Luận văn Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái cộng đồng tại vườn quốc gia Pù Mát - Nghệ An
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái cộng đồng tại vườn quốc gia Pù Mát - Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_nghien_cuu_phat_trien_du_lich_sinh_thai_cong_dong_t.pdf
Nội dung text: Luận văn Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái cộng đồng tại vườn quốc gia Pù Mát - Nghệ An
- Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái cộng đồng tại vườn quốc gia Pù Mát - Nghệ An Võ Văn Phong Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Luận văn ThS Chuyên ngành: Môi trường trong phát triển bền vững Người hướng dẫn: PGS. TS. Trịnh Hồng Thái Năm bảo vệ: 2012 Abstract: Đánh giá được tiềm năng, các yếu tố thúc đẩy cho sự phát triển loại hình du lịch sinh thái cộng đồng ở Pù Mát. Nêu lên được thực trạng phát triển loại hình du lịch sinh thái cộng đồng ở Vườn Quốc gia (VQG) Pù Mát. Phân tích mối quan hệ giữa du lịch sinh thái cộng đồng ở VQG Pù Mát và du lịch miền Tây Nghệ An; mối quan hệ giữa các loại hình du lịch này với việc bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa bản địa. Đề xuất định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái cộng đồng làm cơ sở và tiền đề quan trọng cho công tác quy hoạch phát triển du lịch sinh thái cộng đồng (DLSTCĐ) ở VQG Pù Mát sau này. Keywords: Du lịch sinh thái; Vườn quốc gia Pù mát; Bảo vệ môi trường; Bảo tồn thiên nhiên; Nghệ An Content MỞ ĐẦU Lý do lựa chọn đề tài Ngày nay, việc đi du lịch đã trở thành nhu cầu phổ biến của con người trong đời sống văn hoá - xã hội hiện đại. Ở Việt Nam, du lịch mới chỉ phát triển rộng rãi trong vài thập niên gần đây. Tuy vậy, những nước có du lịch phát triển mạnh đều nhận ra cái giá phải trả cho các hoạt động phát triển du lịch là không nhỏ, bởi các tác động đến kinh tế, xã hội, văn hoá và môi trường. Việt Nam được các nhà khoa học đánh giá là một trong những nước có tính đa dạng sinh học cao, đặc biệt là các khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên. Không chỉ có hệ động thực vật đa dạng, cảnh quan đẹp, hoang sơ, Việt Nam còn có một nền văn hoá hết sức đặc sắc, là kết tinh của 54 dân tộc anh em qua hàng nghìn năm.
- VQG Pù Mát được thành lập theo quyết định số 174/2001/QĐ-Ttg ngày 8 tháng 11 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ, do Ủy ban Nhân dân Tỉnh Nghệ An trực tiếp quản lý với tổng diện tích tự nhiên là 91.113 ha, trong đó: phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 89.517 ha, phân khu phục hồi sinh thái là 1.596 ha. Vườn quốc gia Pù Mát là một trong những Vườn quốc gia tiêu biểu của Việt Nam và thế giới, có nguồn tài nguyên đa dạng sinh học phong phú, chứa đựng nhiều nguồn gen động thực vật quý hiếm và có văn hóa bản địa rất đặc sắc. UBND tỉnh Nghệ An cũng như BQL VQG đã có những nỗ lực trong công tác bảo tồn. Tuy nhiên, VQG Pù Mát cũng đang chịu những áp lực rất lớn từ các cộng đồng sống xung quanh cũng như các hoạt động phát triển trong khu vực. Cuộc sống của người dân ở vùng đệm còn gặp nhiều khó khăn, họ chưa thực sự tham gia vào những nỗ lực bảo tồn chung của Vườn. Trước các điều kiện khách quan này, vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc bản địa ở đây là hết sức đúng đắn, thiết thực. Việc tiến hành nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái cộng đồng là một hướng đi mới, không chỉ giải quyết hài hòa các vần đề cấp thiết đặt ra mà còn nâng cao đời sống dân cư, giảm áp lực lên tài nguyên, bảo tồn các giá trị văn hóa, đa dạng sinh học của VQG Pù Mát. Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái cộng đồng tại Vườn quốc gia Pù Mát - Nghệ An” để thực hiện luận văn tốt nghiệp thạc sĩ. Đối tượng nghiên cứu - Tài nguyên du lịch tự nhiên VQG Pù Mát: đặc điểm địa chất, địa hình, thổ những, khí hậu, thuỷ văn, đa dạng sinh học, các loài đặc hữu, loài quý hiếm. - Tài nguyên du lịch nhân văn: dân cư, dân tộc, các di tích lịch sử văn hoá, những nét văn hoá đặc trưng, những sản phẩm truyền thống. - Tài nguyên du lịch về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật: giao thông, điện, cơ sở lưu trú, ăn uống. - Cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển du lịch sinh thái cộng đồng: luật, quyết định, đề án phát triển. Mục tiêu nghiên cứu - Đánh giá được tiềm năng, các yếu tố thúc đẩy cho sự phát triển loại hình du lịch sinh thái cộng đồng ở Pù Mát.
- - Nêu lên được thực trạng phát triển loại hình du lịch sinh thái cộng đồng ở VQG Pù Mát. - Phân tích mối quan hệ giữa DLSTCĐ ở VQG Pù Mát và du lịch miền Tây Nghệ An; quan hệ giữa các loại hình du lịch này với việc bảo tồn ĐDSH, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa bản địa. - Đề xuất định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái cộng đồng nhằm làm cơ sở tiền đề quan trọng cho công tác quy hoạch phát triển DLSTCĐ ở VQG Pù Mát sau này. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài nghiên cứu mang lại một số ý nghĩa về khoa học và thực tiễn như sau: - Nghiên cứu này nhằm hỗ trợ công tác bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá bản địa và phát triển sinh kế cho cộng đồng địa phương tại khu vực VQG Pù Mát. Du lịch sinh thái cộng đồng là một hướng đi mới giải quyết hài hoà các vấn đề cấp thiết đặt ra. - Cung cấp cơ sở khoa học về lý luận và thực tiễn để quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững, phát triển du lịch và cộng đồng. - Những định hướng của đề tài nhằm giúp tiến tới xây dựng mô hình du lịch sinh thái cộng đồng và dần đưa loại hình du lịch này đi vào hoạt động thực chất tại VQG Pù Mát. - Đây là đề tài nghiên cứu khoa học phục vụ cho luận văn thạc sĩ được nghiên cứu đầu tiên về loại hình du lịch sinh thái cộng đồng tại VQG Pù Mát. Kết cấu của luận văn Nội dung của luận văn bao gồm: Mở đầu Chương 1: Tổng quan tài liệu Chương 2: Địa điểm, thời gian và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu Kết luận và khuyến nghị Tài liệu tham khảo CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH SINH THÁI CỘNG ĐỒNG
- 1.1 Cơ sở lý luận về du lịch sinh thái cộng đồng 1.1.1 Định nghĩa Theo nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wollfgang Strasdas (2009): “Du lịch sinh thái cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương” . Còn theo tổ chức Respondsible Ecological Social Tours (1997) thì du lịch sinh thái cộng đồng là “phương thức tổ chức du lịch đề cao về môi trường, văn hóa xã hội. Du lịch sinh thái cộng đồng do cộng đồng sở hữu và quản lý, vì cộng đồng và cho phép khách du lịch nâng cao nhận thức và học hỏi về cộng đồng, về cuộc sống đời thường của họ”. Ý tưởng đằng sau vế “dựa vào cộng đồng” của chiến lược môi trường là tạo cơ hội trao quyền cho cộng đồng, tăng cường sự tham gia của họ trong việc ra quyết định, nhưng cũng chỉ đơn giản là những điều này sẽ khuyến khích sự tham gia từ bản thân cộng đồng. Như vậy, du lịch sinh thái cộng đồng chính là nét tinh túy của du lịch sinh thái và du lịch bền vững. Du lịch sinh thái cộng đồng nhấn mạnh vào cả ba yếu tố là môi trường, du lịch và cộng đồng. 1.1.2 Điều kiện hình thành và phát triển du lịch sinh thái cộng đồng - Điều kiện tiềm năng về tài nguyên môi trường tự nhiên và nhân văn có ý nghĩa quyết định đến phát triển du lịch sinh thái cộng đồng. - Điều kiện yếu tố cộng đồng dân. - Điều kiện có thị trường khách trong nước và quốc. - Điều kiện về cơ chế chính sách hợp lý. - Sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính phủ, tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước. 1.1.3 Tiêu chí của du lịch sinh thái cộng đồng Theo UNWTO (2008) cho rằng những tiêu chí của một du lịch sinh thái cộng đồng đang hướng tới gồm có các tiêu chí sau: - Tiêu chí 1: Người dân nên được tham gia vào quá trình lên kế hoạch và quản lý hoạt động du lịch tại cộng đồng. - Tiêu chí 2: Hoạt động du lịch này phải mang lại lợi ích một cách công bằng cho cộng đồng.
- - Tiêu chí 3: Hoạt động du lịch này nên bao gồm tất cả các thành viên của cộng đồng hơn chỉ là sự tham gia của một vài thành viên. - Tiêu chí 4: Quan tâm đến sự bền vững của môi trường. - Tiêu chí 5: Mọi hoạt động du lịch sinh thái cộng đồng phải tôn trọng nền văn hoá và các “cấu trúc xã hội” tại cộng đồng. - Tiêu chí 6: Có hệ thống/ phương pháp để giúp người trong cộng đồng có thể “vượt qua” những ảnh hưởng của những khách du lịch phương tây. - Tiêu chí 7: Hoạt động du lịch thường được giữ ở quy mô nhỏ nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng đến văn hoá và môi trường. - Tiêu chí 8: Hướng dẫn tổng quan cho khách du lịch về cộng đồng để giúp họ có những hành động hợp lý trong quá trình du lịch. - Tiêu chí 9: Không yêu cầu người trong cộng đồng phải thực hiện những hoạt động trái với văn hoá/tôn giáo của họ. - Tiêu chí 10: Không yêu cầu người dân trong cộng đồng tham gia vào các hoạt động du lịch nếu họ không muốn. 1.1.4 Nguyên tắc của du lịch sinh thái cộng đồng Theo Võ Quế (2008) cho rằng các nguyên tắc để phát triển du lịch dựa vào cộng đồng bao gồm: - Cộng đồng được quyền tham gia thảo luận các kế hoạch, quy hoạch, thực hiện và quản lý, đầu tư và có thể trao quyền làm chủ cho cộng đồng. - Phù hợp với khả năng của cộng đồng. - Chia sẻ lợi ích từ du lịch cho cộng đồng - Xác lập quyền sở hữu và tham gia của cộng đồng đối với tài nguyên và văn hoá. Theo tổ chức WTO (2004), các nguyên tắc để phát triển du lịch cộng đồng cần phải dựa trên các nguyên tắc của du lịch bền vững: - Sử dụng tối ưu nguồn môi trường, duy trì các tiến trình sinh thái học chủ yếu và giúp bảo tồn nguồn tự nhiên và hệ sinh thái được thừa hưởng. - Khía cạnh xác thực nền văn hoá - xã hội của cộng đồng địa phương, đảm bảo họ đã xây dựng, kế thừa văn hoá và giá trí truyền thống, đồng thời góp phần vào sự hiểu biết và thông cảm đối với các nền văn hoá khác nhau. - Đảm bảo sự vận hành nền kinh tế lâu dài ổn định, cung cấp các lợi ích kinh tế - xã hội đến tất cả những người có liên quan nhằm phân bổ công bằng.
- 1.1.5 Mục tiêu của loại hình du lịch sinh thái cộng đồng - Du lịch sinh thái cộng đồng phải góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và văn hóa. - Du lịch sinh thái cộng đồng phải đóng góp vào phát triển kinh tế địa phương. - Du lịch sinh thái cộng đồng phải có sự tham gia ngày càng tăng của cộng đồng địa phương. - Du lịch sinh thái cộng đồng phải mang đến cho khách một sản phẩm có trách nhiệm đối với môi trường và xã hội. 1.2 Hiện trạng phát triển du lịch sinh thái cộng đồng 1.2.1 Xu hướng và kinh nghiệm phát triển của du lịch sinh thái cộng đồng tại một số khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia trên thế giới Luồng khách du lịch Những xu hướng du lịch mới là khách có nhu cầu ngày càng cao trong việc tìm kiếm thông tin và học hỏi, tìm hiểu khi đi du lịch về: văn hóa bản địa, sự kiện nghệ thuật, tiếp xúc với người dân địa phương, ẩm thực địa phương hay nghỉ tại các cơ sở lưu trú quy mô nhỏ của người dân bản địa. Chúng tôi xin điểm qua một số ví dụ về kinh nghiệm hoạt động du lịch sinh thái cộng đồng ở một số khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia trên thế giới (nguồn Steven Wolf và nnk): • Chuyến du lịch ngắm cảnh và xem chim ở đảo Olango, Philippines Các yếu tố của du lịch sinh thái cộng đồng ở Olango: - Sự tham gia và lợi ích dựa vào cộng đồng - Góp phần bảo tồn và giáo dục môi trường - Khả năng cạnh tranh và tiếp cận thị trường - Khuyến khích văn hoá địa phương - Khả năng tồn tại các nguồn tài chính • Khu bảo tồn ESELENKEI Tóm lại DLSTCĐ xem con người là trung tâm, cộng đồng định hướng, các tài nguyên là những thứ cơ bản. Bằng cách thúc đẩy du lịch thông qua bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học được bảo tồn, các công việc được tạo ra, việc giáo dục môi trường trong cộng đồng được đẩy mạnh, sự hiểu về người địa phương và văn hoá được bồi đắp giữa những người
- khách. Như minh hoạ trong điều kiện nghiên cứu, sự tham gia của cộng đồng là chìa khoá cho sự thành công của bất kỳ liên kết trong du lịch sinh thái cộng đồng nào. 1.2.2 Thực trạng phát triển du lịch sinh thái cộng đồng ở Việt Nam và khu vực nghiên cứu Các hình thức du lịch sinh thái cộng đồng thường thấy ở nước ta như : du lịch homestay, tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ cùng người dân bản địa, tham quan các bản làng dân tộc, tìm hiểu lối sống, văn hoá của người dân bản địa, tham quan nghiên cứu đa dạng sinh học, diễn ra một số nơi như bản Lác - Mai Châu, Chiềng Yên - Sơn La, VQG Cát Bà, Khu bảo tồn Cù Lao Chàm - Hội An Trong những năm gần đây, số du khách đến thăm các điểm du lịch tự nhiên, tìm hiểu cuộc sống của cộng đồng dân cư ở Việt Nam ngày càng tăng, nhưng vẫn thường mang tính tự phát, chưa được tổ chức bài bản và chưa đi vào thực chất. Các hình thức hoạt động của loại hình du lịch này mới chỉ mang ý nghĩa tham quan, hưởng thụ môi trường, ít đạt được mục đích nâng cao nhận thức, giáo dục môi trường và cảm nhận nét đặc sắc, cái hay, cái đẹp trong văn hoá của cộng đồng bản địa. Riêng đối với khu vực nghiên cứu ở vườn quốc gia Pù Mát thì chưa có một nghiên cứu về du lịch sinh thái cộng đồng nào. Trong đề án phát triển miền Tây nghệ An của uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã nêu ra phương hướng phát triển du lịch cho vùng như: - Quy hoạch vùng, khu, điểm du lịch miền Tây Nghệ An. - Đầu tư hạ tầng du lịch và dịch vụ du lịch. - Lập các dự án đầu tư hạ tầng du lịch. Trên thực tế khách quan, để có thể triển khai và phát triển được loại hình du lịch sinh thái cộng đồng ở vườn quốc gia Pù Mát thì cần có những nghiên cứu cụ thể làm tiền đề cho các dự án cụ thể triển khai tại đây. Điều này là một cơ sở thiết thực mong cải thiện tình trạng hiện tại của du lịch nói chung và du lịch sinh thái cộng đồng nói riêng ở vườn quốc gia Pù Mát. CHƯƠNG 2 ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Địa điểm nghiên cứu
- Việc nghiên cứu tập trung vào một số địa điểm có thể coi là các điểm nhấn cho việc xây dựng điểm, tuyến của du lịch sinh thái cộng đồng như: khu di tích lịch sử - văn hoá (bia Mã Nhai, di tích lịch sử cách mạng nhà cụ Vi Văn Khang); các điểm cảnh quan thiên nhiên đẹp (suối Tạ Bó, hang Nàng Màn, Khe Kèm); các bản có lễ hội, văn hoá, làng nghề, nhà ở theo kiểu homestay (bản Khe Rạn - xã Bồng Khê, bản Nưa - xã Yên Khê, bản Yên Thành - Lục Dạ, bản Làng Xiềng - xã Môn Sơn). Các địa điểm nghiên cứu đều nằm trong khu vực VQG Pù Mát. 2.2 Thời gian nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6 đến tháng 11 năm 2011; 2.3 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 2.3.1 Phương pháp luận - Tiếp cận hệ sinh thái; - Bảo tồn dựa vào cộng đồng; - Đồng quản lý; - Tiếp cận hệ thống; 2.3.2 Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp và tổng hợp dữ liệu. - Phương pháp nghiên cứu thực địa. - Phương pháp phân tích SWOT. - Phương pháp phỏng vấn sâu. - Phương pháp bản đồ. CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1 Giới thiệu về vườn quốc gia Pù Mát 3.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển VQG Pù Mát được thành lập từ sự nâng cấp khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát theo quyết định 3355/QĐ-UB của UBND tỉnhNghệ An ngày 28/12/1995. Ngày 8/11/2001, Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 174/2001/QĐ-Ttg - quyết định chuyển hạng khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát thành VQG Pù Mát.
- Ngày 12/7/2002, Thủ tướng chính phủ cũng đã ký quyết định số 571/2002/QĐ-Ttg phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng VQG Pù Mát. 3.1.2 Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý VQG Pù Mát VQG Pù Mát có tổng số 104 cán bộ công nhânviên. Trong đó 2 người có trình độ Thạc sĩ, 34 người có trình độ đại học, 62 người có trình độ trung cấp và 6 người chưa qua đào tạo chuyên môn. Mọi hoạt động tổ chức du lịch của VQG Pù Mát đều do Ban quản lý Vườn giám sát và điều hành thông qua phòng GDMT& DLST. 3.1.3 Mục tiêu thành lập VQG Pù Mát - Bảo tồn cảnh quan tự nhiên đặc trưng cho hệ sinh thái còn mang tính nguyên sinh thuộc kiểu rừng nhiệt đới vùng Bắc Trường Sơn. - Bảo tồn tính ĐDSH cho gần 2,5 nghìn loài thực vật bậc cao, 939 loài thực vật; trong đó có nhiều loại động thực vật quý hiếm đang bị đe doạ tuyệt chủng; - Tăng cường chức năng phòng hộ đầu nguồn cho hệ thống sông Cả, nhằm phục vụ trực tiếp cho đời sống và sản xuất của cộng đồng dân cư trong khu vực; - Phát triển, mở mang du lịch sinh thái, du lịch sinh thái cộng đồng, tạo điều kiện để người dân trong khu vực có thêm thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo, đồng thời nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên, môi trường trong nhân dân. - Thu hút các nguồn tài trợ quốc tế phục vụ cho mục đích bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. 3.1.4 Vị trí địa lý VQG Pù Mát - Phía Nam có chung 61 km với đường biên giới Lào; - Phía Tây giáp với xã Tam Hợp, Tam Định, Tam Quang (huyện Tương Dương); - Phía Bắc giáp với xã Lạng Khê, Châu Khê, Lục Dạ, Môn Sơn (huyện Con Cuông) - Phía Đông giáp với các xã Phúc Sơn, Hội Sơn (huyện Anh Sơn); 3.2 Tiềm năng phát triển loại hình du lịch sinh thái cộng đồng 3.2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên VQG Pù Mát 3.2.1.1 Đặc điểm địa chất, thổ nhưỡng, địa hình, khí hậu thủy văn a. Địa chất, địa hình VQG Pù Mát nằm trên dãy Trường Sơn Bắc, quá trình kiến tạo địa chất được hình thành qua các kỷ Palezoi, Đề vôn, Các bon, Pec Mi, Tri at đến Mioxen cho tới ngày nay.
- Trong suốt quá trình phát triển của dãy Trường Sơn thì chu kỳ tạo núi Hecxinin, địa hình luôn bị ngoại lực tác động mạnh mẽ tạo nên 4 dạng địa mạo chủ yếu sau: - Núi cao trung bình (trên 1000m). - Kiểu núi thấp và đồi cao (dưới 1000m). - Thung lũng kiến tạo, xâm thực (dưới 300m). - Các khối đá vôi nhỏ. b. Thổ nhưỡng Các loại đất trong vùng đã xác định: - Đất feralit mùn trên núi trung bình (PH) chiếm 17,7%, phân bố từ độ cao 800- 1000 m. - Đất feralit đỏ vàng vùng đồi và núi thấp (F), chiếm 77,6%. - Đất dốc tụ và đất phù sa D, P chiếm 4,7%. - Núi đá vôi (K2) chiếm 3,6%. c. Khí hậu, thủy văn VQG Pù Mát nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, mùa hè nóng do ảnh hưởng của gió Tây Nam. Chế độ nhiệt Nhiệt độ trung bình năm từ 23-240C, tổng nhiệt năng từ 8500 – 87000C. Mùa đông (T12 -> T2 năm sau): nhiệt độ trung bình trong các tháng này xuống dưới 200C. Mùa hè (T4 -> T 7): nhiệt độ trung bình mùa hè lên trên 250C, nóng nhất vào tháng 6 và tháng 7, nhiệt độ trung bình là 290C. Chế độ mưa ẩm Vùng nghiên cứu có lượng mưa từ ít đến trung bình, 90% lượng nước tập trung trong mùa mưa, lượng mưa lớn nhất là tháng 9, tháng 10 và thường kèm theo lũ lụt. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Các tháng 2, 3, 4 có mưa phùn do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Tháng 5, 6, 7 là những tháng nóng nhất và lượng bốc hơi cũng cao nhất. Độ ẩm không khí trong vùng đạt 85 đến 86%, mùa mưa lên tới 90%. • Thủy văn Trong khu vực có hệ thống sông Cả chạy theo hướng Tây Bắc đến Đông Nam. Các chi lưu phía hữu ngạn như khe Thơi, khe Choang, khe Khặng lại chạy theo hướng Tây Nam lên Đông Bắc và đổ nước vào sông Cả.
- Sông ngòi cũng tạo điều kiện để người dân tham gia vào vận chuyển du khách và cung cấp một số dịch vụ du lịch. 3.2.1.2 Tài nguyên sinh vật Hệ thực vật Độ che phủ rừng ở đây rất cao 98% (so với năm 1993 là 94%), rừng nguyên sinh hoặc rừng bị tác động không đáng kể chiếm 76% diện tích tự nhiên. Vườn quốc gia Pù Mát có một số kiểu thảm thực vật rừng sau: rừng kín thường xanh hỗn giao lá rộng, lá kim ẩm á nhiệt đới; kiểu phụ rừng lùn đỉnh núi; rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới; kiểu phụ thứ sinh nhân tác rừng kín thường xanh nhiệt đới sau khai thác và phục hồi sau nương rẫy; trảng cỏ, cây bụi, cây gỗ rải rác thứ sinh nhân tác; đất canh tác nông nghiệp và nương rẫy; Thành phần loài: Tổng hợp kết quả các đợt điều tra khảo sát nghiên cứu ghi nhận VQG Pù Mát có 2494 loài thuộc 931 chi và 202 họ của 6 ngành thực vật bậc cao; phần lớn trong đó thuộc ngành Ngọc Lan với 2309 loài (gần 93%), 845 chi (91%) và 167 họ (83%). Các loài thực vật quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng. Trong số 2494 loài đã được ghi nhận thì có 68 loài nằm trong Sách Đỏ Việt Nam, chiếm 2.73% số loài của khu hệ và 20.17% tổng số loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam. Hệ động vật Qua nghiên cứu thành phần loài động vật ở VQG Pù Mát (vào các năm 1993, 1994 và 1998), các nhà khoa học trong và ngoài nước đã thống kê được 939 loài động vật thuộc các nhóm. Sự phong phú và đa dạng của hệ động vật VQG Pù Mát còn thể hiện rõ hơn khi so sánh số loài của nó với một số VQG khác. Điều đặc biệt quan trọng đối với khu hệ động vật Vườn quốc gia Pù Mát là tính đa dạng các yếu tố đặc hữu cao. Trong số đó có những loài đặc trưng như Chào Vao, Sao la, Mang lớn, Mang Trường Sơn, Chà vá chân nâu, Vượn má vàng, Voọc xám, Thỏ vằn, Cầy vằn, Trĩ sao, Khướu mỏ dài). Như vậy về lĩnh vực bảo tồn loài, Pù Mát chẳng những là một khu tầm cỡ quốc gia mà còn có giá trị cho cả Lào và Đông Dương. Theo thống kê hiện có 77 loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam và 60 loài ghi trong danh mục đỏ của IUCN (2004).
- Đây cũng là một nhân tố đầy tiềm năng để thu hút khách du lịch đến tìm hiểu thiên nhiên, tham gia các hoạt động du lịch sinh thái cộng đồng tại địa phương. 3.2.2 Tài nguyên du lịch nhân văn 3.2.2.1 Dân cư, dân tộc Tổng số dân 16 xã trong khu vực VQG Pù Mát là 93,335 người thuộc 16,954 hộ gia đình. Trong đó phần lớn dân cư tập trung tại 7 xã của huyện Cong Cuông (39,491 người, 7,167 hộ) và 5 xã của huyện Anh Sơn (38,163 người, 6,938 hộ). Một loạt các vấn đề về dân cư như: số hộ có nhiều con , dân số tăng nhanh, phân bố dân cư không đều, lao động trẻ lớn. Điều này dẫn đến một thực tế là nơi đông dân thì tài nguyên bị khai thác quá mức, nơi thưa dân thì tài nguyên bị sử dụng lãng phí. Dư thừa lao động, thiếu việc làm, đời sống khó khăn nên người dân kéo nhau vào rừng khai thác lâm sản. Do vậy, giải quyết công ăn việc làm cho người dân đang là một vấn đề cấp thiết cần được sự quan tâm của các ban ngành và chính quyền địa phương. Dân tộc Trong khu vực VQG Pù Mát có ba dân tộc chính sinh sống là Thái, Khơ Mú và Kinh. Ngoài ra còn có một số dân tộc ít người hơn như H’mông, Đan Lai, Poọng, Ơ đu và một số dân tộc khác; trong đó dân tộc Thái chiếm tỉ lệ lớn nhất (66,89%), người Kinh chỉ chiếm một tỉ lệ khiêm tốn (11,25%). Đối với hoạt động du lịch, sự đa dạng của các dân tộc tạo ra nhiều nét văn hoá đặc sắc có giá trị, song tỉ lệ người dân tộc nhiều cũng là một trở ngại do trình độ dân trí thấp. 3.2.2.2 Các di tích lịch sử, văn hoá Di tích lịch sử thành Trà Lân: Di tích khảo cổ Hang Ốc (Thẩm Hoi): Di tích lịch sử cách mạng nhà cụ Vi Văn Kháng (xóm Đồng Chùa, bản Thái Hoà, xã Môn Sơn, huyện Con Cuông). Ngoài 3 di tích trên tại VQG Pù Mát còn có một số di tích độc đáo có giá trị du lịch khác như: hang Ông Trạng; cây đa Cồn Chùa; bia Mã Nhai, một số đền thờ, miếu như: đền thờ Lý Nhật Quang ở Bồng Khê, đền Cửa Luỹ thờ Bạch Y công chúa ở Yên Khê, đền thờ các tù trưởng người Thái. 3.2.2.3 Nét văn hoá đặc trưng và một số sản phẩm truyền thống a. Văn hoá tộc người tiêu biểu
- Văn hoá dân gian của các dân tộc ở VQG Pù Mát là những di sản quý giá được kết tinh qua bao đời. Đó là những sản phẩm du lịch đặc sắc, hấp dẫn cần được quan tâm khai thác. Tuy vậy trong quá trình khai thác cần chú ý bảo tồn và phát triển văn hoá riêng của các dân tộc bản địa. - Văn hoá dân tộc Thái: + Về kiến trúc nhà và nếp ở. + Về ẩm thực: Mâm cơm hàng ngày của người Thái thường không thiếu món Chéo, món nước chấm Nậm pịa, rượu cần + Về trang phục, trang sức: trang phục thể hiện nhiều nét tài hoa của người Thái, nhất là trang phục của người phụ nữ. Trang phục nữ thường gồm váy, áo, thắt lưng, khăn piêu và trang sức. + Về phong tục và lễ hội: Người Thái có một số phong tục đặc sắc như tục “chọc sàn”, lễ hội như Xăng Khàn, Xên Bản – Xên Mường được tổ chức vào đầu xuân cùng nhiều phong tục cưới hỏi, tang ma đặc sắc khác - Văn hoá tộc người Khơ – mú: Khơ – mú là dân tộc có số dân đông thứ hai trong khu vực VQG Pù Mát. Dân tộc này cũng có nhiều nét văn hoá, phong tục đặc sắc: + Nhà ở: Loại nhà chính của người Khơ – mú là nhà nửa sàn, nửa đất. Ngôi nhà thường gồm 1 gian – 2 chái, 2 gian – 2 chái hoặc 3 gian – 2 chái. Vách nhà thường làm bằng nứa đan, mặt sàn thường làm bằng luồng, vầu bổ nguyên cây đập dập. Rất ít nhà có cửa sổ. + Về ẩm thực: Một số món ăn đặc trưng của tộc người này là thịt lam nhoọc, thịt chua có mùi, cá chua, cá khô gác bếp, ruột cá vùi tro. Một số loại rau thường dùng là măng luộc, măng nướng, nộm măng, nộm đu đủ. Đặc biệt trước mỗi bữa ăn, người Khơ – mú thường khấn mời tổ tiên. + Về trang phục: Trang phục phụ nữ Khơ – mú khá giống với trang phục phụ nữ Thái. Điểm khác nhau rõ nhất là ở tấm áo, áo phụ nữ Khơ mú có cánh ngắn, cổ hình trái tim, xẻ ngực có hàng khuya bạc hoặc nhôm hình chữ nhật; hai bên vạt áo được nẹp thêm dải vải khác màu trên đó đính thêm các cúc bạc hoặc nhôm hình tròn chạy từ trên xuống dưới. + Lễ hội: Người Khơ – mú cũng có một số nghi lễ và lễ hội đặc sắc như: lễ ra hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ cầu mưa, lễ mừng cơm mới Ngoài ra còn có nhiều nhạc cụ truyền thống đặc trưng như: đàn trống, đàn môi, đàn dây, tiêu, sáo
- - Văn hoá Đan Lai: tộc người này có tập quán làm ăn sinh sống chủ yếu dựa vào làm nương rẫy, săn bắn. Họ cũng sống trong các ngôi nhà sàn nhưng hết sức tạm bợ. Nét đặc sắc nhất trong lối sống của người Đan Lai là tục ngủ ngồi. Đó là thói quen được hình thành trong quá trình thường xuyên phải chạy trốn thú dữ và kẻ thù. Khi ngủ họ thường đốt lửa, để không bị ngả vào bếp lửa họ lấy gậy chống vào cằm và từ đó hình thành thói quen ngủ ngồi. b. Một số sản phẩm truyền thống nổi bật - Nhạc cụ dân tộc: Bộ dây có đàn tập tinh, đàn xì xò; bộ gõ có cồng, chiêng, trống, mõ khắc luống; bộ hơi có các loại sáo, kèn lá, kèn bè . - Vải thổ cẩm hoặc các sản phẩm từ thổ cẩm. - Văn hoá ẩm thực: Đồng bào địa phương biết chế biến nhiều món ăn đậm đà hương vị của tự nhiên, nổi bật như: cơm lam Kẻ Quạ, cá mát sông Giăng, Lạp Pa, thịt chua, canh măng đắng, canh bon, rượu trấu 3.2.3 Cơ sở hạ tầng, vật chất – kĩ thuật phục vụ du lịch 3.2.3.1 Cơ sở hạ tầng - Giao thông vận tải: Giao thông vận tải VQG Pù Mát khá thuận lợi, bao gồm cả giao thông đường bộ và giao thông đường thuỷ: + Đường bộ: Trong vùng đệm VQG Pù Mát có quốc lộ 7 là tuyến huyết mạch và một hệ thống đường liên thôn, liên xã. + Đường thuỷ: Hai con sông lớn trong khu vực đó là sông Cả và sông Giăng đã tạo nên mạng lưới giao thông đường thuỷ quan trọng. - Hệ thống cung cấp điện, nước và thông tin liên lạc: + Hệ thống cung cấp điện: Hiện nay VQG Pù Mát đã có một trạm biến áp riêng để phân phối điện cho các khu vực trong vườn. Hệ thống đường dây tải điện và các trạm biến thế đã được kéo đến hầu hết các xã trong khu vực vườn. + Hệ thống nước sạch: Trong khu vực hành chính của VQG Pù Mát đã xây dựng được một nhà máy nước cung cấp cho nhu cầu nước sinh hoạt của cán bộ nhân viên của Vườn. Tuy nhiên, các khu vực xa của vùng đệm người dân vẫn chủ yếu sử dụng nước giếng đất, nước mưa. + Hệ thống thông tin liên lạc: Tại trung tâm hành chính VQG Pù Mát, mạng điện thoại, internet đã có. Tuy nhiên, các khu vực xa vườn thì mạng điện thoại còn chưa phủ kín, còn mạng Internet thì chưa được lắp đặt.
- 3.2.3.2 Cơ sở vật chất – kĩ thuật - Cơ sở lưu trú, ăn uống: + Cơ sở lưu trú: Nhìn chung cơ sở lưu trú tại VQG Pù Mát tương đối thuận lợi. Tại khu hành chính của Vườn 32 phòng nghỉ khép kín với sức chứa tối đa 81 khách. Về cơ bản tất cả các phòng đều đạt yêu cầu chất lượng: vệ sinh khép kín, có bình tắm nóng lạnh, chăn ga gối đệm, sàn nhà được vệ sinh sạch sẽ và có quạt điện hoặc điều hoà Hiện tại, số lượng nhà dân có thể đưa vào làm dịch vụ homestay khá nhiều. Đây là một tiềm năng tạo sự thuận lợi cho việc triển khai các mô hình du lịch sinh thái cộng đồng. Tuy vậy, cơ sở vật chất như chăn, màn, quạt điện còn thiếu, vệ sinh không đảm bảo và các dịch vụ phục vụ kèm theo còn nhiều hạn chế, đơn điệu. + Cơ sở ăn uống: Tại trung tâm của vườn có một nhà ăn tập thể có thể phục vụ từ 100 đến 120 người. Vì vậy nó rất thuận lợi khi phục vụ ăn uống cho các buổi hội nghị, tập huấn, hội họp và các đoàn khách du lịch đông người. Ngoài ra còn các trung tâm phục vụ hội họp, khu thể thao, sấn khấu biểu diễn Trong khi đó ở cộng đồng dịch vụ homestay còn rất sơ sài, thiếu cả về cách tổ chức lưu trú cho khách, vật chất phục vụ cho khách lưu trú qua đêm (chăn, màn, chiếu, quạt ) cũng như thức ăn không hợp lắm với khách du lịch. 3.2.4 Chủ trương, chính sách cho việc phát triển loại hình du lịch sinh thái cộng đồng - Các luật như (luật Bảo vệ và Phát triển Rừng 2004, luật du lịch 2006). - Các nghị định của chính phủ, các quyết định của chính phủ; - Về phía UBND tỉnh Nghệ An cũng có các quyết định, đề án phát triển trong lĩnh vực bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá bản địa, du lịch và phát triển cộng đồng. 3.2.5 Đánh giá chung Theo tiêu chuẩn đánh giá tiềm năng du lịch của VQG thì VQG Pù Mát có tiềm năng lớn cho phát triển du lịch nói chung và du lịch sinh thái cộng đồng nói riêng: - Mức độ hấp dẫn du lịch của VQG Pù Mát được đánh giá là khá hấp dẫn. - Về sức chứa khách du lịch của VQG Pù Mát nói chung ở mức trung bình. - Thời gian hoạt động du lịch được đánh giá là khá dài. - Về vị trí của điểm du lịch: Vị trí, khả năng tiếp cận và liên kết giữa các địa điểm du lịch trong khu vực VQG Pù Mát đạt bậc 4 (rất thích hợp) trong thang đánh giá tiềm năng du lịch của VQG.
- 3.3 Hiện trạng phát triển du lịch sinh thái cộng đồng ở vườn quốc gia Pù Mát 3.3.1 Khách du lịch Pù Mát là một vườn quốc gia mới được thành lập nên chưa có nhiều người biết đến. Vì vậy lượng khách du lịch đến đây vẫn còn hạn chế so với tiềm năng của nó. Năm 2008 so với năm 2005 tăng tương ứng là 9.445 lượt người và 1.791 lượt người lưu trú. Đặc biệt năm 2008, lượng khách quốc tế tăng gấp đôi so với năm 2007 nhờ tăng cường công tác quảng bá và tiếp thị. Tuy nhiên, trong cơ cấu tổng số khách, lượt khách nội địa chiếm tỉ lệ lớn 97,6% (năm 2005) và 96,4% (năm 2008). Trong cơ cấu khách nội địa chủ yếu là học sinh, sinh viên và công nhân viên chức của các thành phố lớn trong vùng và Hà Nội, phần còn lại là khách công vụ và người dân địa phương quanh vùng. Trong khi đó, khách quốc tế đến vùng chủ yếu là các nhà khoa học và số khách lẻ từ các nước phương Tây, Trung Quốc muốn tìm hiểu, thăm thú cảnh quan. 3.3.2 Doanh thu du lịch Dịch vụ du lịch tại VQG Pù Mát có nguồn thu chủ yếu từ dịch vụ lưu trú. Bên cạnh đó là các nguồn thu từ việc cho thuê phòng họp, hội thảo, bán quà lưu niệm Hiện nay việc bán vé và thu lệ phí thăm quan tại VQG Pù Mát chưa thực hiện được nên ảnh hưởng không nhỏ tới doanh thu chung. Tuy vậy sự gia tăng lượng khách tham quan và lưu trú cũng giúp cho doanh thu của vùng tăng lên nhanh chóng. Năm 2008, doanh thu tăng cao hơn so với năm 2005 là 122.467.000 đồng. 3.3.3 Hiện trạng các điểm du lịch Một số các điểm tham quan du lịch nổi bật như sau: - Quần thể khu hành chính: bao gồm trung tâm DLST&GDMT, trung tâm cứu hộ động vật hoang dã, vườn thực vật, vườn ươm, đình Làng Âu, khu hành chính – văn phòng - Quần thể điểm du lịch tại Môn Sơn: bao gồm cây đa Cồn Chùa, đập Phà Lài, sông Giăng, Khe Khặng, thác Làng Yên - Làng nghề dệt thổ cẩm Yên Thành (Lục Dạ); - Thành Trà Lân, bia Mã Nhai, hang Ông Trạng (thị trấn Con Cuông); - Khe Nước Mọc, Thẩm Nàng Màn, Hang Ốc (Yên Khê – Con Cuông); - Quần thể điểm du lịch thác Kèm: bao gồm thác Khe Kèm, đỉnh Khe Kèm, đỉnh Pơ Mu - Rừng săng lẻ, các hang động tại Tam Đình (Tương Dương);
- - Đỉnh Khe Thơi, đỉnh Pù Mát tại Tam Quang (Tương Dương); 3.4 Mối liên hệ giữa phát triển du lịch ở VQG Pù Mát và Du lịch miền Tây Nghệ An Vườn quốc gia Pù Mát có mối quan hệ rất chặt chẽ với các VQG Pù Huống, Pù Hoạt cũng như với toàn bộ khu vực miền núi phía Tây Nghệ An. Mối quan hệ này được thể hiện không chỉ qua điều kiện tự nhiên, văn hoá tương đồng mà còn mối quan hệ khăng khít về giao thông, hạ tầng, thể chế, chính sách. Phát triển du lịch miền Tây Nghệ An là nhiệm vụ quan trọng trong việc thực hiện đề án phát triển kinh tế - xã hội miền Tây Nghệ An đã được Thủ Tướng chính phủ phê duyệt năm 2005. Do vậy, ngày 8/8/2007, UBND tỉnh Nghệ An đã có quyết định số 94/QĐ- UBND phê duyệt đề án phát triển du lịch miền Tây Nghệ An đến năm 2010. Theo đề án được duyệt, đến 2010 sẽ cơ bản hoàn thành công tác quy hoạch các khu, điểm du lịch trong vùng; tập trung chủ yếu ở VQG Pù Mát, các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Pù Hoạt và Quỳ Châu - Quế Phong. Đồng thời hoàn thành quy hoạch các điểm du lịch hình thành trong quá trình phát triển của vùng như các điểm du lịch hồ thuỷ điện Bản Vẽ, Khe Bố, Bản Mồng, Hủa Na, gắn với du lịch sinh thái trong vùng. Thứ hai là đầu tư hạ tầng và dịch vụ du lịch, tạo được sản phẩm du lịch đặc thù. Để có một cái nhìn tổng quát về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của loại hình du lịch sinh thái cộng đồng ở khu vực miền núi phía Tây Nghệ An nói chung và khu vực VQG Pù Mát nói riêng, chúng ta hãy xem thông qua phân tích SWOT sau: Bảng 3.1: Phân tích điểm mạnh - điểm yếu - cơ hội - thách thức Điểm mạnh Điểm yếu - Khu vực VQG Pù Mát có tiềm năng lớn về tài nguyên du lịch nói chung và DLSTCĐ nói riêng; - Người dân nơi đây rất thân thiện, hiếu khách, cần cù; - Nhận thức của người dân, chính quyền địa phương về phát triển bền vững được nâng lên sau các đợt tuyên truyền, tập huấn, thực hiện các dự án liên quan đến bảo tồn, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; - Tỉnh đã có các quyết định, các đề án phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá bản địa; - Có các văn bản pháp quy, nhưng thiếu sự quan tâm đầu tư, xúc tiến đầu tư của tỉnh trong hoạt động du lịch, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá; - Thiếu cơ chế hợp tác, phối kết hợp giữa các bên tham gia trong quá trình xây dựng và phát triển DLSTCĐ;
- - Nhận thức chưa đầy đủ, chưa thống nhất về DLST/DLSTCĐ; - Thiếu các dự án cụ thể trong việc hỗ trợ phát triển loại hình DLSTCĐ; - Thiếu vốn đầu tư, yếu về năng lực quản lý điều hành; - Hoạt động Marketing yếu; Cơ hội Thách thức - Chính phủ, chính quyền địa phương cũng có các chính sách hỗ trợ về kinh tế, về vốn, kỹ thuật có nhiều giải pháp lồng ghép để phát triển kinh tế tại các khu vực có đủ điều kiện phát triển DLST/DLSTCĐ; - Hỗ trợ của các tổ chức quốc tế; - Nhận thức của người dân và du khách về PTBV, bảo vệ môi trường, di sản văn hoá được nâng lên; - Xu hướng chung của du lịch thế giới đang dịch chuyển về các nước châu Á - Thái Bình Dương, Đông Nam Á trong đó có Việt Nam; - Chưa xây dựng được mô hình phát triển du lịch sinh thái cộng đồng rõ ràng ở VQG Pù Mát; - Hoạt động du lịch sinh thái cộng đồng nơi đây còn ở giai đoạn hình thành, chưa được biết đến nhiều. 3.5 Định hướng phát triển du lịch sinh thái cộng đồng ở vườn quốc gia Pù Mát 3.5.1 Định hướng chung Việc phát triển du lịch sinh thái cộng đồng ở VQG Pù Mát cần chú ý đến sự cân bằng giữa ba mục tiêu là: đảm bảo mang lại hiệu quả kinh tế du lịch, mục tiêu bảo tồn tự nhiên và mục tiêu phát triển cộng đồng. - Mục tiêu bảo tồn. - Hiệu quả kinh tế du lịch. - Mục tiêu hỗ trợ phát triển cộng đồng. 3.5.2 Các định hướng cụ thể 3.5.2.1 Định hướng phát triển sản phẩm du lịch sinh thái cộng đồng Với loại hình du lịch sinh thái cộng đồng mà lại tổ chức trong khu vực vườn quốc gia nên, việc đầu tiên là chúng ta phải xác định được những loại hình du lịch nào phù hợp với VQG Pù Mát trước khi định hướng về thị trường. Căn cứ vào đặc điểm tiềm năng tài nguyên du lịch và các điều kiện hiện có liên quan chúng ta có thể xác định được một số loại hình đặc trưng của VQG Pù Mát như sau:
- - Tham quan cảnh đẹp của bản làng, các di tích lịch sử văn hoá; - Tìm hiểu những nét văn hoá đặc sắc của cộng đồng: ẩm thực (các món ăn, cách chế biến, thưởng thức chúng), tìm hiểu, tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ (hát dân ca, nhảy sạp, lễ hội, kiến trúc nhà sàn, lối sống, các công việc của người bản địa ); - Bố trí nhà vườn nghỉ sinh thái, homestay hay khu cắm trại (camping); 3.5.2.2 Định hướng thị trường khách du lịch - Thị trường khách quốc tế là các khách du lịch với những đặc điểm nêu trên đến từ các nước: Úc, Mỹ, Canada, Đức, Ý, Pháp, Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. - Thị trường khách nội địa: chủ yếu đối tượng đã tham gia là các cán bộ viên chức nhà nước công tác trong các ngành có liên quan chặt chẽ đến tài nguyên môi trường. 3.5.2.3 Định hướng phát triển các tuyến, điểm du lịch Việc xây dựng các tuyến phát triển du lịch sinh thái cộng đồng có tầm quan trọng rất lớn đến sự thành công của DLSTCĐ ở VQG Pù Mát. Đây chính là động cơ để thu hút khách tới VQG và giữ chân du khách ở lại vườn. Qua các đợt khảo sát thực tế và sự cung cấp thông tin của các trưởng bản, người dân và sự tư vấn của các cán bộ lâu năm của VQG, tôi xin đề xuất một số tuyến du lịch sinh thái cộng đồng như sau (bản đồ 3.4: Bản đồ tham quan du lịch sinh thái cộng đồng): Tuyến 1: Trung tâm VQG Pù Mát - bản Khe Rạn - thác Khe Kèm Đối với những khách du lịch ít thời gian có thể tham gia vào tuyến du lịch này. Với tuyến du lịch này, quý khách sẽ đi và về trong ngày. Buổi sáng, quý khách có thể xuất phát tại trung tâm VQG Pù Mát để đi đến bản Khe Rạn. Tại đây, quý khách sẽ được dân bản đón tiếp, hướng dẫn tham quan làng bản. Đây là một bản người dân tộc Thái có nhiều nhà sàn, cảnh quan thiên nhiên rất đẹp. Du khách sẽ được khám phá kiến trúc nhà sàn đặc trưng của người Thái, tìm hiểu lối sống, cách sinh hoạt của dân bản. Đặc biệt, quý khách sẽ được người dân dẫn đi thăm cây đa cổ thụ 400 tuổi. Vào buổi trưa: quý khách có thể nghỉ chân và dùng cơm trưa tại bản Khe Rạn với các món ăn đặc trưng của người Thái như: cơm Lam, canh Bon, cá Mát, Khầu Khiều Quý khách có thể dùng thêm một số món yêu cầu, người dân bản ở đây sẽ rất sẵn lòng phục vụ nếu họ có thể. Vào buổi chiều: khách du lịch có thể đi tham quan và tắm suối thư giãn ở Khe Kèm: đây là một thác nước rất đẹp, hấp dẫn, đặc biệt về mùa nóng khách du lịch sẽ được tắm mát.
- Thác Kèm dựa vào vách núi, nước đổ xuống từ độ cao 150m tạo thành một cột nước, trông xa như một dải lụa trắng trên nền xanh thẳm của núi rừng Pù Mát. Đứng trước thác Kèm du khách được chiêm ngưỡng bức tranh thuỷ mạc đẹp tuyệt diệu. Sau khi vui chơi, tắm mát quý khách có thể quay trở về trung tâm VQG Pù Mát. Với tuyến du lịch này quý khách có thể đi xe đạp, xe máy hay ô tô tuỳ thuộc vào sở thích của quý vị. Tuyến 2: Trung tâm VQG Pù Mát - bản Khe Rạn – thác Khe Kèm –bản Yên Thành - du thuyền trên sông Giăng Quý khách khi tham gia vào tuyến du lịch này sẽ phải dành ra hai ngày và một đêm. Đây là một tuyến du lịch thú vị cho du khách. Với tuyến du lịch này quý khách sẽ được khám phá rất nhiều điều mới lạ từ cảnh quan thiên nhiên tới con người nơi đây. Cũng như tuyến du lịch 1, sau khi tắm mát và thưởng thức cảnh đẹp thác Khe Kèm, quý khách sẽ dùng cơm tối ở bản Nưa. Với những món ăn đặc sản của đồng bào Thái và tất nhiên quý khách có thể đặt thêm một số món ăn thông thường. Vào buổi tối quý khách sẽ được phục vụ và giao lưu văn nghệ truyền thống. Tại bản Nưa hiện đã thành lập câu lạc bộ dân ca Thái. Chính câu lạc bộ này sẽ trình diễn cho quý khách những Điệu Khắp, Lăm, Xến rất đặc trưng của dân tộc Thái. Quý khách cũng có thể hoà mình vào các điệu nhảy Sạp rất vui nhộn. Sau đêm thưởng thức, giao lưu văn nghệ, khách du lịch sẽ được bố trí nghỉ tại một số nhà dân ở bản Nưa (homestay). Tại bản Nưa cũng rất nhiều nhà sàn to và sạch sẽ. Hơn nữa người dân có thể phục vụ chăn, màn, gối, quạt và thậm chí cả vệ sinh đảm bảo cho quý khách có một đêm ngon giấc nơi đây. Vào buổi sáng hôm sau, quý khách sẽ được người dân phục vụ việc ăn sáng tại chỗ. Sau khi ăn sáng, khách sẽ được hướng dẫn viên địa phương dẫn sang bản Yên Thành. Với quãng đường này quý khách có thể thong dong tản bộ (trekking) rất thú vị. Trên đường đi khách sẽ được thưởng thức một số cảnh đẹp như: - Suối Tạ Bó: Ngoài giá trị tưới tiêu cho hàng chục hecta đồng ruộng, dòng nước trong xanh, mát lạnh hay ấm áp theo mùa cùng sự điểm xuyết của những bóng cây cổ thụ, bậc đá rêu xanh đã giúp tạ bó trở thành một danh thắng. Nước suối Tạ Bó như từ lòng đất ùn lên nên dù trời
- mưa hay nắng hạn, lưu lượng nước của Tạ Bó không mấy thay đổi, mặt nước luôn trong xanh. Quanh vẻ đẹp và sự huyền bí của Tạ Bó có những câu chuyện tô điểm cho dòng suối này mang thêm sắc màu huyền thoại. Ấy là chuyện thởi xa xưa, khi Ngọc Hoàng thường cho các tiên nữ giáng trần xuống động Đào Nguyên (xã Bồng Khê - Con Cuông) đón những bậc tiền nhân quân tử lên thiên đình thưởng ngoạn cảnh bồng lai. Để các tiên nữ không vương vấn bụi trần gian, Ngọc Hoàng hoá phép tạo ra dòng suối tinh khiết mọc lên từ lòng đất để các nàng tiên tắm gội dung nhan trước lúc gặp các bậc hiền nhân quân tử. Tắm suối Tạ Bó, các tiên nữ vốn đã xinh đẹp lại càng xinh đẹp hơn. Sau khi khách đi trekking thăm suối Tạ Bó và quang cảnh núi rừng, đồng ruộng; quý khách sẽ dừng chân nghỉ và ăn trưa tại bản Yên Thành (xã Lục Dạ). Đây chính là một làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống, lâu đời của người Thái. Tại đây, khách du lịch không chỉ được xem mà còn được học cách dệt vải truyền thống. Hầu hết phụ nữ trong bản đều có tay nghề khá, tính chất nghề nhẹ nhàng nên có thể tranh thủ mọi thời gian, tận dụng được lao động nông nhàn. Hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu là hộ gia đình và tổ hợp tác xã trồng dâu nuôi tằm được phát triển để cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Sản phẩm hiện nay sản xuất ra các loại áo quần, váy, khăn quàng, vải thổ cẩm, ví, túi xách tay, hàng lưu niệm. Vào buổi chiều quý khách có thể đi thuyền trên sông Giăng và ngắm cảnh thiên nhiên hai bên bờ. Vào những ngày nắng đẹp, nước sông Giăng trong xanh và có thể nhìn thấy tận đáy. Du khách có thể đi du thuyền trên sông Giăng để thưởng thức không khí trong lành, ngắm cảnh thiên nhiên hoang dã, quan sát động, thực vật hai bên bờ song như Vượn, Voọc, Khỉ, bò sát Hai bên bờ sông là rừng nguyên sinh, cây cối xanh tươi, ẩn hiện dưới những tán lá xanh là những thảm hoa đủ màu sắc trong như những tấm trang phục nhiều màu sắc của các cô gái Thái trong ngày hội đầu xuân. Trên những triền núi cao xuất hiện nhiều cây cổ thụ, dây leo chằng chịt cùng nhiều loài phong lan rừng. Đâu đó, du khách còn bắt gặp những đàn khỉ đu mình trên các cành cây càng tô điểm thêm cho cuộc sống tươi đẹp, hoang dã nơi đây. Cá Mát sông Giăng và cơm Lam là những món đặc sản được nhiều người ưa chuộng trong mỗi chuyến du ngoạn trên sông. Sau khi vãn cảnh sông Giăng, khách sẽ quay về Trung tâm VQG Pù Mát kết thúc tuyến du lịch này.
- Tuyến 3: Vườn quốc gia Pù Mát - bản Khe Rạn – thác Khe Kèm – sông Giăng - đập Phà Lài - thăm tộc người Đan Lai - bản Nưa - Rừng Săng Lẻ Đây là tuyến du lịch dài, phù hợp với những khách có nhiều thời gian tham quan. Với tuyến du lịch này, gần như quý khách sẽ được thưởng thức hết những cảnh đẹp tiêu biểu, nét văn hoá đặc sắc của người bản địa. Với tuyến du lịch này quý khách phải mất ba ngày hai đêm để hoàn thành. Trong ngày thứ nhất, quý khách sẽ đi qua các địa danh VQG Pù Mát - bản Khe Rạn – thác Khe Kèm và ngủ qua đêm tại bản Nưa. Ngày thứ hai, quý khách sẽ xuất phát từ bản Nưa, đi bằng thuyền dọc sông Giăng đến đập Phà Lài. Đây là con đập nhân tạo ngăn dòng sông Giăng. Theo tiếng Thái, Phà Lài có nghĩa là lèn hoa. Quả đúng như tên gọi, trên những vách núi đ á chênh vênh, lơ lửng vô vàn loài cây, dây leo. Mỗi cây dây leo lại có một màu hoa khách nhau tạo nên một không gian rực rỡ. Đây là một công trình nhân tạo, được khởi công ngày 3/2/2000 và hoàn thành ngày 19/5/2002. Kể từ khi đập Phà Lài được hoàn thành, người dân địa phương đã khai thác được những điều kiện thuận lợi của tự nhiên. Đứng trên kè đá này, buông tầm mắt của mình xuống dòng sông Giăng để thấy được cái đẹp ở nơi đây và càng thơ mộng hơn mỗi khi chiều xuống. Những ánh sáng lấp lánh in xuống dòng sông tạo nên cảm giác huyền ảo, gợi cho ta cảm giác như một bức tranh được phác hoạ dưới bàn tay của người nghệ sỹ tài ba nào đó khiến cho du khách ngắm cảnh mãi mà chẳng muốn về. Từ đập Phà Lài quý khách đi bộ leo núi thăm bản người Đan Lai (xã Môn Sơn): đây là tộc người gồm 884 người chỉ còn sinh sống tại 3 bản Khe Lẻ, Cò Phạt và Cò Nghịu và không tồn tại ở bất cứ nơi nào khác. Từ quan điểm đó “giá trị du lịch” từ họ là đáng kể. Tính tò mò, hiếu kì của du khách sẽ được thoả mãn khi tiếp xúc với tộc người này. Họ sẵn sàng cho du khách nghỉ tại nhà mình, sẵn sàng làm người dẫn đường, chèo bè cho du khách. Nét đặc sắc nhất trong lối sống của người Đan Lai là tục ngủ ngồi. Đó là thói quen được hình thành trong quá trình thường xuyên phải chạy trốn thú dữ và kẻ thù. Khi ngủ họ thường đốt lửa, để không bị ngã vào bếp lửa họ lấy gậy chống vào cằm và từ đó hình thành thói quen ngủ ngồi. Buổi trưa, quý khách sẽ được người Đan Lai tiếp đón hoặc quý khách có thể mang theo những đồ ăn sẵn để dùng vào buổi trưa.
- Buổi chiều quý khách ngược thuyền quay trở lại bản Nưa ăn tối và ngủ qua đêm ở đây. Ngày thứ 3: Quý khách có thể đi tham quan rừng Săng Lẻ bằng ô tô và cắm trại picnic trong rừng. Đây là một địa điểm tham quan được nhiều người biết đến với tên gọi “thung lũng xanh”. Đến đây du khách sẽ thấy một màu xanh bạt ngàn của lá, pha lẫn màu trắng bạc của thân cây. Khu rừng này là một đại gia đình cây Săng Lẻ thuộc họ Bằng Lăng, Tử Vi (tên gọi Săng Lẻ là tên địa phương). Nó có hoa màu tím, thường nở vào mùa hè. Vì vậy nó tạo thêm sức hút đối với khách du lịch tham quan, nghiên cứu khoa học. Khu rừng này được đưa vào diện quản lý từ năm 1964 và hiện nay nó vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên vốn có. Rừng Săng Lẻ là nơi rất lý tưởng cho những du khách muốn khám phá thế giới thiên nhiên. Được đi dạo trong những khu rừng như thế này chắc chắn sẽ tạo cho du khách sự thú vị khi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi rừng. Đặc biệt trong những ngày hè khi du khách được nghỉ ngơi thư giãn trong làn gió mát dịu dàng thì quý khách sẽ cảm nhận được nơi đây như một cỗ máy điều hoà khổng lồ mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho con người. Vào chiều tối, quý khách sẽ lên xe, quay trở về khu trung tâm của vườn quốc gia Pù Mát - kết thúc tuyến du lịch. 3.6 Giải pháp phát triển 3.6.1 Quan điểm thực hiện giải pháp - Tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc để phát triển du lịch sinh thái, du lịch sinh thái cộng đồng. - Mục tiêu hướng đến của phát triển du lịch sinh thái cộng đồng của VQG Pù Mát phải là cộng đồng người dân địa phương. - Hoạt động giáo dục môi trường cho người dân địa phương và khách du lịch phải luôn được đặt lên hàng đầu. - Các hoạt động du lịch sinh thái cộng đồng nhằm quảng bá, phát huy văn hoá cộng đồng bản địa. - Để các giải pháp này có tính khả thi trong quá trình thực hiện cần phải có sự phối hợp, liên kết chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan, tổ chức và cả cộng đồng. 3.6.2 Một số giải pháp cụ thể 3.6.2.1 Giải pháp về cơ chế, chính sách Cần có cơ chế chính sách và sự phân chia trách nhiệm đồng bộ giữa VQG Pù Mát với chính quyền địa phương cùng các đơn vị, tổ chức đoàn thể tại địa phương:
- - Về cơ chế: Cần xây dựng các nội quy, quy định của vườn, làng bản, câu lạc bộ dân ca Thái; Xây dựng quy chế phối kết hợp giữa các bên tham gia phát triển (BQL VQG Pù mát, các công ty lữ hành, chính quyền địa phương, đồn biên phòng ); đồng thời các quy chế phải được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. - Về chính sách: Cần xây dựng, ban hành và thực hiện một số chính sách nhằm phát huy những lợi thế và hạn chế khó khăn để phát triển du lịch sinh thái cộng đồng tại VQG Pù Mát. Cụ thể như: + Chính sách định hướng cho việc giải quyết những mẫu thuẫn giữa các bên tham gia hoạt động du lịch nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế du lịch, bảo tồn và hỗ trợ cộng đồng. + Chính sách cho phép VQG Pù Mát (phòng DLST&GDMT) mở rộng liên kết, hợp tác với các tổ chức cá nhân trong lĩnh vực nghiên cứu, quy hoạch tuyến, quản lý du lịch. Thậm chí, chính sách của tỉnh đã có quan tâm tới vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của đồng bào dân tộc nói chung, văn hóa người Thái nói riêng. Tuy nhiên sự quan tâm này chỉ mới dừng lại ở việc ban hành chính sách nhưng thiếu sự quan tâm và xúc tiến đầu tư. 3.6.2.2 Giải pháp về quy hoạch - Xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật: nhà khách, bãi đậu xe, các biển chỉ dẫn, những trang thiết bị phục vụ cho khách du lịch, những dụng cụ cho các hoạt động cộng đồng, ca múa, - Quy hoạch tuyến, điểm du lịch sinh thái cộng đồng cụ thể: các vấn đề cần lưu ý trong quá trình khảo sát là: giao thông đi lại, cơ sở hạ tầng, điều kiện vệ sinh môi trường cộng đồng, các ngành nghề truyền thống, các sản phẩm địa phương, các điểm nhấn về cảnh quan thiên nhiên. - Sau khi có tuyến, điểm du lịch cộng đồng thì cần hỗ trợ cộng đồng trong việc điều phối khách, phân khu lưu trú, ăn uống, bán hàng, 3.6.2.3 Giải pháp về vốn đầu tư, hỗ trợ - Tranh thủ các nguồn vốn từ các chương trình phát triển của nhà nước cho nông thôn, miền núi - Phòng DLST&GDMT của VQG Pù Mát là đầu mối để vận động, xin tài trợ, tranh thủ các nguồn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ trong việc hỗ trợ cộng đồng ban đầu.
- - Huy động nguồn lực từ dân: Bản chất của du lịch sinh thái cộng đồng là do cộng đồng sở hữu và quản lý. 3.6.2.4 Giải pháp về nhân sự và phát huy nguồn nhân lực địa phương + Nâng cao ý thức người dân trong việc phát huy lợi thế văn hoá, cảnh quan tự nhiên để phát triển du lịch. + Hình thành nên các nhóm nòng cốt trong phát triển du lịch sinh thái cộng đồng. Các nhóm này nên được đưa đi tham quan, học hỏi các mô hình thực tế thực tế, tham gia các khoá huấn luyện về việc đón tiếp, dịch vụ ăn uống, nghỉ dưỡng. + Tạo mọi điều kiện thuận lợi và động viên các gia đình người dân địa phương cho con em đến trường nhằm từng bước xoá bỏ nạn mù chữ cho đồng bào dân tộc. Đồng thời ưu tiên đào tạo và tuyển dụng con em địa phương vào làm việc tại vườn quốc gia Pù Mát sau khi được đào tạo. 3.6.2.5 Giải pháp về tuyên truyền, quảng bá - Thiết kế nội dung tuyên truyền bằng tờ rơi, cẩm nang và thông tin điểm du lịch và sau này là tuyến du lịch trên website của VQG, hay Website xúc tiến thương mại Nghệ An. - Trong thời gian tới thành lập các CLB dân ca Thái, thâu một số làn điệu dân ca, thực hiện các Video và ghi vào đĩa VCD, DVD để giới thiệu, tặng hoặc bán theo hàng lưu niệm. - Phối hợp với đài truyền hình địa phương để tuyên truyền, quảng bá. - Tăng cường tham gia các hội thảo trong nước và quốc tế kể cả về khoa học và du lịch để tăng cường sự tiếp xúc, tiếp thị cho du lịch VQG Pù Mát. 3.6.2.6 Giải pháp về an ninh, an toàn - Triển khai thực hiện sớm chương trình bảo vệ trong dự án khả thi xây dựng VQG Pù Mát đã được chính phủ phê duyệt, nhằm tạo nên các hoạt động bảo vệ rừng, bảo vệ tài nguyên môi trường, tăng mức an toàn cho hoạt động khai thác du lịch. - Phối hợp với các lực lượng công an tỉnh nắm chắc tình hình đối tượng, mục đích hoạt động của các đối tượng du lịch trong nước, quốc tế để có phương án bảo vệ an toàn, an ninh quốc gia cũng như ngăn chặn các hành động lợi dụng hoạt động du lịch để phá hoại môi trường sinh thái VQG. - Thực hiện đủ, đúng các nguyên tắc của du lịch vùng biên.
- KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Trong khuôn khổ luận văn này tác giả đã nghiên cứu phát triển du lịch bền vững theo hướng phát triển du lịch gắn liền với bảo tồn tự nhiên, văn hoá và phát triển cộng đồng tại VQG Pù Mát, Nghệ An. Những kết quả đạt được trong giới hạn nội dung và địa điểm nghiên cứu của luận văn như sau: - Đây là một khu vực giàu tiềm năng cho phát triển loại hình du lịch sinh thái cộng đồng thể hiện trên các mặt như sinh thái tự nhiên đa dạng, phong cảnh đẹp, văn hoá độc đáo, giàu bản sắc, thời gian hoạt động du lịch trong năm khá dài, vị trí thuận tiện trong việc đi lại của du khách cũng như kết nối với các điểm du lịch khác của vùng miền núi phía Tây Nghệ An hay khu vực Bắc Trung Bộ. - Tại khu vực vườn quốc gia Pù Mát có thể tổ chức rất nhiều hoạt động của DLSTCĐ, lồng ghép vào các tuyến du lịch sinh thái cộng đồng như: tham quan rừng nguyên sinh, tắm nước suối trong xanh; du thuyền trên sông ngắm cảnh; đi bộ tham quan rừng với sự hướng dẫn của người dân địa phương; ngủ qua đêm tại một số bản người Thái; thưởng thức các món ăn địa phương; tìm hiểu các hoạt động văn hoá, kiến trúc, đời sống người bản địa; đi bộ hoặc đạp xe đạp qua các bản làng; thăm và khám phá những nét có một không hai trong văn hoá của người Đan Lai - Trong những năm gần đây, lượng du khách đến với VQG Pù Mát đã tăng nhiều so với các năm trước. Tuy nhiên, những hoạt động kinh tế du lịch ở đây còn chưa thể hiện rõ nét, hoạt động tham quan chỉ mang tính chất tự phát. VQG Pù Mát còn chưa chủ động tổ chức dịch vụ đón khách du lịch. Do đó, việc định hướng phát triển du lịch nói chung và du lịch sinh thái cộng đồng nói riêng là cần thiết cho VQG Pù Mát. - Trên các cơ sở các điều kiện tiềm năng vốn có và việc khảo sát thực tế, lắng nghe ý kiến góp ý của cán bộ BQL VQG, BQL thôn bản, tác giả mạnh dạn đề xuất ba tuyến du lịch sinh thái cộng đồng như đã đưa ra: + Tuyến 1: Trung tâm VQG Pù Mát - bản Khe Rạn - thác Khe Kèm; + Tuyến 2: Trung tâm VQG Pù Mát - bản Khe Rạn - thác Khe Kèm - bản Yên Thành - du thuyền trên sông Giăng; + Tuyến 3: Trung tâm VQG Pù Mát - bản Khe Rạn - thác Khe Kèm - sông Giăng - đập Phà Lài - thăm tộc người Đan Lai - bản Nưa và rừng Săng Lẻ.
- Để góp phần định hướng cho quy hoạch phát triển du lịch sinh thái cộng đồng VQG Pù Mát, trong khuôn khổ của luận văn, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất một số giải pháp giúp cho việc hình thành một mô hình phát triển du lịch sinh thái cộng đồng, cũng như quy hoạch tuyến chi tiết hơn và đưa du lịch sinh thái cộng đồng đi vào hoạt động một cách bền vững. 2. Khuyến nghị Dựa trên tất cả những yếu tố trên, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất một số khuyến nghị góp phần xây dựng hoạt động du lịch sinh thái cộng đồng ở VQG Pù Mát như sau: - Chính sách của tỉnh đã có quan tâm nhiều tới vấn đề du lịch, bảo tồn và phát huy văn hoá của đồng bào dân tộc thông qua các quyết định, văn bản, đề án phát triển nhưng thiếu sự quan tâm đầu tư và xúc tiến đầu tư. Đây là lúc thể hiện sự quan tâm hơn nữa của UBND tỉnh, UBND huyện trong vấn đề xúc tiến đầu tư và các hoạt động đầu tư cho phát triển cơ sở kỹ thuật, tu tạo một số di tích lịch sử, lập tuyến du lịch, đẩy mạnh hoạt động quảng bá. - Phải xây dựng được mô hình du lịch sinh thái cộng đồng, xây dựng được tuyến, điểm du lịch hoàn chỉnh. Đây là bước đầu trong việc đưa du lịch sinh thái cộng đồng đi vào hoạt động. - Xây dựng quy chế phối kết hợp của các bên tham gia. Trong quy chế cần nêu rõ vai trò, trách nhiệm và lợi ích của mỗi bên khi tham gia vào hoạt động du lịch tại địa phương. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền thông tin nâng cao nhận thức về du lịch cho người dân trên địa bàn huyện, có các văn bản chỉ đạo các cấp, các ngành, chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi trong khuôn khổ pháp luật cho việc thực hiện phát triển du lịch. - Trong phạm vi nguồn vốn đầu tư của ngân sách thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền Tây theo quyết định số 147/QĐ-Ttg, các nguồn vốn khác để đầu tư tôn tạo sữa chữa, nâng cao sự thu hút của một số điểm du lịch, tham quan tìm hiểu văn hoá - lịch sử như: thành Trà Lân, suối nước Mọc, làng nghề thổ cẩm In ấn các tài liệu, tờ rơi, mua sắm các dụng cụ thiết bị phục vụ cho công tác quảng bá, tuyên truyền; tồn tạo, khôi phục các hiện vật trưng bày, kho tàng văn hoá, dụng cụ âm nhạc, các tài liệu lưu giữ về sự hình thành và phát triển của đất nước, con người tại địa phương.
- References Tiếng Việt 1. Cục kiểm lâm, 2004. Cẩm nang quản lý và phát triển du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn thiên nhiên phía Bắc Việt Nam. 2. Dự án lâm nghiệp xã hội và bảo tồn thiên nhiên tỉnh Nghệ An. Đa dạng thực vật vườn quốc gia Pù Mát. NXB Nông nghiệp 2004. 3. Dự án lâm nghiệp xã hội và bảo tồn thiên nhiên tỉnh Nghệ An. Pù Mát - Điều tra đa dạng sinh học của một khu bảo vệ của Việt Nam. NXB Lao động, 2000. 4. Đặng Duy Lợi, 1992. Đánh giá và khai thác các điều kiện tự nhiên huyện Ba Vì (Hà Tây) phục vụ mục đích du lịch. Luận án Phó tiến sỹ khoa học địa lý - địa chất, Trường đại học sư phạm Hà Nội. 5. Hoàng Phương Thảo, 1999. Du lịch sin thái trong mối liên hệ với bảo vệ đa dạng sinh học và bảo tồn. Tuyển tập báo cáo hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam. Tổng cục du lịch Việt Nam (VNAT), tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN), Ủy ban kinh tế - xã hội Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP), với sự tài trợ của tổ chức phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA), Hà Nội, 9/1999. 6. Lê Huy Bá, Du lịch sinh thái. NXB Đại học quốc gia T.p Hồ Chí Minh; 7. Lê Huy Bá, 2006, NXB Hà Nội. Du lịch sinh thái. 8. Lê Thông, Nguyễn Thị Sơn, T4/1999. Sự cần thiết của giáo dục cộng đồng với du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn tự nhiên. Tuyển tập báo cáo hội thảo về du lịch sinh thái và phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam. 9. Luật du lịch, 2006. Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội. 10. Mai Hồ Minh, Phát triển du lịch miền Tây Nghệ An - Định hướng và giải pháp; 11. Nguyễn Minh Tuệ, Lê Thông, 2002. Quy hoạch du lịch quốc gia và vùng. Khoa du lịch - Viện Đại học Mở Hà Nội. 12. Nguyễn Minh Tuệ và nnk: Địa lý du lịch, NXB T.p Hồ Chí Minh, 1999. 13. Nguyễn Nghĩa Thìn, Lê Vũ Khôi, Trần Thế Liên, Vũ Anh Tài, (2004) Báo cáo đánh giá sự thành công của chương trình bảo tồn đa dạng sinh học ở vườn quốc gia Pù Mát làm thí điểm cho việc áp dụng rộng rãi trong hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam;
- 14. Nguyễn Phương Nga, 2009, KLTN, Đẩy mạnh hoạt động khai thác thị trường khách du lịch Mỹ tại công ty lữ hành Hanoitourist. 15. Nguyễn Thị Sơn, 2007. Bài giảng du lịch sinh thái (tài liệu giảng dạy khóa tập huấn về du lịch sinh thái cho các VQG và KBT năm 2007). 16. Nguyễn Thị Sơn, 2004. Cơ sở khoa học cho sự phát triển du lịch sinh thái ở VQG Cúc Phương. Luận án tiến sỹ Địa lý, Hà Nội 17. Nguyễn Thị Sơn, 2004. Môi trường và phát triển du lịch bền vững. Hà Nội 2004. 18. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa, Trương Tử Nhân, 2006. Giáo trình kinh tế du lịch.NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội. 19. Phạm Trung Lương và nnk, 2002. Du lịch sinh thái - Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam. NXB Giáo dục. 20. Pháp lệnh du lịch Việt Nam, 1999. 21. Quyết định số 197/2007/QĐ-TTg ngày 28/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020; 22. Quyết định số 84/2006/QĐ.UBND ngày 24/8/2006 của UBND tỉnh Nghệ An về việc ban hành một số nội dung chính sách hỗ trợ bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở tỉnh Nghệ An; 23. Tài liệu của phòng Khoa học, cứu hộ động vật và quan hệ quốc tế, phòng DLST&GDMT của VQG Pù Mát: - Thống kê dân cư, dân tộc các huyện Con Cuông, Anh Sơn, Tương Dương; - Kế hoạch hoạt động VQG Pù Mát giai đoạn 2002 – 2011; - Tài liệu tập huấn đào tạo nghiệp vụ hướng dẫn và phục vụ khách du lịch; 24. UBND tỉnh Nghệ An, 2007, quyết định về việc phê duyệt đề án phát triển du lịch miền tây Nghệ An thời k ỳ 2007 – 2011; 25. Võ Quế. 2008. Nghiên cứu xây dựng phát triển mô hình du lịch dựa vào cộng đồng tại chùa Hương. Tiếng Anh 26. Belsky, Jill M., Misrepresenting Communities: The politics of community-based rural ecotourism in Gales Pont Manatee, Belize; Rural Sociology; Dec 1999; 64, 4; PA Research II Periodicals pp.641.
- 27. Nicole Hausle và Wollfgang Strasdas, Community based Sustainable Tourism A Reader, 2000. 28. Rest: Respondsible Ecological Social Tours, Thailand, 1997. 29. Stronza Amanda Lee, “Because it is ours”: Community-based ecotourism in the Peruvian Amazon, VOLUME 61-08A OF DISSERTATION ABSTRUCTS INTERNATIONAL. PAGE 3235. 30. Steven Wolf, Avery Denise Armstrong, Janet Jing Hou, Alicia S Malvar, Taylor Marie Mclean, Julien Pestiaux. Research brief 1: Community-based Ecotourism. Internet 31. 32. trin-du-lch-min-tay-ngh-an-nh-hng-va-gii-phap.html