Luận án Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng

pdf 186 trang hapham 1760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_cong_nghiep_hoa_hien_dai_hoa_gan_voi_phat_trien_kinh.pdf

Nội dung text: Luận án Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VƯƠNG PHƯƠNG HOA C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ G¾n víi ph¸t triÓn kinh tÕ tri thøc ë thµnh phè ®µ n½ng LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2014
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH VƯƠNG PHƯƠNG HOA C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ G¾n víi ph¸t triÓn kinh tÕ tri thøc ë thµnh phè ®µ n½ng Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số : 62 31 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS AN NHƯ HẢI HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức năng đã công bố. Những kết luận của luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả. Tác giả luận án Vương Phương Hoa
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 6 1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức 6 1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 9 1.2.1. Sách tham khảo, chuyên khảo 9 1.2.2. Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ 15 1.2.3. Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành 18 1.3. Những "khoảng trống" trong nghiên cứu công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố 18 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRÊN PHẠM VI MỘT TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM 21 2.1. Quan niệm và sự cần thiết phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 21 2.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức 21 2.1.2. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 31 2.2. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố ở Việt Nam 36 2.2.1. Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố ở Việt Nam 37 2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố ở Việt Nam 47
  5. 2.3. Kinh nghiệm của một số nước về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 54 2.3.1. Kinh nghiệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng tri thức của Singapore 54 2.3.2. Kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của Hàn Quốc 58 2.3.3. Kinh nghiệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của một số tỉnh/thành phố ở Việt Nam 61 2.3.4. Bài học kinh nghiệm rút ra để thành phố Đà Nẵng có thể tham khảo 65 Chương 3: THỰC TRẠNG CÔNG NGHIÊP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY 67 3.1. Thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng. 67 3.1.1. Thuận lợi 67 3.1.2. Khó khăn 72 3.2. Quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay 74 3.2.1. Quán triệt và vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 74 3.2.2. Tình hình tổ chức tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 75 3.3. Đánh giá thực trạng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng 92 3.3.1. Những kết quả đạt được 92 3.3.2. Những hạn chế, bất cập trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng thời gian qua và nguyên nhân 98
  6. Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 110 4.1. Dự báo và phương hướng tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 110 4.1.1. Dự báo tính hình thế giới và trong nước có ảnh hưởng đến việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng 110 4.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng 112 4.1.3. Phương hướng tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng 117 4.2. Giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng 128 4.2.1. Tăng cường công tác dự báo, quản lý quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 128 4.2.2. Khai thác, phát triển và sử dụng các nguồn lực 133 KẾT LUẬN 150 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB : The Asian Development Bank Ngân hàng phát triển châu Á AFTA : Asean Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do Asean APEC : Asia and Pacific Economic Cooperation Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ASEAN : Association of South - East Asian Nations Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEM : The Asia-Europe Meeting Diễn đàn hợp tác Á - Âu CN : : Công nghệ CNH : Công nghiệp hóa CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội FDI : Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài GAP : Good Agriculturial Practices Thực hành nuôi trồng tốt GDP : Gross Domestic product Tổng sản phẩm quốc nội GMP : Good Manufacturing Practices Thực hành tốt sản xuất thuốc h : Hệ số hao mòn hữu hình HĐH : Hiện đại hóa ICT : Information and Communication Techonology CN thông tin và truyền thông Ihđ : Tỷ trọng thiết bị hiện đại
  8. IMF : International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế KCN : Khu công nghiệp KCX : Khu chế xuất Kđm : Hệ số đổi mới thiết bị KH : Khoa học KH&CN : Khoa học và CN KTTT : Kinh tế tri thức Nxb : Nhà xuất bản ODA : Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức R&D : Research & Deployment Nghiên cứu và triển khai TCCN : Trung cấp chuyên nghiệp UBND : Ủy ban nhân dân WB : World Bank - Ngân hàng thế giới WHO : World Health Organization Tổ chức y tế thế giới WTO : World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới
  9. DANH MỤC BẢNG Trang Bảng 3.1: Cơ cấu kinh tế ngành của thành phố Đà Nẵng 78 Bảng 3.2: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 - 2012 89 Bảng 3.3: Cơ cấu lao động theo ngành nghề từ năm 2001 đến nay 91 Bảng 3.4: Cơ cấu lao động một số ngành từ năm 2001 đến nay 91 Bảng 3.5: Diện tích quy hoạch và lĩnh vực đầu tư tại các khu Công nghiệp của thành phố Đà Nẵng 93 Bảng 3.6: Trình độ CN của các ngành công nghiệp Đà Nẵng 100 Bảng 4.1: Dự báo GDP (giá 1994) và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2020 115 Bảng 4.2: Dự báo cơ cấu kinh tế thành phố giai đoạn 2011 - 2020 116 DANH MỤC HÌNH Trang Hình 3.1: Cơ cấu kinh tế ngành của Đà Nẵng năm 2001 - 2012 78 Hình 3.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay 94 Hình 3.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đà Nẵng theo ngành (tính đến 10-2013) 97
  10. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghiệp hóa (CNH) là con đường tất yếu mà mọi quốc gia đều phải trải qua trong quá trình phát triển để trở thành một nền kinh tế hiện đại. Xét về lịch sử, CNH được diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII. Đến nay, đã có nhiều quốc gia hoàn thành CNH và đang tiến mạnh vào nền kinh tế hiện đại với xu hướng nổi bật là phát triển nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, còn không ít quốc gia, trong đó có Việt Nam, chưa đạt tới nền công nghiệp phát triển mà vẫn còn trong tình trạng nền kinh tế đang phát triển. Đà Nẵng thành phố thuộc vùng Nam Trung Bộ, một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam. Nằm ở vị trí trung độ của đất nước, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh. Đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không, cửa ngõ chính ra biển Đông của các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên và các nước tiểu vùng Mê Kông. Sau ngày giải phóng (năm 1975) đến nay, Đà Nẵng cùng với cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất đặt ra đối với Thành phố thời kỳ này là thực hiện CNH để chuyển các hoạt động kinh tế-xã hội từ trình độ lạc hậu lên tiên tiến, hiện đại. Trước đổi mới (năm 1986), CNH ở thành phố diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận chiều. Một mặt, thành phố phải cùng với cả nước đối phó với cuộc chiến tranh biên giới phía bắc và sự cấm vận của Mỹ. Mặt khác, do chủ quan duy ý trí trong nhận thức, tổ chức thực hiện, nên kết quả đạt được về CNH còn hạn chế. Trình độ kinh tế-xã hội ở Đà Nẵng vẫn chưa ra khỏi tình trạng lạc hậu và kém phát triển. Từ khi đổi mới đến nay, nhận thức về con đường phát triển kinh tế-xã
  11. 2 hội của cả nước nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng, đã có nhiều chuyển biến tích cực. Theo đó, quan điểm, đường lối về CNH đã được nhận thức ở tầm cao hơn và sâu sắc hơn. Kể từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khoá VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1/1994), thành phố Đà Nẵng cùng với cả nước bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ CNH gắn với HĐH. Tiếp đến, từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đến nay, để tranh thủ cơ hội được tạo bởi bối cảnh mới của thế giới, Đà Nẵng cùng với cả nước tiến hành công cuộc phát triển kinh tế-xã hội lấy CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức làm nền tảng. Nhìn lại 13 năm thực hiện, nhờ tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, giải quyết vấn đề an sinh xã hội, trình độ KH&CN của Thành phố đã có nhiều tiến bộ; năng suất, chất lượng, hiệu quả của hoạt động kinh tế-xã hội được nâng lên. Tăng trưởng kinh tế và mức sống của người dân không ngừng được cải thiện, Đà Nẵng được coi là "thành phố đáng sống" của Việt Nam. Tuy nhiên, so với tiềm năng hiện có và mục tiêu phát triển, những kết quả đạt được vừa qua của Thành phố còn rất khiêm tốn. Tăng trưởng kinh tế chưa ổn định, vẫn chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ và tăng cường vốn đầu tư. Trình độ KH&CN của nhiều cơ sở sản xuất còn lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, chi phí sản xuất cao, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp. Để xây dựng thành phố văn minh, hiện đại, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp trên thị trường, hội nhập sâu hơn vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Đà Nẵng còn rất nhiều vấn đề cần được giải quyết. Để góp phần vào giải pháp cho vấn đề này, là một cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học gắn trực tiếp với các hoạt động kinh tế - xã hội của Thành phố, tôi lựa chọn đề tài: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng" để nghiên cứu làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
  12. 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết, xác định nội dung CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, luận án phân tích và đánh giá thực trạng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng để đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa tiến trình này, phấn đấu đưa Đà Nẵng sớm trở thành thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT vận dụng trên địa bàn một tỉnh, thành phố. - Phân tích và đánh giá thực trạng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng từ khi có chủ trương của Đảng và Nhà nước đến nay. - Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng dưới góc độ Kinh tế chính trị. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Phạm vi cả nước và thế giới để nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn. Địa bàn thành phố Đà Nẵng được xác định là phạm vi nghiên cứu thực trạng để đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển. - Về thời gian: Tác giả giới hạn phạm vi phân tích, đánh giá thực trạng từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức (năm 2001) đến nay. Phần dự báo, đề xuất phương hướng, giải pháp thúc đẩy CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT được tính từ nay đến năm 2020 và triển vọng đến giữa thế kỷ XXI, tức là đến thời điểm mà Đà Nẵng cùng với
  13. 4 cả nước trở thành một thành phố công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chủ trương đổi mới của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT nói riêng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị bao gồm: phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp kết hợp giữa phân tích và tổng hợp, phương pháp logic kết hợp lịch sử và phương pháp so sánh để tiến hành nghiên cứu đề tài. - Bên cạnh đó, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế học như phương pháp cân bằng, phương pháp toán học, phương pháp chuyên gia. Đồng thời, luận án còn kế thừa, tiếp thu chọn lọc những thành tựu mới của các công trình khoa học đã công bố có liên quan. 5. Đóng góp về khoa học của luận án - Hệ thống hóa lý luận về CNH, HĐH, từ góc độ của kinh tế chính trị học. Luận án đưa ra khái niệm và làm rõ nội dung CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở kế thừa tư tưởng của C.Mác, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và các công trình nghiên cứu trước đó. Qua đó, chỉ ra sự cần thiết phải CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT; những nhân tố ảnh hưởng đến CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trên phạm vi một tỉnh, thành phố ở Việt Nam. - Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm phát triển CNH, HĐH của nước Đông Á, một số tỉnh ở Việt Nam, luận án rút ra một số bài học kinh nghiệm
  14. 5 có khả năng vận dụng để phát triển CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng. - Phân tích và đánh giá thực trạng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay, làm rõ những thành công, hạn chế, nguyên nhân của quá trình này. - Đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2020. - Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan ban ngành có liên quan đến việc hoạch định chiến lược, chính sách CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và cho những ai quan tâm đến vấn đề này. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng, danh mục hình và phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết.
  15. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT là con đường của nước đi sau nhằm tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của đất nước để rút ngắn quá trình phát triển, sớm trở thành một xã hội hiện đại. Đây là vấn đề còn khá mới mẻ. Đến nay vẫn chưa có những nghiên cứu mang tính hệ thống lý luận chặt chẽ và giải pháp đồng bộ, có hiệu quả về vấn đề này ở trên thế giới và trong nước. Tuy vậy, vẫn có thể tìm thấy những ý tưởng, quan niệm và phương thức tổ chức thực tiễn có liên quan trực tiếp đến CNH, HĐH gắn với KTTT. Dưới đây là tổng quan những kết quả nghiên cứu đã công bố về vấn đề này những năm gần đây. 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Dong Fureng trong cuốn Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn Trung Quốc [134] đã hướng vào phân tích kinh nghiệm lịch sử của Trung Quốc về CNH trong thời gian gần đây. Từ nhận thức vai trò của nông thôn trong quá trình HĐH đất nước, tác giả đã tập trung phân tích thực trạng HĐH nông thôn và chỉ ra rằng, có nhiều vùng nông thôn của Trung Quốc vẫn gặp phải những vấn đề kinh tế, xã hội tương tự các nước đang phát triển khác như: dân số nông thôn đông, năng suất lao động thấp, lực lượng lao động dồi dào nhưng đội ngũ lao động có tri thức trong nông thôn còn mỏng, sản xuất phân tán, manh mún, thiết bị về CN chế biến lạc hậu. Để hạn chế và khắc phục tình trạng này, tác giả đã chỉ ra con đường phát triển nông thôn trong chiến lược của Trung Quốc và đề xuất các giải pháp cụ thể. Theo tác giả, muốn thành công trong CNH đất nước, Trung Quốc không thể không kết hợp giữa CNH
  16. 7 thành thị và CNH nông thôn. Phải xác định rõ mô hình phát triển công nghiệp nông thôn, xác định rõ vai trò kinh doanh của hộ gia đình trong việc khai thác, phát huy các nguồn lực, trong đó có nguồn lực lao động đang còn dư thừa ở nông thôn. Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng hoá, CNH phải được tiến hành theo "hai quỹ đạo": thành thị và nông thôn; lấy CNH thành thị để thúc đẩy CNH nông thôn. K.S. Jomo [136] bàn về một số vấn đề CNH ở khu vực các nước Đông Nam Á bao gồm Singapore, Malaysia, Thái Lan và Indonesia. Và đặc biệt chú ý phân tích, đánh giá sự thành công của khu vực này làm bài học kinh nghiệm cho các nước. Trong đó, chỉ rõ việc CNH ở các nước Đông Nam Á là cần thiết, nhưng nó lại tuỳ thuộc vào điều kiện địa lý, nguồn tài nguyên, lợi thế của các nước mà tiến hành CNH có thể khác nhau. Trước những năm 70 của thế kỷ XX, các nước này áp dụng mô hình CNH thay thế nhập khẩu nhưng sau đó chuyển sang CNH hướng vào xuất khẩu đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Qua phân tích, tác giả còn khẳng định để CNH nhanh, ngoài việc sử dụng các nguồn nội lực, cần có những "cú huých" từ bên ngoài như đầu tư nước ngoài, hỗ trợ của hệ thống tài chính. Tác giả còn đặt câu hỏi và tự trả lời CNH như vậy có bền vững không, nếu chỉ phụ thuộc vào khai thác thiên nhiên, xây dựng nhà máy, khu công nghiệp mà không bảo vệ môi trường? Kazushi Ohkawa [65] đã giới thiệu kinh nghiệm 100 năm CNH của đất nước "mặt trời mọc" với những bài học mang tính phổ quát, có thể học hỏi vận dụng được đối với những nước đi sau nhằm rút ngắn thời gian tiến hành CNH. Qua cách tiếp cận về công nghiệp và thương mại trong phân chia giai đoạn, cách thức phát triển dựa trên sự kết hợp truyền thống với hiện đại, các nhân tố kinh tế, CN, xã hội, văn hoá , tác giả cho rằng đây chính là các yếu tố quyết định quá trình CNH rút ngắn. Trong công trình nghiên cứu này với 8 chương được chia làm hai phần: Phần I, tác giả chỉ rõ mối liên hệ thực tế giữa cơ cấu thương mại và cơ cấu công nghiệp, xác định các sản phẩm công
  17. 8 nghiệp nào đem xuất khẩu, nhập khẩu qua từng giai đoạn (5 giai đoạn). Và khẳng định phải coi trọng tiến bộ kỹ thuật trong phát triển các ngành công nghiệp gia tăng sức cạnh tranh quốc tế. Cùng với sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thị trường, cả vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy sự khởi đầu những ngành công nghiệp mang tính chiến lược. Phần II, qua việc phân tích các chính sách công nghiệp, phân tích, dự báo các số liệu về vốn đầu tư nguồn lực con người, thực hiện chuyển giao CN tác giả cho thấy ảnh hưởng của các nhân tố này đối với việc phát triển công nghiệp theo hướng xuất khẩu của Nhật Bản. Cuốn sách không chỉ nêu những thành công mà còn đánh giá cả những thất bại trong CNH hướng vào xuất khẩu của Nhật Bản để làm bài học cho các các nước đi sau nếu áp dụng mô hình CNH hướng về xuất khẩu. Medhi Krongkaew [138] đã cung cấp cái nhìn tổng quan, toàn diện về CNH gần đây của Thái Lan, một trong các nền kinh tế năng động nhất khu vực ASEAN. Tác giả chú ý phân tích vai trò của công nghiệp, nông nghiệp, xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển du lịch, coi các ngành kinh tế này như động lực chính cho tăng trưởng kinh tế của Thái Lan. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã phân tích tác động của các chính sách về tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách đô thị hoá, chính sách phúc lợi hộ gia đình đối với CNH ở Thái Lan. Với các chính sách thúc đẩy CNH của chính phủ Thái Lan đã làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế và tác động lớn đến nền chính trị, các giá trị xã hội, môi trường, giáo dục, y tế, khoa học và CN. Tác giả còn khẳng định trong tương lai không xa Thái Lan là một nước công nghiệp mới ở châu Á. Dale Neef trong cuốn Kinh tế tri thức [133] tiếp cận dưới góc độ kinh tế, đã vẽ một bức tranh toàn cảnh về sự xuất hiện và những hệ quả của nền KTTT. Cuốn sách như là một phương tiện cung cấp câu trả lời cho bất cứ ai quan tâm tới nền KTTT như: các nhà kinh doanh, các nhà hoạch định chính sách, các học giả và các nhà nghiên cứu Cuốn sách là tập hợp các bài báo đề
  18. 9 cập rất nhiều vấn đề có nghĩa thực tiễn trong nền KTTT như: sự thay đổi từ việc sử dụng cơ bắp cho tới bộ não, ảnh hưởng của nó tới chính sách xã hội, giáo dục và đào tạo, chênh lệch giàu nghèo, thay đổi cơ cấu của công nhân, xuất hiện tầng lớp "công nhân tri thức" Từ việc phân tích hệ quả của nền KTTT, tác giả khẳng định trong nền KTTT với sự phát triển mạnh mẽ của KH&CN, viễn thông, quá trình toàn cầu hoá làm cho các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Loet Leydesdorff trong cuốn Nền kinh tế tri thức dựa trên: mô hình hoá, thước đo, mô phỏng [137] đã tiếp cận dưới góc độ CN, giới thiệu bộ sưu tập mang tính đột phá về lý thuyết và kỹ thuật để giúp người đọc hiểu động lực nội tại của KTTT, bao gồm cả các vấn đề như sự ổn định, dự đoán và tương tác giữa các thành phần. Sự kết hợp giữa lý thuyết, đo lường và mô hình hoá, nêu sức mạnh cần thiết để giải quyết những vấn đề phức tạp của hệ thống hiện đại nối mạng xã hội. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 1.2.1. Sách tham khảo, chuyên khảo Cuốn sách CNH và HĐH ở Việt Nam và các nước trong khu vực do Phạm Khiêm Ích và Nguyễn Đình Phan chủ biên [46] tập hợp nhiều bài nghiên cứu về CNH và kinh nghiệm của các nước trong khu vực. Các tác giả đều khẳng định CNH là phương hướng chủ đạo để phát triển đất nước dù cho hoàn cảnh, điều kiện quốc tế, trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta khác nhiều so với năm 1960, năm mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng để ra đường lối CNH. Trong phần kinh nghiệm nước ngoài, dựa vào kinh nghiệm CNH của Nhật, Thái Lan, Hàn Quốc các tác giả chỉ rõ dù các nước này CNH vào những thời điểm khác nhau, nhịp độ không giống nhau nhưng CNH là con đường phát triển chung của các nước trên thế giới.
  19. 10 Đỗ Hoài Nam trong cuốn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam [63] đã luận giải một số vấn đề lý thuyết cơ bản và kinh nghiệm thế giới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển ngành trọng điểm mũi nhọn trong thời kỳ CNH. Theo tác giả, đánh giá mức độ thành công của quá trình CNH của một quốc gia, người ta coi chuyển dịch cơ cấu ngành là một trong những chỉ tiêu đánh giá mức độ thành công. Theo tính quy luật chung, CNH cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành trong đó tỷ trọng của nông nghiệp ngày càng giảm xuống, tương ứng với mức tăng lên của hai ngành công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, do mỗi nước có cách tiếp cận khác nhau về mô hình và chiến lược CNH, nên tiến trình thay đổi cơ cấu ngành kinh tế có sự khác nhau. Tác giả đã phân tích thực trạng cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam, qua đó định dạng cơ cấu ngành, lựa chọn ngành trọng điểm trong những năm kế tiếp. Việc lựa chọn cơ cấu kinh tế phải phù hợp với tương quan giữa các nguồn lực phát triển và mục tiêu tăng trưởng nghĩa là ưu tiên phát triển một số ngành nhất định ở những mức độ xác định trong từng giai đoạn cụ thể. Để có cơ cấu kinh tế phù hợp tác giả cũng đã đề xuất các biện pháp kinh tế chủ yếu: huy động vốn, khuyến khích sự phát triển khu vực tư nhân, các khuyến khích về tài chính, thuế quan Tác giả còn đề xuất giải pháp phát triển tối ưu các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu CN cao, nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển ngành trọng điểm, mũi nhọn. Lê Bàn Thạch và Trần Thị Tri trong cuốn Công nghiệp hoá ở NIEs Đông Á và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam [80] đã nêu lên đặc điểm, bước đi, thành tựu, bài học của các nước Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông trong quá trình thực hiện CNH và việc vận dụng kinh nghiệm của các nước này trong chiến lược phát triển CNH, HĐH ở Việt Nam. Cuốn Kỷ yếu hội thảo Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với
  20. 11 Việt Nam [93] gồm hai tập, bao gồm bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo hàng đầu Việt Nam như: GS.TS Chu Tuấn Nhạ, GS.VS Đặng Hữu, GS.TS Chu Hảo, GS.TS Vũ Đình Cự Các bài viết đề cập tới xu hướng, khái niệm, đặc điểm nền KTTT, thách thức của nền kinh tế này đối với nước ta và khẳng định KTTT là con đường ngắn nhất giúp Việt Nam đuổi kịp các nước phát triển. Cũng có một số bài viết đề cập tới CNH, HĐH trong nền KTTT với những vấn đề cần giải quyết về thực trạng kinh tế nước ta hiện nay như: thay đổi tư duy, xây dựng kế hoạch cụ thể và dài hạn, tạo khâu đột phá, có những cơ chế chính sách phù hợp để tạo động lực thúc đẩy mọi người dân tham gia vào nền kinh tế này. Tác giả Phạm Thái Quốc trong cuốn Trung Quốc quá trình CNH trong 20 năm cuối thế kỷ XX [76] đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về CNH ở Trung Quốc, thực trạng CNH ở Trung Quốc từ năm 1979 đến nay chỉ ra một số kết quả bước đầu, những tồn tại và hướng giải quyết. Qua đó, khẳng định việc xem xét, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về kinh tế, văn hóa, địa lý , đạt được những thành công đáng kể trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và thực hiện CNH, HĐH như Trung Quốc là rất bổ ích và có ý nghĩa thiết thực. Tác giả cho rằng để có được thành công cần có những bước đi thận trọng và vững chắc, nắm chắc thời cơ để có những đối sách phù hợp. Nhất là ngoài việc khéo léo dựa vào các nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế khi mở cửa, thì phải biết lợi dụng, khai thác tổng hợp các yếu tố địa lý và dân tộc. Hơn nữa trong giai đoạn đầu, cần khuyến khích phát triển nhanh các ngành công nghiệp chế biến có khả năng cạnh tranh cao, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho xuất khẩu. Đây là kinh nghiệm dành cho các nước đi lên từ nông nghiệp và có điều kiện phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động Cuốn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam lý luận và thực tiễn
  21. 12 [9] tập hợp những bài viết của nhiều tác giả tiếp cận dưới các góc độ khác nhau về quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam: văn hóa, triết học, kinh tế Tuy nhiên các bài viết đều nhấn mạnh CNH, HĐH ở nước ta cần áp dụng CN mới, tiên tiến để rút ngắn so với các nước đi trước, trong đó nguồn lực quan trọng nhất đó là con người, nguồn lực của mọi nguồn lực được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển. Các tác giả còn chỉ ra sự cần thiết và nội dung, vai trò CNH, HĐH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của KH&CN trên thế giới. Đưa ra các giải pháp quan trọng thúc đẩy quá trình này đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc để xây dựng đất nước ta ngày càng hiện đại. Trần Đình Thiên trong cuốn Công nghiệp hóa ở việt Nam - Phác thảo và lộ trình [86] đã đưa ra khái niệm CNH "là quá trình cải biến nền kinh tế nông nghiệp dựa trên nền tảng kỹ thuật thủ công, mang tính hiện vật, tự cung - tự cấp thành nền kinh tế công nghiệp - thị trường" [86, tr.23]. Tác giả còn chỉ ra trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, để vượt qua tình trạng chậm phát triển, CNH ở Việt Nam không thể thực hiện tuần tự như các nước đi trước mà phải thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ: chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp hiện đại; phát triển KTTT tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Những nội dung này sẽ là những gợi mở để NCS kế thừa và phát triển trong quá trình thực hiện luận án. Lưu Ngọc Trịnh trong Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số nước trên thế giới hiện nay [92] đã hệ thống hóa lại một số cách hiểu khác nhau về nền KTTT, phân tích những đặc trưng cơ bản, mô tả chi tiết thực tế và thực trạng của các quốc gia trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan Qua đó, tác giả đã chỉ ra những chiến lược, chính sách khác nhau giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển khi tiến vào
  22. 13 nền KTTT. Đối với các nước đang phát triển với xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, thì tiếp cận nền kinh tế tri thức là một cơ hội tốt để, đuổi kịp các nước phát triển, trong đó có Việt Nam không thể bỏ qua xu thế này. Nguyễn Kế Tuấn trong cuốn Phát triển kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam [94] đã hệ thống hóa lý luận về KTTT, làm rõ sự cần thiết và khả năng phát triển KTTT để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH ở nước ta. Phác họa những kiến giải, khái quát mô hình chiến lược phát triển CNH, HĐH trong điều kiện từng bước phát triển KTTT. GS cũng khẳng định trong tiến trình CNH các nước đi sau vừa phải có bước đi "nhảy vọt", vừa có bước đi tuần tự, vấn đề là lựa chọn lĩnh vực hợp lý để áp dụng mỗi loại bước đi và kết họp chúng một cách tối ưu. Tác giả nêu lên những điều kiện cơ bản nhằm từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta như phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, định hướng đầu tư, huy động nguồn lực tài chính và mở rộng hợp tác quốc tế. Đặng Hữu trong cuốn Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam [45] đã tập trung nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc trưng, lịch sử hình thành và phát triển của KTTT; kinh nghiệm phát triển KTTT của một số nước để đưa ra gợi ý về định hướng và các giải pháp phát triển KTTT ở Việt Nam; khẳng định con đường phát triển của Việt Nam là "CNH định hướng xã hội chủ nghĩa", Quá trình CNH phải là quá trình phát triển một cách hài hòa kinh tế với văn hóa, xã hội, lấy con người làm trung tâm Đó là phải là CNH nhân văn. Đồng thời, CNH nước ta cũng phải là CNH sinh thái, CNH mà giữ gìn được thiên nhiên, không làm suy thoái môi trường [45, tr 200]. Với cách tiếp cận này, tác giả đã đưa ra những gợi ý để luận án kế thừa
  23. 14 để đề xuất giải pháp đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Vũ Đình Cự và Trần Xuân Sầm trong cuốn Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thứ” [18] khẳng định nói đến kinh tế tri thức không thể không nói đến các ngành CN cao: CN thông tin, CN sinh học, CN vật liệu tiên tiến - CN nano, CN năng lượng mới, với máy móc thông minh có trình độ vượt hẳn so với các máy móc cơ khí cổ điển. Đây chính là nòng cốt của sự hình thành nền KTTT cùng với những tác động xã hội to lớn như toàn cầu hóa, xã hội học tập, xã hội thông tin nối mạng. Tác giả cũng đã dành chương cuối cùng nói đến những nhận thức, quan điểm của Đảng về CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở Việt Nam hiện nay. Phạm Thái Quốc và Hoàng Văn Hiển trong cuốn Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Hàn Quốc (1961-1993) và kinh nghiệm đối với Việt Nam [75] đã nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Hàn Quốc từ năm 1961 đến 1993; đưa ra hai mô hình chiến lược (hướng nội và hướng ngoại), cơ cấu, cơ chế, chính sách, biện pháp mà Hàn Quốc đã thực hiện trong quá trình CNH, HĐH. Các tác giả chỉ ra những thành tựu tiêu biểu về kinh tế - xã hội và những hạn chế của Hàn Quốc trong hơn ba thập niên CNH, HĐH đất nước. Xác định các điều kiện, yếu tố bên trong, bên ngoài tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn này; rút ra những đặc điểm, quy luật phát triển chung, những kinh nghiệm phát triển (cả thành công và không thành công) của quốc gia này. Trong chừng mực nhất định, có thể tham khảo, vận dụng trong sự nghiệp CNH, HĐH của Việt Nam hiện nay trên khía cạnh gắn kết tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Trong cuốn Các mô hình CNH trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam [83] ở chương 1 tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung về CNH. Ở chương 2 dựa trên các cách phân loại khác nhau tác giả đã phân tích các mô hình CNH trên thế giới từ đó chỉ ra những điểm hợp lý và
  24. 15 bất hợp lý ở mỗi mô hình. Qua đó khẳng định CNH, HĐH ở mỗi giai đoạn, nội dung, bước đi và cách thức thực hiện đã có những đổi khác, và cũng không thể có một lời giải chung cho tất cả các quốc gia, mỗi nước đều có sự lựa chọn thích ứng với điều kiện cụ thể của mình. Tác giả cũng đã phác họa mô hình CNH được thực hiện tại Việt Nam qua hai thời kỳ trước và sau năm 1986, và chỉ rõ những bước chuyển lớn trong phát triển tư duy lý luận và thực tiễn của đảng qua 40 năm thực hiện CNH đất nước. Chương 3 rút ra một số kinh nghiệm CNH ở một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Sinhapore vận dụng vào lựa chọn mô hình CNH ở Việt Nam trong điều kiện mới. Phạm Ngọc Dũng trong cuốn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay [24] đã đề cập tới vai trò quan trọng của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH đất nước, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong phát triển bền vững. Tác giả đã phân tích thực trạng kinh tế - xã hội ở nông thôn nước ta cũng như nguyên nhân nảy sinh vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Từ đó đưa ra các giải pháp hợp lý có tính thực tiễn cao nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát và lâu dài: xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, CN tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại. 1.2.2. Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ Đặng Hữu trong đề tài Phát triển kinh tế tri thức - rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta [44] đã đề cập đến ba nội dung quan
  25. 16 trọng trong ba phần của đề tài: Phần I Sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức; Phần II: Kinh nghiệm từ sự phát triển kinh tế tri thức các nước; Phần III: Phát triển kinh tế tri thức để rút ngắn quá trình CNH, HĐH ở nước ta. Trong phần III, tác giả đã đánh giá thực trạng nền kinh tế Việt Nam, qua đó đưa ra định hướng phát triển KTTT ở Việt Nam, những yếu tố đảm bảo cho sự thành công của CNH rút ngắn. Phạm Văn Dần trong luận án tiến sĩ triết học Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay [22] đã xác định cơ sở khoa học của đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay gồm 7 đặc điểm cơ bản để chỉ ra sự khác nhau của quá trình CNH, HĐH hiện nay với các kiểu CNH đã có trong lịch sử; 4 điều kiện cơ bản thực hiện CNH, HĐH. Qua đó nêu lên những nội dung cụ thể của việc vận dụng các quy luật cơ bản của lý luận hình thái kinh tế - xã hội để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Lê Kim Chung trong luận án tiến sĩ kinh tế Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản ở duyên hải Nam Trung Bộ [11] đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn tiến hành CNH, HĐH ngành thủy sản, đặc biệt là xác định những nội dung có tính quy luật về CNH, HĐH ngành thủy sản nói chung và ở duyên hải Nam Trung Bộ nói riêng. Luận án đề xuất 3 phương hướng cơ bản nhằm định hướng quá trình CNH, HĐH ngành thủy sản đến năm 2010 và đưa ra các giải pháp cơ bản: huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, ứng dụng khoa học CN hiện đại, phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô, đây chính là đòn bảy thức đẩy ngành thủy sản của vùng sớm khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn. Lê Hữu Đốc trong luận án tiến sĩ kinh tế Công nghiệp thành phố Đà Nẵng thực trạng và giải pháp phát triển [39] đã nêu nguyên tắc, các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp ở một địa phương, xác định vị trí, vai
  26. 17 trò của ngành kinh tế trọng điểm trong phát triển kinh tế, chỉ ra 7 tiêu chí và phương pháp xác định ngành công nghiệp trọng điểm dưới góc độ kinh tế phát triển. Luận án cũng đã phân tích sự phát triển công nghiệp ở thành phố Đà Nẵng qua các giai đoạn theo các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu, những lợi thế và hạn chế để phát triển công nghiệp của thành phố; đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu để phát triển nhanh, bền vững công nghiệp thành phố trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với xây dựng nền kinh tế tri thức. Cao Quang Xứng trong luận án tiến sĩ kinh tế Tác động của kinh tế tri thức đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam [116] đã phân tích tác động của KTTT tới phát triển kinh tế xã hội và quá trình CNH, HĐH của các nước đi sau. Phân tích thực trạng tiến trình CNH, HĐH của nước ta dưới sự tác động của KTTT trong những năm gần đây; khẳng định nước ta cần phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tận dụng cơ hội của nền KTTT trong thời gian tới. 1.2.3. Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành Tác giả Chu Văn Cấp trong bài viết Tìm hiểu vấn đề: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, trong văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng" [7] đã khẳng định xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển KTTT, đòi hỏi các nước đi sau CNH, HĐH phải đồng thời thực hiện 2 quá trình: vừa xây dựng nền công nghiệp theo hướng hiện đại, vừa phải phát triển KTTT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Để đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở nước ta hiện nay cần phải hoàn thiện thế chế kinh tế thị trưởng định hướng XHCN. Phạm Ngọc Tuấn trong bài Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam [96] đã cho rằng CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT phải trở thành đường lối phát triển có tính chiến lược của nước ta. Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT có thể hiểu là
  27. 18 một phương thức CNH mới trong điều kiện của cuộc cách mạng KH&CN, của xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ. Tác giả cũng khẳng định muốn rút ngắn quá trình CNH, HĐH thì phải nắm bắt, khai thác, sử dụng các thành tựu khoa học và CN hiện đại, cùng với những yếu tố của nền KTTT. Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài Công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và sự phát triển bền vững [10] cho rằng dưới góc nhìn lịch sử, sự đánh giá của Đảng về tính tất yếu, vị trí, vai trò của công cuộc CNH đất nước từ Đại hội III (1960) đến Đại hội XI (2011) là nhất quán và xuyên suốt. Chúng ta không thể sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển nếu không tiến hành CNH theo hướng hiện đại và không từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên để kinh tế phát triển bền vững, thực hiện thành công CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển KTTT phải kết hợp hài hòa, có hiệu quả 3 mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Đinh Thế Phong trong bài Công nghệ: con đường duy nhất để công nghiệp hóa ở thế kỷ 21 [67] trên cơ sở luận giải 3 đặc điểm chỉ sự khác biệt giữa công nghiệp hóa kinh điển và công nghiệp hóa thế kỷ 21 đã khẳng định: nếu không nghiên cứu, phát hiện quy luật và tìm cách hợp lý để "lách", nghiên cứu các "đứt đoạn" hay còn gọi là các cửa sổ trong sự tiến hóa của CN thì không thể CNH thành công. 1.3. NHỮNG "KHOẢNG TRỐNG" TRONG NGHIÊN CỨU CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRÊN PHẠM VI MỘT TỈNH, THÀNH PHỐ Các công trình và bài viết nêu trên đã tập trung vào nghiên cứu những vấn đề liên quan đến CNH, HĐH và KTTT trên phạm vi một quốc gia. Những vấn đề được phân tích và đã làm rõ ở đây là: CNH trong điều kiện mới của cách mạng KH&CN là gì? CNH, HĐH chỉ thuần túy về mặt kinh tế hay CNH,
  28. 19 HĐH cả về mặt xã hội? Vì sao một nước đang phát triển lại có thể thực hiện được con đường CNH rút ngắn? Để thực hiện thành công con đường đó cần phải làm gì? Vai trò của nhà nước trong CNH, HĐH? Một số tác động của CNH, HĐH về mặt kinh tế, xã hội cũng được một số tác giả bàn luận. Riêng vấn đề KTTT đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu kể từ giữa những năm 90 thế kỷ XX lại đây. Những vấn đề lý thuyết như nhận thức KTTT là gì? Đặc điểm, sự khác biệt và tính hơn hẳn của KTTT so với kinh tế công nghiệp. Tiêu chuẩn để xác định một nền kinh tế đạt trình độ KTTT và con đường để hướng đến sự phát triển nền kinh tế này đối với một quốc gia, kể cả quốc gia công nghiệp phát triển và quốc gia đang phát triển. Tổng hợp các nghiên cứu về CNH, HĐH, phát triển KTTT như đã trình bày ở trên cho thấy các công trình nghiên cứu về CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức còn rất ít. Chỉ có một vài công trình nghiên cứu về vấn đề này như tác giả Đặng Hữu [44,45], Cao Quang Xứng [116] trên phạm vi cả nước, chưa có công trình nào nghiên cứu về CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trên địa bàn một tỉnh, thành phố ở Việt Nam, đây là vấn đề vẫn còn đang "bỏ ngỏ". Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, việc bổ sung vào khoảng trống các vấn đề nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT được luận án xác định là hướng phát triển tiếp theo. Những nội dung còn trống khi nghiên cứu về CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức cần tiếp tục nghiên cứu: - Cần làm rõ thế nào là CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT? Những căn cứ lý luận và thực tiễn của việc gắn CNH, HĐH với phát triển KTTT ở nước ta trong đó có thành phố Đà Nẵng. - Chỉ ra những nhân tố khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài có ảnh hưởng đến tiến trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trên phạm
  29. 20 vi một tỉnh, thành phố ở Việt Nam để có giải pháp thích hợp. - Nội dung của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT bao gồm những gì? nó được tiến hành trong cơ chế nào?. Những công cụ cần thiết để thực hiện quá trình gắn kết đó trên địa bàn một tỉnh, thành phố? - Cần có những tổng kết, đánh giá khách quan, khoa học về thực trạng tiến hành CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây; làm rõ những thành công, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân làm căn cứ xác định phương hướng và giải pháp thúc đẩy tiến trình này trên địa bàn những năm tới. Trên cơ sở hệ thống hóa khung lý thuyết và nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT trên phạm vi một tỉnh, thành phố Việt Nam, tham khảo kết quả của các công trình, bài viết trong nước và trên thế giới, nghiên cứu sinh lựa chọn và thực hiện đề tài luận án "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở thành phố Đà Nẵng" dưới góc độ Kinh tế chính trị. Đây là hướng và đối tượng nghiên cứu mới, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố mà nghiên cứu sinh được biết cho tới nay. Với đối tượng nghiên cứu này, tác giả luận án mong muốn góp phần vào lời giải cho vấn đề bức thiết hiện nay trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
  30. 21 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRÊN PHẠM VI MỘT TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM 2.1. QUAN NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC 2.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức 2.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa Khi nghiên cứu ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp: hiệp tác giản đơn, phân công công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, C. Mác cho rằng đây là quá trình chuyển nền kinh tế từ chủ yếu là nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp. Ông viết: "Cái máy điểm xuất phát của cuộc cách mạng công nghiệp, đã thay thế người lao động chỉ sử dụng có mỗi một dụng cụ, bằng một cơ cấu sử dụng ngay một lúc nhiều công cụ như nhau hoặc cùng loại và do một động lực làm cho chuyển động" [56, tr.542]; "Vậy là nền đại công nghiệp phải nắm lấy những tư liệu sản xuất đặc trưng của nó, tức là bản thân máy móc, và dùng máy móc để sản xuất ra máy móc. Nhờ thế, nó đã tạo ra được cho mình một cơ sở kỹ thuật thích hợp và đứng vững trên đôi chân của mình" [56, tr.554]. Dựa trên cơ sở phân tích sự phát triển của máy móc tự động, C.Mác đã chỉ rõ vai trò ngày càng quan trọng của KH&CN, khẳng định trong xã hội công nghiệp máy móc sẽ dần thay thế cho lao động cơ bắp, lao động trực tiếp trở thành lao động thứ yếu. Từ đó rút ra những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn về tăng năng suất lao động xã hội, xã hội hóa lao động, cách mạng kỹ thuật trong quá trình chuyển biến của nền sản xuất xã hội từ sản xuất nhỏ, thủ công, phân tán lên sản xuất lớn, cơ khí hóa, tập trung. Cuối thế kỷ thứ XVIII, cuộc Cách mạng công nghiệp được diễn ra ở nước Anh với sự xuất hiện "chiếc thoi bay" trong lĩnh vực se sợi. Nước Anh
  31. 22 trở thành quê hương của Cách mạng công nghiệp, là nơi tiến hành CNH đầu tiên. Manchester là thành phố công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Kể từ đây, nhân loại bước vào một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn CNH. Sau Anh là lần lượt các nước: Pháp vào đầu thế kỷ XIX, Mỹ, Ðức vào giữa thế kỷ XIX, Nhật, Nga và nhiều nước châu Âu khác vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã trở thành nước công nghiệp. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (giữa thế kỷ XX), nhiều nước thuộc Thế giới thứ ba tiến hành quá trình này với Chiến lược CNH riêng của mình. Một số dựa theo mô hình CNH của Liên xô (cũ), một số dựa theo mô hình của Mỹ. Ðến nay, một số nước đã thực hiện CNH rút ngắn thành công, trở thành nước công nghiệp. Tuy nhiên, còn không ít quốc gia trong đó có Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp, đang trong giai đoạn tiến hành CNH. Do thời điểm lịch sử tiến hành CNH ở các nước không giống nhau nên đã có những quan niệm khác nhau về CNH. Việc nhận thức đúng phạm trù CNH trong một giai đoạn phát triển cụ thể của đất nước là rất cần thiết, nó không chỉ có ý nghĩa về lý luận mà còn trong hoạch định và thực thi chính sách phát triển. Quan niệm giản đơn nhất về CNH cho rằng: "CNH là đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà máy, các loại công nghiệp " [46, tr.48]. Quan niệm được khái quát từ thực tiễn CNH ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, đối tượng CNH ở đây là ngành công nghiệp, còn sự phát triển của các ngành khác chỉ là hệ quả của phát triển công nghiệp. G.A.Cudơlốp và S.P.Perơvusin các nhà khoa học Liên Xô (cũ), từ thực tiễn tiến hành CNH nửa đầu thế kỷ XX, đã nêu quan niệm về CNH gắn với tính chất chế độ xã hội ở Liên Xô lúc bấy giờ: CNH xã hội chủ nghĩa là phát triển đại công nghiệp, trước hết là phát triển công nghiệp nặng, nhằm bảo đảm cải tạo toàn bộ nền kinh
  32. 23 tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật cơ khí tiên tiến, bảo đảm hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa chiến thắng hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa và hàng hóa nhỏ, bảo đảm cho nước nhà không bị lệ thuộc về kinh tế và kỹ thuật vào thế giới tư bản chủ nghĩa, tăng cường khả năng quốc phòng [83, tr.12]. Theo quan niệm của Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), thì "CNH là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển một cơ cấu kinh tế nhiều ngành với kỹ thuật hiện đại" [83, tr.50]. Với quan niệm này, CNH là quá trình phát triển bao gồm mọi mặt, mọi ngành kinh tế nhằm đạt tới không chỉ mục tiêu kinh tế mà còn cả mục tiêu xã hội. Ở Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (1960) xác định: "CNH là quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là quá trình tích lũy xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng" [83, tr.15]. Quan niệm đã nói lên mục tiêu, nội dung, tính chất xã hội chủ nghĩa của quá trình CNH, nhưng dường như đã đồng nhất CNH với cuộc cách mạng kỹ thuật. Ngoài những quan niệm trên, trong kho tàng tri thức của nhân loại còn có những quan niệm khác về CNH dựa trên một số mục tiêu nhất định về trình độ phát triển của tư liệu lao động, phương thức tổ chức sản xuất, thu nhập quốc dân, cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp, cơ cấu lao động, mức độ phát triển công nghiệp chế tác, loại công cụ sản xuất, các hàm sản xuất cơ bản, phương thức sản xuất Tuy có những quan niệm khác nhau về CNH, nhưng về cơ bản các quan niệm trên vẫn có những điểm chung và có thể được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa hẹp, CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên nền kinh tế lấy công nghiệp làm chủ đạo, từ chỗ tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm chủ yếu giảm dần và nhường chỗ cho lao
  33. 24 động công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn. Theo nghĩa rộng, CNH là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) lên kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp. Nó không chỉ đơn thuần là những biến đổi về kinh tế mà bao gồm cả các biến đổi về văn hóa và xã hội từ trạng thái nông nghiệp lên xã hội công nghiệp, tức là trình độ văn minh cao hơn. 2.1.1.2. Quan niệm về hiện đại hóa Thuật ngữ HĐH đã được nhiều sách báo trong và ngoài nước bàn đến từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX khi hàng loạt nước ở Châu Á hóa rồng. Đến nay, cũng đã có những cách nhìn nhận khác nhau về HĐH: Theo Nguyễn Thành Bang: "thực chất quá trình HĐH đất nước trong thời đại ngày nay là quá trình phát triển CN nhằm làm thay đổi cơ cấu các ngành sản xuất, cơ cấu lao động và cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, không ngừng nâng cao hiệu quả cũng như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế" [54, tr.90]. Quan niệm này đã đồng nhất HĐH với CNH, đồng thời hạn chế quá trình HĐH chỉ trong phạm vi kinh tế. Theo Nguyễn Thế Nghĩa, HĐH là "một quá trình, nhờ đó các nước đang phát triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị và củng cố cơ cấu xã hội của họ, nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị giống hệ thống của những nước phát triển" [54, tr.91]. Với quan niệm này, HĐH được hiểu là một quá trình thúc đẩy kinh tế và một số mặt cụ thể của xã hội trở nên hiện đại hơn, tuy nhiên chưa có tính khái quát và chưa đi vào thực chất của HĐH. TS. Trần Hồng Lưu quan niệm "HĐH là quá trình sử dụng những thành tựu KH&CN hiện đại và những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất" [54, tr.94].
  34. 25 Trong các cuốn Từ điển Tiếng việt, "Hiện đại hóa" được hiểu là làm cho một cái gì đó mang tính chất hiện đại, tiên tiến, mang tính chất của thời đại ngày nay [84, tr.545]. Từ những phân tích trên, có thể hiểu HĐH là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống lên xã hội hiện đại, quá trình làm cho nền kinh tế và đời sống xã hội mang tính chất và trình độ của thời đại ngày nay. Đây không chỉ là HĐH trong lĩnh vực kinh tế, mà nó còn bao hàm phạm vi rộng lớn hơn, đó là HĐH toàn bộ đời sống xã hội. Đối với các nước phát triển, HĐH là quá trình chuyển dịch từ xã hội dựa trên nền kinh tế công nghiệp lên xã hội dựa trên nền kinh tế tri thức. HĐH là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ trình phát triển để đuổi kịp các nước đi trước và phát triển hơn. Do tiến hành CNH trong bối cảnh mới của thế giới nên bên cạnh việc dựa vào các nguồn lực trong nước, các nước đang phát triển còn tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài thông qua thu hút đầu tư để tìm kiếm nguồn vốn và CN mới. Đây chính là kiểu CNH rút ngắn hiện đại. Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về CNH và căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam là một nước đi sau đang trong quá trình phát triển, Đảng ta tại Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa VII (năm 1994), nêu chủ trương tiến hành xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn mới bằng con đường CNH, HĐH và nêu quan niệm: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với CN, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học CN, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [32, tr.65]. Đây là một quan niệm mới dùng để chỉ quá trình tiến hành xây dựng cơ
  35. 26 sở vật chất - kỹ thuật cho phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta phải đồng thời gắn kết hai quá trình CNH và HĐH trong từng bước phát triển. 2.1.1.3. Khái niệm về kinh tế tri thức Nhân loại đã trải qua hai nền văn minh là văn minh nông nghiệp và văn minh công nghiệp. Hiện nay đang trong giai đoạn quá độ chuyển lên một nền văn minh mới cao hơn đó là nền văn minh trí tuệ. Theo đó, nền kinh tế được chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và đang quá độ chuyển lên KTTT. Thực tế phát triển đúng như dự báo của C.Mác từ cuối thế kỷ XIX1. Năm 1995, Tổ chức Hợp tác và phát triển của các nước phát triển (OECD) đã đưa vào sử dụng thuật ngữ "Kinh tế tri thức" dùng để chỉ một nền kinh tế mới thay thế cho nền kinh tế công nghiệp mà nhân loại đang hướng đến. Đến năm 2000, tổ chức này cùng với Diễn đàn kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APEC) nêu quan niệm: "Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế" [45, tr.98]. Thuật ngữ KTTT được đưa vào Văn kiện Đại hội X và Đại hội XI của Đảng ta và được hiểu: các hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, tri thức chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội và sự phát triển của nó được dựa trên bốn trụ cột: "i) Lực lượng lao động trình độ cao, chất lượng cao; ii) Hệ thống sáng tạo và ứng dụng CN có hiệu quả; iii) Hệ thống cơ sở hạ tầng, thông tin, tin học hiện đại; và iv) Hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế hiện đại" [85, tr.153]. Tuy đến nay đã có nhiều quan niệm và giải thích khác nhau về KTTT, song nhìn chung các nhà khoa học đều có sự thống nhất trong nhận thức về 1 C.Mác đã dự báo: "Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao động đã chi phí , mà đúng ra, chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất" [57, tr 368-369].
  36. 27 bản chất của nền KTTT khác với hai nền kinh tế trước nó. Nếu trong quá trình sản xuất của nền kinh tế nông nghiệp dựa chủ yếu vào sức cơ bắp của con người và tài nguyên thiên nhiên, trong nền kinh tế công nghiệp tuy đã có sự trợ giúp của máy móc nhưng sức cơ bắp của con người và tài nguyên thiên nhiên vẫn giữ trọng yếu, thì trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Trên thực tế, xu hướng phát triển KTTT đã được khởi động cách đây hàng chục năm, nhất là từ cuối những năm 70 thế kỷ XX khi trên thế giới bắt đầu diễn ra cuộc cách mạng KH&CN hiện đại. Tuy nhiên, không có một nền kinh tế nông nghiệp hay nền kinh tế công nghiệp thuần túy. Tức là trong nền kinh tế nông nghiệp cũng đã chứa đựng một số yếu tố của nền kinh tế công nghiệp và trong nền kinh tế công nghiệp cũng vẫn còn một số yếu tố của nền kinh tế nông nghiệp. Trong nền kinh tế nông nghiệp, tri thức chủ yếu là những kinh nghiệm được tích lũy từ các hoạt động thực tế, năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất đều hết sức thấp kém. So với nền kinh tế nông nghiệp, trong nền kinh tế công nghiệp, tri thức đã chiếm vị trí ngày càng quan trọng hơn. Nó không chỉ là kinh nghiệm từ các hoạt động thực tế, mà còn khám phá ra những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy để đưa ra những sáng chế, phát minh nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trong nền KTTT, tri thức là bộ phận nguồn lực quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất hiện đại, mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại đóng vai trò quyết định sự phát triển xã hội. Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các công cụ cơ khí, cho năng suất lao động cao; còn nền KTTT, chủ thể là công nhân trí thức với công cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức. Có thể hiểu kinh tế tri thức là một nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
  37. 28 Phát triển KTTT là một xu hướng tất yếu trong thời đại ngày nay. Trong xu hướng này, nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc và toàn diện cả về trình độ CN, ngành sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Tri thức, KH&CN, kỹ năng của con người trở thành những yếu tố quyết định nhất của sản xuất và trở thành lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu. Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại chính là bước quá độ chuyển nền kinh tế công nghiệp lên nền KTTT. Trong nền KTTT, vai trò của con người trong lực lượng sản xuất tuy không thay đổi, họ vẫn là chủ thể của quá trình sản xuất, sáng tạo và áp dụng những thành tựu mới của KH&CN, nhưng tính chất hoạt động và yêu cầu đặt ra đối với họ đã có sự thay đổi căn bản so với người lao động trong hai nền kinh tế trước. Trong nền kinh tế tri thức, người lao động là người lao động trí óc, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất, sản phẩm của họ là những phát minh được ứng dụng ngay vào sản xuất. Tri thức, KH&CN là yêu cầu hàng đầu đối với người lao động. Phát triển KTTT đã và đang được diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở các nước công nghiệp phát triển. Nhưng do sức hấp dẫn của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, mà KTTT đã và đang cuốn hút ngày càng nhiều nước đang phát triển. Đã có một số nước đang phát triển thành công nhờ phát triển KTTT. Nhận thức tầm quan trọng của KTTT trong quá trình CNH, HĐH đất nước, kể từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001), nước ta bước vào giai đoạn mới, giai đoạn CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Quan niệm CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT được hình thành trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước. Việt Nam không tiến hành CNH theo kiểu cũ, không lặp lại sai lầm nóng vội, chủ quan của giai đoạn CNH trước đây. Tiến trình CNH trong giai đoạn mới không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về CN. Con đường CNH, HĐH của nước ta cần được rút ngắn về thời gian. Phải phát huy những lợi thế của đất nước, tận
  38. 29 dụng mọi khả năng để đạt trình độ CN tiên tiến, đặc biệt là CN thông tin, CN sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về KH&CN gắn với phát triển KTTT, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 2.1.1.4. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam Bối cảnh quốc tế có những biến đổi mới xu hướng toàn cầu hóa và cách mạng KH&CN phát triển mạnh mẽ, một số nước công nghiệp phát triển đang chuyển lên nền KTTT, để khắc phục nguy cơ tụt hậu khá xa về CN và kinh tế thì nước ta phải tranh thủ áp dụng những thành tựu mới về KH&CN để phát triển. Do vậy quá trình CNH ở nước ta hiện nay phải gắn với HĐH; CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT như Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức [35, tr.28]. Một số nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về tiến trình CNH ở nước ta hiện nay đã đưa ra kết luận: CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân ở nước ta phải đồng thời kết hợp hai quá trình tuần tự và nhảy vọt, tuần tự từ thủ công lên nửa cơ khí rồi lên cơ khí hóa và nhảy vọt lên công nghệ hiện đại ở những khâu những ngành có điều kiện. Do đó, nước ta phải lồng ghép hai hệ thống công nghệ: công nghệ cổ điển (cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa ) và công nghệ hiện đại (công nghệ tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa ) [41, tr.374].
  39. 30 Theo tử điển Tiếng Việt gắn có nghĩa là "có quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau" [84, tr.474]. Như vậy CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay là hai quá trình có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, là con đường, cách thức của nước đi sau nhằm rút ngắn quá trình phát triển để sớm trở thành một nền kinh tế hiện đại. Từ quan niệm chung về CNH, HĐH, kinh tế tri thức có thể hiểu một cách khái quát CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức: là quá trình sử dụng một cách phổ biến trí lực của con người, CN luôn được đổi mới sáng tạo vào tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế tạo ra những ngành mới, sản phẩm có giá trị gia tăng cao, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở nước ta hiện nay được thể hiện ở các nội dung sau: i) Kết hợp CN truyền thống và CN hiện đại; ii) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức, thúc đẩy tiến bộ xã hội; iii) Coi trọng việc gắn giữa nghiên cứu và triển khai (Research and Deployment - R&D); iv) Coi trọng phát triển CN thông tin; v) Kết hợp phát triển CN nội sinh và CN ngoại sinh; vi) Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tri thức hóa. CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT ở nước ta là con đường, cách thức lựa chọn phát triển trong bối bối cảnh mới khi nhân loại bước vào thế kỷ 21. Trong đó, điểm nổi bật là phải gắn kết CN truyền thống với CN hiện đại trên cơ sở coi trọng yếu tố tri thức; phát huy lợi thế của đất nước, địa phương, nâng cao năng lực sản xuất những ngành công nghiệp có tính nền tảng; đồng thời phát triển mạnh các ngành kinh tế dựa vào tri thức, CN cao, CN tiên tiến như CN thông tin, CN vật liệu, CN năng lượng tạo ra nhiều CN mới, sản phẩm mới, việc làm mới đạt tốc độ tăng trưởng cao, hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới.
  40. 31 2.1.2. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam 2.1.2.1. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là cách thức để nhanh chóng thoát khỏi lạc hậu CNH được bắt đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII đây là con đường tất yếu của mọi quốc gia muốn phát triển, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu. CNH tạo lập một nền kinh tế dựa trên nền tảng công nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, thúc đẩy sản xuất đạt năng suất, hiệu quả, chất lượng cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Còn HĐH chỉ mới bắt đầu thực hiện và gắn liền với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật từ giữa thế kỷ XX đến nay. Thực chất HĐH là quá trình sử dụng những thành tựu khoa học và CN hiện đại và những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất làm cho nó trở nên hiện đại hơn, tiên tiến hơn. Trong thời đại mà nền KTTT là tài sản chung của nhân loại; CN thông tin và truyền thông đóng vai trò chủ chốt trong mọi lĩnh vực; các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng tri thức cao chiếm đa số; đầu tư vô hình cho con người giáo dục, khoa học và văn hóa lớn hơn đầu tư hữu hình cho cơ sở vật chất, CN đổi mới rất nhanh vòng đời CN được rút ngắn, tương lai trong thế kỷ XXI không còn công nhân trực tiếp lao động chân tay vì nền sản xuất hoàn toàn tự động hóa, thì việc áp dụng những thành tựu KH&CN vào quá trình CNH, HĐH là điều mà không một quốc gia nào được bỏ lỡ. CNH, HĐH theo quan điểm của Đảng ta là sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với CN, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại. Theo tác giả khi áp dụng nền kinh tế tri thức để rút ngắn quá trình này chính là sử dụng một cách phổ biến trí lực của con người cùng với CN, phương tiện hiện đại trong mọi lĩnh vực luôn được đổi mới để phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
  41. 32 Vì vậy chúng ta không thể đi theo con đường CNH tuần tự của các nước tư bản trước kia sẽ mất tới hàng trăm năm mà phải kết hợp giữa CNH với HĐH, giữa CNH, HĐH với phát triển KTTT. Đối với Việt Nam để tồn tại trong tiến trình toàn cầu hóa sâu rộng như hiện nay phải biết nắm lấy thời cơ, tranh thủ nắm bắt tri thức khoa học và CN mới, những thành quả của kinh tế tri thức chắc chắn sẽ giúp chúng ta từ một nước phát triển trung bình vươn lên thành nước phát triển sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.1.2.2. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là giải pháp bắt buộc để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội hiện thực Tiến trình phát triển của lịch sử loài người đã khẳng định rằng, mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên nền tảng cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Bất cứ quốc gia đang phát triển nào muốn trở thành nền kinh tế hiện đại đều phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của một nền sản xuất hiện đại. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao, dựa trên trình độ KH&CN hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sở dĩ chiến thắng được sản xuất phong kiến là do tạo ra nền đại công nghiệp. Lênin đã từng nói chủ nghĩa xã hội chỉ có thể chiến thắng phương thức sản xuất tư bản khi có nền sản xuất hiện đại, có năng suất lao động cao hơn gấp nhiều lần so với chủ nghĩa tư bản hiện có. Hay nói cách khác, chủ nghĩa xã hội hiện thực chỉ được xây dựng
  42. 33 trên cơ sở khi mà lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa cao hơn nhiều nhiều lần so với chủ nghĩa tư bản, khi chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật lớn hơn của chủ nghĩa tư bản thì chủ nghĩa xã hội hiện thực là ước mơ mà thôi. Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội thì phải CNH, HĐH đất nước đây là giải pháp bắt buộc nhất là đối với nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản như ở Việt Nam. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội", "Muốn đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa" [58, tr.13-159]. Trong điều kiện cuộc cách mạng KH&CN đang diễn ra mạnh mẽ, kinh tế thế giới sẽ có những biến động to lớn, theo chiều hướng chuyển mạnh sang KTTT. Lực lượng sản xuất của xã hội loài người bước lên một thang bậc mới, với sự tăng vọt về năng suất, chất lượng, hiệu quả, các nước không đủ khả năng sẽ bị tụt hậu. Vì vậy để xây dựng thành công chủ nghĩa xã ở nước ta hiện nay thì phải đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT. Theo đó có thể nói, CNH, HĐH ở Việt Nam không chỉ khác với các nước đã tiến hành CNH về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành mà cả mục tiêu chiến lược. Chính sự khác biệt này đã làm nên tính đặc thù của sự nghiệp CNH, HĐH mà chúng ta đang tiến hành. 2.1.2.3. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức bắt nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn Nói tới hội nhập kinh tế là nói tới việc tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Hiện nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao đầy đủ với 169 nước trong đó có tất cả các nước láng giềng và các nước lớn có quan hệ thương mại với trên 225 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của hầu hết các tổ chức quốc tế chủ yếu như: Thành viên của hiệp hội các quốc
  43. 34 gia Đông Nam Á (ASEAN) và bắt đầu tham gia khu vực mậu dịch tự do Asean (AFTA); Việt Nam gia nhập diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC); đặc biệt 7/11/2006 nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Cũng chính từ môi trường hòa bình, hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực, lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực - nguồn vốn, CN mới, kinh nghiệm quản lý mở rộng thị trường để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Hội nhập vào nền kinh tế thế giới là một xu thế tất yếu, ngày nay không một nền kinh tế nào có thể đứng cô lập mà phát triển được, Việt Nam không thể nằm ngoài dòng chảy đó. Quá trình hội nhập kinh tế sẽ mang lại những cơ hội to lớn mà nếu biết tranh thủ sẽ có tác động tích cực đến việc rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước, song cũng đặt ra những thách thức hết sức gay gắt. Chủ động hội nhập vào kinh tế thế giới là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Không thể thoát cảnh nghèo nàn, lạc hậu, nếu đứng ngoài, biệt lập với thế giới, đặc biệt khi định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, càng không thể đóng cửa mà phải tận dụng mọi nguồn lực, trong đó nguồn ngoại lực là quan trọng. V.I.Lênin đã từng nói: Chủ nghĩa xã hội = Chính quyền Xô Viết + trật tự đường sắt Phổ + Kỹ thuật và cách tổ chức các tờrớt Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ , qua đó chúng ta hiểu rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được xây dựng thành công trên cơ sở những thành tựu cao nhất của KH&CN hiện đại. Với lợi thế về nguồn nhân lực và lợi thế của nước đi sau trong một vùng mà CN, tư bản và tri thức kinh doanh đang di chuyển nhanh chóng, Việt Nam hoàn toàn có khả năng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực. Tuy nhiên đó mới chỉ là tiềm năng và cơ hội. Điều kiện đủ là phải quyết tâm thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, mạnh dạn đổi mới để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các
  44. 35 thành phần kinh tế, tích cực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đó là những yếu tố quan trọng để tích lũy nhanh và kinh tế phát triển có hiệu quả. Như vậy, bất cứ một tỉnh, thành phố nào ở Việt Nam muốn nhanh chóng thoát nghèo, trở thành thành phố hiện đại thì việc thực hiện đường lối CNH, HĐH với phát triển KTTT là việc cần thiết. Đây cũng chính là thực hiện theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên còn tùy thuộc vào hoàn cảnh địa lý, đặc thù của địa phương mà đưa ra những chính sách cụ thể, lựa chọn cho tỉnh hay thành phố mình những ngành nghề phù hợp để phát triển. 2.1.2.4. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức do tác động nhiều mặt của quá trình này đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội Tác động của CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT đối với xã hội loài người vô cùng to lớn, nó không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, mà còn kéo theo sự biến đổi trong phương thức sáng tạo của cải, trong lối sống và tư duy của con người. Trong nền KTTT, các quy trình sản xuất đều được tự động hoá. Máy móc không chỉ thay thế con người những công việc nặng nhọc, mà thay thế con người ở những khâu phức tạp của sản xuất và quản lý, không chỉ thay thế thao tác lao động của con người mà cả thao tác tư duy. Trong nền kinh tế toàn cầu, với sự phát triển của internet, thương mại điện tử đang trở thành một lĩnh vực phát triển rất mạnh mẽ, nó thúc đẩy các ngành sản xuất dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới, và đặc biệt quan trọng với các nước đang phát triển, nhất là đối với vùng xa xôi hẻo lánh, các nước và các vùng này có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, mặt trái CNH, HĐH, nền KTTT đang đặt ra những thách thức rất lớn, đó là sự cách biệt giàu nghèo, sự phân hoá giữa một bên là các quốc gia, dân tộc biết nắm bắt và khai thác những nguồn lợi từ KH&CN, và một bên là các quốc gia, dân tộc không có hoặc chưa phát triển những CN đó. Vì vậy với sự phát triển như
  45. 36 vũ bão của KH&CN, quốc gia nào, dân tộc nào nhanh chóng nắm bắt và làm chủ được CN thì sẽ khai thác được nhiều hơn, nhanh hơn lợi thế của mình. Cũng chính từ đây nảy sinh một thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển như nước ta đó là làm thế nào để phát huy được thế mạnh nguồn nội lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội mà không mất đi văn hoá truyền thống quý báu của dân tộc. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay tất yếu phải khai thác được những tiềm năng thế mạnh của đất nước, thúc đẩy phát triển KH&CN, coi đó là một điều kiện cần thiết để đạt được những mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nhận thức tính tất yếu, sự cần thiết và tác động nhiều mặt của CNH, HĐH trong bối cảnh mới của thế giới và trong nước, kể từ Đại hội IX, Đảng ta nêu chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với từng bước phát triển KTTT. Chủ trương này được tiếp tục khẳng định tại Đại hội XI với yêu cầu cấp thiết hơn: " Phát triển mạnh khoa học, CN làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước" [36, tr 218]. 2.2. NỘI DUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC TRÊN PHẠM VI MỘT TỈNH, THÀNH PHỐ Ở VIỆT NAM Bất cứ tiến trình CNH, HĐH nào đều thực hiện hai nội dung cơ bản là: phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhưng đối với quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở một tỉnh, thành phố không phải chỉ thực hiện ở 2 nội dung, mà nó còn thể hiện ở sự phát triển KH&CN, thúc đẩy kinh tế phát triển theo hướng bền vững, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tri thức và còn phụ thuộc vào các nhân tố ảnh hưởng khác nữa.
  46. 37 2.2.1. Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố ở Việt Nam 2.2.1.1. Kết hợp công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại Trong "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020", Đảng ta xác định: Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới CN quốc gia, có chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu CN hiện đại, trước hết là đối với những ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn; ưu tiên phát triển CN; ứng dụng nhanh khoa học và CN vào lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp nông thôn; sử dụng hợp lý CN dùng nhiều lao động. Nhanh chóng hình thành một số cơ sở nghiên cứu - ứng dụng mạnh, đủ sức tiếp thu, cải tiến CN và sáng tạo CN mới gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh [36, tr.134]. Theo mục tiêu trên, cần áp dụng kỹ thuật, CN tiên tiến của thế giới để tạo ra những sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm trong tất cả các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, cụ thể như sau: Thứ nhất: Hiện đại hóa một số khâu giữ vai trò quyết định đối với CN truyền thống chủ yếu là các ngành các ngành dựa trên cơ sở khai thác có hiệu quả các lợi thế của địa phương và đất nước. Việc phát triển các ngành có tiềm năng, lợi thế nhằm tích lũy vốn, giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đây chính là bước đầu để tạo tiền đề cần thiết cho phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, ngành CN cao để phát triển KTTT. Tập hợp trong nhóm này là các ngành như may mặc, giày dép, đồ gỗ, gia công các loại, lắp ráp đồ điện tử, chế biến lương thực - thực phẩm, thủy hải sản, đồ uống, các lĩnh vực dịch vụ phục vụ đời sống và kinh doanh mang tính truyền thống như buôn bán nhỏ, vận tải hàng hóa và hành khách, sửa
  47. 38 chữa phương tiện vận tải, đồ dùng gia đình và vô vàn các lĩnh vực khác Tuy giá trị gia tăng thu được từ nhóm ngành này về cơ bản không nhiều, nhưng đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế vì có khả năng thu hồi vốn nhanh, linh hoạt thích ứng với môi trường kinh doanh đối với điều kiện cụ thể của nền kinh tế đang trong thời kỳ CNH. Trong khuôn khổ phát triển kinh tế tri thức ở đây có hai vấn đề đặt ra cho ngành là: 1) Đẩy mạnh đổi mới, ứng dụng CN mới, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. 2) Chủ động thiết kế mẫu mã hàng hóa, đầu tư cho sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao nhằm đáp ứng kịp thời thị hiếu của người tiêu dùng và tạo ra được những mặt hàng xuất khẩu mới của riêng mình trong chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo sự đột phá trong xuất khẩu. Thứ hai: Phát triển các ngành sử dụng CN tiên tiến, CN cao. Việc tập trung phát triển một số ngành CN cao, CN tiên tiến gắn với sự hình thành nền KTTT có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đặc biệt đối với những tỉnh/thành phố đang tiến hành CNH, HĐH như Đà Nẵng. CN cao là CN hội tụ được những tri thức, phương tiện và kỹ năng tổ chức để sản xuất [23, tr.15]. Đó là loại CN có hàm lượng cao về nghiên cứu KH và phát triển CN; tạo ra các sản phẩm dịch vụ có chất lượng và giá trị gia tăng cao; có khả năng hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc HĐH ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Nó đòi hỏi trang thiết bị khoa học tinh vi nhất và kỹ thuật sản xuất tiên tiến [23, tr.14,15]. Đối với nước ta hay một tỉnh/thành phố nào hiện nay, việc lựa chọn phát triển CN cao trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT đòi hỏi phải ưu tiên các ngành CN thông tin, CN sinh học, CN vật liệu mới, CN năng lượng mới và CN chế tạo, tự động hóa. Nội dung của phát triển CN thông tin bao gồm phát các CN và phương tiện hiện đại để thu thập, xử lý, lưu trữ, sản xuất và truyền thông tin phục vụ cho việc khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin vào các
  48. 39 lĩnh vực sản xuất và đời sống. Đây được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển CN của bất cứ thành phố nào ở Việt Nam . Nội dung phát triển CN sinh học bao gồm các ngành nông nghiệp CN cao, nông nghiệp sạch, công nghiệp dược phẩm và bảo vệ môi trường , dựa trên thành tựu tổng hợp của nhiều bộ môn khoa học như sinh học phân tử, di truyền học, vi sinh vật, sinh hóa Đây là loại CN cao cơ bản có vai trò quyết định trong việc tăng năng lực tạo ra lương thực, thực phẩm và các sản phẩm sinh học khác có chất lượng cao và an toàn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên của con người. Nội dung phát triển CN vật liệu mới: đây là CN dựa trên khoa học vật liệu, khoa học về cấu trúc các hệ đông đặc, khoa học mô phỏng hệ nguyên tử Việc tạo ra những vật liệu mới có tính năng sử dụng tốt, ứng dụng tốt như: polyme, kim loại và hợp kim, compozit hữu cơ, kim cương, vật liệu siêu cứng, vật liệu điện tử và quang tử, vật liệu biến đổi năng lượng, vật liệu từ tính cao cấp, vật liệu cấu trúc nano được sử dụng cho các ngành chế tạo máy, chế tạo loại máy móc tí hon, rôbốt, y học và nhiều ngành kinh tế khác góp phần thúc đẩy nền KTTT và phát triển một xã hội tri thức bền vững. Nội dung phát triển CN năng lượng mới: CN năng lượng mới bao gồm CN năng lượng tái tạo và năng lượng hạt nhân. Đây là CN cao cơ bản nhằm giải quyết các vấn đề rất phức tạp của giai đoạn sắp tới khi các nguồn năng lượng hóa thạch đang đe dọa cạn kiệt và sự ô nhiễm do khí thải từ chế biến và tiêu thụ năng lượng gây nên hiệu ứng nhà kính làm biến đổi khí hậu toàn cầu, dẫn đến nhiều thảm họa. Nội dung phát triển CN chế tạo, tự động hóa: Tập trung phát triển một số chuyên ngành, sản phẩm cơ khí trọng điểm nhằm khai thác, phát huy tốt nhất tiềm năng đáp ứng các yêu cầu cơ bản của công cuộc phát triển đất nước. Nâng cao khả năng chuyên môn hóa, hợp tác hóa, nâng cao năng lực của ngành cơ khí, tạo tiền đề phát triển các ngành công nghiệp khác của đất nước.
  49. 40 Các ngành cơ khí chế tạo chuyển sang sử dụng các CN mới nhất là vật liệu, CN số hóa để chế tạo máy công cụ điều khiển theo chương trình với các dây chuyền thiết bị tự động, các phương tiện vận chuyển hiện đại thì giá trị có thể gia tăng nhiều lần, nhờ đó từng bước phát triển KTTT. 2.2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao, thúc đẩy tiến bộ xã hội Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện xã hội cụ thể, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng lẫn chất lượng, phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế. Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế bao gồm các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế và mối quan hệ hữu cơ giữa chúng. Trong cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế là quan trọng nhất, quyết định các hình thức cơ cấu kinh tế khác. Cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện tăng trưởng, phát triển, do đó CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là việc chuyển cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác, thay đổi tỷ trọng và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành trong nền kinh tế để tạo ra sức mạnh, hiệu quả, định hướng phát triển mới của nền kinh tế Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay, được đặc trưng bởi sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành kinh tế dựa nhiều vào tri thức, các ngành kinh tế chủ yếu sẽ được thay thế bằng các ngành kinh tế công nghiệp phần mềm với hàm lượng tri thức cao. Trong đó các yếu tố như: thông tin, giáo dục, tri thức sẽ được coi là các ngành công nghiệp mới và ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong nền kinh tế tri thức làm biến
  50. 41 đổi kết cấu và cơ cấu của các ngành công nghiệp truyền thống. Trong tương lai không xa ngoài ba khu vực chính công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp sẽ thêm một khu vực nữa CN tri thức, CN sáng tạo được nhận định là ngành công nghiệp cốt lõi, đem lại giá trị kinh tế cao. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay theo hướng Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp hiện đại, hiệu quả. Để thực hiện mục tiêu CNH, HĐH trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì tỷ lệ nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm dần, mặc dù sản lượng nông nghiệp không ngừng tăng, đáp ứng cao hơn những yêu cầu về sản lượng và chất lượng cho con người. Nền sản xuất nông nghiệp truyền thống sẽ được thay thế bởi nền sản xuất nông nghiệp hiện đại với sự trợ giúp đắc lực của các thành tựu KH&CN tiên tiến. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức tăng lên mạnh mẽ. Ở đây các hoạt động kinh tế từ dịch vụ và CN cao trở thành chủ yếu, bởi khu vực này tạo ra giá trị gia tăng nhiều nhất. Cụ thể là: Ngành công nghiệp phát triển theo hướng kết hợp giữa các ngành sử dụng nhiều lao động với đi nhanh vào một số ngành lĩnh vực có CN cao. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng, khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ngành nông nghiệp phát triển theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ KH&CN nhất là CN sinh học. Nâng cao chất lượng nguyên liệu đưa vào chế biến, đặt việc bảo đảm chất lượng hàng hóa theo tiêu chuẩn quốc tế lên hàng đầu, coi trọng bảo đảm vệ sinh công nghiệp trong chế biến, tạo tính đặc thù của sản phẩm và tạo lập thương hiệu hàng hóa nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
  51. 42 Ngành dịch vụ phát triển theo hướng tập trung vào các lĩnh vực có tiềm năng như du lịch, bảo hiểm vận tải hàng không, xây dựng, xuất khẩu lao động HĐH các ngành dịch vụ: thương mại, tài chính, ngân hàng, viễn thông, logistic và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác, dịch vụ KH&CN, đó là những ngành có hàm lượng tri thức cao và cho giá trị gia tăng cao nhất. Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ. Ðồng thời, tập trung tăng cường xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động dịch vụ du lịch tài chính ngân hàng, thu kiều hối, và bưu chính viễn thông, vận tải đường không và đường biển. Trên cơ sở chiến lược cơ cấu kinh tế chung của cả nước, mỗi tỉnh, thành phố phải xác định cho được một cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện và lợi thế của mình, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Để thực hiện tốt nội dung này, điều quan trọng là việc hoạch định chính sách và cơ chế vận hành của các tỉnh/thành phố phải được dựa trên tri thức, coi tri thức là nền tảng của sự phát triển. 2.2.1.3. Coi trọng việc gắn giữa nghiên cứu và triển khai (Research and Deployment) Sự phát triển của KH sẽ tạo cơ hội giúp phát triển các CN mới, do đó phát triển các ngành nghề theo hướng giảm thiểu tiêu hao sức cơ bắp sang coi trọng yếu tố tri thức trong giá trị sản phẩm. Khoa học là yếu tố nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh/thành phố, quốc gia cũng như của từng doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Phát triển KH&CN mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, với điều kiện những phát minh, đề tài nghiên cứu phải thật sự có giá trị nghĩa là phải phù hợp với yêu cầu của sản xuất, của thị trường, phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cao nhất. Hay nói cách khác phát triển KH phải gắn với nghiên cứu và triển khai. Để làm được điều
  52. 43 này cần có sự kết hợp giữa đào tạo với sản xuất, nghiên cứu KH thực nghiệm gắn với ngành nghề. Không ai khác chính các trung tâm, viện nghiên cứu, thiết kế là đầu mối trong việc giải quyết các vấn đề trong CN sản xuất, xây dựng qui trình sản xuất từ đó chuyển giao CN cho các doanh nghiệp. Hơn nữa các công ty biết tập hợp, khai thác hiệu quả các nguồn tri thức tiên tiến trong và ngoài nước, đặt hàng cho phòng thí nghiệm của các trường đại học, viện nghiên cứu đảm bảo cho việc nghiên cứu, triển khai thử nghiệm các CN tiên tiến luôn đổi mới, sáng tạo CN, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh ở quy mô quốc gia và quốc tế. Như Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII đã đặt ra: giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận thực tiễn do cuộc sống đặt ra; đổi mới nâng cao trình độ CN trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; xây dựng và phát triển có trọng điểm các ngành CN cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Điều này chứng tỏ việc phát triển KH và lựa chọn CN dù hiện đại đến đâu nhưng quan trọng nhất là phải đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của đất nước. 2.2.1.4. Coi trọng phát triển công nghệ thông tin Tác động của CN thông tin đối với xã hội loài người vô cùng to lớn, nó không chỉ thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế mà còn là chìa khoá để mở cánh cổng vào nền KTTT. Ứng dụng và phát triển CN thông tin nhằm thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc dân, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, bảo đảm an ninh quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH. Cũng như ở các nước trên thế giới, CN thông tin có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, làm giảm đáng kể chi phí giao dịch trong kết nối bạn hàng và trong thực hiện hàng hóa và dịch vụ. Đây cũng là ngành mà Việt Nam hay một số tỉnh/thành phố trên đất nước có lợi thế phát triển đặc biệt, trên nền tảng nguồn
  53. 44 nhân lực trẻ, dồi dào và được đào tạo cơ bản, có nhiều khả năng sáng tạo và sử dụng CN mới. Yêu cầu của việc phát triển CN thông tin trong giai đoạn hiện nay: i) Hình thành hệ thống mạng tích hợp theo CN thế hệ mới, băng thông rộng, dung lượng lớn, mọi nơi, mọi lúc với mọi thiết bị truy cập, đáp ứng nhu cầu ứng dụng CN thông tin và Truyền thông, rút ngắn khoảng cách số, bảo đảm tốt an ninh, quốc phòng. ii) Ứng dụng CN thông tin và Truyền thông và Internet sâu rộng trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quản lý tạo nên sức mạnh và động lực để chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu suất lao động. iii) Khai thác có hiệu quả thông tin và tri thức trong tất cả các ngành tiến tới xây dựng và phát triển Việt Nam điện tử với công dân điện tử, chính phủ điện tử và doanh nghiệp điện tử, giao dịch và thương mại điện tử. iv) Phát triển công nghiệp phần mềm; tập trung nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao CN, góp phần đổi mới tổ chức sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Mục tiêu cuối cùng của việc thúc đẩy phát triển và ứng dụng CN thông tin là để phục vụ người dân, phục vụ doanh nghiệp, từ đó góp phần phát triển kinh tế xã hội. 2.2.1.5. Kết hợp phát triển CN nội sinh và CN ngoại sinh Để đạt được mục tiêu trở thành nước hay một thành phố công nghiệp hiện đại vào năm 2020 thì không có con đường nào khác ngoài hai con đường: Phát triển CN nội sinh và tiếp nhận chuyển giao CN, nội sinh hóa CN nhập để trang bị kỹ thuật và CN hiện đại, cho các ngành kinh tế . CN nội sinh là tập trung nguồn lực, khai thác thế mạnh, tiềm năng khoa học và CN trong mọi ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội, nâng cao tiềm lực khoa học và CN của đất nước. Đây là CN được tạo ra thông qua quá trình nghiên cứu và triển khai trong nước nên người sử dụng dễ dàng làm chủ được CN, dễ phát huy hiệu quả, tiết kiệm được ngoại tệ, không phụ thuộc vào nước ngoài về kỹ thuật, tận dụng được các nguồn lực sẵn có ở các địa phương. Các cơ quan
  54. 45 nghiên cứu triển khai thông qua nghiên cứu sáng tạo CN có điều kiện nâng cao trình độ. Còn tiếp nhận chuyển giao CN, nội sinh hóa CN nhập nghĩa là chủ động tiếp thu tối đa KH&CN thế giới, lấy nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao CN làm chủ đạo, tạo khả năng lựa chọn, thích nghi và làm chủ CN nhập, đi thẳng vào các thế hệ tiên tiến, tiết kiệm nguyên liệu, CN thân thiện môi trường, sáng tạo kỹ thuật, CN phù hợp với điều kiện trong nước. Đối với các tỉnh, thành phố và nước ta hiện nay việc tiếp nhận chuyển giao CN sẽ nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, tận dụng nguồn lực sẵn có mà chưa khai thác được vì thiếu CN nguồn, tránh được rủi ro nếu phải tự do mua bán CN và quan trọng là khi tiếp nhận CN ngoại sinh phải thích nghi và làm chủ nó. Trong phát triển CN nội sinh, sáng tạo CN mới là cốt lõi. Tiến trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT của một tỉnh/thành phố hay một quốc gia nhanh hay chậm là do năng lực sáng tạo và đổi mới CN, đổi mới sản phẩm. Sự sáng tạo ra CN mới nghĩa là tạo ra nhiều sản phẩm mới không chỉ có chất lượng cao hơn, giá thành thấp hơn mà còn giảm tới mức thấp hơn thời gian đi tới người tiêu dùng. Trong nền KTTT thì sản xuất CN trở thành ngành sản xuất chủ đạo, như C. Mác đã dự báo: "Phát minh trở thành một nghề đặc biệt" [45, tr 105]. Đối với một tỉnh/thành phố ở Việt Nam, để rút ngắn tiến trình CNH, HĐH cần vừa biết khai thác các lợi thế, dựa vào nội lực của địa phương theo một trình tự hợp lý, đảm bảo kinh tế tăng trưởng bền vững; vừa đầu tư phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, CN cao, các lĩnh vực CN tiên tiến theo xu hướng chung của thế giới. Áp dụng thành tựu KH&CN tiên tiến, nhất là phải đổi mới sáng tạo CN vào sản xuất trong tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn ở giai đoạn sau. 2.2.1.6. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tri thức hóa Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi về lượng các thành phần trong lực lượng lao động để tạo nên một cơ cấu mới. Trong thời đại cách mạng
  55. 46 KH&CN, với xu hướng tri thức hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh, việc chuyển dịch cơ cấu lao động tất yếu phải là quá trình chuyển dịch lực lượng lao động từ các lĩnh vực sản xuất trực tiếp sang gián tiếp với những công việc dịch vụ và làm văn phòng. Quá trình này phải được tiến hành đồng bộ với chuyển dịch cơ cấu KH, CN và các yếu tố sản xuất khác trên cơ sở một cơ cấu hợp lý nhất cho phép phát huy tối đa các nguồn lực cho sự tăng trưởng kinh tế. CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT không chỉ đòi hỏi đổi mới tất cả các ngành, mà còn là dịch chuyển cơ cấu trong từng ngành, đồng thời chuyển dịch cơ cấu tất cả các ngành trong nền kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tạo nhiều giá trị và kéo theo đó là chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tri thức hóa. Có thể hình dung chuyển dịch cơ cấu lao động của một tỉnh/thành phố theo hướng như sau: - Chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, làm giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ trong tổng lao động xã hội. - Chuyển từ lao động đơn giản, trình độ thấp sang lao động phức tạp, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao. - Tăng tỷ trọng lao động trong các ngành, các lĩnh vực đòi hỏi lao động phải có trình độ văn hóa ngày càng cao và lao động qua đào tạo, kể cả lao động chuyên môn và lao động kỹ thuật nhằm tăng hàm lượng chất xám trong sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao. - Trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, tăng tỷ trọng lao động trong ngành lâm nghiệp, thủy sản giảm tuyệt đối và tỷ trọng lao động nông nghiệp thuần túy, tạo cơ cấu lao động nông, lâm ngư nghiệp đa ngành. - Trong ngành công nghiệp, giảm lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm, tăng mạnh lao động trong ngành sử dụng CN cao (CN phần mềm, CN sinh học, tự động hóa, sản phẩm cơ khí chất lượng cao ) hay công nhân tri thức và trở thành lực lượng chủ yếu.
  56. 47 - Trong dịch vụ tăng nhanh lao động trong các ngành: du lịch, vận tải, bưu chính, viễn thông, tin học, dịch vụ tài chính, ngân hàng, kiểm toán, chứng khoán Xu hướng chuyển dịch lao động nêu trên phải xuất phát từ yêu cầu lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, dựa nhiều vào tri thức nhằm giải phóng sức sản xuất, sức lao động của xã hội cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Để thực hiện việc chuyển dịch này, cần phải có một đội ngũ nhân lực thích ứng. Nghĩa là phải phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, đào tạo một lực lượng hùng hậu, không chỉ gồm các nhà chuyên môn, mà c̣òn gồm các nhà CN, kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ trình độ cao, công nhân kỹ thuật lành nghề, đội ngũ lao động kỹ thuật trình độ cao. Vì không ai khác con người chính là chủ nhân sẽ quyết định sự thành bại của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức trên phạm vi một tỉnh, thành phố ở Việt Nam 2.2.2.1. Tiềm năng về nguồn tài nguyên thiên nhiên Việt Nam là cửa ngõ đầu mối giao thông của các tuyến đường quốc tế quan trọng, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động và được coi là khu vực phát triển năng động nhất hiện nay. Vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển và giao lưu kinh tế. Do đó, chúng ta càng có điều kiện để mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại, thu thập và xử lý thông tin nhanh chóng. Bên cạnh đó lại có nguồn tài nguyên phong phú bao gồm: Tiềm năng đất có khả năng canh tác nông nghiệp khá lớn, nhất là đất phù sa màu mỡ đã đưa Việt Nam thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để các tỉnh, thành phố phát huy lợi thế của địa phương đưa ra những sản phẩm nông sản có giá trị mang thương hiệu Việt Nam cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
  57. 48 Việt Nam có bờ biển dài thuận lợi cho việc đưa vào sử dụng để khai thác hoặc nuôi trồng thuỷ sản và phát triển kinh tế biển. Tài nguyên nước dồi dào là cơ hội phát triển giao thông đường thủy, xây dựng thủy điện, chăn nuôi hay đánh bắt hải sản nhất là đối với những tỉnh/thành phố có đường biển. Nước ta có nhiều loại khoáng sản có quy mô lớn: than, Boxit, thiếc, sắt, apatit, đồng, crom, vàng, đá quý, đá vôi, cát thủy tinh, dầu mỏ Đây là tài nguyên giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của công nghiệp, quy định sự phát triển của các ngành. Dựa trên thế mạnh khoáng sản mà một số ngành công nghiệp của các tỉnh/thành phố đã phát triển khá mạnh như dầu khí, hóa chất, luyện kim, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa xanh tươi. Địa hình có núi, rừng, sông, biển, đồng bằng và cao nguyên. Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động, ghềnh thác, đầm phá, điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh Với hàng nghìn năm lịch sử, có trên bảy nghìn di tích, rất nhiều đền, chùa, nhà thờ, các công trình xây dựng, các tác phẩm nghệ thuật - văn hoá khác nằm rải rác ở khắp các địa phương trong cả nước là những điểm tham quan du lịch đầy hấp dẫn. Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, những năm gần đây ngành Du lịch đã thu hút hàng triệu khách trong và ngoài nước, góp phần đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam. 2.2.2.2. Tiềm năng trí tuệ của nhân lực Phát triển nguồn nhân lực, luôn luôn là động lực thúc đẩy sự tiến bộ và tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Kinh nghiệm của nhiều nước CNH trước đây cho thấy phần lớn thành quả phát triển không phải nhờ tăng vốn sản xuất mà là hoàn thiện trong năng lực con người, sự tinh thông, bí quyết nghề nghiệp và quản lý. Khác với đầu tư cho nguồn vốn phi con người, đầu tư cho
  58. 49 phát triển con người là vấn đề liên ngành, đa lĩnh vực và tác động đến đời sống của các cá nhân, gia đình, cộng đồng của họ và đến toàn bộ xã hội nói chung. Lênin coi nhân tài, tri thức là nguồn tài nguyên quý nhất của xã hội, là động lực phát triển mạnh mẽ của xã hội. Nhất là trong bối cảnh nền KTTT ngày nay, nói tới nguồn nhân lực người ta thường nhắc tới tiềm năng trí lực, nên việc nhận diện khai thác tiềm năng nguồn lực trí tuệ ngày càng trở nên cần thiết. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng của nhân lực ở một tỉnh/thành phố hiện nay là phải sử dụng nguồn lực trí tuệ hiện có để nghiên cứu, ứng dụng các KH kỹ thuật tiến bộ và CN mới, phát huy sáng kiến cải tạo kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất tăng năng suất lao động thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại thì không thể thiếu đội ngũ đông đảo những công nhân lãnh nghề, những nhà KH kỹ thuật tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, nhà lãnh đạo, quản lý tận tụy, biết nhìn xa trông rộng. Con người Việt Nam được đánh giá là hiếu học, thông minh, cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu. Đó là những đức tính hết sức quý báu, đã giúp dân tộc ta tồn tại cho đến ngày nay, trải qua không ít thăng trầm suốt mấy nghìn năm lịch sử. Không thể phủ nhận con người Việt Nam nói chung và người lao động nói riêng hiếu học, chuộng tri thức, luôn sẵn sàng học hỏi, tiếp thu những CN tiên tiến của thế giới, đây chính là nguồn lực vô tận, nguồn lực của mọi nguồn lực thúc đẩy kinh tế phát triển trong thời đại mới, thời đại tri thức. 2.2.2.3. Năng lực tạo lập nguồn vốn đầu tư phát triển Bên cạnh tiềm năng về trí lực thì vốn đầu tư phát triển là một yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất, nhất là trong tiến trình CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT như ở nước ta hiện nay. Việc sử dụng vốn đầu tư hợp lý, hiệu quả theo cách đầu tư trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở quy hoạch, kế
  59. 50 hoạch đầu tư, xây dựng một cơ chế đầu tư hợp lý có tác dụng quan trọng trong việc chuyển dịch, đổi mới cơ cấu kinh tế ngành, vùng, đổi mới cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế thành thị, nông thôn đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao. Nói cách khác, kết quả của hoạt động sử dụng vốn đầu tư hợp lý là sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn, phát triển toàn diện hơn và theo hướng CNH, HĐH, điều này đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Để có được vốn đầu từ thì quá trình tạo lập vốn, tạo nên nguồn tích lũy trong nền kinh tế, là rất quan trọng. Vì tạo lập vốn chính là phương thức để tạo ra sự tăng trưởng và phát triển đối với nền kinh tế, trong giai đoạn hiện nay khả năng tạo lập vốn của nền kinh tế nước ta được nâng lên rất nhiều. Điều này được thể hiện trước tiên là luật doanh nghiệp cho phép thành lập các công ty tư nhân, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần do đó đã nâng cao tính cạnh tranh của các đơn vị trong nền kinh tế. Nhà nước không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, để các doanh nghiệp tự chủ về sản xuất, làm ăn hiệu quả hơn, từ đó nguồn vốn tín dụng tích lũy mở rộng sản xuất tăng lên. Tiếp đó là sự gia tăng không ngừng của các ngân hàng thương mại nguồn vốn tiết kiệm trong dân ngày càng nhiều góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó là môi trường đầu tư thông thoáng nên đã thu hút được các nguồn vốn từ nước ngoài như: nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp (FDI) , các nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB Như vậy , phải khẳng định năng lực tạo lập nguồn vốn ở nước ta là rất lớn, nhưng quan trọng là sử dụng vốn đó như thế nào để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH. 2.2.2.4. Trình độ phát triển khoa học và công nghệ Ở nước ta, vai trò và vị trí của KH&CN trong công cuộc CNH, HĐH đã được Đảng và Nhà nước xác định giữ vị trí then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là một động lực đưa đất nước ra khỏi