ thả câu tốt nhất vào khoảng 5 - 6 giờ trọng công tác bảo vệ những loại động vật quý chiều sẽ bơi thuyền ra sông và thả câu sau đó hiếm. Việc bảo vệ các loài thú quý hiếm đã chằng, buộc cần gỗ cho chặt vào bờ, sáng hôm được đồng bào thực hiện từ lâu đời. Trong Luật sau họ bơi thuyền ra gỡ cá mắc câu”(5) [13]. tục trước đây và quy ước hiện nay có quy định Người Thái ở Mường Chiên bắt đầu nuôi cá cụ thể và xét xử những người sắn bắn những lồng trên hồ, (các trắm cỏ, cá tầm), dùng đó loại động vật quý hiếm vì cho rằng đó là những đánh bắt tôm trên hồ. Qua điều tra khảo sát cho con vật được thần linh nuôi dưỡng. “Ai bắn thấy so với đánh bắt cá trên suối, sông Đà trước những con vật đó sẽ bị thần linh trừng phạt, làm đây với đánh bắt trên lòng hồ hiện tại đem lại cho đau ốm, ngoài ra còn bị truy cứu trách nhiều sản lượng cá cao hơn. Kết quả phỏng vấn nhiệm hình sự theo quy định của nhà nước” [9]. sâu một số ngư dân cho biết các loại cá trước Do vậy, người dân khu vực ven hồ thủy điện đây, chẳng hạn: cá chiên, măng, lăng, nheo Sơn La có ý thức và cộng đồng trách nhiệm bảo đánh bắt trên sông, suối nhỏ có nhiều nhưng vệ các loại động vật quý hiếm. nay số lượng đánh bắt hạn chế, chỉ bắt được cá nhỏ và vừa, số lượng ít, nhiều loài cá trước đây 4. Một số kết luận và đề xuất có nhưng nay không còn như: Buột, Vược, Ngần, Bơn, Buôi, Nóc. Việc đánh bắt cá được Kết quả tham vấn cộng đồng về sử dụng đất quy định trong quy ước không được dùng thuốc dốc ven hồ, bảo vệ rừng, nguồn nước, động vật nổ mìn, bộc phá, hoá chất độc (đất đèn, quý hiếm trên địa bàn một số bản ven hồ thủy ___ điện Sơn La thuộc địa bàn xã Mường Chiên, góp phần khẳng định vai trò, ý nghĩa của tri (5) Đỗ Xuân Đức: Kết quả điều tra, khảo sát thuộc đề tài nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn cấp tỉnh: Nghiên cứu thức, kinh nghiệm, tập quán, luật tục và thực những biến đổi điều kiện sống, đề xuất giải pháp phát triển hiện quy ước của người Thái trong đời sống xã kinh tế, văn hóa, xã hội các cộng đồng cư dân khu vực tái hội và ứng xử với môi trường tự nhiên khu vực định cư thủy điện Sơn La, tỉnh Sơn La, Đại học Quốc Gia Hà Nội chủ trì (2012-2014), Sơn La, 2013, tr.29.
  7. 32 Đ.X. Đức / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 29, Số 3 (2013) 26‐34 tái định cư. Từ những kết quả tham vấn cộng hướng dẫn kiến thức bảo vệ môi trường cho đồng, một số kết luận và kiến nghị được đưa ra: người dân, đồng thời cuốn sổ tay này dùng cho Thứ nhất: trong đời sống hàng ngày của tất cả các hộ gia đình. Đồng thời in thành các áp cộng đồng người Thái còn lưu giữ nhiều tri phích, lịch, khẩu hiệu dễ hiểu, dịch ra tiếng thức dân gian, kinh nghiệm truyền thống khai Thái phát cho từng gia đình treo ở nhà để cùng thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên nhau tuyên truyền thực hiện. và bảo vệ môi trường. Do vậy, bên cạnh quản lý Thứ năm: Trên cơ sở kinh nghiệm canh tác, tài nguyên và bảo vệ môi trường thực hiện theo tập quán sử dụng tài nguyên, các luật tục và quy quy định trong Luật thì hệ thống tri thức dân gian, ước bảo vệ môi trường đã thực hiện trong đời kinh nghiệm, tập quán sử dụng tài nguyên đất, sống của đồng bào Thái, tiến hành xây dựng, bổ rừng, nước cần được vận dụng hiệu quả vào các sung thành các quy ước chuẩn theo quy định hoạt động sản xuất và đời sống cư dân ven hồ. của luật bảo vệ môi trường. Quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi trong việc sử Thứ hai: phổ biến và truyền tải luật bảo vệ dụng tài nguyên đất, bảo vệ rừng phòng hộ ven môi trường, giáo dục và nâng cao ý thức sử hồ, bảo vệ động vật quý hiếm, sử dụng và bảo dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường cho vệ đa dạng sinh học từ nguồn nước lòng hồ đồng bào người Thái ven hồ thủy điện Sơn La mang lại. Tiến hành xây dựng những mô hình trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm truyền thống, sử dụng hợp lý tài nguyên đất, rừng, bảo vệ nhân văn có giá trị liên quan đến việc bảo vệ động vật quý hiếm tại các bản ven hồ theo đặc môi trường. trưng về điều kiện tài nguyên và đa dạng sinh Thứ ba: từ hệ thống kinh nghiệm truyền thái vùng ven hồ. thống, tri thức dân gian sử dụng tài nguyên và Thứ sáu: giúp cộng đồng người Thái ven hồ bảo vệ môi trường ăn sâu trong nhận thức của thu thập và ghi chép, tài liệu hóa dưới dạng tư người Thái, tiến hành chọn lọc, vận dụng vào liệu: ghi âm, chụp ảnh, quay phim, làm phóng thực hiện quy ước bảo vệ môi trường ở nơi ở sự những kinh nghiệm truyền thống tốt sử dụng mới, đặc biệt đối với cư dân tái định cư sinh tài nguyên, bảo vệ môi trường trở thành tài liệu sống ven hồ thủy điện Sơn La. Ưu điểm của tri phổ biến cho các cộng đồng dân tộc Xinh Mun, thức dân gian, quy ước sử dụng tài nguyên bảo Kháng, Mông, Lào và các dân tộc khác sinh vệ môi trường gần gũi với đời sống của cộng sống ở ven hồ, vùng bán ngập, vùng đệm trên đồng, dễ thực hiện và dễ tiếp thu thực hiện. Do hồ thủy điện Sơn La cùng thực hiện. Bên cạnh đó, việc giáo dục môi trường trên cở sở luật bảo đó, kết hợp tuyên truyền, vận động trong cộng vệ môi trường kết hợp với luật tục sẽ tạo ra quy đồng xóa bỏ tập quán lạc hậu về đời sống sản ước chung thống nhất, nâng cao trách nhiệm và xuất, sinh hoạt nơi cư trú, xây dựng bản văn đồng thuận cao ở cộng đồng người Thái trong hóa cộng đồng ven hồ với môi trường xanh, sử dụng và bảo vệ tài nguyên, môi trường ven sạch, đẹp. Vận động hướng dẫn già làng, trưởng hồ thủy điện Sơn La. bản, các tổ chức đoàn thể: hội nông dân, phụ nữ, mặt trận, đoàn thanh niên làm hạt nhân Thứ tư: Vận dụng tri thức, kinh nghiệm dân trong công tác vận động cộng đồng bảo vệ sử gian trong đời sống cộng đồng người Thái xây dụng hợp lý tài nguyên đất, bảo vệ rừng và môi dựng “sổ tay hướng dẫn bảo vệ môi trường”, trường nước vùng hồ. cuốn sổ tay này cụ thể hóa luật bảo vệ môi Thứ bảy: Đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ trường trên cơ sở kết hợp với luật tục, kinh thống cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm nghiệm, tri thức dân gian. Đây là tài liệu sử tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống, dụng cho cán bộ địa phương trong công tác
  8. Đ.X. Đức / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 29, Số 3 (2013) 26‐34 33 đảm bảo an sinh xã hội cho cộng đồng cư dân trong đó cần chú ý đặc biệt đến những tri thức, vùng hồ. Đẩy mạnh và giải quyết việc giao đất, kinh nghiệm dân gian sử dụng hợp lý tài giao rừng đến từng hộ gia đình sinh sống ven nguyên và bảo vệ môi trường từ cộng đồng kết hồ, tạo cơ sở pháp lý cho người dân sở hữu đất, hợp nâng cao sinh kế bền vững, thực hiện đồng rừng, gắn kết họ với việc khoanh nuôi bảo vệ bộ giải pháp chuyển giao một số mô hình kinh rừng và hưởng lợi từ rừng khu vực ven hồ. tế sinh thái, kinh tế xanh hiệu quả, phù hợp giúp Đồng thời, có chính sách ưu tiên giúp các hộ cộng đồng cư dân ven hồ ổn định, nâng cao dân tái định cư vay vốn với lãi suất thấp, chất lượng cuộc sống, đảm bảo an sinh xã hội. chuyển đổi sinh kế, đầu tư phát triển sản xuất. Do vậy, nâng cao nhận thức và năng lực quản Thứ tám: Nghiên cứu, đề xuất, chuyển giao lý sử dụng tài nguyên gắn với bảo vệ môi và tập huấn, nhân rộng các mô hình sinh kế sinh trường có sự tham gia của cộng đồng các dân thái, sản xuất xanh hiệu quả: mô hình VAC, tộc sinh sống ven hồ thủy điện Sơn La trở thành VAC-R, mô hình nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, yêu cầu cấp thiết. mô hình du lịch sinh thái văn hóa ven hồ, mô hình đa dạng hóa sinh kế thân thiện môi trường vùng hồ, mô hình trung tâm học tập cộng đồng Tài liệu tham khảo về sinh kế vùng hồ. Tập huấn xây dựng nông [1] Ủy ban Nhân dân xã Mường Chiên, Đề án xây thôn mới, chuyển đổi sinh kế, chuyển giao kỹ dựng Nông thôn mới giai đoạn 2012-2020 xã thuật khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, Mường Chiên, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La, chăn nuôi đến các hộ gia đình. Xây dựng, triển Sơn La, 2011, tr.3. khai, nhân rộng các mô hình kinh tế sinh thái [2] Teshale, Berhanu,Lee,Ralph,Zawdie, Girma, Development Initiatives and Challenges for dựa vào lợi thế của khu vực ven hồ: mô hình Sustainable Resource Management and nuôi cá nước ngọt trên hồ, nuôi vịt thả hồ, nuôi Livelihood in the Lake Tana Region of Northern gà thả đồi, nuôi dê ven hồ, mô hình trồng măng, Ethiopia, 2002 trồng ngô lai. Phát triển mô hình du lịch cộng .[3] Srperret, Livelihood Features of Small Scale Fishing Communities: A Case from Singkarak đồng; dịch vụ lưu trú tại gia (homestay), dịch Lake, West Sumatra, Indonesia, 2010. vụ phục vụ ẩm thực, dịch vụ phục vụ nghỉ [4] Gurung, RM Mulmi, KC Kalyan, G Wagle, Cage, dưỡng sinh thái ven hồ, dịch vụ hướng dẫn, fish culture: an alternative livelihood option for thuyết minh, giới thiệu tham quan cảnh quan communities displaced by reservoir impoundment in Kulekhani, Nepal, 2010. vùng hồ, dịch vụ chở khách tham quan hồ, phát [5] Hoàng Hữu Bình, Các tộc người miền núi phía triển các loại hình nghệ thuật dân gian truyền bắc Việt Nam và môi trường, Nxb Khoa học Xã thống phục vụ cho khách du lịch tham quan, hội Hà Nội, 1998. nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa sinh thái tại các [6] Nguyễn Ngọc Thanh, Tri thức địa phương của người bản văn hóa cộng đồng ven hồ. Việc đa dạng dân sống trong vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 2010. sinh kế cộng đồng sẽ tạo được thu nhập đa [7] Nguyễn Ngọc Thanh, Trần Hồng Thu, Tri thức địa dạng, giảm những tổn thương đến tài nguyên, phương của người Mường trong sử dụng và quản môi trường ven hồ. lý tài nguyên thiên nhiên, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 2009. Hiện tại và tương lai, sử dụng tài nguyên, [8] Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng, Luật tục Thái, Nxb bảo vệ môi trường vùng hồ có ý nghĩa đặc biệt Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1999. quan trọng nhằm đảm bảo an ninh, an toàn cho [9] Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường Sơn nhà máy thủy điện Sơn La hoạt động. Phát triển La, Dự án quy hoạch, sử dụng đất đai đến năm bền vững vùng hồ cần có giải pháp tổng thể, 2020 và kế hoạch sử dụng đất đai 5 năm (2011- 2015), xã Mường Chiên, huyện Quỳnh Nhai, Báo
  9. 34 Đ.X. Đức / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 29, Số 3 (2013) 26‐34 cáo chuyên đề bước 2, Phân tích đánh giá điều đồng người Thái ven hồ thủy điện Sơn La, Kỷ kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và biến đổi khí hậu: yếu hội thảo khoa học Quốc gia Tài nguyên thiên hiện trạng sử dụng đất, kết quả thực hiện quy nhiên và Tăng trưởng xanh,Trung tâm nghiên cứu hoạch sử dụng đất kỳ trước và tiềm năng đất đai, Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Sơn La, 2011, tr.7. Nội, 2013, tr. 303. [10] Đỗ Xuân Đức, Tham vấn cộng động về sử dụng tài [13] Đỗ Xuân Đức, Báo cáo kết quả điều tra, khảo sát nguyên và bảo vệ môi trường ven hồ thủy điện Sơn thuộc đề tài: Nghiên cứu những biến đổi điều kiện La, Tạp chí Môi trường, số 10, (2013), tr.39-40. sống, đề xuất giải pháp phát triển kinh tế, văn [11] Lịch Trung Thái, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà hóa, xã hội các cộng đồng cư dân khu vực tái Nội, 2013. định cư thủy điện Sơn La, tỉnh Sơn La, Đại học [12] Đỗ Xuân Đức, Một số vấn đề khai thác sử dụng Quốc Gia Hà Nội chủ trì (2012-2014), Sơn La, tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường ở cộng 2013, tr.17. The Experience of Integrating Natural Resource Use and Environmental Protection of the Thái Ethnic Community Living in the Area Adjacent to Sơn La Hydropower Reservoir Đỗ Xuân Đức Sơn La College, Sơn La City, Sơn La Province, Vietnam Abstract: The paper clarifies experience in the use of traditional natural resources such as soil, forests, and water; and also indicates farming experience on sloping land, experience in extracting and protecting natural resources for suitable livelihood activities of the Thai people in resettlement areas along to the Sơn La hydropower reservoir. On the basis of public consultation, the paper makes a number of conclusions and recommendations applied to the protection of natural resources, environment and biodiversity along the lake area of Sơn La hydropower such as: the close coordination between government law and Thai community’s regulation in extraction and protection of natural resources; the allocation of forest land to each resettled households living along the lake, creating the community legal framework for land tenure, etablishing sustainable ecological economic model based on the resource assessment along the lake associated with rational extraction, protection of the landscape and ecosystem order to support sustainable development in Sơn La hydropower. Keywords: Tranditional experience, natural resource use environmental protection, Thái ethnic community, Sơn La hydroelectric reservoir.