Luận văn Dạy học kịch bản văn học ở trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại

pdf 100 trang hapham 1930
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Dạy học kịch bản văn học ở trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_day_hoc_kich_ban_van_hoc_o_trung_hoc_pho_thong_theo.pdf

Nội dung text: Luận văn Dạy học kịch bản văn học ở trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––––––– TRƢƠNG KIM THUYÊN DẠY HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––––––– TRƢƠNG KIM THUYÊN DẠY HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy - học Văn và Tiếng Việt Mã số: 60. 14. 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRỌNG HOÀN THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  3. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––––––– TRƢƠNG KIM THUYÊN DẠY HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy - học Văn và Tiếng Việt Mã số: 60. 14. 10 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  4. Công trình đƣợc hoàn thành tại: KHOA NGỮ VĂN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRỌNG HOÀN Phản biện 1: Phản biện 2: Luận văn sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc hội đồng chấm luận văn Họp tại:Trƣờng Đại học Sƣ phạm - ĐHTN Ngày tháng năm 2009 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thƣ viện trƣờng ĐHSP Thái Nguyên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  5. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Về mặt lý luận Giáo dục hiện nay luôn được quan tâm hàng đầu. Việc đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông trong đó có đổi mới phương pháp dạy học văn theo tinh thần khoa học hiện đại đã, đang diễn ra sôi động và thu được nhiều kết quả đáng mừng.Việc chúng tôi chọn đề tài này xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đã được quy định tại Luật giáo dục của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 14 tháng 6 năm 2005 ở Khoản 2 Điều 5: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Với yêu cầu đổi mới, phương pháp giáo dục đã đánh giá lại vai trò của học sinh, coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, là trung tâm của quá trình tiếp nhận và là bạn đọc sáng tạo trong quá trình dạy học văn. Nó không chỉ đòi hỏi kiến thức mà còn cả tài năng nghệ thuật sư phạm của người giáo viên. Thày giáo giống như kiến trúc sư trước mỗi công trình nghệ thuật. Dưới bàn tay của nhà chạm khắc, nó mang dấu ấn cảm thụ riêng hàm chứa tầng sâu ý nghĩa. Đứng trước một tác phẩm văn chương nói chung, giáo viên thật khó định ra một cách dạy chung bởi mỗi bài, mỗi tác phẩm có những nét đặc thù riêng của loại thể. Chính vì vậy, nó càng đòi hỏi người thầy phải xác định được loại thể của từng tác phẩm, từ đó xác định cho mình một phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp. Trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở và Trung học phổ thông, văn bản kịch chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn so với văn bản văn học khác. Tâm lý phổ biến của đời sống văn học nhà trường là ít quan tâm đến kịch bản văn học. Kinh nghiệm thưởng thức kịch hạn chế, tài liệu viết về kịch không nhiều, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  6. 2 văn bản kịch là loại văn bản có những nét đặc thù riêng. Như chúng ta đã biết, kịch được giảng dạy trong nhà trường không phải với tính chất là một loại hình nghệ thuật. Chúng ta giảng dạy kịch trên phương diện văn học, nhưng kịch không đơn thuần giống như tự sự bởi nó là môn nghệ thuật tổng hợp, nó có mối quan hệ với sân khấu như hình với bóng. Việc thưởng thức một tác phẩm thuộc thể loại kịch không giống với mọi tác phẩm văn học khác. Do vậy, việc dạy học kịch bản văn học quả là một việc làm không dễ đối với cả giáo viên và học sinh. Sách giáo khoa Ngữ văn cấp THPT hiện nay đưa vào chương trình những kịch bản văn học rất hay, có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học nhưng không phải dễ giảng dạy. Đến với đề tài: “Dạy học kịch bản văn học ở Trung học phổ thông theo đặc trƣng thể loại”, chúng tôi muốn đưa ra một biện pháp thích hợp nhằm khắc phục được những tồn tại khi dạy học tác phẩm kịch trong nhà trường phổ thông nói chung, văn bản kịch: “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” trích “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (trích) của Lưu Quang Vũ nói riêng. 1.2. Về mặt thực tiễn Qua thực tế nhiều năm giảng dạy ở trường phổ thông cũng như tham khảo ý kiến của đồng nghiệp, đặc biệt những sinh viên mới ra trường, quả thực việc dạy học kịch bản văn học gặp nhiều khó khăn hơn so với các thể loại văn học khác. Nhiều giáo viên và học sinh không thích các giờ dạy học kịch bản văn học. Đây là tâm lý ảnh hưởng lớn tới bài giảng và sự tiếp nhận của chính giáo viên. Khi tập huấn thay sách, các giáo viên đều cho rằng tác phẩm kịch được đưa vào giảng dạy trong chương trình THPT đều là những tác phẩm hay, thiết thực đối với học sinh nhưng họ vẫn không thích bằng giảng dạy các tác phẩm trữ tình. Khi dự những giờ dạy kịch bản văn học, chúng tôi thấy rằng: hầu hết các thày cô giáo đều sử dụng phương pháp mới trong dạy học nhưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  7. 3 việc vận dụng này đôi chỗ còn lúng túng, vẫn nặng về khai thác nội dung, xem nhẹ nghệ thuật. Giáo viên giảng dạy kịch chủ yếu dựa vào sách giáo viên. Dù đây là bộ sách có nhiều mặt mạnh, nó là tài liệu định hướng quan trọng cho mỗi bài giảng của giáo viên, tuy nhiên đó mới chỉ là những gợi ý rất chung chung, người thầy cần định lượng kiến thức để dạy cho phù hợp. Ở một số giờ dạy của giáo viên lâu năm, có kinh nghiệm thì những vấn đề tồn tại nêu trên không nhiều, nhưng việc bám sát đặc trưng thể loại chưa rõ. Đa số giáo viên trẻ thì cứ y như sách hướng dẫn mà dạy, chưa biết lựa chọn những kiến thức cơ bản, bài giảng chưa phù hợp với đối tượng học sinh, tham kiến thức mà chưa áp dụng lý thuyết loại thể, dẫn đến hứng thú học văn của học sinh chưa được phát huy. Một số giáo viên tung hứng giảng dạy kịch mà quên mất các lời thoại nhân vật, dẫn tới dạy học thoát ly kiến thức của hành động kịch. Hầu như hoạt động liên môn để mở rộng kiến thức, đào sâu hiểu biết của học sinh với loại hình nghệ thuật tổng hợp này không có. Chính những biểu hiện nêu trên đã làm cho việc dạy học kịch bản văn học ở trường THPT chưa mang lại hiệu quả cao. Đây là vấn đề chúng tôi luôn suy nghĩ, trăn trở. Rõ ràng muốn giờ dạy học kịch đạt hiệu quả tốt, cần phải tiến hành bổ sung những điểm nêu trên. Lý thuyết loại thể được trang bị phải được áp dụng vào bài giảng. Để vượt qua khó khăn cho chính bản thân mình và các bạn đồng nghiệp. Với mục đích nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung, dạy kịch bản văn học ở Trung học phổ thông nói riêng, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Dạy học kịch bản văn học ở Trung học phổ thông theo đặc trƣng thể loại”. 2. Lịch sử vấn đề Tiếp cận tác phẩm văn chương, người đọc, người học có thể đi theo nhiều con đường khác nhau. Mục đích cuối cùng là làm sao đạt được hiệu quả tiếp nhận cao nhất. Các nhà nghiên cứu văn học đã chỉ ra rằng: Một trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  8. 4 những phương pháp tiếp cận có hiệu quả là dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại. Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại nói chung và giảng dạy kịch nói riêng đã được đề cập và nghiên cứu từ lâu. Có thể kể đến một vài công trình nghiên cứu về đọc hiểu theo loại thể: Cuốn “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể” của tác giả Trần Thanh Đạm cùng nhiều tác giả khác - NXBGD,Hà Nội,1971.Với bài “Về Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể”, tác giả Trần Thanh Đạm đã chú ý đến ba thể loại văn học lớn: Tự sự, trữ tình, kịch. Tác giả khẳng định “Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại thể và người dạy cũng giảng dạy theo loại thể” [9, tr.30]. Loại thể văn học là một thành phần quan trọng của hình thức nhệ thuật tác phẩm. Giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể chính là một phương diện lớn của việc giảng dạy tác phẩm văn học trong sự thống nhất giữa hình thức với nội dung, một sự giảng dạy đi đúng với quy luật và bản chất của văn học, đồng thời bảo đảm hiệu quả giáo dục cao nhất [9, tr. 44]. Cũng trong cuốn sách này, tác giả Huỳnh Lý có bài “Kịch và giảng dạy kịch”. Tác giả bài viết đã đề cập đến nhiều vấn đề khi giảng dạy kịch “Chúng ta không giảng dạy kịch với tính cách là một loại hình nghệ thuật mà chỉ giảng dạy kịch bản về phương diện văn học” [9, tr.239]. Tác giả Huỳnh Lý còn đề cập đến khái niệm về kịch, vị trí của kịch trong các loại hình nghệ thuật, đặc tính của kịch mà người giảng dạy kịch cần chú ý, sự khác nhau giữa bi kịch và hài kịch, quá trình phát triển của kịch nói ở nước ta, những vở kịch trong chương trình văn học cấp III. Kết thúc bài viết, tác giả khảng định “Kịch là một loại hình phức tạp. Chúng ta chỉ dạy kịch về phương diện văn học, nhưng lại phải có nhiều kiến thức về diễn xuất, về cả những loại thể, những kiểu kịch không có ở ta nữa” [9, tr.284]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  9. 5 Cuốn “Năm tập bài giảng nghiên cứu văn học” tác giả Hoàng Ngọc Hiến - NXB Giáo dục, Hà Nội, 1996 có viết bài “Về một đặc trưng thể loại của bi kịch” trên cơ sở phân tích về “Vua Ơđip” của Xôphơdơ, đề cập tới một vở bi kịch cổ đại mà kết thúc của nó mang tư tưởng lạc quan, thi pháp truyền thống của bi kịch trong sự phát triển cốt truyện. Tác giả đã chỉ ra một đặc trưng thể hiện của bi kịch Hy Lạp cổ đại được minh họa qua vở “Ơđip làm vua”. Ngoài ra bài viết không đề cập gì tới các vở bi kịch sau nó nữa hay cũng như những gợi ý để cụ thể giảng dạy vở kịch này. Cuốn “Cảm thụ và giảng dạy Văn học nước ngoài” - NXB Giáo dục , Hà Nội, 2003, Giáo sư Phùng Văn Tửu đã có những đóng góp quan trọng cho việc dạy kịch có hiệu quả. Tác giả viết: “Khi giảng kịch, chúng ta chú ý đến đặc trưng của loại hình nghệ thuật này để học sinh khỏi rơi vào tình trạng thấy học kịch chẳng khác gì học truyện ngắn hay tiểu thuyết ”. Bài giảng chủ yếu dựa trên văn bản kịch nhưng đồng thời phải giúp cho học sinh hình dung được phần nào dưới ánh đèn sân khấu. Như vậy, Giáo sư Phùng Văn Tửu đã chú ý đến đặc trưng của kịch khi giảng dạy. Phân tích một đoạn kịch phải gắn liền với kết cấu, với bối cảnh, không gian, thời gian, lời thoại nhân vật, hành động, xung đột. Tất cả những công việc trên chỉ mang tính chất định hướng ban đầu giúp chúng ta tiếp cận tác phẩm, còn việc đưa ra những hướng tiếp nhận tác phẩm kịch theo đặc trưng loại thể chưa rõ ràng, cụ thể. Một điều chúng ta dễ nhận thấy rằng: Mỗi tác phẩm văn học là một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo của nhà văn, nó thuộc về một loại thể nhất định. Mặc dù một số tác phẩm vẫn có sự đan xen, pha tạp của các thể nhưng về cơ bản chúng được nhà văn viết dưới hình thức một loại thể nào đó. Do vậy, tiếp cận tác phẩm văn chương, người đọc, người học có thể đi theo nhiều con đường khác nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  10. 6 T.S Nguyễn Viết Chữ trong cuốn “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể”- NXBĐHQG Hà Nội, 2001 đã khẳng định “Việc xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong quá trình phát triển khoa học phương pháp dạy học tác phẩm văn chương” [8, tr.99]. Tác giả đã đưa ra phương pháp, biện pháp cụ thể dạy học tác phẩm trữ tình, tác phẩm tự sự, văn học nước ngoài còn riêng với tác phẩm kịch tiến sĩ mới chỉ dừng lại ở mức độ khơi gợi chứ chưa đưa thành một chương của cuốn sách. Cuốn “Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 8”- NXB Giáo dục, 2009 của T.S Nguyễn Trọng Hoàn là một sự đóng góp quan trọng đối với việc dạy học kịch bản văn học theo đặc trưng thể loại. Trong bài: “Một số vấn đề đọc - hiểu văn bản kịch”, tác giả cuốn sách đã nói đến khái niệm kịch, những đặc trưng của kịch Đọc - hiểu văn bản kịch cần chú trọng nhiều phương diện thuộc về đặc trưng của thể loại này: từ loại hình nhân vật, bối cảnh trang trí sân khấu, các hướng dẫn trực tiếp về cử chỉ, hành động, các lớp nghĩa của lời thoại, các yếu tố phụ hoạ, các yếu tố có tính ước lệ, Tiếp nhận văn bản kịch bản văn học hết sức ưu tiên tính kịch [19, tr 9 -10]. Rõ ràng, việc chiếm lĩnh tác phẩm văn chương theo đặc trưng của từng thể loại sẽ giúp ta hiểu sâu sắc tác phẩm. Nó đòi hỏi các chuyên gia nghiên cứu, các chuyên ngành, các thày cô giáo phải nỗ lực tìm ra những phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp để giờ học đạt được hiệu quả. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn đặt vấn đề tìm hiểu tình hình dạy học kịch bản văn học trong nhà trường THPT. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn nhằm vào việc xây dựng một số luận điểm về biện pháp dạy học kịch bản văn học theo đặc trưng thể loại, nhằm từng bước cải tiến chất lượng dạy và học ở THPT theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  11. 7 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Tìm hiểu đặc trưng của thể loại kịch để vận dụng vào việc xác định hướng tiếp cận tác phẩm. 4.2. Khảo sát thực tiễn dạy học hai văn bản - “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” - trích “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng. - “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (trích) của Lưu Quang Vũ. 4.3. Đề xuất hướng dạy học nhằm nâng cao hiệu quả dạy học hai kịch bản văn học nói trên 4.4. Thực nghiệm sư phạm 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Dạy học kịch bản văn học ở Trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại. 5.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Dạy học kịch bản văn học “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” Trích "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy Tưởng và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Trích) của Lưu Quang Vũ - chương trình chuẩn. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt tới mục đích nghiên cứu, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hai nhóm phương pháp: 6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu về mặt lý thuyết Bao gồm các phương pháp phân tích, tổng hợp lý luận nhằm tìm hiểu cơ sở lý luận làm tiền đề cho việc nghiên cứu của đề tài 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Sử dụng các phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, thực nghiệm sư phạm. 7. Giả thuyết khoa học Trên cơ sở nghiên cứu về đặc điểm thể loại và các hoạt động dạy học, nếu biện pháp mà luận văn đề xuất có tính thực tiễn cao thì nhất định luận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  12. 8 văn sẽ đóng góp vào việc thúc đẩy, nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc dạy học văn trong các nhà trường Trung học phổ thông hiện nay. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chƣơng I: Kịch bản văn học và việc dạy học kịch bản văn học trong nhà trường. Chƣơng II: Dạy học kịch bản văn học “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” ở Trung học phổ thông. Chƣơng III: Thiết kế dạy học thể nghiệm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  13. 9 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng I KỊCH BẢN VĂN HỌC VÀ VIỆC DẠY HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƢỜNG 1.1. Kịch và kịch bản văn học 1.1.1. Khái niệm về kịch Nói đến khái niệm kịch, cuốn “ Từ điển thuật ngữ văn học” của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, thuật ngữ kịch được dùng theo hai cấp độ. Ở cấp độ loại hình: “Kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học (Kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Kịch bản vừa dùng để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Theo đó tiếp nhận kịch bản chính là tiếp nhận phương diện của văn học kịch” [13, tr.142]. Nói đến kịch là phải nói đến sự biểu diễn trên sân khấu của các diễn viên bằng hành động, cử chỉ, điệu bộ và bằng lời nói. (Riêng kịch câm không diễn tả bằng lời). Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc những xung đột mang tính phổ biến (giữa thiện và ác, giữa cao cả và thấp hèn, giữa ước mơ và hiện thực, ). Những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của các nhân vật và theo những quy tắc nhất định của nghệ thuật kịch. Nói đến kịch là nói đến kịch tính. Các kịch tính được hình thành, phát triển và giải quyết qua hành động kịch. Ở cấp độ loại thể: “Thuật ngữ kịch được dùng để chỉ một thể loại văn học - sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này kịch còn được gọi là chính kịch” [13, tr.143]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  14. 10 Kịch thực ra không phải là một loại thể văn học đơn thuần, không nên đánh đồng kịch bản với nghệ thuật sân khấu nói chung bao gồm kịch nói, kịch hát, kịch múa, nhạc kịch Bất cứ loại kịch nào, kể cả kịch câm cũng có kịch bản, nhưng chỉ có kịch hát, nhất là kịch nói mới có kịch bản văn học. Là đối tượng của lý luận văn học, kịch bản văn học là một trong 3 loại chính của văn học. Sự khác nhau giữa nó với thể loại trữ tình là điểm rất rõ nhưng với loại tự sự thì kịch còn có nhiều điểm tương đồng. Bêlinxki cho rằng: Tác phẩm kịch là “Sự dung hợp của các yếu tố đối lập của tính khách quan tự sự và tính chủ quan trữ tình”, không phải chỉ trong loại hình kịch mới có sự dung hợp các yếu tố của loại hình khác. Trong thơ, truyện, ký đều có, nhưng kịch có ưu thế trong sự kết hợp khả năng biểu hiện của tự sự và trữ tình. Kịch là một thể loại văn học nhưng lại gắn liền sinh tử với sân diễn, sân khấu, vì thế kịch tất sẽ không bao giờ là một thể loại văn học đơn thuần như tự sự và trữ tình. Kịch bản viết ra vừa để đọc vừa để diễn, do đó đọc kịch bản văn học nếu chúng ta tách hoàn toàn với nghệ thuật sân khấu thì ta không thể nào hiểu được. Như vậy, nhìn từ góc độ nào ta cũng thấy kịch bản văn học là một bộ phận hợp thành của nghệ thuật sân khấu. Không phải ngẫu nhiên mà khi sáng tác kịch bản, nhà văn bao giờ cũng tính đến các yếu tố không gian, thời gian, khả năng biểu hiện nghệ thuật của các phương tiện sân khấu nhất là sự diễn xuất của các diễn viên. Nhưng kịch bản văn học không chỉ có đời sống gắn bó với nghệ thuật sân khấu mà nó còn có đời sống độc lập riêng của nghệ thuật ngôn từ. Có thể xem “Kịch”, “Kịch bản văn học” hay “Văn học kịch” như những khái niệm đồng nghĩa chính là vì thế. Muốn xác định đặc trưng thể loại của kịch bản văn học phải tính đến sự chi phối của nghệ thuật sân khấu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  15. 11 1.1.2. Những đặc trƣng thể loại của văn học kịch 1.1.2.1. Kịch tính là đặc trưng nổi bật nhất của kịch Trong bài “Sự phân chia văn học thành loại và thể”, Bêlinxki đã nói về sự giống nhau giữa tự sự và kịch như hai phương thức biểu hiện đời sống. Theo Bêlinxki, kịch giống tác phẩm tự sự vì: Ở đây cũng hiện hữu một hành động xác định đang tự vận động cái bên trong, cái lý tưởng (tức là cái chủ quan) đã trở thành cái bên ngoài, cái hình thức (tức là cái khách quan). Muốn phản ánh đời sống trong tính khách quan, tác phẩm tự sự và kịch phải dựa vào một hệ thống sự kiện, biến cố được tổ chức thành cốt truyện. Tuy cùng xây dựng cốt truyện để phản ánh đời sống theo nguyên tắc khách quan, nhưng từ trong bản chất, kịch và tự sự là hai loại tác phẩm có nội dung thể loại rất khác nhau. Kịch khác tác phẩm tự sự ở kịch tính. Kịch tính là đặc điểm nổi bật của thể loại kịch. Không có xung đột, mâu thuẫn thì không có kịch tính. Kịch tính bao giờ cũng được tạo thành bởi những hành động đối nghịch. Không phải ngẫu nhiên, trong ngôn ngữ của nhiều nước Châu Âu, chữ “Kịch” đều có nguồn gốc từ tiếng HyLạp (đrama) mà nghĩa của nó là hành động. Và hơn hai nghìn năm nay, phạm trù “hành động” bao giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm của các hệ thống lý thuyết kịch. Aristote gọi bi kịch là “Sự bắt chước một hành động quan trọng và hoàn chỉnh”. Hegel cho rằng kịch phải trình bày cho chúng ta một biến cố, một kỳ công, một hành động, nhưng nó phải tước mất tính chất bên ngoài của chúng và phải đưa một cá nhân có ý thức và hành động vào thay thế. Ông nói tiếp “Hành động là cái ý chí được thực hiện và đây là một ý chí mà người ta biết nguồn gốc, điểm xuất phát bên trong cũng như kết quả cuối cùng”. Như vậy, hành động kịch bao giờ cũng bao hàm động cơ, mục đích, mưu đồ, do đó nó bão hòa nội dung tâm hồn, thể hiện khuynh hướng tính Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  16. 12 cách và ý chí tự do của cá nhân con người. Làm nổi bật sức mạnh của hành động thể hiện khuynh hướng tính cách và ý chí tự do của con người chính là đặc trưng thể hiện loại của tác phẩm kịch. Có thể định nghĩa, kịch tính là trạng thái căng thẳng đặc biệt của mâu thuẫn, xung đột, được tạo ra bởi những hành động thể hiện các khuynh hướng tính cách và ý chí tự do của con người. Trong kịch, hành động bộc lộ ý chí tự do của con người làm nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột gay gắt giữa cá nhân và xã hội, giữa chủ thể với cái tất yếu, khách quan, thúc đẩy sự vận động của hệ thống sự kiện, biến cố trong cốt truyện, mang lại kịch tính cho tác phẩm. Cho nên, kịch tính không phải là dấu hiệu hình thức cũng không thuộc phương diện nội dung cụ thể như đề tài, chủ đề của tác phẩm mà là đặc điểm mang tính loại hình của nội dung thể loại. 1.1.2.2. Cốt truyện kịch tập trung cao độ Nếu kịch tính là đặc điểm của nội dung thể loại thì sự tập trung cao độ của cốt truyện là đặc điểm kết cấu của kịch bản văn học. Đây là đặc điểm gắn với yêu cầu biểu diễn của nghệ thuật sân khấu. Không gian và thời gian hạn hẹp của sân khấu đòi hỏi hành động kịch phải thống nhất và cốt truyện kịch phải có sự tập trung cao độ. Tính tập trung cao độ biểu hiện trước hết ở các bộ phận cấu thành cốt truyện kịch. Bộ phận cấu thành duy nhất của cốt truyện kịch là hành động được triển khai qua một hệ thống sự kiện diễn ra theo trật tự thời gian. Cốt truyện kịch thường đơn tuyến. Mỗi vở kịch thường chỉ tập trung phát triển một tuyến cốt truyện. Bởi vì, yêu cầu về sự thống nhất hành động cho phép mỗi vở kịch chỉ theo đuổi một mục đích, hướng vào một vài chủ đề then chốt, cơ bản, nhằm gợi ra một vài hứng thú nào đấy, mọi chi tiết cùng toàn bộ hệ thống sự kiện biến cố được sử dụng để tạo dựng cốt truyện đều phải dồn về một mối, hướng tới mục đích ấy, góp phần thể hiện chủ đề ấy, làm nổi bật cảm hứng ấy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  17. 13 Để gây hứng thú cho người xem, thi pháp cốt truyện của kịch rất coi trọng việc sáng tạo ra cái bất ngờ. Muốn tạo ra cái bất ngờ, người sáng tác phải biết dẫn dắt các sự kiện biến cố rẽ vào những chỗ ngoặt, những bước nhảy vọt, những đoạn đột biến, biến cố trong cốt truyện phải được liên kết, tổ chức chặt chẽ, lôgich. Cho nên, thi pháp kịch vừa coi trọng việc sáng tạo ra cái bất ngờ, vừa chú ý tổ chức những chi tiết có chức năng giới thiệu, báo trước, đặt tính cách, số phận, động cơ, ý đồ của các nhân vật và các sự kiện, biến cố vào một quan hệ nhân quả tất yếu nhằm mang lại cho cốt truyện sự hấp dẫn mà vẫn tự nhiên. Cốt truyện của tác phẩm kịch lại thường phát triển với nhịp điệu mau lẹ, vì thế tác phẩm kịch không được phép mở rộng không gian, kéo dài thời gian diễn biến của các sự kiện, biến cố. Việc tôn trọng nguyên tắc về sự tập trung của cốt truyện đã chi phối cách thức tổ chức bố cục của kịch bản văn học. Một vở kịch thường được chia thành ba hoặc năm hồi tương ứng với ba giai đoạn vần động hết sức mau lẹ của hành động kịch: thắt nút (trước đó thường có phần trình bày) - đỉnh điểm - mở nút (có thể thêm phần vĩ thanh). 1.1.2.3. Tính chất xác định của tính cách là đặc điểm cơ bản của nhân vật kịch Kịch là nghệ thuật thể hiện hình tượng con người một cách sống động nhất, nhưng trong cuộc đời thực, người bình thường không thể nói to trước đám đông những toan tính xấu xa, những dục vọng thấp hèn của mình giống như các nhân vật trên sàn diễn. Cho nên, hình tượng con người trong kịch cũng thuộc loại hình tượng mang tính ước lệ cao nhất. Nó là nhân vật của trò diễn mà diễn viên là người đóng vai các nhân vật ấy trên sân khấu. Tác phẩm trữ tình, nhất là tác phẩm tự sự, tìm đủ mọi cách làm mờ tính chất trò diễn của nghệ thuật. Tính chất trò diễn lại thường xuyên được tô đậm, không cần che đậy trong kịch văn học và nghệ thuật sân khấu. Đây là đặc điểm ta dễ dàng phân biệt nhân vật kịch với hình tượng trữ tình và hình tượng tự sự. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  18. 14 Là hình tượng trò diễn, nhân vật kịch chịu sự chi phối, ràng buộc chặt chẽ bởi những điều kiện, luật lệ của nghệ thuật sân khấu. Như đã nói ở trên, do cốt truyện trong kịch bản văn học phải tập trung chính vì vậy mà số lượng nhân vật kịch không thể nào nhiều như tự sự, tiểu thuyết được. Là hình tượng trò diễn, nhân vật kịch được cụ thể hóa bằng chất liệu riêng. Tuy kịch bản không có nhân vật người kể chuyện, không cho tác giả tự do can thiệp, mách nước cho độc giả, vì kịch bản viết ra không phải để đọc mà là để biểu diễn trên sân khấu. Khi viết kịch bản, chất liệu quan trọng nhất mà nhà văn có thể sử dụng để xây dựng hình tượng nhân vật là lời thoại cùng với giọng nói của các nhân vật. Qua lời đối thoại và độc thoại, nhân vật kịch cất lên tiếng nói tự biểu hiện, tự bộc lộ thế giới nội tâm đầy bí mật của mình nhưng thế giới nội tâm của nhân vật kịch không phải là thế giới tự đóng kịch trong bản thân. Lời của nhân vật kịch là lời nói tác động tới các nhân vật khác trong một môi trường đối thoại giữa các lời nói khác nhau. Nhân vật kịch không được khắc họa với nhiều khía cạnh tỷ mỉ, các nhân vật kịch phần đông đều đơn giản về mặt bên trong hơn so với hình tượng tự sự. Tuy nhiên, tính cách nổi bật, xác định không có nghĩa là đơn giản một chiều, xoay quanh nét tính cách nổi bật còn có những nét tính cách khác vừa liên đới vừa biến thái làm cho gương mặt nhân vật sinh động, đa dạng hơn. Nhân vật văn học quả là tổng hợp của nhiều vai trò như vai xã hội, vai tâm lý, vai tư tưởng, vai tính cách. Trong tác phẩm tự sự, các vai trò này nhiều khi không đồng nhất với nhau. Vai trò của nhân vật kịch thường mang tính chất đơn nhất và hay bị đồng nhất với vai tính cách. Cho nên, thể hiện tính cách của nhân vật kịch vẫn là nhiệm vụ quan trọng của các vai diễn trên sân khấu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  19. 15 1.1.2.4. Lời thoại là hành động, là phương tiện biểu hiện tính cách Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện, cho nên không xuất hiện ngôn ngữ của người kể chuyện. Tuy vậy, vẫn có lời chú thích trực tiếp của tác giả, trước hết là nhằm nêu rõ thời gian, đặc điểm, bối cảnh của câu chuyện hoặc để nói rõ các hành động không lời của nhân vật, những lời hướng dẫn ấy chỉ có giá trị với người đọc, đạo diễn, diễn viên, còn trong lúc trình diễn chỉ có lời của nhân vật. Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm kịch có ba dạng ngôn ngữ đối thoại (lời các nhân vật nói với nhau), ngôn ngữ độc thoại (lời nhân vật nói với chính mình, lời nói thầm của nhân vật) và ngôn ngữ bàng thoại (lời nhân vật nói riêng với khán giả). - Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ có tính hành động. Hệ thống ngôn ngữ ấy có nhiệm vụ mô tả chân dung nhân vật kịch bằng một loạt các thao tác hành động, là cơ sở giúp cho đạo diễn, diễn viên xử lí thích hợp với hành động của nhân vật trên sân khấu. - Ngôn ngữ kịch là một hình thái ngôn ngữ hội thoại gần gũi với đời sống: súc tích, dễ hiểu và ít nhiều mang tính chất khẩu ngữ. - Ngôn ngữ kịch mang tính tổng hợp và phải phù hợp với tính cách nhân vật. - Trong kịch, thoại cũng là hành động đầy kịch tính. Kịch khai thác triệt để chức năng hành động của lời nói, cho nên đây là đặc điểm thể hiện bản chất thể loại của ngôn ngữ kịch. Chức năng hành động của lời nói bộc lộ đầy đủ nhất trong lời đối thoại của các nhân vật. Trong đối thoại, muốn lời thoại trở thành hành động có kịch tính, mỗi lời nói phải bộc lộ một mục đích, một khuynh hướng ý chí. Triệt để khai thác chức năng hành động của lời thoại, kịch văn học sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện hữu hiệu để khắc hoạ tính cách. Tính cách nhân vật là một cấu trúc phức tạp. Trong tính cách vừa có yếu tố thuộc tâm lý, tính cảm, tính khí, khí chất, vừa có yếu tố thuộc tư Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  20. 16 tưởng, quan niệm, vừa có yếu tố thuộc về cá tính cá nhân, vừa có yếu tố thuộc về cái chung, cái xã hội. 1.2. Dạy học kịch bản văn học trong nhà trƣờng 1.2.1. Vị trí của kịch bản văn học trong chƣơng trình ngữ văn Trung học phổ thông Kịch bản văn học là một trong ba thể loại chính của văn học, tuy nhiên trong chương trình ngữ văn ở cấp THCS đến THPT, văn bản kịch chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn so với văn bản văn học khác Ở chương trình THPT: Đối với sách giáo khoa trước khi chỉnh lý, sách giáo khoa chỉnh lý hợp nhất năm 2000, sách thực nghiệm - Nhà xuất bản Giáo dục. Văn bản kịch được đưa vào giảng dạy chỉ là kịch của các tác giả nước ngoài như Sile, Uyliam Sêchxpia, còn đối với kịch của các tác giả Việt Nam chưa được đưa vào giảng dạy. Cùng với sự nỗ lực đưa phương pháp mới vào giảng dạy, các nhà soạn sách hiện nay đang tiến hành cải cách chương trình sách giáo khoa phổ thông, đã đưa vào trong chương trình THPT những tác phẩm mới và điều đáng lưu ý là sách giáo khoa Ngữ văn chỉ đưa vào ba tác phẩm kịch thì trong đó kịch của tác giả Việt Nam chiếm số lượng là hai. Cụ thể là: - “Tình yêu và thù hận” - trích “Rômêô và Giuliet” của Uyliam Sêchxpia. - “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” - trích “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng. - “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (trích) của Lưu Quang Vũ. Với số lượng tác phẩm kịch ít ỏi như vậy, kịch của hai tác giả Nguyễn Huy Tưởng và Lưu Quang Vũ đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn THPT giúp chúng ta hiểu được vị trí, vai trò của kịch trong nền văn học nghệ thuật nước nhà đồng thời đó cũng là thể hiện sự trân trọng của xã hội, của các nhà nghiên cứu và các thế hệ bạn đọc đối với sự đóng góp của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  21. 17 văn học kịch nói chung cũng như đối với các tác giả Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Quang Vũ nói riêng. 1.2.2. Dạy học kịch bản văn học theo đặc trƣng thể loại. Quá trình dạy học văn trong nhà trường (quá trình tiếp nhận) được tổ chức dưới sự điều khiển, điều chỉnh và định hướng của giáo viên. Quá trình tiếp nhận văn chương trong nhà trường của học sinh vẫn phải tuân theo những quy luật chung của quá trình tiếp nhận. Và từ đặc điểm của môn Ngữ văn, ta thấy quá trình tiếp nhận đi từ cảm thụ ban đầu đến tiếp nhận chiều sâu qua phân tích, cắt nghĩa, bình giá một cách khoa học, hình thành sự hòa đồng thẩm mỹ với tác giả và tác phẩm. Mặt khác, phương pháp dạy học văn mới là nhằm giúp người học dưới sự hướng dẫn của thầy tự cảm nhận khám phá tác phẩm để tạo ra sự phát triển toàn diện về trí tuệ, tâm hồn, năng lực, nhân cách. Chương trình văn học nhà trường hiện nay đang trong sự thay đổi toàn diện cả về hệ thống và nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Theo tinh thần mới này thì việc dạy văn trong nhà trường không thể giữ nguyên như cũ. Đổi mới mục tiêu giáo dục luôn gắn liền với yêu cầu đổi mới hệ thống phương pháp dạy học cũ bằng phương pháp dạy học mới, phương pháp dạy học theo hướng tổ chức hoạt động cho học sinh. Đây là phương pháp phù hợp với bản chất giáo dục và đúng quy luật vận động của văn học nhà trường. Chúng ta đều nhận thấy rõ một điều là: Mỗi tác phẩm văn học là một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo của nhà văn, nó thuộc về một thể loại nhất định. Mặc dù một số tác phẩm vẫn có sự đan xen, pha tạp của các loại thể khác nhưng về cơ bản chúng được nhà văn viết dưới hình thức một thể loại nào đó. Do vậy, mỗi tác phẩm văn chương có con đường tiếp cận riêng. Theo các nhà nghiên cứu, việc chiếm lĩnh tác phẩm văn chương theo đặc trưng loại thể sẽ giúp ta hiểu sâu sắc tác phẩm, không ít giáo viên bấy lâu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  22. 18 nay lãng quên vấn đề thể loại, trong khi vấn đề này rất cần được chú trọng từ khâu thiết kế bài soạn đến khâu thực hành bài giảng. Do vậy, khi giảng dạy các tác phẩm văn chương, người giáo viên cần lưu ý rằng, mỗi thể loại trong văn học đều có những đặc trưng riêng, do đó cần có những nguyên tắc dạy riêng phù hợp với đặc trưng của từng thể loại. Chính vì vậy mà khi dạy tác phẩm kịch cần phải lưu ý: - Tác phẩm kịch có những đặc điểm khác biệt so với các thể loại văn học khác. Nó là một loại hình nghệ thuật biểu diễn trên sân khấu, một thể loại tổng hợp của hai loại tự sự và trữ tình, tuy vậy kịch không bao giờ là một thể loại đơn thuần như tự sự và trữ tình, vì kịch là một thể loại hoà kết giữa văn học và sân khấu. Kịch viết ra chủ yếu không phải để đọc mà là để diễn. Kịch phản ánh đời sống qua các xung đột kịch tức là xung đột của các nhân vật. Mâu thuẫn trong kịch là mâu thuẫn về tư tưởng, quan điểm trong đời sống, nhân vật kịch bị lôi cuốn vào các xung đột căng thẳng từ đầu đến cuối chứ nhân vật kịch không thảnh thơi như trong tự sự, trữ tình. Chính vì vậy, người giáo viên cần phải thấy được các đặc điểm này để khai thác, hướng dẫn học sinh đạt hiệu quả tối ưu. - Kịch diễn ra trên sân khấu thông qua hành động, phải làm rõ hành động kịch trong dạy kịch bản văn học. Hành động là phương tiện chủ yếu của kịch. Hành động kịch tập trung cao độ. Tác giả của vở kịch không thể dừng hành động kịch để chêm xen những tình tiết xa xôi hoặc bổ sung những đoạn tả cảnh hay hồi tưởng chi tiết như tự sự. Nhân vật kịch thường là nhân vật hành động chứ không phải là con người “nếm trải” như trong tiểu thuyết. Nếu có thì kịch không tái hiện quá trình nếm trải nhiều mặt của con người. Giáo viên chưa cho học sinh hình dung được từng lúc trên sân khấu các nhân vật tham gia vào diễn biến của hành động kịch thì bài giảng kịch chẳng khác gì bài giảng tiểu thuyết hay truyện ngắn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  23. 19 - Trong kịch, lời tác giả thu hẹp vào lời chú thích, những lời dẫn ít ỏi. Do đó khi giảng kịch không thể bỏ qua các chỉ dẫn này, nếu không tính sinh động của giờ giảng kịch sẽ bị giảm sút. - Ngôn ngữ trong kịch là phương tiện quan trọng nhất để bộc lộ tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kịch trên sân chủ yếu là lời thoại của các nhân vật. Xung đột hay diễn biến của hành động kịch chủ yếu bộc lộ qua lời thoại của các nhân vật (lời thoại có thể là lời đối thoại cũng có thể là độc thoại). Giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu lời thoại của nhân vật. Lời thoại chiếm một vị trí quan trọng trong nghệ thuật xây dựng kịch bản. - Khi tiếp cận và tìm hiểu chiều sâu tác phẩm, người giáo viên phải đặt trong mối quan hệ với các tác phẩm khác của giai đoạn văn học lúc bấy giờ, đồng thời cũng phải đặt thể loại đó trong mối quan hệ với thực tế cuộc sống, với trào lưu, trường phái văn học để thấy được sự ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến nó. 1.2.3. Một số khảo sát tình hình dạy học kịch bản văn học trong nhà trƣờng Để hiểu rõ thực tế dạy học kịch bản văn học ở nhà trường Trung học phổ thông, chúng tôi tiến hành khảo sát các tư liệu, đối tượng sau: - Sách giáo khoa. - Sách giáo viên. - Sách tham khảo ( Sách bài tập ) - Vở soạn văn, vở ghi của học sinh. - Đối tượng giáo viên. - Đối tượng học sinh. 1.2.3.1. Khảo sát Sách giáo khoa * Sách giáo khoa chỉnh lý hợp nhất Bộ sách giáo khoa chỉnh lý hợp nhất năm 2000 - Nhà xuất bản Giáo dục, dùng cho học sinh THPT không chuyên ban, thời gian dành cho việc dạy học kịch bản văn học là 4 tiết: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  24. 20 - Lớp 10: Dạy học kịch của Sêcxpia (2 tiết) - Lớp 11: Dạy học kịch của Sile (2 tiết) Bài học được biên soạn gồm hai phần: Phần khái quát về thời đại, tác giả, phần đoạn trích về tác phẩm kịch. Ở phần giới thiệu khái quát về thời đại, tác giả còn ở mức độ sơ lược, tóm tắt, không đưa ra các nhận xét xác đáng về tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của tác giả. Ở phần văn bản đoạn trích, các câu hỏi hướng dẫn học bài ở lớp 10 chủ yếu hướng vào hình tượng nhân vật song chưa làm rõ được nghệ thuật cá tính hóa nhân vật. Sách giáo khoa văn 11 đã hướng vào việc tìm hiểu tính cách nhân vật, xung đột kịch còn về ngôn ngữ kịch thì mới đưa ra yêu cầu học sinh dọc diễn cảm cho phù hợp với ngôn ngữ từng nhân vật. * Sách giáo khoa Ngữ văn chƣơng trình nâng cao: Giáo sƣ Trần Đình Sử tổng chủ biên - NXB Giáo dục, 2007 Dành thời gian cho việc dạy học kịch bản văn học của Việt Nam là: + Lớp 11: “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” - trích “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng: 2 tiết. + Lớp 12: “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (trích) của Lưu Quang Vũ: 2 tiết. Bài học được biên soạn gồm: Yêu cầu đạt, tiểu dẫn, đoạn trích, hướng dẫn học bài; bài tập nghiên cứu, tri thức đọc hiểu (lớp 11). - Mục tiêu yêu cầu cần đạt đã định hướng nội dung kiến thức cho cả giáo viên và học sinh. Tuy nhiên người soạn sách quá đề cao nghệ thuật xây dựng kịch mà vấn đề tư tưởng nhân văn của tác phẩm còn mờ nhạt. (lớp 11) hoặc nếu đề cao tư tưởng nhân văn của vở kịch thì đặc trưng của kịch lại mờ nhạt (lớp 12). - Về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng và Lưu Quang Vũ, SGK đã đưa ra những vấn đề cơ bản nhưng chưa có được những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  25. 21 đánh giá, nhận định về sự nghiệp văn học, quan điểm, tư tưởng sáng tác của hai nhà viết kịch nổi tiếng này. - Bài học đã được đặt trong mối quan hệ với đặc trưng thể loại ngay ở lớp 11, vì bài học sau là “Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn” và “ Đọc kịch bản văn học”. Cách bố trí này sẽ giúp cho giáo viên và học sinh có được hướng tiếp cận đúng với đặc trưng của thể loại kịch. Mặc dù vấn đề thể loại đã được đề cập đến nhưng nhìn chung còn mờ nhạt, chưa cụ thể. - Đoạn trích được đưa vào chương trình dung lượng kiến thức vừa đủ. - Về câu hỏi hướng dẫn học bài và bài tập nghiên cứu: Các câu hỏi mà nhà soạn sách đưa ra đã bám sát đặc trưng thể loại kịch, rèn luyện cho học sinh cách phân tích một tác phẩm thuộc thể loại kịch, chủ yếu phân tích qua lời thoại, hình dung tưởng tượng nhân vật trên sân khấu cuối cùng là câu hỏi để học sinh khái quát vấn đề cốt lõi của tác phẩm, từ đó rút ra tư tưởng của nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Bài tập nghiên cứu chưa phát huy được hiệu quả, học sinh khó cảm thụ sâu sắc về nhân vật và ý nghĩa của tác phẩm. - Phần tri thức đọc hiểu: Các nhà soạn sách đã đưa ra đặc trưng của bi kịch (Lớp 11) là một việc làm thiết yếu để học sinh lĩnh hội tác phẩm theo đúng đặc trưng thể loại. * Sách giáo khoa Ngữ văn chƣơng trình chuẩn: Giáo sƣ Phan Trọng Luận tổng chủ biên - NXB Giáo dục, 2007 Với bộ sách này, nhà soạn sách đã đưa ra được những nhận định khái quát về sự nghiệp sáng tác của hai nhà viết kịch nổi tiếng, tuy nhiên đặc điểm kịch Lưu Quang Vũ chưa đề cập tới. - Vở kịch được tóm tắt chi tiết, tỉ mỉ nhưng việc bám sát đặc trưng thể loại vẫn mờ nhạt. Các nhà soạn sách đã đưa ra những đánh giá xác đáng về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. - Về đoạn trích giảng là đoạn trích tiêu biểu, dung lượng kiến thức vừa đủ. Câu hỏi hướng dẫn học bài phù hợp với kết quả cần đạt, tuy nhiên việc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  26. 22 bám sát vào đặc trưng thể loại chưa nhiều. Các câu hỏi đặt ra làm cho học sinh không phân biệt được nó khác gì với câu hỏi tự sự, vì cách đặt câu hỏi giống với câu hỏi của tác phẩm tự sự, mặc dù đã chú trọng tới lời thoại, tính cách, diễn biến tâm trạng nhân vật. - Mục ghi nhớ kiến thức đã đạt đến tầm khái quát. - Ưu điểm của sách chính là các bài tập phần luyện tập. Nó giống như những bài tập về văn nghị luận, giúp HS làm quen dần với phương pháp nghiên cứu, phương pháp tự học có hiệu quả. Học sinh muốn giải quyết được bài tập phải sử dụng các thao tác nghị luận. Ở đó biểu hiện rõ nét khuynh hướng tích hợp trong dạy học văn. Mục đích của bài tập là giúp HS dựa vào kiến thức bài học tự tìm tòi, tiến hành nghiên cứu vấn đề. Các bài tập nghiên cứu này không đơn giản và không phải học sinh nào cũng làm được, đặc biệt là đối với học sinh hệ giáo dục thường xuyên. Xong dưới sự hướng dẫn của giáo viên các em viết được các bài nghiên cứu nhỏ, điều đó tăng niềm say mê, hứng thú với môn học, đặc biệt hình thành trong các em một phương pháp học tập khoa học. Sự đổi mới của bộ sách giáo khoa Ngữ văn cũng giúp cho giáo viên có điều kiện đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá. Nó vừa nâng cao trình độ của giáo viên, giúp đáp ứng được thực tiễn giáo dục đang đặt ra. Tuy nhiên điểm hạn chế của sách là chưa đề cập đến hoạt động liên môn với nghệ thuật sân khấu. Đây là khâu cần thiết nâng cao tính hiểu biết cho học sinh khi học kịch bản văn học và khái quát vấn đề chưa thành hệ thống. 1.2.3.2. Khảo sát Sách giáo viên - NXB Giáo dục, 2008 * Sách giáo viên nâng cao do G.S Trần Đình Sử tổng chủ biên Để giúp cho giáo viên có thêm định hướng trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường, các nhà soạn sách khá công phu đối với từng bài học. Bài học được biên soạn gồm 5 mục: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  27. 23 - Mục 1: Sách hướng dẫn đưa ra mục tiêu cần đạt của bài học. Yêu cầu về giá trị nghệ thuật và yêu cầu về giá trị nội dung. - Mục 2: Sách chỉ ra những điểm cần lưu ý, đó là: + Về tác giả, tác phẩm, đoạn trích: Chú ý khai thác phần tiểu dẫn trong SGK, bám sát đoạn trích khi giảng. + Giảng kịch cần chú ý đến đặc trưng của kịch. + Để nắm vững nội dung, kết cấu, chủ đề vở kịch, sách còn hướng dẫn giáo viên lưu ý thêm bảng nhân vật, các hồi của vở kịch (SGV lớp 11). Những gợi ý trên rất quan trọng đối với giáo viên. Nó giúp họ xác định trọng tâm, phương hướng dạy của bài học. Gợi ý đã chú ý đến đặc trưng thể loại kịch nhưng còn chung chung, chưa làm nổi bật được đặc sắc của kịch. - Mục 3: Sách hướng dẫn tiến trình tổ chức dạy học gồm 3 phần: + Phần mở đầu: Hướng dẫn về đặc trưng của kịch còn chung chung, chưa cụ thể. + Phần nội dung chính: Hướng dẫn trả lời những câu hỏi trong SGK, hướng đến phân tích lời thoại để thấy được tính cách nhân vật + Phần củng cố hướng vào yêu cầu cần đạt và hướng dẫn học bài. - Mục 4: Hướng dẫn thực hiện bài tập nâng cao còn sơ lược, chưa đưa ra những kết luận mở rộng vấn đề. - Mục 5: Chỉ cho giáo viên những tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ cho bài giảng được tốt. * Sách giáo viên chƣơng trình chuẩn do G.S Phan Trọng Luận tổng chủ biên - Về mục tiêu bài học: Sách đưa ra yêu cầu cụ thể cần đạt trong đó có yêu cầu quan trọng nói về đặc điểm của kịch. - Về những điều cần lưu ý: Sách đưa ra đặc điểm bài học và chỉ ra trọng tâm bài, giúp GV đi đúng hướng nhận ra giá trị kịch “Vũ Như Tô” và “Hồn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  28. 24 Trương Ba, da hàng thịt”. Dạy học bám vào đặc trưng thể loại. Mặc dù sách hướng dẫn chưa cụ thể nhưng cũng giúp cho GV có phương pháp giảng dạy buộc học sinh phải tích cực học tập. Sách cũng hướng dẫn phương pháp dạy học trong đó có chú ý đến hoạt động liên môn với loại hình sân khấu. Sách còn chỉ cho GV những tài liệu tham khảo. 1.2.3.3. Khảo sát Sách bài tập. NXB Giáo dục, 2008 * Sách bài tập do G.S Phan Trọng Luận chủ biên. Sách gồm 2 phần: Phần 1 là câu hỏi bài tập, phần 2 gợi ý làm bài. Bài “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”: Lớp 11 - Phần bài tập gồm 5 câu hỏi. Câu 1: Yêu cầu giải quyết bài tập trong SGK đó là yêu cầu HS phát biểu ý kiến của mình về lời đề tựa: “Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm.” Câu 2: Yêu cầu tóm tắt đoạn trích. Câu 3: Yêu cầu cảm nhận về nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Câu 4: Yêu cầu học sinh phát hiện, phân tích mâu thuẫn trong vở kịch. Các câu hỏi trên, việc đề cập đến đăc trưng của thể loại kịch còn mờ nhạt, chủ yếu mới yêu cầu phát hiện mâu thuẫn. - Phần gợi ý trả lời câu hỏi rất cụ thể. Bài “Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt”: Lớp 12 - Phần bài tập gồm 3 câu hỏi. Câu 1: Nêu cảm nghĩ về nhân vật Trương Ba trong đoạn trích. Câu 2: Yêu cầu học sinh tưởng tượng một số kết cục khác. Câu 3: Yêu cầu học sinh phát biểu về mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn từ đó liên hệ với thực tế đời sống. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  29. 25 Như vậy, nhìn vào các câu hỏi sách bài tập đưa ra chủ yếu phát huy trí tưởng tượng, khả năng sáng tạo của học sinh chứ chưa có câu hỏi nào đề cập đến đặc trưng thể loại kịch. - Phần gợi ý trả lời rõ ràng, cụ thể, đáp ứng được yêu cầu của các câu hỏi. * Sách bài tập do G.S Trần Đình Sử chủ biên. Bài “ Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”: Lớp 11 Câu hỏi 2: đề cập đến xung đột kịch. Câu 3 và 4: Yêu cầu học sinh tìm hiểu tính cách nhân vật. Câu 7 và 9: Yêu cầu học sinh phát hiện và nhận xét về ngôn ngữ kịch. Bài “Hồn Trƣơng Ba, da hàng thịt”: Lớp 12 Câu hỏi 1: Yêu cầu học sinh xác định xung đột kịch cơ bản. Câu 3,4: Đề cập đến đối thoại kịch, tính cách nhân vật. Câu 6: Yêu cầu nhận xét về nghệ thuật kịch của Lưu Quang Vũ được thể hiện qua đoạn trích. Các câu hỏi đã bám vào đặc trưng nghệ thuật kịch, làm nổi bật được đặc điểm kịch của Nguyễn Huy Tưởng và Lưu Quang Vũ. Sau những câu hỏi sách đưa ra những gợi ý để giải quyết các câu hỏi song có câu còn rất sơ lược, có câu không gợi ý mà yêu cầu học sinh tự làm (câu 6,7 bài Hồn Trương Ba, da hàng thịt). Nhìn chung cả 4 cuốn sách bài tập (lớp 11,12) có rất nhiều ưu điểm: Bám sát vào nội dung bài học, phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh. Về cơ bản các bài tập đã đáp ứng được yêu cầu về tính khoa học, tính sư phạm, tính nghệ thuật. Giá trị đoạn trích được làm sáng tỏ. Đối với học sinh khá giỏi thì không đơn điệu nhàm chán vì nó không trùng lặp với những gì sẵn có trong sách vở, tài liệu, học sinh có cơ hội bộc lộ năng khiếu cá nhân. Tuy nhiên đối với học sinh trung bình, yếu, đặc biệt đối với nhiều học sinh hệ Giáo dục thường xuyên thì những gợi ý trong sách khó có thể để các em hình thành được những thao tác viết bài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  30. 26 1.2.3.4. Khảo sát vở soạn văn của học sinh Kết quả khảo sát như sau: - Các lớp ban KHXH& NV đa phần đều có vở soạn, trong đó 35% HS soạn bài kỹ càng, chữ viết sạch đẹp; 45% bình thường; 15% sơ sài; 5% không có vở soạn. - Các lớp ban KHTN, hệ Giáo dục thường xuyên: HS có vở soạn 75%, trong đó số soạn bài tỉ mỉ không nhiều: khoảng 25%; 60% vở soạn sơ sài, chép theo sách bài tập không đầy đủ; 15% không có vở soạn. 1.2.3.5 Khảo sát vở ghi của học sinh Kết quả khảo sát như sau: Học sinh ở các lớp ban KHXH & NV ghi chép bài đầy đủ. Số học sinh ghi bài cẩu thả không nhiều. Học sinh không thuộc ban KHXH & NV ghi chép bài bình thường. Số ghi chép bài cẩu thả chiếm khoảng 1/3. Như vậy, theo kết quả điều tra sơ bộ, chúng tôi nhận thấy việc học sinh chuẩn bị, học văn tích cực không nhiều, nhiều em học một cách gượng ép, học, soạn bài để đối phó khi GV kiểm tra. 1.2.3.6. Về phía giáo viên Thực tế cho chúng ta thấy tình trạng dạy, học văn và chất lượng bộ môn văn trong nhà trường THPT hiện nay có sự sa sút. Phụ huynh và học sinh dành tình cảm yêu mến cho bộ môn này không nhiều. Nếu chọn môn học để định hướng nghề nghiệp cho tương lai thì môn văn không được nhiều ưu ái. Đa phần sợ trượt, sợ mênh mông. Lý giải vấn đề này không đơn giản. Nhiều vấn đề cần giải quyết trong đó có vấn đề về phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường theo đặc trưng thể loại. Thực tế không ít giáo viên dùng một giáo án dạy chung cho tất cả các lớp thuộc các đối tượng học sinh khác nhau, thậm chí giáo án lại không bám sát đặc trưng thể loại, giáo án không được bổ sung, nâng cao, cứ dạy hết năm này qua năm khác. Khi nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  31. 27 trường hay Sở Giáo dục và Đào tạo kiểm tra chất lượng dạy và học, một số giáo viên đối phó, một số làm lại. Tình trạng này cần phải được khắc phục ở các nhà trường THPT hiện nay. Qua quá trình khảo sát, chúng tôi thấy tồn tại nhiều quan niệm về dạy học tác phẩm văn chương nói chung, dạy kịch bản văn học nói riêng. Có ý kiến cho rằng: chỉ cần nhớ tác phẩm, đoạn trích là tốt, khi giảng chỉ cần giảng ý, học sinh nắm ý bằng tài năng phát triển ý của thầy dạy là xong. Có người cho rằng: chất lượng bộ môn văn chính là ở các bài làm văn. Rèn được kỹ năng viết văn, thi đỗ nhiều là được. Như vậy, có quan niệm dạy văn thiên về nhồi nhét kiến thức, cảm thụ theo một mô hình cứng nhắc. Trong khi đó cảm thụ văn chương cần có sự rung động sáng tạo. Có quan niệm: Dạy văn nhưng không hiểu về đặc trưng thể loại của tác phẩm, không chú ý đến đặc điểm của đối tượng. Chúng tôi thấy, số lượng giờ dạy dành cho kịch bản văn học trong nhà trường THPT quá ít ỏi (6 tiết), mỗi kịch bản dạy trong 2 tiết, nếu chúng ta không có sự đầu tư soạn giảng cẩn thận, tỉ mỉ thì khó để lại cho học sinh sự rung động về chiều sâu tư tưởng của tác phẩm, ý nghĩa của nó với thời đại. Chúng tôi được biết khi có dịp trò chuyện với giáo viên, đa phần đọc tác phẩm lúc ngồi trên ghế nhà trường, hiện dạy học chỉ dựa vào bản tóm tắt tác phẩm SGK. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả giờ học. Có giáo viên muốn đọc lại thì không có vở kịch trong tay, thư viện nhà trường không có, đi tìm ở các hiệu sách cũng không có. Phải chăng, các tác phẩm kịch có mặt là rất mỏng ? khi giảng dạy chủ yếu tham khảo sách giáo viên. Một số giáo viên trẻ mới ra trường có bầu nhiệt huyết, yêu đời, có lượng tri thức vừa mới được tiếp thu ở trường Đại học hun đúc lên, giảng kịch say sưa nhưng vì chưa có kinh nghiệm nên giờ giảng của họ quá tham kiến thức, chưa định lượng được thời gian và định lượng kiến thức cơ bản mà học sinh cần lĩnh hội. Hầu như hoạt động liên môn để mở rộng kiến thức, đào sâu hiểu biết của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  32. 28 học sinh với loại hình nghệ thuật này không có. Dạy học kịch không đúng đặc trưng thể loại, kết quả là giáo viên, học sinh chưa thực sự trở thành người đồng hành sáng tạo cùng nhà văn. Học sinh không nhận ra được nét đặc sắc của thể loại kịch và giá trị tư tưởng của tác phẩm mà nhà văn muốn gửi gắm đến thế hệ mai sau. 1.2.3.7. Về phía đối tượng học sinh Qua thực tế khảo sát cho chúng ta thấy chất lượng của việc dạy học kịch bản văn học trong nhà trường THPT là chưa cao. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó phải kể đến đối tượng học sinh. Không ít học sinh tiếp thu thụ động chủ yếu bài giảng của giáo viên là tài liệu duy nhất. Việc soạn bài ở nhà rất qua quýt. chỉ là để đối phó với sự kiểm tra của giáo viên, đến lớp học không chịu động não, nhiều học sinh không yêu thích môn văn. HS Nguyễn Văn Dũng lớp 11A - k41 nói: “Em là con trai nên ngại học văn lắm, đă thế lại còn phải soạn bài. Nhiều khi sợ cô giáo kiểm tra em mang sách Để học tốt ra chép cho xong chuyện”. Có những học sinh không đọc tác phẩm hay đoạn trích trước khi đến lớp. Nếu giáo viên có dạy tốt mà học sinh không học tốt thì không thể nói đến hiệu quả của giờ học. Em Bùi Thu Huệ lớp 12D – k41 sau khi học xong "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lưu Quang Vũ đã thốt lên rằng: “vở kịch này hay thật, thế mà từ trước đến nay em không thích đọc kịch” Như vậy, muốn nâng cao chất lượng dạy học kịch bản văn học trong nhà trương THPT nói chung, kịch “Vũ Như Tô” và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nói riêng, cần phải khắc phục những nhược điểm nêu trên. Thực tế việc dạy học văn chưa đạt được hiệu quả cao, vấn đề then chốt ở đây chính là chưa bám sát đặc trưng thể loại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  33. 29 Chƣơng II DẠY HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC "VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI" VÀ "HỒN TRƢƠNG BA, DA HÀNG THỊT" Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 2.1. Dạy học kịch bản văn học "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” trích “Vũ Nhƣ Tô” của Nguyễn Huy Tƣởng 2.1.1. Tác giả, tác phẩm 2.1.1.1. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng - Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) xuất thân trong một gia đình nhà nho, quê ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội). - Ông một trong những nhà văn yêu nước tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại, là một nghệ sĩ giàu lòng yêu nước, Nguyễn Huy Tưởng sớm tìm đến phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trở thành thành viên chủ chốt của phong trào văn hoá cứư quốc. Sau cách mạnh, Nguyễn Huy Tưởng đã đem hết nhiệt tình, tài năng của mình góp phần xây dựng nền văn học mới ở thời kỳ đầu còn non trẻ bằng những hoạt động tích cực và có hiệu quả trong cương vị chủ chốt của hội văn hoá cứu quốc và sau đó ở Hội văn nghệ Việt Nam. - Nhà văn là cây bút thiên về đề tài lịch sử, đồng thời cũng là người viết ở nhiều thể loại văn học: tiểu thuyết, ký, kịch, truyện phim ở mỗi thể loại ông đều có những đóng góp đáng kể. - Trước cách mạng tháng Tám - 1945, các sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng đều đi sâu khai thác các sự kiện, các nhân vật lịch sử nước nhà. Khi viết về đề tài lịch sử Nguyễn Huy Tưởng không rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi như một số cây bút thiếu trách nhiệm. Qua đề tài lịch sử, ông ca ngợi tinh thần dân tộc, khẳng định tinh thần yêu nước của dân tộc, nhà văn luôn luôn quý trọng, nâng niu trang sử dân tộc. Trong lúc chưa tìm ra một lối đi, Nguyễn Huy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  34. 30 Tưởng gửi gắm vào trang viết một tấm lòng yêu nước, quý trọng đồng bào, nhân dân. Nhà văn không hề xa rời hiện thực khi quay lại ca ngợi quá khứ, ông luôn dùng trí tưởng tượng phong phú để điểm tô cho trang sử thêm sinh động, trong tô điểm có tưởng tượng. Dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng, lịch sử vẫn luôn giữ được sự trung thực, vì vậy mà rút ngắn khoảng cách giữa quá khứ với hiện tại, tạo nên sự sinh động và gần gũi bạn đọc. - Nguyễn Huy Tưởng thường quan tâm trăn trở, suy nghĩ về thời cuộc, lúc này nhân dân ta đang phải chịu ách thống trị của ngoại bang, Nguyễn Huy Tưởng đã suy nghĩ nhiều đến thân phận của người dân mất nước, phải làm một chút gì để góp sức mình vào sự nghiệp giải phóng nhân dân khỏi nô lệ, Nguyễn Huy Tưởng đã lấy lịch sử nước nhà thổi vào những tia sáng màu hồng làm rạng rỡ tinh thần dũng cảm của người dân nước Việt Nam thấy được số phận bi thương của mình mà noi theo những tấm gương của ông cha trong quá khứ để giải phóng mình, giải phóng non sông đất nước. Những trang viết của Nguyễn Huy Tưởng là những điều tâm huyết đáng trân trọng của một trí thức giàu lòng yêu nước. Sau cách mạng tháng Tám – 1945, Nguyễn Huy Tưởng đem hết sức mình để xây dựng nền văn học cách mạng. Toàn bộ sáng tác của nhà văn ở giai đoạn này là tập trung ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Con đường sáng tác của nhà văn không ít thăng trầm, nhưng điều đáng quý ở Nguyễn Huy Tưởng là có một tấm lòng thành tha thiết với cách mạng, với dân tộc và sự trung thực của một trí thức, một nghệ sĩ khát khao sáng tạo, luôn trăn trở về công việc và trách nhiệm của người cầm bút. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng chỉ gói gọn trong khoảng hai mươi năm, ông ra đi giữa tuổi 49, tuổi đang sung sức của một cây bút đã từng trải qua hai chế độ, tài năng đang ở độ kết tinh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  35. 31 Như vậy, từ một thanh niên yêu nước, giàu lý tưởng, lấy văn chương làm hành động cách mạng, Nguyễn Huy Tưởng đã trưởng thành dưới chế độ mới và trở thành một nhà văn giàu tâm huyết và có những đóng góp quan trọng cho nền văn học mới, phản ánh con đường đi của người tri thức đến với cách mạng. Đọng lại sâu sắc trong lòng người đọc là tấm lòng nhân ái, tin yêu, với những trang viết trong sáng, lạc quan, đầm ấm, đôn hậu. Ghi nhận sự đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng, năm 1996 nhà nước đã trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho ông. - Tác phẩm chính: Vũ Như Tô (kịch, 1941), Bắc Sơn (kịch, 1946), Những người ở lại (kịch, 1948), Đêm hội long trì (tiểu thuyết, 1942), An Tư (tiểu thuyết, 1945), Sống mãi với thủ đô (tiểu thuyết, 1961), Ký sự Cao Lạng (kí, 1951). 2.1.1.2. Tác phẩm “Vũ Như Tô” “Vũ Như Tô” là tác phẩm lớn nhất của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Đây là một trong những sáng tác của ông trước cách mạng tháng tám 1945. “Vũ Như Tô” là vở bi kịch lịch sử năm hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 - 1517 dưới triều Lê Tương Dực. Tác phẩm được Nguyễn Huy Tưởng viết xong vào mùa hè năm 1941, đề tựa tháng 6 - 1942. Từ vở bi kịch ba hồi đăng trên tạp chí Tri tân năm 1943 - 1944, được sự góp ý của nhiều nhà văn tiến bộ, Nguyễn Huy Tưởng đã sửa lại thành vở kịch năm hồi. Trong “Vũ Như Tô”, chúng ta thấy cảm hứng lịch sử chi phối toàn bộ tác phẩm. Từ sự kiện lịch sử được ghi rất ngắn gọn trong "Việt sử thông giám cương mục". Theo cuốn sử này: Vũ Như Tô là một người thợ Cẩm Giàng, xếp cây nứa thành kiểu mẫu cung điện lớn, tầm vóc, dâng lên nhà vua, nhà vua bằng lòng thăng cho Vũ Như Tô làm đô đốc đứng trông non việc dựng hơn trăm nóc cung điện lớn có gác, lại khởi công làm Cửu Trùng Đài sửa sang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  36. 32 xây dựng hết ngày này qua ngày khác. Quân và dân phải đi làm việc bị bệnh dịch, chết mất khá nhiều Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề được tin Duy Sản bạo nghịch giết vua, bèn chém Vũ Như Tô ở ngoài cửa thành. Vũ Như Tô bị giết, mọi người đều chỉ trích chê cười, có người còn nhổ nước bọt vào thây hắn. Chỉ từ tài liệu lịch sử này, Nguyễn Huy Tưởng bằng sự tưởng tượng và hư cấu của mình đã xây dựng một tác phẩm nghệ thuật dựa trên lịch sử nhưng lại có những đặc điểm riêng biệt của một tác phẩm nghệ thuật. Trong kịch “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô là “ một tài trời, một người thợ có hoa tay tuyệt thế, chạm trổ,nạm đục, xây dựng không kém đường gì. Lại có đào muôn kiểu hồ, vẽ những vườn hoa lộng lẫy như bồng lai Một tay hội hoạ khác thường: Chỉ một vẩy bút là chim hoa đã hiện trên mảnh lụa, thần tình biến hoá như hoá công. Còn cái tài tính toán thì không lời nào tả hết, sai khiến gạch như ông tướng cầm quân,có thể xây những lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”. Tương ứng với cái tài ấy là một nhân cách lớn, tính tình cương trực, trọng nghĩa khinh tài. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa, sai Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi ăn chơi với đám cung nữ. Vũ đã từ chối dù bị đe doạ kết tội tử hình. Sau đó Vũ siêu lòng vì nghe lời khuyên của một cung nữ tài sắc nhưng đã bị ruồng bỏ tên là Đan Thiềm. Đan Thiềm khuyên Vũ nên nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài vì đây là cơ hội để Vũ đem tài ra phục vụ đất nước "Ông cứ xây lấy một toà đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi mất đi, nhưng sự nghiệp của ông còn lại muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh diện ". Từ đó cái lý tưởng "xây dựng cao đài, làm vinh dự cho non sông" đã làm cho Vũ mù quáng. Vũ làm việc quên ăn quên ngủ với nhiệt tình của sự ham mê nghệ thuật. Nhưng cũng chính việc xây dựng Cửu Trùng Đài lại đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, gây cho người dân biết bao khổ cực, bất hạnh. Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  37. 33 thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua làm cho dân khốn cùng, nước kiệt, thù oán Vũ Như Tô bởi nhiều người chết vì tai nạn, vì ông cho chém những kẻ chạy trốn. Công cuộc xây dựng càng gần kề thành công thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị sống xa hoa truỵ lạc với tầng lớp nhân dân nghèo khổ, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người dân lao động mà ông hằng yêu mến càng thêm căng thẳng, gay gắt. Lợi dụng tình hình rối ren đó, Quận công Trịnh Duy Sản, kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Cửu Trùng Đài bị chính những người thợ nổi loạn đập phá, thiêu huỷ. Đoạn trích sách giáo khoa thuộc hồi V (Một cung cấm) của vở kịch. 2.1.2. Phƣơng hƣớng dạy học Như chúng ta đã biết, phương pháp dạy học mới với quan điểm lấy học sinh làm trung tâm, học sinh trở thành chủ thể tiếp nhận. Vì vậy khi xây dựng chương trình sách giáo khoa Ngữ văn, các nhà biên soạn đề cao vai trò tự học của học sinh và coi kỹ năng đọc - hiểu và làm văn là hai khâu then chốt của chương trình. Một giờ dạy học văn phải tạo được không khí cảm xúc, sự đồng cảm, giao cảm, sự cộng hưởng cảm xúc giữa nhà văn - giáo viên - học sinh, trong đó đối tượng tiếp nhận chính là học sinh phải được trò chuyện với nhà văn (qua tác phẩm) giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức cho cuộc đối thoại đó diễn ra bình đẳng, tự nhiên và làm sống dậy được cảm xúc, tâm hồn của học sinh. Đó chính là hạt nhân của quá trình dạy học tác phẩm văn học theo quan điểm hiện nay. Để khẳng định quan điểm dạy học mới là đúng đắn và phù hợp với mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn hiện nay thì việc xây dựng một mô hình thiết kế giờ dạy tác phẩm văn chương phù hợp với tư tưởng mới đó Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  38. 34 chính là sự cụ thể hoá được hệ thống quan điểm lý luận mới trong khoa học, phương pháp dạy học hiện nay. Đứng trước quan điểm đổi mới trong dạy học nói chung, trong dạy học văn học nói riêng, đòi hỏi người giáo viên không chỉ có kiến thức vững vàng mà còn phải có tài năng sư phạm. Trước khi thiết kế một giờ dạy học, người giáo viên cần phải trả lời được những câu hỏi: Dạy cho ai? dạy để làm gì và dạy như thế nào? Kết cấu giờ dạy học là kết cấu của một hệ thống thao tác của giáo viên và những tình huống học tập. Tài năng sư phạm của người giáo viên trước quan điểm dạy học mới hiện nay thể hiện ở tất cả các khâu từ việc hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà, cách tổ chức điều khiển quá trình nhận thức của học sinh đến khâu kiểm tra đánh giá. Điều đó có nghĩa là giáo viên phải định ra được phương hướng dạy học cụ thể. Vận dụng quan điểm dạy học mới vào việc dạy học tác phẩm văn học trong nhà trường THPT nói chung, dạy học kịch bản văn học "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" nói riêng. Chúng tôi mạnh dạn đề ra phương hướng dạy học gồm ba khâu: - Nội dung hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài. - Các hình thức tổ chức hoạt động dạy học trên lớp. - Cách thức kiểm tra, đánh giá. 2.1.2.1. Nội dung hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài “Vũ Như Tô” là một tác phẩm thuộc thể loại kịch, một thể loại được học rất ít ở trong chương trình văn học nhà trường, hơn nữa vở kịch này có nhiều yếu tố lịch sử, song tác phẩm lại không nhằm dựng lại lịch sử mà qua tác phẩm, tác giả như muốn đặt ra một vấn đề sâu xa khác. Chính vì vậy, việc đọc hiểu, tiếp nhận tác phẩm không phải là một chuyện dễ dàng,thêm vào đó SGK chỉ trích hồi V của vở kịch. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  39. 35 Tác phẩm “Vũ Như Tô” ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XX, có thể nói nó rất xa lạ với cả giáo viên hiện nay, hơn nữa giáo viên vốn quen với Nguyễn Huy Tưởng ở thể loại truyện, tiểu thuyết. Đối tượng tiếp nhận là học sinh, tuy tâm, sinh lí đã phát triển hoàn thiện, song sự trải nghiệm cuộc sống, kinh nghiệm cuộc đời còn ít nên khó có thể hiểu sâu xa ý nghĩa của tác phẩm. Vì vậy rất cần sự hướng dẫn gợi mở của giáo viên ở ngay từ khâu chuẩn bị bài ở nhà. Tuy nhiên khi tìm hiểu Nguyễn Huy Tưởng, thuận lợi cơ bản là học sinh đã được tìm hiểu, Nguyễn Huy Tưởng và phong cách nghệ thuật của ông ở chương trình THCS với vở kịch “Bắc Sơn” - một vở kịch lấy cảm hứng từ đề tài lịch sử. Để chuẩn bị tốt cho giờ dạy học văn bản kịch “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện các công việc sau đây ở nhà: - Về Nguyễn Huy Tưởng và tác phẩm của ông: Khai thác phần tiểu dẫn sách giáo khoa, trong đó cần nhấn mạnh những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Tưởng, niềm khao khát và thiên hướng đam mê sáng tạo của ông viết được những tác phẩm có quy mô lớn, dựng lên được những hinh tượng hoành tráng về lịch sử, bi hùng của dân tộc, khao khát nêu lên được những vấn đề nhức nhối, có tầm vóc lớn lao của văn chương nghệ thuật. - Về vở kịch” Vũ Như Tô”: + Cần nắm được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Nguyễn Huy Tưởng viết “Vũ Như Tô” vào mùa hè năm 1941, đó là thời điểm mà nhân dân ta còn đang phải chịu hai tầng xiềng xích Pháp, Nhật. Khắp nơi trên đất nước xảy ra những cảnh bắt bớ, tra tấn, đàn áp đẫm máu. Nhưng mặt khác phong trào cứu quốc của Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển và tập hợp mọi lực lượng yêu nước vào cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc. Trong hoàn cảnh gay go, khốc liệt ấy, trừ một số đã tìm thấy ánh sáng cách mạng, còn phần đông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  40. 36 những tri thức tiểu tư sản thành thị, công chức, anh chị em văn nghệ sĩ,v.v thì hoặc là có thái độ cầu an, do dự, chờ thời hoặc là bi quan, hoang mang, dao động. Một số nhà văn đi vào con đường truỵ lạc, suy đồi, bế tắc, quay lưng lại quần chúng, lại có những người quay về quá khứ theo chủ nghĩa phục cổ ca ngợi chế độ phong kiến. Trong thời kỳ đó nói chung những cái gì là tiến bộ, cách mạng đều rút lui vào bí mật. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu hoàn cảnh, lịch sử những năm 1941 - 1943 và đặt Vũ Như Tô vào hoàn cảnh lịch sử đó, soi Nguyễn Huy Tưởng qua bối cảnh lịch sử đó mới có thể đánh giá đúng một tác phẩm. Cần bám sát đoạn trích hồi V trong SGK ngữ văn 11 vì SGK trích trọn hồi V (chín lớp kịch), học sinh chắc chắn không có điều kiện đọc đầy đủ tác phẩm vì vậy: cần lưu ý các em bám sát đoạn trích vừa gợi ý cho các em hình dung được toàn thể vở kịch. Để làm được điều này giáo viên cần đọc kỹ vở kịch, nắm chắc tác phẩm và hướng dẫn HS khai thác phần tóm tắt nội dung trong SGK sao cho hiệu quả. + Về đặc điểm thể tài của vở kịch: Hiện cũng có những ý kiến khác nhau. Một số người muốn xem đây như một vở kịch lịch sử, một số khác có xu hướng xem đây là bi kịch. Vở kịch này có những yếu tố lịch sử nhưng tác giả không có ý định dựng lại, làm sống dậy một sự thật lịch sử nên càng khó xem đây là một vở kịch lịch sử theo đúng nghĩa của nó. Qua “Vũ Như Tô” Nguyễn Huy Tưởng muốn đặt những vấn đề sâu xa hơn liên quan đến nhiều mối quan hệ: lợi ích của bản thân nghệ thuật và lợi ích của đời sống, nghệ sĩ và nhân dân, đam mê và tội lỗi. Cũng có không ít ý kiến cho vở kịch này là một bi kịch. Khi xem xét vở kịch này ta thấy kết thúc tác phẩm là bi kịch và trong tác phẩm chứa nhiều yếu tố lịch sử nên ta phải chú ý cả 2 đặc điểm này. Giáo viên chỉ cần hình thành cho học sinh một vài ý niệm về các thể trong loại kịch, những kiến thức phổ thông liên quan đến kịch chứ không cần phải đi sâu tìm hiểu đặc trưng bi kịch hay kịch lịch sử. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  41. 37 + Cần chú ý đến đặc trưng của kịch trong quá trình hướng dẫn đọc hiểu, vì kịch là thể loại văn học mà hoc sinh chưa có điều kiện để học nhiều. Có thể tổ chức cho học sinh xem kịch, hoặc xem băng đĩa + Chú ý đến chủ đề của vở kịch. + Chú ý đến bảng nhân vật, và lời đề tựa của vở kịch. + Chú ý đến kết cấu của vở kịch. Vở kịch gồm năm hồi: Hồi I: Một cung cấm của vua Lê (9 lớp). Hồi II: Một cung điện vua dành riêng cho Vũ Như Tô (5 lớp). Hồi III: Nửa năm sau (công trường) (9 lớp). Hồi IV: Bốn tháng sau (công trường) (6 lớp). Hồi V: Một cung cấm (9 lớp). 2.1.2.2. Các hình thức tổ chức hoạt động dạy học trên lớp * Hoạt động 1: Giới thiệu Nguyễn Huy Tưởng và vị trí của kịch “Vũ Như Tô” trong sự nghiệp sáng tác của ông, cần nhấn mạnh những nội dung ở phần hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài. * Hoạt động 2: Đọc văn bản sách giáo khoa Con đường đi vào tác phẩm văn chương nhất thiết phải từ việc đọc và gắn liền với đọc. Đây là một phương pháp mà từ trước đến nay chúng ta không thể bỏ qua khi dạy học tác phẩm và chương trong nhà trường phổ thông. Đọc chính là bước đầu tiên giúp cho học sinh tham gia vào cuộc đối thoại với tác giả thông qua văn bản văn chương. Văn bản văn chương chỉ trở thành tác phẩm văn chương khi được bạn đọc tiếp nhận. Đọc làm sống lại tác phẩm, tạo không khí văn chương cho giờ học. Đọc là bước để học sinh suy ngẫm tìm hiểu tư tưởng, thái độ của nhà văn gửi vào tác phẩm trên cơ sở những rung động, cảm xúc, ấn tượng của mình về văn học. Đọc có ý nghĩa quan trọng, góp phần cho sự thành công của giờ học. Có nhiều cách đọc: đọc to, đọc thầm, đọc nhanh, đọc lướt, đọc diễn cảm, đọc hiểu,v.v khi đọc kịch Vũ Như Tô phải chú ý kịch viết ra không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  42. 38 phải là để đọc mà là để diễn, mặc dù chúng ta biết kịch được đưa vào trong nhà trường là kịch bản văn học chứ không xem xét nó như một bộ môn nghệ thuật. Vì thế khi dạy học vở kịch này ta sử dụng nhiều cách đọc khác nhau. Đọc ở đây là đọc kịch bản có liên hệ với sân khấu. Đầu tiên phải làm sống dậy không khí của vở kịch. Trên cơ sở đó tiến hành đọc đoạn trích"Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" hồi V (9 lớp) theo hình thức phân vai và đọc diễn cảm. Hai hình thức học này gắn liền với nhau. Giáo viên có thể cho học sinh tìm hiểu số lượng nhân vật xuất hiện trong đoạn trích và học sinh vào vai. Mục đích nhằm tái hiện lại vở kịch như trên sân hấu. Đọc phải hình dung tưởng tượng và có đối chiếu, so sánh. Có như vậy ta mới thấy được không khí của giờ giảng kịch. Đọc phân vai để học sinh thấy rõ được bản chất khái quát nhất của từng nhân vật. Đọc diễn cảm có tác động thẩm mỹ lớn đến người đọc. Nó có tác dụng dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của nhân vật. Tuy nhiên, việc đọc đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" trong bối cảnh thoát ly môi trường sân khấu, lại trong khuôn khổ của một khoảng thời gian hạn hẹp, do vậy chúng ta cần đọc có định hướng và đọc hiểu tác phẩm. Đọc để tiếp cận với những đoạn, những vấn đề trọng tâm của vở kịch. Giáo viên định hướng cho các em đọc, hiểu sơ lược đoạn trích. Để có thể đọc - hiểu đoạn trích, chúng ta dựa vào hiểu biết về đặc trưng của thể loại kịch. Đọc chủ yếu vào những đoạn xoay quanh xung đột, hành động kịch, tưởng tượng như là kịch đang diễn ra trước mắt. Đọc phân vai ở những đoạn đối thoại của các nhân vật, đọc diễn cảm ở những lời độc thoại của nhân vật để thấy rõ nội tâm nhân vật, suy tư, cảm xúc của nhân vật. Từ đó góp phần phát triển năng lực cảm thụ nghệ thuật của học sinh. Đọc kịch theo đặc trưng thể loại sẽ góp phần không nhỏ cho việc tìm hiểu tác phẩm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  43. 39 Nhưng nếu chỉ đọc tác phẩm thì sự tiếp nhận tác phẩm chưa toàn diện, sâu sắc cho nên ta cần phải kết hợp với một số hoạt động khác để hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm. * Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh tiếp nhận đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" thông qua hoạt động phân tích. Hoạt động phân tích tác phẩm chính là việc chia nhỏ đối tượng để có cái nhìn cụ thể những yếu tố làm nên chính thể nghệ thuật. Tác phẩm văn học là thể thống nhất hữu cơ của rất nhiều yếu tố chi tiết. Nếu đọc tác phẩm (đoạn trích) từ đầu đến cuối sẽ cho chúng ta cảm nhận chung nhất thì phân tích sẽ giúp chúng ta khám phá được hết chiều sâu của ngữ nghĩa cũng như dụng ý ẩn ý nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi gắm vào tác phẩm. Do vậy việc chia tách tác phẩm thành nhiều yếu tố để xem xét là hoạt động cần thiết giúp cho chúng ta không bỏ qua sự sáng tạo nào của tác giả và khám phá tác phẩm sâu hơn, kỹ hơn. Tuy nhiên cũng cần phải hiểu rằng tác phẩm văn học không phải là sự lắp ghép hàng loạt các yếu tốt, chi tiết nghệ thuật. Do vậy sau khi chia tách cần phải tổng hợp lại để có một cách nhìn mới về chỉnh thể, phân tích tác phẩm văn chương là tháo gỡ tất cả tương quan vẫn không tách rời nhau trong chỉnh thể nghệ thuật. Khi phân tích đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" ta cần phải biết hoàn cảnh ra đời, đặc điểm thể tài của vở kịch đây là vở bi kịch, sử dụng nhiều yếu tố lịch sử song vở kịch không có ý làm sống lại một sự thật lịch sử nên khó có thể xem đây là vở kịch lịch sử theo đúng nghĩa của nó. Qua vở kịch, Nguyễn Huy Tưởng muốn đặt ra một vấn đề sâu xa hơn, liên quan đến nhiều mối quan hệ. Đó là lợi ích của bản thân nghệ thuật và lợi ích của đời sống nghệ sĩ và nhân dân. Nếu chúng ta xem “Vũ Như Tô” là một tác phẩm bi kịch thì ngoài đặc điểm chung của loại bi kịch cũng có những đặc điểm riêng của thể, đặc điểm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  44. 40 này được thể hiện qua xung đột, qua nhân vật và một số yếu tố khác của bi kịch. Xung đột của bi kịch được tạo dựng từ những mâu thuẫn, nhân vật kịch mang trong mình không chỉ những say mê, những khát vọng lớn lao mà còn mang cả những lầm lạc trong hành động và trong tư duy của chính nó không bao giờ khuất phục. Nhân vật bi kịch luôn vùng lên chống lại số phận, thách thức với hoàn cảnh. Trong kịch “Vũ Như Tô”, tác giả xây dựng hai mâu thuẫn xung đột cơ bản. Mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn giữa đời sống xa hoa, truỵ lạc của bọn tham quan bạo chúa (Lê Tương Dực) với đời sống cơ cực, thống khổ của nhân dân lao động. Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa niềm khao khát hiến dâng tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ chìm trong mơ mộng với lợi ích trực tiếp và thiết thực của đời sống nhân dân. Mâu thuẫn thứ nhất được thể hiện ngay từ những hồi đầu và cho đến hồi cuối của vở kịch và càng về những hồi kết càng gay gắt bởi Cửu Trùng Đài càng được tích cực xây dựng thì đời sống nhân dân càng thêm cực khổ, thợ thì bị đói vì bị ăn chặn, chết nhiều vì tai nạn, dân thì oán vua làm cho dân cùng nước kiệt. Ở mâu thuẫn thứ hai - mâu thuẫn chứa yếu tố bi kịch, đó là niềm khao khát hiến dâng tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ với lợi ích và thiết thực của đời sống nhân dân. Nhân vật chính Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ đầy tài năng và tâm huyết với khát vọng sáng tạo nghệ thuật rất lớn và chân chính nhưng vì quá say mê khao khát trong sáng tạo nên Vũ Như Tô càng xa dời thực tế đời sống, càng sáng suốt trong sáng tạo nghệ thuật thì càng mê muội trong những toan tính lo âu đời thường nên cuối cùng đã có một kết cục bi thảm. Đoạn trích (hồi V) có kết cấu như một vở kịch: có thắt nút (mâu thuẫn), xung đột, cao trào và mở nút. Đoạn trích đã giải quyết mâu thuẫn lớn nhất của cả vở kịch. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  45. 41 Đoạn trích tái hiện cuộc nổi dậy của binh lính và dân chúng dưới sự cầm đầu của Lê Duy Sản. Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài theo lời khuyên của Đan Thiềm với mục đích xây dựng cho đất nước một công trình nghệ thuật. Đó là mục đích nghệ thuật của người nghệ sĩ, còn điều mà nhân dân và binh lính trông thấy ngay trước mắt là Vũ Như Tô đang dùng công sức và xương máu của nhân dân để phục vụ mục đích ăn chơi sa đoạ của tên hôn quân Lê Tương Dực. Cuộc đối thoại giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô ở lớp I của hồi kịch cho ta thấy Vũ Như Tô là một nghệ sĩ quá đam mê trong sáng tạo nghệ thuật, xây dựng Cửu Trùng Đài mà không biết rằng tác phẩm nghệ thuật của ông đã gây bao tai hoạ cho dân chúng. Quan tâm đến nghệ thuật nhưng lại quên mất mối quan hệ giữa nghệ thuật với đời sống, vì thế mà ông không thể hiểu điều Đan Thiềm nói. Vũ Như Tô thà chết với Cửu Trùng Đài chứ không chịu chạy trốn. Đây cũng chính là phần thắt nút của đoạn kịch. Cao trào của hồi kịch tập trung ở ba lớp kịch cuối cùng, đó là cuộc đối đầu giữa Vũ như Tô và những người nổi dậy. Kết thúc đoạn trích và cũng là kết thúc vở kịch, Vũ Như Tô bị dẫn ra pháp trường, Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ. Hai nhân vật chính trong tác phẩm (đoạn trích) mang đầy đủ tính cách, diễn biến của nhân vật bi kịch, đó là say mê khát vọng lớn lao không hề bị khuất phục trước hoàn cảnh. Nếu Vũ Như Tô là người đam mê cái đẹp và khao khát sáng tạo cái đẹp thì Đan Thiềm là người đam mê cái tài, cụ thể là tài sáng tạo nên cái đẹp. Đan Thiềm có thể hy sinh bản thân mình để bảo vệ cái tài. Trong đoạn trích, Đan Thiềm cũng vô cùng đau đớn nhận ra thất bại của giấc mộng lớn xây Cửu Trung Đài, nhưng nhạy bén, thích ứng với hoàn cảnh hơn Vũ Như Tô. Tâm trí của nàng giờ đây không hướng vào thất bại của việc xây dựng Cửu Trùng Đài mà hướng vào sự sống còn của Vũ Như Tô, người nghệ sĩ thiên tài "ngàn năm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  46. 42 chẳng dễ có một", nàng khẩn khoản khuyên Vũ Như Tô trốn đi và khi lời khuyên của nàng vô hiệu thì nàng đau đớn tột cùng. Trong nhiều lớp liên tiếp ở hồi V Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô trốn đi, giọng nàng hổn hển, đứt đoạn khi không cứu được Vũ Như Tô, Đan Thiềm đành buông lời vĩnh biệt tất cả "đài lớn tan tành, ông cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt". Với nhân vật Vũ Như Tô thì trái lại, trước lời khuyên của Đan Thiềm, vẫn không thể thoát ra khỏi trạng thái mơ màng, ảo vọng của chính mình. Ông không tin rằng việc làm cao cả của mình lại có thể bị xem là tội ác, ông khẳng định việc làm của mình là quang minh chính đại nên khi nhìn thấy Cửu Trùng Đài bốc cháy ông đau đớn kinh hoàng và nỗi đau đớn của ông gấp bội so với Đan Thiềm. Nỗi đau ấy bật lên thành tiếng kêu bi thiết, âm điệu não nùng trở thành âm hưởng chủ đạo bao trùm đoạn trích "Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! ". Đó là tiếng kêu cuối cùng của Vũ Như Tô khi ngọn lửa đang thiêu cháy Cửu Trùng Đài trước khi tác giả của nó bị dẫn ra pháp trường. Như vậy, diễn biến tâm trạng của nhân vật chính Vũ Như Tô và Đan Thiềm cho ta thấy sâu sắc hơn về chủ đề của tác phẩm. Ngôn ngữ trong đoạn trích là ngôn ngữ có tính tổng hợp rất cao, ngôn ngữ khắc hoạ rõ nét tính cách, tâm trạng nhân vật, dẫn dắt được xung đột, hành động kịch rất thành công nhịp điệu được thông qua nhịp điệu của lời nói, hành động, nhất là lời nói của Vũ Như Tô. Đặc biệt mỗi lời nói của Đan Thiềm, Vũ Như Tô xuất hiện với Cửu Trùng Đài đều đánh dấu một biến động lớn của hành động kịch. Như phần trên chúng ta đã nói, đây là một vở bi kịch có chứa nhiều yếu tố lịch sử. “Vũ Như Tô” được viết dựa trên các sử liệu, các sự kiện, nhân vật lịch sử, bối cảnh lịch sử nhưng điều quan trọng là Nguyễn Huy Tưởng đã khai thác, vận dụng các sử liệu ấy để phù hợp với bi kịch. Lịch sử cũng có quy luật của nó. Có lôgich, có tàn khốc, có hào hùng. Cốt lõi lịch sử được nhà văn khai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  47. 43 thác là câu chuyện về Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực như sách "Việt sử thông giám cương mục" ghi lại. Người đốc công Vũ Như Tô bị dân chúng nguyền rủa, thậm chí khi chết còn bị nhổ nước bọt vào thây, nhưng trong vở kịch lại là nghệ sĩ thiên tài "ngàn năm chưa dễ có một", có khả năng tuyệt vời của nhà kiến trúc, sai khiến gạch đá như ông từng cầm quân ( xây những toà đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ), có tài hoa của hoạ sĩ, chỉ vẩy bút là chim hoa hiện ra ( ) thần tình biến hoá như cảnh hoá công. Nghệ thuật hư cấu phóng đại theo hướng sử thi ngợi ca, khiến người đọc tin có một Vũ Như Tô thiên tài sẽ sẻ chia khát khao sáng tạo với nghệ sĩ về toà đài trăm nóc, đau đớn tiếc nuối cùng nhà văn khi Cửu Trùng Đài chìm trong biển lửa. Tính chân thực lịch sử đi kèm với chân thực nghệ thuật là yếu tố hấp dẫn của vở kịch. Chủ đề của vở kịch được triển khai và khai thác xoay quanh hai mâu thuẫn chính lồng vào nhau đó là mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân và tập đoàn phong kiến thối nát, mâu thuẫn giữa khát vọng nghệ thuật và thực tế xã hội. Chủ đề đoạn trích chủ yếu được thể hiện qua mâu thuẫn thứ hai, và qua đó Nguyễn Huy Tưởng tâm sự "cầm bút chẳng qua cùng bệnh với Đan Thiềm”. Qua mâu thuẫn này, chúng ta còn thấy được niềm cảm thông trân trọng với những người nghệ sĩ rơi vào một tình trạng bế tắc. Sự bế tắc xuất phát từ mâu thuẫn giữa niềm khao khát hiến dâng tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng với lợi ích thiết thực của nhân dân. Đan Thiềm và Vũ Như Tô là những người nghệ sĩ biết tôn trọng tài năng và yêu nghệ thuật, họ là những người có khát vọng cao quý, đó là xây cho đất nước một công trình nghệ thuật lớn nhưng đáng tiếc lá vì quá quan tâm đến nghệ thuật mà họ đã quên trách nhiệm đối với nhân dân. Nghệ thuật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  48. 44 là kết quả của lao động nghệ thuật nhưng nghệ thuật không thể được xây dựng bằng máu và nước mắt của người lao động. Với đoạn trích này, Nguyễn Huy Tưởng đã giải quyết mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật đích thực phải gắn với quyền lợi của con người. Nghệ thuật chân chính là "nghệ thuật vị nhân sinh". Người nghệ sĩ khi làm nghệ thuật phải chú ý đến điều này. * Hoạt động 4: Hướng dẫn học sinh tiếp nhận đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” thông qua hoạt động cắt nghĩa. Hoạt động phân tích và hoạt động cắt nghĩa trong cơ chế tiếp nhận tác phẩm văn chương luôn là những hoạt động hỗ trợ, bổ sung cho nhau và nhiều khi gắn kết không thể tách rời trong sự tiếp nhận. Hoạt động cắt nghĩa đem lại nhận thức đúng đắn, có cơ sở cho những hiện tượng văn học có giá trị, quá trình cắt nghĩa góp phần thực hiện và điều chỉnh việc lĩnh hội trong dạy học và phân tích văn chương. Nếu phân tích chỉ dừng lại ở việc vận dụng kiến thức về đối tượng phân tích để khám phá thì "cắt nghĩa" đòi hỏi phải có một trình độ năng lực vận dụng kiến thức văn học rộng hơn để giải thích về đối tượng. Qua hoạt động cắt nghĩa, giúp học sinh từng bước giải thích ý nghĩa của từng chữ, từng từ, từng câu và liên kết chúng lại để tìm ra được ý nghĩa khái quát của tác phẩm. Trong quá trình đó, người tiếp nhận phải huy động kinh nghiệm thẩm mĩ, tư tưởng, khả năng liên tưởng, tưởng tượng, so sánh để hiểu và hình dung ra những vấn đề tác giả nêu ra và gửi gắm trong tác phẩm. Thao tác cắt nghĩa là một hoạt động cần thiết trong cơ chế tiếp nhận tác phẩm văn chương, song việc sử dụng thao tác này ở từng tác phẩm là không giống nhau, nó phụ thuộc vào văn phong của từng tác giả và từng thời điểm tác phẩm ra đời, cùng với một số yếu tố khác nữa. Kịch “Vũ Như Tô” là một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Tưởng ra đời vào những năm đầu 1940 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  49. 45 của thế kỷ trước. Tuy tác giả sử dụng sự kiện lịch sử lùi sâu vào thế kỉ XVI nhưng ngôn ngữ kịch sử dụng trong tác phẩm lại giản dị trong sáng, dễ hiểu, vì thế khi hướng dẫn học sinh tiếp nhận tác phẩm, chúng ta có thể bỏ qua thao tác cắt nghĩa trong từ ngữ, tuy vậy để giờ dạy học đạt được hiệu quả thì cần chú ý đến đặc trưng thể loại. - Việc cắt nghĩa tiêu đề của tác phẩm hay đoạn trích là một việc làm không thể bỏ qua vì tên tác phẩm, đoạn trích ngầm đối thoại với độc giả, chỉ cho độc giả vấn đề nội dung cơ bản của tác phẩm, đoạn trích. Để có thể cắt nghĩa tiêu đề đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" giáo viên có thể đặt cho học sinh câu hỏi: - Vấn đề gì được đặt ra qua tiêu đề của đoạn trích? Xuất phát từ vấn đề tác phẩm văn chương với đặc trưng thi pháp thể loại, có khả năng tác động đến tình cảm, rung động thẩm mĩ của người đọc thông qua tiêu đề, do đó cắt nghĩa tiêu đề phải đặt trong mối quan hệ với nội dung tác phẩm. Như vậy, khi cắt nghĩa tiêu đề đoạn trích "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài", nếu giáo viên không đặt trong mối quan hệ với nội dung tác phẩm thì việc cắt nghĩa sẽ rất khó khăn. Với tiêu đề đoạn trích (hồi V) tạo ấn tượng cho người đọc về một thảm kịch vô cùng đau đớn trong lịch sử nhân loại. - Về tư tưởng nghệ thuật Sau khi hướng dẫn học sinh cắt nghĩa tiêu đề đoạn trích, giáo viên hướng dẫn các em cắt nghĩa tư tưởng nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm qua đoạn trích, tức là phải trả lời câu hỏi: Đoạn trích được viết ra nhằm mục đích gì? Để hiểu được tư tưởng nghệ thuật của đoạn trích ta phải bám sát vào tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm và không thể bỏ qua lời đề tựa của tác giả viết sau một năm tác phẩm ra đời. Với lời đề tựa đó chúng ta thấy nhà văn đã tạo ra một suy tư lửng mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần tuý của muôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  50. 46 đời và lợi ích thiết thực của đời sống. Việc giải quyết ổn thoả mâu thuẫn này phải nhờ vào lịch sử và sự giác ngộ của nghệ sĩ và nhân dân. - Về chủ đề đoạn trích: Chủ đề là vấn đề được đặt ra trong tác phẩm (đoạn trích) chủ đề bao giờ cũng được hình thành và được thể hiện trên cơ sở đề tài. Việc cắt nghĩa chủ đề là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng, nó định hướng được khả năng tiếp nhận của học sinh. “Vũ Như Tô” là tác phẩm đầu tay của Nguyễn Huy Tưởng, tác phẩm được viết từ một sự kiện có thật ở xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI, bằng khả năng sáng tạo của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã tạo nên một vở kịch hiện đại, chứa nhiều yếu tố bi kịch, đặt ra một vấn đề có tầm quan trọng, đó là số phận của nghệ thuật và của người nghệ sĩ trong hoàn cảnh đen tối, thối nát của xã hội phong kiến. Cũng từ đó, tác giả xác định một quan niệm nghệ thuật đúng đắn: Nghệ thuật không thể đứng cao hơn cuộc sống, nghệ thuật đích thực phải thống nhất với quyền lợi của con người, nghệ sĩ trước hết phải đứng về phía nhân dân chống lại cái ác, cái xấu, đồng thời phải sáng tạo những tác phẩm phục vụ nhân dân, có chất lượng cao và có giá trị lâu dài. - Về cấu trúc đoạn trích: Cấu trúc là cách tổ chức nội tại, mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố. Cấu trúc của tác phẩm kịch chính là cách thức mà người tiếp nhận kịch phải hiểu, phân tích được nhân vật, không gian, thời gian, tất cả đều thể hiện qua đối thoại, chuyển thành hành động tức là những tình thế luôn luôn biến động trong sự biến động tức khắc của tình thế. Việc cắt nghĩa cấu trúc tác phẩm (đoạn trích) chính là cắt nghĩa cách tổ chức của nó để đi đến đánh giá vai trò, giá trị của cấu trúc đối với tư tưởng nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi gắm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  51. 47 Chỉ là một đoạn trích, nhưng đoạn trích có cấu trúc như một vở kịch: Có thắt nút (mâu thuẫn), xung đột, cao trào và mở nút. Với cả vở kịch, đoạn trích này là phần cao trào rồi giải quyết mâu thuẫn lớn nhất của cả vở kịch: Xung đột giữa một bên là hôn quân Lê Tương Dực và đám bề tôi trung thành, một bên là quần chúng nhân dân đói khổ và phe phong kiến đối lập tập trung ở sự kiện xây dựng Cửu Trùng Đài và mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn xung đột giữa công dân và người nghệ sĩ trong tư tưởng nghệ thuật thông qua nhân vật chính Vũ Như Tô. Cuộc đối thoại giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô ở lớp I của hồi kịch cho thấy Vũ Như Tô là một nghệ sĩ chỉ quan tâm đến nghệ thuật mà không biết rằng tác phẩm nghệ thuật của mình gây ra bao lầm than, khổ cực cho dân chúng. Mục đích nghệ thuật, niềm khao khát của người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng đã đẩy Vũ Như Tô đến vị thế đối nghịch với lợi ích trực tiếp và thiết thực của đời sống nhân dân. Vì quá quan tâm đến nghệ thuật mà quên đi mối quan hệ của nghệ thuật với đời sống, không thể hiểu được điều Đan Thiềm nói. Vũ Như Tô thà chết với Cửu Trùng Đài chứ không chịu chạy trốn. Đây cũng chính là phần thắt nút của đoạn kịch. Cao trào của hồi kịch tập trung ở ba lớp cuối cùng. Đó là cuộc đối đầu giữa Vũ Như Tô và những người nổi dậy. Không khí, nhịp điệu của sự việc được diễn tả theo mức độ ngày càng dồn dập thể hiện tính chất gay gắt của mâu thuẫn và đẩy dần xung đột kịch lên đến cao trào. Đoạn đối thoại giữa Vũ Như Tô và Ngô Hạch cùng đám quân sĩ thể hiện cao trào của mâu thuẫn. Giữa họ không có tiếng nói chung. Xung đột được giải quyết bằng sự ra đi vĩnh viễn của Cửu Trùng Đài và Vũ Như Tô. Sự ra đi này nói lên rằng khi nghệ thuật mâu thuẫn với cuộc sống, nghệ thuật khó có thể tồn tại. - Về các chi tiết nghệ thuật, các hình tượng nghệ thuật trong đoạn trích: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  52. 48 Chúng ta biết rằng các chi tiết nghệ thuật, các hình tượng nghệ thuật, góp phần quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Khi viết kịch “Vũ Như Tô”, tác phẩm lấy đề tài lịch sử để tạo nên tác phẩm kịch hiện đại mang nhiều yếu tố bi kịch thì sự lựa chọn sắp xếp các chi tiết nghệ thuật rất kỹ càng. Vì vậy, giáo viên cần cắt nghĩa các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu để học sinh có thể hiểu được tư tưởng nghệ thuật mà Nguyễn Huy Tưởng gửi gắm qua các chi tiết, các hình ảnh nghệ thuật đó. Chi tiết trong đoạn trích chúng ta phải cắt nghĩa là cuộc đối thoại giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm (lớp 1). Đây là cuộc đối thoại giữa hai người nghệ sĩ luôn khát khao sáng tạo cái đẹp. Qua cuộc đối thoại ta thấy Đan Thiềm sẵn sàng hi sinh bản thân mình để bảo vệ người tài, sự cống hiến hết mình của Vũ Như Tô cho nghệ thuật "Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cùng với Cửu Trùng Đài” Hình ảnh nghệ thuật, chi tiết nghệ thuật cuối cùng trong tác phẩm đó là cuộc gặp gỡ giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm trước cảnh Cửu Trùng Đài sụp đổ. Hai con người đồng bệnh ấy cùng vĩnh biệt Cửu Trùng Đài và vĩnh biệt nhau. Kết thúc là một tiếng kêu đau đớn tột cùng "Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài". Đây chính là bi kịch của người nghệ sĩ. * Hoạt động 5: Hướng dẫn học sinh tiếp nhận đoạn trích thông qua hoạt động bình giá Năng lực bình giá tác phẩm văn chương cho biết năng lực tiếp nhận giá trị thẩm mĩ của tác phẩm. Trách nhiệm của người giáo viên trong nhà trường phổ thông là phải định hướng cho học sinh nắm bắt được chiều sâu của tác phẩm để các em không những biết thưởng thức mà còn biết đánh giá. Muốn đạt được kết quả đó thì đòi hỏi giáo viên phải đánh giá đúng nội dung và nghệ thuật của tác phẩm sau đó truyền thụ cho học sinh. "Bình giảng từ lâu đã được xem là phương pháp đặc thù của dạy học giảng văn ở nhà trường phổ thông” (TS. Nguyễn Gia Cầu), "không có một giờ giảng văn nào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  53. 49 thành công mà lại thiếu được lời bình của giáo viên" (GS. Phan Trọng Luận). Như vậy, bình giảng là một hoạt động không thể thiếu khi tiếp nhận tác phẩm văn chương, nó góp phần quan trọng trong việc giúp học sinh nắm bắt được chiều sâu tác phẩm. Chúng ta có thể thấy rằng trong tiếp nhận tác phẩm văn chương, bình giảng là hoạt động hoàn tất cơ chế tiếp nhận, lĩnh hội tác phẩm văn chương, nó có vai trò quan trọng trong quá trình tiếp nhận. Hoạt động này buộc người bình phải bám sát văn bản để tự mình phát hiện ra cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Có thể nói, trong vở kịch “Vũ Như Tô”, Nguyễn Huy Tưởng đã dồn hết tâm lực của mình vào hai nhân vật chính là Vũ Như Tô và Đan Thiềm, cặp tri âm, tri kỉ này có chí, có tài, khát vọng lớn lao cao đẹp nhưng lại ở vào hoàn cảnh vô cùng trớ trêu, bất hạnh. Đoạn trích sách giáo khoa là kết cục bi thảm của họ. Ở những hồi đầu, Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô lợi dụng tiền bạc của bọn hôn quân bạo chúa để thể hiện cái tài trời cho của mình và cả hai người thực sự quên mình cho sự nghiệp. Đến khi sự nghiệp không thành Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô bỏ trốn nhưng Vũ Như Tô quyết không bỏ trốn vì không tin rằng mình gây tội ác. Vì lo cho người tài của đất nước phải bỏ mạng Đan Thiềm sẵn sàng chết thay Vũ Như Tô. Vũ Như Tô vì tri kỷ Đan Thiềm mà lao vào sự nghiệp đến quên mình. Cho đến khi bị đưa ra pháp trường vẫn còn ngơ ngác " ta tội gì? không ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước đem hết tài ra xây dựng cho nòi giống một toà đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công. Vậy thì ta có tội gì? Ta xây Cửu Trùng Đài có phải đâu để hại nước ”. Bi kịch lớn ở đây là công trình nghệ thuật là biểu tượng vẻ vang của xứ sở lại phục vụ cho bạo chúa, là kết quả của lao động nghệ thuật của người nghệ sĩ nhưng lại được thực hiện trên mồ hôi, xương máu của nhân dân. Giải quyết mâu thuẫn bi kịch này như thế nào? Đó là một câu hỏi lớn. Nguyễn Huy Tưởng đã để cho Vũ Như Tô Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  54. 50 chết trong lửa hận của quần chúng nhưng sự phân vân, chưa giải quyết thoả đáng trong quan niệm nghệ thuật của tác giả thể hiện trong đề tựa của tác phẩm. Một điều mà chúng ta phải khẳng định là khát vọng nghệ thuật của Vũ Như Tô có phần chính đáng, cao đẹp, nó xuất phát từ thiên chức cao đẹp của người nghệ sĩ, từ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc nhưng điều đáng tiếc là đã đặt lầm chỗ, lầm thời, xa rời thực tế để cuối cùng phải trả giá bằng cả công trình nghệ thuật và sinh mệnh của mình. Từ số phận của người nghệ sĩ ta thấy toát lên một chân lý, người nghệ sĩ mặc dầu có ý thức hay không có ý thức, nếu đi ngược lại quyền lợi của nhân dân thì nhất định sẽ bị tiêu diệt. Từ đó, chúng ta có thể rút ra một phương hướng và hành động đúng là xây dựng nền văn hoá lâu dài của dân tộc trên cơ sở nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong “Vũ Như Tô”, quần chúng xuất hiện trên sân khấu và đóng một vai trò quan trọng. Một mặt, Nguyễn Huy Tưởng đã ít nhiều thấy được vai trò sáng tạo của những người thợ. Chính quần chúng cũng là lực lượng quyết định sự thay đổi của các triều đại lịch sử nhưng trong cách nhìn và đánh giá quần chúng vẫn còn có những biểu hiện lệch lạc. Ở đoạn trích sách giáo khoa, quần chúng hiện lên như một lực lượng "nông nổi", tự phát, phá phách, giết chóc một cách mù quáng. Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vừa là tội nhân vừa là nạn nhân. Tội nhân vì thực thi chủ trương của hôn quân, làm cho nhân dân khổ cực, lầm than, nạn nhân vì sự ảo tưởng của mình, nạn nhân của mối mâu thuẫn chưa giải quyết được đó là mâu thuẫn giữa lý tưởng nghệ thuật và hoàn cảnh thực tế. Nhưng quần chúng không hiểu Vũ Như Tô, nông nổi không nghĩ đến bao mồ hôi xương máu của mình trong quá trình xây dựng công trình nghệ thuật. Vì vậy, việc nổi dậy của quần chúng giết Lê Tương Dực là đúng nhưng giết Vũ Như Tô, thiêu huỷ Cửu Trùng Đài là điều sai lầm đáng tiếc. Trong suốt màn năm, người ta chỉ nghe thấy những tiếng kêu la giết chóc và tiếng đốt phá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  55. 51 ầm ầm. Thực ra lịch sử đã chứng minh rằng quần chúng không phải là những lực lượng "nông nổi" phá phách nghệ thuật và tàn sát nhân tài mà chính họ là những người bảo vệ nền nghệ thuật chân chính và những thiên tài của dân tộc chống lại những sự huỷ hoại, khủng bố của giai cấp thống trị. Chúng ta phải khẳng định một điều rằng, một tác phẩm văn chương ra đời sẽ có rất nhiều cách tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm theo hướng khác nhau. Vở kịch “Vũ Như Tô” cũng vậy, có bao nhiêu người đọc sẽ có bấy nhiêu con đường tiếp nhận. Do vậy để tìm ra một cách tiếp nhận tuyệt đối là điều không thể. Song văn học nhà trường thì phải luôn tìm và khắc phục khoảng cách bằng sự định hướng, tiếp nhận của giáo viên, nhưng tất nhiên không thể thủ tiêu vai trò chủ động sáng tạo, tích cực của học sinh. Trong một hệ thống các thao tác, giáo viên cần linh hoạt trong việc sử dụng các thao tác phù hợp với đặc trưng của từng thể loại, từng đối tượng tiếp nhận để đạt được hiệu quả tối ưu. Song, có thể nói rằng phương pháp tiếp cận qua con đường đọc, phân tích, cắt nghĩa, bình giá luôn cần thiết giúp giáo viên đưa tác phẩm đến với học sinh để các em có thể có một hướng tiếp cận đúng đắn nhất. 2.1.2.3. Cách thức kiểm tra đánh giá Chất lượng của giờ học được đánh giá bởi khả năng tiếp thu bài của học sinh. Trong một giờ dạy học, dù giáo viên có năng động, sáng tạo, linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học đến bao nhiêu mà học sinh không tích cực chủ động thâm nhập vào tác phẩm thì giờ dạy học đó chưa thể đạt hiệu quả. Như vậy sau giờ học, giáo viên cần có cách thức kiểm tra, đánh giá năng lực tiếp nhận của học sinh. Đối với đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”, giáo viên có thể kiểm tra, đánh giá bằng cách: - Yêu cầu học sinh nhắc lại các mâu thuẫn chính của vở kịch. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  56. 52 - Nhắc lại đặc điểm tính cách của Vũ Như Tô - Đan Thiềm trong sự đối chiếu, so sánh. - Đọc phân vai một vài lớp để lắng nghe rõ hơn ngôn ngữ bi kịch của Nguyễn Huy Tưởng. - Có thể cho học sinh xem băng hình (hồi V) vở kịch này trong giờ ngoại khoá sau đó yêu cầu các em viết một bài văn ngắn nêu cảm nhận của mình về đoạn trích. 2.2. Dạy học kịch bản văn học "Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt" (trích) của Lƣu Quang Vũ 2.2.1. Về tác giả, tác phẩm 2.2.1.1. Tác giả Lưu Quang Vũ - Lưu Quang Vũ sinh ngày 17 tháng 4 năm 1948 tại xã Thiệu Cô, huyện Hạ Hoà (Phú Thọ), quê gốc ở Đà Nẵng. - Là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh. - Thuở nhỏ, Lưu Quang Vũ sống cùng gia đình ở chiến khu Việt Bắc, khi hoà bình lập lại (1954), gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội. Từ 1965 đến 1970, ông nhập ngũ, phục vụ trong quân chủng phòng không không quân. Đây là thời kì tài thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ. Từ 1970 đến 1978, Lưu Quang Vũ xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để sinh sống. Từ tháng 8 năm 1979, Lưu Quang Vũ làm phóng viên tạp chí sân khấu. Năm 1988, giữa lúc tài năng đang vào độ chín, tên tuổi vang dội trên văn đài. Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ 5 cùng với vợ là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ. Nói đến Lưu Quang Vũ là nói đến một cây bút tài hoa đã để lại dấu ấn trong nhiều thể loại. Con đường sự nghiệp khởi đầu từ thơ và kết thúc rực rỡ ánh hào quang ở kịch. Không chỉ có vậy, truyện ngắn của Lưu Quang Vũ, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  57. 53 những bài bình luận sân khấu của ông cũng tạo được bản sắc, giọng điệu riêng, để lại những dư vị khó quên trong lòng người đọc. Từ thuở bé, Lưu Quang Vũ đã sớm bộc lộ năng khiếu hội họa và cốt cách của một thi sĩ tài hoa, đa cảm trong tương lai. Bước chân vào con đường nghệ thuật, Lưu Quang Vũ được biết đến đầu tiên như một bài thơ, một "Cây bút trẻ nhiều triển vọng" - Hoài Thanh đã nồng nhiệt đón chào những bài thơ đầu tay của Lưu Quang Vũ bằng những lời đánh giá cao như vậy. Tập thơ đầu tay “Hương Cây - Bếp lửa” in chung với Bằng Việt ở độ tuổi 20 đã làm xao động bao bạn đọc bởi chất tươi mát, ngọt ngào và những hoài niệm đẹp đẽ về tình yêu, cuộc sống, tiêu biểu cho tiếng nói của thế hệ trẻ thời chống Mĩ hào hùng. Từ tập thơ đầu trong tươi vui, trong trẻo ấy, đến những bài thơ "viển vông, cay đắng, u buồn" viết trong những năm chiến tranh, người đọc cảm nhận sâu sắc sự chuyển biến trên hai chặng đời khác nhau của một con người. Về văn xuôi, Lưu Quang Vũ cũng có duyên nợ với vài chục truyện ngắn trong ba tập Người kép đóng hổ (1983), Mùa hè đang đến (1983), Truyện ngắn Lưu Quang Vũ (1994). Truyện ngắn của Lưu Quang Vũ từ đầu những năm 80 đã là sự báo hiệu, là bước tiền trạm cho các vấn đề nổi lên bức xúc trong văn xuôi hôm nay. Không chỉ làm thơ, viết văn, Lưu Quang Vũ còn viết phê bình. Cuốn Diễn viên và sân khấu viết chung với Vương Trí Nhàn, Xuân Quỳnh là một trong những quyển sách quý hiếm viết về những nghệ sĩ tài năng trên sàn diễn. Như một sự tiếp nối tất yếu, Lưu Quang Vũ đến với kịch, tìm thấy ở kịch mảnh đất màu mỡ cho tài năng mình toả sáng. Hoạt động sân khấu từ khi có mặt của Lưu Quang Vũ sôi nổi và nhộn nhịp hẳn lên. Kịch Lưu Quang Vũ được lưu diễn trên khắp chiều dài, chiều rộng của đất nước tham dự vào đời sống nhân dân. Vinh quang đến với anh ngay từ vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 được nhận huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu toàn quốc năm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  58. 54 1980. Kể từ đó Lưu Quang Vũ được nhắc đến như một hiện tượng xuất sắc, tiêu biểu của kịch trường Việt Nam. Năm 1985 trong Hội diễn sân khấu toàn quốc, Lưu Quang Vũ đã đạt sáu huy chương vàng, hai huy chương bạc. Năm 1988, trước lúc mất, anh đã hoàn thành một lúc bốn vở, lại bắt tay vào bốn vở mới. Sức làm việc với tốc độ như vậy thật phi thường. Giáo sư Phan Ngọc viết: Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch lớn nhất thế kỷ này của Việt Nam, là một nhà văn hoá. Hơn 50 vở kịch của Lưu Quang Vũ đã làm thay đổi diện mạo của sân khấu Việt Nam những năm 80. Trong lịch sử sân khấu nước ta, thời kỳ kịch của Lưu Quang Vũ có lẽ là thời kỳ huy hoàng, sôi động nhất. Nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, phê bình đã đánh giá cao tài năng, tâm huyết và những đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với nền văn học nói chung. Năm 2000, Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 về nghệ thuật sân khấu (với các vở kịch: Tôi và chúng ta, Lời thề thứ 9). - Tác phẩm chính: + Thơ: Hương cây (1968 - in cùng Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa), Mây trắng của đời tôi (1989, Bầy ong trong đêm sâu (1993). + Kịch: Sống mãi tuổi 17 (1979), Hồn Trương Ba, da hàng thịt (1981), Mùa hạ cuối cùng (1981), Cô gái đội mũ nồi xám (1981), Nàng Xita (1982), Nữ kí giả (1983), Tôi và chúng ta (1984), Ông vua hoá hổ (1985), Hoa cúc xanh trên đầm lầy (1987), Lời thề thứ 9 (1988). 2.2.1.2. Về tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (viết năm 1981, đến năm 1984 mới ra mắt công chúng) là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch mới hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng triết lý và nhân văn sâu sắc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên